Thursday, May 22, 2008

Kẻ nằm vùng

Trường Hợp Phạm Xuân Ẩn

Vi Anh

Phạm Xuân Ẩn
Trường hợp các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo Quốc gia tham gia mặt trận Việt Minh trong đó có CS để chống Pháp giành độc lập cho nước nhà VN, bị CS ám hại, thủ tiêu để CS độc chiếm quyền hành quốc gia là một bài học tập thể về CS. Người Quốc gia thua vì không thể hành động vô đạo đức, vô lương tâm như CS, lấy phương pháp bá đạo lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Thí dụ trường hợp CS nhờ phục Đức Huỳnh Giáo chủ về Miền Tây dàn xếp xung đột giữa CS và Phật Giáo Hoà Hảo, lợi dụng lời mời hội họp để ám hại Ngài. Một bài học để đời, khiến nhiều thế hệ người Việt Quốc gia chống Cộng tới cùng, chống Cộng hết mình. Chống suốt hai thời Đệ nhứt và Đệ nhị Cộng hoà, sau khi Saigòn sụp đổ, di tản chiến thuật ra hải ngoại vẫn tiếp chống Cộng.

Trường hợp ông Phạm Xuân Ẩn, nhà báo ăn cơm Quốc gia thờ ma CS, bán mạng làm gián điệp cho CS Hà nội, mới qua đời, thọ 78 tuổi, phải ôm hận xuống Âm phủ là một bài học cá nhân về CS. Qua những nhà báo Pháp, Mỹ, độc lập và từng thâm giao với ông Ẩn khi còn làm cho làng báo Anh Mỹ ở Saigòn và sau Chiến tranh VN trở lại thăm ông Ẩn ở Saigòn, cho biết ông Ẩn rất thất vọng, bất mãn, cay đắng trước những tồi tệ, tham nhũng của chế độ CS, và thú thật lý tưởng của Ông theo suốt đời bị phản bội.

Nhưng đã dính với CS rồi khó mà thoát thân cho toàn mạng. Không phải riêng với ông Ẩn thời CS mới bắt đầu chiếm được nửa nước. Mà thời bây giờ CS đã tóm thu tất cả quyền hành và toàn bộ đất nước. Họ có đầy đủ phương tiện và thế lực để chiêu dụ và bắt hồn lẫn xác những người lỡ dính với họ. Yếu bóng vía, thiếu kinh nghiệm CS, tưởng chơi với CS Hà nội như chơi với người Việt Quốc gia, chơi với dân Tây Phương là sẽ mắc mồi CS. Lúc đó "cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra". Lịch duyệt, cảnh giác như ông Ẩn làm gián điệp cho CS suốt Chiến tranh VN mà không bị lộ kia, giờ chót còn không lối thoát khỏi CS, chớ đừng nói cỡ những người trẻ Việt ăn học cao ở Tây Phương, chưa biết CS thực sự là gì.

Ba nhận định trên có thể chứng nghiệm qua trường hợp ông Phạm xuân Ẩn. Là một người đi học Mỹ về trong thời Mỹ mới vào, ông có quá nhiều cơ may để thành đạt trong chế độ mới. Thế mà ông Ẩn không thoát được "tổ chức" dù người đầu mối của Ông đã bị chánh quyền mới của VN bắt. Và trớ trêu nhứt, chính nhân vật có thế lực an ninh cao nhứt của VN Cộng Hòa, BS Trần kim Tuyến là người đã vô tình cứu ông Ẩn và mở đường và tạo vỏ bọc cho ông thi hành điệp vụ - điệp vụ phục vụ cho CS Hà nội.

Theo nhà báo Dan Southerland, vốn là bạn đồng nghiệp trong báo Chistian Science Monitor, Time, nay là Phó Giám đốc Chương trình của Đài Phát Thanh RFA, nói sau khi biết ông Ẩn đã qua đời đến thăm ông Ẩn hai lần mới được gặp xưa là người làm chung với ông Ẩn trong báo chí. Ẩn vận động giúp cho BS Trần kim Tuyến di tản ngày 29 tháng tư, là điều có thật và thuần ơn nghĩa. Dan Sotherland chính là người mà ông Phạm Xuân Ẩn nhờ giúp tìm cách đưa bác sĩ Tuyến rời Việt Nam vào ngày 29 tháng 4. ông Southerland nói đó là vấn đề thuần ơn nghĩa, "lý do sâu xa là khi ông Phạm Xuân Ẩn đi học báo chí ở Hoa Kỳ trở về Việt Nam năm 1959 trong một tâm trạng hết sức lo lắng vì người chỉ huy trực tiếp của ông đã bị chính quyền bắt. Thời gian trước và sau năm 1960, chính phủ ông Ngô Đình Diệm truy quét hầu hết các phần tử Việt minh cài lại miền Nam. ông Ẩn đã trốn trong nhà cả tháng trời và sau đó nhờ mối quan hệ gia đình, bắt liên lạc được với bác sĩ Trần Kim Tuyến, lúc đó đang là giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị của chính phủ ông Diệm, tức là cơ quan mật vụ của chế độ, có trụ sở ngay dinh Độc Lập. Nhờ mới du học về báo chí ở Hoa Kỳ (Đại học Cộng đồng OCC và Fullerton) về, ông Phạm Xuân Ẩn được bác sĩ Tuyến bố trí phụ trách các ký giả nước ngoài làm việc cho Việt Nam Thông Tấn Xã. Nhờ vỏ bọc này và nhiệm vụ phù hợp, ông Ẩn dần dần xây dựng niềm tin và phát triển hoạt động, chuyển qua làm việc cho hãng thông tấn Reuters, nhật báo The Christian Science Monitor và rồi tuần san Time. "Nếu không có vỏ bọc đó và sự quen biết với BS Tuyến thời Đệ nhứt và thân thiện thời Đệ nhị Cộng Hoà, ông Ẩn khó mà trở thành một gián điệp như Hà nội đã đánh bóng.”

Nhưng sự thật, theo nhà báo Southerland quen biết và thân thiện với ông Ẩn từ rất lâu "về một nghĩa nào đó ông Ẩn ít nhất có thể cung cấp thông tin cho Hà Nội về một số việc, chẳng hạn như cách suy nghĩ, lý luận của người Mỹ. Đó là khả năng lớn nhất của ông Ẩn. Ông ta có thể cảm nhận sự thật. Nhiều người Việt Nam tôi biết, người phía Nam Việt Nam, rất thông minh, rất luận lý, thường cho là nước Mỹ rất hùng mạnh có thể làm tất cả mọi sự. Nếu Mỹ muốn chiến thắng thì họ đã có thể thắng ngay lập tức. Ông Ẩn lại có một cái nhìn rõ nét hơn về những điểm yếu của phía Hoa Kỳ, về hệ thống hoạt động, về mối tương quan kiểm tra chồng chéo nhưng hữu hiệu giữa Hành pháp và Lập pháp. Kiến thức đó dĩ nhiên là giúp ích Hà Nội rất nhiều, vốn không có chuyên viên đầy đủ kiến thức về đối phương như ông Ẩn." Theo ông Southerland, chính sự thân thiện đã khiến BS Trần kim Tuyến thời Đệ nhị Cộng Hoà dù không còn làm tình báo nhưng quảng giao trong chánh quyền, đã vô tình nói lại một số chiến lược của Mỹ thời BS Tuyến còn làm trùm tình báo VN và giúp cho ông Ẩn có thêm dữ kiện so sánh để phân tích và báo cáo tình hình cho Hà nội.

Theo Thông tấn xã Pháp AFP viết sau khi ông Ẩn chết 1 ngày, rằng sau khi Sàigòn rơi vào tay CS năm 1975, CS Hà Nội thoạt tiên định đưa ông tham gia cùng những nhân vật nằm vùng chưa bị lộ diện chạy sang Hoa Kỳ tỵ nạn để tiếp tục hoạt động. Nhưng rồi họ nghi ngờ, đổi ý. Họ xét lại quan điểm, lập trường của ông vì ông làm gián điệp đơn tuyến cho họ, quá lâu ở Miền Nam trong lòng địch. Họ móc lại hồ sơ ông đã góp phần giúp đỡ một số người như trường hợp ký giả Robert Sam Anson, đồng nghiệp ở tuần báo Time, bị CS bắt bên Kampuchia. Hà nội nghi là ông Ẩn đã vận động để Mặt trận Giải phóng và phe Khmer Đỏ thả. Và trường hợp bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị thời đệ nhất Cộng hòa, Hà nội nghi là ông Ẩn đã dàn xếp với nhà báo Mỹ để được rước đi ngày 29-4.

Từ đó, ông Ẩn coi như bị CS Hà nội bị CS thực sự "quản thúc tại gia" ở một biệt thự tại Quận 3. Ai thăm cũng phải có sự đồng ý của "tổ chức." Ông Ân không thể thoát ra ngoài "tổ chức" CS được dù đã thất vọng ê chề và bất mãn tột độ đối với chế độ CS Hà nội vì cảm thấy bị phản bội trắng trợn. Nhưng bên ngoài CS Hà nội đánh bóng ông như một James Bond tại thế, một gián điệp toàn vẹn, báo cáo tình báo của ông được ông Hồ chí Minh và Tướng Võ nguyên Giáp khen khi đọc như đang ở ngay trong Phòng Tình Hình Chiến tranh của Bộ Quốc Phòng Mỹ. Khi CS khen là coi chừng, sắp có tai họa lớn đó.

Trong cô đơn, thất vọng và bất mãn, ông Ẩn chỉ còn một ít cơ hội hiếm hoi, liều mạng bộc lộ với một vài nhà báo Tây Phương bạn cũ được CS cho gặp với ý đồ dùng bài viết để kiểm soát tư tưởng ông Ẩn hay đánh bóng cho ngành gián điệp của CS Hà nội. Trong những dịp hiếm hoi này, trong chỗ tín cẩn riêng tư với nhau (lương tâm con người và nhà báo chân chính không cho phép tiết lộ những gì được dặn giữ kín khi nguồn tin còn sống và có thể gây hại cho đương sự), nên một số tiết lộ về ông Ẩn là những về thất vọng của ông Ẩn chỉ nói phớt qua thôi và được giữ kín đến sau khi ông Ẩn chết mới tiết lộ rõ ràng như vụ BS Tuyến. Năm ngoái, ông Ẩn tâm tình với nhà báo Dan Southerland đến thăm ông Ẩn hai lần mới được gặp. Rằng "Họ [những người ngoài Bắc vào] tham nhũng tệ hại hơn nhiều lắm, ông vỡ mộng vì đã hỗ trợ họ hết sức mình, để rồi họ hành xử không xứng đáng khi chiến thắng."

Cũng trong thời gian năm ngoái, ông Ẩn còn đắng cay hơn khi tâm sự với nhà báo của tờ New Yorker ghi lại trong bài viết về ông Ẩn như một điệp viên trọn vẹn, trong một bài dài 10 ngàn chữ. ông Ẩn nói đã đau đớn thấy lý tưởng suốt đời ông theo đuổi bị phản bội. Ông "tự khẳng định là chưa thể chết được. Lý do: Không có chỗ nào giành cho ông cả. Địa ngục chỉ dành cho những tên bợm bãi, mà Việt Nam đang còn quá nhiều, nên chật chỗ rồi." Với một nhà báo Pháp cũng thân lâu đời với ông Ẩn, ông Ẩn cũng nói nội dung tương tự.

Sai lầm, hối hận, thất vọng, bất mãn và bất lực của ông Ẩn đến chết không thoát được tổ chức CS là một bài học cho lớp trẻ VN có ăn học nhiều mà ít kinh nghiệm CS. Xe trước đổ, xe sau phải tránh. Kể cũng có ích, lời khuyên của TT Nguyễn văn Thiệu, đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm. Ông Ẩn làm việc "bán mạng" cho CS Hà nội mà sau cùng vẫn ôm hận CS xuống âm ty. Huống hồ gì lớp trẻ ở Mỹ là những người mỏ trắng, bị CS chiêu dụ công khai bằng Nghị quyết 36 và thí dụ đường mật rẻ tiền, "ấn tượng" không đẹp là "khúc ruột ngàn dặm của quê hương." Trường hợp Phạm xuân Ẩn đáng cho lớp trẻ ở hải ngoại có ăn học nhiều chuyên môn mà thiếu kinh nghiệm CS -- suy gẫm.

Vi Anh

Phạm Xuân Ẩn
THE SPY WHO LOVED US

The double life of Time’s Saigon correspondent during the Vietnam War.

by THOMAS A. BASS
Issue of 2005-05-23
Posted 2005-05-16

“Here is Pham Xuan An now,” Time’s last reporter in Vietnam cabled the magazine’s New York headquarters on April 29, 1975. “All American correspondents evacuated because of emergency. The office of Time is now manned by Pham Xuan An.” An filed three more reports from Saigon as the North Vietnamese Army closed in on the city. Then the line went dead. During the following year, with An serving as Time’s sole correspondent in postwar Vietnam, the magazine ran articles on “The Last Grim Goodbye,” “Winners: The Men Who Made the Victory,” and “Saigon: A Calm Week Under Communism.” An was one of thirty-nine foreign correspondents working for Time when the Saigon bureau was closed and his name disappeared from the masthead, on May 10, 1976.

Recognized as a brilliant political analyst, beginning with his work in the nineteen-sixties for Reuters and then for the New York Herald Tribune and The Christian Science Monitor, and, finally, as a Time correspondent for eleven years, Pham Xuan An seemed to do his best work swapping stories with colleagues in Givral’s café, on the old Rue Catinat. Here he presided every afternoon as the best news source in Saigon. He was called “Dean of the Vietnamese Press Corps” and “Voice of Radio Catinat”—the rumor mill. With self-deprecating humor, he preferred other titles for himself, such as “docteur de sexologie,” “professeur coup d’état,” “Commander of Military Dog Training” (a reference to the German shepherd that always accompanied him), “Ph.D. in revolutions,” or, simply, General Givral.

We now know that this is only half the work An did as a reporter, and not the better half. An sent the North Vietnamese a steady stream of secret military documents and messages written in invisible ink, but it was his typed dispatches, now locked in Vietnam’s intelligence archives and known to us only through secondhand reports, which will undoubtedly rank as his chef d’oeuvre. Using a Hermes typewriter bought specially for him by the North Vietnamese intelligence service, An wrote his dispatches, some as long as a hundred pages, at night. Photographed and transported as undeveloped rolls of film, An’s reports were run by courier out to the Cu Chi tunnel network that served as the Communists’ underground headquarters. Every few weeks, beginning in 1952, An himself would leave his Saigon office, drive twenty miles northwest to the Ho Bo woods, and descend into the tunnels to plan Communist strategy. From Cu Chi, An’s dispatches were hustled under armed guard to Mt. Ba Den, on the Cambodian border, driven to Phnom Penh, flown to Guangzhou (Canton), in southern China, and then rushed to the Politburo in North Vietnam. The writing was so lively and detailed that General Giap and Ho Chi Minh are reported to have rubbed their hands with glee on getting these dispatches from Tran Van Trung—An’s code name. “We are now in the United States’ war room!” they exclaimed, according to members of the Vietnamese Politburo.

As Saigon fell to the Communists, An, like his fellow-correspondents, was hoping to be evacuated to the United States. Vietnam’s military intelligence agency planned to continue his work in America. The Politburo knew there would be a war-after-the-war, a bitter period of political maneuvering in which the United States launched covert military operations and a trade embargo against Vietnam. Who better to report on America’s intentions than Pham Xuan An? In the last days of the war, An’s wife and their four children were airlifted out of Vietnam and resettled in Washington, D.C. An was anxiously awaiting instructions to follow them, when word came from the North Vietnamese Politburo that he would not be allowed to leave the country.

An was named a Hero of the People’s Armed Forces, awarded four military-exploit medals, and elevated to the rank of brigadier general. He was also sent to a reëducation camp and forbidden to meet Western visitors. His family were brought back to Vietnam, returning a year after they left. The problem with Pham Xuan An, from the perspective of the Vietnamese Communist Party, was that he loved America and Americans, democratic values, and objectivity in journalism. He considered America an accidental enemy who would return to being a friend once his people had gained their independence. An was the Quiet Vietnamese, the representative figure who was at once a lifelong revolutionary and an ardent admirer of the United States. He says he never lied to anyone, that he gave the same political analyses to Time that he gave to Ho Chi Minh. He was a divided man of utter integrity, someone who lived a lie and always told the truth.

“An’s story strikes me as something right out of Graham Greene,” says David Halberstam, who was friends with An when he was a Times reporter in Vietnam. “It broaches all the fundamental questions: What is loyalty? What is patriotism? What is the truth? Who are you when you’re telling these truths?” He adds, “There was an ambivalence to An that’s almost impossible for us to imagine. In looking back, I see he was a man split right down the middle.”

In his 1965 book on Vietnam, “The Making of a Quagmire,” Halberstam described An as the linchpin of “a small but first-rate intelligence network” of journalists and writers. An, he wrote, “had the best military contacts in the country.” Now that Halberstam knows An’s story, does he bear him any grudges? “No,” he says, echoing the opinion of almost all of An’s former colleagues. “It’s a story full of intrigue, smoke and mirrors, but I still think fondly of An. I never felt betrayed by An. He had to deal with being Vietnamese at a tragic time in their history, when there was nothing but betrayal in the air.”

Ho Chi Minh City—or Saigon, as it is still commonly called—is a single-mindedly commercial place. Lined with pushcarts and venders selling everything from soup to CDs, the streets are roaring rivers of Chinese two-stroke motorcycles. The exhaust fumes are so thick that Saigon’s famously beautiful women have started covering their faces with scarves. “We are all Muslims now,” says Viet, my Honda man, on the back of whose motorcycle I travel around the city.

Approaching An’s house—a villa in District 3, a densely settled neighborhood near the train station—we pass an intersection full of motorcycle-repair shops and come to a street that specializes in selling tropical fish, including the Siamese fighting fish that An admires. I tug on the bell that hangs on his green metal gate. The dogs start barking, and I peer through the grille to see An shuffling down the driveway. A wispy figure, he wears a striped short-sleeved shirt with a ballpoint pen in the pocket, gray trousers flapping around his legs, and rubber sandals. He arrives winded but smiling, and greets me with a handshake that involves only the tips of his fingers. He was recently admitted to the hospital with a collapsed lung, the result, perhaps, of a lifetime of smoking Lucky Strikes, but General Givral, with his full-toothed grin, looks, at seventy-eight, as puckish as ever.

I had last visited An in the early nineties, while writing a book on Amerasians—the children of American soldiers and their Vietnamese lovers. When it was published, I sent him a copy, and I sent him other books when mutual friends visited Vietnam. An knew that I was interested in hearing his story. He was a gracious host to the visitors who were allowed to see him after Vietnam adopted doi moi, its version of perestroika, in the late eighties. He would spend hours explaining Vietnamese history and culture. But there was one subject on which he was silent: his life as a spy. It looked as if he would be a sphinx to the end, whether out of loyalty to his friends or fear of government reprisals. In January of 2004, though, I received a message that he might finally be willing to talk, not in formal interviews but in friendly conversations. These began at Tet, the lunar New Year, and resumed later for another couple of weeks at the onset of the rainy season, in May. (I saw An again for a few days in March of 2005.)

An leads me through his garden, a tropical enclave lush with star fruit and bushberry trees. It is perfumed with frangipani and splashed with color from the flowering apricot blossoms and orchids. Staring at us from cages under the trees are a hawk and An’s three fighting cocks. We stop in the middle of the garden to admire a porcelain statue of one of An’s beloved German shepherds. An says he learned about using dogs for intelligence work from C.I.A. agent Colonel Edward Lansdale—the supposed model for Graham Greene’s Quiet American. “I trained my dog so that he could alert me when the police were searching people’s houses, even a kilometre away,” An says. “He was a good spy.”

An’s wife, Thu Nhan, works in front of the house, sweeping the porch with a short-handled broom. She is a pleasant, round-faced woman with her hair tucked into a bun. Ten years younger than An, she is busily cleaning before the rush of visitors who will be coming for Tet, including their daughter, who lives in California. Hanging on the porch and from poles set in the driveway are the cages where An keeps his laughing thrushes, golden-fronted leafbirds, magpies, canaries, and other songbirds. A blue Indian mynah with a yellow bill announces, in Vietnamese, “Grandfather, telephone call for you!” The bird is mimicking the voice of An’s grandson, who lives here along with An’s three grown sons.

We kick off our shoes and enter the large room that used to serve as An’s office and library, as well as the reception and dining room. Lining the far wall are the glass-faced shelves that hold his books. A Chinese landscape painting hangs above a green upholstered sofa and chairs. Below the open windows sits a fish tank that holds the third component in An’s menagerie. Dogs are loyal, he says. Birds are always hopping around in their cages, keeping busy. “Fish teach you to keep your mouth shut. Unfortunately, while I was in the hospital most of my fish died.”

The room has been changed since I last visited. In the alcove near the front door, in place of An’s desk and filing cabinets and the piles of magazines and papers, which used to reach toward the ceiling, sits his son’s piano. Later, I discover what happened to An’s office when he and I walk past the family altar and out through the kitchen into the driveway at the back of the house. “Here’s where my wife threw all my papers,” he says, pointing to two gray filing cabinets and a desk piled with yellowing documents. All that protects them from the elements is a narrow plastic roof.

As we stare at the papers heaped in the driveway, An cracks a joke. “My wife tells me it’s time to make room for the younger generation, but I can’t die yet,” he says. “There’s nowhere for me to go. Hell is reserved for crooks, but there are so many of them in Vietnam, it’s full.”

An has pendulous ears, a high, square-domed forehead, close-cropped dark hair, and lively brown eyes. His left eye is slightly larger than the right, as if he were simultaneously taking both the long and the short view of the world’s affairs. In the pictures of him from the fifties, showing him wearing narrow suits, white shirts, and black trousers, An looks like one of the nice, clean-cut young men who joined fraternities and mastered social drinking. He was taller than the average Vietnamese, a scrappy young boxer and swimmer, who once thought, after failing his school exams for the second year in a row, that he might have to become a gangster. He doesn’t want to talk about himself, he says—there is too much to remember. “It’s too difficult. And too long. And I am old.” Then, leaning forward, he begins talking about himself, recalling in minute detail scenes from fifty years ago. He gesticulates with his fingers, which are long-boned and nearly translucent with age. He shapes the air in front of him as if it were a doughy ball, taking a punch at it from time to time. He divides his remarks into Confucian triads and pentads or draws a flowing curve that represents one of the déesses, the protective goddesses to whom he credits his success in life. An can talk for hours about world events, drawing parallels, for example, between Vietnam and the Iraq war (he says techniques first developed in Asia have been moved to the desert) or evaluating the world’s intelligence services (“The Americans are masters at gathering intelligence, but they don’t know what to do with it”).

Pham Xuan An was born in the Vietnamese Year of the Cat, at the Hour of the Buffalo, on September 12, 1927, twenty miles northeast of Saigon, in the Bien Hoa psychiatric hospital. At the time, this was the only medical facility in Cochin China open to Vietnamese. As the firstborn son of a cadre supérieur, an educated member of the colonial administration, An had the rare honor of receiving a French colonial birth certificate.

Originally from Hai Duong, the heart of North Vietnam, in the densely populated Red River Delta lying between Hanoi and the coast, An’s great-grandfather, a silver- and goldsmith, was recruited by the Nguyen dynasty to make medals for the royal court at Hue, in central Vietnam. An’s grandfather, who rose through the mandarinate to become a teacher and the director of a primary school for girls, wears one of these gold medals on his chest in the photograph which stands as the centerpiece of An’s family altar. Given to him by the Emperor, the large tulip-shaped medal, called the kim khanh, signifies that An’s grandfather held a rank equivalent to that of a secretary in the government. Later, An shows me a picture of himself as a baby with this medal hanging around his neck. I ask if he still owns it. “It was sent to Ho Chi Minh for the Gold Campaign,” he says, referring to the huge bribe that Ho paid the Chinese occupation forces in 1945 to persuade them to withdraw from North Vietnam after the Second World War.

An’s father, trained as an engineer at the university in Hanoi, worked as a cadastral surveyor, establishing property lines and tax rolls in Vietnam’s southern frontier. He laid out roads in Saigon and canals through the U Minh Forest, along the Gulf of Siam. While surveying in Cambodia, he met An’s mother, another emigrant from the North. She was an industrious woman whose second-grade education allowed her to read and write. The work of a colonial surveyor in what was then the wilds of South Vietnam involved press-ganging peasants into carrying chains through the Mekong marshlands and building towers in the jungle to establish sight lines. “When you do land surveying and build canals and roads, you see the poor Vietnamese workers eking out their living,” An says. “You see the French system of forced labor, beatings, and other abuses. The only way to oppose these abuses is to fight for independence.” He adds, “The Americans did the same thing in 1776. My family was always patriotic in their desire to remove the French from Vietnam.”

In his early childhood, An was living on a sampan in the cajeput forests at the southern tip of Vietnam when he was swept overboard during a typhoon and nearly drowned. He was sent to stay with his grandparents in Hue, returned to the South on the death of his grandmother, and sent north again when he flunked his exams in the third grade. His father separated him from his siblings and exiled him to Truoi, in the countryside, where life among the peasants was supposed to scare him into working harder in school. Instead, An delighted in playing hooky and larking around the countryside. When he flunked his exams again, he was caned by his father and moved back to Saigon for a stricter regimen.

An fell in love with Saigon, which at the time was a lazy colonial outpost surrounded by rubber plantations. He spent hours along the Saigon River, swinging in the banyan trees and jumping into the water. He made friends with the workers in the Ba Son shipyard, who cast fanciful coins for him to play with. He rode the electric train to Cholon, the Chinese district, and then rode back to the movie theatre near the bridge at Dakao. Here he watched all the films with Johnny Weissmuller swinging through the trees as Tarzan. “It was a beautiful dream of freedom in the jungle,” An says of those movies. “I thought under Communism I would live like Tarzan. I put this dream into the revolution.”

“Look at Tarzan!” An exclaims. “What does he have? Only his loincloth.” This is Communism as a pure state of nature, a Rousseauian idyll. It is the high-school-philosophy version of Communism, which An acquired from books sent to students in the colonies by the French Socialist Party. “Yes, I am a Communist,” he says. “Communism is a very beautiful theory, the most human theory. The teaching of God, the Creator, is the same. Communism teaches you to love each other, not kill each other. The only way to do this is for everyone to become brothers, which might take a million years. It is utopian, but it is beautiful.”

An the political analyst knows that Communism was responsible for millions of deaths in the twentieth century, and he knows intimately the limits of the Communist regime under which he lives. But An the patriot made a choice when he was young to fight for an independent Vietnam, and the most effective force in leading this struggle against the Japanese, French, Americans, Chinese, Cambodians, and other invaders of his divided country was the Communists. “Here in Vietnam, which organization did you have to join in order to carry on the fight for your country?” he asks. “You had no other choice but to join the Communist Party.”

An was an eighteen-year-old high-school student at the Collège de Can Tho, in the Mekong Delta, when he dropped out of school, in 1945, to enlist in a Vietminh training course. For more than a hundred recruits there were only fifty weapons, some left over from the First World War. Trainees had to pick up spent cartridges to make new bullets. Though he was involved in fighting first the Japanese and then the French, An dismisses this experience as little more than running errands. But a government Web site, recounting his activities as a Hero of the People’s Armed Forces, describes An as “a national defense combatant who participated in all battles in the western region of South Vietnam.”

By 1947, An had left his position as a platoon leader, involved mainly in propaganda, and moved back to Saigon to care for his father, who would have a lung removed and spend the next two years in the hospital with tuberculosis. An organized student demonstrations in Saigon, initially against the French and then against the Americans. He worked as a secretary for the Caltex oil company until, in 1950, he passed the exam to become a French customs inspector.

During the Tet New Year celebration in 1952, An was summoned into the jungle north of Saigon to meet the Communist officials who were setting up C.O.S.V.N.—the Central Office for South Vietnam. C.O.S.V.N. would lead the war against the Americans, who, even before the end of the First Indochina War, in 1954, were beginning to replace the French as the primary enemy. An was excited about this call to the war zone, where he hoped to join his sister, who had moved to the jungle three years earlier to become “the Voice of Nam Bo,” a radio broadcaster for the Communist network. An visited her sometimes, taking her food or medicine, and staying overnight in the Vietminh tunnel network, where the cooking fires were vented through termite mounds in order to evade the French spotter planes that flew overhead. (In 1955, An’s sister moved to North Vietnam to work for the state-run coal mines.)

An was disappointed to learn that he wouldn’t be joining his sister in the jungle but, instead, was being recruited to work as a spy in Vietnam’s newly established military intelligence service. “I was the first recruit,” he says. An found his new assignment ignoble. Spying is the work of hunting dogs and birds of prey, he says. “I had been beaten by the riot police during student demonstrations in Saigon, and I had no desire to be a stool pigeon or an informer.”

The first problem An confronted on slipping back into Saigon as a newly recruited spy was how to avoid being drafted into the French colonial forces. To practice the English that he was learning at the United States Information Service, he volunteered his services as a press censor at the central post office. Here he was told to black out the dispatches written for British and French newspapers by Graham Greene, a “troublemaker” who the French assumed was working for British intelligence during his frequent visits to Vietnam.

An was formally inducted into the Communist Party in 1953, at a ceremony in the U Minh Forest presided over by Le Duc Tho. Tho, who was in charge of the southern resistance against the French, would later spend four years negotiating with Henry Kissinger at the Paris peace talks. Tho’s younger brother, Mai Chi Tho, as the head of security for the Communist forces in the South, was An’s boss.

In spite of his freelance work for the French intelligence agency, the Deuxième Bureau, An was drafted in 1954. To avoid getting shot during the waning days of the French colonial war in Indochina, An played on the family connections by which business gets done in Vietnam. He asked a cousin, Captain Pham Xuan Giai, for help. Giai, who commanded G5, the psychological-warfare department of the Army general staff, made An an adjutant, the highest-ranking noncommissioned officer, and put him to work at Army headquarters on the Rue Gallieni, near Cholon.

This is where Colonel Edward Lansdale found An when he came to offer his services—and money—to Captain Giai. Lansdale, a former advertising man and an expert in psychological warfare, had been sent to run the C.I.A.’s covert operations in Vietnam. Arriving in the country soon after the French defeat at Dien Bien Phu, Lansdale found G5 and the rest of the old colonial military apparatus in a shambles. They were totally demoralized, with no idea what to do with themselves, until Lansdale and his innocuously titled Saigon Military Mission began turning South Vietnam into a country, complete with an army, a President, and a flag.

Finding a promising student in the young Pham Xuan An, Lansdale and his colleagues began teaching him the tradecraft that he would employ in his next twenty years as a Communist spy. “I am a student of Sherman Kent,” An says, referring to the Yale professor who helped found the C.I.A. Strategic intelligence, Kent wrote in his classic text, “Strategic Intelligence for American World Policy” (1949), is a “reportorial job” based on studying the “personalities” of world leaders. “It must know of their character and ambitions, their opinions, their weaknesses, the influences which they can exert, and the influences before which they are frail. It must know of their friends and relatives, and the political, economic, and social milieu in which they move.”

Pham Xuan An, the psyops intelligence agent, was beginning to acquire the “reportorial” method that he would later employ so brilliantly as Pham Xuan An the Time correspondent. “People usually have one career, while I had two, the job of following the revolution and the job of being a journalist,” An told the writer Nguyen Thi Ngoc Hai, who has published a Vietnamese monograph about him. “These two professions were very contradictory, but also very similar. The intelligence job involves collecting information, analyzing it, and jealously keeping it secret, like a cat covering its droppings. The journalist, on the other hand, collects information, analyzes it, and then publishes it to the world.”

As a quadruple agent moonlighting for France’s Deuxième Bureau, working for his cousin’s indigenous Vietnamese intelligence organization and its C.I.A. sponsor, and reporting to his Communist handlers, An was beginning to live along the edge of his own personal nightmare. “I was never relaxed for a minute,” he says. “Sooner or later as a spy, you’ll be captured, like a fish in a pond. I had to prepare myself to be tortured. That was my likely fate.”

It was scant solace that most of An’s colleagues in G5 were in a similar predicament. “When we weren’t spying on each other, we smoked opium and played together as friends,” An says. “That was just the way things worked. I had to compartmentalize.” He acknowledges that it was hard to do. “But you can’t kill all the time. When the war was over, these were the people I would have to live with.”

It was Mai Chi Tho and Muoi Huong, An’s case officer, who decided to send him to the United States to be trained as a journalist. Muoi Huong, in an interview with the Vietnamese newspaper Thanh Nien, said that he got the idea to make An a journalist from Ho Chi Minh, who himself had worked as a reporter. It was the perfect cover for a spy, granting him access to obscure places and elevated people. The plan was approved at the highest levels of the Vietnamese Politburo, but it took several years to execute. An’s father was dying. An won a government scholarship which was rescinded and given to someone who was better connected. Then his visa was blocked by French-trained administrators who didn’t like the idea of sending a Vietnamese student to the United States. The Communist Party had a hard time finding enough money. Finally, Mai Chi Tho scraped together eighty thousand dong, which, at the time, was worth about a thousand dollars. This was sufficient to buy An’s airplane ticket to America and four new suits of clothing. An’s father died in his arms in September, 1957. A month later, An arrived in Costa Mesa, California, to enroll as a freshman at the local community college.

An was a thirty-one-year-old Communist spy, a retired customs officer, and a psywar specialist when he began studying at Orange Coast College, which had been recommended to him by an American adviser in Vietnam. He was possibly the first Vietnamese to live in Orange County. (It is now home to a hundred and fifty thousand Vietnamese.) Called Confucius by his classmates, An studied political science, American government, economics, sociology, psychology, Spanish, and journalism. He chaperoned eighteen-year-old coeds to the beach and spent a lot of time working on The Barnacle, the school newspaper, for which he wrote occasional articles, such as a movie review of “The Quiet American”—the first, anti-Communist version of Graham Greene’s book. Finding the movie potentially confusing, An recommended that it “not be shown in Vietnam.”

An describes his two years in the United States, which included internships at the Sacramento Bee and the United Nations, as “the only time in my life when I wasn’t anxious.” (His travels across America were financed by the Asia Foundation, which was later revealed to be a C.I.A. front.) He fell in love with America and he fell in love with an American, Lee Meyer, a lithe blonde who was his editor and writing coach at The Barnacle. “She knew I loved her, but I never told her,” An says. “We Vietnamese never tell what we really feel.” An’s sunny years in California were the darkest time in the history of the southern Vietminh, the Communists who had remained below the seventeenth parallel when Vietnam was divided in 1954. By 1959, as many as eighty-five per cent of these Vietminh fighters, numbering about sixty thousand, would be killed or arrested. An learned in a coded letter from his younger brother that Muoi Huong, his case officer, had been arrested and was being tortured. He also learned that he was being summoned home because the Vietminh—soon to be reborn as the Vietcong—were finally embarking on the armed struggle that would launch the Second Indochina War.

An vividly remembers standing on the Golden Gate Bridge in October, 1959, wondering what he should do next. In his pocket was an airplane ticket to Saigon. Rising below him in the harbor were the solitary tower and concrete walls of Alcatraz, the notorious island prison. He feared this was a sign of the fate that awaited him if he returned to Vietnam—years of prison and torture in the tiger cages of Vietnam’s own Devil’s Island. He had been offered a job teaching Vietnamese at the military language school in Monterey. He could travel to Cuba and try to get back to Vietnam through Russia. He could exile himself to France. Finally, An the loyal patriot, who had in his possession four suits that belonged to the Communist Party of Vietnam and should rightfully be returned to the people, boarded his plane and flew home to Saigon.

“I have two loves, like Josephine Baker,” he says. “I love my country, and I love the United States. When the war was over, I wanted them to get back together.”

On returning to Saigon, An was so frightened that he hid in his house for a month. Then, in a bold stroke, he used family connections to call on Tran Kim Tuyen for help. A former military surgeon, Tuyen was the brilliant, diminutive figure who ran South Vietnam’s intelligence network for President Ngo Dinh Diem and his younger brother Ngo Dinh Nhu. This vast C.I.A.-sponsored network of spies and clandestine military forces operated out of the President’s cabinet under the anodyne name of the Office of Political, Cultural, and Social Research. If Tuyen hired him, An figured he would be safe, at least for the moment, from arrest.

Tuyen put An in charge of the foreign correspondents working for V.T.X., the Viet News Agency. Many of them, with no training in the profession, had never filed a story as a journalist. An ordered them to write a story a week. They complained to Tuyen, saying that doing journalism would get in the way of their work as spies—their real job. Supporting An, Tuyen instructed his foreign agents to get “serious in your work” and start filing stories like the “professional pressman” An.

Tuyen fell out of power, after a failed coup, and An moved from V.T.X. to Reuters and from there to Time. Recognized as one of the most hardworking journalists in town, always ready to help his colleagues with informed opinions or telling anecdotes, An gave information in order to get it. Describing to Ngoc Hai the similarities between journalists and spies, An said, “Their food is information, documents. Just like birds, one has to keep feeding them so they’ll sing.”

“From the Army, intelligence, secret police, I had all kinds of sources,” An says. “The commanders of the military branches, officers of the Special Forces, the Navy, the Air Force—they all helped me.” In exchange for this steady stream of information, An gave his South Vietnamese informants the same thing he gave his Communist employers. “We discussed these documents, as the South Vietnamese tried to figure out what they meant. They had a problem. How were they going to deal with the Americans?” An then turned around and advised the Americans on how to deal with the Vietnamese. It was a high-level confidence game, with death hovering over him should he be discovered photographing the strategic plans and intelligence reports slipped to him by his South Vietnamese and American sources.

An worked through the night photographing these documents. Then his film cannisters were disguised to look like nem ninh hoa, grilled pork wrapped in rice paper, or hidden in the bellies of fish that had begun to rot. More fish or nem would be piled into baskets made to look like offerings being presented at a Buddhist funeral. In the morning, when An walked his German shepherd at the horse-racing track, he would deposit his nem cannisters in an empty bird’s nest high in a tree. For larger shipments, he hid his rolls of film under the stele of what he pretended was a family grave. An’s wife sometimes followed him at a distance. If he was arrested, she could alert his couriers.

Using live drops, dead drops, couriers, and radio transmitters that linked him through C.O.S.V.N. to military headquarters in North Vietnam, An was supported by dozens of military intelligence agents who had been detailed to work on his behalf. Of the forty-five couriers devoted to getting his messages out of Saigon, twenty-seven were captured and killed. “There were times before my departure on a mission when my wife and I agreed, if I were arrested, it would be best if I were killed,” An told Ngoc Hai. “It would be more horrible if they tortured me for information that put other people’s lives at risk. Sometimes it got so dangerous that, while my hands were steady, my legs were shaking uncontrollably. Despite my efforts to keep calm, the automatic reflexes of my body made me shiver with fear.”

“An was of paramount importance to the Communists, not only for getting information to the North but also for corroborating what they were receiving from other sources,” says former C.I.A. interrogator Frank Snepp. Author of “Decent Interval,” about the chaotic collapse of Saigon in 1975, Snepp now works as a television-news producer in Los Angeles. “An had access to strategic intelligence. That’s obvious,” Snepp says. “But no one has ‘walked the cat backward,’ done a postmortem of the damage he did. The agency didn’t have the stomach for it.” Snepp suggests that one source for An’s intelligence was Robert Shaplen, the New Yorker correspondent. Close friends and collaborators, An and Shaplen spent hours closeted in Shaplen’s room on the third floor of the Continental Palace Hotel, occasionally stepping out on the balcony to avoid being overheard. “Shaplen was one of our favorite journalists,” Snepp says. “We had orders from the top to give him unbelievable access to the embassy and high-level intelligence.

“We estimated there were fourteen thousand spies operating in South Vietnam. The Communists infiltrated right to the heart of the enemy. It was a government of Swiss cheese.” Describing turning points in the war, such as Henry Kissinger’s secret negotiations in Paris and the decision by the South Vietnamese government in 1975 to abandon its positions in the Central Highlands, Snepp says, “The Communists knew what was happening before the U.S. Embassy knew.

“We didn’t understand the degree of corruption in the South Vietnamese government,” Snepp goes on. “We didn’t want to look at corruption or morale. We didn’t want to know we were backing the wrong horse. This was true in Iran or Iraq or anywhere else where we’ve supported corrupt governments. An, of course, wanted very much to know these things. He knew under these conditions that Vietnamization would never work.”

My daily conversations with An begin to fall into a pattern. I arrive at his gate in the morning and pull the bell. An shuffles down the driveway and shakes my hand with his bony fingers. We stroll through the garden, admiring his cocks and singing birds, greet the two little dogs he keeps tied near his front door, and then sit for hours in his salle de séjour. His voice is low, hardly a whisper over the sound of the traffic roaring outside his gate. As the hours advance, I move from the couch to sit in a chair next to him. Pretending to adjust the microphone at his throat, I lean my ear toward his lips. Like a Vietnamese Jean-Paul Sartre, who preferred to conduct his political battles over a cup of coffee at the Café de Flore, An rarely claims to have done anything more during the war than observe and analyze events. But we know of several occasions when he reached behind the curtain to adjust the scene. One was the battle of Ap Bac, in 1963, which marked a turning point in the expanding American war. For the first time, the Vietcong fought at battalion strength and won a decisive victory against Vietnamese troops supported by American helicopters, armored vehicles, and artillery. Two Vietcong soldiers received North Vietnam’s highest military-exploit medal for winning this battle. One was the commander of the Communist forces. The other was Pham Xuan An, who devised the winning strategy.

An comes into focus again at the Tet Offensive, the simultaneous attack on more than a hundred South Vietnamese cities and other targets during the New Year’s ceasefire of 1968. Planning for the offensive had begun two years earlier, when the head of An’s intelligence network, a colonel known by his nom de guerre, Tu Cang, moved from the jungle into Saigon. Tu Cang was a famous cowboy, a hearty, affable man, who packed a pair of K-54 pistols and could plug a target at fifty metres with either his left or his right hand. A former honor student at the French lycée in Saigon, Tu Cang had lived underground in the Cu Chi tunnels for so many years that by the time he reëntered Saigon he had forgotten how to open a car door. An replaced Tu Cang’s jungle sandals with new shoes and bought him a suit of clothes. Soon the two men were driving around town in An’s little Renault 4CV like old friends.

Pretending to be chatting about dogs and cockfights, they were sighting targets for the Tet Offensive. Tu Cang proposed attacking the Treasury to get some money. An told him the Treasury was the wrong target—“They only hand out salaries there.” An said a better target was the courthouse, where lots of gold was stored as evidence in the trials of South Vietnam’s legion of burglars and smugglers. He advised Tu Cang to bring an acetylene torch.

Tu Cang isolated twenty targets in Saigon, including the Presidential Palace and the United States Embassy. He personally led the attack on the palace, where fifteen of the seventeen members in his team were killed outright. He himself barely escaped to a nearby safe house, and he hid with his two pistols held to his head, vowing to kill himself rather than be captured. The following day, he and An were driving around the city again, this time counting the bodies of the Vietcong soldiers who had died in the attack. (To commemorate the role these two men played in the battle, Tu Cang’s pistols and Pham Xuan An’s green Renault are on display in the museum of military intelligence at Army headquarters in Hanoi.)

Later that spring, in what was called the mini-Tet offensive, the Vietcong began shelling Saigon indiscriminately, blowing up buildings and killing scores of civilians. An sent a note into the field. “I told them to stop the shelling. It had no military objective and was alienating people.”

“What happened next?” I ask.

“The shelling stopped.”

In 1970, An’s fellow Time correspondent Robert Sam Anson was captured by North Vietnamese soldiers and Khmer Rouge in Cambodia, where at least twenty-five other journalists were already dead or unaccounted for. After Anson’s wife pleaded with An to help her, he secretly arranged for Anson’s release. It would be another seventeen years before Anson learned the story of what An had done for him. When Anson saw An again in 1987, he asked him, “Why did you save me, if you were an enemy of my country?” An replied, “Yes, I was an enemy of your country, but you were my friend.” To this day, Anson works with a photo of An on his desk.

An won his final military-exploit medal for the role he played in the Ho Chi Minh Campaign, which ended with the Communists seizing Saigon on April 30, 1975. His last deed in the war was another act of friendship. Hours before the city fell, An arranged the escape of his old patron, the South Vietnamese spymaster Tran Kim Tuyen. In the famous photo showing the helicopter taking off from the roof of what is usually misidentified as the United States Embassy (it was actually a C.I.A. safe house two blocks away), the last person climbing the rickety ladder to get on board is Tran Kim Tuyen. Out of the frame, waving goodbye, stands Pham Xuan An.

When An’s former colleagues first learned his story—from rumors that began circulating in the eighties—they invariably recalled a scene, a revelatory moment, which was suddenly explained by the news. Nick Turner, An’s former boss at Reuters, confirmed his suspicions about An’s unannounced absences from the office. H. D. S. Greenway, known to his friends as David, suddenly understood why his former colleague at Time knew more than he did about Lam Son 719, the disastrous attempt by the South Vietnamese Army to attack Laos in 1971.

“I had been up on the border near Khe Sanh, watching badly mauled soldiers retreating from Laos,” Greenway told me. “I described them as survivors from the original column leading the attack. ‘No,’ An said, without the slightest hesitation. ‘The original column was wiped out. What you saw was survivors from the attempt to rescue the column, which also failed.’ Later, when I thought back on it, he seemed remarkably well informed. It’s the kind of insight you’d have only from knowing what both sides in the battle were doing.”

Nayan Chanda, who was working for Reuters and the Far Eastern Economic Review, remembered seeing An standing in front of the Presidential Palace on the last day of the war, as Communist tank No. 843 smashed through the iron gate. “There was a strange, quizzical smile on his face. He seemed content and at peace with himself. I found it odd,” Chanda says. “His wife and children had just been airlifted out of the country, and he didn’t seem to have a care in the world.” Chanda later realized that An was celebrating the Communist victory, for which he had worked for thirty years.

Aside from Chanda’s fleeting glimpse, An kept his cover in place after 1975. “It was a dangerous moment for me,” he says. “It would have been easy for someone to put a bullet through my skull. All I could do was wait for someone from the jungle to come out and recognize me.”

An and his mother moved into the Continental Palace Hotel. They lived first in Robert Shaplen’s old room. Then An moved into Time’s two-room office. He was repeatedly summoned for interrogations by the police, until intelligence officials intervened. People began to suspect that he was “a man of the revolution” when they saw him ride his bicycle to the military supply depot and leave with bags of rice and meat tied to the handlebars. They assumed that he was an “April 30th revolutionary,” someone who had jumped to the Communist side after the fall of Saigon.

Not even military officials as highly placed as Bui Tin knew An’s story. Tin was the North Vietnamese colonel who accepted the surrender of the South Vietnamese government. He was working as the deputy editor of Quan Doi Nhan Dan, the North Vietnamese Army newspaper, when he rode a tank up to the Presidential Palace on April 30th. Accidentally finding himself the highest-ranking officer there, Tin accepted the surrender of the South Vietnamese government and sat down at the President’s desk to file a dispatch for his newspaper. Like most journalists newly arrived in Saigon, the next thing he did was go looking for Pham Xuan An. “On the morning of May 1st, I went to meet An at his office in the Continental Palace Hotel. I had no idea at the time that he was a spy,” Tin says. “All he told me was that he was a correspondent working for Time-Life. He introduced me to all the journalists in town, and I helped them send their articles abroad. Three months after the end of the war, I still didn’t know An was a spy.”

Hints of the power struggle over An—pitting the military intelligence agents who wanted to send him to the United States against officials in the Politburo—were revealed to Bui Tin only when the government moved to get An’s wife and children repatriated to Vietnam. Bucking the tide of refugees flooding out of the country, An’s family spent a year trying to get back into Vietnam by means of a circuitous route that passed through Paris, Moscow, and Hanoi. The first official announcement of An’s wartime allegiance came in December, 1976, when he flew to Hanoi as an Army delegate at the Fourth Party Congress. Friends who saw him walking around Hanoi in an Army uniform, which he was wearing for the first time in his life, were astounded by the transformation of the journalist into a beribboned hero.

“After 1975, Saigon turned into Ho Chi Minhgrad,” An says, speaking of the year that he spent manning Time’s Saigon bureau, before it closed in May, 1976. “The censorship was so tight, it was like back in the days of Graham Greene. I didn’t file many stories, because I didn’t know how to dodge the censors. I spent my days going to cockfights and fish fights.”

As hundreds of thousands of Vietnamese disappeared into prisons and labor camps, An was also forced into “reëducation.” In August, 1978, he was sent to Hanoi for ten months’ instruction at the Political Institute of the National Defense Department, a training camp in Marxist-Maoist thought for mid- and high-level cadres. “I had lived too long among the enemy,” he says. “They sent me to be recycled.”

Always a bad student, An finished near the bottom of his class. “They didn’t like my jokes,” he says of the dour Northerners who were trying to teach him to speak “new” Vietnamese, full of political terms borrowed from China. An suffered through the bone-chilling rains of a Hanoi winter, sleeping on a wooden bed with a cotton mattress. “I wore a Chinese cotton jacket that made me look like a mummy,” he says. “I asked for a Russian jacket. But I was still cold, so I went back and asked for a ‘hundred-and-eleven-degree jacket’—three girls, one sleeping on my right, one on my left, and one on top of me.”

“They didn’t like me at all,” An says of his political reëducators. “But I haven’t made a big enough mistake to be shot yet.”

In 1990, Colonel An was elevated to the rank of general. At the time, Vietnam had begun to adopt doi moi, the “renovation policy” that opened the country to the West. Whether the Communists were recognizing An’s merits, ashamed of the threadbare penury in which he lived, or maneuvering to keep him on a tighter leash is open to interpretation. An, as usual, explains his promotion with a joke. As Western journalists began returning to Vietnam, people would ask to see “General Givral.” To avoid embarrassment, the government decided to raise his rank to match his title.

In 1997, the Vietnamese government denied An permission to visit the United States for a conference in New York to which he had been invited as a special guest, and it was not until March, 2002, that the seventy-four-year-old, emphysema-stricken general was allowed to retire. “They wanted to control me,” he says. “That’s why they kept me in the military so long. I talk very wildly. They wanted to keep my mouth shut.” This is one possible explanation, but, as always with An, there could be another figure in the carpet. All we know is that, for at least twenty-seven years after the end of the war, An was still an active member of Vietnam’s military intelligence service.

Some of An’s former colleagues have accused him of being an “agent of influence” whose job was to manipulate the news and plant stories in Time. “We thought this was a joke,” says David Greenway, who left Time in 1973 and eventually became the editorial-page editor of the Boston Globe. “The editors at Time weren’t listening to us. None of Time’s reporters was manipulating the news. He wouldn’t have had any better luck than the rest of us.”

Far from planting stories, says Richard Pyle, the former A. P. Saigon bureau chief, “An saved Time from embarrassing itself by publishing stories that weren’t true. It was sleight of hand on his part. Without revealing how he knew what he knew, he’d let you know whether you were on the right track.”

An was also accused, according to former Time correspondent Zalin Grant, of being “the first known case of a Communist agent to appear on the masthead of a major American publication as a correspondent.” Murray Gart, the chief of correspondents at Time during the war, is reported to have said, after he learned the news, “An, that son of a bitch. I’d like to kill him.”

Another reporter who is critical of An, though for different reasons, is Peter Arnett. An rented a house from Arnett’s Vietnamese in-laws, and the two journalists would meet often at Givral’s to swap stories. “It’s still a raw point for me,” Arnett says. “Even though I understand him as a Vietnamese patriot, I still feel journalistically betrayed. There were accusations all throughout the war that we had been infiltrated by the Communists. What he did allowed the right to come up and slug us in the eye. For a year or so, I took it personally. Then I decided it was his business.”

With these few exceptions—and even Arnett ends our conversation by praising An as a “bold guy”—An’s colleagues are united in their support of him. “Was I angry when I learned about An?” says Frank McCulloch, who was the head of Time’s Asian bureaus when he hired An to work in the Saigon office for seventy-five dollars a week. “Absolutely not. It’s his land, I thought. If the situation were reversed, I would have done the same thing.”

“An was my colleague and star reporter,” says McCulloch, who is now retired after a distinguished career as the managing editor of the Los Angeles Times, the Sacramento Bee, and other papers. “An had a very sophisticated understanding of Vietnamese politics, and he was remarkably accurate.” McCulloch bursts into laughter. “Of course he was accurate, considering his sources!”

McCulloch remembers An with tremendous fondness and respect, and he says it was a “great pleasure,” in 1990, to organize a subscription fund, which raised thirty-two thousand dollars, to send An’s eldest son, Pham Xuan Hoang An, known to everyone as Young An, to journalism school at the University of North Carolina. The list of subscribers to the fund reads like a Who’s Who of Vietnam War reporters. (Hoang An, who earned a law degree from Duke University in 2002, now works for Vietnam’s Ministry of Foreign Affairs.)

Mai Chi Tho, An’s former boss, emerged after the war as one of Vietnam’s most powerful figures, serving as regional Party committee head, governing South Vietnam, and as Minister of the Interior. At Tho’s villa in central Saigon—the former Swiss Embassy—I am ushered into a sumptuous reception room on the ground floor, which is filled with mahogany furniture and sculptures carved from rocks gathered at Vietnam’s famous revolutionary sites. Dominating the far end of the room is an altar covered with flowers, bowls of fruit, and four hand-tinted photographs of Mai Chi Tho’s parents and his two famous brothers: Dinh Duc Thien, the two-star general who helped build the Ho Chi Minh Trail, and Le Duc Tho, the Nobel Peace Prize winner who snookered Henry Kissinger at the Paris Peace Accords.

Mai Chi Tho is standing at the altar, holding a lighted bundle of incense in his hand and bowing in front of his father’s picture. Today is his father’s death day, not a time, customarily, for receiving strangers, but Tho knows that my stay in the country is short. He places the incense on the altar and comes to shake my hand. Dressed in gray slacks and a purple shirt, he is an imposing, white-haired man with a direct gaze. Bigger than most Vietnamese, Tho had to have an extra-large tunnel made for himself during the ten years that he spent living underground at Cu Chi.

Schooled in all the best prisons in Vietnam, including what was later known as the Hanoi Hilton, where John McCain spent five years, and Poulo Condore, the Devil’s Island where, Tho says, two-thirds of his fellow-inmates died before he was released in 1945, General Tho is a war-hardened opponent, who today is an affable host offering his American visitor tea and fruit. “It was really hard work, but we had to do it,” he says of his effort to raise the money that sent An to America in 1957. “The Party had very little money, but we thought the effort was worth it—An was the first person we sent to America—to learn the culture of the people who were taking over from the French to become our enemy.

“An was the perfect man for the job,” he says. “It was a major coup for us.”

I ask Tho about the other opportunity, which Vietnam did miss—the chance to send An to the United States again in 1975. He stares at me through his steel-frame spectacles. “I don’t know how this story got out in the open,” he says, obviously regretting that I know enough to ask this question. “He would have been great if we had sent him to the United States.” This is the only hint of Tho’s opinion in the matter, before he switches to the Party line that An had suffered enough from working for so many years behind enemy territory and that he should be allowed to retire in peace.

I know before I ask it that my next question will go unanswered. “What, exactly, did An do for you?”

Minister Tho smiles and offers me another cup of tea. “An had the best sources and access to secret information,” he says. “He had his ear to the ground like no one else in Saigon. If you wanted to know what was happening, An was the man to ask. After the war, we made him a general and Hero of the People’s Armed Forces. Without giving you any details, that alone should tell you the importance of what he did for his country.”

I ring the bell for my final meeting with An. Last night, a typhoon blew in from the east, and showers have been falling off and on all morning. Now that the rains have come, An’s room fills with the smell of damp dogs and bird droppings, and my ankles turn into a mess of red dots and begin to swell from flea bites. By midmorning, the air thickens with the smell of frying peppers and vegetables and then dissipates as An continues to talk through the lunch hour and into the afternoon. Fortunately, I have learned to eat a substantial breakfast before going to see him.

Great streaming sheets of water are puddling in the garden and filling the air with mist. I worry about An’s yellowing books, which are getting foxed with mold and slowly dissolving into unreadable pulp. An pauses occasionally to get up and reach for one of these books. He searches for a quote or presses a text into my hands to confirm his analysis. Many of An’s books are signed, either by their authors or by the people who presented them to him. Of his two copies of Neil Sheehan’s “A Bright Shining Lie,” one is inscribed by Sheehan, the other by CBS correspondent Morley Safer.

In the afternoon, when the rains have blown off, An rises to shuffle through the kitchen and out the back door into the driveway. He opens his desk drawer to show me some old photos. He dismissively flings aside some newer pictures, showing him in his general’s uniform standing next to members of the Vietnamese Politburo. “They wanted to see what I looked like,” he says. “They spent the war in the jungle and had never met me.”

I fish out of the drawer a medal attached to a red ribbon. “What’s this?” I ask. “They just give me these things,” he says. “I have no idea what they mean.

“I worked in obscurity. I die in obscurity,” he says, shutting the drawer.

Walking back into the house, we again pause in front of An’s library. “I’m going to miss these when I’m no longer around,” he says. “I’m the only one who cares about these old stories.”

I remark that An’s collection of books includes volumes in French and English but very few in Vietnamese. “People here can’t write freely,” he says. “This is one reason I won’t write about my life. I’d get in trouble if I talked about my life or what I know.”

I sometimes feel as if the books An presses into my hands are coded messages, ways of talking about experiences that are still too dangerous to confront directly. For each day’s visit, An seems to have chosen a text or a passage around which to weave our conversation. One day it is Dickens, writing, “It was the best of times, it was the worst of times.” Another day, the lesson is drawn from the “Fables” of Jean de La Fontaine. An delights in these stories of beasts acting like men, and men like beasts.

At our final meeting, An shows me a book by Gérard Tongas, a French educator who went to Hanoi to help the Communists establish a high school after their victory over the French in 1954. According to An, Tongas, like Edward Lansdale, had an intelligent dog that one day saved him from being poisoned to death.

I see from the inscription on the flyleaf that Tongas’s book was given to An by the head of the Asia Foundation, the group that sponsored his travels in America. The title alone seems pregnant with meaning: “J’ai Vécu dans l’Enfer Communiste au Nord Viet Nam et J’ai Choisi la Liberté” (“I Have Lived in the Communist Hell of North Vietnam, and I Have Chosen Liberty”).

“It’s a very important book, a true book,” An says. “You must read it before you write anything.”

Trung Quốc Và Phản Quốc

Trần Gia Phụng

1. CHUYỆN DÀI TRUNG QUỐC

Đối với người Việt Nam, Trung Quốc là chuyện dài bất tận, bắt đầu ngay từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, và có lẽ không khi nào chấm dứt, vì không thể nào thay đổi khu vực địa lý chính trị. Các nhà cầm quyền Trung Quốc, dù bất cứ chế độ nào, luôn luôn tìm cách thôn tính Việt Nam, bành trướng xuống Đông Nam Á. Điều nầy không cần chứng minh, người Việt Nam nào cũng biết.

Gần đây, ngày 2-12-2007, Trung Quốc công bố rằng quốc vụ viện (quốc hội) của họ đã phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam, để trực tiếp quản lý ba quần đảo: Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa). Trong ba quần đảo nầy, tài liệu lịch sử Việt Nam cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam từ lâu đời. (Tài liệu của Lê Quý Đôn, Đại Nam nhất thống chí của nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc, thời Trần Văn Hữu trong Hội nghị San Francisco (8-9-1951), thời Việt Nam Cộng Hòa…)

Tức thì, tin Tam Sa gây phản ứng từ nhiều phía người Việt. Trước hết, phải kể đến nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (CSVN) ở trong nước. Ngày thứ Hai, 3-12-2007, Thông tấn xã Việt Nam đã thuật lại lời của ông Lê Dũng, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam, như sau: “Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên … VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước sau như một, VN chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 và tinh thần tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông năm 2002, nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định trên biển Đông và khu vực.” (Tuổi Trẻ, 4-12-2007.)

Phản ứng của dân chúng Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước rất sôi nổi. Ở ngoài nước, người Việt phản ứng mạnh mẽ đã đành, mà ở trong nước, tại Hà Nội và Sài Gòn, cũng xảy ra những cuộc biểu tình chống Trung Quốc.

Đây là những cuộc biểu tình hết sức đặc biệt dưới chế độ CSVN, mà theo nhà văn Hoàng Hưng: “Trong cuộc đời hơn 50 năm sống dưới chế độ toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là lần đầu tiên tôi được tham dự một cuộc biểu tình tự phát của người dân. Người “tổ chức” cuộc biểu tình là các blogger đã truyền đi trên internet lời kêu gọi từ mấy hôm trước. Và bất chấp những ý kiến cảnh cáo răn đe, rằng kẻ kêu gọi là phần tử phản động, rằng tham gia biểu tình là chống lại đường lối giải quyết mâu thuẫn bằng con đường chính thống của nhà nước, là bị “bọn dân chủ” lợi dụng để chống chính quyền… cuộc biểu tình đã diễn ra suốt ba tiếng đồng hồ ở trung tâm thành phố trước sự chứng kiến của đông đảo lực luợng an ninh mà không có sự cố gì xảy ra … (Hoàng Hưng, “Khi lòng yêu nước không bị áp đặt”, Talawas, 11-12-2007)

Ở Sài Gòn, “9h sáng đến 12h30 trưa, ngày 9 tháng 12 năm 2007 - Ðây sẽ là một ngày có ba tiếng rưỡi thật đáng nhớ đối với riêng tôi và những người đã có mặt trước Lãnh sự quán Trung Quốc ở Sài Gòn hay tại Ðại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi. Những người mà tôi không biết tên tuổi, gia cảnh, nhưng chắc chắn họ cũng như tôi, cùng trưởng thành dưới môi trường xã hội chủ nghĩa, dưới sự điều hành duy nhất của Ðảng Cộng sản trong suốt hơn 32 năm. đoàn kết bên nhau trong cùng một tiếng nói chung. Ðối với những người thuộc thế hệ tôi, thế hệ 8x, thì cuộc biểu tình này là lần biểu tình đầu tiên của cuộc đời, trong suốt hai mươi mấy năm sinh ra trên quê hương Việt Nam. Ðây, cuộc mở miệng đầu tiên của chúng tôi. Ðây, lần đầu tiên chúng tôi thực hiện một trong những quyền cơ bản của con người. Ðây, chúng tôi cảm nhận được nhiệt huyết sôi sục trên gương mặt nhau. Ðây, chúng tôi nhắc nhở cho chính phủ Việt Nam biết nhân dân Việt Nam còn tồn tại và biết họ cần làm những gì cho đất nước. Còn đối với những thế hệ xx khác ở miền Nam, có lẽ từ thời Ngô Ðình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, thì mãi đến bây giờ họ mới có dịp sống lại cảm giác hãnh diện của tình yêu nước trong một tập thể. Còn đối với những người ngoài Bắc, có lẽ họ cũng đang thử ôn lại xem đã bao nhiêu năm rồi mới sống một ngày trọn vẹn và có ý nghĩa như ngày 9/12 hôm đó.” (Lynh Bacardi, “Hãy tự cho chúng ta thêm nhiều lần lên tiếng”, Talawas, 12-12-2007.)

2. TRUNG QUỐC VÀ PHẢN QUỐC

Chuyện dài Trung Quốc chia thành hai tập rõ rệt. Tập thứ nhất, từ thời lập quốc đến thế kỷ 19, là những thiên anh hùng ca giữa nước của dân tộc, với các chương nổi bật như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung. Tập thứ hai, từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay, chuyện dài Trung Quốc hoàn toàn đổi chiều, chỉ là những trang thảm sử nhục nhã do đảng CSVN dựng nên. Tập hai nầy có thể chia làm hai chương chính từ 1924 đến 1954 và từ 1954 đến 1975.

Chương thứ nhất bắt đầu với Nguyễn Ái Quốc. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (người Việt Nam có tên Nga là Lin hay Linov), ủy viên Đông phương bộ, phụ trách cục phương Nam, một cán bộ lãnh lương của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (QTCS), từ Liên Xô qua Trung Hoa để phát triển cộng sản xuống vùng Đông Nam Á. Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) và mời Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai đến giảng dạy tại những khóa huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc lập ra để đào tạo cán bộ. Nguyễn Ái Quốc chính là người đại diện QTCS đứng ra thành lập đảng CSVN tại Hương Cảng ngày 6-1-1930 (Sau vâng lệnh đảng CS Liên Xô, đổi thành ngày 3-2-1930.)

Cuộc giao du giữa hai đảng CSVN và CSTH bắt đầu từ đây. Khi đến Trung Hoa lần thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đến căn cứ Diên An, nơi đặt bộ chỉ huy CSTH, trong nhiều tuần lễ vào mùa thu năm 1938, có thể để học tập và huấn luyện. Trong giai đọan đầu của cuộc chiến chống Pháp, Việt Minh (một mặt trận của CSVN) thất bại, phải co cụm lên rừng núi và về nông thôn.

Vì vậy, vừa được tin Mao Trạch Đông chiến thắng và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngày 1-10-1949, Hồ Chí Minh gởi liền hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh vào cuối năm đó để xin viện trợ. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tt. 10-15.)

Tiếp theo, đích thân Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow vào đầu năm 1950. Tại Moscow, Hồ Chí Minh lãnh chỉ thị về thực hiện Cải cách ruộng đất sắt máu theo kiểu cộng sản. Trên đường về, trở lại Bắc Kinh, Hồ Chí Minh ký với các nhà lãnh đạo Trung Quốc Hiệp ước Phòng thủ Hỗ tương giữa hai bên. Từ đó, CSTH cử La Quý Ba sang làm cố vấn cho Hồ Chí Minh, và ào ạt viện trợ cho VM.

Từ tháng 4 đến tháng 9-1950, Trung Quốc viện trợ cho VM 14,000 súng, 17,000 súng tự động, 150 trọng pháo đủ lọai, 2,800 tấn lúa, cùng đạn dược, quân phục, máy truyền tin, thuốc men…(Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập B, Houston: Văn Hóa, 1997, tr. 191.)

Theo tài liệu của CSVN, từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1954, “chính phủ nước Việt nam Dân chủ Cộng Hòa đã nhận được viện trợ của quốc tế là 21,517 tấn vật chất, bao gồm vũ khí, đạn dược, nguyên liệu quân giới, vận tảixăng dầu, gạo, thực phẩm, quân trang, quân y, thông tin, công binh (trong đó vũ khí đạn dược là 4,253 tấn; vận tải xăng dầu là 5,069 tấn; gạo, thực phẩm – 9,590 tấn.) Tổng số viện trợ trị giá 136 triệu đồng nhân dân tệ (34 triệu rúp) theo thanh tóan giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong số đó, vũ khí trang bị kỹ thuật gồm có 24 khẩu sơn pháo 75 ly, 24 khẩu lự pháo 105 ly, 76 khẩu pháo cao xạ 37 ly (của Liên Xô), 12 khẩu pháo hỏa tiễn H6 (của Liên Xô, 715 xe ô tô vận tải (trong đó có 685 xe của Liên Xô).” (Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Giáo Dục, 2001, tr. 103.)

Viện trợ nhiều, thì ân tình nhiều. Sau năm 1954, Bắc Việt tiến lên xã hội chủ nghĩa, càng ngày càng nghèo đói, lấy gì trả nợ ân tình? Để đền ơn đáp nghĩa, nhà cầm quyền Hà Nội không có gì ngoài việc lấy của gia bảo là đất đai do cha ông để lại, để hiến dâng cho Bắc Kinh.

Theo tài liệu về phía Trung Quốc, "Vào tháng Sáu năm 1956, hai năm sau khi chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã thành lập tại Hà Nội, thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Ung văn Khiêm đã nói với ông Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, rằng theo dữ liệu của Việt Nam thì đảo Tây Sa (tức Paracels, Hòang Sa) và đảo Nansha (tức Spratleys, Trường Sa) là một phần thuộc Trung Quốc theo lịch sử." (Quan điểm của Bắc Kinh về chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, RFA 12-12-2007.)

Tài liệu tuyên truyền của Trung Quốc có thể không đáng tin, nhưng thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng đề ngày 14-9-1956, gởi cho thủ tướng Chu Ân Lai, thì là thật đáng tin vì chứng tích rõ ràng còn để lại, nguyên văn như sau:

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1959 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.


Chương hai tập hai chuyện dài Trung Quốc từ 1954 đến 1975 được tiếp nối bằng viện trợ của Trung Quốc để tấn công Việt Nam Cộng Hòa. Trung Quốc chẳng những viện trợ súng ống, đạn dược mà cả quân viễn chinh nữa. Trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày 30-7-1979, một viên chức ngọai giao Trung Quốc cho biết tứ năm 1954 đến 1971, 300,000 binh sĩ Trung Quốc đã chiến đấu bên cạnh binh sĩ Bắc Việt, trong đó hàng ngàn người đã tử trận và hàng chục ngàn người đã bị thương. (Jacques Massu, Jean-Julien Fonde, L’aventure Viet-Minh, Paris: Plon, 1980, tr. 293, phần chú thích.)

Tiết lộ của của viên chức ngọai giao Trung Quốc được một tài liệu của một cựu cán bộ CSVN là ông Nguyễn Minh Cần xác nhận khi ông cho biết Bắc Việt đã mời quân Trung Cộng vào đóng giữ từ khu Việt Bắc xuống tới Hà Nội. (Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, California: Văn Nghệ, 1997, tr. 114.)

Trở lại cuộc họp báo của viên chức bộ Ngọai giao Trung Quốc, ông ta còn xác định số lượng võ khí Trung Quốc viện trợ cho CSVN từ 1950 đến 1977 lên đến 2,000,000 súng hạng nhẹ, 27,000 đại pháo, 270 triệu băng đạn, 18 triệu đạn đại pháo, 179 chiếc máy bay và 145 chiến hạm. (Jacques Massu, Jean-Julien Fonde, sđd. tr. 293, phần chú thích.)

Các số liệu viện trợ của Trung Quốc chuyển cho đảng CSVN được trích dẫn trên đây có thể còn thiếu sót so với thực tế. Đó là chưa kể những giúp đỡ về chính trị và ngọai giao trên trường bang giao quốc tế. Tuy nhiên tất cả những tài liệu tạm dẫn đó cũng đủ để giải thích vì sao, CSTH rất tức giận khi CSVN quay mặt với Trung Quốc, để chạy theo Liên Xô năm 1978. Sau đó, vì Liên Xô sụp đổ năm 1991, CSVN đành trở lại quy thuận Trung Quốc.

Từ đó, trước mặt Trung Quốc, đảng CSVN trở nên mềm nhủn, nhu nhược, và liên tiếp ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cộng. Thứ nhất là “Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc” ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan) và thứ hai là “Hiệp ước phân định lãnh hải” ngày 25-12-2000 (mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển Vịnh Bắc Việt). Chuyện biên giới là chuyện dai dẳng cả trăm năm chưa giải quyết, mà vì quá nhu nhược trước mặt Trung Quốc, đảng CSVN ký liền hai hiệp ước, làm mất đất đai do tổ tiên dày công xây dựng.

Như thế, vì tham vọng quyền lực, vì muốn duy trì sự lãnh đạo của đảng CSVN, nên CSVN chạy theo cầu cạnh Trung Quốc, phục vụ quyền lợI Trung Quốc, nhượng đất cho Trung Quốc và phạm tội phản quốc. Nói ngắn ngọn: Đi với Trung Quốc nên phản quốc. Chuyện Tam sa ngày 2-12-2007 chỉ là diễn biến mới trong câu chuyện phản quốc của CSVN. Câu chuyện nầy chắc chắn sẽ chưa kết thúc nếu CSVN cứ tiếp tục cầm quyền tại Việt Nam

3. DẸP PHẢN QUỐC ĐỂ CHỐNG TRUNG QUỐC

Trung Quốc là một trong những đại nạn của lịch sử Việt Nam. Đại nạn nầy càng gia trọng khi những kẻ phản quốc cầm quyền, luôn luôn manh tâm bán đứng đất nước để mưu đồ quỵền lực và quyền lợi riêng tư. Hãy trở lui với phản ứng của nhà cầm quyền CSVN đối với vụ Tam Sa.

Lê Dũng, phát ngôn viên bộ Ngọai giao Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nói: “Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên … VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa … Trước sau như một, VN chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 và tinh thần tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông năm 2002, nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định trên biển Đông và khu vực.”

Có ba điều cần nhấn mạnh:

1) Trong sinh họat dân chủ, cấp cao nhất là Quốc hội. Việc Tam Sa do Quốc hội Trung Quốc quyết định. Vậy cấp cao hơn là ai? Phải chăng là Bộ Chính trị đảng CSTH? Bộ Chính trị đảng CSTH cũng nằm trong Quốc hội và điều khiển Quốc hội, thì còn ai cao hơn?

2) Đúng là lịch sử Việt Nam có đủ bằng chứng rằng các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, TRUNG QUỐC nói rằng họ cũng có đủ bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, và đảng CSVN đã nhượng các vùng đất và biển nầy cho Trung Quốc. Đảng CSVN trả lời sao đây? Đối với người Việt Nam, những bằng chứng nầy là bằng chứng PHẢN QUỐC của đảng CSVN.

3) Nói đến công ước Liên Hiệp Quốc, thì hiện nay, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vừa mới giữ ghế không thường trực hai năm trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Giải quyết những vụ tranh chấp, xâm lăng lãnh thổ giữa các nước trên thế giới, nằm trong chức năng của HĐBALHQ. Việt Nam đang ngồi trong Hội đồng mà không dám đưa vấn đề ra Hội đồng. Việt Nam cũng không đưa ra kiện tụng ở Tòa án Quốc tế đặt tại The Hague (Hòa Lan). Thế thì nói công ước quốc tế làm gì?

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Thế mà CSVN quá sợ nhà cầm quyền Bắc Kinh, nên không dám đánh. Quân đội Nhân dân “anh hùng” của CSVN đứng bất động. Không lẽ “anh hùng” là nhờ Quân đội nhân dân chỉ là công cụ để CSVN đàn áp dân chúng, giúp CSVN bán dần và bán rẻ đất đai của tổ tiên cho Trung Quốc?

Cộng Sản Việt Nam sợ Trung Quốc đến nỗi ở trong nước không cho phép dân chúng biểu tình phản đối Trung Quốc. Một ví dụ cụ thể là thông báo của Trường Đại Học Công Nghệ thuộc Viện Đại Học Hà Nội được đưa lên mạng lưới thông tin quốc tế, khuyên sinh viên không nên tổ chức hay tham gia biểu tình mà phải chờ đợi chủ trương của nhà nước theo đường lối ngọai giao.

Trong khi đó, mặt khác CSVN vẫn sợ bị lên án là khiếp nhược trước sự xâm lăng từ phương Bắc, nên tuy cấm biểu tình, nhưng nhà cầm quyền CSVN không đàn áp, bắt giam những người phản đối và biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn ngày 9-12-2007, mà chỉ theo dõi, duy trì trật tự, khác với những cuộc tụ họp khiếu kiện gần đây của dân oan.

Cũng có thể CSVN cũng cần những cuộc biểu tình nầy vì hai lẽ: Thứ nhất, dựa trên cơ sở lòng dân, Hà Nội sẽ kiếm cách thương thuyết với Bắc Kinh, xin nhẹ tay để khỏi bị tai tiếng phản quốc. Thứ hai, việc chống Trung Quốc sẽ giúp đánh lạc hướng dư luận dân chúng trong nước và trên thế giới, hiện đang xôn xao đòi hỏi tự do dân chủ, đòi tự do chính trị, tự do báo chí, đòi thả những người bất đồng chính kiến, thả những tù nhân lương tâm, đòi giải quyết những vụ khiếu kiện của dân oan. Nghĩa là trong cơn bối rối, Hà Nội muốn chuyển mục tiêu tranh đấu và lòng căm giận của dân chúng về phía Bắc Kinh, nhằm làm giảm nhẹ áp lực của dư luận đối với CSVN. Do đó, chúng ta cần thận trọng tránh cạm bẫy nầy của CSVN.

Khi tổ chức và tham gia biểu tình, các anh chị em thanh niên, sinh viên chẳng những dạy cho đảng CSVN một bài học thực hành đích đáng về lòng yêu nước, mà các anh chị em còn nhắc nhở việc thực hành bài học yêu nước nầy cho những nhà khoa bảng, trí thức, giáo sư, giáo viên, không phải chỉ nói chuyện lý thuyết suông, mà cần phải chuyển hóa lòng yêu nước thành hành động cụ thể. Trong biến cố vừa qua, với những điều kiện của mình, giới khoa bảng trí thức, giáo sư chắc chắn biết rõ tin tức nầy. Giới trí thức, giáo sư thường đứng trên bục giảng, dạy cho con em lòng yêu nước, nhưng không “thức” mà đã “ngủ” hết, nên không thấy lên tiếng. Các “Việt kiều yêu nước” ở hải ngoại, được Hà Nội ồn ào khen thưởng, mời về nước phong tặng huy chương mấy năm gần đây, cũng lặn đâu mất rồi? Chỉ có giới trẻ trong nước can đản đứng lên hành động!

Phải nói ngay là hành động của thanh niên, sinh viên học sinh trong nước nhanh chóng phản ứng đối với vụ Tam Sa, thật đáng hoan nghênh và cảm phục. Hành động của anh chị em cho thấy dầu bị CSVN áp bức, kềm kẹp về chính trị, anh chị em luôn luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước vốn tiềm ẩn luân lưu trong dòng máu Việt.

Hy vọng cuộc biểu tình ngày 9-12-2007 sẽ tiếp tục bằng những cuộc phản kháng sắp đến. Chúng ta cần chú ý rằng nguồn gốc của vụ Tam Sa, hay của những hành động xâm lăng ngang ngược của CSTH, chẳng những do bản chất hiếu chiến và xâm lăng của tập đòan lãnh đạo Bắc Kinh, mà còn bắt nguồn từ kẻ nội thù của người Việt. Kẻ nội thù đó chính là đảng CSVN, kẻ đã thụ ơn Trung Quốc, làm tay sai cho Trung Quốc, sợ sệt Trung Quốc, từ từ nhượng bộ Trung Quốc hết điểm nầy đến điểm khác.

Trong khi nhu nhược với Trung Quốc, CSVN hết sức độc tài ở trong nước. Cho đến nay, vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn chưa có tự do chính trị, chưa có tự do bầu cử, chưa có tự do báo chí, nghĩa là CSVN vẫn duy trì chế độc độc tài. Ở trong nước càng độc tài, càng đàn áp, CSVN càng bị phản đối từ nhiều phía, từ dân chúng trong nước, đến dư luận thế giới. Càng bị phản đối, CSVN lại càng bám gót Trung Quốc để tiếp tục tồn tại. Càng bám gót Trung Quốc, CSVN càng nhượng bộ, càng PHẢN QUỐC.

Hồ Chí Minh đã từng mượn biệt hiệu ÁI QUỐC của các nhà cách mạng yêu nước chân chính để làm tên riêng, nhưng khi qua Liên Xô, lãnh lương của ĐTQT, lãnh sứ mạng phát triển cộng sản xuống Đông Nam Á, đưa chủ nghĩa Mác-xít về làm hại đất nước, ÁI QUỐC trở thành PHẢN QUỐC.

Học trò của Hồ Chí Minh trong đảng CSVN tiếp tuc sách lược của ông ta, làm tay sai cho TRUNG QUỐC, tiếp tục PHẢN QUỐC không khác gì lãnh tụ của họ. Vì vậy, muốn chống TRUNG QUỐC hữu hiệu, trước tiên phải dẹp bỏ PHẢN QUỐC. Chỉ khi nào kẻ PHẢN QUỐC không còn, thì mới chấm dứt tình trạng nhượng bộ đất đai, mới có thể nói chuyện tập hợp tổng lực toàn dân, chống TRUNG QUỐC một cách hữu hiệu, như trước kia nhà Lý, nhà Trần đã làm.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 10-12-2007)

Monday, May 19, 2008

Hội thảo “Dân chủ, Nhân quyền và hiện tình GHPGVNTN”

Thị Anh, TGM

Trưa thứ Bảy, 17 tháng 5 năm 2008, tại thính đường Ðại học UTA (University of Texas at Arlington), Chi hội Phật tử cùng phối hợp với Chi hội Cựu Huynh trưởng Gia đình Phật tử tại Dallas/Fort Worth và vùng phụ cận, đã tổ chức buổi Hội thảo về “Dân chủ, Nhân quyền và hiện tình Phật Giáo Việt Nam”. Có khoảng 400 người, gồm đại diện các tôn giáo, cộng đồng, hội đoàn, cơ quan truyền thông báo chí và đồng hương đã đến tham dự. Ðặc biệt có những thân hữu từ xa về như Nevada, Missouri, Tulsa, Oklahoma, Houston, Texas.




Trước đó một ngày, 16 tháng 5 năm 2008, hai đài phát thanh “Tiếng nước tôi” và “Dallas Radio” do anh Thái Hóa Lộc và chị Liên Bích đã phỏng vấn Giáo Sư Võ Văn Ái và chị Ỷ Lan, xoay quanh những hệ lụy sau khi Giáo chỉ số 9 được ban hành bởi Ðức Tăng Thống Thích Huyền Quang, và Thông bạch của Ðại lão Hòa thượng Thích Quảng Ðộ. Giáo sư Võ Văn Ái đã trả lời và giải thích rất tường tận: “Giáo chỉ số 9 không nhằm loại trừ một số Chư Tăng Ni nào cả, chỉ nhắm vào bạo quyền Cộng sản Việt Nam đang âm mưu tiêu diệt Giáo hội chính thống GHPGVNTN với sự tiếp tay của vài phần tử biến chất.”

Sáng hôm sau, 17 tháng 5 năm 2008, đài phát thanh Saigon Dallas 890AM và truyền hình SBTN-DFW đã có một chương trình phỏng vấn đặc biệt với Giáo sư Võ Văn Ái và chị Ỷ Lan cho ngày Hội thảo do hai nhà báo Trương Sĩ Lương và Thu Nga thực hiện.

Ðúng 1 giờ chiều thứ Bảy, 17 tháng 5 năm 2008, Thượng tọa Thích Giác Ðẳng, Giáo sư Võ Văn Ái, chị Ỷ Lan đến hội trường, toàn thể quan khách và quý đồng hương đã nồng nhiệt đón chào bằng những tràng pháo tay. Ðâu đó người ta nghe những tiếng gọi tên chị Ỷ Lan. Chúng tôi nhận thấy có sự hiện diện hầu hết các vị lãnh đạo tinh thần, Cộng đồng, các cơ quan truyền thông báo chí:

- Linh mục Tống Thiện Liên, đại diện Thiên Chúa giáo
- Hiền tài Nguyễn Thanh Liêm, đại diện Cao Ðài Giáo
- Ðạo Hữu Võ Ðan Lỳ, đại diện Phật giáo Hòa Hảo
- Ðại đức Thích Hải Viên, Tri sự chùa Phổ Ðà tại thành phố Memphis, Tennesee
- BS Trương Ngọc Tích, CÐNVQG tại Hoa Kỳ
- Ông Thái Hóa Tố, Chủ tịch CÐNVQG tại Dallas, Texas
- Ông Nguyễn Xuân Hùng, Chủ tịch CÐNVQG tại Fort Worth, Texas
- BS Phạm Văn Chất, Chủ tịch Liên hội Cựu Chiến sỹ Việt Nam Cộng Hòa tại Dallas-Fort Worth và vùng phụ cận.
- Quý Hội đoàn, các cơ quan truyền thông báo chí.

Vì chuyến bay từ Cali bị chậm trễ, Thượng tọa Thích Viên Lý, Tổng thư ký Văn phòng 2 GHPGVNTN tại hải ngoại đã đến hội trường lúc 1giờ 30, và buổi Hội thảo đã được khai mạc ngay sau đó.

Mở đầu chương trình, cô Kiều Nga giới thiệu thành phần quan khách tham dự, và cho biết chương trình Hội thảo được trực tiếp truyền thanh trên diễn đàn thế giới, kể cả Việt Nam, qua hệ thống Paltalk. Tại địa phương, buổi hội thảo cũng được trực tiếp truyền thanh qua hai đài Saigon ố Dallas 890AM và Dallas Radio.

Sau nghi thức chào cờ Việt, Mỹ- Phật giáo và phút mặc niệm khai buổi Hội thảo, ông Nguyễn Ðức, Trưởng ban tổ chức đã ngỏ lời cám ơn quan khách, giới thiệu Thượng tọa Thích Giác Ðẳng, và Giáo sư Võ Văn Ái, đại diện cho GHPGVNTN sẽ trả lời tất cả các câu hỏi có liên quan đến hiện tình GHPGVNTN, dù những câu hỏi không được êm tai, nếu có.

Ban tổ chức đã trình chiếu đoạn phim 8 phút với tiếng nói của Ðại lão Hòa thượng Thích Quảng Ðộ từ Thanh Minh Thiền Viện Saigon Việt Nam gởi ra cho Liên Hiệp Quốc bằng tiếng Anh và chị Ỷ Lan cũng đã giải thích rất rõ ràng trước cử tọa. Sau đó, Giáo sư Võ Văn Ái, cũng là nhà văn, nhà thơ qua bút hiệu Thi Vũ đã trình bày về tập “Thơ Tù”của Hòa thượng. Trong tù Hòa thượng đã sáng tác hơn 400 bài thơ và đã gởi ra hải ngoại, thế nhưng khi ra tù Hòa thượng biết rằng những bài thơ đó đã không được công bố. Sau đó, Hòa thượng đã nhớ, chép lại và gởi qua cho Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, cơ sở “Quê Mẹ” xuất bản và phát hành khắp nơi trên thế giới.

Chị Ỷ Lan, một người Anh, nói lưu loát tiếng Việt bằng âm hưởng miền Trung của Kinh đô Huế cổ kính, đã làm xúc động cả hội trường khi tâm tình cơ duyên nào mà chị đến và yêu mến quê hương Việt Nam, dù rằng chị chưa bao giờ đặt chân tới. Chị đã dí dỏm rằng: “Bọc trứng 100 con của bà Âu Cơ, có một trứng đã lạc loài qua xứ Anh mù sương”. Chị rất ngưỡng mộ tinh thần Vô úy và Từ bi của hai Ðại Lão Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ. Cuối cùng, chi tậm sự : “Ðã dành hầu hết cuộc đời dấn thân tranh đấu Dân chủ, nhân quyền và Tôn giáo cho Việt Nam.” Một người Ngoại quốc còn dấn thân như vậy. Còn chúng ta thì làm gì đây hỡi các bạn!?

Mở đầu phần thuyết trình, Thượng tọa Thích Giác Ðẳng, Tổng ủy viên Truyền thông văn phòng 2 GHPGVNTN tại hải ngoại, sơ lược hiên tình Giáo hội Phật giáo hiện nay, nguyên nhân nào Giáo chỉ số 9 ra đời? Thượng tọa nói rất ngắn gọn, vì muốn dành nhiều thì giờ cho phần hội luận.

Ðúng như ý nguyện của ban tổ chức, phần thảo luận rất sôi nổi, trong tinh thần tương kính. Nhiều câu hỏi đã đặt ra cho thuyết trình viên, Thượng tọa Thích Giác Ðẳng cũng như Giáo sư Võ Văn Ái đã trả lời rất thỏa đáng, đánh tan những nghi ngờ về Giáo chỉ mà Ðức Tăng Thống ban hành.

Một điểm son đáng ghi nhận – sau buổi hội thảo hơn 3 tiếng đồng hồ – là hai vị Chủ Tịch Cộng Ðồng DFW: ông Thái Hóa Tố chủ tịch CÐNVQG tại Dallas, ông Nguyễn Xuân Hùng chủ tịch CÐNVQG tại Fort Worth, đã ký một tuyên cáo chung, ủng hộ Giáo chỉ số 9, và đường lối hoạt động của GHPGVNTN. Bản tuyên cáo đã được trao tận tay Thượng tọa Thích Viên Lý Tổng Thư Ký Văn phòng 2 GHPGVNTN tại hải ngoại, đại diện cho GHPGVNTN. Ðáp tư, Thượng tọa Tổng thư ký, thay mặt Giáo Hội, đã cám ơn quý quan khách, đồng bào tham dự buổi Hội thảo, cảm ơn hai CÐNVQG tại địa phương DFW luôn luôn ủng hộ đường lối và lập trường của GHPGVNTN. Thượng tọa cũng đã tán thán công đức của ban tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho đại diện GHPGVNTN có cơ hội giải tỏa những khúc mắc, nghi ngờ và những hệ lụy chung quanh Giáo chỉ số 9.

Thay mặt ban tổ chức, ông Nguyễn Ðức, một lần nữa, cám ơn chư Tôn Ðức, quý vị lãnh đạo các tôn giáo, cơ quan truyền thông, quan khách và đồng hương, đã tham dự buổi Hội thảo. Ông cũng mong mỏi đây là bước đầu để đối thoại và kết hợp người Việt tại Dallas, Fort Worth và khắp mọi nơi để cùng đẩy mạnh cuộc tranh đấu chung cho dân tộc sớm thoát khỏi ách toàn trị của chế độ Cộng sản Việt Nam.

Buổi Hội thảo chấm dứt lúc 5 giờ 30 chiều cùng ngày.

Thị Anh, TGM

Saturday, May 17, 2008

Giám Sát Viên Janet Nguyễn Thân Cộng (?)

Cuộc bầu cử sơ bộ chức vụ Giám Sát Viên đơn vị I vào ngày 3 tháng 6 năm 2008 giữa 3 ứng cử viên Việt Nam sắp đến vòng chung cuộc. Trận chiến bắt đầu nóng rực khắp cộng đồng vì những lời tố cáo lẩn nhau. Take2Tango Weekly sẽ có cuộc mạn đàm đặc biệt với nghị viên Dina Nguyễn, luật sư Trần Văn Hòa và giám sát viên Janet Nguyễn.

Giám Sát Viên Janet Nguyễn.
Nhiều tài liệu "bôi bẩn" nhau được tung ra một cách thẳng thừng. Để bạn đọc Take2Tango khắp nơi tiện theo dõi, chúng tôi xin thu lượm một số sự kiện như sau:

Theo nhà báo Trần Nhật Phong, trong liên tiếp chưa đầy 10 ngày, Luật sư Trần Văn Hòa, người đang tranh cử chức Giám Sát Viên đơn vị 1 và ghi danh theo đảng Dân chủ tại quận Cam, theo các ghi nhận trên những trang blog, các đơn khiếu nại đều nhắm vào hồ sơ tài chánh của ông Hòa mà họ tin rằng đã không được rõ ràng đồng thời vi phạm luật tranh cử.

Lá đơn đầu tiên theo tường trình, một thành viên trên blog Red County/OC Blog có tên là Jubal đã gởi đơn khiếu nại đến nha biện lý quận Cam về hồ sơ tài chánh mà nhân vật này cho rằng ông Hòa đã vi phạm vào luật tranh cử. Theo đơn khiếu nại, ông Hòa đã không trình bày rõ ràng hồ sơ tài chánh tranh cử của ông từ ngày 1 tháng Giêng cho đến ngày 17 tháng 3 năm 2008. Jubal còn cho biết, ông ta đang giữ bản copy 2 tấm check ký ra từ văn phòng của ông Hòa, ghi trả cho nhân viên trong ban tranh cử của ông Hòa. Theo ông Jubal, Luật sư Trần Văn Hòa đã không kê khai những chi thu tài chánh một cách rõ ràng từ quỹ tranh cử của ông ta.

Lá đơn thứ 2 được gởi ra chỉ cách lá đơn đầu tiên có vài ngày do một tổ chức có tên gọi là tổ chức quan sát tài chánh tranh cử. Người đứng ra khiếu nại là bà Shirley Grindle (Campaign finance watchdog). Theo bà này cho biết, ông Trần Văn Hòa đã không báo cáo rõ ràng về các chi tiêu tài chánh của ông trong cuộc tranh cử. Lá đơn được gởi đến Bộ Tư pháp tiểu bang California, trong đó bà Shirley Grindle đã chỉ ra rằng, một thành viên trên blog TheLiberalOC.com có tên là Chris Prevatt, đã từng tố cáo người cố vấn cũng là trưởng ban vận động tranh cử cho ông Hòa, Edgardo Reynoso, đã ở khách sạn miễn phí theo lời yêu cầu của ông Nguyễn Đỗ Phủ là thủ quĩ của ông Hòạ Theo lời bà Shirley Grindle, ông Hòa đã hoàn toàn vi phạm một đạo luật có tên gọi là TIN CUP, một đạo luật nằm trong các luật lệ về tài chánh tranh cử trong quận.

Nghị Viên Dina Nguyễn.
Như vậy, hiện nay ông Trần Văn Hòa sẽ đối diện với cả 2 cơ quan lớn về các giải thích liên quan đến tài chánh tranh cửa của ông, bao gồm nha Biện lý Quận Cam (OC Disttric Attorney) và Bộ Tư pháp tiểu bang California (State Attorney General).

Trong khi đó, một bài viết do Liên Ủy Ban Chống Nghị Quyết 36 gửi tràn lan trên Net tố cáo trực tiếp vào GSV Janet Nguyễn như sau:

Trước năm 1975, những tên đặc công CS nằm vùng là những tên tỏ ra chống Cộng một cách công khai và ác liệt nhất, mục đích là để chúng che mắt và lừa phỉnh chính quyền VNCH len lỏi nằm vùng tại các cơ quan quan trọng nhất để lấy tin tức và pha hoạị Ngày nay tại hải ngoại cũng vậy, có những người miệng thì hô hào chống Cộng rất hăng say nhưng đàng sau lại chính là những người thi hành nghị quyết 36 của CSVN một cách tích cực nhất. Họ cố tình làm phân hóa tập thể người Việt quốc gia trong mục tiêu làm suy yếu tiềm năng chống Cộng của một cộng đồng người Việt quốc gia đông đảo và mạnh mẽ nhất tại hải ngoại. Sau khi nghiên cứu cặn kẽ một số tài liệu và bằng chứng, Liên Ủy Ban nhận thấy có bổn phận và trách nhiệm phải công bố tất cả những dữ kiện này với đồng hương.

Cảnh giác GSV Janet Nguyễn về hành tung của một số nhân vật đáng nghi ngờ đang công khai lộ diện yểm trợ cuộc tranh cử của cô

- Ông Nick Le Công, tự xưng là Luật Sư Lê Công Tâm (mặc dầu chưa bao giờ là luật sư thực thụ tại Việt Nam cũng như tại Hoa Kỳ) hiện đang giữ chức Cố Vấn Ðặc Biệt cho GSV Janet Nguyễn. Ông Lê Công Tâm chưa hề là người đấu tranh chống Cộng từ 1975 đến nay, ngoài ra ông đã từng có quan hệ mật thiết và làm ăn lâu năm tại Việt Nam sau năm 1975, trước khi xuất hiện trở lại khu Little Saigon dưới danh nghĩa Cố vấn đặc biệt cho GSV Janet Nguyễn.

- Bên cạnh ông Lê Công Tâm, GSV Janet Nguyễn còn được sự hỗ trợ mạnh mẽ của những người như ông Tony Lâm, Eric Lê, Hồ Văn Xuân Nhi và toàn ban biên tập Tuần Báo Việt Weekly. Ðây là những thành phần đã từng bị đồng bào Nam Cali cáo buộc là “thân Cộng, vận động cho vấn đề giao thương với Việt Nam bất kể tình trạng vi phạm nhân quyền ...”. Trong chuyến viếng thăm Quận Cam của Chủ Tịch CSVN Nguyễn Minh Triết vừa qua, chính những nhân vật này đã trực tiếp hoặc gián tiếp đứng ra mời và phân phối vé mời đến quan khách và giới thương gia gốc Việt tại Quận Cam tham dự tiệc tiếp đón Nguyễn Minh Triết tại Dana Point.

Trong cuộc biểu tình chống Việt Weekly, GSV Janet Nguyễn còn biện hộ cho Việt Weekly trong các bài phỏng vấn trên báo chí Anh ngữ rằng đây là “vấn đề tự do ngôn luận và những ai không đồng ý với quan điểm của Việt Weekly thì đừng đọc tờ báo đó ...”. Trên thực tế, Việt Weekly chỉ lợi dụng quyền tự do ngôn luận để bôi bác những giá trị hay biểu tượng của người Việt quốc giạ Tuần qua, GSV Janet Nguyễn còn công khai cho ViệtWeekly phòng vấn như một hình thức quảng cáo cho việc tranh cử của Cô.

Một nhân vật “bí mật” yểm trợ tích cực GSV Janet Nguyễn

Một nhân vật nữa, ít người biết đến đó là Eric Lê, còn được biết dưới tên Lê Công Trứ hay Lê Công Trí (anh em với Lê Công Tâm?) Eric Lê Công Trứ là aỉ Eric Lê hiện là chủ tịch tổ chức Vietnam Business Association, tức Hiệp Hội Doanh Thương Việt Nam. Tổ chức này có trang nhà trên lưới điện toán ở địa chỉ http://www.vietnamba.com/http://www.vnba.org/. Eric Lê đã từng sử dụng tấm danh thiếp nền đỏ với đầy đủ phù hiệu của lá cờ đỏ sao vàng của Cộng Sản VN và địa chỉ của cơ sở tại số 3943 Irvine Blvd., # 249, Irvine, CA 92602. Web site của tổ chức này có liệt kê đầy đủ các công ty Việt Nam có cơ sở làm ăn tại Hoa Kỳ và các công ty Hoa Kỳ làm thương mại tại Việt Nam. Nhiều người cho rằng đây có thể là một tổ chức trá hình của CSVN để chỉ đạo hoặc thi hành nghị quyết 36 tại hải ngoại nhằm nhiều mục tiêu, trong đó mục tiêu chính là dồn nỗ lực đưa người vào chính trường dòng chính và xúi bẩy, mua chuộc những người nhẹ dạ làm tay sai cho CSVN, gây xáo trộn, tung hỏa mù làm mất niềm tin của đồng hương Việt tại Nam Calị

Vietnam business association của Eric Lê cũng là tổ chức chính thức đứng tên trong thiệp mời tiệc tiếp đón Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nhà nước CSVN, đến Dana Point, Quận Cam vào hồi tháng 6 năm 2007. Ðịa chỉ và số điện thoại trên danh thiếp của Eric Lê cũng là địa chỉ và số điện thoại chính thức của Vietnam business association tại Ivinẹ

Liên hệ với cuộc viếng thăm Little Saigon Radio

Eric Lê cũng chính là người đã đích thân đưa Tổng Lãnh Sự CSVN Trần Tuấn Anh đến Ðài Little Saigon Radio để thăm gặp ông Vũ Quang Ninh mà không hề báo trước cho ông Ninh cũng như không báo trước cho chính quyền địa phương để được hộ tống như thường lệ. Sự việc khá bí mật này sau đó đã được Tuần Báo Việt Weekly tiết lộ và phổ biến nhằm mục tiêu đánh phá Ðài Little Saigon Radio. Ông Vũ Quang Ninh đã quen biết Eric Lê trong bữa cơm gây quỹ tracnh cử của Janet trong kỳ bầu cử trước. Ông Vũ Quang Ninh cho biết chính Eric Lê đã dẫn Trần Tuấn Anh, Tổng Lãnh Sự CSVN ở San Francisco đến thăm Ðài Little Saigon và mời ông Ninh chụp hình chung với Trần Tuấn Anh và trước khi ra về, Eric mới đưa cho ông Ninh tấm danh thiệp của Trần Tuấn Anh. Vài hôm sau tấm hình này đã được Việt Weekly dùng để tấn công Ông Vũ Quang Ninh và đài Little Saigon.

Vậy Eric Lê là ai để được một viên chức cao cấp của chính quyền CSVN như tên Tổng Lãnh Sự Việt Cộng tại San Francisco là Trần Tuấn Anh tin dùng như vậỷ Phải chăng đây là một âm mưu của CSVN, qua nghị quyết 36, nhằm triệt hạ Ðài Little Saigon Radio nói riêng và một vài cơ quan truyền thông quan trọng có uy tín trong cộng đồng người Việt nói chung, mà chúng thấy là bất lợi cho công cuộc xâm nhập và tuyên truyền của chúng vào cộng đồng VN? Gần đây nhất có nhiều tin đồn cho rằng Eric Lê chính là người đã tiết lộ hình ông Ðỗ Ngọc Yến, cựu chủ nhiệm Nhật Báo Người Việt chụp chung với các viên chức Tòa Tổng Lãnh Sự CSVN? Tại sao những tấm hình này đã được chụp từ rất lâu, mãi đến bây giờ mới được phanh phui khi ông Ðỗ Ngọc Yến, người bị cáo buộc chính, đã qua đời và khi ông Ðỗ Việt Anh, ông Vũ Ánh và Vũ Quý Hạo Nhiên, những người từng hỗ trợ tối đa cho Janet Nguyễn trong kỳ bầu cử trước, vừa bị Báo Người Việt sa thải vì tội thân Cộng và bôi bác lá cờ VNCH trong bồn rửa chân?

Trong vụ kiện với Bác Sĩ Trần Hùng Phong để đòi lại số tiền $400,000 dollar tiền mặt mà Eric Lê cáo buộc là đã cho Bs Trần Hùng Phong vay mượn. Ðây chỉ là số tiền nhỏ của Eric Lê, hồ sơ địa ốc tại Quận Cam cho thấy Eric Lê đứng tên một căn nhà lớn trên đồi Orange Hill trị giá trên 1 triệu dollar. Căn nhà này được mật báo là nơi các viên chức Cộng Sản Việt Nam nghỉ lại khi đến thăm Quận Cam. Vấn đề ở đây là tại sao một thanh niên còn trẻ trên dưới 40 tuổi, mới đến định cư tại Hoa Kỳ dưới danh nghĩa một du học sinh, mới hành nghề địa ốc mà đã có vốn liếng tài sản lớn như vậỷ Nếu không phải là kinh tài nằm vùng của CSVN?! Gần đây Eric Lê còn tỏ ra rất tích cực tham dự vào các sinh hoạt chính trị có ảnh hưởng quan trọng đối với công đồng Việt Nam tại hải ngoạị

Một thế lực hỗ trợ mới

Vào tháng 5 năm 2006, khi kết quả đếm phiếu vừa ngã ngũ, GSV Janet Nguyễn đã tổ chức buổi tiệc mừng chiến thắng tại Embassy Suite Hotel với sự tiếp tay tích cực của ông Tony Lâm và sự hỗ trợ của Eric Lê. Một bản tin có hình đính kèm do ông Vũ Ánh viết đăng trên Nhật Báo Người Việt số ra ngày 31 tháng 5 năm 2007 cho thấy Eric Lê cùng với luật sư riêng của mình đã có mặt để hỗ trợ GSV Janet Nguyễn trong buổi tiệc mừng chiến thắng nàỵ Giới am tường chính trị tại đây cho rằng khi CSVN nhận thấy trong cộng đồng tỵ nạn Việt Nam vừa xuất hiện một nhân vật chính trị mới, theo chỉ đạo của nghị quyết 36, CSVN qua đám tay sai nằm vùng, đã lợi dụng thời cơ, dồn sự hỗ trợ tối đa cho nhân vật này, đó là GSV Janet Nguyễn, rồi dùng nhân vật này trước là gây mâu thuẫn chia rẽ trong hàng ngũ các dân cử gốc Việt có quan điểm chống Cộng. Sau đó, qua nhân vật này có thể thực thi nghị quyết 36 một cách âm thầm nhưng có hiệu lực hơn. Hồ sơ đóng góp quỹ tranh cử của GSV Janet Nguyễn cho thấy Eric Lê dưới tên Tru Le đã tặng một số tài chánh cho GSV Janet ngày 22 tháng 1 năm 2007.

Vấn đề đặt ra ở đây là Liên Ủy Ban và một số đồng hương am hiểu tình hình, đều thắc mắc tại sao hầu hết những nhân vật bị đồng hương cáo buộc là thân Cộng đều là những người tích cực trong ban yểm trợ Janet Nguyễn tranh cử, trong số có cà chủ nhân Leés Sandwiches đã ủng hộ quỹ tranh cử của GSV Janet 10,000 đô. Thi hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ của Liên Ủy Ban đã được Ðại Hội tín nhiệm bầu ra vào ngày 15/07/2007 tại phòng sinh hoạt của Thành phố Westminster, chúng tôi có nhiệm vụ phải tìm hiểu và nghiên cứu rất kỹ càng về sự xâm nhập của CSVN vào cộng đồng tỵ nạn qua những liên hệ và kết hợp chặt chẽ của các thành phần trong ban Yểm Trợ GSV Janet như ông Lê Công Tâm, cựu NV Tony Lâm, ông Hồ Văn Xuân Nhi và toàn ban biên tập Tuần Báo Việt Weekly và xin báo cáo để đồng hương được biết để rộng đường dư luận và tùy nghi quyết định khi chọn đại diện cho mình trong ngành luật.

Những bí mật qua việc Quận Cam tiếp đón Chủ Tịch CSVN Nguyễn Minh Triết

Chiến công đầu tiên nhờ sự hỗ trợ của Eric Lê đối với Janet Nguyễn là việc đưa được Chủ Tịch CSVN Nguyễn Minh Triết đến Quận Cam với đầy đủ sự bảo vệ và tiếp đón rất cản mật của chính quyền và cảnh sát Quận Cam là một thách thức lớn lao với cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại nam Californiạ Việc tổ chức cuộc tiếp đón NMT tại Dana Point là một điều hết sức bất ngờ cho cộng đồng VN bởi vì trước đó ai cũng suy đoán là cuộc tiếp đón chỉ có thể xảy ra tại San Francisco hay một nơi nào đó xa cộng đồng người Việt. Trong thời gian soạn thảo kế hoạch biểu tình, Ủy Ban đặc nhiệm chống Cộng đã tổ chức một buổi họp khoáng đại để yêu cầu báo chí cũng như quý vị dân cử hoặc bất cứ đồng bào nào biết, giúp đỡ bằng cách thông báo cho Ủy Ban biết nơi đến của phái đoàn Nguyễn Minh Triết để Ủy Ban tổ chức biểu tình, Ủy Ban đã phải họp bàn liên tục để chờ tin từng giờ từng phút về địa điểm và thời gian bọn Việt gian tổ chức cuộc tiếp đón NMT. Mãi cho tới khi một thiệp mời dự Tiệc từ văn phòng lễ tân (office of protocole) thuộc quận Cam, do một nghị viên nhận được tiết lộ ra, thì ban tổ chức mới xác định được địa điểm tiếp đón NMT đó là một khách sạn sang trọng tại Dana Point thuộc phạm vi Quận Cam.

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao khi mọi chuyện tiếp đón đã được chuẩn bị rất kỹ càng trước đó với sự tiếp tay tích cực của chính quyền Quận Cam mà GSV Janet Nguyễn, trong Hội Ðồng Giam Sát, lại không hề thông báo gì cho cộng đồng trong khi LS Andrew Ðỗ, phụ tá đặc biệt của GSV Janet, là người đến dự họp với UB đặc nhiệm và trong lời phát biểu, Ls Andrew Ðỗ đã hứa sẽ tường trình cho GSV Janet và sẽ hết sức hỗ trợ Ban Tổ Chức để dò tìm và thông báo kịp thời cho cộng đồng biết nơi đến của NMT. Thế nhưng rất tiếc cả cộng đồng Việt Nam không hề hay biết gì về địa điểm đón tiếp NMT cho đến khi nhờ vào sự tiết lộ của một vị dân cử nhận được thiệp mờị Khi biết được, mọi chuyện đã quá trễ để cộng đồng Việt Nam có thể chuẩn bị một kế hoạch đối đầu với phái đoàn NMT một cách có hiệu quả hơn.

Một điều bí ẩn nữa là trong suốt thời gian chuẩn bị cho cuộc biểu tình chống NMT, GSV Janet Nguyễn không những không hề thông báo tin tức về địa điểm đón tiếp NMT mà cô cũng không hề lên tiếng ủng hộ cuộc biểu tình chống NMT cho đến khi Báo Orange Register và Ban Tổ chức Biểu tình lên Ðài Little Saigon tiết lộ tin là văn phòng Lễ Tân thuộc Hội Ðồng Giám Sát Quận Cam đã chính thức gửi thiệp mời các quan khách và dân cử đến dự tiệc đón tiếp NMT tại Dana Point, lúc đó GSV Janet mới cho đọc một thông báo yểm trợ cuộc biểu tình vào giờ chót. Thái độ này cũng được phản ảnh qua việc GSV Janet Nguyễn đã không hề lên tiếng hỗ trợ cuộc biểu tình chống Tuần Báo Việt Weekly, ngược lại cô còn tuyên bố với Tuần Báo OC Weekly rằng quan điểm của cô là, “Việt Weekly có quyền tự do báo chí và ai không đồng ý thì đừng đọc báo Việt Weekly...”. Cuộc biểu tình chống Việt Weekly một phần cũng vì Việt Weekly đã hỗ trợ và phổ biến quan điểm của nhà cầm quyền CSVN liên quan đến chuyến viếng thăm của Nguyễn Minh Triết.

Vụ biểu tình chống Nhật Báo Người Việt

Nhiều người nghi ngờ và đồn đoán Eric Lê và Tòa Tổng Lãnh Sự CSVN tại San Francisco có thể nhúng tay vào cuộc biểu tình chống Nhật Báo Người Việt?!

Từ những ngày đầu của cuộc biểu tình chống Báo Người Việt, GSV Janet Nguyễn, cùng với ông Lê Công Tâm, Ls Andrew Ðỗ và ông Ðỗ Việt Anh, (chủ nhiệm Báo Người Việt vừa bị sa thải), đã đến tận nơi biểu tình để thăm hỏi người biểu tình và thắp hương trước bàn thờ được đặt trước Báo Người Việt. Những người biểu tình sau đó đã được cung cấp hai tấm ảnh có hình ông Ðỗ Ngọc Yến tiếp xúc với các viên chức cao cấp của CSVN và hai tấm hình đó đã trở thành trọng tâm của cuộc biểu tình hiện naỵ Những tấm ảnh này chỉ có thể đến từ Tòa Lãnh Sự của CSVN. Vấn đề được đặt ra là Tòa Lãnh Sự CSVN đã đưa ra những tấm ảnh này qua tay ai để trao lại cho những người biểu tình?

Nhiều nguồn tin từ Little Saigon đã cho rằng chính ông Lê Công Tâm đã đi gặp ban giám đốc của Nhật Báo Người Việt để yêu cầu đưa nhóm chủ nhiệm/chủ bút/TTK (Ðỗ việt Anh, Vũ Ánh và Vũ Quý Hạo Nhiên vừa bị sa thải) trở lại vai trò điều hành Báo Người Việt mục đích để tiếp tục hỗ trợ GSV Janet Nguyễn, nếu không những rắc rối sẽ tiếp tục xảy rạ Quả nhiên sau đó, những tấm ảnh Ðỗ Ngọc Yến được phổ biến trên Internet và được những người biểu tình khai thác để chống lại Nhật Báo Người Việt. Cô Ðỗ Bảo Anh, khi trả lời phóng viên Nhật Báo ỌC. Register, trong bản tin ra ngày 27 tháng 3 năm 2008 đã nói thẳng rằng, “cuộc biểu tình này là một phần do âm mưu của những người cộng sản VN nhằm đóng cửa tòa báo và tất cả những điều này đang xảy ra trong một bầu không khí đầy chính trị dẫn tới cuộc bầu cử vào tháng 11 sắp tớị” Nhiều người đã đặt câu hỏi có phải cuộc biểu tình chống lại Nhật Báo Người Việt được kéo dài đến ngày hôm nay là do âm mưu thọc gậy bánh xe của chính quyền CSVN muốn triệt hạ một cơ quan ngôn luận quan trọng trong cộng đồng Việt Nam hay không? Nhờ vào sự nhúng tay của Tòa Tổng Lãnh Sự CSVN, những người hỗ trợ GSV Janet Nguyễn thừa nước đục thả câu muốn dành lợi điểm về chính trị trong cuộc tranh cử hiện naỵ Mặc dầu hai mục tiêu khác nhau, nhưng nguồn gốc có thể đến từ sự quan hệ bí mật từ Tòa Lãnh Sự CSVN qua trung gian của những người nằm vùng trong cộng đồng Việt Nam.

Nhiều thắc mắc cần được GSV Janet trả lời thỏa đáng trước khi cộng đồng cân nhắc có nên bầu cử cho cô không.

- Thứ nhất, Hội Ðồng Giám Sát Quận Cam đã họp và chấp thuận cho phái đoàn CSVN Nguyễn Minh Triết đến Dana Point để tổ chức buổi tiếp tân vào thời điểm nàỏ Ý kiến của Cô về việc này ra saỏ Thuận hay chống?

- Tại sao vấn đề được giữ kín và không thông báo cho cộng đồng mà cô là người đại diện chính thức?

- Tại sao khi thiệp mời do văn phòng Lễ Tân trực thuộc Quận Cam chính thức gửi đến quan khách mời dự Tiệc tiếp đón NMT mà Giám Sát Viên không thông báo cho cộng đồng Việt Nam biết?

- Có đúng ông Lê Công Tâm đã tiếp xúc với ban lãnh đạo của Nhật Báo Người Việt để đòi tiếp tục hỗ trợ cho việc tranh cử của GSV trước khi hai tấm ảnh được phổ biến hay không?

- GSV Janet có xác nhận ông Eric Lê là một người quan trọng trong ban Yểm Trợ của cô, đã chụp nhiều hình bên cạnh cô chính là người đã đứng ra tổ chức tiệc tiếp đón NMT và tổ chức của ông này đã chính thức đứng tên trong thiệp mời khách tham dự tiệc tiếp đón Nguyễn Minh Triết tại Dana Point hay không?

- Cô nghĩ sao về quan hệ của ông Eric Lê đối với chính quyền CSVN qua những việc nêu trên?

- Tại sao không thấy một nhân vật chống Cộng quan trọng nào trong thành phần yểm trợ GSV mà nhận thấy đa số là những người có thành tích thân Cộng bị đồng bào dị nghị từ nhiều năm naỷ

Nếu những câu hỏi này không được GSV Janet quan tâm giải thích một cách thỏa đáng, Liên Ủy Ban và những người chống Cộng sẽ tiếp tục đánh dấu hỏi về hành tung của Giám Sát Viên Janet Nguyễn khi cô có những quan hệ thân thiết với những thành phần tiếp tay cho CSVN là những kẻ luôn luôn tìm cách tạo ra những bất ổn, những nghi ngờ chia rẽ liên tục trong cộng đồng Việt Nam để cộng đồng này không thể vững mạnh và yên ổn để dồn nỗ lực chống lại sự lũng đoạn của cộng sản VN qua nghị quyết 36.

Thay mặt Liên Ủy Ban chống Nghị Quyết 36
Phan Kỳ Nhơn, Nguyễn Xuân Tùng, Trần Trọng An Sơn

http://take2tango.com/?display=932


Phở Bò Việt Tân

Loài Rắn Độc
Kim Âu

Sau khi bài “Liêm sỉ của người lính” được đưa lên liên mạng, chúng tôi nhận được một số email phản hồi. Tuyệt đại bộ phận email đều biểu lộ sự đồng tình với hành động của chúng tôi. Lác đác đếm trên đầu ngón tay vài email của những người thuộc băng đảng Phở Bò Việt Tân, đặc biệt là hai Viẹạt Tân cái (Ðỗ Thuấn và Mỹ Linh) phản ứng rất là “mất vệ sinh”. Ðã quá quen với trò chữ nghĩa “negative”. Chúng tôi không phí thời gian với đám “ăn cơm chúa , múa tối ngày. Trình độ của bọn Phở Bò Việt Tân vốn chẳng có lý luận. vả lại băng đảng bịp bợm thì việc gì cũng mưu đồ gian dối nên chỉ cãi chầy cãi cối, chưỉ bới bừa bãi là coi như “hoàn thành nhiệm vụ” của đảng giao. Ðến lúc thấy thêm một e mail của cô Bút Vàng, liếc sơ qua thấy ông Hoàng Cơ Ðịnh chấp bút, chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên. Con rắn độc này bao nhiêu năm nay hiếm khi lên tiếng. Hoàng Cơ Ðịnh chỉ quen đếm và diếm, chứ viết lách và lý luận thì hết sức tầm thường, công việc chính của Ðịnh sau khi cùng anh y dựng chiêu bài Kháng Chiến Bịp ôm trọn gói số tiền (đồng tiền xiết máu”) đóng góp của đồng bào, chiến hữu là y rúc sâu vào hang luyện nọc, chỉ xua đám rắn con ra cắn xé, phun nọc để tàn hại cộng đồng ỳ.

Ðọc hết email của Ðịnh, download file đính kèm, chúng tôi mới biết nguyên nhân làm cho độc xà lú đầu ra khỏi lỗ. Số là ông Lê Duy San có nhận được bài viêt của chúng tôi, đọc xong, ông San bỏ công "lay out" lại tử tế và chắc có đôi chút tâm đắc nên ông đã thay cái đề bài từ "Liêm sỉ của người lính" thành "Lý do tế nhị" cho lịch sự (có lời cảm ơn ông San) và phát tán trên diễn đàn. Việc làm của ông San vô tình trở thành thông đường cho ngọn khói hun vào ổ rắn. Hoàng Cơ Ðịnh không bò ra không xong, im lặng thì bẽ mặt với đồng môn. Nhưng lên tiếng thì hỡi ôi! Chữ nghĩa, lập luận đọc qua thấy ngay y chẳng khác gì cái giá mắc áo hay túi đựng cơm.

Lá thư của y giới thiệu ba bài, ngoaì bài viêt của chúng tôi, một là tài liệu của cô Lữ Anh Thư quảng bá về anh hùng Trần Văn Bá đưoc trao tặng huy chương Tự Do còn phần của cô Thuấn viết chửi bới lăng nhăng cũng được xem là bài thế mới kinh hãi về kiến thức của Ðịnh.

Sau đó Ðịnh cũng công nhận Ngày 30. 4 là Ngày Quốc Hận và cho rằng tôi không hiểu mấy chữ Vietnam Freedom March nên mới có chuyện lời qua tiếng lại, Ðịnh cho tôi là vô lý và sỗ sàng. Chuyện Phở Bò Việt Tân của Ðịnh tổ chức cuộc diễn hành chào mừng tự do vào Ngày Quốc Hận 30-04-2005 đã gây ra một làn sóng công phẫn trong các cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, không phải là chuyện lời qua tiếng lại để cho rằng người này hiểu người kia không hiểu. Hơn ba triệu Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản ở hải ngoại chỉ có một dúm người thuộc băng đảng Phở Bò Việt Tân kéo về làm cuộc diễn hành mừng Ngày Tự Do. Còn lại tất cả các nơi khác vẫn tổ chức tưởng niệm Ngày Quốc Hận ở địa phương, cử một số người đại diện tham gia, tiếp sức cho buổi tưởng niệm Ngày Quốc Hận được tổ chức lớn tại Washington D.C để chặn bớt sự lộng hành của đảng bịp. Như vậy là chỉ có Ðịnh và đảng bịp của Ðịnh chào mừng Ngày Tự Do theo mưu đồ và thâm ý của Phở Bò Việt Tân.

Vào thời đoạn đó không phải là một người mà hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu người đã nguyền rủa bọn Phở Bò Việt Tân. Ðịnh chỉ lập lại một luận điệu đã bị bẻ gãy từ trước để chống chế. Mưu đồ của Ðịnh nhằm xóa bỏ Ngày Quốc Hận toàn thể Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đều hiểu rõ. Băng đảng của Ðịnh muốn đổi thay lịch sử xoá bỏ Ngày Quốc Hận 30 4 để làm gì? Nếu không phải nhằm mục đích xóa bỏ tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam.

Ngày 30-4-1975 là một trang sử đau buồn, tang thương trong giòng sử mệnh của dân tộc. 30 4 đối với những người cộng sản Việt Nam là “Ngày Giải Phóng, Ngày Tự Do là Ðại thắng Mùa Xuân” ngược lại Người Việt Quốc Gia gọi đó là Ngày Quốc Hận 30 - 4. Bè lũ của Ðịnh, băng đảng bịp bợm của Ðịnh chắc chắn phải biết không có một sức mạnh nào có thể thay đổi được những gì đã đi vào lịch sử nhưng chúng vẫn cố tình theo đuổi ý tưởng vô vọng đó một cách dai dẳng.

Lịch sử của một dân tộc có vô vàn sự kiện thăng trầm, hưng phế. Vinh hay nhục, công hay tội, tất cả các sự kiện đều phải được phản ảnh một cách trung thực cho hậu thế phán xét.

Ðọc qua bài viết “Liêm sỉ của người lính” quý độc giả đồng bào và chiến hữu đều thấy rõ: Ông Bob Hull là một nghị viên gốc Mỹ trắng, ông là một nhà chính trị, một nhà biện thuyết tất phải giỏi về ngữ nghĩa, ngữ pháp English. Ông ta nghe chúng tôi, một người gốc Việt giải thích về Ngày Quốc Hận 30 4, ông ta đã tự ý cởi bỏ cái áo của Phở Bò Viêt Tân chế tác mà ông ta đang mặc trên người. Sự việc này đã chứng minh, chúng tôi đã giải thích đúng và hàng chữ “Vietnam Freedom March 30 . 4.2005” không mang ý nghĩa như băng đảng của Hoàng Cơ Ðịnh giải thích. Hành động của ông Bob Hull có giá trị gấp triệu lần những lời nguỵ biện, cãi chầy cãi cối của bọn người vô liêm sỉ. Ðịnh bảo rằng tôi vô lý và sỗ sàng hay chính y đã thậm vô lý và vu khoát cho chúng tôi một cách sỗ sàng. Nghị viên Bob Hull không thể nghe theo lời của một người nói năng vô lý và ông lại càng không sợ những kẻ sỗ sàng phải không quý vị.

Trong phần cuối lá thư của Ðịnh, y than thở:

    trích: Ngoài ra, chắc quý bạn cũng thấy trong bài viết của Kim Âu nhiều chỗ chửi bới “Phở Bò Việt Tân” tức là Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh hay Ðảng Việt Tân mà tôi là một thành viên. Từ nhiều năm qua, Kim Âu thường xuyên chửi bới chúng tôi và nhiều nhân vật và tổ chức khác (nhưng Việt Tân thì bị chửi nhiều hơn cả và chửi một cách rất vô giáo dục). hết trích
Hoàng Huân Ðịnh thật không biết mình và cũng chẳng biết người. Y quên rằng đã một thời bao nhiêu nhiẹạt vọng ái quốc của đồng bào đã dành trọn cho Mặt Trận Kháng Chiến, đáp lại sự tin yêu đó chỉ là những trò bịp bợm, sát nhân và trắng trợn phản bội lại đồng bào, phản bội lại lịch sử của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, phản bội lại đại cuộc của dân tộc mà chúng tôi thấy không cần thiết phải nhắc lại. Những tên đã phạm tội như vậy chính là “thiên cổ tội nhân” nghìn năm bia miệng.

Trong sự tức tối, Hoàng huân Ðịnh phê:

    trích: Kim Âu có một lối suy nghĩ chủ quan và kiêu ngạo đặc biệt của một người có trình độ học vấn kém ... chửi nhiều hơn cả và chửi một cách rất vô giáo dục) ..., đương sự rất thô bạo trong hành động và ngôn ngữ. hết trích
Qua những xảo ngôn thượng dẫn, chúng tôi thực sự thấy Ðịnh suy nghĩ chủ quan và thể hiện sự kiêu ngạo của một khoa bảng rỗng tuếch, vô lương để đi đến một kết luận không biện chứng. Ðộc giả không cần y giới thiệu, đeo cho họ một lăng kính màu hồng hay màu đen về nhân cách của chúng tôi. Chúng tôi là một nhà báo làm công tác điều hướng dư luận. Dù muốn hay không nhân cách chúng tôi đang hiển lộ trước mắt người đọc. Lập trường quan điểm và nhân cách được chứng minh qua lời nói và việc làm. Tuỳ từng con người, tuỳ theo sự việc, đối tượng ngôn từ và bút pháp nặng nhẹ khác nhau. Nhưng tựu chung chưa đánh mất liêm sỉ ( không nhận lời Nguyễn kim Hườn mời tham gia Mặt Trận Phở Bò) , chưa chối bỏ nhân nghĩa, chưa bán đứng đại cuộc như Hoàng huân Ðịnh.

Ðịnh có chút khoa bảng hơn chúng tôi ngày xưa nhưng thực chất toát ra từ qúa khứ và hiện tại đã chỉ rõ chính y mới là một tên tâm địa bất chính, vô giáo dục, bất nhân bất nghĩa đến mức vô luân, mang trong người giòng máu bất lương gia truyền.

Chắc hẳn toàn thể diễn đàn không quên thành tích dơ bẩn của Hoàng Huân Ðịnh:

    1. Thời VNCH, Ðịnh đã bị cả Ban Ðại Diện Sinh Viên và Giáo Chức tại trường Cao Ðẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ đứng lên tố cáo về tội tham nhũng, bị đưa ra Giám Sát Viện cách chức từ năm 1970.
    2. Ðại bịp bợm: Lưu lạc vì nạn nước, lợi dụng thành tâm nhiêt vọng chống cộng của Người Việt Quốc Gia. Ðịnh cùng anh em trong gia đình dựng chiêu bài Kháng Chiến giả hiệu để lừa dối đồng bào, độc quyền giữ lấy Vụ Tài Chánh của Mặt Trận và thực tế ra sao quý đồng bào, đồng hương đã rõ.
    3. Anh của y đã chết từ lâu nhưng quen thói vô luân y vẫn chủ tâm tiếp tục lừa gạt đồng bào hải ngoaị để tiếp tục vơ vét đến 14 năm sau, Hoàng Huân Minh tức HCM 2 mới được phép chết.
    4. Ðại bất nghĩa khi công nhiên từ chối tấm hình chụp thi thể của anh ruột mình.
    5. Ðại bất nhân khi không cho gia đình lập bàn thờ người quá cố ngay sau khi được tin HCM thảm tử
    6. Ðại bất lương khi điều động bộ phận K 9 dùng mọi thủ đoạn để bức hại những người cầm bút chân chính.
    7. Ðại phản động khi y và đồng bọn vẫn đeo đuổi mưu đồ bóp méo lịch sử để xoá bỏ tội ác của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam. v.v
Qua những bằng chứng nêu trên chắc hẳn mọi người đã thấy thực chất của Hoàng Huân Ðịnh. Con người là sản phẩm của gia đình, học đường và xã hội, trong đó giáo dục gia đình quan trọng nhất. Hoàng Huân Ðịnh là một người được xã hội và thời thế ưu đãi nhưng tính bất lương gia truyền không gột rửa được nên không làm gì lợi ích mà chỉ gây ra tác hại kinh hoàng cho cộng đồng và đại cuộc cứu nước của dân tộc.

Hạng người như vậy thì có khác gì loài rắn độc.

Kim Âu

Những ẩn số về cuộc Họp Mặt Dân Chủ 2005 ?

Phùng ngọc Sa

Qua thư của Ô .HMC thì cái goi là giải pháp "tiểu Diên Hồng 3 bên" bàn thảo đồng thuận xong đưa qua "chính phủ" v..v.. theo giải pháp này chúng ta thấy rõ là cái tiểu Diên Hồng nầy chỉ là một "cơ cấu" mới của chế độ CHXHCNViệt Nam, một bộ phận có nhịệm vụ cứu nguy cho chế độ CSViệt Nam trong tình thế hiện nay. Nó chỉ là một địêp khúc HHHG của nhà cầm quyền HàNội kêu gọi Hải Ngoại hảy đứng sau lưng (Đảng) nhà nước để xây dựng tổ quốc.

Truóc đây tại Hội nghị Paris, Hội nghị HHHG /QG/DT được ký kết duói sự giám sát của các cường quốc, CSVN còn không xem ra gì khi sự ký kết còn chưa ráo mực, thì đối với cái đề nghi gọi là "Tiểu Diên Hồng 3 bên" này có gía trị chi đối với chúng ??

Xin nhũng bậc trí thức Hải ngoại đừng bỏ phí thì giờ để mắc mưu CS. Hiên nay, nằm trong nghị quyết 36, CSVN đang ngang nhiên truyền bá chương trình giáo dục của chúng với các sách giáo khoa của chúng in ấn cho các trẻ em VN Hải Ngoại tại các trung tâm dạy tiếng Việt núp bóng Tôn Giáo (Gian) mọc lên nhan nhản tại TĐ/HTĐ.

Xin quý vi hãy phối hợp với các CĐ người VN tỵ nạn để tìm biện pháp ngăn chặn kịp thời tránh việc con em của chúng ta bị nhôì nhét vào trí óc non nớt chương trình giáo dục của CSViệt Nam.

Qua tin tức được loan báo trên các cơ quan truyền thông báo chí cũng như internet, quý độc giả biết là có một cuộc hội luận lấy tên Họp Mặt Dân Chủ 2005 tại Trung tâm Pali Mountain Retreat&Conference Center, số 30778 Highway18-Running Spring, một vùng hẻo lánh thuộc tiểu bang California diễn ra trong 4 ngày, từ ngày 09 đến ngày 12 tháng 9 năm 2005, mục đích để bàn thảo về công cuộc "Vận Động Một Phong Trào Dân Chủ Rộng Lớn Cho Việt Nam". Dưới đây, chúng tôi xin góp ý về một vài câu hỏi thắc mắc xung quanh cuộc HMDC/2005:

* Mục tiêu cuộc Họp Mặt Dân Chủ

Đây không phải lần đầu có cuộc hội luận mang tên "Họp Mặt Dân Chủ", thực ra trước đó vài năm các buổi họp mặt nói trên đã diễn ra và từng quy tụ được nhiều chính khách, đặc biệt là một số trí thức khoa bảng; họ gặp nhau nói là tìm kiếm một giải pháp hữu hiệu để hình thành một phong trào vận động đòi dân chủ rộng lớn cho người dân trong nước. Năm nay, cuộc "Họp Mặt Dân Chủ 2005" lại được diễn ra trong một tình huống đặc biệt vì 3 lý do :

1. Cuộc họp mặt lần nầy được giữ kín: Do đó từ lộ trình đến địa điểm họp mặt có vẻ bí ẩn, nửa kín nửa hở hình như muốn che dấu không cho "ngoại nhân" biết, vì thế ngay cả người được mời tham dự cũng cảm thấy khó khăn trong việc tìm kiếm nơi hội hop.

2. Trong nước, nội bộ đảng bị chia rẽ trầm trọng vì bất đồng chính kiến, đến độ Trung Ương Đảng họp để theo đuôi bắt chước Trung Quốc, là Chủ tịch Đảng kiêm luôn chức vụ Chủ tịch Nhà Nước, thế mà phải trên hai tuần lễ hội họp liên tiếp vẫn không có kết quả đành gác lại. Đảng CSVN bị lúng túng nhiều mặt đang ở thế thụ động chống đỡ .

3. Bên ngoài, do việc nhà cầm quyền Hà Nội mỗi ngày một vi phạm thô bạo tôn giáo một cách trầm trọng, bị cả thế giới lên án, đặc biệt là Hoa Kỳ và Cộng Đồng Âu châu đã nặng nề chỉ trích VN về các vấn đề Tự Do, Dân Chủ và Nhân quyền trong nước; do trở ngại nầy khiến việc Việt Nam xin gia nhập WTO có thể bị vuột khỏi tầm tay. Mặt khác, về đối ngoại, Hà Nội bị thất bại ê chề khắp nơi, nhất là tại Hoa Kỳ, cụ thể là Thủ tướng Phan Văn Khải, người đứng đầu ngành hành chánh VN bị thua đậm trên mọi mặt, thậm chí bị "đánh" túi bụi mà không kịp đỡ, và không đủ thời gian tập họp đám trí thức tay sai giúp CSVN quảng bá kịch bản "dân chủ giả hiệu" mà Hà Nội đã dàn dựng xong, được Khải mang theo qua Mỹ để phổ biến.

Trước tình hình nội bộ rối ren nói trên, khi Phan Văn Khải từ Hoa Kỳ trở lại VN và sau khi đã sang "triều kiến" Bắc Kinh để nhận chỉ thị về nước, thì giới tình báo ngoại giao tiết lộ và được một vài tờ báo hải ngoại phổ biến cho biết, nhà cầm quyền Hà Nội đã cử 2 cán bộ đầu sỏ phản gián là Nguyễn Huyên, Bí thư Đảng Ủy Trung Tâm Du Lịch Sài Gòn, tức là Saigontourist, một ổ Phản gián của VC và Cao Lập, phụ tá của Huyên qua Mỹ tiếp xúc với một số tổ chức tay sai để bàn định kế hoạch mới. Không một ai rõ biết chi tiết về những hoạt động của CSVN và bọn nằm vùng trong những ngày sắp tới; tuy nhiên liền sau đó thì có cuộc "họp mặt dân chủ 2005" diễn ra, mà người đứng đầu tổ chức HMDC/2005 là Gs Đoàn Viết Hoạt, một nhân vật từng bị đông đảo đồng bào hải ngoại đả kích nặng nề do việc ông chủ trương không treo treo quốc kỳ VNCH lúc hội họp ở Âu châu, hoặc "kẹt" quá thì ông đề nghị "treo luôn cả Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và Cờ Đỏ Sao Vàng" cùng lúc và song song với nhau tại đại học Fulleton, CaliforniạNói tóm, ông là người không có lập trường quốc gia.

Chi tiết buổi HMDC2005 do chính một chiến hữu chí thân được mời tham dự thông báo. Nhìn chung, qua chương trình 4 ngày hội thảo với nhiều đề tài bổ ích, thích hợp với thời sự được các diễn giả có tiếng tỉ như: cựu đại sứ Bùi Diễm nói về: "Chính sách mới của Hoa Kỳ"; Ts Âu Dương Thệ và các đảng viên Cộng sản Bùi Tín, Vũ Thư Hiên phác họa qua "Thực trạng xã hội và tình hình vận động dân chủ trong nước" v.v.. Bên cạnh các chính khách, những gốc cổ thụ của chính trường hải ngoại còn có vài "mầm non chính trị" đóng góp, thuyết trình về "Vai trò của người trẻ (trong/ngoài nước) trong việc vận động phong trào quần chúng rộng lớn đòi hỏi dân chủ cho VN" do Lữ Anh Thư, Trịnh Hội và Nguyễn Đỗ Phủ .

Với các đề tài có tính phân tách thời sự nóng bỏng nói trên, cộng theo khả năng diễn giải, kinh nghiệm và hiểu biết của các thuyết trình viên; mới nhìn vào, chúng ta phải nói : Đây là một việc làm hữu ích, một đóng góp tích cực lớn lao cho tiến trình vận động dân chủ tại Việt Nam. Nói chung "HMDC 2005" là một việc làm đáng được đề cao, hy vọng với công cuộc vận động tích cực và đường lối hành động vững chắc, tương lai dân chủ cho VN ắt sẽ có nhiều hy vọng và đó là tia sáng cuối đường hầm u tối hiện nay .

Tuy nhiên, một vài câu hỏi đặt ra tỉ như :

1. Cớ sao, HMDC/2005 được xem là một việc làm có lợi, trung gian để giúp dân cứu nước mà lại có thái độ che dấu nửa kín nửa hở ?

2. Tại sao lại có sự trùng hợp một cách "ăn khớp" như vậy. Trước đó không họp; thời gian sau không họp, mà đợi ngay lúc ông Hoàng Minh Chính (HMC) từ VN qua thì liền có cuộc HMDC2005 ?

Tìm hiểu chúng tôi được biết : Do khôn khéo, tuy không chính thức xuất đầu lộ diện, nhưng ông HMC, người vừa được CSVN cho qua Mỹ để chữa bệnh, được xem là con chim đầu đàn của Phong Trào Dân Chủ ở VN; ông HMC gửi cho cuộc "Họp Mặt Dân Chủ 2005" một lá thư trong đó ông đã cổ xúy cho một phương án có tên là "Bàn Tròn Ba Bên" hay một "Tiểu Diên Hồng"; gồm có 3 thành phần tham dự :

1. Đại diện Đảng CSVN,
2. Ðại diện trí thức hải ngoại,
3. Ðại diện trí thức trong nước.

Đọc và nghiên cứu phương án đó khiến nhiều người thất vọng; hơi thất vọng vì thái độ khôngdứt khoát với bạo quyền CS của ông Chính. Từ trước ai cũng tưởng là ông chủ trương: không nhân nhượng, không thỏa hiệp với chế độ CSVN vì ông Hoàng Minh Chính từng dõng dạc kết án: "đảng CSVN là nguyên nhân của mọi sự trì trệ đất nước trong gần nửa thế kỷ qua". Ngoài ra ông Chính còn khẳng định là "Đại hội X đảng CSVN trong năm 2006 không hứa hẹn một điều gì sáng sủa, thậm chí còn trì trệ, bảo thủ, giáo điều, độc đảng, toàn trị v.v" thế mà bây giờ ông lại còn đề nghị những chuyện viễn vông thì làm sao có thể chấp nhận được.

Nhìn chung, qua phương án, ông Chính viết rất hay, nhưng phải xác định, trước sau gì ông vẫn là một đảng viên cao cấp cộng sản, một lý thuyết gia, một người từng dạy dỗ bọn cán bộ áp dụng những thủ thuật chính trị để vận động quần chúng, do thế ông đã khéo léo hướng dẫn dư luận tiến hành những việc làm có lợi cho chế độ bạo quyền cộng sản trong nước hiện nay mà vẫn qua mặt được quần chúng, kể cả đám trí thức ngớ ngẩn háo danh ở hải ngoại.

Tựu trung, ông Hoàng Minh Chính cũng như cựu tướng VC Trần Độ trước đây, cả hai đều phê bình chỉ trích để "làm tốt" đảng CSVN, chứ không phải để loại bỏ đảng hay giựt sập chế độ; mặt khác, một số anh em tù nhân chính trị VNCH từng có thời gian sống chung với ông Hoàng Minh Chính trong ngục tù cộng sản đã chứng minh: ông Chính do vì quyền lợi và ý thức hệ mà hận thù bọn lãnh đạo đảng hiện nay, chứ ông ta vẫn mãi mãi đỏ, một màu đỏ máu và theo họ thì ông Chính vẫn muốn, CSVN muôn năm.

Khi ông Hoàng Minh Chính viết đề nghị phương án "Bàn Tròn Ba Bên", ca tụng "tính chất bình đẳng xung quanh một cái bàn tròn, với tinh thần tương thân tương ái, đại đoàn kết dân tộc, ba bên cùng bàn bạc quốc kế dân sinh theo tiêu chí Đồng Thuận". Ông nhấn mạnh: "cái gì mà 3 bên đã đồng ý và nhất trí thì chuyển qua cho chính phủ thực thi, còn việc gì chưa thì được đồng thuận thì cùng nhau tiếp tục suy nghĩ đối thoại cho đến khi đồng thuận".

Ông Chính còn đề nghị là bàn tròn cần một tờ báo để trao đổi ý kiến trên tinh thần xây dựng vì tổ quốc và nhân dân. Thật ra, những điều ông viết trong phương án chẳng gạt được ai, ngoại trừ những người không hiểu biết CS, thiếu kinh nghiệm, nhẹ dạ và cả tin, còn lại thì ai cũng rõ điều mà ông Chính nói chẳng qua là ông muốn nhắc lại điệp khúc Hòagiải & Hòa hợp của nhà cầm quyền Hà Nội, là kêu gọi hải ngoại hãy đoàn kết sau lưng đảng để xây dựng tổ quốc. Chắc CSVN tưởng là ai cũng ngu dễ mắc mưu chúng, nên lầm tưởng mới dùng ông Chính làm cái loa cho hữu hiệu, vì biết ông Chính vốn được tiếng là một nhân vật đối kháng có hạng, do đó mới có việc bạo quyền Hà Nội phải áp dụng xảo thuật và giàn dựng, xúi nhà báo Hoàng Tiến nhắc lại lời của Ts Nguyễn Thanh Giang dồn dập "đánh" ông Chính để chứng tỏ với bàng dân thiên hạ biết, ông Chính là "thứ thiệt", chứ không phải đối lập cuội .

Nhắc đến phương án "Bàn Tròn Ba Bên" của ông Hoàng Minh Chính đề nghị, người viết lại liên tưởng đến việc bàn cãi về vụ "Bàn Tròn", "Bàn Vuông" tại Hội nghị La Cell Saint Cloud, Paris, Pháp; và các điều khoản ấn định về hoạt động của "Hội Đồng Hòa Giải & Hòa Hợp Quốc Gia Dân Tộc (HG&HH), gồm có 3 thành phần được giải thích rõ từ điều 9 tới điều 12 trong Bản Hiệp định Paris, để "Chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình tại VN"; trong đó nhấn mạnh, HĐ/HG&HH hành động theo nguyên tắc nhất trí; nếu một trong 3 thành phần không đồng ý thì điều khoản đó không giá trị.

Và HĐHG&HH có nhiệm vụ vạch ra một đường lối thích hợp cho tương lai chính trị của Miền Nam VN. Nói thì hay như thế, nhưng hiệp ước vừa ký xong chưa ráo mực, thì bọn Cộng Sản Bắc Việt đã tráo trở vi phạm, và chỉ một thời gian ngắn sau, khi thấy tình hình thế giới bất lợi cho Hoa Kỳ, CSVN được các đàn anh Liên Xô Trung Cộng hỗ trợ và xúi giục, chúng chẳng cần đếm xỉa gì đến Hội Đồng HG&HH của Hiệp Định Paris, dốc hết toàn lực cưỡng chiếm VNCH. Nhớ rằng, Hiệp Định Paris là một văn kiện quốc tế, được tất cả cường quốc công nhận và bảo đảm mà VNCH còn bị bọn VC ăn tươi nuốt sống, huống gì một chiếc bàn tròn mong manh do ông Chính đề nghị mà trong đó đảng CSVN là người "cầm chịch", với đầy đủ sức mạnh của lưỡi lê họng súng; trí thức trong nước phải triệt để tuân hành lệnh đảng; (làm sao kiểm chứng được họ không phải là đảng viên CS), còn một số trí thức hải ngoại ắt độc giả đã rõ họ là ai; đối với những tay hoạt đầu chính trị, đón gió trở cờ ở hải ngoại hiện nay, cứ theo lời của Mao Trạch Đông thì tầng lớp nầy "không bằng một cục phân".

Thử hỏi, với thực trạng nói trên thì những gì ông Hoàng Minh Chính viết chẳng qua chỉ là nhắc lại những điều mà CSVN mơ ước, là phải thực thi cho bằng được nghị quyết 36, kêu gọi trí thức và chuyên gia hải ngoại về nước giúp đảng thoát hiểm vượt khó khăn để tiếp tục củng cố quyền lực. Tất cả chỉ có thế thôi ! Mong ông Hoàng Minh Chính chớ vội quên, chẳng cần ông nhắc nhở thì cũng đã có biết bao là trí thức khoa bảng, chuyên gia và thương gia hải ngoại khờ dại, từng thực tâm trở về giúp nước, làm cố vấn kinh tế, chuyên gia kỷ thuật v.v. nhưng họ đã quá chán ngán trước cảnh trấn lột và cướp giựt trắng trợn của bọn côn đồ CS trong tập đoàn tư bản đỏ khiến nhiều thương gia VN không chịu nổi, hoảng sợ bỏ của giữ lấy người, ôm đầu máu tháo chạy.

* Phải chăng "Họp Mặt Dân Chủ 2005" là cuộc trắc nghiệp phương án của ông HMC ?

Nhiều người cho rằng lá thư của ông Chính gủi đến HMDC/2005 không phải là một sự ngẫu nhiên hay trùng hợp, mà coi đó là một việc làm có tính toán, vì thế nên dù đang chữa bệnh ông vẫn cố viết thư gửi đến cuộc HMDC/2005 để cổ xúy phương án "Bàn Tròn Ba Bên", một việc làm mà ông Chính xem là "nhứt cử lưỡng tiện"; trước là để hoan nghênh, cổ vũ và cám ơn những nhà hoạt động dân chủ hải ngoại vừa tiếp đón ông nồng nhiệt khi mới đến Hoa Kỳ; sau đó được dịp ông "lên dây cót", nâng cao tinh thần mấy tay cán bộ CS được bộ phận "Phái Khiển" cử ra hải ngoại theo diện "chính sách" như Bùi Tín và Vữ Thư Hiên; ông kín đáo khuyến khích bọn nầy hăng hái xáp lại với giới trí thức hải ngoại để "chống Cộng" bằng cách tích cực tham gia vận động Dân Chủ cho VN tại cuộc HMDC 2005, được xem là một cái mốt thời thượng. Đây đúng là cơ hội "bằng vàng" để trắc nghiệm phương án "Bàn Tròn Ba Bên" mà đảng đã ủy thác cho ông để hoàn thành.

* Vai trò của ông Hoàng Minh Chính.

Như tất cả đã biết, ông HMC là cán bộ cao cấp đảng CSVN, một ứng viên sáng giá trong chức vụ Tổng Bí thư Đảng sau Trần Xuân Bách, ông Chính là người từng viết dự thảo bản báo cáo chính trị cho Trường Chinh đọc trước Đại Hội VI, hiện ông được coi là người đứng đầu danh sách nhóm đối kháng chống đảng. Với thành tích "phản động" cực kỳ như thế mà bạo quyền Hà Nội còn dám cho ông ra hải ngoại, rồi ông còn xác định chữa xong bệnh sẽ trở về, liệu hành động đó có hợp lý không ? Không lẽ VC qúa ngu mà thả hổ về rừng ? Nếu áp dụng đúng nguyên tắc và chủ trương của cộng sản, thì chỉ là kẻ thù trong tư tưởng thôi, cũng đủ cho chúng có cớ triệt hạ, huống gì nhưng người đã ra mặt chống lại đảng, từng bị đi tù thì chỉ có con đường chết, thế mà Hà Nội lại tha cho ông HMC ra đi.

Câu hỏi và thắc mắc, việc để ông HMC qua Hoa Kỳ chữa bệnh nhằm mục đích gì, và thực chất ra sao?

Người viết biết là CSVN để ông đi ra nước ngoài thì bọn chúng đã đoán trước, ông Chính ắt sẽ gây nhiều bất lợi cho đảng, vì một khi ông có mặt tại Hoa Kỳ :

- Thế nào ông HMC cũng sẽ tiếp xúc với bọn chống cộng cực đoan, sẽ đem tiếng nói đối kháng, chống đảng trong nước phổ biến cho thế giới, đặc biệt là cho Hoa Kỳ biết, VN là một chế độ xấu xa, rừng rú thì quả thật vô cùng tai hại. Nhớ rằng VC không ngại ông Chính mà chỉ sợ dư luận quốc tế.
- Bản thân ông HMC sẽ trở thành một chất xúc tác, kết hợp lực lượng hải ngoại tạo nó thành một mũi nhọn để sau nầy trở về dành chính nghĩa, triệt hạ CSVN.

Thử hỏi, để HMC ra nước ngoài nguy hại đến thế thì tại sao CSVN vẫn làm? Biết là bất lợi mà cứ làm, tức là VC đã có dự mưu nên đã chuẩn bị sẵn cái nhân; không phải chuẩn bị từ bây giờ, mà chúng đã sửa soạn ngay từ năm 1967, lúc ông HMC mới bị ghép vào tội "Xét lại chống đảng". Trước sau, và tất cả chỉ là "khổ nhục kế", áp dụng kế hoạch "trồng người" của Hồ Chí Minh.

Nói chung, không sách lược nào hay bằng : chuẩn bị dùng người của mình đào luyện, rồi khoác áo cho nó cái áo đối kháng phản động, sử dụng nó làm con bài để kết hợp những bộ mặt trí thức lương thiện nhưng khờ khạo, thiếu hiểu biết cộng sản biến họ thành một lực lượng chống cộng theo ý muốn thì quá tuyệt. Ông HMC hiện đang đóng vai trò đó. Và, rồi đây CSVN sẽ tạo ra nhiều nhiều nhân vật đối kháng tương tự; điển hình là trước đây trong nước, lúc Nhóm Diễn Đàn Tự Do bị cộng sản vây bắt, thì ông Phạm Đức Khâm là người đứng đầu và ông Đoàn Viết Hoạt lúc đó chỉ là một thành viên thường. Nhưng đến khi vào tù, bọn phản gián thấy Đoàn Viết Hoạt còn trẻ, có bằng tiến sĩ, sẽ có tiếng nói ảnh hưởng đối với quốc tế trong tương lai, bọn chúng liền đôn Đoàn Viết Hoạt lên cho làm vai chính, xong đó cấy sinh tử phù, biến Đoàn Viết Hoạt thành một tên tay sai có hạng cho chúng lợi dụng về sau.

Với một cán bộ cao cấp CS có đủ khả năng lý luận và già đặn kinh nghiệm như ông Hoàng Minh Chính, được sự hỗ trợ tích cực và tối đa của những tên cán bộ phản gián thuộc bộ phận "Phái Khiển" cử ra hải ngoại như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên thì cái "Bàn Tròn Ba Bên" của ông Chính đã hình thành được hai bên; cộng với sự hợp tác chặt chẻ của đám trí thức hoạt đầu tự phong là đại diện cho trí thức hải ngoại đang chủ động triệu tập HMDC2005 như Đoàn Viết Hoạt; lại được sự hỗ trợ tích cực của một nhân vật từng nổi tiếng chủ trương Hòa giải&Hòa hợp với CSVN như ông Nguyễn Ngọc Bích, người từng có mặt bên cạnh Thủ tướng VC Phan Văn Khải trong dạ tiệc tại khách sạn Mayflowers, Washington D.C. tối ngày 21-6-05, thì phương án Bàn Tròn Ba Bên, một phương án đầu hàng chỉ có lợi cho CSVN đã được thành hình và đưa ra ứng dụng.

Từ đó, ngày nào mà đảng CSVN còn thống trị đất nước, còn đặt quyền lợi của Đảng lên trên quyền lợi tổ quốc, thì ngày đó tất cả ý kiến và đóng góp của toàn dân đều được đảng tận dụng với mục tiêu duy nhất là giúp đảng thoát hiểm đểø tiếp tục vai trò chủ nhân ông đất nước.

Thử hỏi với tình trạng nầy thì liệu vấn đề "Vận Động Một Phong Trào Dân Chủ Rộng Lớn Cho VN" không biết nó sẽ trôi dạt về đâu. Biết rằng, sinh hoạt chính trị có rất nhiều phương án để đạt mục tiêu, trong đó có đường lối hành động dưa theo kiểu "lộng giả thành chân", tùy cơ ứng biến, không biến thành có để dành thắng lợi.

Tuy nhiên, theo đánh giá của dư luận thì với thành tích cũng như lập trường của thành phần nói trên, họ chỉ là một hạng "Nhập Nô, Xuất nô" như cụ Lý Đông A nói, chứ khó có hy vọng trở thành "Nhập Nô Xuất Chủ". Trước sau gì cũng chỉ là những tên tay sai.

Phùng ngọc Sa


Đáp số về cuộc họp mặt Dân Chủ 2005

Phùng ngọc Sa

Một số anh em trong nhóm thân hữu do đoán được ý định của tác giả bài Ẩn số của cuộc Họp Mặt Dân Chủ 2005 (HMDC2005) là sớm muộn cũng viết thêm phần nhận định để nói rõ sự hiện diện của Ông Hoàng Minh Chính (HMC) tại Hoa Kỳ, được xem như là một sứ giả của Hà Nội; vì thế các thân hữu đó đã tự lên Net, hứa hẹn với độc giả sẽ có bài Đáp số cuộc HMDC2005 để trình bày một số diễn biến về cuộc họp mặt trong tháng 9-05 vừa qua. Nhưng bài viết chưa xong thì đã có một cơn lốc truyền thông, vô số điện thư xuất hiện trên các diễn đàn với sức công phá lớn do chính độc giả chủ động, tập trung xoáy mạnh vào đám tay sai Việt Cộng (VC) để đập tan mọi ý đồ đen tối của CSVN qua lá bài HMC.

Quả đúng như vậy. Khi bài nhận định Những ẩn số vừa đưa lên Net và được đăng tải trên báo thì một số đông đảo độc giả đã đồng loạt gửi email, điện thoại lên tiếng ủng hộ bài viết; trong số đó đã có nhiều vị cao nhân nổi tiếng như quýù ông Tôn Thất Sơn, và quý bà Tôn Nữ Hoàng Hoa, v.v.,.những độc giả nầy tuy bận rộn nhưng vẫn dành thời giờ để nói lên lập trường của mình và ủng hộ quan điểm tác giả, đồng thời phê phán cái Bàn Tròn Ba Bên của ông HMC, một phương án được xem là một bẫy sập mới của CSVN đưa ra để lừa gạt hải ngoại. Tuy mỗi người một chiêu thức khác nhau, nhưng trọng tâm vẫn là góp phần hóa giải âm mưu của CSVN. Các bài góp ý tuy ngắn gọn , nhưng lại vô cùng súc tích không những bổ túc mà còn tăng thêm giá trị thuyết phục cho bài viết của tác giả, nhờ đó chỉ trong một thời gian ngắn. chính độc giả đã hình thành một trận tuyến, tiếp tay nhau vạch cho cộng đồng Người Việt Tị Nạn thấy rõ sự lừa gạt của bạo quyền Hà Nội qua tay sứ giả HMC.

Hành động tích cực của quý vị nói trên một phần chứng tỏ, thành phần chống cộng thầm lặng ở hải ngoại còn nhiều và rất dũng mãnh.(tiếc thay chưa kết hợp được). Mặt khác, đây cũng là cơ hội nói cho bạo quyền Hà Nội biết, đừng bao giờ tái diễn cái trò lường gạt ấu trĩ như cái kiểu Bàn Tròn Ba Bên mà ông HMC theo lệnh đảng cộng sản đưa ra để gạt hải ngoại.

Trước khi nêu ra những sở hở ấu trĩ của CSVN qua vai trò của sứ giả Hoàng Minh Chính, chúng tôi xin lược qua mấy điều dưới đây:

* Vị thế của Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại (NVQGHN).

Trong một cuốn sách lý luận về Mácxít-Leninnít dùng để giảng dạy cho cán bộ, Lê Nin, một tay tổ cộng sản quốc tế đã khẳng định: Tất cả những ai không phải là cộng sản, đều là kẻ thù của CS . (Tout ce qui n'est pas communist, il est ennemi de communisme). Giáo điều CS phán: Đối với kẻ thù, dù chỉ là kẻ thù trong tư tưởng cũng phải triệt ; nếu triệt không được thì phải Hóa, tức tìm cách hóa giải, để đối tượng ù không cản trở cái mà VC cho là sự nghiệp cách mạng ; Hóa không được phải Hòa. Với tư tưởng chỉ đạo đó, thì tuyệt đại đa số NVQGHN là nạn nhân của chế độ bạo tàn CSVN, và được xem là một đối tượng nguy hiểm mà VC phải tận diệt.Trong hiện tại, VC do bị yếu thế chưa phóng tay triệt hạ Cộng Đồng Tị Nạn đành phải kiếm cách trì hoãn để mua thời gian, nên: bên ngoài thì bọn chúng phải tỏ ra vuốt ve hải ngoại, mồm vẫn luôn nói Người Việt Hải Ngoại là khúc ruột ngàn dặm , người anh em xa rời đất nước v.v., thậm chí còn lếu láo nói hải ngoại là cái vú sữa của chế độ. Nhưng bên trong thì Người Việt Hải Ngoại được xem là một trở ngại lớn trong tiến trình thống trị đất nước của CS. Xin nhớ, CSVN tuy thống nhất đất nước, nhưng chưa thu phục được lòng người. Các phong trào đấu tranh chống Cộng sản dai dẳng trong hơn 30 năm qua đã chứng minh điều đó. Sở dĩ lực lượng chống đối trong nước còn cầm cự được với bạo quyền Hà Nội là nhờ được sự yểm trợ tối đa và tích cực của hải ngoại, nhờ thế họ mớiõ phát động hết cuộc đấu tranh nầy đến đợt đấu tranh khác, liên tục chống lại chế độ khiến bạo quyền Cộng sản không ngồi yên hưởng lạc. Vì lý do đó, Hà Nội bằng mọi giá và mọi biện pháp phải tìm cách triệt hạ khối đoàn kết của Người Việt Tị Nạn để khống chế CĐNVHN. Có khống chế được hải ngoại thì Hà Nội mới khai thác được chất xanh (dollars), chất xám (trí thức ); ngoài ra chúng còn sử dụng hải ngoại như những loa tuyên truyền giúp CSVN lừa dối thế giới tự do, có lợi cho chế độ độc tài toàn trị trong nước mà Nghị quyết 36 do Phan Diễn ký ngày 26-4-04 đã nói rõ.

Tuy nhiên CSVN muốn, nhưng trời không muốn, vì thế đã hơn 30 năm qua, hết kế hoạch nầy đến âm mưu khác, Hà Nội vẫn liên tục sử dụng bọn tay sai nằm vùng tìm cách phân hóa hải ngoại: cụ thể trong sinh hoạt của Người Việt thì hầu như khắp nơi đều bị đánh phá khiến nội bộ lủng củng; một cộng đồng bị xé thành hai, thành ba; hàng ngũ cựu quân nhân, một tổ chức được coi là có kỷ luật và nhờ tinh thần huynh đệ chi binh rất gắn bó với nhau, nhưng một số hội đoàn do thiếu tỉnh táo cũng bị gom bi biến thành một công cụ cho một tổ chức tay sai; cuối cùng là Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, một Văn Đàn từng được Văn Bút Quốc Tế chính thức công nhận là một tổ chức của VNCH với lá quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thế mà còn bị chia rẽ và trở mặt đánh nhau túi bụi. Tuy VC hết sức quấy phá như thế, nhưng đến nay chúng vẫn không triệt nổi Khối Đoàn Kết Người Việt hải ngoại. Vì thế, CSVN phải đành xuống nước để cầu hòa; muốn Hòa thì phải tìm cách Thỏa Hiệp. Xin nhớ rằng, chính trị là một nghệ thuật thỏa hiệp (Politique est un art de compromis) và trong tiến trình nầy nếu CSVN muốn Thỏa Hiệp thì trước hết phải giả vờ đầu hàng Mỹ, thứ đến là ve vãn CĐNVHN, đặc biệt là giới trí thức khoa bảng.

Với sách lược nói trên và trong tình thế hiện tại, kẻ đóng vai trò du thuyết để đạt được thỏa hiệp với hải ngoại, theo đánh giá của đảng CSVN, thì không ai thích hợp hơn ông Hoàng Minh Chính, một lý thuyết gia đầy đủ kinh nghiệm; một người có tính chiến đấu cao; một tên xung kích quyết tử đánh chết bỏ; điển hình và cụ thể là năm 1950, trong vai đặc công, ông HMC đã dẫn một đội cảm tử đánh sân bay Gia Lâm ở Bắc Việt. Riêng đối với tầng lớp chống Cộng, đặc biệt là các nạn nhân CSVN ở hải ngoại thì phần lớn đều biết ông HMC là người từng bị Đảng CSVN gắn cho danh hiệu là một tên chống đảng cực kỳ phản động sau Trần Độ. Thử hỏi, một người mệnh danh là thủ lãnh của phong trào đối kháng chống chế độ trong nước như ông HMC mà ra hải ngoại tiếp tay với Tập Thể Tị Nạn chống Cộng Sản thì ai mà không tin; mới nghe ai cũng tin tưởng là ông HMC là người đã nắm được chính nghĩa tuyệt đối. Biết rằng, năm 1954, chiêu bài Chống thực dân Pháp, giải phóng quốc gia , thì Việt Minh Cộng sản đã nắm được Chính Nghĩa Tuyệt Đối. Hiện tại, năm 2005, ai là người chống Cộng Sản giải phóng quê hương thì người đó nắm được Chính Nghĩa Tuyệt Đối.

* Sơ hở một cách ấu trĩ của Đảng CSVN

Do tin tưởng là ông HMC đã nắm được Chính Nghĩa Tuyệt Đối, hơn nữa ông lại là một người từng nêu cao ngọn cờ đối kháng từ hàng ngũ cao cấp nhất trong đảng CS. Với thành tích đó thì kế hoạch thỏa hiệp với hải ngoại để tiếp tục nắm giữ quyền lực của CSVN qua tay HMC thì không những nó sẽ lừa gạt được quốc tế, đặc biệt là chính giới Mỹ mà còn lừa gạt luôn cả khối người Việt chống Cộng cực đoan.

Thử hỏi một lý thuyết gia tốt nghiệp Đại Học Đông Phương Moscou; Viện trưởng viện Lý luận Mácxít; người từng viết Bá cáo chính trị cho Trường Chinh đọc trong Đại Hội VI để hướng dẫn đảng chuyển đổi từ Vị Thế Đối Đầu sang đường lối Sống Chung Hòa Bình với tư bản của Cút Xốp, một đề tài vô cùng khó khăn tế nhị; người đãø 3 lần bị chế độ bỏ tù; thử hỏi với thành tích cá nhân nổi bật như thế thì còn có ai hơn ông HMC. Khốn thay, đảng CSVN và ông HMC đã quá khinh thường hải ngoại nên đã vấp phạm nhiều sai lầm trầm trọng; làm một việc Đối Nhân Tiếp Vật trái ngược hẳn với những gì mà Hà Nội đã làm từ trước khiến lá bài của ông HMC bị cháy mốt cách thê thảm vì lý do:

1. Đảng quá hấp tấp vội vàng trong vấn đề đưa ra phương án Bàn Tròn Ba Bên , một hình ảnh dễ gây dị ứng cho các nạn nhân CSVN, họ từng kinh hãi vì hệ lụy của cái được gọi là Chính Phủ Ba Thành Phần và Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Quốc Gia Dân Tộc gồm Ba Thành Phần trong việc thi hành Hiệp Định Paris để Chấm Dứt Chiến Tranh&Tái Lập Hòa Bình tại VN ; người CS vội quên cái tội phản bội và vi phạm Hiệp định Paris, được coi là một vụ lường gạt trắng trợn và lớn nhất trong lịch sử VN cận đại mà CSVN đã dối gạt quốc tế, và toàn thể dân Miền Nam không bao giờ quên được.

2. Coi thường hải ngoại, bất chấp dư luận, đưa những nhân vật mà ai cũng biết là đảng viên Cộng Sản ra làm đại diện cho trí thức hải ngoại và trí thức trong nước tỉ như hai trường hợp dưới đây:

a. Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi được ông HMC ca tụng và chỉ định là người đại diện trí thức hải ngoại:

Vào ngày 28-9-05, tại Đại học Harvard khi được đảng cho phép, ông HMC đã phùng mang trợn mắt tố cáo xả láng đảng, lợi dụng cơ hội nầy ông vội chỉ định ngay Bs Nguyễn Xuân Ngãi là người đại diện trí thức hải ngoại cho phương án Bàn Tròn Ba Bên; hành động hấp tấp nầy đi đôi với việc đảng chấp thuận để Bs Ngãi bảo lãnh cho ông HMC lưu trú tại nhà Bs Ngãi trong thời gian chửa bệnh ở Hoa Kỳ đã nói cho chúng ta thấy rõ các sơ hở vụng về và quá ấu trí của nhà cầm quyền Hà Nội trong tiến trình cầu hòa để tìm cách thỏa hiệp với hải ngoại. Lý do, phần lớn các giới Quân, Cán, Chính VNCH cũ còn sinh hoạt đều biết; Bs Nguyễn Xuân Ngãi, hiện là phó chủ tịch Đảng Nhân Dân Hành Động, một đảng mới nghe danh xưng thì có người lầm tưởng là một tổ chức chống cộng tích cực. Nhưng xét kỷ lý lịch đảng viên thì toàn là một màu đỏ máu.

Theo hồ sơ tình báo của VNCH, trước năm 1975, khi còn là sinh viên năm thứ 3 Đại Học Y Khoa Sài Gòn thì Bs Nguyễn Xuân Ngãi từng giữ chức vụ Tổâng Thư Ký; Ngãi là một phần tử đấu tranh cực đoan triệt để chống Mỹ-Ngụy của băng đảng Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi; Dương Văn Đầy, Nguyễn Huyên, Cao Lập, Lý Quý Chung, Nguyễn Chánh Trung v.v. Nhóm nầy thường cấu kết với một số học sinh thân Cộng của trường kỹ thuật Cao Thắng xuống đường biểu tình đả đảo chống phá chế độ VNCH. Biết rằng, bọn nầy sau đó vì sợ cơ quan an ninh VNCH lùng bắt nên phải trốn vào chiến khu theo đảng, phần lớn được đào tạo ngành tình báo; đương nhiên đã trở thành đảng viên CS nòng cốt. Một đặc điểm khác khiến ông HMC phải giới thiệu Bs Ngãi làm đại diện cho giới trí thức hải ngoại vì lý do, Ngãi hiện giữ chức Phó cho ông Nguyễn Sĩ Bình, một kỹ sư được đào tại Mỹ, đương kim Chủ tịch đảng Nhân Dân Hành Động mà có thời gian ngắn trước đây từng bị CS Hà Nội bắt bỏ tù vì tội lập đảng chống Cộng trong nước. Điều đáng nói là khi thả Bình, thì tên Tổng Bí Thư thiến lợn Đỗ Mười đã công khai đánh bóng Nguyễn Sĩ Bình (NSB) bằng cách nói Mặc dầu Bình là một tên cực kỳ phản động phá hoại đất nước, nhưng vì đại nghĩa dân tộc, đảng vẫn tha thứ . Mẹ kiếp chúng, thử hỏi VC đã chặt đầu mổ bụng hằng triệu người thì sá chi một tên vô danh như kỹ sư NSB; khi bắt không ai biết, mà khi thả thì lại rầm rộ để hợp thức hóa cho bọn nầy là dân chống cộng thứ thiệt. Ngay Bs Ngãi cũng được hưởng đặc ân như NSB; bằng chứng Bs NXN về VN mở khóa đào tạo cấp tốc Tim-Mạch cho các bác sĩ tại Sai Gòn trong một thời gian ngắn; khi mở khóa thì chẳng ai hay biết, mãn khóa lại bị VC tố cáo, gắn cho nhãn hiệu gián điệp Mỹ để lấy cớ trục xuất, thế là đảng NDHĐ của Nguyễn Sĩ Bình và Nguyễn Xuân Ngãi được Hà Nội tô son trát phấn tuyên dương là một đảng chống Cộng Số Dzách còn ai hơn. Việc HMC giới thiệu Bs Nguyễn Xuân Ngãi đại diện cho trí thức hải ngoại, tức là đảng đã bố trí một đảng viên CS hải ngoại vào ngồi trong chiếc chiếu thống trị còn ai chen chân lọt. Đúng là vô ra chỉ là thằng cha VC.

b. Giáo sư Trân Khuê, một học giả kiêm lý thuyết gia Cộng sản:

Cũng thời gian chữa bệnh tại Hoa Kỳ, ông Hoàng Minh Chính sẵn dịp thuận tiện đã giới thiệu luôn học giả Trần Khuê, được xem là nhân vật thứ hai của Phong Trào Dân Chủ; ông Khuê, tác giả sách Đối thoại năm 2000 được chính thức làm đại diện cho giới trí thức trong nước. Việc bổ nhiệm của ông HMC được bọn chóp bu CS đánh giá là vô cùng thích hợp vì, Giáo sư Trần Khuê cũng được coi là nhân vật hàng đầu trong phong trào đối kháng chống đảng như ông HMC; điều nổi bật, học giả Trần Khuê lại là con người có khả năng kết hợp được hai yếu tố quyết định để đóng trò thỏa hiệp, là tính chất sắt máu quyết liệt của cựu tướng Trần Độ, và sự khéo léo dễ dàng thỏa hiệp (bên ngoài) của Hoàng Minh Chính. Đó chính là những yếu tố cần thiết để thành công trong công tác khống chế tầng lớp trí thức của VNCH cũ còn kẹt lại tại Miền Nam. Vì lý do nói trên nên một số nhà tình báo ngoại giao các nước Âu châu đánh giá học giả Trần Khuê là nhà tình báo và gián điệp lỗi lạc chuyên trách văn hóa trong nước. Hơn ai hết, ông ta còn là người nắm vững được tư tưởng của giới trí thức Miền Nam hiện đang nín thở qua sông . Đặc biệt vị học giả Trần Khuê khi đối thoại rất khéo và lập trường bên ngoài có vẻ tròn như viên bi nhưng một ai đó mà dám cả gan động đến Bác Hồ của ông là thấy mồ tổ, ông gay gắt phê phán: Chỉ có lịch sử mới có quyền phê phán Bác Hồ thân mến của chúng ta .

Ngoài hai cái sơ hở chính kể trên, bọn phái khiển lại quá ngu dốt đi xúi tụi đàn em từng có dự mưu trong vụ HMDC/ 2005 để lén lút tán gẫu cái Bàn Tròn Ba Bên, lên tiếng để chối tội một cách vụng về. Thử hỏi có ai tra khảo đâu mà hết Bùi Tín viết bài lên tiếng chửi đổng và mắng xéo Người Việt Quốc Gia; rồi đến Vũ Thư Hiên lại thuê cò mồi bày trò phỏng vấn để hắn ta có cơ hội thanh minh thanh nga giùm cho bọn thống trị trong nước. Ngoài ra, Hiên còn đặt điều khoe là có bàn tay phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa Washington-Hà Nội để trộ nói cho thiên hạ biết chúng đang lo việc nhớn . Đúng thật là một bọn hạ mục vô nhân; chúng là những tên phản gián hạng bét chỉ lo đi săn tin vặt, có biết con mẹ gì hơn mà bàn chuyện Hòa Giải&Hòa Hợp.

Phần ông Hoàng Minh Chính, cho dù ông có vận dụng tối đa và được bọn tay sai tích cực hỗ trợ, ông mới tới được Harvard để nói cho giới trí thức Mỹ biết các sai trái, không lô gích và dõm của chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế; quả thật ông HMC đã làm một công việc quá nhảm nhí, vì tại Hoa Kỳ đã có hằng triệu tác phẩm phê bình chủ nghĩa Cộng sản từ cả nửa thế kỷ nay đầu tới phiên ông. Riêng tại Quốc hội Hoa Kỳ thì ông HMC đã lớn tiếng tố cáo của chế độ, một việc làm vô bổ vì ai mà không biết tội ác của CSVN; biết đâu nhiều người còn thấu rõ hơn ông HMC; có điều người nói, ông biết nhưng không dám nói sự thật; lý do, trước sau ông HMC chỉ làm một công tác theo đơn đạt hàng của bạo quyền Hà Nội. Có điều đáng lưu ý, ngoài phần tố cáo chế độ, ông HMC lại kín đáo nhắn với Quốc Hội Mỹ nên cấp cho ông một bằng chứng tại tòa , kiểu Trade Mark, chứng nhận ông là Nhà độc quyền đấu tranh Dân Chủ , để rồi từ đó ai muốn Dân Chủ hãy theo ông (Theo ký giả Đổ Sơn&Tường Thắng đài SBTN). Đi chửa bệnh mà ông lại quá huỗn ngược xuôi như vậy chẳng qua để chứng minh, ông là một nhân vật đối kháng hạng bự; người đang nắm lá cờ đầu của Phong Trào Dân Chủ VN và một người có thể giúp hải ngoại nói chuyện với bọn cầm quyền trong nước.

Tuy nhiên nhìn chung, qua các hành động cụ thể của ông HMC trong thời gian ở Mỹ, cho tới tận nay, chúng ta thấy đảng CSVN và cá nhân ông HMC đã bị phạm nhiều điều lỗi lầm quá sơ đẳng, chứng tỏ đảng CSVN và ông Chính quá đần độn và lú lẫn như dưới đây:

Thứ nhất- Thiếu hiểu biết: qua nhà láng giềng (hải ngoại) mà vớ một tên vỗ ngực tự xưng trí thức hải ngoại rồi chỉ định làm đại diện hải ngoại mà không cần ý kiến ai thì quá hỗn láo; hơn nữa, ngay cả trong giới y khoa đã có mấy ai đánh giá cao Nguyễn Xuân Ngãi. Ông HMC không biết câu Nhập gia tùy tục

Thứ hai- Về mặt tổ chức và kỹ thuật thì việc tự ý chỉ định NXN làm đại diện hải ngoại không những tỏ ra vô lễ với NVHN mà còn tỏ ra ngu dốt tố cáo cho thiên hạ biết, NXN là người của CSVN. Thử hỏi còn làm ăn gì được nữa.

Thứ ba - CSVN tưởng là Phan Văn Khải đã qua Mỹ, nhận làm tôi tớ cho quan thầy Mỹ thì bọn chống Cộng hết vốn, đã được hóa giải do đó phái HMC, người đầy thành tích chống Cộng nói chuyện với hải ngoại thì ai mà chẳng tin. Thử hỏi, cái được gọi là nhà dân chủ HMC, mà cách hành sử như thế thì làm sao có thể bàn đến việc đấu tranh dân chủ. Chưa có quyền mà đã phách lối hỗn láo coi cộng đồng hải ngoại như cỏ rác thì có đáng được goi là Nhà Dân Chủ không? Thủy chung HMC vẫn mang nặng bản chất độc tài, đảng trị của bọn CS. Chỉ mấy thằng ngu và ăn cơm sú mới tin được ông.

Điều đáng ngạc nhiên là cho đến nay, chưa ai thấy ông HMC đưa ra một đề nghị, hay một biện pháp nào để loại bỏ chế độ bạo tàn CSVN. Tựu chung, những hành động của ông trong thời gian được phép đi chửa bệnh là đem đi áp dụng tất cả mưu lược của CSVN để lừa gạt hải ngoại; tìm cách thỏa hiệp để tiếp tục nắm quyền; đầu hàng Hoa Kỳ và ve vãn hai ngoại không ngoại mục đích củng cố quyền lực. Chỉ có thế thôi.! Người ta nói Xem cây thấy quả. Qua các hành động của HMC đủ thấy CSVN quá kém, dấu đầu bị hở đuôi, tưởng dùng HMC ắt sẽ nắm chắc phần thắng, nhưng không ngờ chẳng thuyết phục được ai mà còn làm trò cười cho thiên hạ. Nếu ông HMC quả thật là người yêu nước, đề nghị ông cố thuyết phục nhà cầm quyền Hà Nội phải lập tức: ngưng ngay việc khủng bố; bỏ trò lừa bịp để che mắt quốc tế bằng cách thả một bắt thêm hai; quan trọng nhất phải lập tức trả lại quyền Dân Tộc Tự Quyết cho Nhân dân VN; cho phép người dân được hưởng Tự Do&Dân Chủ; nhớ rằng Tự Do &Dân Chủ đâu phải miếng thịt hay con cá muốn mua giờ nào cũng được mà phải có sự chuẩn bị Dân Chủ.Trước là phải tạo cơ hội cho họ học tập để biết thế nào là Tự Do&Dân Chủ cụ thể là Tự Do Ngôn Luận bằng cách tự do phát hành báo mà không bị Nhà Nước kiểm duyệt. Một khi người dân đã hưởng được dân chủ, họ sẽ tự ý lựa chọn người đại diện nói chuyện với đảng để bàn công cuộc cứu dân cứu nước. Lúc đó hải ngoại sẽ tận lựïc tối đa để yểm trợ quốc nội. Nếu chế độ bạo quyền Hà Nội cứ mãi sử dụng âm mưu để tiếp tục lừa gạt đồng bào và hải ngoại, thì ắt một ngày không xa, do tức nước vổ bờ nhân dân sẽ nổi dậy thì bọn CS sẽ không còn có đất chôn thây. Xin ông Hoàng Minh Chính hiểu cho.

Mong thay.

Phùng Ngọc Sa