Saturday, July 5, 2008

Đức Tăng Thống Huyền Quang GHPGTN Viên Tịch

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE l INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ

Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) l Tel.: Paris (331) 45 98 30 85
Fax: Paris (331) 45 98 32 61 l E-mai: ubcv.ibib@buddhist.com l Web: http://www.queme.net/


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 5.7.2008

Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang đã viên tịch

tại Tu viện Nguyên Thiều lúc 13 giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 2008

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế kính xin khấp báo đến chư Tôn đức Tăng, Ni, dồng bào Phật tử và đồng bào các giới Cáo Bạch sau đây của Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hoá Đạo) Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất:


CÁO BẠCH

Hội đồng Lưỡng viện Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
Môn đồ pháp quyến cùng Tăng chúng Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định

ĐAU BUỒN KHẨN BÁO:
Chư tôn giáo phẩm Hội đồng Viện Tăng thống
Ban chỉ đạo Viện hóa đạo GHPGVNTN
Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ và các Châu lục
Chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni

Cùng toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước.

Đức Đại lão Hòa thượng HUYỀN hạ QUANG, đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(GHPGVNTN); Viện chủ Tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Định. Sau một thời gian lâm bệnh, mặc dầu đã được các y, bác sĩ, Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, Môn đồ pháp quyến tận tình chăm sóc, chữa trị nhưng vì tuổi cao, sức yếu, Đức Tăng thống đã xả báo thân lúc 13 giờ 00 ngày 05 tháng 07 năm 2008 , tức mùng 03 tháng 06 năm Mậu Tý, trụ thế 89 năm, pháp lạp 69.

Lễ nhập Kim quan lúc 08 giờ 00, ngày 06-07-2008 (mùng 04 tháng 06 năm Mậu Tý) tại Tu viện Nguyên Thiều, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Lễ cung nghinh Kim quan nhập Bảo Tháp lúc 07 giờ 00 ngày 11- 07- 2008 (mùng 09 tháng 06 năm Mậu Tý) trong khuôn viên Tu viện Nguyên Thiều.

Thay mặt Hội đồng Lưỡng Viện cùng Môn đồ pháp quyến, chúng tôi trân trọng cáo bạch đến chư tôn giáo phẩm, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước được biết và nguyện cầu giác linh Đức đệ tứ Tăng Thống CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC.

Tu viện Nguyên Thiều, ngày 5.7.2008

    TM Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN
    và Môn Đồ Pháp Quyến
    Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
    GHPGVNTN
    Sa môn Thích Quảng Độ


Sau đây Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin cung cấp bản tiểu sử rút ngắn và sơ bộ của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang. Trong buổi Lễ Thọ tang do Văn phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức trong vài ngày tới đây, chúng tôi sẽ cung cấp Tập Kỷ Yếu về Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, qua đó bản tiểu sử đầy đủ cùng những văn kiện chính yếu mà Đức Tăng thống đã viết ra trong thời gian 33 năm của cuộc vận động dân tộc đòi phục hồi Quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN, và dân chủ, nhân quyền cho quê hương, kèm theo « Bản Tự thuật » do chính Ngài viết ra và gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến.


TIỂU SỬ ĐỨC ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG THÍCH HUYỀN QUANG

Thân thế

Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thế danh Lê Đình Nhàn, sinh ngày 8 tháng 8 Canh Thân, tức 19 tháng 9 năm 1920, tại làng Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, con thứ tư của cụ Lê Vỵ và bà Ngô Thị Tư cùng ở làng Háo Đức.

Thời niên thiếu

Năm 1925-1932: Ngài học chữ Nho tại nhà.

Năm 1932-1935: Ngài thụ giáo với Hòa thượng Vĩnh Khánh, được ban pháp danh Như An, pháp tự Giải Hòa. Thọ sa-di giới năm 1935, thủ khoa trong tập chúng.

Năm 1935-1937: Hòa thượng Vĩnh Khánh viên tịch (30.9.1935), Ngài đầu giáo Hòa thượng Bích Liên và được phú pháp hiệu Huyền Quang, pháp danh Ngọc Tân, pháp tự Tịnh Bạch.

Do tư chất đặc biệt xuất chúng, mà Ngài được đặc cách miễn tuổi để thọ Tam đàn Cụ túc và Bồ tát giới vào năm 17 tuổi (1937) tại giới đàn chùa Hưng Khánh, thuộc quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định, do Hòa thượng Chí Bảo làm Đàn đầu. Kỳ sát hạch này Ngài đậu thủ khoa.

Năm 1938 đến 1945, Sau khi học xong ở Phật học đường Lưỡng Xuyên, tỉnh Trà Vinh, Ngài ra đất Thần kinh Huế tòng học tại Phật học đường Báo Quốc cùng với các Pháp hữu Thiện Hoa, Thiện Hòa, Thiện Siêu, Trí Quang, Thiện Minh, v.v...

Công nghiệp Hoằng hóa lợi sanh

Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc ở Liên khu 5, giữ chức vụ Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5. Do Ngài tổ chức cơ sở Phật giáo quy mô nên bị chính quyền cách mạng lâm thời nghi kỵ và theo dõi.

Đầu năm 1951, Ủy ban Kháng chiến liên khu 5 tuyên bố : “Sinh hoạt Phật giáo phải theo mô thức Hội đoàn”. Ngài lên tiếng phản đối : “Phật giáo chúng tôi là một tôn giáo quy tụ đủ mọi thành phần trí thức, nông dân, nam, phụ, lão, ấu, không thể xem như hội đoàn. Vì phê phán như vậy, ngài bị bắt, bị an trí ở Phù Mỹ, rồi Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, tổng cộng 4 năm trời ! Một tháng trước ngày đình chiến theo Hiệp định Genève (20.7.1954) Ngài được trả tự do.

Năm 1955 đến 1957, Ngài làm Giám đốc Phật Học Đường Trung phần ở chùa Hải Đức, Nhatrang.

Năm 1958 Ngài khai sáng Tu viện Nguyên Thiều, thành lập Phật học viện Nguyên Thiều do Ngài làm Giám viện cho đến ngày nay.

Năm 1958 đến 1962, Ngài giữ chức Phó Hội Trưởng Hội Phật Học Trung Phần kiêm Hội trưởng Hội Phật giáo Thừa thiên - Huế, văn phòng đặt tại chùa Từ Đàm. Sau đó Ngài làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo Bình Định.

Năm 1963 Ngài tham gia cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và yêu sách xóa bỏ Dụ số 10 dưới thời Pháp thuộc liệt Phật giáo vào quy chế Hiệp hội. Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ra đời lãnh đạo cuộc đấu tranh. Uỷ ban do Hòa Thượng Thích Tâm Châu làm Chủ tịch, cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh làm Phó chủ tịch, Ngài làm Tổng thư ký kiêm Trưởng khối Soạn thảo tài liệu đấu tranh và Phổ biến ra toàn quốc.

Vào nửa đêm 20.8.1963, Chính quyền Ngô Đình Diệm tung "Kế hoạch Nước lũ" bố ráp Tăng, Ni trên toàn quốc, tập trung đặc biệt vào hai thành phố Saigon và Huế, Ngài bị bắt cùng với hàng nghìn Tăng Ni. Sau chính biến 1.11.1963, Ngài mới được trả tự do.

Cuộc đấu tranh hoàn tất, Đại hội Phật giáo toàn quốc tổ chức tại Saigon từ 31.12.63 đến 4.1.64, và do Dụ số 10 đã hủy bỏ, nên danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được ra đời, kế tục công cuộc truyền thừa Chánh pháp của "Giáo hội Dân lập" từ xưa và "Tổng hội Phật giáo Việt Nam" trước đây. Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Tổng thư ký Viện Hóa Đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.

Năm 1964, Ngài đi Thái Lan tiếp xúc và liên lạc các chùa Việt ở thủ đô Bangkok đồng thời hành hương các thánh tích, thắng cảnh Phật giáo Thái.

Năm 1970, Ngài đại diện Viện Hóa Đạo tham dự Đại Hội Các Tôn Giáo Thế Giới vì Hòa bình lần thứ nhất tại Nhật Bản. Đại hội này do các tôn giáo lớn như Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo, v.v... chủ trì.

Năm 1971, Ngài đi hành hương Ấn Độ, chiêm bái các Phật tích.

Năm 1972, Ngài sang Genève tham dự Đại Hội Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới ở Thụy Sỹ. Hội Đồng này do Tin Lành giáo Thế giới chủ trì. Đại Hội bàn việc hòa bình cho Việt Nam và cứu trợ nạn nhân chiến tranh.

Năm 1974, Ngài cùng Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh sang thủ đô Bruxelles ở Bỉ dự lần thứ 2 Đại hội các Tôn giáo Thế giới vì Hòa Bình do các tôn giáo lớn như Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo, v.v... chủ trì.

Ngày 27.12.1974, Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kỳ 6 tổ chức tại Saigon cung thỉnh Ngài vào chức vụ Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo.

Sau năm 1975, do chính sách Cộng sản đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chiếm dụng tất cả các cơ sở của Giáo hội, từ chùa viện cho đến các cơ sở giáo dục văn hóa và xã hội từ thiện, khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể để phản đối vào ngày 2.11.1975 tại Thiền viện Dược sư, ấp Tân Long, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Ngài cử Hòa thượng Thích Quảng Độ, Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, dẫn đầu một phái đoàn về Cần Thơ lập hồ sơ. Nhưng toàn bộ hồ sơ gồm các chứng liệu, băng từ ghi 7 lời thỉnh nguyện của Đại đức Thích Huệ Hiền trước khi tự thiêu, hình chụp và phim quay tại hiện trường đều bị công an tịch thu.

Ngày 3.3.1977, nhà nước tiến thêm một bước chiếm dụng Cô Nhi viện Quách Thị Trang ở Saigon, Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng chư tôn đức Tăng, Ni, Phật tử phát động cao trào đòi hỏi Nhà nước cộng sản hoàn trả tài sản của Giáo hội. Cuộc đấu tranh gay go và bị Nhà cầm quyền thẳng tay đàn áp.

Ngày 6.4.1977, Ngài bị bắt và bị biệt giam tại Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh ở Sàigòn cùng với cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Quảng Độ, v.v... Do áp lực quốc tế và sự phản đối của đồng bào Phật tử trong và ngoài nước, nên sau 18 tháng tù giam, ngày 10.12.1978 Nhà cầm quyền cộng sản đưa ngài ra Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử, kêu án 2 năm tù treo và quản chế tại chỗ.

Năm 1978, hai Giải Nobel Hòa bình người Ái Nhĩ Lan là bà Mairead Corrigan và bà Betty Williams viết thư cho Uỷ ban Nobel Hoà bình đề nghị Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình.

Do phản đối Đảng và Nhà nước thiết lập vào cuối năm 1981 một Giáo hội Phật giáo làm công cụ chính trị phục vụ Đảng và chia rẽ nền Phật giáo dân tộc, nên Ngài cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ bị bắt ngày 25.2.1982 và bị trục xuất khỏi thành phố Saigon, đưa Ngài ra quản chế tại chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi. Tại Quảng Ngãi, Ngài nhận lệnh Công an : cấm hành nghề Tôn Giáo, cấm phiên dịch và các nghề nghiệp khác. Tại đây Ngài bị nhà đương quyền quyền đối xử tồi tệ.

Kể từ năm 1990, các Nhóm Ân xá Quốc tế thuộc 5 quốc gia Vương quốc Bỉ, Canada, Pháp, Áo, Hoà Lan và Hoa Kỳ ghi danh Ngài như Người tù vì lương thức để bêng vực bằng cách gửi liên tục hàng chục nghìn bức thư cho nhà cầm quyền Hà Nội để đòi hỏi trả tự do cho Ngài.

Năm 1992, Cố Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đau nặng, sắp ra đi về cõi Phật, nên để lại Di chúc cung thỉnh Ngài vào chức vụ Xử lý Hội đồng Lưỡng viện kiêm Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo, để hướng dẫn việc đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tìm thuận duyên tổ chức Đại hội Giáo hội kỳ VIII.

Ngày 21 tháng 3 Nhâm thân, tức 23.4.1992, Đức Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ. Ngài xin ra Huế dự đám tang, nhưng chính quyền Quảng Ngãi không cho đi. Ngài tuyên bố : “Nếu chính quyền Quảng Ngãi ngăn cấm tôi ra Huế dự tang lễ, tôi sẽ tuyệt thực vô thời hạn, và sẵn sàng cúng dường thân này lên Chư Phật và tạ lỗi với Cố Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu, bởi vì tôi đã không làm tròn nhiệm vụ mà Hòa Thượng giao phó”. Sau hai ngày tuyệt thực, chính quyền đành phải để cho Ngài ra Huế.

Hòa thượng Thích Nhật Liên, Trưởng tử của Môn đồ hiếu quyến Đức Đệ Tam Tăng thống, trao lại cho Ngài ấn tín Giáo hội và Di chúc của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Ngài dâng lời Tác bạch trước kim quan Đức Đệ Tam Tăng thống với lời hứa linh thiêng : "Dầu sẽ có muôn ngàn khó khăn, ngài không bao giờ chồn bước, quyết vận động đòi hỏi Nhà cầm quyền Cộng sản phải để cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý như trước năm 1975".

Ngày 25.6.1992, Ngài viết Yêu sách 9 điểm, dài 9 trang, gửi 6 cơ quan lãnh đạo Nhà nước nói lên thảm trạng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị kỳ thị và đàn áp trong suốt 18 năm ròng rã, tố giác việc tù đày, khủng bố hàng giáo phẩm như Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Quảng Độ, v.v... , tố giác Đảng và Nhà nước dựng lên Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm công cụ chính trị cho Đảng với manh tâm chia rẽ khối Phật giáo dân tộc và tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Yêu sách 9 điểm mở đầu cuộc vận động Giải trừ Pháp nạn.

Ngày 15.11.1992, Ngài viết "Đơn bổ túc Đơn đề ngày 25.6.1002 trình bày các việc liên hệ Mặt trận Tổ quốc". Văn kiện này gửi Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc và đồng kính gửi Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Nước, Thủ tướng và Viện trưởng Tối cao Pháp viện. Ngài nhắc đến các lần ngài bị bắt và bị tố khổ từ những năm 50 tại Liên khu 5 cho đến ngày hôm nay.

Ngày 17.8.1992, từ Hà Nội, Ông Phan Văn Tánh, Trưởng ban Dân vận Trung ương gửi cho các Ban Dân vận, các Tỉnh ủy và Thành ủy một tài liệu "Mật" mang số 125/TUDV "về việc Huyền Quang và số phần tử hoạt động chống đối", nhằm chỉ thị cho Giáo hội Phật giáo Nhà nước tố cáo Ngài, và chỉ thị cho công an địa phương, đặc biệt ở Quảng Ngãi, theo dõi quan hệ trong và ngoài nước của Ngài, kiểm soát và "đấu tranh mạnh mẽ hơn" đối với Ngài.

Ngày 18.8.1992, một tài liệu "Tuyệt mật" mang số 106/PA 15-16 của Bộ Nội vụ đưa ra 5 biện pháp đấu tranh chống Phật giáo : "1. Phân hóa cao hàng ngũ giáo sĩ ; 2. tranh thủ số có xu hướng tiến bộ, lôi kéo số lưng chừng, răn đe những đối tượng có biểu hiện tiêu cực ; 3. đối với số cực đoan chống đối phải cắt đứt chân tay, lấy giáo luật, pháp luật đấu tranh, không cho chúng co cụm chống phá ta ; và 4. thúc đẩy phong trào cách mạng trong vùng giáo, củng cố được nòng cốt, cốt cán của ta đặc biệt trong Tăng tín đồ Phật giáo (mà sau này họ gọi là đặc tình, tình báo làm công tác đặc biệt)". Trọng tâm tài liệu nhắm vào Ngài.

Ngày 4.8.1993, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nêu ra 6 điều kết tội Ngài, đồng thời cấm Ngài không được sử dụng chức vụ Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo, không được sử dụng chùa Hội Phước làm trụ sở Văn phòng Lưu vong Viện Hóa Đạo, và bắt phải giao nộp khuôn dấu Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ngày 20.11.1993, Ngài viết "Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn", với nhận thức quốc nạn chưa giải trừ thì pháp nạn không thể giải quyết. Ngài đưa ra 12 điểm phê phán khách quan về sự bế tắc của tình hình Việt Nam do Nhà nước cộng sản gây ra. Rồi Ngài đề xuất 9 biện pháp trị liệu, kêu gọi Đảng và Nhà nước "Sám hối với người chết trong tinh thần hứa lo cho người sống được sống người", "bỏ điều 4 trên Hiến pháp" và tổ chức "bầu lại Quốc hội với sự tự do tham gia ứng cử của toàn dân không phân biệt chính kiến, đảng phái, tôn giáo dưới sự giám sát của LHQ".

19.10.1998 Giáo sư Abdelfatah Amor, Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm tự do tôn giáo trên thế giới đến Việt Nam điều tra tình hình đàn áp tôn giáo đã yêu cầu gặp Ngài tại Quảng Ngãi nhưng nhà cầm quyền Hà Nội không cho phép.

Ngày 10.5.1998, bốn Giải Nobel Hòa bình gồm có Đức Dalai Lama (Tây Tạng), Bà Mairead Maguire (Ái Nhĩ Lan), Nhà Bác học Francois Jacob (Pháp) và Luật sư José Ramos-Horta (Đông Timor) thành lập "Ủy ban các Nhà lãnh giải Nobel Vận động trả tự do cho Nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ", và viết thư chung vào đúng ngày Phật đản 2542, 10.5.1998, gửi Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Trần Đức Lương và Thủ tướng Phan Văn Khải yêu sách trả tự do cho hai Ngài và hàng giáo phẩm Phật giáo.

Ngày 12.12.1999, ông David Young, Tham tán Chính trị tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội vào Quảng Ngãi vấn an Ngài. Đây là người Tây phương đầu tiên được viếng thăm Ngài và hỏi han tình hình Phật giáo sau 17 năm Ngài bị cấm cố, mở đầu cho những tiếp xúc khác với Tây phương sau này.

Ngày 21.4.2000, Ngài viết bức thư dài gửi Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Phan Văn Khải và Chủ tịch Quốc hội Nông Dức Mạnh, đề nghị Đảng và Nhà nước lấy ngày 30 tháng Tư làm "Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc". Sám hối trước sự chết chóc qua các chiến cuộc của hàng triệu Bộ đội miền Bắc và Binh sĩ miền Nam, hàng trăm nghìn nạn nhân chết trong cuộc Cải cách Ruộng đất, Tổng tiến công Tết Mậu Thân tại Huế, và các cuộc hành quyết trong các Trại Cải tạo sau năm 1975. Sám hối với người chết và Chúc sinh người sống, trong nghĩa Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống. Ngài đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, trả tự do cho tất cả tù nhân vì lương thức, và bải bỏ Nghị định quản chế hành chính 31/CP.

Tháng 4 năm 2001 do Tổ Hành động chống bắt bớ trái phép của LHQ (UN Working Group on Arbitrary Detention) phúc trình, Uỷ hội Nhân quyền LHQ tuyên bố Quan điểm số tham chiếu 4/2001 công nhận Ngài và Hoà thượng Thích Quang Độ là hai tù nhân tôn giáo bị bắt bớ trái phép. Do nhà cầm quyền Hà Nội hồi âm thư LHQ nói hai ngài vẫn được tự do trái với sự thực, nên vài năm sau, ngày 25.5.2005 Uỷ hội Nhân quyền LHQ lại một lần nữa xác nhận Ngài và Hoà thượng Thích Quang Độ là hai tù nhân tôn giáo bị bắt bớ trái phép (Quan điểm số tham chiếu 18/2005).

Ngày 11.2.2003, Ủy viên Đối ngoại của Hội đồng Châu Âu, ông Chis Patten tuyên bố : “Hội đồng Châu Âu và các Quốc gia thành viên kêu gọi Nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, yêu cầu Hà Nội để cho các nhà ngoại giao thuộc phái đoàn Liên hiệp Châu Âu tại Việt Nam đến thăm viếng hai Hòa thượng lãnh đạo Phật giáo.

Tháng 3 năm 2003, Ngài bị khối u gần mắt có nguy cơ ung thư, bệnh viện Quảng Ngãi không đủ phương tiện giải phẫu, Ngài muốn vào Saigon chữa trị. Nhưng bệnh viện Quy Nhơn và cơ quan công quyền tự ý tổ chức cho Ngài ra Hà Nội. Thời gian điều trị ở bệnh viện K ở đường Quán Sứ, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, các viên chức cao cấp Tòa Đại sứ Hoa Kỳ và Liên hiệp Châu Âu đến vấn an Ngài bên giường bệnh.

Ngày 17.3.2003, 31 vị Dân biểu Quốc hội Châu Âu viết thư cho Nhà cầm quyền Hà Nội yêu cầu để cho họ đến Việt Nam thăm bệnh Ngài và viếng thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ. Đầu tháng tư, 37 Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ cũng viết thư yêu sách Hà Nội trả tự do cho Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Trước mối quan tâm tha thiết của công luận quốc tế, chiều ngày 2.4.2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Ngài tại Văn phòng Chính phủ. Trong câu chuyện, Ngài hỏi Thủ tướng lý do Đảng và Nhà nước ngăn cấm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động ? Lý do bắt bớ Ngài từ dưới thời Việt Minh ở Liên khu 5 ? Lý do bắt giam Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng nhiều vị tôn túc Tăng Ni và Phật tử ? Rồi Ngài yêu cầu Thủ tướng giải quyết việc phục hồi quyền sinh hoạt cho Giáo hội bị ngăn cấm gần ba mươi năm qua. Thủ tướng Phan Văn Khải không trả lời dứt khoát, đổ lỗi cho cán bộ thừa hành cấp dưới và tuyên bố : "Chúng tôi cũng biết có sai lầm, xin Hòa thượng từ bi hoan hỷ".

Sáng ngày 7.4.2003, Ngài đáp chuyến xe lửa Hà Nội - Saigon xuôi Nam. Đến ga Huế vào lúc 10 giờ 13 phút. Dù Ngài không thông báo trước, nhưng vừa bước xuống tàu Ngài đã thấy 2000 Tôn đức Tăng Ni, Phật tử Huế cung nghênh tiếp đón giữa rừng người áo vàng, áo tràng lam, hàng trăm bó hoa khoe sắc vẫy cao, chen cùng cờ Phật giáo năm màu phấp phới. Ngày hôm sau, Ngài đến đảnh lễ trước tháp Đức Cố Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn Hậu, trước tháp Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, và thăm các Tổ đình ở đất Thần kinh, ân cần nhắn nhủ chư Tăng Huế trên bước đường tu và hành đạo.

Ngày 9.4.2003, Ban Giám đốc Quỹ Cứu Người Lâm Nạn (People in Need) tại thủ đô Praha, Tiệp, do cựu Tổng thống Vaclav Havel chủ trì, quyết định trao Giải Nhân quyền cho Ngài, Hòa thượng Thích Quảng Độ để biểu tỏ lòng kính trọng và sự hậu thuẫn hai Nhà đối kháng cho Dân chủ tại Việt Nam đang kiên trì bằng con đường bất bạo động Phật giáo nhằm chuyển hóa dân chủ trên đất nước họ. Giải này mang tên "Người cho Người" (Homo Homini), phát hằng năm cho những nhà đấu tranh nổi danh cho nhân quyền và dân chủ trong thế giới.

Ngày 1.5.2003, Ngài vào Saigon, dự tính về chùa riêng ở Saigon, nhưng Nhà cầm quyền chỉ định Ngài phải về tá túc chùa Ấn Quang và ra lệnh cho Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố đón tiếp Ngài. Không ai loan báo trước, nhưng trên một nghìn chư Tăng Ni, Phật tử đã tự động đến chùa Ấn Quang gặp ngài.

Trong thời gian ở Saigon, ba lần (ngày 3, ngày 9 và 12.5.2003), Ngài đến Thanh Minh Thiền viện vấn an Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, đang bị nhà cầm quyền cách ly không cho tiếp xúc với bất cứ ai. Hai Ngài xa cách nhau bao nhiêu năm ròng vì án lệnh quản chế và tù đày, nay mới được trực tiếp bàn thảo việc chấn chỉnh nội bộ Giáo hội sau thời gian dài bị tê liệt vì ngoại chướng.

Ngày 9.5.2003, vào lúc 16 giờ, Bà Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon, Emi Lynn Yamauchi, đến vấn an Ngài. Cùng đi có ông Marc Forino, Cố vấn Chính trị, và bà Laura H. Kirkpatrick, Cố vấn Kinh tế.

Thành hội Phật giáo Nhà nước long trọng mời Ngài ở lại Saigon tham dự lễ Phật Đản, nhưng Ngài từ khước và trở về Tu Viện Nguyên Thiều vào ngày 14.5.2003, cưu mang những dự án mới chấn chỉnh giáo hội.

Ngày 18.9.2003, Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Tu Viện Nguyên Thiều thăm Ngài và ở lại 3 tuần lễ. Thời gian này nhiều phái đoàn chư Tăng các tỉnh miền Trung và miền Nam nghe tin cũng tấp nập về Bình Định vấn an, thỉnh ý cho việc phục hưng Giáo hội. Nhân đó hai Ngài họp bàn việc bổ sung nhân sự vào Hội Đồng Lưỡng Viện trong Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng như tại các cơ sở địa phương.

Ngày 1.10.2003, Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ tổ chức Đại hội Bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều. Lần đầu tiên có sự tham dự đông đảo của 60 chư Tăng đại diện các tỉnh về dự. Đại hội Bất thường thành công viên mãn với sự thỉnh cử 41 Hòa thượng, Thượng tọa vào hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo. Mấy lời ứng khẩu của Ngài trong lễ bế mạc Đại hội gây hưng phấn cho tất cả các đại biểu :

"Bao năm khó khăn quý vị biết rồi. Khó khăn từ cán bộ cao cấp cho đến cán bộ cơ sở. Nhưng mà thời gian đã gỡ rối các sự khó khăn đó cho chúng ta trong thời gian qua. Và trong tương lai, nếu còn gì khó khăn nữa, dù chúng ta không chờ cái đó, nhưng mà nếu cái đó không may xảy đến, thì chúng ta phải dạn dĩ chịu đựỉng và tiếp tục chịu đựng, để chúng ta có mặt với Giáo hội.

"Chúng ta làm thế nào cho đạo Phật phát triển hơn nữa, đạo Phật phát triển hơn nữa không giành quyền lợi của ai, không chiếm địa vị của ai, mà chỉ đem đạo Phật - đạo Từ Bi Hỷ Xả - giải thoát đau khổ cho chúng sinh nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

"Mong rằng tất cả những khó khăn trong tương lai, sẽ còn có ít nhiều chứ không phải không có, nhưng chuyện đó đối với chúng ta, chúng ta đã dày dạn lắm rồi. Không có gì phải ngại, không có gì phải bỏ cuộc. Mong rằng Đại hội đem lại cho quý vị một Niềm Tin mới sau mấy mươi năm không hoạt động và đầy gian lao, đầy tù tội cùng khắp trên đất nước.

"Thưa quý vị, chúng ta là những người có thể nói rằng, chúng ta có thể bỏ danh, bỏ lợi, bỏ quyền, bỏ thế, thì chúng ta cũng chẳng ngại gì những khó khăn trong tương lai, nếu có. Trông mong quý vị nhất tâm và tích cực hơn nữa để giữ Giáo hội có mặt với dân tộc".

Ngài ban Giáo chỉ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Hải ngoại tại Hoa Kỳ - Văn phòng II Viện Hóa Đạo và Giáo hội tại các Châu tổ chức Đại hội để nối tiếp khai triển và kết thúc các công tác đề ra tại Tiền đại hội bất thường tổ chức trong nước ở Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định hôm 1.10.2003.

Công việc đang tiến hành tốt đẹp, thì Hòa thượng Thích Quảng Độ bị công an làm khó dễ buộc phải rời Tu viện Nguyên Thiều về lại Sàigòn. Hòa thượng đành ra về ngày 8.10.2003, Ngài cùng đi với Hòa thượng Quảng Độ và chư Tăng giáo phẩm.

Ngày 9.10.2003, xe chạy đến Lương Sơn cách thành phố Nhatrang 40 cây số, thì công an chận bắt tất cả mười vị và hai Phật Tử. Sáu công an và đại diện Mặt trận thay phiên nhau hỏi cung và khám xét thân thể Ngài một cách bất lịch sự trong vòng 8 tiếng đồng hồ, cho đến lúc Ngài đuối sức, khàn cả tiếng, họ mới cho lệnh dẫn độ Ngài về lại Tu viện Nguyên Thiều vào lúc 23 giờ 30 khuya.

Ngày 21.10.2003, Giám đốc Công an Bình Định đến yêu cầu Ngài từ nhiệm mọi chức vụ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chấm dứt liên lạc với Hòa thượng Thích Quảng Độ, thì Nhà nước sẽ mời Ngài ra thăm Hà Nội trở lại để bàn tính việc hợp tác với Giáo hội Phật giáo Việt Nam và sẽ trao cho Ngài những chức vụ cao cấp. Ngài khước từ.

Trong khi ấy, rộng khắp từ trong nước ra đến hải ngoại và quốc tế, một phong trào phản đối nổi lên, đồng loạt tổ chức tuyệt thực phản kháng trước các tòa Đại sứ, Lãnh sự quán của Cộng sản Việt Nam liên tục trong nhiều tuần lễ với khầu hiệu: "Đừng sợ nữa, hãy dõng mãnh và Vô úy đưa con thuyền Giáo hội lướt qua phong ba bão táp !".

Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế kết hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ – Văn phòng II Viện Hóa Đạo mở cuộc vận động khẩn cấp và sâu rộng tại Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội châu Âu đưa tới thành quả là ngày 19.11.2003 Hạ viện Hoa Kỳ thông qua với đa số áp đảo "Quyết nghị 427" tán thán sự kiên cường của hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một Giáo hội dân lập và có truyền thống 2000 năm lịch sử, và yêu sách Nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ và chư tôn giáo phẩm trong Hội động Lưỡng viện cũng như phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 24 giờ đồng hồ sau, ngày 20.11.2003, Quốc hội Âu châu thông qua Quyết nghị tương tự với đa số tuyệt đối.

Ngày 28.4.2004, vào lúc 10 giờ 50 sáng, ông Raymond Burghart, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cùng phu nhân đến Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định vấn an Ngài và hàn huyên thân mật trên một tiếng đồng hồ. Ngài nhân danh Giáo hội ngỏ lời cám ơn ông Đại sứ, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Hoa Kỳ đã lưu tâm đến vấn đề tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt đã không ngừng lên tiếng bênh vực mỗi khi Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ lâm nạn.

Ngày 15.9.2004 Ngoại trưởng Hoa Kỳ Colin L. Powell công bố đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo trong thế giới "đặc biệt cần quan tâm", vì Việt Nam "dùng các biện pháp độc tài toàn trị hay độc đoán để kiểm soát những hoạt động tín ngưỡng và nghi thức tôn giáo". Các nước bị liệt kê vào danh sách đen sẽ bị Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp chế tài trên lĩnh vực kinh tế và tài chánh, nếu không chịu thay đổi chính sách đàn áp tôn giáo.

Ngày 18.11.2004, Ngài bị xuất huyết dạ dày nặng nên phải vào Bệnh viện Đa khoa ở Quy Nhơn cấp cứu. Các chùa viện trong và ngoài nước đồng loạt làm lễ cầu an cho Ngài. Cảm động nhất là ở hải ngoại nhiều Phật tử đã mua chim, cá phóng sinh để cầu nguyện cho Ngài sớm bình phục.

Ngày 21.11.2004, Tân Đại sứ Hoa Kỳ, ông Michael W. Marine cùng với phu nhân từ Hà Nội vào bệnh viện Đa khoa ở Quy Nhơn thăm bệnh Ngài. Cùng ngày này, tại Saigon, Phái đoàn Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đến vấn an Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tại Thanh Minh Thiền viện trong vòng hai tiếng đồng hồ.

Ngày 22.11.2004, Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng với phái đoàn Hội đồng Lưỡng viện lên đường đi Bình Định thăm Ngài trong cơn thập tử nhất sinh. Nhưng công an đã chận xe tại Trảng Bom, cách Saigon 50 cây số, giữa rừng cao su vắng vẻ, áp tải phái đoàn về lại Saigon.

Ngày 31.11.2004, Ngài xuất viện về tịnh dưỡng tại Tu viện Nguyên Thiều, sức khỏe còn rất yếu nhưng đã thoát khỏi cơn hiểm nghèo.

Ngày 21.2.2005, Ngài viết Thư Ngỏ gửi đến các ông: Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng, Trần Đức Lương, Chủ tịch Nước, Phan Văn Khải, Thủ tướng, và Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội. Qua Thư Ngỏ, Đức Tăng thống ngạc nhiên nhận định một điều mâu thuẫn đang xẩy ra khi thấy Nhà nước tiếp tục đàn áp GHPGVNTN, nhưng lại đón tiếp phái đoàn Sư Ông Nhất Hạnh về Việt Nam . Cuối thư Ngài yêu cầu “Đảng và Nhà nước minh bạch hóa trường hợp quản chế tôi và Hòa thượng Thích Quảng Độ bằng khẩu lệnh kể từ vụ bắt bớ tùy tiện chúng tôi ngày 9.10.2003 tại Lương Sơn”.

Ngày 20.3.2005, Ngài trực tiếp gọi điện thoại cho Ban Trị sự Giáo hội Nhà nước tỉnh Bình Định thông báo rằng Ngài không tiếp Sư Ông Nhất Hạnh và phái đoàn Tăng thân Làng Mai theo lời yêu cầu của Sư Ông ngỏ ý muốn đến Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định đảnh lễ Ngài.

Ngày 8.8.2005 nghe tin quân khủng bố đánh bom tại thủ đô Luân Đôn gây chết chóc thảm khốc cho nhân dân Anh, Ngài viết thư chia sẻ gửi Nữ hoàng Elisabeth Đệ nhị. Sang ngày 15.8, Nữ hoàng đã gửi thư cảm tạ Ngài.

Ngày 18.8.2005, Công an và Ban tôn giáo chính phủ đến Tu viện Nguyền Thiều “làm việc” với Ngài, cấm không cho Ngài tiếp các phái đoàn, đặc biệt không được tiếp ngài Quảng Độ. Ngài viết bức thư gửi Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo căn dặn việc Phật sự: “Hòa Thượng hãy tùy hoàn cảnh, điều kiện, mà thêm bớt, thay đổi, bổ sung, củng cố lại các thành viên trong Hội đồng Lưỡng viện sao cho phù hợp với tôn chỉ để bảo toàn Giáo hội là được, chứ hoàn cảnh bây giờ và nhiều năm sau này nữa cũng chưa tổ chức Đại hội được đâu. Có lẽ hết đời mình cũng chưa Đại hội được đâu. “Nhưng chúng ta đừng lo. Chánh quyền nào cũng nói muôn năm nhưng có chánh quyền nào muôn năm đâu ? Còn Phật giáo đâu có nói muôn năm nhưng Phật giáo đã mấy ngàn năm rồi”.

Ngày 1.12.2005, Quốc hội Châu Âu ra Quyết nghị yêu cầu Việt Nam “chấm dứt mọi hình thức đàn áp các thành viên thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và chính thức công nhận quyền hiện hữu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(…) đặc biệt là trả tự do cho nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, hai Hòa thượng đã được LHQ xác nhận là nạn nhân bị giam cầm trái phép”.

Ngày 21.9.2006, ông Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Bộ Công an từ Hà Nội vào thăm Ngài. Ông ngỏ lời khuyên Ngài “nay tuổi đã già nên tịnh dưỡng, không nên nhọc công lo việc Giáo hội, để cho giới trẻ cáng đáng”. Ông Thứ trưởng Công an cũng khuyên “nếu ông Quảng Độ có ra thăm cũng không nên bàn chuyện Giáo hội”. Ngài liền đáp: "Chí nguyện suốt đời tôi là phục vụ dân tộc, phục vụ đạo pháp, phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cho đến hơi thở cuối cùng. Không ai có thể ngăn cấm tôi và Hòa thượng Thích Quảng Độ bàn bạc chuyện Phật sự của Giáo hội".

Ngày 22.9.2006, Đức Tăng Thống lâm bệnh, chóng mặt và khó thở. Đến ngày 25.9 thì tình hình khẩn cấp nên chư Tăng ở Tu viện Nguyên Thiều đưa ngài vào bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn lúc 16 giờ. Bác sĩ cho biết ngài bị suy tim và viêm phổi. Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo đã cấp tốc triệu tập buổi họp khẩn lấy quyết định thỉnh Đức Tăng thống vào Saigon chữa trị. Ngày 29.9.2006 Ngài vào đến bệnh viện Chợ Rẫy ở Chợ Lớn. Ở hải ngoại, hàng trăm chùa viện tổ chức lễ Cầu an cho Đức Tăng thống sớm bình phục.

Ngày 1.10.2006, Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng chư Tăng giáo phẩm trên 20 vị và đông đảo Phật tử đã đến bệnh viện Chợ Rẫy ruớc Ngài về điều trị ở bệnh viện Pháp Việt, tọa lạc tại số 6 đường Nguyễn Lương Bằng, Phường Tân Phú, thành phố Saigon.

Ngày 16.10.2006, sau khi khám tổng quát, các bác sĩ ở bệnh viện Pháp Việt đồng ý để Đức Tăng thống xuất viện về tịnh dưỡng tại Chùa Giác Hoa ở Quận Bình Thạnh, Saigon. Một thời gian sau Ngài trở về Tu viện Nguyên Thiểu, tỉnh Bình Định, chờ ngày 30.12.2006 trở lại Saigon tái khám. Nhưng ngày 2.1.2007 Công an tỉnh Bình Định không cho Ngài đi.

Ngày 5.5.2007, Báo An Ninh Thế giới của Bộ Công an số 651, cho đăng ở trang nhất bài "Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng thăm Hòa thượng Thích Huyền Quang: Một cuộc gặp gỡ thân tình và cởi mở" nhân ngày kỷ niệm 30.4.2007. Bài này nhắm mạ lị Cư sĩ Võ Văn Ái và Hoà thượng Thích Quảng Độ “hoạt động chống phá chính quyền, làm giả di chúc và soạn thảo Thông điệp Phật Đản Phật lịch 2551, với nội dung sai sự thật, kích động chống chính quyền". Nhưng qua điện đàm, Ngài cho Đạo hữu Võ Văn Ái, Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế biết rằng: “Thầy có tiếp họ chừng nửa giờ. Xã giao qua về, không có việc gì khác. Họ có tuyên bố Thầy muốn đi đâu cũng được không ai ngăn cấm. Trước đây, hai lần họ mời Thầy ra làm Trú trì chùa Sóc Sơn (ở miền Bắc). Nhưng Thầy không đi. Ra ngồi đó để ở tù như hồi ở Nghĩa Hành trước đây hay sao ?! Thầy không đi. Các điều in trên báo là họ đặt bày để phá mình. Ngoài đó đừng có tin. Anh Ái dặn quý Thầy và Phật tử đừng có tin".

Ngày 29.8.2007, Thiếu tướng Trần Tư, Cục trưởng Cục A41 (tức Cục An ninh xã hội theo dõi và kiểm soát các tổ chức tôn giáo) từ Hà Nội vào Bình Định gặp Ngài tại Tu viện Nguyên Thiều để nói lên ba việc: thứ nhất, phản đối việc ủy lạo và cứu trợ Dân oan khiếu kiện hôm 17.7 của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ; thứ hai, cấm Đức Tăng thống không được tổ chức Đại hội Phật giáo tại Tu viện Nguyên Thiều; và thứ ba, ngỏ lời mời Đức Tăng thống ra Hà Nội thăm viếng, nhân dịp gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và tham dự Đại lễ Phật Đản 2008 tại Hà Nội. Ngài từ khước không ra Hà Nội.

Ngày 8.9.2007, để đối phó với tình hình nhà cầm quyền Cộng sản đàn áp, bức bách, và vu cáo trắng trợn GHPGVNTN; mặt khác, "một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế", Ngài ban hành Giáo chỉ mang số 9 như biện pháptự vệ và kiện toàn tổ chức Giáo hội trong và ngoài nước.

Ngày 4.2.2008, Đài Á Châu Tự do phát thanh Lời Chúc Tết của Ngài đến Cộng đồng Người Việt hải ngoại nói chung và Cộng đồng Phật giáo hải ngoại nói riêng. Đặc biệt, Ngài gửi lời khen ngợi chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử hải ngoại “đã tận tình hoằng dương chánh pháp nơi các xứ sở xa xôi, đồng thời vẫn nhất tâm hậu thuẫn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại quê nhà. Đặc biệt chư liệt vị đã chí thành khâm tuân và thi hành Giáo chỉ số 9 do tôi ban hành và các Thông tư, Thông bạch của Viện Hóa Đạo nhằm chấn chỉnh và phát huy Giáo hội trước tình thế mới, cũng như làm rạng danh hai nghìn năm Phật giáo Việt Nam, chư liệt vị Tổ sư, các Thánh tử đạo và những người đã hy sinh để bảo vệ dân tộc, bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ chánh pháp”.

Lời Ngài nói đánh bạt mọi xuyên tạc, vu khống của một số Tăng sĩ và Cư sĩ ở hải ngoại tung tin thất thiệt rằng “Giáo chỉ số 9 là giáo chỉ giả không do Ngài ban hành”.

Ngày 18.5.2008, nhân dịp Đại lễ Phật Đản, Cộng đồng Người Việt Quốc gia tại thành phố Houston và vùng phụ cận, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, tổ chức Lễ Vinh danh Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ. Tại cuộc lễ, một trong những lời phát biểu đầy ý nghĩa là lời tôn vinh của ông Al Green, Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ. Ông nói rằng :

“Những người thiện tâm quanh thế giới đều buồn thương ngày Mục sư Martin Luther King bị bắt giam vào nhà ngục Birmingham. Những người thiện tâm quanh thế giới đều buồn thương ngày Nelson Mandela bị bắt giam nửa thế kỷ trước đây. Việc cấm cố Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ hôm nay cũng gây buồn thương cho những người thiện tâm quanh thế giới.

“Bởi vì Mục sư Martin Luther King nhắc nhở chúng ta rằng, bất công ở bất cứ đâu đều đe doạ công lý cho khắp mọi nơi. Bất công đối với Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ hôm nay là mối đe doạ ngay cho đất nước Hoa Kỳ này.

« Chúng ta phải thấy rõ một điều, hễ nhắc tới nhân loại là chỉ còn một chủng tộc - chủng tộc của loài người. Nên chúng ta phải cùng nhau hành động để gìn giữ nhân loại cùng chung nòi giống ấy.

“Hoa Kỳ của chúng ta trong thế đại siêu cường của thế giới, phải khẳng định vấn nạn lớn của nhân sinh. Vấn nạn này không đòi hỏi chúng ta làm “sen đầm” quốc tế , mà là đem lại hoà bình cho thế giới. Đây là lý do vì sao Ngày lễ Phật Đản trở nên vô cùng quan trọng, vì đại lễ này nhắc chúng ta đặt trọng tâm vào sự sống của tha nhân, đem lại hạnh phúc và an lạc cho tha nhân, giúp đỡ tha nhân có cuộc sống yên hàn trên trái đất.

“Cử hành Đại lễ Phật Đản hôm nay, phải là mục tiêu để cho mọi người biến mỗi ngày trong đời sống thành một Ngày Phật Đản, ngày mà chúng ta mang lại an lạc và và hoà điệu cho tha nhân, là điều nhân loại cần được hưởng trong một thế giới cộng sinh.

“Tôi vô cùng hân hạnh được hiện diện hôm nay, trong cương vị Dân biểu Liên bang đơn vị 9 Texas, đồng thời đại diện cho Quốc Hội Hoa Kỳ, trân trọng trao bằng tưởng lệ vinh danh Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ».

Ngày 27.5.2008 vì bị yếu tim, dịch trong phổi nên Ngài phải vào bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn. Tuần lễ đầu có chiều khả quan. Nhưng sau một thời gian y sĩ phát hiện thêm bệnh gan, thận yếu, và bị suy dinh dưỡng nên phải chuyển Ngài vào phòng cấp cứu nhiều tuần lễ. Sau một tháng hơn nằm viện, bệnh tình Ngài không mấy thuyên giảm, nên Ngài tỏ ý muốn về Tu viện Nguyên Thiều cho được thanh tịnh và nghe công phu sớm chiều. Đây cũng là ước nguyện của hàng giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện và Môn đồ pháp quyến.

Về đến Tu Viện Nguyên Thiều lúc 15 giờ 30 chiều 4.7.2008 và được chư Tôn đức trong Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và Hoà thượng Thích Thiện Hạnh dẫn đầu rước Đức Tăng Thống vào phương trượng.

Tám giờ sáng ngày 5.7.2008 Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN cùng chư Tăng tại Tu viện Nguyên Thiều Khai kinh Cầu An cho Ngài. Đến 13 giờ chiều cùng ngày Ngài xả báo thân, an thần thị tịch nơi phương trượng của Ngài tại Tu viện Nguyên Thiều do Ngài sáng lập 50 năm trước. Ngài trụ thế 89 năm, pháp lạp 69.

    Nguyên Thái Võ Văn Ái chấp bút
    Paris, 4.7.2008

Hiện Tình Bịnh Trạng Thầy Huyền Quang

Y sĩ kiểm soát các y cụ cho Đức Tăng thống tại Tu viện Nguyên Thiều (bên trái) – Từ trái qua phải HT Thích Quảng Độ, HT Thích Thiện Hạnh, TT. Thích Viên Định, HT Thích Không Tánh. v.v... (bên phải).

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 4.7.2008

Đức Tăng thống Thích Huyền Quang vừa xuất viện về lại Tu viện Nguyên Thiều – Tình hình Đức Tăng thống và Tu viện Nguyên Thiều qua cuộc phỏng vấn ông Võ Văn Ái trên Đài Phật giáo Việt Nam

Xe Hồng thập tự chở Đức Tăng thống
vào sân Tu viện Nguyên Thiều.
PARIS, ngày 4.7.2008 (PTTPGQT) - Từ Bình Định Viện Tăng thống vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tin tức mới nhất về tình trạng sức khoẻ của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang như sau:

Ngày 27.5 vì bị yếu tim, dịch trong phổi nên Đức Tăng thống phải vào bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn. Thoạt đầu tình hình có chiều khả quan. Nhưng sau một thời gian y sĩ phát hiện thêm thận yếu và bị suy dinh dưỡng nên phải chuyển ngài vào phòng cấp cứu để sử dụng máy trợ tim và chuyền thức ăn vào ống mũi.


Nay vì lý do sau một tháng hơn nằm viện, bệnh tình Đức Tăng thống không mấy thuyên giảm, nên Ngài tỏ ý muốn về Tu viện Nguyên Thiều cho được thanh tịnh và nghe công phu sớm chiều (kinh kệ) nơi tu viện. Đây cũng là ước nguyện của môn đồ hiếu quyến và hàng giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện.

Vì vậy sáng hôm nay, 4.7, Thượng toạ Thích Minh Tuấn cùng thị giả là Đại đức Thích Đồng Thọ cùng chư Tăng Tu viện Nguyên Thiều đến Bệnh viện Đa khoa thành phố Qui Nhơn đưa lời yêu cầu Ban Giám đốc Bệnh viện. Sau khi gặp người có thẩm quyền trình bày sự việc và đã được giới hữu trách đồng ý làm thủ tục xuất viện.

Đến 14 giờ chiều, nhân viên Bệnh viện chuyển Đức Tăng Thống lên xe Hồng thập tự đưa về Tu Viện Nguyên thiều. Tháp tùng trên xe có chư đệ tử của Đức Tăng Thống, Phó Giám đốc Bệnh viện và một Bác sĩ để phòng chuyện bất trắc trên đường.

Tới Tu Viện Nguyên Thiều lúc 15 giờ 30 và được chư Tôn đức trong Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đón Đức Tăng Thống đưa vào phương trượng của Ngài. Đại diện Hội đồng Lưỡng viện gồm có : HT. Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, HT. Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng thống, TT Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hoá Đạo, HT. Thích Không Tánh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện xã hội, TT. Thích Chơn Tâm, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, TT. Thích Như Tấn, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp, TT. Thích Minh Nguyệt, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Tiền Giang. ĐĐ. Thích Từ Giáo, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Trị. Ngoài ra, Sư Bà Tâm Ấn, 92 tuổi, cùng một số chư Tăng, Ni và Phật Tử tỉnh Bình Định nghe tin đã đến vấn an, đảnh lễ Đức Tăng thống.

Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN cùng chư Tăng tại Tu viện Nguyên Thiều quyết định ngày mai, 5.7, vào lúc 8 giờ sáng Giáo hội thiết lễ Khai kinh Cầu An cho Đức Tăng thống.

Đạo hữu Võ Văn Ái trả lời Đài Phật giáo Việt Nam về tình hình Đức Tăng thống Thích Huyền Quang tại Bình Định

Trong chương trình tối thứ sáu, 4.7, Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh về Việt Nam đã phỏng vấn Đạo hữu Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo, Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế kiêm Tổng Uỷ viên Ngoại vụ Văn phòng II Viện Hoá Đạo trong mục « Câu Chuyện Cuối Tuần » về loạt bài vu cáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ của « Thông tấn xã Việt Nam » đăng tải qua các báo Thanh Niên, Hà Nội Mới, Saigon Giải Phóng, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sư Bà Tâm Ấn, 91 tuổi đến vấn an
và đảnh lễ Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.
Qua cuộc phỏng vấn này độc giả sẽ thấy một chiến dịch đánh phá GHPGVNTN nhằm giành giật việc tang lễ Đức Tăng thống cho Giáo hội Phật giáo Nhà nước trong khi Ngài vẫn còn sống. Điều mà Câu Chuyện Cuối Tuần gọi là « Hà Nội bất nhân ».

Chúng tôi xin chép lại toàn văn cuộc phỏng vấn ấy sau đây :

Hà Nội bất nhân

Triều Thanh: Xin mời quý thính giả Đài Phật giáo Việt Nam nghe Câu Chuyện Cuối Tuần với ông Võ Văn Ái về chuyện Hà Nội bất nhân.

Thưa ông Võ Văn Ái, hôm nay Thông tấn xã Việt Nam, tức cơ quan thông tin tuyên truyền của Hà Nội vừa tung ra bài «Vạch trần ý đồ đen tối của Quảng Độ» và được các báo của Nhà nước như Thanh Niên, Hà Nội Mới, Saigon Giải phóng, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v.... đăng tải. Ông nghĩ sao về bài này ? Xin ông cho thính giả biết nội dung bài viết ấy.

Võ Văn Ái: Đây là bài viết vu cáo trắng trợn Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ cùng chư Tăng từ các tỉnh Thừa thiên – Huế, Quảng Nam, Lâm Đồng, Quảng Trị, Tiền giang, v.v... tới Bình Định thăm bệnh Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, nhưng bài viết lại vu cáo là các ngài « mưu tính lợi dụng việc tổ chức tang lễ cho HT Huyền Quang để công khai hóa một tổ chức bất hợp pháp mang tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ».

Triều Thanh: Thực tế Hoà thượng Thích Quảng Độ có muốn công khai hoá GHPGVNTN nhân dịp tang lễ chăng ?

Võ Văn Ái: Làm gì có chuyện đó. Nếu có thì tôi đâu đánh giá bài viết của Thông tấn xã Việt Nam đăng trên báo Thanh Niên hay Hà Nội Mới là vu cáo trắng trợn. Ai cũng biết rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) truyền thừa lịch sử hai nghìn năm Phật giáo tại Việt Nam. Phật giáo thống nhất thành giáo hội từ thời Đinh (năm 986 Tây lịch). Thời ấy vua Đinh lập ra chức Tăng thống và Tăng lục để điều hành giáo hội Phật giáo. Đây là một sự kiện lịch sử. Ở thời cận đại thì trước khi đất nước bị Hiệp định Genève chia cắt, đại hội thống nhất Phật giáo ba miền Bắc Nam Trung đã kết hợp tại chùa Từ Đàm ở Huế năm 1951 với sự tham dự của sáu tập thể Tăng sĩ và Cư sĩ trên toàn quốc.

Sau này đất nước bị chia đôi, chính thể khác nhau. Nhưng Phật giáo vẫn là một. Nước ta trải qua bao nhiêu triều đại, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, rồi thời Pháp thuộc, rồi qua bao chế độ. Nhưng hai nghìn năm Phật giáo có mặt tại Việt Nam luôn luôn tồn tại duy nhất một đạo Phật với giáo lý từ bi cứu khổ. Làm gì có chuyện bất hợp pháp hay không bất hợp pháp. Pháp lý là quy chiếu theo việc đời, việc đảng. Đảng cộng sản lên thì các đảng quốc gia bất hợp pháp. Đảng quốc gia lên thì đảng cộng sản bất hợp pháp. Đạo Phật không hề có chuyện đó. Một cái đảng như đảng ngoại lai Cộng sản thì quyền gì đánh giá một nền đạo đức của dân tộc như Phật giáo là bất hợp pháp ?

Triều Thanh: Thế thì tại sao Hà Nội tố cáo trong bài viết GHPGVNTN bất hợp pháp thưa ông ?

Võ Văn Ái: Tố cáo như vậy là đã vi phạm pháp luật, bởi vì chưa hề có một văn kiện pháp lý nào của Nhà nước cộng sản khai trừ hay giải tán GHPGVNTN. Nay họ nói « bất hợp pháp » chỉ là âm mưu và thủ đoạn hù doạ hay so gân để giành việc tổ chức tang lễ cho tay chân của Đảng là Giáo hội nhà nước. Tôi gọi giới lãnh đạo Hà Nội bất nhân là ở chỗ đó. Chẳng những bất nhân mà còn phi nhân. Đức Tăng thống còn đó chứ đã viên tịch đâu ? Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và chư Tăng GHPGVNTN đang âu lo, chăm sóc, tụng niệm cầu an, ao ước chuyển Ngài đến một bệnh viện hiện đại, có nhiều bác sĩ chuyên khoa để chữa trị. Nhưng vì hoàn cảnh khách quan áp bức không thực hiện được. Thế nhưng Nhà nước lại chỉ lo việc tang lễ khi người bệnh còn sống. Tôi mà là Nhà nước tôi sẽ cho lệnh trực thăng chở ngài vào cấp cứu tại một bệnh viện tối tân ở Saigon hay ở ngoại quốc, thay vì đi giành phần tổ chức cho Giáo hội Nhà nước nhằm đánh lạc hướng quần chúng Phật tử và lừa đảo công luận thế giới.

Ngay cả khi Thông tấn xã Việt Nam đề cao cuộc thăm viếng Đức Tăng thống của « các cấp chính quyền và ban, ngành, Giáo hội Phật giáo Nhà nước » họ không giấu được cái đuôi kỳ thị và tuyên truyền chính trị. Thực tế chẳng thương xót gì tới vận mệnh con người, mà con người ấy là bậc Cao tăng.

Triều Thanh: Xin ông cho biết rõ hơn về cái đuôi kỳ thị này ?

Võ Văn Ái: Câu viết của Thông tấn xã Việt Nam minh chứng cho lời đánh giá của tôi. Họ viết như thế này: « Tuy HT Huyền Quang không phải là thành viên của GHPGVN (tức Giáo hội Nhà nước), nhưng « các cấp chính quyền và ban, ngành, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có nhiều việc làm thể hiện sự quan tâm, ưu ái với một Cao tăng Phật giáo mà không có sự phân biệt đối xử ». Sao lại phải nhấn mạnh Nhà nước « không có sự phân biệt đối xử ». Xác nhận như thế là tự thú lâu nay, nói rõ là 33 năm qua, Nhà nước vẫn phân biệt đối xử với Đức Tăng thống. Đi thăm ai bệnh, là biểu tỏ lòng tương ái giữa con người với con người, đâu cần kể công, cần chi phải nhấn nháy là mình « không có sự phân biệt đối xử » ? Không phân biệt đối xử thì sao 33 năm qua Đức Tăng thống hết chịu cảnh tù đày đến quản thúc ? Khiến Ngài phải tuyên bố : « Tôi là người sống không nhà, chết không mồ, đi không đường, tù không tội ! ».

Triều Thanh: Xin ông cho biết vì sao nhà cầm quyền muốn giành giật việc tổ chức lễ tang Đức Tăng thống Thích Huyền Quang ?

Võ Văn Ái: Vì tuyên truyền chính trị. Như trường hợp họ đăng cai tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ ở Hà Nội tháng năm vừa qua. Đức Tăng thống là một biểu tượng của sự bất khuất trước bạo quyền, biểu tượng cho tự do, cho giác ngộ và giải thoát. Bao lâu biểu tượng ấy còn, thì bạo quyền như ngồi trên đống lửa. Mà muốn dẹp biểu tượng thì phải hoà tan biểu tượng vào hư vô. Hư vô ấy là Giáo hội Phật giáo Nhà nước. Giáo hội Nhà nước tổ chức lễ tang, thì thế giới sẽ tưởng rằng Phật giáo đã hoà hợp hoà giải, hai giáo hội dân lập và bù nhìn hoà tan vào nhau. Ấy là chưa nói, nhà cầm quyền sẽ đến gắn huân chương Sao Vàng hay huân chương Hồ Chí Minh lên kim quan ngài, như đã âm mưu năm 1992 tại chùa Linh Mụ ngày Đức Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch. Nếu không có sự đề kháng của chư Tăng và Phật tử Huế thì âm mưu ấy đã thành công.

Sự dối trá trắng trợn này chúng ta đã thấy rõ qua lời tuyên bố của ông cựu Thủ tướng Phan Văn Khải hôm tiếp Đức Tăng thống tại Hà nội đầu tháng tư năm 2003. Hôm ấy ông Khải tuyên dương “Công ơn của Hoà thượng đối với quốc gia dân tộc trong thời kháng chiến chống Pháp, tổ quốc ghi ơn”. Nhưng thực tế là thời ấy nhà cầm quyền Việt Minh đã quản chế và bỏ tù ngài 4 năm tại liên khu 5 vì ngài hoạt động cho Phật giáo. Nhờ Hiệp định Genève năm 1954 ngài mới được trả tự do. Có gì mà người cộng sản không làm được, nhất là những việc tán tận lương tâm.

Triều Thanh : Trong thực tế việc giành quyền tang lễ xẩy ra như thế nào ?

Võ Văn Ái: Trước hết công an đi tìm những thân nhân trong gia đình của Đức Tăng thống để rỉ tai vận động thân bằng quyến thuộc đứng ra làm lễ tang thì mới phải đạo. Nhưng thân nhân đã trả lời với công an : Ngài đi tu từ năm 12 tuổi, nay ngài là người của giáo hội, suốt đời phục vụ giáo hội thì chỉ có giáo hội mới đủ thẩm quyền lo việc hậu sự cho ngài. Bây giờ công an chuyển sang vận động và áp lực với môn đồ hiếu quyến, tức chư Tăng đệ tử của ngài, thúc đẩy họ nắm quyền làm tang lễ chống lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Được như vậy thì Giáo hội nhà nước và công an mới chen chân vào nắm việc lễ tang thi hành những âm mưu đen tối của họ. Điều này ta thấy rõ qua chi tiết trong bài viết của Thông tấn xã Việt Nam, họ viết rằng : « Tuy HT Huyền Quang không phải là thành viên của Gíao hội Phật giáo Việt Nam (tức Giáo hội Nhà nước), nhưng với tình đồng đạo đối với một vị Cao tăng, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Định đã quan tâm, chủ động bàn bạc với Thượng tọa Thích Minh Tuấn và số đệ tử Tu viện Nguyên Thiều để chuẩn bị cho việc tổ chức tang lễ trang trọng (...) theo đó các chùa trong tỉnh Bình Định cũng sẽ giúp đỡ Tu viện Nguyên Thiều làm lễ cầu an cho HT Huyền Quang ».

Nhưng tôi tin rằng Môn đồ hiếu quyến của Ngài đang gìn giữ, bảo vệ công đức đại hùng, đại lực, đại từ bi của Đức đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang trước mọi âm mưu hay khủng bố.

Mặt khác, công an cũng đã ra lệnh tại Bình Định cho các chùa ở đâu sinh hoạt tại đó, không được tụ tập về Tu viện Nguyên Thiều, là trú xứ của Đức Tăng thống, nhằm ngăn chặn mọi biểu lộ tôn kính và nguyện cầu đối với ngài.

Còn cả một hiện tượng lạ kỳ hiếm thấy, là hàng trăm đoàn sinh Gia Đình Phật tử đang cắm trại chung quanh Tu viện Nguyên Thiều. Một dấu hỏi là xưa nay đoàn sinh Gia Đình Phật tử Bình Định đâu có đông như vậy. Có khả năng là công an trá hình. Mặt khác, nhiều năm qua Ban tôn giáo chính phủ tìm đủ cách nuốt chửng tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam vào trong vòng tay công cụ của Giáo hội Nhà nước khiến cho một số huynh trưởng bất trí hay sợ hãi khuất phục. Hiện tượng này thấy rõ từ trong nước ra đến hải ngoại hai năm vừa qua.

Triều Thanh: Trong cương vị cao cấp của ông trong GHPGVNTN, ông có biện pháp gì để ngăn chận sự bất nhân trên đây ?

Võ Văn Ái: Trong tư cách của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và trong tư thế của Cơ sở Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam, tôi đang thông tin cho công luận quốc tế được biết nhằm can thiệp và gây áp lực. Cụ thể là tôi đã viết thư gửi ông Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-Moon, Tổng thống Pháp Sarkozy vừa đảm lãnh chức Chủ tịch luân phiên Quốc hội Châu Âu, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush, các vị đại biểu Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội Châu Âu yêu cầu gây sức ép lên nhà cầm quyền Hà Nội chấm dứt sự xâm lược chính trị vào trong sinh hoạt tôn gíao của GHPGVNTN.

Triều Thanh: Ông có tin là sẽ thành công ?

Võ Văn Ái: Vấn đề không là thành công thì mới làm, mà là chúng ta có chịu chấp nhận sự can dự chính trị vào sinh hoạt tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội hay không ? Nếu không chấp nhận thì phải lên tiếng, phải đấu tranh. Đây là vấn đề sinh tử. Nhất là khi Việt Nam vừa thủ chức Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo An LHQ. Chủ tịch Hội đồng Bảo An LHQ mà lại gây bất an và khủng bố người dân tại quê nhà thì sao gọi là bảo an ?

Kết quả những ngày tới đây như thế nào tôi chưa biết. Nhưng tôi thấy rõ rằng công luận thế giới không chấp nhận mánh khoé chính trị vô nhân của nhà cầm quyền Hà Nội. Hiện nay, GHPGVNTN được cộng đồng quốc tế tán dương và hậu thuẫn, điển hình là các Quyết nghị của Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội Châu Âu từng lên tiếng yêu sách Hà Nội phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN và trả tự do cho hai ngài Tăng thống Thích Huyền Quang và Viện trưởng Viện Hoá Đạo Thích Quảng Độ. Từ ngày Đức Tăng thống Thích Huyền Quang nhập viện, không những hàng triệu Phật tử trong và ngoài nước cầu an cho Ngài, mà Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris còn nhận được hàng nghìn thư biểu tỏ sự lo lắng, cầu nguyện của các nhân sĩ, trí thức, dân biểu, thượng nghị sĩ các quốc hội trên hoàn vũ, như điện thư của Bà Mairead Maguire, Giải Nobel Hoà bình, là một.

Tôi tin vào lương tri nhân loại. Tôi tin chính nghĩa thắng gian tà.

Triều Thanh: Xin cám ơn ông Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.

Friday, July 4, 2008

Chúa ngục phục viên Trần Trọng Duyệt

Chúa Ngục Phục Viên Trần Trọng Duyệt, một thời "Cỡi Lưng Heo Nái, Bắn Nạng Dàn Thung"
Trương Minh Hòa

"Chúa ngục, quản giáo, nào hiền.
Chửi bới, tra tấn, còng xiềng tù nhân".

Sau ngày 20-7-1954 ở miền Bắc và 30-4-1975 ở miền nam, ngoài lực lượng công an, thì quản giáo, thủ trưởng, chính ủy của tất cả các trại cải tạo nổi tiếng là ác ôn, tàn nhẩn nhất; đó là bọn giết người hợp pháp "licence to kill" được đảng Cộng Sản ban cấp, đã giết chết hàng trăm ngàn tù, riêng từ sau 1975, hơn 50 ngàn quân nhân cán chính bị chết "rải rác rừng thiêng, mồ viễn xứ", ngày nay nhiều gia đình vẫn còn chưa tìm được hài cốt thân nhân để mang về cải táng và dĩ nhiên là những cái chết bí mật, mờ ám chưa được bạch hóa, là thành quả phục vụ đảng và nhà nước của bọn quản giáo, cai tù.

Tù bị chết bằng nhiều hình thức dã man: hành hạ, thiếu ăn, điều kiện sống vô cùng tồi tệ, bịnh tật không thuốc men, đánh đập, hành hình, lao động kiệt sức phải chi sau 1975, linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan có tấm lòng nhân ái vô biên như Thiên Chúa, duy trì cái tổ chức "Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù", dùng khả năng tranh đấu với nhà nước, đảng, vận động quốc tế, Hội Hồng Thập Tự, giáo Hội Công Giáo hoàn vũ thì đỡ cho những người "yêu nước" xả thân chống giặc "từ miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào", bảo vệ bình an cho miền Nam, trong đó có cả nhà thờ, và cái Dòng Chúa Cứu Thế của ngài linh mục; chẳng lẽ cái tổ chức và kẻ dựng lên nó toàn là thứ "khôn nhà dại chợ" hay là "chỉ có những tên khủng bố Việt Cộng sa cơ mới hưởng được sự giúp đỡ của quí Ngài?" và những "người vị quốc vong thân, đành cam vùi dập trong chốn lao tù" là không được Ngài giúp đỡ?.

Nhờ Ngài và cái tổ chức "nhân đạo" ấy, nên hàng chục ngàn tên khủng bố phiến Cộng được hưởng "chế độ lao tù như các nước Tự Do" được khỏe mạnh, để chúng coi: "chốn lao tù là nơi ta rèn tâm trí", đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở về trả thù tàn tệ quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, làm hại biết bao nhiêu người, trong đó có cả những linh mục, giáo dân .... nhưng sau nầy thì "những bài giảng phản tỉnh" của linh mục chân Tín từ 1995, chưa đủ sức để thuyết phục người dân và cả giáo dân Việt Nam tin Ngài; đây chỉ là lối phản tỉnh được coi là "cò mồi" như Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Trần Độ .... để giúp đảng được thế giới, nhất là Hoa Kỳ ca tụng: "Việt Nam có cải thiện tình trạng nhân quyền, tự do tôn giáo" để tập đoàn băng đảng siêu cướp nhận thêm nhiều viện trợ, đầu tư hầu đảng bền, nhà nước vững. Nếu Ngài nguy hiểm, và phản tỉnh thiệt tình, thì đã bị bắt và bị miệng như linh mục Nguyễn Văn Lý từ lâu, chớ không để tự do sinh hoạt và tiếp tục chống đảng và nhà nước, lập từ báo CHUI mà mọi người đều biết Ngài chủ trương, thì còn gì là chui nữa:

"Phản tỉnh coi chừng lũ cò mồi.
Đó là sách lược, hỏa mù thôi.
Đứa hô chống đảng, toàn tham những.
Kẻ lại la to: quản lý tồi.
Lập đảng đối lập dành dân chủ..
Xuất ngoại nhi nhô, lộ mặt rồi.
Chống đảng chớ nào phải chống Cộng.
Trò hề cứu đảng sắp đi toi.".

Trong một bài viết của Nguyễn Đạt Thịnh, tựa là "Endorsement" đăng trên take2 tango, có nói về gã chúa ngục tên là TRẦN TRỌNG DUYỆT, 75 tuổi, trước đây mang quân hàm đại tá "quân hại nhân dân" hay là trong lực lượng Bò Vàng: "Còng-Ăn nhân dân"? Tên nầy từng một thời hét ra lửa, mửa ra khói trong tù, mà người dân nông thôn miền Nam ví con bằng câu tục ngữ rất bình dân học vụ là: "Cỡi lưng heo nái, bắn nạng dàn thung". Tên chúa ngục cao cấp nầy đã HỒI HƯU từ lâu, nhưng gần đây là "HÙ HÔI" với ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ John Mc Cain. Trước đây trong thời chiến tranh, chúa ngục Trần Trọng Duyệt, được đảng bố trí công tác thật đặc biệt, quản lý Hỏa Lò, mệnh danh là "khách sạn Hilton" thuộc về "super star" hotel, nên nằm ngoài hạn, vì cái "chế độ" chiêu đãi, ăn ở, phục vụ không có bất cứ Hotel thượng hạng nào trên thế giới có được; điểm đặc biệt là Hỏa Lò Hilton Hotel không bao giờ lấy tiền ăn, ở phục vụ (free), ngoài ra còn có các cố vấn "massage" chuyên nghiệp từ nước Cu Ba được Fidele Castro phái sang để "đấm bóp" miễn phí cho các khách Mỹ; nếu nói theo từ của "đỉnh cao trí tuệ nòi người", thì đây là: "khách sạn sao vàng". Nơi mà tù binh Mỹ bị hành hạ, tra tấn dã man, nên cũng rất cần Linh Mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan "cải thiện", thế mà trong suốt cuộc chiến, tù binh quốc gia, đồng minh và sau cuộc chiến chấm dứt 1975, thì "giờ nầy NGÀI Ở ĐÂU?". Được biết, chúa ngục cao cấp nầy có hai thú vui sau thời gian dài làm việc cho đảng, quản lý tù binh Mỹ: Thứ nhất là cái thú nuôi chim, trong lồng, giống như ông từng giam người và có khả năng:

"Từ vượn lên người mất mấy triệu năm.
Từ người xuống vượn, mất có ba năm"

Như nhà thơ, ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện từng "kinh qua thời kỳ quá độ ngặt nghèo" trong các trại giam hơn 27 năm và lòng "phơi phới một tương lai đen tối", may mắn lắm mới sống sót. Nhưng nuôi chim có cánh nầy cũng thường thôi, hiện ông ta đang có sẵn "con chim không cánh", nuôi chim nầy không cần làm chuồng, lồng ... cho hao tốn công quỹ gia đình, thay vào đó dùng tiền để tu bổ, bảo quản "Lăng Hồ Chủ Tịt" còn có ý nghĩa chính trị, chính em, Chính Mi, chính tớ loài chim không cánh không bao giờ dám vùng lên đòi ăn, hay cất tiếng hót hoặc là "phản tỉnh cuội"... nhưng chim nầy thỉnh thoảng đứng lên làm "cách mạng vùng lên để đổi đời" trong những lúc "cao trào cách mạng" dâng cao như: "dòng thác nắng Cực" khi mà khách MÁ HỒNG cũng trong thời kỳ "quá độ" M....HÁ để "hòa hợp hòa giải" đúng nghĩa, chớ không phải "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" như đảng Cộng Sản tung ra để đánh lừa và được bọn gián điệp nằm vùng, cò mồi hứng lấy, tuyên truyền ở hải ngoại. Loài chim không cánh cao quí nầy cũng thuộc về: "đỉnh cao trí tuệ của giới phụ nữ", dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, nên dân miền Bắc rất quí, là loài chim "thân thương, vô vàng kính yêu", thế "nà" họ sáng tác ra hai câu ca dao rất "cực kỳ chất lượng", ví loài chim không cánh với" vị cha già, cha giả, là vị chủ tịt Hồ Chí Minh dạy đĩ, sống mãi trong sự nghiệp chơi lường, đéo lận ..." được phổ biến rộng rải như CHUI trong xã hội:

"Mỗi năm ba thướt vải thô.
Làm sao che được Bác Hồ em ơi!"

Không biết gã chúa ngục phục viên nầy còn khả năng để "tiến quân trên đường dài" hay là "giã gạo theo tiếng chày trên sóc Bam Bo" để "bác cùng chúng cháu vào hang Pác Pó" mà lòng "phơi phới một tương lai". Nếu gã được Hồ Chủ Tịch truyền lại vài bí quyết như "toa thuốc Bác Mao tặng Bác Hồ", thai nhi ngâm rượu với mật ong Hà Giang thì chim cũng có thể "tiến lên chiến sĩ đồng bào" để "dậy mà đi" mà không quản ngại bao khó khăn, khắc phục đủ thứ. Nhưng nếu cái "sự cố" nếu là chim, tôi sẽ là loài chim không cánh, kết đoàn với phụ nữ trẻ, đẹp, đáng con cháu, như nhạc sĩ họ Phạm, sau khi trở về với: "Tình già trên đồi cỏ non" và nếu vợ hắn có máu Hoạn Thư, cũng nên tìm đến cụ Tổng Bí Thư "Đuổi Mồ" để học cho bằng được bí kíp, từng là bạt vía kinh hồn biết bao "hậu duệ" của Trư Bát Giới ở miền Bắc, đó là "Hoạn Trư Đại Pháp", có khả năng đưa chim từ "đáy quần tà lỏn" bay xuống "Ao Cá Bác Hồ" là coi như: "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, chim nào cũng thiến tuốt".

Thú vui thứ hai là NHẢY ĐẦM, nghe qua cũng "giựt con mắt", khi biết đến những "đỉnh cao trí tuệ" nầy suốt đời phục vụ bác, đảng nên không có thời giờ học chữ, ngoài học tập chính trị, phương án khủng bố, giết dân lành, điều nghiên thủ đoạn gian manh và nhất là "nói láo thì đảng viên Cộng Sản là vô địch" trên thế giới. Từng lên án bọn đế quốc phản động Tây, Mỹ nên cái môn nhảy đầm là "tàn dư lạc hậu, lỗi thời, phản động", thế mà cụ đại tá lại thích, coi là trò tiêu khiểu "chủ yếu" trong cuộc đời còn lại, chờ ngày "tiêu diêu nơi miền hỏa ngục". Nhưng chắc chắn là tên chúa ngục 75 tuổi nầy, một đời phục vụ cho đảng, trước đây "đánh Tây, đánh Mỹ" thì không có "chế độ nhảy đầm", nhưng cái "chế độ" nhảy mương, nhảy hố, nhảy ao, nhảy bụi để tránh pháo binh, máy bay; ngoại trừ "nhảy nọc" với các cô hộ lý, hay thời chiến tranh, miền Bắc có nhiều "phụ nữ neo đơn" trong cảnh phòng không gối chiến, khi chồng đang biền biệt "sinh Bắc tử Nam", được các cán bộ có phe cánh tìm để "nhảy đực" tiếp tục sự nghiệp sản xuất nhao cho đại tướng Võ Nguyên Giáp trong công cuộc phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa "giàu đẹp muôn năm".... Ở miền Trung có "nhảy núi" chỉ những kẻ đi theo Việt Cộng, khủng bố dân lành. Trung tá không quân Phạm Tuân, trình độ lớp 10, năm 1980 được lên phi thuyền với ông thầy Liên Sô, từng được nhà thổ Tố Hữu ca tụng: "chân dép lốp bước lên tàu vũ trụ"; nên cụ đại tá phục viên Trần Trọng Duyệt khi hưởng "chế độ nhảy đầm" mang dép gì, trên đầu có đội nón cối không?. Nếu mang dép râu, đội nón cối mà nhảy đầm, thì cũng nên phổ biến cái MODEL mới để cho dân nhảy đầm ở các nước Tây phương bắt chước.

Không phải tự nhiên một tên chúa ngục cao cấp nầy đưa ra những lời ủng hộ ứng viên tổng thống đảng Cộng Hòa John Mac Cain, đây cũng là "chính sách" đấy. Chúa ngục nầy khoe là từng đối xử tốt với ông Mc Cain, mời lên văn phòng để nói chuyện, không biết nói bằng tiếng Nga, Tàu, Miên hay Lèo hay tiếng Anh? Nhưng ai cũng biết là thời đó ở miền Bắc, tiếng Nga, Tàu và các nước xã hội chủ nghĩa anh em là được "mầm non lẫn mầm già" thi đua học để tiến thân, ngoài Bắc cũng có người học tiếng Anh để tìm hiểu về bọn "đế quốc Mỹ cực kỳ phản động, kẻ thù số một" nhưng số người học tiếng đế quốc Mỹ cũng hạn chế. Như vậy, cuộc đàm thoại giữa chúa ngục Trần Trọng Duyệt và tù binh John Mc Cain có cần thông dịch viên không? Hay là dùng toàn là động từ To Quơ?. Ngày nay, hãy nhìn tên "tưởng thú" là "thủ tướng không người lái" như Phan Văn Khải trước đây, khi "quy mã", lúc đọc diễn văn với tổng thống George.W.Bush, không nói được tiếng Anh, phải móc tờ giấy từ trong túi ra đọc bằng tiếng Việt. Chính vì thế mà có thể gã Cẩu Cao Cầy mới hưởng được "chế độ tà lọt" tháp tùng với các tay lãnh đạo đảng cướp đi công du? Bằng không giống như "giẻ rách" thì đảng cũng đã vứt tên Việt gian Cầy vào thùng rác từ lâu.

Chúa Ngục Trần Trọng Việt trách sao ông Mc Cain lại tố cáo bị tra tấn, khi mà "cách mạng" luôn có chánh sách khoan hồng trước sau như một, đầu tiên là đâm thủng đùi để cho tù biết tội và mời cả cố vấn Cu Ba sang "giáo dục" và "đấm bóp" đến hộc máu những tù binh của "đế quốc Mỹ, kẻ thù số một". Dù sao cũng là một cách nhắc nhở những cựu tù binh Mỹ như John Mc Cain bài học:

"Tra tấn nhớ đảng khoan hồng.
Tù binh nào quên bọn quản giáo".

Tuy nhiên, bất cứ tù nào, khi rời trại thì nào có nhớ đến những bộ mặt từng hành hạ, chửi bới, coi minh thua cả xúc vật, kẻ cả tù làm ăn ten cũng không có cái cảnh:

"Cái cảnh lao tù lưu luyến ấy.
Mến thương chúa ngục, lẫn vệ binh"

Ngoại trừ nhớ đến những lúc bị hành hạ, ấn tượng sâu sắc suốt đời, là vết thương tâm lý không bao giờ lành. Nói về khủng bố là nghề của Việt Cộng, phân tích có ba dạng:

-Khủng bố Đối Tượng: như pháo kích, đặt mìn, ám sát, thủ tiêu, chặt đầu, mổ bụng ...
-Khủng bố tinh thần: dùng khủng bố đối tượng để hù dọa, nên Việt Cộng luôn tập trung dân chúng trong thời kỳ chúng chưa mạnh để xem những cuộc hành huyết tội phản cách mạnh, để dân sợ.
-Khủng bố bằng Dọa Nạt: đây cũng là Black Mail của người Tây Phương hay dùng, biết được những cái xấu, cái kẹt mà hù để thu lợi, hù để lấy tiền, đòi yêu sách, tống tiền thời Tam Quốc, Tào Tháo từng dùng Blackmail là bắt mẹ của Từ Thứ để buộc ông quân sư tài ba danh tiếng nầy phải quy Tào. Thời nay, một số người Việt Nam tỵ nạn hải ngoại, cũng bị Việt Cộng khủng bố bằng cách dọa nạt: "muốn được về thăm quê hương, du hý, du lịch, du dâm ... mà không bị làm khó dễ, thì đừng chống Cộng, biểu tình ...". Một số người mua, cất nhà, có cơ sở làm ăn, thì cũng chịu Blackmail của đảng là không chống Cộng, làm theo những gì đảng muốn khi ở hải ngoại, như tuyên truyền dùm cho đảng là "đổi mới, tiến bộ, tự do ...".

Từ đó, cái vụ quản giáo kiêm chúa ngục phục viên Trần Trọng Duyệt đột nhiên "Tào Tháo kể ơn" đối với cựu tù binh Mỹ, có khả năng là tổng thống đệ nhất siêu cường, cũng có thể là thứ khủng bố dọa nạt, ngầm nhắc nhở rằng: "đấy, hồi đó chú mầy từng được ông giáo dục, nắm hết tẩy liệu hồn, sau nầy nếu lỡ có đắc cử tổng thống cũng phải biết điều, bằng không, ông sẽ đưa ra những gì mà chú mầy nói, cam kết với ông trong tù là mất chức, là nhục đấy". Nhưng liệu ông John Mc Cain có rét cụ chúa ngục nầy không? Đây là vấn đề mà người Mỹ, nhất là các nhà lãnh đạo, dù đảng nào, cũng phải làm theo quyền lợi đất nước, nên ông John Mc Cain cũng ĐẾCH SỢ, ĐÉO NGÁN .... cái "blackmail" của tên cựu chúa ngục vô danh tiểu tốt, tự nhiên nhảy ra hù. Nên liệu gã cán ngố thích nuôi chim và nhảy đầm nầy có được thế giới, các cơ quan truyền thông lớn coi những tài liệu, lời nói có "chất lượng cao" không? Chưa kể đến đụng tới danh dự tổng thống, là điều mà Hoa Kỳ có truyền thống bảo vệ gần như tuyệt đối trong lúc tại chức và hết nhiệm kỳ.

Việt Cộng quen thói khủng bố, non sông dể đổi, bản tánh khó chừa, chúng dùng "khủng bố" như là sách lược trấn đảng, nếu đảng không còn khủng bố nữa, thì coi như sụp đổ. Cho nên, từ trước đến giờ, không có tên nào có "chế độ" ưu ái với ông John Mc Cain, dù lúc ông làm thượng nghị sĩ, từng tới Việt Nam, chửi thẳng vào mặt băng đảng siêu cướp: "Bastard wins the war".

Nhưng khi ông ứng cử tổng thống, thì những hồ sơ cũ thuộc loại "blackmail" được tung ra, mở màn là tên chúa ngục phục viên Trần Trọng Duyệt. Cũng có thể là đảng Cộng Sản nhờ ông Bush giúp đỡ khá nhiều, tạo mối quan hệ gần gũi, nên đảng cũng muốn người kế tục là John Mc Cain cũng phải đi theo con đường cũ nên mới ra lịnh cho tên chúa ngục phục viên lên tiếng ủng hộ, nhằm bày tỏ thiện chí?.

Những người ở tù dưới chế độ Cộng Sản, dù chỉ một ngày, cũng nhớ mãi không quên. Quân nhân cán chính miền Nam, vốn sống quen với cực khổ trong chiến tranh chống bọn xâm lấn Cộng Sản Bắc Việt và tay sai Việt Cộng miền Nam, thế mà khi vào tù, dưới mỹ từ "cải tạo" cũng với với và nhiều người bị chết. Huống chi những người Mỹ, có cuộc sống đầy đủ, tiện nghi vật chất cao, nên khi họ bị giải vào Hỏa Lò Hilton Hotel, thì phải có ấn tượng sâu sắc, nhớ mãi mãi và viết lại để cho hậu thế cùng chia sẻ nỗi thống khổ nhất trong đời. Ông John Mc Cain cũng như tất cả các cựu tù binh Mỹ, có ai quên được những ngày đen tối ấy, xin nhắc nhở với băng đảng siêu cướp và đám cai tù là đừng nên dùng lối khủng bố Blackmail để hù người khác, nhất là khi người đó làm tổng thống đệ nhất siêu cường.

Trương Minh Hòa

Cộng Đồng San José có sẵn sàng "chào đón" HY Phạm minh Mẫn hay chưa ? Giáo Dân sẽ Ủng Hộ Cờ Vàng hay ủng hộ Đạo (Vatican ) ?




Sau đây là thông cáo của linh mục Nguyễn Minh Hiền, Chánh xứ St Patrick, San Jose:
"THÔNG BÁO VỀ CHUYẾN THĂM VIẾNG SAN JOSE CỦA ĐỨC HỒNG Y GIOAN B. PHẠM MINH MẪN.

Tháng vừa qua, Đức Cha Patrick McGrath, Giám Mục Giáo Phận San Jose, báo cho cha Nguyễn Minh Hiền, Đại Diện Giám Mục, đặc trách Mục Vụ Việt Nam, biết là Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã liên lạc với ngài. Trong chuyến thăm viếng bà con ở San Jose, Đức Hồng Y có ngõ ý muốn dâng một Thánh lễ tại giáo xứ Việt Nam St Patrick Proto Cathedral và một thánh lễ nữa hoặc tại St Maria Goretti Church (SMG) hoặc tại Most Holy Trinity (MHT).

Sau khi liên lạc với Đức Ông Đỗ Văn Đỉnh (SMG) và Cha Ngô Anh Lân (MHT). Cha Hiền xin thông báo chương trình dâng Thánh Lễ của Đức Hồng Y như sau:

a) tại nhà thờ St Maria Goretti, Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2008 lúc 6 giờ 30 chiều; và
b) tại giáo xứ Việt Nam St Patrick Proto-Cathedral, 6 tháng 7, 2008, lúc 8 giờ 45 sáng".

Xin phổ biến rộng rãi để tất cả giáo dân Việt tị nạn Cộng Sản ở San Jose và vùng phụ cận đến tham dự 2 thánh lễ này.

Đây là vị Đặc Sứ Toàn Quyền Lưu Động vừa Đời vừa Đạo. Đức Hồng Y còn là nhân vật quan trọng gấp mấy 2 tên Việt Cộng Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Vì 2 tên này trước khi xuất ngoại chúng chỉ "van xin" người Việt tại hải ngoại đừng biểu tình, đừng đem Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ra dọa chúng. Ngoài ra, chúng luôn luôn phải chui cửa hậu.

Còn Đức Hồng Y thì trước khi ra đi đã ra lệnh cho các nơi tiếp đón không được có cờ Vàng Ba Sọc Đỏ xuất hiện. Ngài không chui cửa hậu mà còn được rướcc đón một cách long trọng. Chỗ nào có cờ Vàng đã có Tuận phá bỏ trước khi lọt vào mắt Đức Hồng Y.

Hồng hơn Chuyên, nhưng Đức Phạm Minh Mẫn vừa Chuyên vừa Hồng, đỏ hơn Trung Ương Đỏ.

Xin đồng hương tham dự, đón tiếp phải gấp mấy chục lần đón ĐGM Nguyễn Chí Linh.

Micae Lê Văn Ấn.
Kẻ Phản Động đối với Đảng
Phản Đạo Quốc Doanh.
Lê Văn Ấn

ĐỨC HỒNG Y PHẠM MINH MẪN.
Lê Văn Ấn

Theo thông báo chính thức của linh mục Gioan Têrêxa Nguyễn Minh Hiền, chánh xứ St Patrick, Đại diện Giám mục Đặc trách Mục vụ Việt Nam, thì Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ dâng 2 thánh lễ tại San Jose, một tại nhà thờ St Maria Goretti lúc 6:30 chiều ngày Thứ Bảy 5.7.2008 và một lễ khác tại nhà thờ St Patrick lúc 8:45 sáng Chủ Nhật, 6.7.2008.

Những tin tức từ Nam California cho chúng tôi biết, giáo dân cũng như đồng hương ngoài Công Giáo ở Nam California đã bày tỏ sự phản đối Đức Hồng Y Pham Minh Mẫn với Đức Cha Mai Thanh Lương cũng như các linh mục trong vùng, do đó, những thánh lễ do Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn dự trù cử hành tại đây đã bị bãi bỏ. Đây là một việc làm rất đáng tiếc của giáo dân và đồng hương tại Nam California, nhưng căn cứ vào những lời tuyên bố của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn những ngày gần đây, đã chứng tỏ Ngài đang làm một công việc rất lợi ích cho Cộng Sản Việt Nam, và cũng bất lợi cho tín lý Công Giáo qua bức thư ngỏ của Ngài gởi cho 3 Giám mục Việt Nam sẽ tham dự Hội nghị Giới Trẻ Thế Giới tại Úc, thì việc làm của giáo dân cũng như đồng hương Nam California là một việc làm chính đáng.

Bức thư của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn được chia ra làm 6 đoạn có đánh số thứ tự. Trong Mục 2 Ngài viết: “WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ Việt Nam từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung”.

Qua đoạn văn này, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không phản ảnh trung thực sự việc. Không có sự tắc nghẽn như Ngài nói, không có một sự kiện (sự cố, ngôn ngữ của VC) nào đáng tiếc xảy ra. Trái lại, khi được dưong lên, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã được hoan hô. Đây chỉ là cái cớ, vu vạ cho lá cờ Vàng mà thôi.

Ở đoạn 2, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết: “… Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đấtr nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa, chủ nghĩ tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia… Có lúc chỉ biểu tượng một thói đời mang tính đối kháng”.

Rõ ràng, Đức Hồng Y đã gán cho chúng ta, những người Việt tị nạn Cộng Sản nói chung và người Công Giáo tị nạn Cộng Sản nói riêng, là những “thói đời mang tính đối kháng”. Câu nói vô nghĩa, nhưng nó lại mang tính miệt thị người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại đã đối kháng những gì? Chúng ta, chẳng những đối kháng mà còn đấu tranh chống lại độc tài đảng trị của Cộng Sản Việt Nam, chúng ta đã chống đối (hay đồi kháng) chủ nghĩa tam vô của Cộng Sản, chúng ta đối kháng với đàn áp tôn giáo, tại Việt Nam. Những sự đối kháng này phù hợp với văn minh nhân loại, phù hợp với giáo lý Công giáo, thế mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã miệt thị chúng ta. Và như vậy, rõ ràng Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã đứng về phía Cộng Sản Việt Nam đề mỉa mai sự đối kháng này. Với lòng dạ của Đức Hồng Y như vậy, quả thật Ngài đã chống lại giáo lý Công giáo, chống lai văn minh nhân loại. Nói như vậy, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã mất tính đối kháng sự dữ, sự dối trá, do đó, Công an Việt Cộng đã đưa nước vòi rồng xịt thẳng vào mặt Đức Mẹ trước nhà thờ Đức Bà, ngài cũng vui vẻ.

Ngài hứa với giáo dân sẽ điều tra vụ Đức Mẹ Khóc, nhưng mấy năm qua rồi, vì mang tính không đối kháng nên Ngài vẫn im lặng. Ngài còn im lặng trước nhiều sự việc khác.

Cũng trong mục số 3 này, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn viết: “người mẹ Việt Nam , lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hóa của dân tộc VN, một nền văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức.”

Không biết Đức Hồng Y căn cứ vào đâu mà cho rằng lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ) Mẹ Việt Nam cũng sinh thành dưỡng dục và để lại di sản văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức cho con cái. Phải chăng, đó là Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Ðất giết hại hàng trăm người Việt vô tội, giết hàng trăm, người tu hành, mà sư phụ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ là một ví dụ cụ thể nhất và còn nhiều nhiều nữa, đến nỗi Ðức Piô 12 đã có những quyết định hết sức nghiêm khắc với những đảng viên Cộng Sản. Xin Ðức Hồng Y đừng đồng hóa Mẹ Việt Nam với Cộng Sản. Trên thực tế, lúc cái áo đỏ được Cộng Sản trùm lên dân tộc thì nền văn hóa của các dân tộc trong đó có dân tộc Việt Nam, đều bị Cộng Sản ra tay phá hoại, tiêu diệt. Nói rằng lúc bận áo đỏ (cờ đỏ) văn hóa truyền thống Việt Nam được mẹ áo đỏ này để lại hay làm phong phú thì quả thật Ðức Hồng Y đã CHÀ ÐẠP SỰ THẬT một cách tàn nhẫn.

Ở đoạn 4, Ðức Hồng Y cho rằng: “Ðời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng và loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ chung một mẹ.”.

Giọng văn của Ðức Hồng Y thật là gay gắt đối với “thói đời mang tính đối kháng” như vậy! Những thói đời đối kháng này đã rất hào hiệp khi Ðức Hồng Y đứng trước cửa nhà thờ ngửa tay ra với họ. Những thói đời mang tính đối kháng này đã vì muốn sống đời tự do dân chủ, tự do thực hành tôn giáo của mình mà phải ra đi, thế mà Việt Cộng vẫn chưa chịu buông tha, vẫn cho những cán bộ tuyên vận của chúng ra rủ rê, tuyên truyền lôi cuốn, chia rẽ họ. Ai là “thói đời mang tính đối kháng” nếu không phải là Việt Cộng và những cán bộ tuyên vận của chúng? Từ khi bức thư của Ðức Hồng Y được phổ biến, nó đã gây nên một luồng dư luận xấu cho Giáo Hội Công Giáo, nó đã bị những kẻ bị Ðức Hồng Y khinh miệt, gọi là “thói đời mang tính đối kháng” không phần biệt lương giáo phản đối. Tôi không tin rằng Ðức Hồng Y không tiên đoán (hay dự kiến, danh từ VC) những phản ứng này, tại sao Ðức Hồng Y vẫn làm? Tại vì Ðức Hồng Y muốn chia rẽ giới trẻ trong và ngoài nước, tại vì Ðức Hồng Y muốn tâng công với Việt Cộng, miệt thị người Việt tị nạn Cộng Sản, tại vì Ðức Hồng Y muốn hưởng những bổng lộc của Việt Cộng nên mới gieo một mầm mống chia rẽ giữa Ðại Hội Giới Trẻ. Không phải một mình tôi nói, mà có hàng ngàn tiếng nói, ngay cả Ban Tổ Chức cũng phản đối âm mưu chia rẽ của Ðức Hồng Y. Nếu những lời này Ðức Hồng Y “giảng” trong một thánh đường, giữa một buổi hội họp của Việt Cộng, chắc chắn Việt Cộng không để yên cho Ngài. Nhưng ngài nói trong một bức thư phản đối sự hiện diện của cờ Vàng thì quả thực, Ðức Hồng Y đã cho người Việt tỵ nạn Cộng Sản là loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ con cái chung một dân tộc.

Cộng Sản đã không ở yên ngoài Bắc theo hiệp định Genève, Cộng Sản đã tấn công miền Nam, những người Việt không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản đã vượt biên, vượt biển để sống đời tự do, Việt Cộng còn không chịu, còn vươn tay ra phá hoại, lũng đoạn. Ðức Hồng Y ra hải ngoại mượn danh là “làm mục vụ di dân” mà thực chất là quyên góp tiền bạc. Ðiều này không có gì sai trái, nhưng đả kích cái biểu tượng thiêng liêng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt tỵ nạn là một hành vi tuyên truyền cho Việt Cộng, lại gọi những người Việt tị nạn là kẻ “thói đời mang tính đối kháng” là một hành vi không thể chấp nhận được. Ðó chẳng những là hành vi làm tắc nghẽn sự hiệp thông mà còn là một hành vi “loại trừ nhau trong hàng ngũ con cái chung của một dân tộc. Tiếc thay, Ðức Hồng Y đã làm những điều đó.

Ở đoạn 3, khi đưa ra 3 ví dụ về “giá trị tinh thần và đạo đức của nền văn hóa Việt Nam", Ðức Hồng Y đã không đưa ra được một ví dụ nào về “tinh thần và đạo đức” của “mẹ Việt Nam” khi “bận áo đỏ”. Chúng tôi biết, trong ví dụ “tứ hải giai huynh đệ” có thể Ðức Hồng Y muốn đạo văn của người xưa, làm cho người đọc liên tưởng đến “thế giới đại đồng” của Cộng Sản. Nếu Ðức Hồng Y muốn giả mù sa mưa thì quả thật hết sức sai lầm, Ðạo Công Giáo cũng “tứ hải giai huynh đệ”, yêu tha nhân như chính mình như Nho Giáo nhưng cách tạo nên “tứ hải giai huynh đệ” khác với thế giới đại đồng như nước với lửa, một bên là lấy nhân ái thu phục nhân tâm cho họ tiến tới giai huynh, một bên là lợi dụng đại đồng để dùng võ lực và tàn ác xích hóa nhân loại. Ðức Hồng Y cho Việt Cộng “ăn theo” “giữ chực” trong đoạn văn này. Việt Cộng sẽ khen Ðức Hồng Y, tặng huy chương tuyên truyền hạng nhứt cho Ngài. Nhưng đối với chúng tôi, những người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại rất buồn, vì Cộng Sản đã tha hóa quý vị lãnh đạo tôn giáo đến độ nhuần nhuyễn. Trước đây, chúng tôi trách cố Giám Mục Nguyễn Quang Tuyến, Giám Mục Bắc Ninh đã dùng chữ “thuần hóa” để chỉ xu hướng của các Giám Mục. Nhưng lời nói đó nay đã được Ðức Hồng Y chứng quả.

Giáo dân hay không phải giáo dân, tất cả người Việt tỵ nạn Cộng Sản, đang đứng dưới lá cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, đang xem lá cờ này tượng trưng cho quốc gia dân tộc, không thể chấp nhận những kẻ miệt thị nó, chê bỏ nó. Cách hay nhất là chúng ta ĐƯA LÁ CỜ NÀY đến bất cứ nơi nào có sự xuất hiện của hạng người này, dù là chức sắc của bất kỳ tôn giáo nào. Cách hay nhất để những kẻ này không đến “đối kháng” với chúng ta là không giao thiệp với họ, không làm bất kỳ công việc nào dính dáng tới họ.

Lê Văn Ấn

Hoàng Duy Hùng Trả Lời Cáo Buộc Của Quyển Sách Thế Lực Đen

Cuối tháng 5/2008, nhà văn Nguyễn Nhiếu Nhẫn bút hiệu Lão Móc, trong mục giới thiệu sách của báo Tiếng Dân, cho biết bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh sẽ cho ra mắt quyển sách mới với tựa đề Thế Lực Đen. Bài này cũng được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới.

Theo ông Nguyễn Thiếu Nhẫn, nội dung của quyển sách nói rõ những người ở trong Thế Lực Đen đó là tình báo số 1 của Cộng Sản ở hải ngoại, và những người đó gồm có ông Khánh ở Bắc California, ông Nguyên Khôi Đài Quê Hương, và Hoàng Duy Hùng. Ông Nguyễn Thiếu Nhẫn trích lại lời bà Ngọc Hạnh cho biết lần đầu tiên bà gặp ông Khánh vào năm 2000, ông Khánh khoe cho bà biết kèm theo những bằng chứng là đã đưa cho Hoàng Duy Hùng hơn 800 ngàn Mỹ Kim để hoạt động tình báo, ông Nguyên Khôi là người vạch ra kế hoạch, và Hoàng Duy Hùng là người thi hành kế hoạch. Bà Ngọc Hạnh cũng cho biết trong lúc bà bị giam trong tù ở bên Anh, Hoàng Duy Hùng gởi em gái ruột hiện nay là luật sư Teresa Ngọc Hoàng sang Anh cấu kết với ông Ngô Ngọc Hiếu để đầu độc bà, may thay, bà bị trúng độc mà không chết, bà rộng lượng bỏ qua chuyện này không truy cứu! Bà kết luận Thế Lực Đen đó tìm cách đưa Hoàng Duy Hùng về Việt Nam làm Tổng Thống.

Trong khoảng 25 năm hoạt động đấu tranh cho Tự Do - Dân Chu ?, không biết bao nhiêu lần người ta chụp cho tôi cái nón cối tình báo Cộng Sản. Tôi nói với các anh em: "Đấu tranh mà được người ta khen là yêu nước thì còn dễ. Đấu tranh mà bị người ta chụp mũ, hiểu lầm, vẫn kiên trì đấu tranh, thì đó mới nói lên lòng thành của mình cho Mẹ Việt Nam trong một cơ chế dân chủ tự do thật sự." Tôi biết ở hải ngoại lòng người ngao ngán vì những chụp mũ cáo buộc lẫn nhau. Đáng lẽ tôi không viết bài trả lời bà Ngọc Hạnh vì những sự cáo buộc nhí nhảm đó, nhưng không trả lời thì có người cho rằng thinh lặng là đồng ý. Hơn nữa, bà Ngọc Hạnh chụp mũ tình báo cộng sản cho ông Khánh, một thương gia có hảo tâm cho công cuộc chung đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản, không bênh vực ông tôi cảm thấy thiếu trách nhiệm đối với một ân nhân. Do đó, tôi xin lỗi làm phiền quý độc giả phải mất thời giờ quý báu để đọc những lời trần tình này.

I. Các Sự Kiện: Trước năm 2000, không mấy ai biết đến bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh. Trong một buổi biểu tình 30/4 tại Paris do nha sĩ Lê Minh Tài và ông Lê Minh Triết tổ chức, Ban Tổ Chức thấy có một phụ nữ Việt Nam ngất xỉu, áo choàng hơi mùi xăng. Người ta lật đật hỏi bà, bà cho biết danh tánh là Nguyễn Thị Ngọc Hạnh ở một tỉnh lẽ Rennes , muốn nhân cơ hội 30/4 lên Paris tự thiêu để phản đối nhà cầm quyền Cộng Sản, và e sợ tự thiêu không thành, bà đã uống cả một chai thuốc 150 viên. Ban Tổ Chức nghe như vậy lật đật đưa bà vào nhà thương để xổ ruột. Ban Tổ Chức gọi báo cho tôi biết, lúc đó tôi đang tham dự biểu tình 30/4 ở San Jose, nghe câu chuyện này, tôi xúc động mạnh mẽ, tôi thông báo cho quý đồng hương biết sự kiện có một phụ nữ ở Paris muốn tự thiêu để phản đối Cộng Sản trong dịp 30/4. Đài Quê Hương và các đài phát thanh ở Hoa Kỳ lập tức liên lạc với Ban Tổ Chư'c ở bên Paris để kiểm chứng và loan tin này. Danh tiếng bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh nổi lên từ đó.

Bà Nga Bùi gọi vào Đài Quê Hương yêu cầu đài hãy thận trọng đừng "thổi" bà Ngọc Hạnh lên quá vì chúng ta chưa biết đích xác lai lịch của bà Ngọc Hạnh. Theo bà Nga Bùi, muốn tự thiêu thì cứ tẩm xăng vào người, không phải tẩm xăng vào áo choàng, quẹt châm lửa tự thiêu, làm sao nói gió thổi tắt được? Bà Nga Bùi nghi ngờ đây là tự thiêu giả với một ý đồ gì đó chưa có rõ. Bà Nga Bùi lý luận một người uống 150 viên thuốc không thể chịu đựng dai dẳng như vậy và sau một ngày xổ ruột lại đi ra khỏi nhà thương. Sau này Ban Tổ Chức ở Paris cho biết bà Ngọc Hạnh vào nhà thương, trốn đi, không có xổ ruột. Khi ấy có một số người nghi ngờ bà Ngọc Hạnh là tình báo cộng sản dùng khổ nhục kế gây niềm tin để xâm nhập vào hàng ngũ quốc gia chống Cộng sau đó sẽ quay lại đánh phá tan nát hàng ngũ này. Nếu bà Ngọc Hạnh trong sáng rất mong bà cung cấp cho mọi người hồ sơ xổ ruột ở bệnh viện Paris.

Thời gian đó, Đài Quê Hương đã vì cảm tính nên phản ứng dữ dội, bênh vực tâng bốc bà Ngọc Hạnh là "anh thư", từ đó đưa đến sự rạn nứt giữa Đài Quê Hương và bà Nga Bùi. Tôi cố gắng làm trung gian hòa giải nhưng không xong. Tôi thấy lý luận của bà Nga Bùi có cơ sở, khuyên bà Đoan Trang chỉ nên loan tin như loan tin tức, không nên tâng bốc quá mức, và cũng chính vì lời khuyên này tôi bị bà Đoan Trang giận hờn.

Tháng 6 năm 2000, tôi bay qua Pháp, tôi hỏi Ban Tổ Chức, Ban Tổ Chức cho biết không biết bà Ngọc Hạnh là ai, chỉ biết bà từ Rennes tới. Theo Ban Tổ chức, bà Ngọc Hạnh tự thiêu thật hay giả không quan trọng, quan trọng là dùng sự kiện này để cổ súy tinh thần đấu tranh. Trong dịp này, tôi gặp bà Ngọc Hạnh, đây là lần đầu, bà Ngọc Hạnh yêu cầu tôi giúp hai việc:

1. Yểm trợ tài chánh;
2. Giới thiệu gặp những người yêu nước đấu tranh ở Na Uy, Anh, và ở Hoa Kỳ. Tôi yểm trợ bà tài chánh. Trong quyển Lửa Tự Do, bà Ngọc Hạnh đã xác nhận có nhận tiền của tôi. Tôi cũng giới thiệu bà Ngọc Hạnh cho ông Nguyễn Hoàng Long ở bên Na Uy và ông Ngô Ngọc Hiếu ở bên Anh. Tôi trở về Hoa Kỳ, ông Nguyễn Hoàng Long ở bên Na Uy báo cho tôi biết bà Ngọc Hạnh có đến Na Uy, không ở nhà ông Long, ở khách sạn, tháp tùng có ông Phạm Anh Cường. Ông Long cho biết bà Ngọc Hạnh đã có chồng con lại đi ở khách sạn với một đàn ông khác, dễ bị dị nghị. Tôi cố gắng bênh vực bà Ngọc Hạnh, nhưng ông Long nhất định không chịu hợp tác với bà Ngọc Hạnh vì cho rằng không rõ lai lịch của bà.

Tháng 8/2000, bà Ngọc Hạnh được bà Đoan Trang mời qua Hoa Kỳ. Tôi không có ý kiến về vấn đề này. Bà Đoan Trang đưa bà Ngọc Hạnh và ông Phạm Anh Cường đến gặp ông Khánh. Đây là lần đầu tiên ông Khánh gặp bà Ngọc Hạnh và ông Cường. Ông Khánh gọi điện thoại cho tôi, hỏi tôi có biết chuyện này hay không, tôi trả lời không biết và do bà Đoan Trang quyết định. Ông Khánh hỏi tiếp tôi có ủng hộ bà Ngọc Hạnh hay không, tôi trả lời có, cả tinh thần lẫn tài chánh. Ông Khánh nói: "Tính anh Hùng nhẹ dạ hay tin người. Khi thấy bà Ngọc Hạnh có chồng con mà đi với ông Phạm Anh Cường thì tôi không ủng hộ." Tôi trả lời: "Đi chung đâu có nghĩa là có gì mà anh phải quan tâm? Anh ráng ủng hộ đi, không nhiều thì ít để cho các chiến sĩ ra đấu tranh lên tinh thần." Ông Khánh trả lời: "Thôi, vì anh nói, tôi ủng hộ $1000." Có lẽ vì lý do đó nên bà Ngọc Hạnh giận ông Khánh, chụp cho ông Khánh cái nón cối tình bào số 1 của Cộng Sản. Tôi và vài người nữa ở San Jose biết rất rõ lai lịch của ông Khánh. Ông Khánh là một người vượt biên tỵ nạn Cộng Sản, trở thành một thương gia, trúng thị trường chứng khoán, ông dùng số tiền kiếm được để yểm trợ cho công cuộc chung đấu tranh chống Cộng Sản. Ông yểm trợ với danh nghĩa ẩn danh cho nhiều chương trình.

Thời gian này tôi được sự ủng hộ của nhiều cư dân San Jose, có người gọi điện thoại lên trên Đài Quê Hương nói bầu chọn tôi làm Tổng Thống. Tôi trả lời cơ chế Tổng Thống là cơ chế dân chủ, phải do đa số dân chúng bầu mới có hiệu lực. Tôi nói rất rõ đó là nếu trong một chế độ dân chủ, dân chúng bầu tôi làm Tổng Thống, tôi sẽ nhận để thi hành những chính sách mà tôi cho rằng có lợi cho dân tộc. Bà Đoan Trang và ông Nguyên Khôi hay nói đùa nay mai Cộng Sản sụp đổ thì phải tìm cách đưa ông Hoàng Duy Hùng lên làm Tổng Thống. Tôi đã phải vội vàng ngăn cản xin đừng nói đùa như vậy kẻo ai nghe được hiểu lầm vì trong cơ chế dân chủ mọi chuyện phải do lá phiếu chân chính của người dân.

Tháng 9/2000, bà Ngọc Hạnh về Pháp, bà liên lạc với ông Ngô Ngọc Hiếu và qua bên Anh. Theo bà, bà sẽ làm "một cú ngọan mục" ở bên Anh. Tháng 10/2000, sau 6 năm làm đám cưới, tôi có đưa con đầu lòng. Tôi nhận được tin bà Ngọc Hạnh tấn công muốn đốt Tòa Đại Sứ việt Cộng ở bên Anh. Nghe tin đấu tranh này của bà Ngọc Hạnh, tôi mừng ứa lệ vì tôi nghĩ như vậy sẽ đánh tan những dư luận tiêu cực về bà Ngọc Hạnh. Vì có đứa con đầu lòng còn quá non yếu, tôi không qua Anh được, tôi cử em gái ruột của tôi là Teresa Ngọc Hoàng qua làm hồ sơ để giúp bà Ngọc Hạnh trình bày nguyên do cuộc đấu tranh của mình ngõ hầu Tòa có thể thông cảm giảm khinh. Trong lúc ở nhà một tháng chăm sóc cho đứa con thơ, tôi viết Hồi Ký Việt Nam Trong Trái Tim Tôi, và trong cuốn hồi ký này, tôi viết rõ lòng mừng vui của tôi yểm trợ bà Ngọc Hạnh tối đa. Cô Teresa Ngọc Hoàng qua bên Anh 2 tuần, ở nhà ông Ngô Ngọc Hiếu, dịch rất nhiều tài liệu sang tiếng Anh, trình bày ngọn ngành nguyên do cuộc đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản.

Là một luật sư được đào tạo ở Hoa Kỳ, tôi rất hiểu hành vi và động lực của một vụ án là hai đề tài khác nhau. Hành vi đốt cháy xém cổng Tòa Đại Sứ được xử trước, sau khi kết án thì mới luận đến lý do hành động để được giảm khinh. Thời gian này tôi vận động các đài phát thanh và các hội đoàn đảng phái để yểm trợ cho bà Ngọc Hạnh. Cô Teresa Ngọc Hoàng trở về Hoa Kỳ vào giữa tháng 11/2000. Thới gian đó, bà Ngọc Hạnh đã nói trên các đài phát thanh cám ơn sự hỗ trợ của tôi và của cô Teresa Ngọc Hoàng.

Sang năm 2001, đang lúc ở Thái Lan, tôi nhận được tin bà Ngọc Hạnh nhận là bị bệnh tâm thần để Tòa cho đi chữa trị và thả bà ra. Bà Ngọc Hạnh tuyên bố với các đài phát thanh bà được trắng án. Là một luật sư, tôi hiểu để được trắng án thì phải có phiên tòa, Tòa xử hành vi trước. Bà Ngọc Hạnh có hành vi đốt cháy xém cổng Tòa Đại Sứ Việt Cộng thì không thể nói là trắng án. Chí có xét đến động lực để được giảm khinh. Tôi tin sự thông báo của ông Ngô Ngọc Hiếu là bà Ngọc Hạnh nhận có bệnh tâm thần để được đưa vào nhà thương điên chữa trị rồi thả ra. Như thế Cộng Sản dễ dàng mỉa mai những người đi đấu tranh mắc bệnh tâm thần. Tôi gọi điện thoại về cho bà Đoan Trang, yêu cầu bà Đoan Trang đừng loan tin bà Ngọc Hạnh được trắng án. Bà Đoan Trang giận tôi. Sau này ông Ngô Ngọc Hiếu đã đưa ra bản sao bà Ngọc Hạnh nhận là bị bệnh tâm thần xin đi chữa trị ở nhà thương điên. Nha sĩ Đàm Bảo Kiếm ở Nam California có sao chụp và đăng nguyên văn hồ sơ này trên trang nhà Bạch Đằng Giang. Mong bà Ngọc Hạnh cung cấp hồ sơ trắng án của bà để làm sáng tỏ vấn đề này.

Tôi trở về Hoa Kỳ vào tháng 6/2001. Thời gian này CSVN trả tự do cho anh Paul Nguyễn, tôi đón anh Paul Nguyễn ở phi trường Los Angeles và cả hai cùng lái xe lên San Jose . Tôi lên gặp bà Đoan Trang. Bà Đoan Trang không có nồng hậu với tôi nữa vì cho rằng tôi đã chấm dứt yểm trợ bà Ngọc Hạnh. Bà Việt Nữ gọi điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi phải yểm trợ bà Ngọc Hạnh, tôi trả lời, trước đây tôi yểm trợ bà Ngọc Hạnh cả tinh thần lẫn vật chất, nhưng bây giờ cho tôi thinh lặng. Từ đó bà Việt Nữ giận tôi luôn. Ai muốn yểm trợ bà Ngọc Hạnh, tôi không phản đối, nhưng tôi có quyền thinh lặng trong vấn đề này. Tôi và anh Paul Nguyễn tới Đài Quê Hương, và tình cờ tôi thấy bà Ngọc Hạnh bước vào. Đây là lần thứ hai tôi gặp bà Ngọc Hạnh. Bà Ngọc Hạnh chào xã giao. Sau đó, chúng tôi tham dư. Ngày Quân Lực 19/6. Đó là lần chót tôi gặp bà Ngọc Hạnh.

Đánh hơi được bà Đoan Trang vì quá ủng hộ bà Ngọc Hạnh nên không còn sáng suốt, trong một buổi cơm tối với các chị phụ nữ Khóa 23 của Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, tôi tuyên bố tôi thấy mây mù bão táp đang kéo đến, tôi đóng cửa gài then thật kín, không xuất hiện ở San Jose nữa. Các chị hỏi tôi nguyên do, tôi xin các chị thông cảm vì không thể nói được. Tôi lặng thinh cho tới ngày hôm nay. Ngày hôm sau, tôi họp Phong Trào Quốc Dân Việt Nam Hành Động, trong đó có cu. Nguyễn Mạnh Hùng, anh Trần Long, anh Nguyên Khai, đưa đến quyết định Phong Trào và cá nhân tôi sẽ rút vào trong thinh lặng ở San Jose cho tới khi nào "sự hiểu lầm" với Đài Quê Hương được giải tỏa" và cho tới khi nào tình hình đấu tranh chung thuận lợi hơn.

Tháng 7/2001, tôi về lại Texas . Bà Đoan Trang cùng với bà Ngọc Hạnh mở phiên họp với khoảng 40 thân hữu của Đài Quê Hương. Trong phiên họp này, bà Ngọc Hạnh tuyên bố Hoàng Duy Hùng là cộng sản, nhận $500 ngàn Mỹ Kim của ông Khánh (Bây giờ trong cuốn Thế Lực Đen lại nói hơn 800 ngàn!!). Bà Ngọc Hạnh vu cáo tôi là đang ở Paris họp báo tố cáo bà, ông Hùng Lâm và bà Hồng Nguyên gọi điện thoại tới nhà tôi, tôi trả lời điện thoại, họ chưng hửng. Các chị phụ nữ như bà Đào Thị Xuân đã bất mãn phản đối kịch liệt. Từ đó các chị phụ nữ không yểm trơ. Đài Quê Hương và bà Ngọc Hạnh nữa, bà Ngọc Hạnh lập tức vu chụp cho các chị ấy đủ điều.

Rồi bà Ngọc Hạnh "tự thiêu" nhân chuyến ông Nguyễn Tấn Dũng lúc ấy là Phó Thủ Tướng CSVN đến Bắc California . Nhiều người gọi tôi, tôi nói, cho tôi thinh lặng trong vấn đề này. Đối với tôi, Hồi Giáo ôm bom tự sát đâu cần phải nói, hành vi của họ quá khích nhưng họ dám làm. Tự thiêu hụt một lần thì còn có thể nói là sơ sót và bỏ qua được, tự thiêu hụt nhiều lần làm cho kẻ thù có cảm giác người Quốc Gia hề hóa cuộc đấu tranh. Nhiều người đã gọi cách diễu cợt "anh thư tự thiêu không hề cháy" làm những người đấu tranh nghe cảm thấy tái tê trong lòng. Tôi nghe nói bà Ngọc Hạnh tưởng đồng bào biểu tình rầm rộ thì Mỹ sẽ trả tự do cho bà. Sau vu. Khủng Bố 911, Tòa phạt bà Ngọc Hạnh 5 năm tù. Tôi cảm thương cho những ngày tù tội của bà, nhưng đó là luật pháp của Hoa Kỳ. Bà cay cú than phiền với nhiều người Đài Quê Hương đem con bỏ chơ. Có phải đây là lý do tại sao kỳ này bà chụp cho Nguyên Khôi cái nón cối tình báo số 1 của Cộng Sản?

Trong thời gian này có người đề nghị sẵn sàng cho tôi giờ phát thanh ở Bắc California tấn công Đài Quê Hương và bà Ngọc Hạnh. Tôi trả lời tôi không làm như vậy được vì như thế sẽ gây phân hóa sức mạnh đấu tranh. Thời gian sẽ làm sáng tỏ mọi việc. Giá trị đạo đức Đông Phương không cho phép một người đã chung lưng đấu tranh vài năm trời chỉ vì một chút hiểu lầm mà lại sát phạt nhau. Không thích nhau thì thinh lặng. Trong năm 2000, tôi đã nói với bà Đoan Trang hãy coi chừng những người chuyên ngon ngọt nịnh hót bà, chính những người đó khi quay lại sẽ đâm bà lút cán.. Lúc ấy bà Đoan Trang căm giận tôi vô cùng, bà yêu cầu tôi phải rời khỏi đài của bà ngay. Chính lời khuyên chí tình này mà những người ngon ngọt với bà Đoan Trang thù dai tôi cho tới ngày hôm nay. Báo Tiếng Dân của ông Nguyễn Thiếu Nhẫn và Kiêm Ái liên tục trong nhiều năm qua đâm thọc tôi đủ chuyện, tôi không chấp và cũng không giận họ, tôi chỉ thấy tội nghiệp họ mà thôi. Trước khi vào Đài Quê Hương, chả ai biết đến ông Kiêm Ái. Ông Nguyễn Thiếu Nhẫn không có đất dụng võ ở San Jose nữa, đầu quân Đài Quê Hương. Thời gian đầu bà Đoan Trang sửa bài và sửa văn cho ông Kiêm Ái. Mười năm ăn chịu với Đài Quê Hương, lông cánh đã đủ, họ ra ngoài họ viết báo hạ bệ cách thậm tê. Đài Quê Hương. Đài Quê Hương đã từng là ân nhân của họ, họ còn đối xử như vậy thì huống hồ một kẻ xa xôi không làm lợi được gì cho họ như Hoàng Duy Hùng!!

Thời gian bà Ngọc Hạnh ở tù, nhiều người hỏi tôi, tôi mĩm cười trả lời: "Ai yểm trợ được cho bà Ngọc Hạnh thì yểm trơ. Phần tôi, tôi xin thinh lặng." Một số người gặn hỏi, tôi trả lời thêm: "Cứ làm việc một thời gian với bà Ngọc Hạnh thì sẽ biết sự thật. Kinh nghiệm bản thân sẽ là câu trả lời hay nhất cho quý vị"

Vài Câu Hỏi Cho Bà Ngọc Hạnh:


1. Bà Ngọc Hạnh cho biết gặp ông Khánh, ông Khánh khoe cho biết đã đưa cho Hoàng Duy Hùng hơn 800 ngàn hoạt động tình báo Cộng Sản và có bằng chứng hẳn hòi. Ông Khánh và Hoàng Duy Hùng là tình báo cộng sản số 1 ở hải ngoại chẳng lẽ lại non tay đến độ mới gặp bà Ngọc Hạnh là cho bà biết số tiền và kế hoạch tình báo ư? Tình báo như vậy thì làm sao hoạt động được?

2. Ông Khánh chi tiền và ông Nguyên Khôi là người kế hoạch, bà đã hoạt động với họ cả 8 năm, bà nhận tiền của họ không biết bao nhiêu mà kể, thế thì bà nhận tiền tình báo cộng sản để hoạt động cho họ luôn à? Chẳng lẽ bà cũng nhận chỉ thị của ông Nguyên Khôi để họp với 40 người tố cáo Hoàng Duy Hùng nhận $500 ngàn của ông Khánh và Hoàng Duy Hùng là tình báo cộng sản đến độ các chị phụ nữ đang ủng hộ bà lập tức phản đội dữ dội bỏ ra về?

3. Ở Âu Châu và Hoa Kỳ, nếu ai chết, bị thương, hoặc bị trúng độc ở trong tù, cả nhà tù sẽ bị trách nhiệm, có thể truy tố cả hình sự và dân sự, phạt rất nặng; do đó, hệ thống của nhà tù kiểm soát thăm viếng rất chặt chẽ, bà nghĩ rằng đầu độc bà ở trong tù mà không bị khám phá ra? Một người bị trúng độc, chỉ cần báo cho cai tù, cai tù coi sổ thăm viếng, truy lùng ra biết ngay thủ phạm, tại sao bà không báo cho cai tù biết bà bị trúng độc và làm sao bà có thể giải được chất độc đó?

4. Một bàn tay của ông Khánh có thể che cả ánh mặt trời muốn đưa ai lên làm Tổng Thống cũng được? Trong chế đô. CSVN có 2 phe đấu đá nhau kịch liệt, dầu độc tài, họ cũng có bầu cử trong nội bộ, bà nghĩ rằng hệ thống dân chủ hiện nay để cho một mình ông Khánh muốn làm gì thì làm?

5. Bà cho rằng ông Khánh, Hoàng Duy Hùng, và Nguyên Khôi là Thế Lực Đen, vậy thế lực này có tống tiền bà bao giờ chưa? Có lấy một xu cắc bạc nào của bà? Có ép buộc bà phải làm cái gì hay không? Hay ngược lại, thế lực này từng cho tiền bà, bà muốn làm gì thì làm với số tiền đó, và bà còn yêu sách hết điều này sang điều nọ với thế lực này phải làm theo ý bà, và không làm theo ý bà thì bà giận bà hờn rồi bà chụp cho cái nón cối tình báo Cộng Sản?

Lời Kết: Có người nói với tôi lý do bà Ngọc Hạnh viết quyển Thế Lực Đen là vì bà là tình báo Cộng Sản xâm nhập hàng ngũ quốc gia đánh phá gây phân hóa người Quốc Giạ Tôi cười không tin tình báo Cộng Sản lại xoàng như thế. Có người lại nói bà Ngọc Hạnh bị bệnh điên, tôi cho rằng suy luận như vậy quá nông cạn vì tôi thấy bà Ngọc Hạnh rất thông minh. Có người lại nói bà Ngọc Hạnh ở Rennes nghèo đói thất nghiệp nên muốn sử dụng đấu tranh như một phương tiện để đi tiêu khiển và làm tiền, tôi nói tôi không đủ bằng cớ. Đối với tôi, ai làm thiệt hại Cộng Sản, tôi không yểm trợ thì tôi thinh lặng. Lý do nào bà Ngọc Hạnh "đánh" tôi, không quan trọng, quan trọng là bản thân tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho tự do - dân chủ của quê hương.. Nếu ai tin lời bà Ngọc Hạnh, không sao, quý vị hãy hỗ trợ cho bà Ngọc Hạnh để cho bà thêm sức đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản. Bà Ngọc Hạnh càng thành công đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản, tôi càng mừng vì đấu tranh cần nhiều bàn tay góp sức.

Tôi sẵn sàng gặp bà Ngọc Hạnh ở Pháp, Anh, ở Mỹ, hay đối luận trên Paltalk một lần cho mọi việc được sáng tỏ. Bà Ngọc Hạnh chấp nhận đối luận thì tốt, không chấp nhận cũng không sao, vì cung cách đó nói lên sự khả tín bài viết của bà.

Riêng quý đồng hương ở San Jose, trong vòng 1 năm, tôi sẽ cố gắng có một buổi hội luận chính trị công khai để chia sẻ những ưu tư trong công cuộc đấu tranh cho tự do - dân chủ cũng như sẽ trả lời những thắc mắc của quý vị về những hoạt động của tôi trong những năm qua.

Xin lỗi làm phiền quý vị và xin cám ơn quý vị đã bỏ thời giớ quý báu để theo dõi bài trả lời này.

Hoàng Duy Hùng
Houston ngày 29/6/2008