Monday, July 14, 2008

Nhạc Sĩ Anh Bằng Sau 50 Năm Sáng Tác

Phạm Kim

Khi nghe CD “Anh Còn Yêu Em” trình làng trong năm 2008 của Anh Bằng (phổ thơ Phạm Thành Tài) cùng với Khúc Thụy Du (phổ thơ Du Tử Lê), chúng ta thấy mélody qua dòng nhạc của người nhạc sĩ từng trải mênh mang như sóng nhưng cũng trỗi dậy căng tràn nhựa mới.

Người phụ trách nhạc yêu cầu Orchid Lâm Quỳnh cho biết “Anh Còn Yêu Em” là ca khúc top hit được yêu cầu liên miên trên truyền hình. Với lời thơ: “Anh còn yêu em, Nụ hôn sim tím, áo nhàu qua đêm” “Anh còn yêu em, như rừng lửa cháy, anh còn yêu em, như ngày xưa ấy, Anh còn yêu em, Lồng tim rạn vỡ, anh còn yêu em, bờ vai mười sáu”, và “Bạch đàn thâu đêm, Thầm thì tóc rủ, Chiều xuống mờ sương, cửa đóng rèm buông”... “Buồm trăng giương cánh, khi thủy triều lên, sóng xa êm đềm” “Anh còn yêu em - Chênh vênh mi buồn”, mélody của ca khúc này bắt được bằng những rung động của lời thơ, như chính Anh Bằng là người làm thơ, sống động như đó là nội dung cuộc sống của ông.

Ðồng thời còn có những bài hát khác cũng phổ từ những lời thơ như “Anh còn yêu em, bờ vai 16” hay “Anh biết em đi chẳng trở về”, nghe âm điệu cứ như là những ca khúc trẻ nào như của lứa tuổi mới lớn, 18 đôi mươi của ông từ trên nửa thế kỷ trước “Nỗi Lòng Người Ði”: “Tôi Xa Hà Nội năm lên 18, khi vừa biết yêu...”. Nên CD “Anh Còn Yêu Em” xuất hiện năm 2008, Anh Bằng như trở lại thời mới lớn khi vừa mới biết yêu? Từ đấy, người thưởng ngoạn tưởng như Anh Bằng sáng tác bởi chính cuộc sống lãng mạn rung cảm đắm say của ông.

Tại sao?

Cuộc đời của Anh Bằng đã trải dài ra, từ “những đồi sim” của thời làm bạn cùng xóm làng với Hữu Loan (thập niên 1940), ở vùng cửa Thần Phù Thanh Hóa, tới những đêm lắng nghe tiếng hàng bạch đàn gió lay, như tóc xõa ở Quy Nhơn (1957 và thập niên 1960), qua những ca khúc sáng tác từ cảm nhận khi sống bỡ ngỡ những năm đầu tỵ nạn, bát ngát đồi hoa tím ở thành phố nhỏ dưới 5,000 dân ở Washington tới Quận Cam: Rung cảm khi nhớ lại đồi ấu thơ, cánh buồm căng tuổi trẻ và chênh vênh ở tuổi bất cứ nào khi nhìn nhau qua hàng mi buồn nuối tiếc - Chênh vênh như gần như xa, lảo đảo vì mất mát.

Theo nhà văn Trần Khánh Liễm: “Ba Làng có hai vườn thông thật đẹp và đầy mơ mộng, mà những ai thích nhạc đều ra đó để lấy cảm hứng. Những buổi chiều Chúa Nhật các tu sĩ của Tiểu Chủng Viện thường lên núi Thủi chơi, nơi này có những đồi hoa sim trải dài cho tới sườn núi và tận cùng ra tới biển với những tảng đá to lớn phía cạnh bãi. Những đêm khuya khi trời đẹp chỉ nghe tiếng sóng êm từ từ đổ, để ru hồn người vào giấc đông miên... Còn khi biển động thì... ôi thôi, sóng lớn như vỡ bờ!”.

Trong đời sống thực, Anh Bằng đã rời Sài Gòn trong chuyến bay từ Tân Sơn Nhất vào ngày 29 Tháng Tư, cùng với vài người con, trong số đó có Thy Vân vừa tuổi trăng tròn, nhưng vợ ông và vài người con khác còn kẹt lại. Ông đến trại tị nạn, được một phi công của hãng hàng không Alaska bảo trợ đến Connecticut, rồi sau đó về Enumclaw, ngoại ô Seattle, tiểu bang Washington. Tại đây, Thy Vân đã tốt nghiệp trung học, trước khi cả gia đình (thêm Trần Ngọc Sơn, Trần An Thanh) di chuyển về ở Quận Cam và chủ trương Trung Tâm Asia.

Và phải chăng như nhà thơ Du Tử Lê thổ lộ trong đoạn “Hãy nói về cuộc đời khi tôi không còn nữa!”.

“Hãy nói về cuộc đời”: Ngay khi tác giả nay còn sống nay, thì đáng quí hơn là khi tác giả đã ra đi mất rồi, mới ca tụng chiêu hồn sao?

“Tôi Xa Hà Nội, khi lên 18 khi vừa biết yêu”...

Anh Bằng sinh ra và lớn lên tại vùng đất phù sa Tân Bồi, Thần Phù, làng Ðiền Hộ-Thanh Hóa. Năm 1953, người anh của ông là Ðại Úy Trần An Lạc, chỉ huy trưởng Lực Lượng Tự Vệ của Ðức Cha Lê Hữu Từ, bị Việt Minh lùng bắt gắt gao. Cùng lúc Việt Minh muốn đe dọa Ðại Úy Trần An Lạc, đã ra thêm bản án tử hình cho người anh là nhạc sĩ Trần Văn Mão và hai người em, là ông Trần Tấn Mùi (trước 1975 là dân cử của tỉnh Lâm Ðồng-VN) với cậu em út Anh Bằng để tiêu diệt lòng cương quyết bảo vệ khu tự trị, nếu ông Trần An Lạc không chịu ra hàng.

Vì Anh Bằng không ra khỏi “vùng Tề” và khu Tư (từ Thanh Hóa tới Nghệ An) để trốn tránh như các người anh khác, nên đã bị bắt, bị kết án và đi tù Lý Bá Sơ. Mãi đến khi Việt Minh ám sát được Ðại Úy Trần An Lạc (trong lúc ông này ngồi trên xe jeep chỉ huy từ tòa Ðức Giám Mục Lê Hữu Từ đi ra, bị mai phục bắn hạ), thì án tử hình cho Anh Bằng mới được giảm. Theo lời ông Thơ Ðường-Phạm Ngọc Pháp, phụ tá LM Nhạc (Ấp Hàng Dầu, sau được đổi tên là An Lạc) kể rằng tên giáo xứ An Lạc đã được đặt cho một xóm họ đạo di cư tân lập sau 1957 ở ngoại ô Sài Gòn, vùng Ông Tạ). Nhưng ông vẫn còn bị giam tù với những cực hình khắt khe, cho đến khi có Hiệp Ðịnh Genève thì mới được thả, khi ấy Pháp vừa nhẩy dù xuống Phát Diệm. Anh Bằng đưa vợ con vào Nam. Vợ ông, người bạn đời giản dị bình thường, vẫn gắn bó chung dưới một mái nhà trên 60 năm qua.

Nhiều người dân làng còn nhắc nhớ, nhà văn Trần Khánh Liễm nói: “Có một thời 3 anh em ông Anh Bằng, có người anh cả là nhạc sĩ đàn phong cầm rồi đến hai "ca sĩ" Trần Tấn Mùi và Anh Bằng là các giọng hát chính: Ông Mùi là giọng hát nam solo, hai anh em cùng có giọng hát nổi tiếng át hẳn bạn đồng lứa. Các tiếng đàn tiếng hát đồng lớp với Anh Bằng lúc bấy giờ là Linh Mục Hương Tiến, Linh Mục Ðinh Trí Thức, ông Ninh Phúc Duật, và Trần Khắc Kỷ (cụ Chánh Kỷ đã qua đời gần đây tại Nam Cali), cũng như một số bạn lớp trên như Linh Mục Thanh Lãng, GS Phạm Việt Tuyền, LM Nguyễn Duy Vi, Nguyễn Hữu Chỉnh, Ðức Giám Mục Nguyễn Sơn Lâm, LM Trần Khắc Hỉ, Vĩnh Phò, Phạm Tế Mỹ, chánh án tòa nhân dân Phạm Ngọc Hoan (thân phụ của cựu Giám Ðốc Cục Tình Báo Trung Ương Phạm Văn Huấn, bố vợ của nhạc sĩ Lê Văn Khoa), những người trong làng danh tiếng như Sơn Ðiền-Vũ Ngọc Ánh, Sư Huynh Phạm Ngọc Hóa (hiệu trưởng Taberd/ Viện Ðại Học Lasan), Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, nhạc sĩ Nguyễn Khắc Cung (cùng người Ðiền Hộ), giám đốc Viện Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, thân phụ ông Cung là cụ Bố Chánh Tỉnh Thái Bình Nguyễn Lập Lễ. Ngoài ra, Anh Bằng cũng là lớp đàn anh tại Ba Làng của Trần Khánh Liễm, TNS Nguyễn Gia Hiến, Nguyễn Tiến Hỷ, Ðàm Quang Hưng, TS Nguyễn Xuân Phong, TS Nguyễn Tiến Hưng (phụ tá tổng thống, đặc trách liên bộ, đặc trách kế hoạch VNCH). Trẻ nhất là nhạc sĩ Trường Sa, GS Phạm Thiên Hùng, Trần Anh Liễn. Ðồng thời một vài nhân vật kể trên cũng đều là bà con họ hàng, làng nước với nhạc sĩ Anh Bằng. Sau ngày gia đình đón từ Lý Bá Sơ trở về, ông có chuyển ra Nam Ðịnh và Hà Nội trước khi di cư vào Nam, trôi dạt không có một mảnh giấy tờ, lý lịch nào của những năm học chuyên cần, xuất sắc từ Ba Làng nữa.

Những người bạn đồng trang lứa hoặc nhỏ tuổi hơn nhưng có đầy đủ giấy tờ bằng cấp từ những năm học Ba Làng, thì đã được giữ những chức vụ khá lớn. Còn Anh Bằng sau tháng năm tù đầy chỉ có hai bàn tay trắng, may Pháp ngữ rất thông suốt, Anh ngữ cũng khá giỏi và cũng nhờ thời gian tự học với một vài trí thức trong tù, ông lại trở thành một nghệ sĩ sáng tác nhạc. Trách vụ này, ông đã đa mang trên vai tròn suốt một đời sau đó.

Vào Nam, ông phục vụ quân đội trong ngành Công Binh từ 1957, ở Quy Nhơn (lúc ấy Thy Vân mới vừa ra đời sau các anh chị mang tên: Dân, Việt, và Nam). Sau đó ông được chuyển về Tiểu Ðoàn Chiến Tranh Tâm Lý nhờ sáng tác các vở kịch đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, suốt thời gian này gia đình nhạc sĩ Anh Bằng ít liên lạc với họ hàng anh em.

Giải ngũ năm 1962, khi đang được trọng dụng nhờ tài năng văn nghệ trong Tiểu Ðoàn Chiến Tranh Tâm Lý, ông liên lạc lại được với anh em họ hàng ruột thịt, sau đó ông cùng vợ con về sống tại Bà Chiểu. Ðây là quãng thời gian ông sáng tác rất mạnh, và gắn bó chặt chẽ gần gụi với các hệ thống truyền thanh Quốc Gia và tư nhân.

Tâm hồn nhạc sĩ luôn sống động, như mãi vẫn tươi mới

Trong khoảng thời gian 1956-1958, Anh Bằng soạn vở kịch thơ dài khoảng 3 giờ “Ðứa Con Nuôi” đoạt giải thưởng hạng nhất của giải thưởng văn học nghệ thuật và kịch nghệ của tổng thống VNCH. Liên tiếp những năm sau đó, ông soạn thêm những vở kịch nổi danh thời ấy như: Hoa Tàn Trên Ðất Ðịch, Lẽ Sống và Nát Tan...

Những vở kịch này đã được các đài phát thanh diễn lại nhiều lần, nhưng chẳng ai biết Anh Bằng là tác giả! Ông thích sống đời nghệ sĩ tự do, và phát triển trong lãnh vực sản xuất âm nhạc, phát thanh, ông liên tiếp có nhiều tác phẩm best seller và lập nhiều cơ sở kinh doanh liên hệ đến ca nhạc, như 3 quán ca nhạc Làng Văn. Cuộc sống vẫn thật yên tịnh, ông luôn tự chế, chỉ muốn là người nghệ sĩ hết sức lãng mạn, nhưng không bao giờ đi quá xa, và luôn giữ được vai trò người cha trong gia đình, một nghệ sĩ chừng mực, nghiêm chỉnh sáng tạo.

Nhờ tài năng diễn xuất kịch nghệ, được trọng dụng trong quân đội một cách công bằng, ông luôn khiêm tốn, chừng mực: Là tác giả không ai ngờ được của các khẩu hiệu tuyên truyền, các bài viết chiến dịch cho “Binh Méo-Cai Tròn”, “Huynh Ðệ Chi Binh” thường được ban hài hước nổi tiếng nhất thời ấy là nhạc AVT trình bày, với mục đích nêu cao tâm tình của người lính, tránh chia rẽ.

Nhạc sĩ Anh Bằng thường nhớ lại những năm cuộc chiến cao độ, thính giả ái mộ và yêu mến ca nhạc chính là anh em quân nhân tiền tuyến hoặc hậu phương và những người tình, người thân yêu của lính... Ðó là thời thành tựu của những ca khúc hát mỗi ngày, trên hệ thống Phát Thanh Thương Mại tại Sài Gòn. Khi ca khúc “chạm” đến trái tim người nghe rồi sẽ được yêu mến, đón nhận, chỉ giản dị thế thôi... Như “Nửa Ðêm Biên Giới”, “Căn Nhà Ngoại Ô” v.v... dành cho đại chúng, và sau này “Khúc Thụy Du”, hoặc cuối đời: “Anh Còn Yêu Em”, thỏa mãn cả mọi thính giả dù là kén chọn nhạc, khó tính, thích nội dung bài hát có chiều sâu ý nghĩa, hay là đại chúng thính giả ưa nhạc đa sầu đa cảm.

Cũng như những năm ở hải ngoại này (lần thứ nhì lập nghiệp trở lại, cũng giống như bao nhiêu năm trước tại quê nhà, vẫn bắt đầu lại từ đầu với hai bàn tay trắng), sáng tác của Anh Bằng có thêm những nét xúc cảm mới, đưa vào dòng nhạc mélody của sức sống mới dựa trên kho tàng âm nhạc Việt, bằng xúc cảm vượt trội hơn cả so với những nhạc sĩ đã thành danh trước đây.

Những người hát nhạc Anh Bằng, như Nguyên Khang, Y Phương, Thiên Kim, họ thể hiện thật tươi mới qua các DVD và CD Asia trong vài ba năm gần đây... Họ cũng khiến ta liên tưởng tới mươi năm trước với Như Quỳnh, Mạnh Ðình tiếng hát sở trường những khúc hát mộc mạc bình dị như “Chuyện Tình Hoa Sim”, “Chuyện Giàn Hoa Thiên Lý”. “Chuyện Tình Hoa Trắng”, bài hát ra đời sau nhưng vẫn tươi mới hơn những ca khúc tương tự về đồi hoa sim thơ Hữu Loan, đã vang dội sân trường Thanh Hóa (quê Hữu Loan), nối lên cùng với Sông Lô của Văn Cao rung động cả vùng khu Tư, trong lúc ấy Anh Bằng đang được giáo dục và học thuộc sách nhạc Cantique de la Jeunesse của nhà dòng.

Từ thập niên 1965-1975, với những ca khúc top hit như: Nếu Vắng Anh, Giấc Ngủ Cô Ðơn, và khi sang đến hàng loạt sáng tác như “Chuyện Tình Lan Và Ðiệp 1, 2, 3...” ra đời cùng với các nhạc phẩm khác của Sóng Nhạc, lúc ấy Anh Bằng đã là người nhạc sĩ sống rất phong lưu, bằng tài và chuyên cần, tự mình tạo ra; đi lại bằng xe Toyota tư nhân mới, tiền bạc vô nhiều không kể, không nhạc sĩ sáng tác hoặc nhà văn có tác phẩm nào có thể giầu bằng.

Có nhiều người vẫn nêu câu hỏi: Tại sao tác giả Anh Bằng lại sống thầm kín, khiêm cung, tránh cho in hình (dù là một nghệ sĩ... rất ăn ảnh) và tránh trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí?.

Có lẽ hiểu được ông vì bị chi phối bởi quan niệm cổ về nghiệp “xướng ca vô loài”: Dù rất thành công về tài chánh và trở thành ‘bố già’ trong lãnh vực nghệ thuật sân khấu, ông không hề khuyến khích hoặc đào tạo con cháu nối tiếp đường đi của ông, ngoại trừ một khi lớp hậu duệ tự ý thức và tự chọn lựa.

Trọn cuộc đời giữ tâm hồn thơ và mộng: Anh Còn Yêu Em

Khởi đi từ những năm xa xưa mới đến Hoa Kỳ và định cư tại một thành phố nhỏ của TB Washington trước khi về Cali chủ trương một trung tâm ca nhạc đã lớn mạnh và rất danh tiếng hiện nay, nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự rằng: “Trong tủ thơ của mình có trân trọng hàng ngàn tập thơ và các sáng tác của nhiều tác giả thương mến gửi tặng, Anh Bằng trân trọng từng bài thơ, đọc thường xuyên rất kỹ, không bỏ sót ...”.

Theo lời ông, tác giả đều rất quý mến những ca sĩ hát nhạc Anh Bằng hay, dù mới đây nhất qua ca khúc Anh Còn Yêu Em, như Nguyên Khang, Y Phương, Thiên Kim, cũng như xa xưa có Phương Dung, Thanh Thúy, Thanh Tuyền... đầu thập niên 1980 ở hải ngoại có Lệ Thu, Ngọc Lan, Hải Lý. Họ hát Hạnh Phúc Lang Thang rồi đến Như Quỳnh mà theo lời ông những tiếng hát hát thành công đoạt trong list nhạc top hit... Tất cả, cho dù bao giờ, lúc nào ông cũng đều dành cho những tiếng hát nhạc của mình: sự cảm mến. Dù mười năm qua, ông không còn thưởng thức qua thính giác được tiếng hát nào qua thanh âm nữa. Có chăng ông chỉ còn ân cần xem lại hình ảnh, qua DVD và ghi nhận từ những lời khen ngợi, cảm kích của thính giả.

Nhạc sĩ Anh Bằng cho rằng dù nhà thơ Phạm Thành Tài (thơ phổ cho ca khúc Anh Còn Yêu Em) chưa nổi tiếng “nhưng thơ có hồn, thơ gây cảm xúc cho người viết nhạc”... và "cả hai ca khúc Anh Còn Nợ Em và Anh Còn Yêu Em đều hay". Trong ca khúc này, ta thấy mênh mông cả khung trời Thanh Hóa, rồi đến Quy Nhơn và quãng đời lưu vong Quận Cam, tất cả đều phảng phất nét lãng mạn chôn giấu.

Ðiểm đặc biệt là có một vài ca khúc tác giả rất bằng lòng thì lại không được đón nhận mạnh, còn một số ca khúc tác giả không thích lắm thì lại được đón nhận nồng nhiệt (tuy vậy Anh Bằng cũng nói rằng: trường hợp này ít khi xảy ra...) - Có những tập thơ hay (đối với chủ quan của Anh Bằng), ông nói: “mình đọc đi đọc lại nhiều lần - thấy sung sướng” và “ngược lại cũng có những bài thơ của các tác giả danh tiếng nhưng lại vẫn chưa tìm ra được nét ưng ý để phổ thành ca khúc... Tác giả BH nhận định: “Tâm hồn nhạc sĩ Anh Bằng qua thính giả khắp nơi ghi nhận, càng những năm về sau Anh Bằng càng thơ mộng, trẻ trung, yêu thiết tha cuộc đời này, âm thanh vang xa...”.

Những ca khúc nổi như cồn rất hiện tượng, thời thập niên 1960

Nếu Vắng Anh là ca khúc đầu tiên của Anh Bằng được in trên bản nhạc giấy với số lượng bán rất cao (đó là nét đặc thù của nền âm nhạc miền Nam trước 1975) và cùng thời trên dĩa Sóng Nhạc-Asia qua tiếng hát Lệ Thanh, tiếng hát sắc sảo rất hay, nhưng ít chịu xuất hiện trên sân khấu hoặc chịu in hình ca sĩ trên bài hát ngày ấy. Ca khúc thứ nhì lại do Thanh Thúy được mời trình bày mang tên: Giấc Ngủ Cô Ðơn, và kế đến là tác phẩm thứ ba mang tên: Ðôi Bóng với Phương Dung rồi sau đó mới đến Lẻ Bóng một lần nữa lại được Thanh Thúy trình bày. Nhưng trước khi cho ra mắt 4 tác phẩm được các ca sĩ thượng thặng thời đó trình bày, Anh Bằng còn có Tiếc Thầm, (một ca khúc cổ võ cho cao trào đi quân dịch, bảo vệ đất nước tự do cho người dân) ít người nghĩ đến tên tác giả, đã do ban AVT trình bày lần đầu được phát nhiều lần trên màn ảnh truyền hình mới ra đời được chiếu lớn trên toàn quốc cho đợt thử nghiệm truyền hình đen trắng, chưa hết lại còn những bài hài hước dựa trên ý thơ Hồ Xuân Hương, khiến ai cũng nhớ, cũng cười thoải mái với Em Tập Vespa, hoặc Ðánh Cờ... Riêng bài Huynh Ðệ Chi Binh thì lại là một đề tài phẩm bình về sự chia rẽ trong quân đội rất ý nghĩa khi kêu gọi đoàn kết giữa hàng tướng lãnh để chống Cộng, bảo vệ người dân...

Trong sáng tác mạnh mẽ bội phần với thời trước 1965, Anh Bằng liên tiếp cho ra đời: Nửa Ðêm Biên Giới, tiếng hát Thanh Thúy, Tiếng Ca U Hoài (một trong những ca khúc tác giả rất thích, rất hài lòng và biết được rằng không thành công như những ca khúc khác), sau đó là những ca khúc mở lối cho cao trào phát thanh thương mại như: Hai Mùa Mưa, Căn Nhà Ngoại Ô, Gõ Cửa... cùng với cả trăm sáng tác khác, với nhiều khúc hát slogan, khúc hát chiến dịch tuyên truyền mà Anh Bằng viết không cần lưu lại tên tác giả dù với ông, không một việc làm hoặc sáng tác nào mà ông coi nhẹ, không đặt trọn vẹn trái tim với tinh thần phục vụ.

Tên của từng bài hát và tiết tấu cùng chọn ca sĩ thời bấy giờ nằm trong tay nhạc sĩ, sự tìm chọn ca sĩ, tập luyện và cùng nhau đi thu băng chung cả là một công trình kéo dài cả tuần lễ, và nhạc sĩ vừa có quyền vừa thể hiện vai trò rất quan trọng trong tiến trình trình diễn... Cho đến khi “Chuyện Tình Lan và Ðiệp 1, 2, 3...” ra đời đã đánh dấu mức cực thịnh của những fans ái mộ và nhu cầu nghe, thưởng thức loại nhạc tình cảm gần gụi của Anh Bằng.

Sau đó sáng tác “Chuyện Tình Trương Chi” tuy số thu có thua Chuyện Tình Lan Và Ðiệp nhưng thính giả đại đa số vẫn khát khao thưởng thức và mua các bản nhạc giấy xuất bản với số lượng đáng kể, và số thu tài chánh đã vượt trội một ca khúc có tựa đề tương tự , đó là “Khối Tình Trương Chi” của nhạc sĩ thành danh Phạm Duy: Dù ca khúc ký tên Phạm Duy này là loại nhạc noble, được đánh giá sang cả, nhưng ít ai bỏ tiền ra mua nhạc giấy bài này, hoặc yêu cầu nghe qua các chương trình Phát Thanh Thương Mại thường nhật so với Anh Bằng.

Trong khi các chương trình phát thanh thương mại, quyến rũ đông đảo thính giả, từ học sinh, thanh niên, bạn trẻ, quân nhân tiền tuyến, em gái hậu phương, cả giới lao động thợ thuyền, cả những bạn gái trẻ nhọc nhằn gánh nước cũng dành dụm đồng tiền khó kiếm, mua nhạc giấy hoặc dĩa nhạc Chuyện Tình Lan Và Ðiệp. Những tháng năm đó có phong trào “say mê” với các chương trình Phát Thanh Thương Mại, tư nhân là chủ tràn ngập những quảng cáo như ta vẫn thấy ngày nay rất nhiều ở Hoa Kỳ.

Một trong những sáng tác mới và rất sung mãn gần đây của Anh Bằng là “Khóc Mẹ Ðêm Mưa” qua tiếng hát Ðặng Thế Luân, Nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự rằng: “Mẹ mất sớm, người anh cả (bị Việt Minh ám sát từ sớm) khiến Anh Bằng lúc nào cũng chơ vơ nhớ và cần mẹ, nhưng đến khi người anh từ trần ngày 29 tháng 4-2006, khiến nhạc sĩ Anh Bằng cảm nhận như một mất mát thật lớn lao đã xảy ra cho mình”. Nước mắt và xúc động rất chân thật nhiều tháng đã khiến cho ca khúc sống thật và thương cảm, gieo cảm xúc cho hầu hết người nghe qua ca khúc...

Phong phú sáng tạo, nhanh chóng chinh phục trái tim của khán thính giả

Tính tình kín đáo, thiện cảm của Anh Bằng khiến những ‘sếp’ lớn trong ngành âm nhạc tuyên truyền cũng chẳng bao giờ biết Anh Bằng chính là tác giả những sáng tác như Tiếc Thầm, và là tác giả những vở kịch được quân đội diễn nhiều nơi. Một tâm hồn nghệ sĩ tiềm ẩn biết bao thơ mộng mà bây giờ sau hơn 50 năm nhìn lại sự nghiệp, nhiều thính giả mới thầm thán phục thêm khi nghe những ca khúc lãng mạn chân tình như: Khúc Thụy Du, Anh Còn Yêu Em, Khóc Mẹ Ðêm Mưa... Tiếc Thương trong DVD Lá Thư Chiến Trường muộn màng ra đời. Và đến nay, gần như không DVD Asia nào có sáng tác mang tên Anh Bằng mà không được chờ đón.

Trở lại với các sáng tác như bài “Chuyện Giàn Thiên Lý” cảm nhận từ ý bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao, hoặc Trúc Ðào, ý thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Theo nhà văn Phạm Quốc Bảo: “Chúng ta thấy các bài thơ dài thượt, khó bắt được âm điệu để diễn tả những ý thơ, thế mà qua tay nhạc sĩ Anh Bằng, ông tỏ ra rất dễ dàng nắm bắt được ý chính những rung cảm mạnh mẽ nhất, thô sơ nhưng gần gũi nhất, để người nghe sẽ nhớ ngay, hiểu ngay và có thể hát lại dễ dàng, họ sẽ yêu thích và ghiền... Và công lao chính là nhờ âm điệu của dòng nhạc tài hoa, dù chỉ cảm nhận một vài ý thơ, nhưng không bao giờ Anh Bằng quên trang trọng đề tên nhà thơ qua tác phẩm ấn hành.”

Kiếm được một bài nhạc sẽ ăn khách rất khó, kiếm được một bài thơ hay trở thành ca khúc lại càng khó hơn nữa, nhưng Anh Bằng đã “đeo” cho bài thơ một đôi hia bảy dặm, nó đã bay bổng xa tới tận đâu đâu... “Chỉ cần 32 trường canh”, ông đủ diễn tả cho thính giả biết tựa đề, nét lãng mạn và nội dung của bài thơ bài hát... và như ánh sét, nhanh chóng đi ngay vào tận mỗi trái tim. Ông biết trước loại nhạc nào quần chúng thích, kể cả vào những năm sau những đảo chính, chỉnh lý, biến động ở Miền Nam, người dân cần những tình cảm mới, nguồn xúc động tươi tắn, gần gũi, bình dị và trong thời điểm này có những sáng tác cho chiến dịch, như “Nửa Ðêm Về Sáng”, “Nửa Ðêm Biên Giới” như các khẩu hiệu cổ động, nó phát xuất từ Anh Bằng: Chỉ trong thoáng chốc ngồi ở bàn viết và liền được tung lên phát thanh, vang dội toàn quốc ngay sau đó...

Triệu phú (VNCH) thời Sóng Nhạc-Asia

Nhạc sĩ Anh Bằng quá dầy kinh nghiệm phát hành, phân phối của trung tâm Dĩa Sóng Nhạc, từ những năm điều hành hệ thống âm nhạc ở các đài Phát Thanh Quốc Gia, cho tới các chương trình Phát Thanh Thương Mại. Cái nhìn viễn kiến của ông, theo lời anh Trần Văn Khải là “nhìn ra biển rộng mênh mông chân trời bao la, và tiến mạnh, chứ không chỉ là cái nhìn nhỏ hẹp trong ao hồ nhỏ bé”. Âm nhạc và văn nghệ miền Bắc chỉ có kho súng đạn, chiến đấu trong khi miền Nam là một kho tàng nhạc giá trị tình tự và nhân bản.

Dù trong một hai năm đầu lớp dạy nhạc Lê Minh Bằng khu nhà thờ Tân Ðịnh Sài Gòn, mới chỉ vừa đào tạo đã có được thêm Trang Mỹ Dung và Giáng Thu... cho các chương trình phát thanh kịp một năm trước khi miền Nam thất thủ vào tháng Tư 1975. Ðó là những năm hợp tác tuyệt vời của bộ ba: Lê Dinh đến Canada (sinh năm 1934, là viên chức trọng yếu phụ trách Tân Nhạc của Ðài Phát Thanh Sài Gòn), Nhạc Sĩ Minh Kỳ (1930-1975), đi tù và chết và Anh Bằng, trong cái tên ghép ba người: Lê-Minh-Bằng.

Ra hải ngoại, Anh Bằng khởi nghiệp ban đầu với người cháu là nhà tổ chức ca nhạc Trần Thăng, chung sức lập ra Trung Tâm Dạ Lan khoảng năm 1984.

Ông vốn sẵn có tài, có sáng tạo và người cháu có tài chánh, nhiệt huyết và sáng kiến; nên những năm đầu tiên rất thành công đáng kể. Trong dịp này, Thy Vân cũng xuất hiện trên một số bìa băng cassett nhạc khi hát một vài ca khúc, nhưng sau đó Thy Vân biến dần vào lãnh vực tổ chức. Cô có ý muốn phát triển lớn rộng hơn, và Asia ra đời từ đó. Khi rời Dạ Lan cũng là lúc Thy Vân không còn hát và bắt đầu điều hành, phát triển Asia dưới sự hướng dẫn và công sức của thân phụ. Nhờ vậy, Asia đã lên rất cao.

So sánh với vài nhạc sĩ có tiếng, có tài và thế lực giao tế rộng, sáng tác mạnh như Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy nổi bật trong giới văn nghệ nhờ báo giới luôn nhắc nhở khen ngợi, cũng phải chịu nhượng bộ trong khung cảnh xa lạ xứ người. Từ đó mới thấy sự chọn lựa đúng lúc và có kế hoạch cũng như tài năng phong phú, nhạc sĩ Anh Bằng lớn lao vượt trội là như thế!

Soạn nhạc để có người yêu mến, và có số thu tài chánh khó ai có thể ngờ tới. Không đáp ứng được quần chúng qua một vài ca khúc thì bị loại bỏ. Có lẽ như thế mà những ca khúc gần đây mới là cảm nhận nét lãng mạn, tài hoa, như mỗi loạt nhạc ra đời của Asia, và Anh Bằng nói riêng là thêm một đợt đón nhận mới, lạ kỳ!

Nhạc sĩ Anh Bằng thập niên qua đã có góp phần viết script, chọn nhạc, soạn nhạc, cùng đóng góp ý kiến trong việc chọn ca sĩ và ca khúc góp sức đưa Asia lên mức thành công rất cao. Tâm niệm của Anh Bằng là “đáp ứng quần chúng, muốn người nghe thỏa mãn tâm sự của nghệ sĩ sáng tác; như vậy có nghĩa là tác phẩm đã thành công...”. Cũng như khi lập ra lớp huấn luyện nhạc trước 1975, ông cũng cũng có một lý do đặc biệt: “vừa đào tạo, vừa tìm kiếm ra tài năng mới”.

Ðối thủ trong âm nhạc của Anh Bằng? Có hay không?

Ðã từng sống trong Lý Bá Sơ, từng đêm nghe tiếng cai tù đánh thức những người bạn đồng tù khác, thức dậy, trói ké, mang ra sân bắn hoặc mang đi điều tra hành hạ có lẽ là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong đầu của nhạc sĩ... thiếu ăn, thiếu áo quần, thiếu một mảnh chăn đơn để che đắp cái rét giá tù đày... nhưng tác giả Anh Bằng luôn nở một nụ cười, không chua cay oán thù, dù “không bao giờ đội trời chung với chủ nghĩa và chính sách từ những năm trước 1954, và chủ nghĩa CS kéo dài những năm sau đó...”. Ðối với người nhạc sĩ đầy tấm lòng nhân ái này, ông luôn có một nụ cười tươi tắn cho cuộc sống, hầu như không bao giờ ganh ghét.

Không bận lòng với ai, chỉ phấn đấu say mê làm việc, thúc đẩy tự chính mình, nhưng luôn tươi tỉnh với một câu nói như giờ thúc quân (kinh nghiệm từ gian khổ). Ông thường thúc đẩy: “Khi làm việc thì phải tiến lên, phải ‘sắt máu’, ý của ông chỉ muốn diễn tả lòng quyết tâm. Ông không tranh giành với đồng nghiệp hoặc với một ai, vì bản tính chân chất hiền lành... nhưng có thể chỉ ngoại trừ với lập trường và vì lằn ranh trong cách sống?

Theo ông, qua những lần thổ lộ ở tại xứ người, thì: “Trong khi chúng ta cố mang lại những lạc quan, kêu gọi chiến đấu bảo vệ đồng bào, bảo vệ sự sống còn và nhân bản tại miền Nam thì lại có những người cố tình phản chiến, kêu gọi hòa bình bằng mọi giá như thể là họ luôn lên tiếng nói: chúng ta hãy đầu hàng đi!”.

Chế độ VNCH lúc ấy chẳng phải là không chặt chẽ trong chủ trương kiểm duyệt ca nhạc chiến đấu: Các ca khúc trước khi được in, được phát trên các đài phát thanh, hoặc trước khi được thu dĩa, đều trải qua những con mắt kiểm duyệt gắt gao. Vẫn theo ông “thậm chí có những sáng tác khi cho phát thanh, thu dĩa tạm gọi là “đầu Ngô mình Sở”, vì các con mắt kiểm duyệt, các sếp kiểm duyệt, mỗi viên chức, mỗi nhạc sĩ, thêm câu này, thay chữ kia, bớt, cắt chữ nọ, để thích hợp với chính sách... nâng cao tinh thần cùng chiến đấu”. Thế nhưng nói riêng về mặt tuyên truyền thì chúng ta làm sao mà cản nổi khi cứ 3 ca khúc phản chiến, kêu gọi buông súng thì chúng ta mới có kịp một sáng tác nỗ lực chiến đấu như của Anh Bằng, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh, (1 sáng tác chống tàn ác, bảo vệ tự do thì có ngay 3 ca khúc phản chiến kêu gọi buông súng hòa bình mọi giá!!) khiến cán cân lực lượng tuyên truyền chúng ta bị xâm lấn bởi phe phản chiến, làm lợi cho đối phương... Chẳng hạn, khi Trịnh Công Sơn mô tả cảnh “các bà mẹ chết vì chiến tranh vì bom đạn” để phản chiến, thì nhạc sĩ Anh Bằng vội vã soạn ngay ra đời ca khúc có những hình ảnh tương tự, nhưng dưới con mắt của một chiến sĩ đấu tranh có chính nghĩa cho tự do: “Một bà mẹ ôm con chết trong tay mình nhưng cảm thông sự hy sinh chiến đấu của đất nước” là vì giặc phá hoại, và người dân Miền Nam, yêu chuộng tự do, nỗ lực “tự vệ”..., hoặc nói lên nỗi khổ chiến tranh qua ca khúc “Nó”, hoặc Ðêm Nguyện Cầu... Ðiều trái nghịch là một số những kẻ thụ hưởng trong miền Nam tự do thì thích âm nhạc phản chiến, trái lại rất nhiều cán binh cộng sản và dân chúng miền Bắc lại ưa chuộng tìm nghe, chép chuyền tay những lời nhạc về “người mẹ ôm con chết vì bom đạn của kẻ chủ trương chiến tranh” của Anh Bằng, hoặc ca khúc “Nó” “Ðêm Nguyện Cầu”, “Nỗi Lòng Người Ði” để soi chiếu lại cuộc đời của họ quá nhiều bất hạnh: Các cán binh miền Bắc vẫn lén lút thích thú say mê ca khúc “Tôi xa Hà Nội năm lên 18 khi vừa biết yêu”... như những món hàng “độc”, được ưa chuộng và đánh giá cao. Phải chăng trước những trách nhiệm tự chọn lựa qua cuộc sống dân sự, trong vai trò Tâm Lý Chiến, tác giả Anh Bằng cũng phải đối kháng với Trịnh Công Sơn, mỗi người một lý tưởng. Theo lời anh Trần Minh: “Nhạc Sĩ Anh Bằng muốn dùng nhạc của mình góp phần làm suy thoái tinh thần sát máu của các chiến binh sinh Bắc tử Nam, với ước mong miền Nam được yên bình, giặc từ Bắc không thể xâm lấn vô Nam. Những kẻ phản chiến, hình như, đã góp phần làm mất miền Nam, là nỗi đau đớn suốt trong quá trình những sáng tác phản chiến đó ra rả tại nhiều nơi trong và ngoài thành phố.”

Nỗi đau đớn này dằn vặt tác giả Anh Bằng, khiến ông giới hạn nhạc tình của mình để hướng vào góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp qua những ca khúc ca ngợi cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ.

Có lẽ cho đến hơn 33 năm sau miền Nam thất thủ, tâm sự của nhạc sĩ Anh Bằng qua thổ lộ vẫn chưa nguôi ngoai... Lý do chỉ giản dị có thế... Theo lời anh Trần Thăng, giám đốc/sáng lập Hollywood Night/Dạ Lan nói: những người như ông “không ngại chống lại một chủ nghĩa sai lầm, với tiếng nói và tấm lòng chân thật.”

Ông vẫn có thổ lộ đôi lần: “Tương lai, một đất nước Việt Nam, rồi sẽ không còn CS”, hình như ông luôn lạc quan như thế, “nhưng không hẳn chúng ta chỉ ngồi chờ đợi sự sụp đổ, ta phải góp phần tích cực thì ngày ấy sẽ đến”...

Một đời tận tụy, với trên 500 sáng tác, trong đó rung cảm của ông trải ra với độ 200 bài phổ thơ. Nhưng trên tất cả vẫn là một tấm lòng trọn vẹn với đất nước của một nghệ sĩ có lý tưởng, dù rất thành công nhưng xem ra ông vẫn thấy không được như mơ ước: Quân đội đã là lò luyện thép nhưng cũng là tháp ngà cho một số người khác kiêu binh. Anh Bằng đã hưởng những phúc lợi từ các lò luyện thép và có những người cũng đã “đứng dậy được” sau những “cú đấm thôi sơn” của vận nước mà không thiếu gì những người đã cũng như tiếp tục gục ngã, mà có mấy ai vững niềm tin “sau cơn mưa trời đã lại sáng’... Riêng Anh Bằng, như người tù vượt ngục Papillon, đã “đứng dậy được”...

Và bao nhiêu năm đã trôi qua, nước chảy qua cầu, tác giả Anh Bằng với trái tim nhân ái, nụ cười hiền lành từ thời học tập ở Ba Làng (cùng chất chứa đau thương Lý Bá Sơ sau đó), tấm lòng với âm nhạc luôn tươi tắn, nhạc tình Anh Bằng cuối đời vẫn thêm mới mẻ, đi vào từng trái tim, và ở lại lâu dài (so với sự đào thải nói chung... nhanh đến độ tàn nhẫn hiện nay, nhất là tình trạng nhạc trong nước), qua một số sáng tác mãnh liệt và lâu bền, vừa lòng mọi giới mộ điệu ở trình độ thưởng ngoạn khác nhau.

Vẫn đi tiếp một quãng đời, khởi đi từ một bản án tử hình, chàng trai Anh Bằng lúc nào cũng như mới lớn 18 tuổi, tươi tắn nhựa sống, dù nay ông đã bước qua sinh nhật thứ 81.

Người biến những cô Tấm thành siêu sao Diva nhạc Việt

Ngày xưa ông đã sáng tác có “Chuyện Tình Lan và Ðiệp”, bây giờ qua Hoa Kỳ ông lại tiếp tục sáng tác có Chuyện Tình Hoa Sim, Chuyện Hoa Trắng, Chuyện Giàn Hoa Thiên Lý: Ðề tài cũ nhưng vẫn được đón nhận và hay vượt trội, ngoài ra còn có ca khúc, ý thơ của Nguyễn Tất Nhiên: Trúc Ðào...

Tuy vậy những năm đầu khi chưa thành Trung Tâm Ca nhạc tại Hoa Kỳ, ông đã có những ca khúc sáng tác như: Huế Xưa, Cõi Buồn được đánh giá là cũng hay, nhưng không được hưởng ứng nồng nhiệt.

Sang đây, Chuyện Tình Hoa Sim làm kỷ niệm vào nghề của Như Quỳnh, khi cô mới tới Hoa Kỳ. Ngày ấy, Như Quỳnh được nhạc sĩ Trúc Giang, thân sinh nhạc sĩ lắm tài Trúc Hồ (đang nối nghiệp tài năng nhạc Anh Bằng?) giới thiệu tại nhà thờ Tam Biên quận Cam-Cali, và cùng với dòng nhạc lãng mạn tình tứ, Như Quỳnh là mặt nổi của dòng nhạc Anh Bằng được đại chúng yêu mến. Những tài danh 10 năm qua, 20 năm qua, hoặc 40 năm về trước... và mới nay thôi cũng chỉ là một sự nối tiếp: Anh Bằng đã từng gò luyến láy những năm xa xưa cho Phương Dung, Thanh Thúy, Thanh Tuyền. Sự nổi tiếng của những tên tuổi này trong làng âm nhạc, từ trong nước đến hải ngoại, nói lên được rằng, cây đũa thần đủ sức biến cô Tấm thành công nương được hay không?

Nơi đây, với nhạc sĩ Anh Bằng trong vài chục năm qua, câu trả lời là có “tên tuổi thành danh là một initial cho một bài mới sáng tác”. Khác với nhiều người nói chung - chưa kịp được khen ngợi đã bị loại bỏ - quên lãng, chính vì đó là những cái hay ngay từ bước đầu, giống như chương trình thương mại Anh Bằng góp công sức ngày xưa thật khó khăn, nhưng thành công ngay. Ðịnh luật chung: Phải tài hoa mới được trao phó cho, để tạo được những bước nổi lên đình đám... Một ca khúc mới, một bài thơ mới, một tiếng hát mới, có nổi được trên sân khấu (hoặc có cơ hội bước được lên sân khấu) và được vang dội khắp nơi, cũng đã là chuyện khó.

Tác giả Anh Bằng đôi lần thổ lộ rằng: “Tôi không muốn tác phẩm bị cô đơn, lẻ loi trong âm nhạc, không muốn bài hát mình nghĩ là hay, mà chỉ dành riêng cho vài người hay để chỉ một giới người thích và hiểu được, mà đã sáng tác là phải đụng tới một khối lớn đa số quần chúng yêu thích”. Theo ông, “sẵn lòng xóa bỏ một sáng tác, khi nghĩ rằng sự ra đời ca khúc nào đó sẽ không chiếm được đa số quần chúng đón nhận”.

Chính vì vậy mà ở kết hợp “Ý thơ cùng với mélody” phải vang vọng trong tâm tưởng. Tác giả phải ngồi xuống bàn vào buổi chiều, có khi cạnh người cháu Trần Khải (hoặc Trần Thăng sau này là giám đốc Hollywood Night- Dạ Lan) cận kề tán thưởng: Những ngón đàn guitar dạo mélody của ông, thường được tâm sự chia sẻ, trao đổi với người thân khi sáng tác, khi ca khúc vừa kết thúc...

Nhưng ngược lại, hầu như ông không hề khuyến khích các người con ông theo ngành sáng tác âm nhạc? Không một lời giải thích của tác giả vì sao? Có thể các người con không có một quá trình dài học nhạc như ông tại Ba Làng, không có hoàn cảnh thúc đẩy cần thiết, không trải qua những kinh nghiệm lẫn thương đau?

Và sáng tác tiếp nối sáng tác thành tác phẩm được đón nhận, chỉ giản dị đắm say trong vài giờ viết nốt với chữ viết luôn trân trọng và đẹp (và ngày nay thì nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác-gõ nốt nhạc trên máy điện toán). Những bản nhạc ấy chẳng mấy lâu sau sẽ đồng loạt phổ biến xa rộng, và “một sớm một chiều” được hưởng ứng, ngưỡng mộ.

Còn ngày nay, cung cách sáng tác không khác, ông dựa trên ý tưởng lời thơ, tươi vui bên phím điện toán có khác chăng là Anh Bằng đi ngược lại với thời gian, sống lại với đồi sim tím mênh mang quê nhà Hữu Loan, tím cả chiều hoang biền biệt càng ngày nhạc càng thêm trẻ và căng đầy sức sống.

Nhạc sĩ Anh Bằng thường tâm sự: từ kinh nghiệm học ở Ba Làng, ông được hun đúc sức sống và tận tụy làm việc mãnh liệt và cương quyết.

Còn bây giờ là lúc nhìn thấy các hậu duệ đã vững vàng trên đường sự nghiệp, thì ông bắt đầu thanh thản và an nhiên. Những năm lao động khổ sai, khi lãnh án tử hình của Lý Bá Sơ, đói khổ là hành trang để ông thêm trân trọng tự do, nhân bản mà mình được hưởng ở Miền Nam, và ở cả bên ngoài nước Việt Nam ngày nay.

Phạm Kim


Sunday, July 13, 2008

Hội Tam Điểm, Thuyết Vô Thần và Công Giáo


VietCatholic News (Thứ Ba 17/06/2008 03:30):
Lược Trích Bài Phỏng Vấn tới Tác Giả của Cuốn Sách Có Nhan Đề “Âm Mưu của Hội Tam Điểm” (The Masonic Plot)

Nhằm nối tiếp chủ đề về "Lạc Giáo" hay các "Giáo Phái Mới" người viết đã có dịp giới thiệu qua mấy năm về trước, lần này xin giới thiệu tiếp bài viết này để Quý Vị độc giả tham khảo!


*
* *
BURGOS, Tây Ban Nha (Zenit.org).- Đâu là sự thật và đâu không phải là sự thật về Hội Tam Điểm, thì đó chính là đề tài của một cuốn sách vừa mới được cho xuất bản ra gần đây bởi một chuyên gia chuyên về lịch sử của các tôn giáo.

Cha Manuel Guerra Gómez, tác giả của 25 cuốn sách nói về các giáo phái và các chủ đề khác, vừa mới cho xuất bản ra cuốn sách bằng tiếng Tây Ban Nha có nhan đề “Âm Mưu của Hội Tam Điểm” (La Trama Masónica hay The Masonic Plot), do nhà xuất bản Styria phát hành.

Cha hiện đang là Linh Mục của Giáo Phận Burgos, và cũng là Giáo Sư nghĩ hưu của Phân Khoa Thần Học tại trường Đại Học Burgos ở phía Bắc, Tây Ban Nha.

Trong cuộc phỏng vấn với hãng tin Zenit, Cha nói rằng: “Cách thức của Hội Tam Điểm, vốn tự bản chất là vô thần, bộc lộ ra thứ thuyết tương đối có tính lịch sử, để từ đó hướng đến thứ thuyết tương đối có tính cách văn hóa xã hội mà nó muốn cổ võ.”

Hỏi (H): Thưa Cha, có phải âm mưu nổi tiếng của Hội Tam Điểm (HTĐ) chỉ là một chuyện thần thoại, hay hoang đường mà thôi?

Cha Guerra (T): Thưa, điều cần thiết là chúng ta cần phải phân biệt cho rõ ràng giữa HTĐ và những hội viên của HTĐ. HTĐ thì không khát khao gì cả đến quyền lực, hay ít ra chỉ muốn phục vụ cho những nguyên tắc và lợi ích riêng của HTĐ mà thôi.

Còn những hội viên của HTĐ thì lại khác. Họ có mặt trong hầu hết những tổ chức quốc tế nào, vốn có quyền đưa ra những quyết định về sự hợp tác đa quốc gia, để từ đó cố tạo ra một sự ảnh hưởng nào đó về quyền lực kinh tế và chánh trị.

Thật là hợp lý khi nghĩ rằng họ cố gieo rắc và lan truyền ra những nguyên tắc mang tính ý thức hệ của họ như: thuyết tương đối, chủ nghĩa vô thần, và thuyết ngộ đạo, tại bất cứ nơi nào mà họ có mặt và tìm cách làm cho chúng được sáng tỏ và lan rộng ra ngoài phạm vi của riêng họ, càng lớn mạnh chừng nào thì càng tốt chừng nấy.

Mặt khác, tại các quốc gia nói tiếng Anh và tại các quốc gia ở phía Bắc của địa cầu, như tại Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn, vấn đề không phải là họ tìm cách để đạt quyền lực, mà họ chính là quyền lực rồi.

Lấy ví dụ như tại Anh Quốc chẳng hạn, quốc chủ tối cao của Anh Quốc cũng là vị lãnh tụ tối cao của Hiệp Hội Tam Điểm Thống Nhất của Anh Quốc, và của hơn 150 ban lãnh đạo của HTĐ (grand lodges) mà mỗi quốc gia đều có một người; và riêng tại Hoa Kỳ, thì từng tiểu bang có một người lãnh đạo của HTĐ. Vào năm 1995, trong Hiệp Hội Tam Điểm Thống Nhất của Anh Quốc, đã có hơn 750,000 thành viên thuộc vào hơn 8,000 HTĐ trên khắp thế giới.

Bên cạnh đó, vì thứ luật lệ có tính bảo mật, nên không có cách nào mà chúng ta có thể biết được một cách chắc chắn là liệu họ có tích cực hoạt động hay không, và liệu tầm ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của họ lan tới tận đâu.

Chính phủ của cựu Thủ Tướng Tony Blair đã tìm cách quy định và bắt buộc những thành viên của HTĐ phải công khai tuyên bố họ là thành viên trong HTĐ, đặc biệt là nếu những người đó giữ các chức vụ cao trọng trong chính phủ, hay hiện đang làm việc trong ngành pháp lý hoặc cảnh sát. Thì việc đáp trả của 1,400 chánh án Anh Quốc - những người tự nguyện công khai hóa họ là những thành viên trong HTĐ – là một điều đáng được biểu dương. Thế nhưng, thật chất thì con số đó vẫn còn cao hơn rất nhiều nữa.

Tiếp nối các vụ xì-căng-đang của việc Tuyên Truyền Bí Mật của HTĐ Licio Gelli ở Ý, các công chức trong một số lãnh vực hành chánh công cộng tại Ý đã buộc phải công bố một cách công khai là liệu họ có phải là thành viên của HTĐ hay không, dẫu có nguy cơ là họ sẽ bị mất chất đi.

Các Thứ Bậc của Hội Tam Điểm
(H): Thưa Cha, có đúng thực rằng có đến 60% thành viên của Quốc Hội Châu Âu là những hội viên của HTĐ không?

(T): Thưa, sự khẳng định này cũng tương tự được Josep Corominas, lãnh tụ tối cao của HTĐ Tây Ban Nha, đưa ra vào tháng 3/2006 vừa qua. Và vào ngày 9 tháng 2 năm 2007, Ông đã rời khỏi chức vụ lãnh đạo của HTĐ, nhưng vẫn xác nhận là Ông sẽ tiếp tục là một hội viên của HTĐ và muốn mọi người biết được đến Ông như vậy.

Thì liệu đây có phải là một sự chia rẽ mới về một sự phục tùng mới của HTĐ hay đó chỉ là một sự sát nhập vào một HTĐ khác, vốn đã được tồn tại trước đó rồi không?

Thực chất mà nói, tất cả những đề nghị có liên quan tới các vấn đề về gia đình và đạo đức sinh học, vốn trái ngược hẳn so với những giảng dạy của Giáo Hội, và thậm chí là trái ngược ngay cả với luật lệ tự nhiên, cũng đều đã được Quốc Hội Âu Châu thông qua. Đây cũng là trường hợp mà Rocco Buttuglione của Ý bị chối từ vào chức vụ Ủy Viên bởi khối vô thần, vốn chiếm đa số trong Quốc Hội Châu Âu.

(H): Thưa Cha, tại Rôma, vừa mới kết thúc một hội nghị mà trong đó sự bất tương hợp giữa Công Giáo và HTĐ được đề cập đến. Lời gọi mời để đối thoại với những hội viên của HTĐ, về các vấn đề có liên quan đến tính văn hóa và xã hội, được đưa ra. Thì làm thế nào để điều này có thể xảy ra?

(T): Thưa, dẫu có sự bất tương xứng khách quan giữa HTĐ và Công Giáo, thì những người Công Giáo vẫn có thể đối thoại với những người thuộc HTĐ ở nhiều mức độ khác nhau, ngoại trừ những lãnh vực nguy hiểm mà Tòa Thánh thừa có khả năng để đối phó.

Trong bản tuyên bố về HTĐ, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã tuyên bố rằng: “Việc đó không thuộc về thẩm quyền của giáo hội địa phương trong việc đưa ra lời nhận xét hay phán đoán về bản chất của các tổ chức thuộc HTĐ, vốn nhằm ám chỉ đến một sự xúc phạm từ những gì đã được quyết định ở trên, và điều này phù hợp với tuyên bố của Thánh Bộ được đưa ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1981."

Do đó, điều cần thiết là phải suy xét về tính hiện thực và những hệ quả về tính bí mật của HTĐ.

Làm sao bạn có thể đối thoại với một người nào, khi người đó đang đeo mặt nạ? Mặc dầu vậy, chúng ta vẫn có thể đối thoại về các vấn đề có liên quan đến tính văn hóa xã hội. Thậm chí nếu các tôn giáo và các ý thức hệ được lồng hết cả vào văn hóa, thì vẫn còn có cách để tìm ra những điểm chung.

Khác với tôn giáo hay ý thức hệ cụ thể nào đó, thì phạm vi của văn hóa vẫn còn là một lãnh vực, vốn có thể dẫn đến việc đối thoại, ít ra là về mặt lý thuyết. Thật dễ dàng để đảm nhận lấy việc đối thoại trong các lãnh vực đa văn hóa như: sự đói nghèo, môi trường, sức khỏe, sự toàn cầu hóa, vân vân …, hơn là về các vấn đề đa tôn giáo.

Tuy nhiên, thậm chí ngay cả trong lãnh vực này, thì việc đối thoại với các thành viên của HTĐ vẫn còn gặp phải những khó khăn nghiêm trọng, tới mức độ như chủ nghĩa vô thần của HTĐ chẳng hạn, cho dù hiện hay ẩn, nó đều có khuynh hướng loại bỏ ra những đặc điểm có tính riêng biệt của tôn giáo, vốn rất xa lạ so với hầu hết các tôn giáo và các quy luật về đạo đức, luân lý; và lại có khuynh hướng lồng vào những thứ như kiểu “quản thúc tại gia” vào trong chiều kích lương tâm cá nhân và sau các bức tường của nhà thờ.

Thì theo nghĩa này, HTĐ cố tìm cách loại bỏ ra những ràng buộc bên ngoài về mặt văn hóa xã hội của Kitô Giáo, vốn đã được xem như là truyền thống lâu đời của các quốc gia Kitô Giáo, chẳng hạn như những cảnh về Chúa Giáng Sinh, hay việc trưng bày ra các biểu tượng của mầu nhiệm Giáng Sinh như ngôi sao tại hang đá Bêlêm, Ba Nhà Đạo Sĩ, vân vân ….

Những Biểu Tượng của Hội Tam Điểm
(H): Thưa Cha, có phải HTĐ tự thay thế nó cho tôn giáo?

(T): Thưa, HTĐ, cùng với một trong những loại sản phẩm của nó là Thời Đại Mới (New Age), thích dùng từ “duy linh” (spirituality) hơn vì nó có một tính cộng hưởng chủ quan hơn là từ “tôn giáo” (religion).

Một số hội viên của HTĐ nói rằng họ là những người Kitô Giáo và họ từ chối cho rằng HTĐ chính là một tôn giáo. Họ nên nhìn nhận rằng họ thuộc về hai tôn giáo: Công Giáo và HTĐ.

Thế nhưng, trong thực tế, ít ra là đối với nhiều người, hầu hết những người thuộc HTĐ đều là những người theo thuyết bất khả tri (agnostics) và là những nhà thần luận (deists), và họ xem HTĐ chính là một sự thay thế cho tôn giáo. Thật chất, HTĐ được gọi là một “tôn giáo” và đôi lúc nó được đề cập đến như vậy trong các bản văn tự của những thành viên thuộc HTĐ.

(H): Thưa Cha, làm thế nào mà Cha có thể tiếp cận được quá gần với giáo phái này khi nó rất là bí mật?

(T): Thưa, tôi đã dành ra rất nhiều giờ để nghiên cứu về các hiến pháp, các quy luật và các lễ nghi của nhiều HTĐ khác nhau, đã từng nói chuyện với những hội viên của HTĐ, và những người trước kia là thành viên của HTĐ tại Tây Ban Nha và Mêhicô, và đọc những sách về HTĐ được viết bởi những hội viên của HTĐ và những người không phải là HTĐ.

Khoảng 10 năm trước đây, tôi đã dành ra hai mùa hè để nói chuyện hằng ngày với các giáo sư đại học là hội viên của HTĐ và cả những giáo sư đại học không phải là HTĐ. Tôi cũng đã dành ra các buổi chiều để đến thăm các trung tâm của nhiều giáo phái khác nhau, một số đó thuộc gốc Tam Điểm chính cống, nằm ở các vùng ngoại ô của các thành phố.

(H): Thưa Cha, thì liệu HTĐ nặng về phương cách hay nội dung?

(T): Ồ, con người, ngoài việc suy nghĩ, cũng còn phải có cả sự cảm nghiệm và sự tưởng tượng nữa chứ. Những cảm giác và trí tưởng tượng có thể cản trở và khuấy động đến tính sáng suốt của tâm trí. Ngoài những thứ này ra, thì những ý tưởng và những tín ngưỡng cũng được dùng đến để hướng con người nữa; các nguyên tắc được tạo ra và cấu thành nên các thể chế về con người, và để đạt được mục tiêu này, thì điều cần thiết là nó cần phải sử dụng đến “cách thức” đúng đắn.

Từ “odos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “cách thức,” và từ “met” có nghĩa là “mục tiêu,” thì đó là hai từ chúng ta đề cập đến. Trong HTĐ, phương cách là nhằm đạt đến tính hiệu quả cao nhất và cũng là một trong những loại cao nhất để hình thành nên một trong những “nguyên tắc,” vốn có lẽ là quan trọng và có tính nền tảng nhất trong tất cả.

Vì chính lẽ đó mà phương cách của HTĐ kết cục rồi vẫn là bất tương xứng với học thuyết Kitô Giáo.

Cách thức của HTĐ, vốn tự bản chất là vô thần, bộc lộ ra thứ thuyết tương đối có tính lịch sử, để từ đó hướng đến thứ thuyết tương đối có tính cách văn hóa xã hội mà nó muốn cổ võ.

Alain Gérard, một trong những vị giám đốc của Grand Orient của Pháp Quốc nói rằng: “HTĐ chỉ là một phương pháp mà thôi.”

Theo Ông, một hội viên của HTĐ có thể có “những ý kiến” hay những tín ngưỡng về một tôn giáo cụ thể nào đó, thế nhưng cách thức của HTĐ ràng buộc người đó “phải nghi vấn” về những ý kiến của mình và chấp nhận lấy cơ may rằng những ý kiến đó (của chính mình) sẽ được công bố là giả tạo hay bị một hệ thống lý trí cứng nhắc hơn vượt trội và với sự ủng hộ của đa số.

Ông nói: “Bạn không thể nào có được một cuộc thảo luận thật sự, nếu cho dẫu kết cục của cuộc thảo luận đó có là thế nào đi chăng nữa, thì vẫn có một số điểm mà bạn luôn lúc nào cũng tin chắc rằng bạn là đúng.”

Vì điều này mà HTĐ hoàn toàn bị dị ứng với những tín điều và với tôn giáo được mạc khải và có tính chất tín điều, đặc biệt là với Kitô Giáo.

Đây cũng là sự lý giải cho việc tại làm sao mà những hội viên của HTĐ có khuynh hướng xem nền dân chủ như là một sự thành đạt của HTĐ và của phương cách dân chủ, tức là được chấp thuận bởi việc bầu phiếu của đa số, cũng như là điều gì đó có cùng bản chất với HTĐ. Phương cách dân chủ này đã được họ lan rộng ra tới mọi hiện thực, kể cả chính sự thật của nó, vân vân. ..

Vị lãnh đạo tối cao hiện tại của HTĐ Grand Orient ở Pháp Quốc là Jean Michel Quilardet, trong một tuyên cáo gởi cho tờ báo của Tây Ban Nha là tờ La Voz de Asturias vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 vừa qua nói rằng:

“Bạn có thể suy nghĩ rằng một nền dân chủ không phải là vô thần hiện diện, và không phải là vô thần cũng có nghĩa là không phải thuộc HTĐ, thế nhưng, đối với cách mà tôi nhìn nhận các sự việc và đối với cách mà tôi suy nghĩ, thì chủ nghĩa vô thần chính là một sự thành công của nền dân chủ.”

Chính vì thế, những người theo dân chủ nào mà không phải là vô thần hay thành viên của HTĐ, nếu họ là những người dân chủ, thì họ sẽ là những người dân chủ thuộc hạng hai.

(H): Thưa Cha, có phải những hội viên của HTĐ chính là một thiểu số sáng tạo không? Và liệu những người Kitô Giáo cũng là vậy đúng không?

(T): Thưa, rõ ràng là những hội viên của HTĐ không có độc quyền về sự sáng tạo. Thậm chí nếu nó là một dạng tự nhiên khác đi chăng nữa, thì sự sáng tạo cũng thuộc về cả những người Kitô Giáo với sự trợ giúp về ân huệ và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Và sự sáng tạo Kitô Giáo không phải là một kiểu sáng tạo kém cõi hơn đâu.

Để minh chứng thì điều mà chúng ta cần nhìn vào đó là lịch sử của Giáo Hội và những khả năng thích ứng của việc rao giảng vào những hoàn cảnh văn hóa và xã hội đa dạng trong suốt hơn 2,000 năm hiện diện. Như đã nói trong Isaiah 59:1 rằng: “Cánh tay của Thiên Chúa thì không quá ngắn” ngay trong thời đại của chúng ta.

Khi mà vào vài năm trước đây, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã gọi những phong trào truyền giáo như là “mùa xuân mới của Chúa Thánh Thần,” hay “Ngũ Tuần được canh tân”, hay “một hồng ân đặc biệt mà Chúa Thánh Thần mang đến cho Giáo hội trong thời đại lịch sử của chúng ta,” thì tôi hoàn toàn nhất trí cho sự tinh tuý trổi vượt này của Ngài.

Chỉ có người tốt và thánh thiện mới có thể nhìn thấy điều tốt đẹp trong tất cả mọi sự, thì điều này cũng giống như người tham lam, vốn chỉ có thể nhìn thấy sự lợi lộc (lucre) và những người dâm dục thì chỉ có thể nhìn thấy được sự khoái cảm về tình dục mà thôi.

Làm sao mà Giáo Hội hay thế giới có thể tồn tại nếu như những phong trào giáo hội – như các dự án về việc giáo dục, về việc từ thiện, vân vân …. – bị biến mất đi, để lại một “lỗ hỏng đen” thật lớn trong dãi ngân hà có tính văn hóa xã hội và trong Giáo Hội được?

Anthony Lê

Trích từ: http://vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=55842


Tuyên cáo của Tổng Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Việt Nam


TUYÊN CÁO

Đại Hội Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam kỳ thứ 16 tổ chức tại San Jose, California, trong hai ngày 5 và 6 tháng 7, năm 2008, với sự tham gia của các Liên Hội Âu Châu, Liên Hội Úc Châu, các Hội tại Hoa Kỳ, và đại diện 31 khóa trên toàn thế giới.

Sau hai ngày hội thảo, Đại Hội kỳ thứ 16 long trọng tuyên cáo:

  • Xét rằng: Sau 63 năm du nhập tà thuyết Cộng Sản, đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây bao tang thương cho dân tộc Việt Nam, đưa đất nước Việt Nam từ một quốc gia hùng mạnh vào bậc nhất Đông Nam Á trở thành một nước nghèo nàn và lạc hậu.

  • Xét rằng: Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang tiếp tục dâng đất và biển cho ngoại bang Trung Cộng, đi ngược truyền thống bảo toàn lãnh thổ và chống ngoại xâm của dân tộc.

  • Xét rằng: Hơn 80 triệu đồng bào quốc nội đang sống dưới sự thống trị độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam , không tự do tôn giáo, không tự do dân chủ và nhân quyền.

  • Xét rằng: Tập thể cựu Sinh Viên Sĩ Quan xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam quy tụ những thanh niên mang hoài bão phục vụ quốc gia dân tộc, luôn nuôi ý chí quang phục quê hương đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân.
QUYẾT ĐỊNH:

  • Thứ nhất: Cương quyết giữ vững lập trường Quốc Gia Dân Tộc. Không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản và không hoà hợp hoà giải với đảng Cộng Sản Việt Nam .

  • Thứ hai: Tiếp tục nỗ lực yểm trợ các phong trào, tổ chức đấu tranh cho tự do, dân chủ, tôn giáo và nhân quyền tại quốc nội.

  • Thứ ba: Hợp tác với các cộng đồng, tổ chức, hội đoàn quốc gia chân chính của người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại để tiếp tay với đồng bào trong nước giải thể chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam.

  • Thứ tư: Hướng dẫn và khuyến khích giới trẻ, hậu duệ Võ Bị tại Hải Ngoại, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam .
Làm tại San Jose , ngày 6 tháng 7, năm 2008
Đại Hội Đồng
Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Kỳ thứ 16


Lời Cảm Tạ Phân Ưu


Lời Cảm Tạ Phân Ưu

Tạ người tiễn bước chân đi
nẻo về cõi Phật cũng thì cứu Nhân

Chúng tôi đã nhận được lời Phân Ưu của chư vị nhân sĩ, trí thức, lãnh đạo các tôn giáo, đoàn thể, đảng phái và đồng bào các giới. Chúng tôi xúc động và đã tức thì chuyển về Hội Đồng Lưỡng Viện đang có mặt tại Tu viện Nguyên Thiều. Trong thời gian lễ tang bối rối, Hội Đồng Lưỡng Viện chưa thể trực tiếp hồi đáp cảm tạ chư liệt vị.

Vậy thay mặt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tôi xin trân trọng tri ân sự nhớ tưởng và nguyện cầu của chư liệt vị đối với Đức Đệ Tứ Tăng Thống của Giáo hội chúng tôi.

Võ Văn Ái
Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Dưới đây là nguyên văn lời cảm tạ Phân Ưu:

Nga, Mỹ hay Tầu, (Việt Gian Cộng Sản) Chúng Nó Cũng Vu Vi

Lời Nói Đầu: Bài này được viết theo thể yêu cầu của nhà báo Việt Thường, vì hiện nay nhà báo Việt Thường đang tịnh dưỡng bệnh cho nên chúng tôi buột phải ra mặt để giúp cho ông Việt Thường một tay, cho đến khi nào nhà báo Việt Thường trở lại và có những bài nói chuyện mới gởi đến cho quý đọc giả cũng như thính giả khắp năm châu, thì lúc đó chúng tôi xin trở về và tiếp tục những công việc chúng tôi đã và đang làm dang dỡ trong công cuộc phục hưng phục hoạt đất nước.

Hy vọng loạt bài viết này của Triệu Lan gởi đến quý độc giả là phản ảnh ý tưởng cũng như những buổi nói chuyện của nhà báo Việt Thường đã chỉ giáo cho, và sự góp tay bé nhỏ này trong công cuộc đấu tranh chung sẽ cống hiến cho độc giả cũng như thính giả có cái nhìn rộng hơn và nhất là các bạn trẻ chưa có kinh nghiệm gì về bọn Việt Gian Cộng sản, thì đây cũng là một trong muôn ngàn bài học mà các bạn cũng cần lưu tâm. Vì “người Việt tri âm hãy lặng ngắm Quốc Hoa Việt, chúng ta mới biết được rõ ràng là tri âm ngữ với tri âm hoa”. Vì vậy trong công cuộc đấu tranh đòi hỏi chúng ta phải hiểu và biết để: “sống sâu sắc, sống triệt để, sống sáng quắc, sống bộc liệt, sống oai hùng”.

Triệu Lan.

***

Nga, Mỹ hay Tầu, (Việt Gian Cộng sản) Chúng Nó Cũng Vu Vi

Ta có thể ước lượng sau chuyến đi của tên Nguyễn Tấn Dũng đến Bạch Ốc thì tại Hà Nội một số nhân sự Cộng sản người Việt sẽ bị Bắc Kinh loại bỏ hay thủ tiêu để trám vào chỗ đó là nhân sự tình báo hay gián điệp của Bắc Kinh mà cái “môi” Hà Nội dù đau cũng phải ngậm tăm. Rõ ràng là bọn Việt Gian Cộng sản Hà Nội thì chúng không bao giờ theo Mỹ hay theo Tây phương cả. Vì “Trung Quốc có thể cung cấp những thứ mà Mỹ (hay Tây phương) không thể cung cấp” (cho Việt Gian Cộng sản Hà Nội). Vậy chỉ có Trung Cộng mới hiểu được bọn Việt Gian Cộng sản muốn gì và cần gì để họ cung cấp. Chúng cần đè đầu cỡi cổ và bóc lột nhân dân Việt Nam vĩnh viễn. Đó cũng là dụng ý của tập đoàn cai trị Bắc Kinh muốn như vậy để chúng dễ bề xâm lăng, xâm lấm đất Việt, chúng hưởng lợi và sai khiến các tên đầy tớ Việt Gian Cộng sản ngay tại Hà Nội. Vì thế chúng ta thấy chỉ có đám cầm quyền ở ngay tại Bắc Kinh mới hoàn toàn ủng hộ bọn Việt Gian Cộng sản, Trung Cộng mới là chủ nhân ông của bọn Việt Gian Cộng sản. Cái “loa” của Bắc Kinh (Thịnh Lập Quân) đã khẳng định nhất là với Hoa Kỳ rằng:

“Nếu có ai đó nghĩ rằng chuyến thăm Mỹ có thế giúp Việt Nam ở vào vị thế cạnh tranh nào đó với Trung Quốc, thì theo tôi, họ đã sai lầm.” .... “Họ (Việt Nam) phải dựa vào Trung Quốc. Họ không hề ngây thơ khi tiếp xúc Hoa Kỳ và biết đây chỉ là chuyện làm ăn.”

Như vậy chính phủ Hoa Kỳ “ngẩn ngơ” khi thấy bọn cán bộ Việt Gian ra mặt, nói chuyện, thương thảo, hứa hẹn cam kết “với Mỹ để chống Tầu”. Ðể rồi những kẻ hứa hẹn đó biến đâu mất, chỉ còn lại những bộ mặt ngu ngốc, ngớ ngẩn, để nói láo, nói lếu cho qua. Chính các giới chức Mỹ cũng trở thành “nói láo” khi báo cáo tốt đẹp về những chuyện thương lượng, cam kết, thỏa thuận của phía Hà Nội. Các doanh gia Mỹ và ngoại quốc thừa hiểu rằng những kẻ ăn tiền và hứa hẹn ngày hôm nay thì ngày mai đã biến mất tiêu, sau đó chúng lại đưa các bộ mặt mới ra, để rồi lại có yêu cầu mới, đòi hỏi mới, luật lệ mới, kiểu ăn tiền hối lộ mới, tham lam tham nhũng cũng mới.

Trong quá khứ cho đến ngày nay, trong giai đoạn “công thần chủ nghĩa”, bọn Việt Gian Cộng sản vì chia quyền và chia lợi không đều, nên chúng ra ức sát phạt lẫn nhau để giành địa vị và quyền lợi. Những nhà ngoại giao Mỹ nhất là ông đại sứ Michalak phải hiểu rằng: nhân dân Việt Nam chúng tôi căm thù bọn Việt Gian Cộng sản thấu xương. Chúng tôi nguyện rằng phải tiêu diệt Cộng sản và hoan hô bất cứ ai giúp chúng tôi tiêu diệt Việt Gian Cộng sản. Việt Gian Cộng sản chúng phải bị tiêu diệt để dân tộc Việt Nam được sống. Chỉ có một dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ, tự do, mới có thể đương đầu với những đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc! Ngày nay thì tình hình chiến lược tại Á Châu có vẻ trở nên thuận lợi tốt đẹp về phía Hoa Kỳ. Nếu những nhà ngoại giao Mỹ ngây thơ bị gạt bỏ qua một bên. Chúng ta nên hiểu rằng vấn đề Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai là vấn đề “chiến lược và chính lược”, không phải vấn đề ngoại giao!

Có thể nói là: Trung Cộng đã thành công chiếm lĩnh Việt Nam từ năm 2000 đến nay, trong nội bộ của Hà Nội hiện nay đa số cán bộ cao cấp nắm những chức vụ then chốt đều là cán bộ người gốc Hoa, như vậy Bắc Kinh không cần dùng quân đội theo đường lối xâm lăng cổ điển. Ta có thể điểm vài tên người gốc Hoa như: Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương, Phạm văn Trà, Nguyễn văn Hưởng, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Dy Niên, Vũ Khoan, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Võ viết Thanh, Trương Mỹ Hoa ..v.v.. những tên này đã ra mặt công khai làm tay sai cho Tầu và nhận mệnh lệnh từ Bắc Kinh. Chính bọn này đã chủ chốt bàn mưu tính kế với bọn gián điệp của Bắc Kinh tiêu diệt các nhân sự Cộng sản người Việt Nam .

Chiến tranh Việt Nam đã làm cho Mỹ tốn khoảng 400 tỷ đôla, số tiền đó đã làm giàu cho các tay tài phiệt của các nước như: Nhật Bản, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Ðài Loan, Nam Hàn, Thái Lan và đẩy họ lên hàng những con rồng, con cọp kinh tế như hiện nay. Chỉ có người dân Việt Nam là ăn bom đạn, chết chóc, rồi tan nhà nát cửa, chia ly chia lìa, mất nước, lưu vong. Đã 34 năm trôi qua và hôm nay đây các chính quyền chính phủ Hoa Kỳ cũng như những “con rồng, con cọp” kinh tế sẽ nói gì với người dân Việt Nam bây giờ và mai sau?!

Tình hình hiện nay buộc người Mỹ phải thay đổi cách tính cũng như suy nghĩ, vậy “cái thế” buộc chính phủ Hoa Kỳ phải có bổn phận giúp nhân dân Việt Nam tiêu diệt bọn Việt Gian Cộng sản. Lương tâm và sự khôn ngoan của lãnh đạo Hoa Kỳ buộc họ phải làm như vậy không thể khác. Mặt khác đứng trên bình diện chiến lược, nhất để làm thăng bằng cán cân quân sự và ổn định chính trị tại Á Châu, thì hơn 80 triệu người dân Việt Nam cũng đã là yếu tố chính! Nhưng cho đến giờ này chưa một ai có đủ uy tín hay biết cách để vận dụng khối nhân lực hùng mạnh này.

Người ta chỉ thấy các nhà ngoại giao “nói chuyện” nhân quyền hay tự do tôn giáo cho hơn 80 triệu người Việt Nam trong nước (người dân Việt trong nước hiện nay họ cần ăn no, cần mặc ấm. Chứ họ chưa cần ăn ngon, mặc đẹp. Cái họ cần là một bát cơm đầy, một khúc cá to, họ cần bọn cầm quyền hiện nay đối xử với họ như là một con người chứ không là một con vật. Người dân Việt hiện nay họ không cần các loại “nhân quyền hay tự do tôn giáo bằng miệng”. Họ cần ăn no, họ cần lật đổ bọn Việt Gian Cộng sản trước đã, thì tự nhiên nhân quyền hay các quyền tự do khác sẽ đến). Muốn nói chuyện “nhân quyền hay tự do tôn giáo” thì trước hết phải có sức mạnh hậu thuẫn, hay lực lượng hùng mạnh đứng đàng sau, thì lời nói mới được người khác lắng nghe (chỉ lắng nghe thôi). Các “chính khách” Việt Gian Cộng sản được Hà Nội cho đi chính thức công khai ra hải ngoại, trên “răng” dưới “môi” đầu đội cái mác Việt Gian to tổ bố, nhưng lại nỏ mồm “đòi” nhân quyền, “đòi” tự do tôn giáọ Chúng chỉ biết đòi nhưng không làm gì cả, thì đúng là một lũ đại bịp đại láo bần cố nông, bịp bợm theo kiểu bần cố nông thì ai có thể tin?. Các tổ chức ngoại vi của chúng ở hải ngoại hiện nay cũng đang ráo riết để thành lập nhiều tổ chức chờ khi tình hình “biến chuyển” thì chúng lại nhảy ra “cướp” quyền lãnh đạo. Việt Gian Cộng sản đã hết thời hết số nên chúng sẽ không còn may mắn như giai đoạn “cướp chính quyền” như năm 1946 nửa. Chúng đã hết thời nên chúng mới đâm ra ngu xuẩn, cái thời “kết đoàn” của chúng cũng đã không còn, nên chúng không thể “đoàn kết để cướp chính quyền”.

Ở hải ngoại sự “phát giác” ra Đỗ Ngọc Yến (đã chết), (nhật báo Người Việt tại miền Nam Calif) hiện nguyên hình là tên Việt Gian tay sai cho Việt Gian Cộng sản, và nhiều tên tay sai khác như: Phạm Thư Đăng (con Phạm Thư Đường), Hồ Văn Xuân Nhi Jr, Nguyễn Xuân Hoàng, Bs Kiều Quang Chẩn và vợ Bs Quỳnh Kiều, Trương Công Cảnh, Ts Nguyễn Trí Hiếu, Võ Kim Sơn, Ô. Bà Lê Văn Chiêu, Bs Nguyễn Xuân Ngãi, Ks Hoàng Cơ Định ..v..v.. và còn nhiều nhiều tên khác nữa. Đúng là đất nước Việt Nam chưa hết vận xui nên ma quỷ Việt Gian Cộng sản cũng như đám tay sai cho chúng quả thật là đông đảo. Bọn này hình như chúng không bao giờ biết nhục là gì, chúng tuy có bằng cấp chuyên môn cao nhưng chúng lại rất ngu dốt về chính trị, và khi được hỏi thì tên nào cũng đều một luận điệu chối quanh là chúng “không làm chính trị”. Chúng đã là một lũ Việt Gian Cộng sản thì chúng không bao giờ có được ý thức về quốc gia dân tộc để “không” làm chính trị, chúng là một bọn tay sai cho bất cứ thế lực nào nuôi chúng sống.

Những tên tay sai nổi tiếng nổi danh nhất như: Bùi Tín (Tín sẽ được “đảng” cho Dương Thu Hương thay thế vì con bài Bùi Tín đã thật sự cháy tiêu), Vũ Thư Hiên, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Cao Kỳ.. v.v.. với sự tiếp tay của đám “truyền thông” tay sai của chúng to mồm thổi ống đu đủ bịp thiên hạ rằng: “chúng là đại diện cho khối người Việt quốc gia hải ngoại”. Chúng quên rằng cuối năm 1990 Bùi Tín “phản tỉnh” đi Pháp, đổi lại đầu năm 1991 “đảng” cũng cho Bs Bùi Duy Tâm, và Gs Stephen Young (có nói ở trên) cũng đến Hà Nội hoạt động với nhóm của giáo sư Nguyễn Đình Huy với tư cách đại diện không chính thức cho Hoa Kỳ và khối người Việt quốc gia. Nhưng tất cả các con bài này đều bị đốt cháy tiêu. Bác sĩ Tâm thì bị Dương Thu Hương tố cáo rằng y thị đã “bị” bác sĩ Tâm rờ L.. trên sông Đà. Mối tình trên sông Đà của “Giáng Hương và Từ Thức Bùi Duy Tâm” ôi! sao bốc “Mùi” đến thế - Giáng đây có nghĩa là Hương “giáng” cho anh Tâm một vố như trời giáng. (Hương hiện nay đang nỏ mồm bên Pháp, có lẽ mai mốt y thị cũng sẽ tố cáo Bùi Tín rờ L.. y thị một lần nữa không chừng, nhưng cũng có thể lắm, vì ai chứ “đồng chí” Bùi Tín thì làm sao “đồng chí” Tín tha cho Dương Thu Hương?.

Những người biết Hương thì họ nói rằng: Hương thuộc loại đại dâm đãng, chính Hương cũng tiết lộ là: “ngày nào vắng đàn ông thì ngày đó em không chịu được”. Hương có cốt cách hơi ngựa nhưng lại chịu làm vợ bé cho Nguyễn Đình Thi chỉ vì Thi viết hộ cho Hương quyển sách thế thôi. Nói “vợ bé” cho oai chứ thật ra tướng ngựa của Hương chỉ đáng làm Nàng Hầu cho Nguyễn Đình Thi thì đúng hơn - Hầu rồi mới lên Thiếp, Thiếp rồi mới lên Thê - Vợ Bé. Sẽ trở lại vấn đề Dương Thu Hương với quyển “thiên đường mù” và ông Đắc Vi vào dịp khác. Nếu Dương Thu Hương biết điều thì nên im mồm của hương lại thì đọc giả khỏi bẩn mắt khi Triệu Lan viết ra sự thật về Dương Thu Hương), giáo sư Young thì bị đám Dương Thông tóm cổ bắt không cho ăn uống 36 giờ liền rồi tống cổ ra khỏi Việt Nam. Về đến Mỹ thì chẳng thấy cơ quan truyền thông hay báo chí nào của Mỹ phỏng vấn Gs Young cả, bí quá Gs young đành phải lên đài Việt Nam Tự Do của cô Đỗ Mùi và Nguyễn Mạnh ở San Jose chửi Hà Nội vài câu cho đỡ tức, Gs Young chửi được vài ngày thì “ai đó” đã ra lệnh dẹp luôn đài Việt Nam Tư Do cho đến ngày nay. Riêng Giáo sư Nguyễn Đình Huy đến nay vẫn còn bị cầm tù. Phải một thời gian sau này người ta mới biết những con bài này đã bị Bắc Kinh ra lệnh phá vỡ. Tình trạng hiện nay cũng vậy. Bắc Kinh đã vươn tay vào trong các hoạt động của các tổ chức ngoại vi của Hà Nội ở tại hải ngoại này. Cho nên “người ta” nghi rằng: các tổ chức đang “trăm hoa đua nở” ở trong các cộng đồng của người Việt khắp nơi trên thế giới đều có bàn tay “lạ hoắc” điều khiển từ Bắc Kinh qua ngã Đài Loan chạy qua Hà Nội qua con bài của Việt Gian Cộng sản. Chúng ta sẽ thấy nhiều tổ chức mới với cái tên Hán “lạ hoắc” nửa Việt nửa Hán sẽ được thành lập trong thời gian tới đây. Những tên Hán “lạ hoắc” này hầu hết đã cư ngụ tại Los Angeles, San Jose và Seattle, nhưng nhiều nhất là vùng Monterey Park Nam California. Những người Hán “lạ hoắc” này đã đóng góp những gì cho Bắc Kinh thì Triệu Lan không biết nên không dám nói ra. Nhưng Triệu Lan có biết năm 1992 nhóm người Hán “lạ hoắc” này ở Monterey Park đã làm một bữa tiệc để khoản đãi cho một số “quan khách” đến dự. Trong số đến dự đó có mặt của Bí thư tỉnh ủy tỉnh Hải Nam, “cựu” bộ trưởng công an Bắc Kinh và một đoàn quan khách gián điệp người Bắc Kinh đã lên đến hơn 900 người. Vậy yếu tố Bắc Kinh là yếu tố quan trong hơn hết.

Nếu nói rằng Bắc Kinh đã và đang tiêu diệt mọi thành phần cốt cán người Việt của Cộng sản Hà Nội trong mấy chục năm qua và cho đến ngày nay, là điều rất đúng. Thời điểm năm 2008 này, những người Việt Quốc Gia Chân Chính chưa lộ diện, chưa thể nói chuyện Tay Ngang với Hoa Kỳ được, thì như vậy yếu tố Bắc Kinh là yếu tố chính cần thiết để tiêu diệt mọi mầm mống “liên minh” giữa Mỹ với Cộng sản Hà Nội. Trên bình diện kế hoạch tiêu diệt Cộng sản Hà Nội, ta không thể không tính đến yếu tố Bắc Kinh. Và làm thế nào để vô hiệu hóa ảnh hưởng và cán bộ Bắc Kinh tại Việt Nam và đồng thời bẻ cái “răng” của Bắc Kinh “sau khi” tiêu diệt Cộng sản Hà Nội, đây là một bài toán “khó giải” cho bất cứ ai tính đến phương pháp tiêu diệt Việt Gian Cộng sản, giải phóng đất nước. Bẻ cái “răng” của Bắc Kinh, để lấy lại độc lập tự chủ cho con người và đất nước Việt Nam. Ngoài ra còn vấn đề tiêu diệt bọn Cộng sản nằm vùng trở lại, có thể lúc đó chúng sẽ nấp dưới chiêu bài tôn giáo, dùng các chùa chiền hay nhà thờ làm căn cứ, địa điểm xuất phát gây rối loạn, tiến tới lật đổ chính quyền quốc gia đang hình thành. Các điều trên chúng tôi nói trước để sau này thế giới không thể viện bất cứ lý do nào để làm áp lực với Việt Nam.

Hiện nay quân đội Mỹ có khoảng 40,000 quân tại Nam Hàn, 45,000 tại Nhật Bản, Ðệ Thất Hạm Ðội khoảng 25,000, Pakistant, Afghanistant ..v.v.. các trục liên minh quân sự của Mỹ Nhật, Nam Hàn, Úc Châu, Thái Lan, Pakistant, Afghanistant và những quan hệ mới được cải thiện với Phi Luật Tân. Như vậy là tình hình trong thời gian tới sẽ không yên, nhưng người Mỹ chưa muốn “con cọp” Trung Cộng thức dậy sớm quá. Ông Bush cũng có thể cũng đã “răn đe” đám Hà Nội lẫn Bắc Kinh khi tên Nguyễn Tấn Dũng đến Bạch Cung là: “các anh đừng có lưu manh đểu giả như trước đây, đừng có hỗn láo mà tính kế đuổi Mỹ ra khỏi Á Châu nhé”, “trên 100 ngàn quân Mỹ ở Thái Bình Dương không phải để chúng tôi ngồi chơi đâu nhé và nếu cần chúng tôi sẽ ra tay trước và dùng Á Châu làm bãi chiến trường đấy nhé”. Chiến tranh, là sự suy nghĩ tính toán lạnh lùng, không có yếu tố nhân đạo hay nhân nhượng. Nên các chiến thuật cũng như chiến lược đều phải nắm thế chủ động và phải làm sao thật bất ngờ, thật nhanh và gọn thì mới có thể toàn thắng

Ngày nay người ta thấy quân đội Việt Gian Cộng sản dự định thành lập nhiều khu kinh tế quân sự tại các vùng gần biên giới Căm Bốt, Lào và Trung Cộng. (Như trên có nói Việt Gian Cộng sản chúng đang “chuyển mình sang kinh tế chiến tranh”, nên đầu năm 2008 chúng tuyên bố là: không xuất cảng gạo, không phải vì chúng sợ dân đói mà chính chúng đang chuẩn bị cho “kinh tế chiến tranh”. Trong khi đó chúng đã nhường các hải đảo như Hoàng sa Trường sa hẳn cho Tàu (độc giả cứ nhìn bản đồ Việt Nam mà Hà Nội vừa mới cho công bố sau chuyến đi của Nguyễn Minh Triết sang Bắc Kinh thì sẽ rõ - bản đồ Việt Nam đã không còn địa danh Hoàng sa và Trường sa cùng hàng trăm hải đảo nhỏ khác nữa. Việt Nam có khoảng 3000 cái đảo lớn nhỏ nếu Triệu Lan không nhầm. Xin đọc giả tự kiểm chứng để biết con số chính xác). Các khu “kinh tế” nói trên sẽ trở thành nơi “đóng quân” cho khoảng 150 đến 250 ngàn binh sĩ của chúng, chúng đã ước lượng sẽ hoàn thành trong vòng 2 năm tới tức là vào năm 2010.

Các tay nghiên cứu về quốc phòng Trung Cộng từ giữa năm 2002, đã bắt đầu cho xây dựng căn cứ hải quân ngầm trong lòng đất ở thành phố (đảo) Tam Á, (Tam Á nằm ở phía Nam đảo Hải Nam). Đảo Tam Á ở phía Nam đảo Hải Nam cũng như các đảo nhỏ khác ngày nay (2008) đã được Trung Cộng cho xây “xong”. Trong một bản báo cáo của các chuyên viên nghiên cứu về Châu Á thì cho rằng:

“khi căn cứ hải quân Tam Á hoàn tất, thì cục diện chiến lược sẽ có thay đổi quan trọng vì cơ sở này sẽ cho phép quân đội Trung Cộng với tay xuống biển Nam và vươn ra Thái Bình Dương. Một phần căn cứ được xây ngầm dưới lòng đất nên gây khó khăn cho việc (Hoa Kỳ) theo dõi.. Tầu ngầm nguyên tử Trung Cộng sẽ có điều kiện tuần tra và tấn công từ những vị trí khó phát hiện nẵm sâu dưới lòng biển ngoài khơi Hải Nam. Nếu Bắc Kinh phát triển được khả năng tác chiến cần thiết.”

“Hiện nay người ta chưa rõ là bao nhiêu trong số 5 chiếc tầu ngầm nguyên tử của Trung Cộng sẽ đặt bản doanh tại đảo Tam Á. Các hoạt động xây dựng hiện nay chứng tỏ rằng Tam Á sẽ trở thành một căn cứ quân sự trọng yếu với nhiều tác động trên cán cân quân sự trong khu vực. Trung Cộng có thể lưu trữ tại đấy một phần đáng kể các loại hỏa tiễn hạt nhân có thể phóng đi từ tầu ngầm.”

“Các loại tiềm thủy đỉnh nguyên tử chiến lược hiện đại nhất của Trung Cộng hiện chưa hoàn toàn có khả năng tác chiến, nhưng khi điều đó xẩy ra thì mỗi chiếc có thể mang theo 12 hỏa tiễn đạn đạo bắn đi từ dưới biển. Loại tầu ngầm này còn có uy lực mạnh mẽ hơn nữa nếu Trung Cộng thành công trong việc trang bị nhiều đầu đạn hạt nhân cho mỗi hỏa tiễn.”

“Một tiềm thủy đỉnh loại 094 của Trung Cộng đã có mặt ở căn cứ Tam Á vào cuối năm ngoái, điều này khiến cho chúng ta có thể suy đoán rằng căn cứ này sẽ là bản doanh của các loại tầu ngầm nguyên tử có khả năng phóng đi các loại hoả tiễn liên lục địa. Tiềm thủy đỉnh nguyên tử loại 094 thuộc thế hệ thứ hai cũng là phương tiện vũ khí có sức công phá mạnh nhất của Hải quân Trung Cộng hiện nay.” Cũng theo bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thì từ nay đến năm 2010, sẽ có thêm 5 chiếc tầu ngầm loại 094 đi vào hoạt động.”

Một nhà nghiên cứu chiến lược Á Châu khác là Richard D. Fisher Jr đã viết trên tờ Jane’s Intelligence Review hôm 15/04/2008 thì cho rằng: “việc Bắc Kinh tăng cường tiềm lực Hải quân ở vùng duyên hải phiá Nam, nằm trong một chính sách có từ hàng chục năm nay, nhằm áp đặt chủ quyền Trung Cộng trên phần lớn khu vực biển Đông, đồng thời kiểm soát các tuyến lưu thông hải hành đi qua eo biển Malacca, nó có giá trị thiết yếu không chỉ cho Trung Cộng mà còn cho các nước Đông Á khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan”.

“Tam Á là một căn cứ quan trọng có thể dùng cho loại tầu ngầm nguyên tử 094 thuộc thế hệ mới của Trung Cộng có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Tháng 12/2007, Hải quân Trung Cộng đã đưa chiếc tiềm thủy đỉnh nguyên tử 094 đầu tiên của họ về căn cứ này. Hàng không mẫu hạm hay các loại tàu khác có khả năng tung lực lượng tác chiến đi xa cũng có thể đặt bản doanh tại Tam Á. Và việc xây dựng căn cứ hải quân ở Hải Nam tiến hành song song với xu hướng Trung Cộng bành trướng về mặt quân sự tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.”

Sự xây dựng căn cứ hải quân Tam Á ở Hải Nam, mặc nhiên giúp quân đội Trung Cộng xuống sát vùng biển Đông Nam. Hơn nữa, khi được thiết kế thành một hải cảng dùng cho hàng không mẫu hạm hay các phương tiện có thể tung quân đông đảo và nhanh chóng đến các chiến trường xa xôi, căn cứ này sẽ rất lợi hại trong chiến lược hướng Nam tiến của Bắc Kinh. Điều này đã là một mối đe dọa tiềm tàng cho các nước Đông Á khác, đặc biệt là các nước đang có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh tại vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: Philipines, Malaysia, Brunei, Đài Loan và lẽ dĩ nhiên đó là phần lãnh hải của Việt Nam. Điều này, theo giáo sư Thayer thuộc học viện nghiên cứu quốc phòng Úc, ông cho rằng:

“Việc xây cất các cầu tầu và bến cảng cho thấy là căn cứ hải quân Tam Á sẽ có khả năng tiếp nhận các loại tàu lớn kể cả các chiến hạm và hàng không mẫu hạm. Công trình xây dựng căn cứ ở đảo Hải Nam được Trung Cộng tiến hành song song với công việc xây dựng sân bay trên đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa, củng cố các cơ sở đã đặt trên đảo “Chữ Thập” (Fiery Cross Reef) cũng như duy trì chiến hạm ở khu vực đảo đá “Vành Khăn” (Mischief Reef). Cả hai đảo này đều thuộc Trường Sa.”

“Qua các công việc kể trên, Trung Cộng sẽ tăng cường khả năng trợ lực cho các đòi hỏi chủ quyền của họ tại biển Đông, cũng như bảo vệ các tuyến hàng hải thiết yếu xuyên qua eo biển Malacca và Singapore. Một khối lượng năng lượng lớn mà Trung Cộng nhập về đi qua ngã này. Cũng như vậy, Trung Cộng cón có khả năng đe dọa các tuyến hàng hải thiết yếu đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, Các nước này cũng bị lệ thuộc vào các con đường biển đó. Ngoài ra, với căn cứ Tam Á, Trung Cộng sẽ có năng lực tung các đạo quân viễn chinh xuống vùng biển Đông, Đông Nam và thu ngắn đáng kể các tuyến tiếp tế hậu cần. Hải quân Trung Cộng được hiện đại hóa là một thách thức lớn và là một mối đe dọa tiềm tàng cho mọi quốc gia Đông Nam Á.”

Năm 1974 Hải quân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã có những cuộc giao chiến ác liệt với hải quân Trung Cộng, tiếp đó miền Nam mất vào năm 1975. Vào cuối thập niên 90, Bắc Kinh đã cho xây tại đấy một phi đạo dài 2600 mét, có khả năng tiếp nhận tạm thời mọi loại chiến đấu cơ hay chiến đấu-oanh tạc cơ của Trung Cộng. Không ảnh mới nhất còn cho thấy đảo Phú Lâm đã có thêm một chiếc cầu tầu dài 350 thước và nhiều ngọn tháp mới có thể dùng để đặt thiết bị viễn thông hay radar. Nhưng theo một tin riêng có được từ PLA thì quân đội nhân dân Trung Cộng (PLA) đã thiết lập một căn cứ tình báo viễn thông trên Đảo Hòn/ Đá Tháp (Rocky).

Hiện hạm đội chủ lực hùng hậu nhất của hải quân Trung Cộng là Hạm đội Nam Hải. Trong tổng số 57 tiềm thủy đỉnh của Hải quân Trung Cộng, thì đã có 32 chiếc tối tân nhất thuộc về Hạm đội Hải Nam. Theo tin mới nhất thì ở Tam Á, Trung Cộng đã xây hầm ngầm trong núi ăn thông ra với biển có thể chứa 20 tiềm thủy đỉnh nguyên tử. Như vậy rõ ràng chiến lược của Trung Cộng là với tay về phía biển Đông của Đông Nam Á cho đến tận đảo Guam và Ấn Độ Dương. Ngoài ra, căn cứ ở đảo Hải Nam có thể tiếp nhận một lúc đến 6 hàng không mẫu hạm.

Hiện nay Trung Cộng đang cho sửa chữa một hàng không mẫu hạm của Nga, nhưng trong 4, 5 năm tới, họ sẽ có 6 chiếc, tức là 2 hạm đội hàng không mẫu hạm nằm trong Hạm đội Nam Hải. Ngoài ra Trung Cộng còn có tầu đổ bộ, khu trục hạm, hạm dò và đặt thủy lôi, và tốc đỉnh hạm để có thể chuyển quân đến những vùng mà Trung Cộng muốn. Với bản doanh đặt ngay đảo Hải Nam, Trung Cộng có thể tung lực lượng ra biển Đông rất nhanh, lại có thêm máy bay để yểm trợ nếu họ muốn chiếm đóng những hòn đảo như ở Trường sa chẳng hạn, hay tại vùng biển Đông, Trung Cộng phải đưa máy bay đến thật nhanh chóng thì mới có thể bảo vệ được lực lượng Thủy quân Lục chiến họ tung ra để chiếm cứ vùng này. Tất cả các lữ đoàn Thủy quân Lục chiến của Trung Cộng có từ 10 đến 12 ngàn người. Tất cả đều nằm trong Hạm Đội Nam Hải.

Trên đây là quân đội Bắc Kinh, còn quân đội Việt Gian Hà Nội thì sao ?. Quân đội Hà Nội kinh doanh mỗi năm lời cả tỷ đôla hay hơn nữa, nhưng tiền đi đâu mất tiêu?. Chắc chắn không phải để mua vũ khí hoặc canh tân quân đội để bẻ “răng” Bắc Kinh. Như vậy thì tiền của quân đội đã bị cán bộ đảng ăn cắp hết, các tiểu đoàn, đại đội bên dưới thì quá đói nên phải dùng quân đội để buôn lậu, vận tải hàng thuốc phiện lậu?. Hoa Kỳ chắc chắn không thể kiểm soát quân đội Cộng sản Hà Nội. Vì Bắc Kinh không bằng lòng như vậy. Như vậy các tướng, tá và đơn vị quân đội chuyên buôn lậu, kinh doanh, ăn cắp, bất lực, được phong chức do vây cánh, phe phái hay đảng tịch đều phải bị loại bỏ. Hoa Kỳ cũng không thể “quân viện” cho Hà Nội vì như vậy thì không bao giờ có lợi. Nếu muốn quân viện cho Hà Nội, chính phủ Mỹ phải xử dụng không dưới 30,000 cố vấn các ngành và khoảng 20 tỷ đôla cho những năm đầu. Ðây là một vấn đề to lớn nên cần phải thương lượng ở cấp lãnh đạo có nhiều Mưu Lược và phải ký kết những hiệp ước thật sự tin tưởng và thành thật. Còn Việt Gian Cộng sản là chúa nói láo, nói dối, lưu manh, ăn cắp, và luôn luôn trở mặt trở cờ thì làm sao có thể tin tưởng chúng thành thật với Hoa Kỳ.?

Một điểm khác là Việt Gian Cộng sản và Bắc Kinh chỉ tính đánh lừa Mỹ quân viện cho Hà Nội rồi sau đó kỹ thuật quân sự lại chạy qua Bắc Kinh thì làm sao. Theo nguyên tắc quân viện của Mỹ, thì trước hết là các chuyên gia, cố vấn Mỹ ở Ngũ Giác Đài phải đến tận Việt Nam để khảo sát, thẩm định tình hình tại chỗ, nghiên cứu và làm báo cáo phúc trình về tình trạng quân đội (bất cứ quân đội nào muốn nhận quân viện) trên mọi mặt. Chỉ riêng một điểm này thôi ta có thể thấy là Hoa Kỳ phải rút lui thật nhanh. Vì Bắc Kinh không bao giờ để yên như vậy.

Đến đây Triệu Lan phải mở một dấu ngoặc mời quý đọc giả trở về thời điểm năm 2000 để độc giả có cái nhìn chính xác hơn, cũng như thẩm định tình hình Việt Nam và Á Châu trong hiện tại hay đọc giả có thể “tiên đoán” Hà Nội và Bắc Kinh, cũng như các “chiến lược gia” của Hà Nội sẽ làm gì trong những ngày tháng tới.

Vào ngày 5 tháng 4, 2000, tại xã Sơn Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình tên Phan văn Khải làm lễ khởi công xây dựng một đoạn xa lộ dài 625 dậm (miles) hay là 1,000 cây số, từ Hà Nội đi xuống Ninh Bình (vùng Xuân Sơn, Áng Sơn) dọc theo con đường đi Kim Tân, Chợ Rịa vào đến KonTum. Ðường này sẽ có 6 làn xe, phí tổn là 380 triệu mỹ kim và xa lộ này sẽ hoàn thành trong vòng 3 năm.

Về phí tổn và phương tiện kỹ thuật thì Việt Gian Cộng sản Hà Nội đã không nói thật. Số tiền 380 triệu đôla và xây trong 3 năm không bao giờ đủ để xây dựng 625 dậm (miles) đường xa lộ với 6 làn xe và khoảng 500 cây cầu, nhiều ngàn ống cống thoát nước, trên vùng rừng núi với hàng triệu trái bom đạn đại bác chưa nổ. Một cây cầu khoảng nửa mile ở vùng Vallejo miền Bắc California xây xong khoảng vài năm trước đã tốn gần nửa tỷ đô la hay là khoảng 500 triệu. Vùng Trường Sơn còn hàng triệu quả bom và đạn đại bác chưa nổ. Dọn dẹp số bom đạn này cần tới hàng chục năm và hàng nhiều tỷ đôla. Dọn bom không dễ như dọn mìn. Riêng vụ sửa soạn xây dựng một “đầu cầu” tại Quảng Bình, người ta tìm thấy 601 quả bom và hàng ngàn đầu đạn chưa nổ. Ông Searcy, một chuyên viên giải trừ các bãi mìn cho biết: “các công nhân thường bị chết khi đào trúng bom đạn chưa nổ”. Tổng số bom Hoa Kỳ ném xuống Việt Nam, phần lớn trong vùng Trường Sơn, gấp 3 lần (hay là khoảng 17 triệu tấn), số bom dùng trong Ðệ Nhị Thế chiến, với nhiều loại bom cực nguy hiểm. Có loại bom trong có “con bọ” (bugs). Những con bọ này khi đánh được hơi người đến gần, chúng làm náo động một bộ phận trong quả bom và làm cho bom tự phát nổ (tương tự như loại đèn chúng ta gắn trước nhà ban đêm hiện nay, khi có bóng người hay thú vật chạy ngang thì chúng tự bật sáng). Một loại đạn đại bác không nổ và trở thành mìn khi chôn sâu xuống đất và chỉ nổ khi người tới gần hoặc được điều khiển cho nổ từ xa bằng một loại máy bấm (remote control). Trong chiến tranh đã có hàng triệu quả bom và đạn đại bác được trút xuống, khoảng 10% không nổ và hiện còn đang nằm “đợi” giờ nổ!. Trước đó tháng 7, 1999, Bắc Kinh công bố là công binh Trung Cộng đã gỡ khoảng 2.3 triệu trái mìn dọc biên giới Hoa Việt. Biên giới phía Bắc hoàn toàn trống trải, rất thuận tiện cho quân đội Trung Quốc tràn sang bất cứ lúc nào!

Biện pháp duy nhất là khoanh vùng Trường Sơn để bảo vệ môi sinh, rừng già, cho rừng mọc trở lại và bảo vệ các loại thú vật hiếm. Vấn đề xây dựng cái gọi là “xa lộ Trường Sơn” hoàn toàn chỉ có mục đích chiến lược cho Trung Cộng. Nếu nhân dân Việt Nam tiêu diệt bọn Việt Gian Cộng sản sớm. Thì một xa lộ kinh tế vòng quanh Ðông Dương có thể được thực hiện dễ dàng, ít tốn kém hơn và có thể bảo vệ vùng rừng núi nhiệt đới (rain forest) Trường Sơn cùng với các thú vật, cây cỏ quý hiếm. Vùng Trường Sơn có thể được dọn sạch sẽ bom đạn để trở thành một thứ “công viên quốc gia” và là một địa điểm du lịch lý tưởng nhất trong vùng rừng núi Đông Dương. Du khách có thể thăm các vùng rừng già nhiệt đới, thú lạ quý hiếm trong không khí mát mẻ cao nguyên. Những bộ tộc Bách Việt sẽ được tự do sinh sống với thiên nhiên. Chính họ sẽ là người bảo vệ thiên nhiên.

Như vậy, “xây dựng” con đường Trương Sơn chỉ là một câu chuyện dùng để hù dọa Hoa Kỳ rằng: Nếu các ông không viện trợ quân sự, thì chúng tôi sẽ xây dựng con đường chiến lược Trường Sơn để Bắc Kinh và Hà Nội chuyển quân tiến đánh Ðông Nam Á Châu. Bọn cán bộ Việt Gian Cộng Sản quá dốt nát không hiểu thời giá xây dựng, nên đã đưa ra con số 380 triệu mỹ kim. Lẽ ra chúng phải nói là 3 tỷ 800 triệu mới đúng. Vì mưa lũ hàng năm, xa lộ Trường Sơn với 6 lằn xe có thể tốn kém như bất cứ xa lộ nào ở Mỹ, hay là trị giá không dưới 5 triệu đôla? một dậm. Và nếu có tiền mà không biết tổ chức thi công, thì xa lộ Trường Sơn cũng sẽ vĩnh viễn chỉ là một giấc mơ hão huyền. Ðiều này chứng tỏ là không có ai nghiên cứu kỹ thuật và giá cả. Tất cả chỉ là nói khơi khơi để bịp để che dấu vấn đề chính. Trong khi đó giới am tường địa hình Trường Sơn cho biết Công binh Trung Cộng đã thi công xây dựng xa lộ Trường Sơn và chỉ có “một lằn xe”, chỉ đủ cho việc vận chuyển hỏa tiễn. Đồng thời, Công binh Trung Cộng cũng được lệnh kiến thiết cấp tốc xa lộ Trường Sơn để sẵn sàng chuyển các đơn vị hỏa tiễn tầm trung bay xa 2,500 cây số, để có thể chế ngự toàn vùng Ðông Nam Á và Úc Châu, và các dàn hỏa tiễn phòng không “địa đối không”. Nhiều đơn vị công binh khác cũng đã tới vùng Thái Nguyên để xây cất những doanh trại cho khoảng 3 sư đoàn dã chiến Trung Cộng hay là khoảng 120,000 quân trấn đóng. Ðoàn quân này sẽ chế ngự Hà Nội và vùng Bắc Việt mà không cần phải sống chung lẫn lộn với dân Việt, để tránh va chạm, sô sát. Trong khi đó một toán thăm dò địa hình khác đã đi thăm vùng Phả Lại và dọc bờ sông Bạch Ðằng để tìm chỗ đóng quân bảo vệ con đường huyết mạch chuyển vận lương thực cho cánh quân trấn đóng Thái Nguyên và vùng địa đầu xa lộ Trường Sơn.

Như đã nói ở trên đường Trường Sơn gặp nhiều trở ngại vì còn quá nhiều bom đạn của Mỹ ném xuống trước kia chưa nổ. Riêng vấn đề dọn dẹp số bom đạn này cũng phải mất nhiều năm và có thể tốn đến hàng trăm tỷ đô la. (Triệu Lan đã bỏ ra một thời gian dài tìm hiểu và cuối cùng đã tìm ra được một phương pháp “dọn dẹp” các loại bom, đạn này mà không phải tốn nhiều thời gian cũng như tiền bạc. Các chuyên viên nghiên cứu giải trừ mìn bẫy cũng đã hoàn toàn đồng ý với phương pháp này. Cũng như lối kiến trúc “công viên quốc gia” có thể để lại cho nhiều đời sau mà không tốn nhiều nhân lực cũng như tiền bạc để bảo trì, nhưng bây giờ chưa tiện nói ra). Chiến lược của Trung Cộng là để cho Mỹ ký kết cho thật nhiều hiệp ước và viện trợ cho Cộng sản Hà Nội, nhưng Hà Nội cũng chỉ là bù nhìn giữ ngựa cho Bắc Kinh, và người Mỹ đã nuôi ong tay áo. Tiền viện trợ Mỹ hay của IMF cũng như các nguồn lợi khác sẽ nhanh chóng trở thành tiền tăng cường sức mạnh cho Việt Gian Cộng sản và các công trình xây dựng kia cũng chính là các căn cứ phòng thủ quân sự, dưới sự kiểm soát chỉ huy của Bắc Kinh. Và người Mỹ cũng hiểu rằng khi Hà Nội đủ mạnh thì vấn đề phản Mỹ đi với Bắc Kinh là chuyện tất nhiên.

Một cái đểu nữa của bọn Tầu Cộng Bắc Kinh là chúng chẳng thèm ra mặt công khai chiếm đóng trên lãnh thổ Việt Nam dù chúng đã chiếm xong đất nước Việt Nam qua bọn Việt Gian Cộng sản tay sai cho Bắc Kinh. Nếu chúng ra mặt thì có thể sẽ gây cuộc khủng hoảng, xáo trộn ngay trong đảng Cộng sản Hà Nội với đa số người Việt với hàng triệu công an, bộ đội cũng đều là người Việt. Nếu tất cả những người Việt hiện nay là đảng viên, công an, bộ đội của Cộng sản đều biết rõ là Trung Cộng đang chiếm đóng Việt Nam và Bắc Kinh đang dùng người Tầu gốc Tầu để thay thế các nhân sự người Việt, thì có lẽ là Bắc Kinh khó có thể kiểm soát được tình hình rối loạn. Nhưng hiện nay thật sự có lẽ Hà Nội không còn người giỏi, cũng như không có thực lực và cũng không còn ai để đỡ đầu cho Hà Nội nửa, bọn chóp bu thì đang làm tôi tớ cho Bắc Kinh thì làm sao còn chủ quyền để nói chuyện hay “thảo luận” với bất cứ ai. Mấy chục năm qua chưa thấy có một nhân sự Cộng sản Hà Nội nào có đủ bản lãnh hay trí khôn để nói chuyện tay đôi với người Mỹ hay có thể làm cho người Mỹ phải nể phục, cho nên người Mỹ khi họ viện trợ cho Việt Nam thì họ cũng suy nghĩ rằng các quyền lợi này phải để dành cho hơn 80 triệu người Việt Nam chứ không phải cho mấy tên Cộng sản Hà Nội hay các tên dân chủ Cuội chỉ biết nói láo và bịp bợm. Dành viện trợ cho dân nghèo Việt Nam người Mỹ vừa được ơn, vừa được thành trì hơn 80 triệu người khổng lồ sẽ thật sự ngăn chận không để cho Trung Cộng tiến xuống phía Nam. Người Việt quốc gia hay là hơn 80 triệu người trong nước và ở hải ngoại hiện nay là một sức mạnh nhưng khá lỏng lẻo vì “không có” lãnh đạo và vì khá lỏng lẻo như vậy nên đảng Việt Gian Cộng sản hay bất cứ một tổ chức “chính trị” nào, cũng như các tổ chức kháng chiến ma, chính phủ bịp đều không qui tụ được họ. Thực tế chính trị và chiến lược hiện nay là “Ai?” có thể lãnh đạo hay vận dụng hơn 80 triệu người này, hay được hơn 80 triệu người Việt hiện nay tín nhiệm và tin tưởng để xứng đáng làm lãnh tụ của họ thì may ra mới có thể giải quyết được cái thế bí chiến lược hiện nay.

Thủ đoạn của Bắc Kinh tiêu diệt những thành phần Cộng sản người Việt rất khéo để nắm giữ Việt Nam chặt chẽ trong tay họ bằng chính trị, khủng bố sát nhân và gián điệp. Ðội ngũ gián điệp của Bắc Kinh ở Việt Nam lên tới 100,000 người. Họ lẫn lộn trong đủ mọi cơ quan đầu não trong trung ương đảng, quốc hội đảng Cộng sản. Không mấy người ngờ rằng trong trung ương đảng Cộng sản Việt Gian và Quốc Hội, quân đội đều có các ủy viên thường trực, đại biểu quốc hội bọn cố vấn là người Tầu 100%. Ở vòng ngoài có cán bộ người Việt gốc Hoa và người Hán Bắc Kinh nói sõi tiếng Việt. Do đó “không ai” có thể thay thế hay lật đổ chế độ Cộng sản dễ dàng vì tai mắt, tay chân của Bắc Kinh ở khắp mọi nơi.

Vấn đề rất khó có thể đoán là tình hình hiện nay không phải là loại chiến tranh “nóng hay lạnh” mà là loại chiến tranh toàn diện cộng với chiến tranh cục bộ nên không có kiểu tuyên chiến công khai và có lẽ cũng không có nước nào dại dột công khai tuyên chiến với Hoa Kỳ, vì đó chỉ là hành động tự sát hay tự hủy diệt chính mình. Người Mỹ họ cũng biết như vậy nên họ cần phải có một sách lược uyển chuyển như thế nào đó để đạt đến chiến thắng mà không cần phải đổ thật nhiều máu. Hơn nửa cuộc chiến tranh lần này không có tuyên chiến nên không cần phải dàn quân ra trận, cuộc chiến tranh kỳ này hoàn toàn lạ lùng đối với nhiều chiến lược gia trên thế giới, vì chưa từng xảy ra trong lịch sử. Trung Cộng thì không còn người giỏi nên chẳng bao giờ Bắc Kinh có thể ước lượng được. Người Tầu xưa nay ưa dùng chiến thuật xâm lăng theo kiểu “tầm ăn dâu” hay là “vết dầu loang”, các kế sách này vừa chậm và vừa khó có thể thi hành hữu hiệu. Người Tầu chỉ thích dùng các mưu mẹo tiểu xảo, mà có người gọi đó là loại “chiến thuật láo cá” nên họ khó có thể đối phó với tình hình phức tạp như hiện nay. Sở trường của Bắc Kinh là ưa chơi trò tiểu nhân, đánh những đòn ngầm, lén lút, ném đá nhưng không biết dấu tay.

Ngày nay vấn đề Hà Nội và Bắc Kinh buộc phải ra mặt để trực diện với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ phải hiểu rằng để có thể thực hiện được những gì họ muốn cho nước họ và toàn thể thế giới. Nếu Hoa Kỳ thất bại chiến thuật một lần nửa trên phần đất Đông Dương thì sẽ kéo theo sự thất bại trên nhiều mặt trận khác nữa và có thể chịu thua Bắc Kinh. Hiện nay thì Hoa Kỳ và Trung Cộng hình như không thể lùi bước được nữa, những người biết chuyện đứng xem thì hồi hộp gần như nín thở, không mấy người Việt Nam có thể hiểu rằng một màn đấu súng khá rùng rợn giữa Hoa Kỳ và Bắc Kinh đã sắp đến hồi kết thúc “tiên hạ thủ vi cường” kẻ thắng trận luôn luôn là kẻ bắn nhanh và trúng đích. Nhưng quốc gia và dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu, đất nước Việt Nam chúng ta rồi sẽ như thế nào?. Đây là một câu hỏi đang chờ người lãnh đạo Việt Nam vẫn còn trong bóng tối.

Triệu Lan


Saturday, July 12, 2008

Đồng Bào - Đồng Chí - Đồng Đô

Tôn Nữ Hoàng Hoa

Dương Thu Hương
Khi bức thư của bà Dương Thu Hương gởi ra đúng kế hoạch và thời gian của Việt Gian CS Nguyễn Tấn Dũng và phái đoàn đến Mỹ. Tưởng rằng với "uy tín" và trên danh nghĩa "phản ttỉnh cuội" của bà ta có thể điều hướng được sự suy nghĩ của Tập Thể Người Việt Tỵ Nạn CS ở Hải ngoại . Nhưng than ơi! cũng vì lá thư oan trái đó mà Cộng Đồng Hải Ngoại đã nhận diện được cái bản chất CS của DTH qua tấm vải voan phản tỉnh che hở hang trên bản chất này.

Tuy nhiên cũng còn có một số người vẫn đồng ý với DTH cho rằng Cộng Đồng Hải Ngoại (CĐHN) đang sinh hoạt trong tình trạng salon và bát nháo.

Vậy chúng ta thử tìm hiểu CĐHN có sinh hoạt bát nháo không và nguyên nhân nào mà CĐHN bị chụp cho hai chữ BÁT NHÁO.

Cách đây không lâu chúng tôi đã có trình bày về 3 lần lừa bịp của CSVN với dân tộc VN.

Thật ra khi những người VN trong Tập Thể Người Việt Tỵ Nạn CS tại Hải ngoại phải cầm bút hôm nay, không phải phần đông muốn xuất hiện như những khuôn mặt Đảng phái để bành trướng ảnh hưởng chính trị trên các Diễn Đàn. Họ chỉ muốn xuất hiện để phản biện lại những kế hoạch lừa bịp của CSVN đang muốn thôn tính luôn thành trì chống Cộng ở hải ngoại hầu củng cố mạnh mẽ chiến lược Đảng CS tại VN.

Ở đây những Người Tỵ nạn CS cùng có chung một quá khứ trong quá trình đấu tranh chống CSVN. Như cá nhân chúng tôi bao nhiêu năm qua như một sinh vật đam mê trong một lý tưởng mênh mang trên công tác xây dựng Cộng Đồng. Trên thiển ý của chúng tôi khi thành lập và sự sinh hoạt cuả Cộng Đồng hôm nay sẽ là những trang sử mai sau cho hậu thế trên công cuộc tiếp tục cuộc chiến Quốc Cộng dở dang tại hải ngoại.

Chúng tôi cầm bút và đã kiên trì đấu tranh chống Việt Gian CS bằng chính tấm lòng đơn sơ thấm đượm tình tự dân tộc chứ không phải vì bị giáo huấn hay tẩy não bằng một chủ nghĩa ngoại lai. Cũng như những Người Lính VNCH ngày xưa họ nhận lãnh trách nhiệm chống giặc xâm lăng CS từ tấm lòng đơn sơ thấm đượm tình tự dân tộc đó chứ họ không cầm súng vì bị tẩy não hay bị giáo huấn như lính Bộ Đội của CS như những tên du kích khủng bố ngày nào.

Chính vì lính Bộ Đội và Du Kích bị tẩy não trên chủ thuyết ngoại lai mà đã đồng lõa với CSVN qua những trò lừa phỉnh.

1. Giai Đoạn lừa bịp 1945-1975: Thời kỳ của Đồng Bào:

Khỏi cần dông dài chúng ta ai cũng biết trong thời kỳ 1945 CSVN đã lừa bịp dân tộc VN qua chiêu bài yêu nước yêu dân kháng chiến chống Pháp. Nhưng khi Mặt Trận Chống Pháp hoàn thành thì những khuôn mặt kháng chiến vì yêu dân yêu đồng bào đó đã trở về để dọn dẹp sạch sẽ đất nước VN hầu dàn dựng một xã hội chủ nghĩa ngoại lại trên đất nước VN đã có truyền thống đạo đức dân tộc.

Chính vì sự tẩy não một chủ nghĩa ngoại lai vào một dân tộc đang thấm nhuần một nền nhân bản vời vợi do đó đã có không biết bao nhiêu máu, nước mắt và xương cốt của đồng bào VN đã bị thảm sát tàn ác trong cuộc tẩy não này của CSVN.

Trang sử VN vẫn còn đẫm máu người dân Việt do CS gây ra.

2. Giai Đoạn lừa bịp 1960-1975: Thời kỳ cuả Đồng chí:

Để đáp ứng đòi hỏi của quan thầy Nga Sô. CSVN đã phát động một chiến dịch " Giải Phóng Miền Nam ". Bắt đầu năm 1960 một số người miền Nam đi tập kết ra Bắc được trở về với mục đích tạo nên một ấn tượng "tự phát" tại miền Nam.

Thành phần tập kết miền Bắc trở về có công tác làm xáo trộn xã hội miền Nam. Rồi cũng chính từ thành phần này đã tạo ra những sự việc chống đối, xách nhiễu chính quyền miền Nam, qua sự ẩn mặt của đảng CSVN.

Từ những thành phần tự phát đó, Đảng CS Hà Nội lại đẻ thêm ra Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam đi từ sự cấu kết của những tên trí thức CS ở Pháp và Châu Âu, móc nối với một số người trí thức miền Nam và những tên Tập kết từ miền Bắc trở về tạo ra Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. CS Hà Nội xử dụng người miền Nam trong tổ chức này để làm chiêu bài che đậy sự xâm lăng và bành trướng chủ nghĩa CS xuống miền Nam .

3.Giai Đoạn Đổi Mới: Đầu tư và phát triển: Thời kỳ của Đồng Đô

Sau khi chiếm Nam VN, CSVN đã không có đủ khả năng để điều hướng một quốc gia ngoài bản chất khủng bố và độc tài. Do đó khi CS Bắc Việt vào Nam đã sững sờ trước một xã hội văn minh dù cho đang ở trong thời kỳ chiến tranh - cũng như đã luống cuống trước kiến thức của người dân Nam VN.

CSVN sở trường về tuyên truyền và lừa bịp nhưng khi trực diện với bản chất đơn thuần mộc mạc nhưng cương quyết của nông dân Nam VN, CSVN đã phải lùi bước. Đaị Hội kỳ 6 cuả Đảng CSVN đã nói lên sự thất bại đó và đã đưa ra những quyết định quan trọng để cứu Đảng. Đó là chiêu bài Đổi Mới mà nói nôm na là Chiêu bài Đồng Đô.

Kế sách Đổi Mới và Cởi trói là chiêu bài lừa bịp thế giới và Tập Thể Người Việt tỵ nạn CS tại Hải ngoại. (TTNVTNCSHN)

Trước lập trường đấu tranh chống CS cuả TTNVTNCSHN vô cùng vững chắc và khí thế mỗi ngày một lên cao đã làm cho CSVN thất bại trên con đường góp mặt vào sự tiến hoá của Thế Giới.

Nghị quyết 36 ra đời van xin người Việt tỵ nạn CS quên mối thù xưa hãy trở về xây dựng quê hương sau khi bị chúng phá nát từ truyền thống đạo đức xã hội cho đến văn hoá của con người.

Van xin hoài cũng không đạt được ý nguyện CSVN bèn phải đẩy mạnh vào chiêu bài kiều vận để phân hoá TTNVTNCSHN.

Sự phân hoá này CSVN cho những tên CS nằm vùng đội lốt người Quốc Gia tung hứng qua mặt trận truyền thông hay ở từng địa phương có đông đúc người Việt sinh sống.

Sau kế hoạch phân chia các tổ chức Cộng Đồng Hội Đoàn Đoàn thể chính trị ra làm hai theo kiểu qua phân cuả CS. Chúng bèn thổi vào TTNVTNCSHN những đề tài cố tạo nên sự thảo luận để từ đó gây phân hoá giữa những người Quốc Gia qua từng chính kiến, Văn hóa, Nghệ thuật Giao lưu đến tôn giáo Phât giáo và Công Giáo.

Vở tuồng này đi từng giai đoạn có kế sách và có những tên tay sai CS nằm vùng tung hứng theo nhu cầu cần thiết.

Nhấp nhô trên chiêu bài phân hoá này. CSVN đưa ra hai thành phần CS bảo thủ và CS cấp tiến. Theo chúng CS bảo thủ thì chỉ biết lo quyền lợi cá nhân và Đảng chứ không lo cho dân tộc VN. Đại để đại diện nhóm bảo thủ là Nông Đức Mạnh Tổng Bí Thư của Đảng CSVN.

Còn Cộng sản cấp tiến vốn đặt quyền lợi dân tộc lên trên mọi toan tính cá nhân và phe nhóm. Như mới đây bọn "tự phát" đã tung hứng qua cái chết cuả Võ văn Kiệt và qua vai trò của Việt gian CS Nguyễn Tấn Dũng

Chính sự tung hứng này đã làm một số trong chúng ta tin tưởng rằng CSVN phe cấp tiến sẽ thay đổi cho dân tộc VN có tự do dân chủ. Chính vì đó đã tạo ra sự phân hoá trong trong tập thể tỵ nạn CS của chúng ta. Nếu chúng ta bình tĩnh để suy nghĩ rằng từ Lê Duẩn cho đến Đỗ Mười và ngay cả Võ Văn Kiệt mà gần đây một số tay sai CS tung hứng ca ngợi Võ Văn Kiệt là một nhà CS cấp tiến cho đến Nguyễn Tấn Dũng, tất cả đều mang trong đầu óc của chúng về thắng lợi hoàn toàn và triệt để cuả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Cách Mạng VN đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước thống nhất làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội (bản báo cáo chính trị đã đọc trong Đaị Hội 4 cuả Đảng CSVN).

Theo như vậy thì có CS bảo thủ hay CS cấp tiến chúng vẫn duy trì xã hội chủ nghĩa như chúng đã học tập thấu triệt qua từng đại hội Đảng cuả chúng. Như vậy xã hội chủ nghĩa là hệ quả cuả chủ nghĩa CS. Đã là chủ nghĩa xã hội thì chỉ có một thế giới quan cuả chủ nghĩa Mác-Lênine và một phương pháp để nhắm tới một mục đích là khẳng định vai trò lãnh đạo độc tôn cuả Đảng và ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi chủ nghĩa.

Như vậy mấy ông gọi là CS cấp tiến cũng đồng ý đi đến xã hội chủ nghĩa trên lãnh vực cai trị nhất nguyên thì làm gì mà cho dân tộc tự do dân chủ. Do đó khi đã là CS thì có cấp tiến hay bảo thủ cũng đều là CS đều độc tôn độc đảng do đó không thể nào có nhị nguyên chứ đừng nói đến đa nguyên.

Cũng vì cái bảo thủ và cấp tiến này cũng đã gây phân hoá trong tập thể người tỵ nạn CS

Hết bảo thủ cấp tiến đến phản tỉnh cuội. Chúng ta ai đã từng sống với Việt Minh CS, cho dù chưa sống với chúng đi nữa thì ai ai cũng biết bọn CS đi từ kiểm kê ba đời lý lịch và tẩy não.

Không những ông cố là đảng viên mà bà cố cũng phải là đảng viên. Không những ông nội/ngoại là đảng viên mà bà nội/ngoại cũng phải là đảng viên hay không những bố là đảng viện mà Mẹ cũng phải đảng viên chứ du kích hay hộ lý mà chưa vào đảng viên thì cũng không đưọc. Phải 3 đời như vậy con mới có thể làm công tác phản gián có quyền chửi Đảng, nhưng cấm không được đụng đến tên tội đồ dân tộc Hồ chí Minh.

Do đó chúng ta không mấy ngạc nhiên khi Hoàng Minh Chính, Trần khuê, Hoàng Tiến, Dương Thu Hương phẫn uất chửi bới vung vít khi nghe Cộng Đồng Hải Ngoại kết tội tên tội đồ Hồ Chí Minh. Trong khi đó những người trực diện chống Đảng CS như BS Phạm Hồng Sơn và Lê Chí Quang và hàng hàng lớp lớp thanh thiếu niên khác chống đối Đảng CS đều bị bỏ tù cho đến khi bị đánh đập đến thân tàn ma dại mới được thả ra, rồi còn bị quản thúc chứ làm gì vừa chửi Đảng vừa nhởn nhơ ở hải ngoại. Chỉ có bọn CS nằm vùng mới tung hứng theo công tác lý luận hầu làm phân hoá tập thể chúng ta . Chứ những người đã có kinh nghiệm với CS không ai tin điều đó ngoại trừ họ bị khuynh loát bởi đồng đô.

Ngoài những chiêu bài trên chúng còn đưa ra nhiều kế hoạch khác với mục đích làm phân tán mỏng, phân tán dày chúng ta qua kế hoạch giao lưu Văn nghệ, Văn hoá.

Như chúng ta đã biết đối với đảng CSVN văn nghệ phục vụ chính trị. Đây không phải là một lý luận mà phải được coi như là một cơ bản có khả năng bất khả xâm phạm.

Cơ bản đó là văn nghệ phải phục tùng và phục vụ chính trị đổi mới cuả Đảng. Phải thực hiện những tư tưởng của các nghị quyết do Đảng đề ra dưới một "Đội ngũ" văn nghệ sĩ và những tác phẩm văn nghệ do Đảng chủ trương. Quan trọng hơn là tập thể nghệ sĩ của VC đã bị hàng ngũ hoá theo khuôn mẫu tổ chức hành chánh của Đảng. Ngoài ra CSVN còn đặt nghệ sĩ trong đẳng cấp quyền lực của Đảng với công tác sáng tác nghệ thuật phục vụ kế sách đổi mới cuả Đảng

Qua chiêu bài lừa bịp Đổi Mới, CSVN làm cho người Việt tỵ nạn CS tin tưởng là ở VN người dân đi lại tự do có nghĩa là người dân tự do ra vào nước ngoài. Do đó vấn đề ca sĩ trong nước ra nước ngoài mà bị phản đối thì CS nằm vùng trong vai trò tự phát tung hứng cho rằng chúng ta chống Cộng cực đoan để cho một số người nhẹ dạ dễ tin cho rằng chúng ta chống Cộng khắt khe mà không biết được những ca sĩ ra hải ngoại cũng giống như những nhà phản tỉnh cuội ra hải ngoại là phải trải qua 3 đời kiểm tra lý lịch.

Việt Cộng cho quý vị đi lại tự do bởi chúng có thể kiểm soát được bước chân của quý vị. Thử hỏi tại sao chúng vẫn kiểm duyệt sách báo.?? Đây cũng là một trong vở tuồng bịp Đổi Mới của CSVN.

Sau văn nghệ đến tôn giáo. Hết sư quốc doanh trụ trì chùa chiiền đến tấn công GHPGVNHN làm cho Phật tử không biết đâu ra đâu rồi cũng phân hoá trong tập thể Phật tử từ trong nước ra ở hải ngoại khi thấy sư chống đối sư.

Phân hoá Phật Giáo xong CSVN lại tấn công Công giáo qua hình ảnh của ông Phạm Minh Mẫn trên chiếc áo Đức Hồng Y.

Nói đến vở tuồng Bịp của CSVN qua giai đoạn Đồng Đô mà không nói đến chiêu bài phản tỉnh cuội của đảng viên Đảng CSVN là một điều thiếu sót.

Vở tuồng phản tỉnh cuội của CS đều được phát xuất từ những tên đảng viên trung kiên cốt cán với Đảng. Những tên này có quyền chửi Đảng, có quyền thóa mạ đảng viên nhưng triệt để không được đụng tới "Cha già" đã cõng cái chủ nghĩa vô luân CS này về áp đặt trên đầu trên cổ dân ta.

Tôi nhớ một lần sinh hoạt trên Paltalk nghe ông Trần Khuê ông Hoàng Tiến gạt gẫm chatters về trường hợp của Hồ Chí Minh. Hai ông này bảo rằng cho đến bây giờ chưa ai có thể kết tội của Hồ chí Minh vì lịch sử chưa phán xét.

Gần đây cũng một nhà phản tỉnh cuội nhớn Dương Thu Hương cũng đã lên tiếng binh vực và hằn học chửi bới CĐ Hải ngoại là bát nháo sinh hoạt chính trị salon. Đây chính là tiếng động chuyển cành của con quạ đen trong đêm. Thoát một chốc con quạ qua sự chuyển cành đã gây nên một tiếng động cho dù trong đêm nhưng những thợ săn rành nghề cũng đã xác định được vị trí của loài quạ đen.

Với bao nhiêu tiền bạc đổ ra hải ngoại, biết bao nhiêu kế hoạch phân tán tạo sự sinh hoạt tại hải ngoại đi vào sự bất ổn. lộn xộn nói nôm na là bát nháo để cho đàn quạ đen ở hải ngoại đồng loạt ca bài bát nháo hầu làm cho dân ở trong nước hết hy vọng trong mục tiêu của kỳ vọng tìm lại con gà đẻ trứng vàng mà đảng CS đã ăn cắp từ lâu.

Dưới mắt những người đã sống được trong nền dân chủ tự do họ không nghĩ sự sinh hoạt của Cộng Đồng ở hải ngoại là bát nháo mà đây chính là một cuộc chiến Văn Hoá Vận do CSVN qua vai tuồng Bịp Đổi Mới đã tấn công vào TTNVTNCSHN mà thôi. Trong cuộc chiến tiếp tục này với CS toàn dân từ nam nữ lão ấu đều tham gia do đó CSVN đã thất bại nặng nề trên vấn đề biểu tượng lá cờ Vàng và trên những cuộc biểu dương lực lượng của người VN trên toàn thế giới mỗi một khi Đảng viên của CSVN ra nước ngoài làm hành khất.

Chính sự thất bại này đã làm công tác của các nhà phản tỉnh cuội hụt hẫng. Hụt hẫng là bởi chính họ đã thua sút trước lập trường chống CS mạnh mẽ của Cộng Đồng Hải ngoại rồi ngụy biện trên dạng thức "ly khai" mà trên thực tế chưa bao giờ có tư cách nhập cuộc.

Tiếng động nào dù là tiếng gió vi vu hay tiếng động cành trong đêm của loài chim quạ đều cũng biểu hiệu một sự hồi sinh. Cho dù nhỏ nhoi, cho dù vô nghĩa dấu hiệu hồi sinh cũng là một dấu hiệu toàn vẹn của con người. Một con người được hồi sinh thèm khát tự do và chỉ sống thực cho đời mình bằng hai chữ tự do, nhưng đã khước từ tự do để nhận chịu tù đày thì thiên đường tìm thấy sẽ không là vùng bát ngát trời mây mà chính là trong cõi lòng khô cạn đang quanh quẩn với những chiêu bài đồng bào, đồng chí và đông đô .

Tôn Nữ Hoàng Hoa



Đại Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang

THƯ MỜI
Tham Dự Đại Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
Cố Hoà Thượng HUYỀN Hạ QUANG
Tiếp theo là Hội Thảo về Hiện Tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Kính gửi:

- Quý vị lãnh đạo tinh thần

- Quý vị đại diện các cơ quan truyền thông báo chí

- Quý vị Hội Trưởng các Tổ chức & Đoàn thể

- Quý Đồng hương & Phật tử

Thưa quý liệt vị,

Sự ra đi mới đây, vào ngày 5 tháng 7 (nhằm mồng 3 tháng 6 âm lịch), của Đại Lão Hoà Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, không chỉ là một sự mất mát to lớn đối với Giáo Hội. Là một vị chân tu từ nhỏ, Ngài còn là một gương tranh đấu kiệt hiệt về tự do tôn giáo, không riêng gì đối với các Phật tử VN mà còn đối với hầu hết những người trong chúng ta, bất kể thuộc tôn giáo nào, mà còn quan tâm đến tiền đồ đất nước. Vì vậy, chúng tôi, một nhóm Phật tử trong vùng, nhân dịp Hội Thảo ngày Chủ Nhật 20/7 tới đây xin đứng ra lập Đại Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang Ngài dưới sự chứng minh của Đại Lão Hoà Thượng THÍCH HỘ GIÁC, Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN tại Hoa Kỳ.

Sau Đại Lễ, để hiểu rõ về hiện tình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau ngày ban hành Giáo Chỉ số 9 của Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang nhằm cải tổ Văn phòng II Viện Hóa Đạo trước âm mưu khuynh đảo của những phần tử hợp tác với bạo quyền cộng sản, trân trọng kính mời quý vị đến tham dự:

BUỔI HỘI THẢO

Về Hiện Tình Giáo Hội Phật Giáo VNTN
Dưới sự chứng minh của H.T. Thích Hộ Giác & T.T. Thích Viên Lý

Với phần thuyết trình của:

T.T. Thích Giác Đẳng, Cư sĩ Võ Văn Ái & Nhà văn Ỷ Lan

Vào hồi 1 giờ 30 trưa ngày Chủ Nhật 20 tháng 7 năm 2008

Tại Jewish Community Center
8900 Little River Turnpike, Fairfax, VA 22031

Sự hiện diện của quý liệt vị là sự biểu dương cho tình liên đới trong đại nghĩa dân tộc và giúp Buổi Hội Thảo đạt được thành công, thắng lợi cho Đạo Pháp và chánh nghĩa Dân Tộc.

Ngày 12 tháng 7 năm 2008

TM. Ban Tổ Chức

Ô. Nguyễn Ngọc Bích: (703) 971-9178 - Ô. Lý Văn Phước: (301) 515-7327
Ô. Đoàn Hữu Định: (703) 475-6186 - Ô. Đặng Đình Khiết: (703)931-9799
Bà Lưu Lệ Ngọc: (703) 473-9326 - Ô. Lê Hồng Long: (703) 927-5861
Ô. Đỗ Diễn Nhi: (703) 927-8120 - Ô. Nguyễn Văn Tánh: (646) 258-3340
Ô. Trần Quán Niệm: (917) 952-6396

Thư từ xin gửi về:
HỘI THẢO PHẬT GIÁO, P.O. Box 801, Annandale, VA 22003