Wednesday, May 14, 2008

Sự Liên Quan Giữa Phan Huy Đạt

Sự Liên Quan Giữa Phan Huy Đạt - Trần Chung Ngọc - Hà Dương Dực và Phan Huy Lê

Ảnh ông Phan Huy Lê.
Take2Tango Weekly sẽ minh chứng sự liên quan giữa 4 nhân vật "cộm cán" Phan Huy Đạt (chủ nhiệm nhật báo Người Việt) - Trần Chung Ngọc - Hà Dương Dực và Phan Huy Lêtrên trong số báo phát hành ngày 22 tháng 5 năm 2008. Trong bài viết online hôm nay, chúng tôi xin tải đăng để độc giả rỏ hơn về "mặt thật" của một trong 4 nhân vật nàỵ

TRẦN CHUNG NGỌC - SỰ NGÂY THƠ CỦA MỘT MẸ MÌN

Trước khi được hầu chuyện với Ông Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc, tôi xin nói rõ tôi là một Phật tử; theo Phật vì tính nhân bản của đạo Phật; vì đạo Phật đã gắn liền với dân tộc. Sỡ dĩ phải nói lên điều nầy trước tiên vì để tránh bị gán ghép là "hiếu sát, hiếu chiến, cuồng tín".

Ðã từ lâu tôi có ý viết một số nhận xét của mình về ông Trần Chung Ngọc. Tôi cũng đọc một số bài viết và sách của ông - ông viết về Kitô giáo rất công phu, công trình nghiên cứu tìm tòi tài liệu nghiêm túc. Thế nhưng những ý kiến, luận cứ có tính cách chính trị, nhận thức văn hóa của ông thì nhiều khi ấu trĩ ; tôi sẽ đề cập đến sau đây.

Ðầu tiên về bài "Vạch trần âm mưu đánh phá Phật giáo ở Nam Cali" của ông đăng trong Phật Giáo Việt Nam của sư Mãn Giác. Mở đầu ông viết "... Nhiều nhà lãnh đạo tinh thần thuộc các tôn giáo đã được mời để nói lên tiếng nói của mình cho người Mỹ và đất nước Mỹ biết quan điểm tôn giáo của họ về cuộc khủng bố". Ông nói đến thiền sư Nhất Hạnh cùng được mờị Tuy nhiên ông không cho biết rõ là chính phủ hay tổ chức nào mờị Riêng ông Nhất Hạnh thì theo tin trên báo là do một nhóm tàn dư phản chiến Mỹ mời và ông đã bỏ ra hàng chục nghìn đô la để đăng bài trên New York Timẹ Chung Ngọc lại còn nói thêm- một cách móc méo-là không thấy mặt các vị chức sắc bên Kitô giáo hay những người nổi tiếng chống Cộng và "Hòa Thượng tự phong và tự do liên tôn ve vuốt Thánh giá" "hay hòa thượng tự phong và tự tung tự tác ở cổng Như Lai". Ðương nhiên nhóm phản chiến Mỹ sẽ không bao giờ mời những vị mà ông đã kể vì họ sẽ không bao giờ đứng về phe khủng bố mà lên án Mỹ như Nhất Hạnh đã làm.Ông Chung Ngọc đã tỏ ra lỗ mãng khi nói đến hai Hòa thượng mà ông gọi là "tự phong". Xin hỏi ông Chung Ngọc, bài "Vạch trần âm mưu ..." của ông tôi đọc ở tập san Phật Giáo Việt Nam của sư Mãn Giác và ông nầy đã thường xưng là Hòa thượng; đồng thời đứng dưới danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Tại Hoa Kỳ và Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai công nhận, ai bầu ,ai tấn phong hở ông Chung Ngọc. Riêng hai Hòa Thượng mà ông gọi là "tự phong" đó xin ông chứng minh cho chúng tôi thấy các vị ấy "tự phong" ra làm sao?

Ông dẫn chứng sai bài "Kẻ thù Ta" là một bài Tâm ca của Phạm Duy chứ không phải của Trịnh Công Sơn đã viết; dù đây là việc nhỏ nhưng cũng cho biết kiến thức tổng quát của ông chẳng có là bao nhiêụ Câu mở đầu của bài hát là "Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với aị Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là vô lương , tên nó là hờn căm, tên nó là hận thù ..." khi trích dẫn nên trích trọn ý của tác giả muốn nói xin đừng cắt xén để bóp méo theo ý mình .Ông viết "...con người đúng nghĩa là con người, chứ không phải là những kẻ đầy thú tính , hiếu chiến, hiếu sát, mang thân hình con người". Theo như ông viết thì bọn Cộng Sản, phát xít, bọn khủng bố trong tổ chức của Bin Laden chỉ "mang thân hình con người " chứ đâu có phải là "con người đúng nghĩa có phải thế không? Nếu đúng như thế thì trừng trị bọn chúng đâu có phải là "giết người ".

Nói về ông Nhất Hạnh, gọi ông ta là Thiền sư thì chưa ổn, ông ta từ lâu đã không phải là một vì tăng của Phật giáo; nói cho chính xác ông ta đang là giáo chủ của một tôn giáo mới, thứ tôn giáo tạp pín lù pha trộn giáo lý KiTô giáo vào Phật Giáo mà tôi xin tạm gọi là đạo Kitô Bụt. À, có một điểm lạ đáng ghi nhận là ông Chung Ngọc chống lại Kitô giáo rất hăng hái nhưng lại bênh vực cho người có công pha trộn Kitô giáo với Phật Giáo thành môt giáo lý tạp nham. Ông Chung Ngọc dẫn bài của Nhất Hạnh đưa ra con số 40.000 trẻ em chết vì suy dinh dưỡng, vì đói trên thế giới mỗi ngày và quy tội cho Mỹ có phần lớn. Trong số 40.000 trẻ em nầy tôi chắc là không thiếu gì trẻ em Việt Nam.Thế thì số trẻ em Việt Nam chết vì đói, số trẻ em lang thang làm đủ các nghề như ăn xin, dắt mối, đánh giày, bươi rác, trộm cắp ... hiện nay ở trong nước chắc cũng là do "đế quốc Mỹ" chứ không phải là do chính sách cai trị ác ôn của bọn Mafia CS Việt Nam gây ra - có phải thế không ông Chung Ngọc ?

Ông chê nhiều người dốt tiếng Anh nên dịch lời của Tiền sư (tôi xin được bớt đi một chữ "h") VÔ HẠNH (từ đây trở đi tôi xin gọi thế vì theo tinh thần Bát Nhã thì Nhất Hạnh hay Vô Hạnh cũng là một không khác) không đúng. Trong nguyên văn của Vô Hạnh Bến Tre được viết là city và ông đã dịch là Tỉnh. Chi tiết nầy đã cho chúng ta thấy cái dốt của ông Chung Ngọc. Dốt hoặc cố ý lấp lửng để người đọc hiểu sai lạc. Ngày trước 75 Bến Tre là một thị xã nằm trong Tỉnh Kiến Hòa, do đó nếu nói vài du kích xâm nhập thị xã Bến Tre là đúng nhưng nói xâm nhập tỉnh Bến Tre (phải gọi là tỉnh Kiến Hòa) là sai. Vì Kiến Hòa ngày trước là một trong Tam Kiến (Kiến Phong, Kiến Tường, Kiến Hòa) lực lượng cơ hữu của CS hoạt động rất mạnh, có không ít hàng tiểu đoàn địa phương chưa kể du kích. Số cư dân được thổi phồng quá đáng một cách cố ý. Ông Ngọc biện hộ là sự sơ sót của ThầỵTheo tôi thì đây không phải là một sự sơ sót mà là một sự cố tình.Tại saỏ Tiền sư Vô Hạnh không phải là một trẻ con, một người vô não để không biết suy nghĩ chín chắn khi trích dẫn một nguồn tài liệu đưa ra trước công chúng. Thứ hai, ông dạy "Giáo pháp tỉnh thức'' cho mọi người nhưng tự thân tâm ông vẫn còn mê muội, đầy dẫy vô minh thì ông đâu xứng đáng làm thầy thiên hạ, ông chỉ là một tên bịp có tầm cỡ mà thôị Nâng một con số - con số về những con người chứ không phải là con vật hay đồ vật- lên 400 % sai sự thật mà ông gọi chỉ là một sơ xuất thì chỉ có miệng lưỡi của Vẹm mới nói, mới nghĩ vậy thôi.

Ở đoạn ông Chung Ngọc làm cái loa tuyên truyền gỡ tội cho bọn CS trong vụ thảm sát Tết Mậu thân ở Huế. Khi ông bảo là Mỹ ném bom bừa bãi gây thương vong cho 5, 6 nghìn thường dân. Sự dốt nát và nhận thức ấu trĩ- nếu không nói là sự cố tình nhắm mắt lặp lại những lời chối tội của CS do ông Chung Ngọc đưa ra đã cho ta thấy rõ Ông Chung Ngọc đang phục vụ cho ai. Tất cả những người sống ở miền Nam có chút tuổi đời để nhận thức đều biết tội ác của bọn CS trong vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế. Cái chết của những người bị chôn sống, bị đập đầu bằng dao, rựa, cuốc, bị xỏ xâu bằng dây kẽm từng chùm trong các mồ chôn tập thể được khai quật không lâu sau khi thành phố được giải tỏa không thể giống với những vết tử thương do bom đạn và người Mỹ cũng không có công sức nào gom xác lại và đào hố chôn như thế. Ðây cũng chính là một trong những chứng tích để minh định số nạn nhân trong vụ thảm sát là do ai gây nên. Ông nên tìm đọc tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của nhà văn Nhã Ca để tìm hiểu thêm. Ông hỏi những con số của VNCH đưa ra có chính xác không thì ông căn cứ vào đâu mà bảo là những con số của CS, của các tên phản chiến Mỹ là chính xác. Thưa ông Ngọc, chẳng lẽ những con số nào ông thấy nó phù hợp với ý đồ nối giáo cho CS là đáng tin cậy còn ngoài ra thì không?

Viết đến đây tôi cũng xin đề cập đến một bài viết của Ông Tiểu Huyền "Tiêu diệt khủng bố mà vẫn có hòa bình ?" đăng trên cùng số báo với bài của ông Chung Ngọc để so sánh . Ông Tiểu Huyền đề cập đến lời nhận xét của Ðức Ðạt Lai Lạt MạNgài đúng là bậc chân tu đạt đạo, các lời khuyên bảo của ngài thể hiện đúng tinh thần từ bi của Phật Giáo; không phân biệt, không kết tội, không nhìn một chiều như của Tiền sư Vô Hạnh. Cùng một sự kiện ngài không lên án Mỹ cũng không khuyến khích Mỹ phải trả thù mà chỉ bày tỏ lòng mong muốn là chính phủ Mỹ hãy thận trọng, tự chế, tìm giải pháp hợp tình hợp lý nhất; sau khi ngỏ lời chia buồn cùng nhân dân Mỹ. Ðó mới chính là những lời xuất phát từ sự thức tỉnh thật sự, còn những lời bóng bẩy, văn hoa nhưng chất ngất gươm đao của ngài Vô Hạnh thật không xứng đáng tư cách một đạo sư. Thành ra sự lên án Mỹ một cách thiếu căn cứ vững chắc và không phải lúc của Vô Hạnh là một âm mưu, cố tình rõ rệt không thể biện hộ.

Tôi cũng xin nhắc lại là tiền sư Vô Hạnh không phải là một vị sư Phật Giáo, ông ta là giáo chủ của cái gọi là Kitô Bụt giáo, xin đừng cố tình áp đặt để mập mờ đánh lận con đen; bản thân ông Vô Hạnh hay bất cứ một vị sư nào cũng không phải là Phật giáo, đừng bao giờ bắt chước Bin Laden mà bảo rằng "Ðụng đến Bin Laden là đụng đến Hồi Giáo". Ðồng thời tôi cũng nói ra đây mục đích của Trần Chung Ngọc và nhóm của ông là : Thứ nhất : Gây chia rẽ trong cộng đồng Phật Giáo; hóa giải các nỗ lực tranh đấu vì tự do tôn giáo, nhân quyền của những Tăng Ni và Phật Tử . Thứ hai : Gây chia rẽ, phá vỡ sự đoàn kết giữa các tôn giáo Việt Nam trong công cuộc đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản.Vì sự đoàn kết của các tôn giáo chính là nỗi lo sợ của Cộng Sản.Tôi sẽ chứng minh chỗ đứng của ông Trần Chung Ngọc từ một số các bài viết của ông sau đây.

"Bài vài nhận xét về vấn đề tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo ở hải ngoại" đăng ở Giao Ðiểm số 39-40.Vào câu mở đầu Ông Ngọc viết "dù rằng trên thực tế chủ nghĩa Cộng Sản đã không còn từ hơn 10 năm nay". Ông bảo chủ nghĩa CS đã không còn, điều nầy có lẽ đúng nhưng người Việt tự do chống lại là chống cái chế độ độc tài CS phi nhân và dù chế độ ấy có ngụy trang bằng thứ chủ nghĩa nào, có đổi tên gọi là gì đi nữa mà thực chất không đem lại tự do,no ấm, dân chủ thực sự cho quê hương Việt Nam thì chúng tôi chống lại, thế thôi.

Ông chê những người tranh đấu cho nhân quyền chưa để tâm nghiên cứu và chưa bao giờ về thẳng Việt Nam - như ông đã về - để thu thập những dữ kiện chính xác làm căn bản vững chắc cho việc tranh đấụ Ông còn nói đến đạo đức cá nhân, và bản chất tay sai, do vô minh hoặc vô tình của những người nầy. Ông còn bảo các quốc gia phương Tây lạm dụng bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và xã hội Ðông Phương khác với Tây Phương. Những điều ông đề cập đến có đúng, nhưng chỉ phiến diện và ông đã dùng những nhận xét ấy để phê phán các cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ của Việt Nam.Thứ nhất cuộc đấu tranh cho mục tiêu nhân quyền thực chất là đấu tranh cho dân quyền, là những quyền căn bản của mỗi một công dân trong một nước mà nếu tôi không lầm thì trong bản Tuyên ngôn Ðộc Lập đọc trước Hội Trường Ba Ðình do Hồ Chí Minh và trong Hiến Pháp của nhà nước CS Việt Nam đều có đề cập đến. Trên các tiêu đề văn thư của chính quyền Cộng Sản Việt Nam luôn có khẩu hiệu: ÐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC, thế nhưng sau gần 30 năm sau 75, đất nước vẫn chưa có tự do, độc lập và hạnh phúc thực sự. Theo tôi các giá trị về quyền công dân thì dù ở Ðông hay Tây phương thì cũng đều có giá trị như nhaụ Ðông Phương và Tây Phương có những khác biệt về văn hóa, phong tục, tập quán nhưng những khát vọng của con người về một cuộc sống an bình, hạnh phúc, một xã hội thuần lương thì đều như nhaụ Những kết quả có được qua bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là một quá trình hao tốn biết bao nhiêu máu xương tranh đấu của nhiều thế hệ nhân dân đã viết nên. Vấn đề là ở các ý nghĩa tốt đẹp - có thể chưa toàn hảo- của bản Tuyên Ngôn đã tán dương, đã khẳng định, còn các nước Tây Phương có lợi dụng, có gây ra nhiều bất công cho các nước nhược tiểu thì đó không phải là lỗi của những người đã dựa vào nó làm một cái thước đo để căn cứ vào làm mục tiêu tranh đấu.

Ông sai lầm khi viết rằng "Truyền thống dân tộc Việt Nam ghét nhất những kẻ nào mượn thế người ngoại quốc để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam . Ông đã đồng hóa chính quyền với nhân dân, với đất nước; trong trường hợp Ðảng CS, chính quyền đang ở vị thế đối lập với nhân dân, khi chính quyền đàn áp nhân dân thì chưa bao giờ nhân dân lại đi bênh vực cái chính quyền ấỵ Ðiểm nữa, chính quyền ấy đã lệ thuộc vào CS quốc tế và đang là nô lệ cho Trung Hoa - việc nhượng biển, nhượng đất, lệ thuộc trong bang giao đã cho thấy thì nhân dân đâu có đứng về phía họ.Ngoài ra, hiện nay chính quyền CS cũng đang muốn mượn các thế lực ngoại bang như Mỹ, Nhật ... để củng cố quyền lực hầu cai trị lâu dài hơn.

Theo như lời ông nói Nhân quyền theo quan niệm của Mỹ là ở bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền; thế thì nhân quyền theo như quan niệm của Việt Nam hiện nay ra sao ông có thể minh định để mọi người cùng mở mang kiến thức. Có phải nhân quyền theo kiểu Việt Nam là bắt bỏ tù không cần án lệnh, xét xử, tuyên án; chính sách hộ khẩu trói buộc, các cấp xã ấp đã có thể bắt giữ người; lập pháp, hành pháp, tư pháp đều do Ðảng thâu tóm, chính quyền mọi ngành, mọi cấp thi đua tham nhũng còn đại đa số nhân dân -ở các vùng nông thôn - thì nghèo khó. Trẻ con thì không được học hành đầy đủ, ăn xin, móc túi, lê lết đầy đường, phụ nữ thì bán thân nuôi miệng, thanh niên sống không biết ngày mai, người già thì không được an dưỡng ... tất cả là thể hiện tính ưu việt của nhân quyền kiểu Việt Nam ?

Khi ông phê bình bản Nhận định của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ và bảo rằng đây là bản văn ngụy tạo đồng thời ông dẫn chứng một số các câu châm biếm mà ông cho rằng không hợp tinh thần đạo đức Phật Giáo và không nên có ở miệng một cao tăng. Thưa Ông Chung Ngọc, có lẽ ông ở nước ngoài quá lâu nên đã quên, đã không hiểu được đặc tính khôi hài một cách chua cay là phản ứng của đa số nhân dân thấp cổ bé miệng dưới sự áp bức của bạo quyền. Thành ra, chỉ những người đã từng sống ở trong nước và đi sát với cuộc sống nhân dân mới biết được những câu nói đó mà thôi và những câu nói nầy Hòa thượng Quảng Ðộ chỉ ghi lại chứ Hòa Thượng đâu có sáng tác ra. Thêm nữa, những câu nói nầy đã lột tả được hết cái bộ mặt trái của nông thôn Việt Nam trong chế độ CS, là sự thật chua cay, đâu có vu oan, nói láo mà ông chê là không đúng với tư cách một vị cao tăng.

Ông lại dẫn chứng để phê phán 2 câu thơ của Nguyễn Chí Thiện:

Ôi thằng Tây mà khi xưa người dân tốn bao xương máu đánh đuổi
Nay người dân xao xuyến luyến tiếc vô cùng .

Ông bảo đây là tư tưởng bán nước cầu vinh, là "phủ nhận công ơn của ông cha chúng ta trong công cuộc dành độc lập cho đất nước, tôi nghĩ hai mươi mấy năm ông Nguyễn Chí Thiện nằm ngâm thơ cho muỗi và rệp nghe kể cũng đáng". Thưa ông Ngọc, trí óc hẹp hòi và thiên Cộng của ông đã để lộ rõ ở câu nầy. Dưới thời Pháp thuộc vì nước nhà bị nô lệ, thực dân Pháp cai trïi áp bức nên nhân dân lầm than, trong trí tưởng của những nhà ái quốc và nhân dân thời đó đều đã nghĩ rằng hễ nước nhà được độc lập thì nhân dân tức khắc được no ấm. Họ đã đồng hóa độc lập với tự do, dân chủ. Cộng Sản đã lợi dụng tâm lý ấy nên dấu kín bộ mặt CS mà dương cao ngọn cờ "Ðộc lập dân tộc" để lừa gạt toàn dân. Thực sự độc lập không phải là điều kiện duy nhất ắt có và đủ để một đất nước có tự do, dân chủ và no ấm. Ðánh đuổi thực dân Pháp tốn biết bao nhiêu máu xương của nhân dân để thiết lập nên một chính quyền đàn áp càng khốc liệt hơn, tàn bạo hơn, dã man , thâm độc hơn và máu xương của nhân dân còn tiếp tục chảy nhiều hơn thì sự hy sinh xương máu ấy còn có ý nghĩa gì.Tôi nghĩ sau nầy lịch sử sẽ phán xét công minh công và tội của những người Cộng Sản Việt Nam. Ðừng đem độc lập để biện minh cho một chế độ độc tài sắt máu là CS. Lịch sử và thực tế trên thế giới hiện nay đâu thiếu các nước độc lập nhưng nhân dân các nước ấy vẫn lầm than, nghèo đói, không hưởng được các quyền tự do căn bản của một xã hội công dân. Nhân dân một nước không có tự do, dân chủ, ấm no là tại sự cai trị độc tài, áp bức của chính quyền chứ không phải tại vì có độc lập hay không. Bởi thế lời thơ của Nguyễn chí Thiện nói lên một thực tế phũ phàng, một sự tiếc nuối chua chát không phải là quá đáng hay sai tráị Có sai trái là ở cái chính quyền nhân danh nhân dân để áp bức nhân dân, nhân danh dân chủ để đàn áp, bỏ tù những nguời yêu nước, những kẻ có vài khác biệt về quan điểm chính trị. Nếu một chính quyền thực tâm vì dân và do dân sẽ phải biết nhục nhã vì đã không đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc như đã và đang rêu rao. Trong vấn đề đánh Pháp để dành độc lập ông nên tìm đọc một số các sử liệu sẽ hiểu rõ ràng hơn .

Ông Chung Ngọc dẫn chứng có hàng trăm người về Việt Nam và bản thân ông cũng đã có về, nhưng không thấy có đàn áp tôn giáọ Ông lập luận như trẻ con; bộ CS đàn áp tôn giáo nó phơi ra cho ông thấy hay sao và cả phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc, dân biểu Nghị Viện Châu Âu nó còn coi như pha, còn dở những thủ đoạn ra ngăn chặn thì sá gì cái thứ như ông. Còn riêng ông có lẽ nó đã hướng dẫn ông đi xem nhiều nơi do chúng định trước để ông về viết bài ca tụng Việt Nam bây giờ đổi mới hoàn toàn rồi, không còn CS nữa, không có đàn áp tôn giáọ Tôi mới qua Mỹ khoảng hơn 6 năm nay, tại Việt Nam tôi ở gần khu vực có các thiền viện của Thầy Thanh Từ, vào khoảng năm 90,92 gì đó CS không cấp hộ chiếu cho Thầy Thanh Từ đi Pháp. Sau nầy dần dần nới lỏng hơn; nới lỏng là đối với đồng bào Phật tử hoặc các giáo dân vì họ đã xây dựng các giáo hội quốc doanh vững vàng rồị Từ khỏang năm 81 trở đi chùa chiền dần dần có đông người hành hương, khoảng năm 93,94 mới thấy lại bóng dáng những chiếc áo lam của Gia Ðình Phật Tử lai rai xuất hiện; nhưng CS Việt Nam cũng đã lưu ý cảnh báo vì ngoài đoàn Thanh Niên Cộng Sản ra nhà nước CS không bao giờ chấp nhận một đoàn thể thanh niên nào khác sinh hoạt. Phần lớn những người đi dến chùa vào những ngày lễ vía, cuối tuần không phải là để tu học mà là để cầu tài, cầu phước, cầu an. Do đó thành phần nầy dù có nhiều thì cũng không có nghĩa là đạo Phật được phát huy quang đạị Cộng Sản năm 90 không phải là CS năm 75 và càng không phải là CS năm 54. Nói thế không có nghĩa là CS đã thay đổi thành tốt hơn nhưng những thủ đoạn của chúng đã trở nên tinh vi hơn, thâm độc hơn nên dễ dàng đánh lừa những kẻ kém suy nghĩ. Do đó đi về Việt Nam chỉ để nhìn thấy chung quanh Sài Gòn, Hà Nội và những thành phố lớn với những lễ hội như Chùa Hương, Chùa Bà ... mà đánh giá là CS không có đàn áp tôn giáo và đang về nguồn là quá hời hợt. À, mà tại sao lại phải về nguồn nếu không từ bỏ nguồn cội từ bao lâu nay; nếu vẫn đang đắm mình trong cội nguồn dân tộc từ bao lâu nay thì đâu cần phải về nguồn. Nếu CS không có đàn áp tôn giáo thì tại sao lại chụp mũ bắt bớ giam cầm các Tăng, Ni, Phật tử, các nhà lãnh đạo tôn giáo và tín đồ, lại không cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hoạt động bình thường.

Ông viết về những Tăng Ni của Giáo Hội do nhà nước lập ". . . hoạt động trong tinh thần tùy duyên bất biến của Phật giáo trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn của thời thế" như vậy những hoàn cảnh vô cùng khó khăn của thời thế mà ông vừa nói đó do ai gây ra vậy thưa ông ? Có phải là tại bạo quyền CS gây ra không ? Ông hạ một câu "Cộng Sản cũng chẳng tốt đẹp gì " là một kiểu cá mè một lứạ Thực tâm mà nói, chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam trước đây còn có nhiều điểm bất toàn, chưa tốt; thế nhưng so sánh với chế độ CS thì còn tốt hơn nhiều lần. Nếu phải so sánh để chọn lựa thì đương nhiên người ta phải chọn cái ít xấu hơn.Cứ nhìn xem chế độ lao tù và số lượng nhà tù là đủ để đánh giá xã hội ấy tốt hay xấu. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa tốt nhưng có thể thay đổi cho trở nên tốt đẹp hơn, còn chế độ CS thì không thể thay đổi được mà chỉ có thể thay thế nó mà thôi như lời một nhà lãnh đạo Liên sô đã nói. Cũng thế, một con người có thể cải hóa, thay đổi được là một con người còn có lương tri, còn tính người; ngược lại con người không thể cảm hóa, thay đổi được thì con người ấy đã hết thuốc chữa,chỉ còn có cách là trừ diệt mà thôi. Ông dẫn lời của giáo sư Nguyễn Mạnh Quang như một chân lý "Ða số người Việt lưu vong có thể không đồng ý với một chế độ độc tài chính trị, mức độ tham nhũng, chính sách giáo dục yếu kém ở Việt Nam. Nhưng điều nầy không có nghĩa là họ sẽ mù quáng ủng hộ bất cứ một lực lượng nào, thường là hữu danh vô thực, nhờ thế lực ngoại quốc thế tục cũng như tôn giáo để khuynh đảo chủ quyền đất nước của họ". Câu của ông Nguyễn Mạnh Quang có điều đúng và cũng có chỗ sai. Ðiều đúng là dù không đồng ý, chống lại chế độ độc tài CS nhưng không có nghĩa là người Việt lưu vong mù quáng ủng hộ bất cứ một lực lượng nào, thường là hữu danh vô thực nhờ thế lực ngoại quốc, thế tục cũng như tôn giáo. Tôi xin dứt câu ấy ở đây vì nó chỉ đúng đến đấy còn đoạn sau "để khuynh đảo chủ quyền đất nước của họ" ông đã sai lầm. Chủ quyền đất nước hiện tại đâu phải của những người Việt lưu vong, chính quyền hiện tại đâu phải chính quyền của những người Việt lưu vong, cũng không có ở trong tay nhân dân trong nước mà đang ở trong tay tập đoàn CS và cái tập đoàn nầy đã bất chấp dư luận, tình cảm của nhân dân, truyền thống bất khuất của dân tộc đang tâm cắt đất, cắt lãnh hải giao cho Trung Cộng; chính quyền ấy đang bị nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước lên án.Cộng sản luôn phỉnh gạt dân chúng bằng câu "Dân làm chủ, Nhà Nước quản lý, Ðảng lãnh đạo" và chủ quyền đất nước phải được hiểu theo nghĩa ấy để thấy rằng dân chỉ có nghĩa vụ lao động, đóng thuế, hy sinh xương máu để gìn giữ đất nước còn nhà nước CS mà lãnh đạo là đảng Cộng Sản mới thực sự là chủ nhân ông cả đất nước và nhân dân .

Cuối bài, ông nói những người chống Cộng ngoài nước phản đối giao lưu văn hóa, chống những người trong nước sang Mỹ làm công tác ngoại giao, văn hóa hoặc du lịch, chữa bệnh, thăm viếng. Tôi chưa nghe nói có ai chống lại việc người trong nước ra ngoài thăm thân nhân, chữa bệnh. Tôi chỉ xin đề cập đến những việc gọi là giao lưu văn hóa; theo sự nhận xét của nhiều người thì giao lưu văn hóa chỉ đúng nghĩa khi được mở rộng trên hai chiều, hãy để các văn hóa phẩm của người Việt hải ngoại được tự do bày bán bên trong nước và ngược lại. Ngày nào chỉ kêu gọi người ngoài nước mở cửa cho các sản phẩm văn hóa của bên trong nước mà cấm cản các sản phẩm bên ngoài nước không cho du nhập vào là không công bằng, là gian lận. Còn công tác ngoại giao, văn hóa thì theo ông Ngọc ai là người có đủ tư cách và điều kiện để ra nước ngoài làm các công tác ấy nếu không là các viên chức của chính quyền CS? Ðối với người CS, chính trị là tối thượng; chính trị chi phối tất cả mọi hoạt động; tất cả đều nhìn qua lăng kính chính trị thành ra không có sự kiện nào độc lập đúng nghĩa của nó trong xã hội CS cả. Chỉ những người chưa hiểu, chưa có kinh nghiệm sống với CS mới mơ hồ như vậy thôi.

Trong bài viết rất công phu của ông Nhân quyền của ai và cho ai, trong đoạn ông in đậm nét với câu: " và, việc Mỹ đơn phương tạo nên cuộc chiến Quốc Cộng ở Việt Nam ..." Ông Chung Ngọc đổ tội cho Mỹ tạo nên cuộc chiến Quốc cộng mà không thấy là nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ thì Cộng sản đã chiếm cả nước từ khoảng năm 60 chứ không phải đợi đến năm 75 đâu. Có lẽ đó là điều Ông Chung Ngọc mong nuốn thế. Ông Chung Ngọc có biết là Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo và yểm trợ mạnh mẽ của quốc tế Cộng sản âm mưu nhuộm đỏ Việt Nam và các nước Miên, Lào không, là tên lính tiền phong của Cộng sản quốc tế qua tài liệu của chính Cộng sản.Nếu Việt Nam hoàn toàn lọt vào tay Cộng sản từ năm 60, chắc bây giờ Việt Nam cũng sẽ giàu đẹp,đã tiến lên thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa như Bắc Hàn rồi phải không ông Chung Ngọc ? Những bài viết của ông công phu, sự nghiên cứu sâu rộng thế nhưng tôi nhận thấy một điểm nầy ông chỉ có tài trên lãnh vực nghiên cứu, tìm tòi qua tài liệu ở các thư viện, còn các suy nghĩ của riêng ông - made in TRẦN CHUNG NGỌC - thì đôi khi ngây thơ nhất là các nhận xét về Cộng sản -sự ngây thơ của một mẹ mìn.

Ðoạn ông nói về chủ thuyết Mác xít là: "Lê Nin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh áp dụng chủ thuyết nầy trong những hoàn cảnh đặc biệt của mỗi quốc gia để đương đầu với Tây phương, động viên quần chúng chống nô lệ và bất công xã hội,khẳng định tinh thần quốc gia và quyền tự quyết của quốc gia. Những điểm trên có phần đúng nhưng chỉ đúng với Lênin, Mao Trạch Ðông mà Hồ chí Minh thì không vì y chỉ là tay sai của Nga Tàu và tinh thần quốc gia với quyền tự quyết của quốc gia hoàn toàn chỉ có trên lý thuyết tuyên truyền mà thực tế thì ngược lạịThoát khỏi nô lệ ngoại bang nhưng đưa đất nước vào một tình trạng nô lệ thảm khốc hơn,hệ thống chặt chẽ hơn,xã hội bất công hơn như vậy có đáng được ca tụng không ông Chung Ngọc ?

Ông bảo: "Trung hoa và Việt Nam đang trên con đường trở về với những truyền thống dân tộc ..." Ðiều nầy có thể đúng với Trung hoa còn Việt Nam thì không. Ông đã nói dưới thời Việt Nam Cộng hòa những ảnh hưởng đời sống văn minh vật chất ngoại lai chỉ tác dụng ở những vùng thành thị với những giai cấp giàu có nhưng đại đa số dân nông thôn vẫn giữ được dân tộc tính. Ông Chung Ngọc nên chịu khó nhìn lại tình trạng thành thị và nông thôn Việt Nam hiện nay ra sao? Sau bao nhiêu năm bị siết bao tử bằng chính sách hộ khẩu, tem phiếu, hợp tác xã đã đưa đất nước đến chỗ kiệt quệ. Ðây là chính sách của Cộng sản không bao giờ cho dân no vì dân đói cùng với sự kềm kẹp của bộ máy công an tạo nên sự sợ hãi trong dân chúng sẽ bảo đảm cho chế độ dài lâu. Ðến bây giờ qua chính sách đổi mới Cộng sản mới nới lỏng các sự kiểm soát về kinh tế -(nhưng chính trị thì vẫn bóp nghẹt với các biện pháp tinh vi hơn) - để người dân dễ thở hơn trước,đời sống có cải thiện hơn.Thế là sau bao nhiêu năm đói khó,sợ hãi bây giờ được nới lỏng- đúng theo các phản ứng có điều kiện-người dân Việt Nam bây giờ sống chỉ biết có tiền, đua đòi vật chất, bỏ hết các truyền thống nhân nghĩa, lễ nghi của dân tộc. Chính quyền thì quan chức tham nhũng từ trên xuống dưới, người có điều kiện thì mánh mung, cướp giật,ăn chơi phè phỡn. Trẻ con thất học lang thang làm đủ các nghề lặt vặt, ăn xin đầy đường. Phụ nữ thì làm các nghề bán phấn buôn hương, gả bán ra nước ngoài làm nô lệ tình dục, làm điếm. Trước đây lấy chồng nước ngoài là một điều sỉ nhục cho gia đình, bây giờ lấy chồng nước ngoài là một điều vinh hạnh. Ðạo đức suy đồi, con cháu đào mồ mả tổ tiên, ăn cắp vàng bạc, các cổ vật quí giá của dân tộc bị đánh cắp đem bán. Chính quyền Cộng sản ký hiệp ước dâng đất đai,vùng biển cho Trung quốc không kể gì đến công ơn bao đời tiền nhân bỏ hết bao nhiêu máu xương để giữ gìn. Ông Ngọc về Việt Nam không hiểu ông có đến nhìn Ải Nam Quan bây giờ thụt sâu vào đất Trung quốc. Có đến thăm các vùng nông thôn hẻo lánh, là "lòng nôi của Cách Mạng" bây giờ vẫn nghèo đói, xác xơ không? Ông chỉ đi xem các lễ hội tổ chức để câu tiền du khách, các khách sạn, nhà hàng, tụ điểm ca nhạc ăn chơi thì làm sao nhìn thấy được bộ mặt thật của xã hội Việt Nam hiện nay.

Ông Ngọc so sánh các quốc gia ông gọi là độc tài như: "Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, một số nước ở Châu Mỹ La Tinh, Phi luật Tân, Nam Hàn, Ðài Loan ... Không có một quốc gia nào trong những quốc gia trên chịu nạn chiến tranh như Việt Nam,không có một quốc gia nào người dân có tâm thù hận Quốc Cộng do ngoại bang gây nên." Ông đã dẫn chứng và lý luận sai lạc về các quốc gia kể trên may mắn không có chiến tranh Quốc Cộng vì chính quyền dù độc tài nhưng không phải là chế độ Cộng sản, do đó nên chuyển từ độc tài sang dân chủ một cách êm thắm nhờ sự đấu tranh của các phong trào dân chủ trong nước. Ông dẫn chứng cả Nam Hàn vào số những Quốc gia nầy tại sao ông không so sánh với Bắc Hàn cùng thời gian như Nam Hàn, tại sao Bắc Hàn còn nghèo đói, còn lạc hậu- Có phải vì Bắc Hàn còn nằm trong tay cai trị của Ðảng Cộng Sản không, thưa Ông ?

Ông đã nói y như quan điểm của những người Cộng sản đã nói về sự ổn định xã hội; Cộng sản đã viện cớ cần có sự ổn định xã hội để đàn áp các phong trào dân chủ trong nước, thế thì ngày nào còn có sự đàn áp những tiếng nói của trí thức, nhân sĩ, lãnh đạo các tôn giáo thì ngày ấy đất nước không thể có tự do dân chủ thật sự. Ông cũng dẫn chứng lời của Dương Thu Hương: "Vấn đề tự do dân chủ cần phải có thời gian không thể đốt cháy giai đoạn được" để phụ họa cho mưu đồ kéo dài nền độc tài toàn trị của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Cần phải có thời gian là bao nhiêu năm hả Ông Ngọc ? Trong khi đất nước thống nhất gần 30 năm rồi mà Dân chủ và Tự do cũng chỉ là bánh vẽ, chỉ nằm trên khẩu hiệu mà thôi. Kiểu nầy chắc còn phải chờ thêm 30 năm nữa hoặc hơn để Cộng sản ban ân huệ cho nhân dân Việt Nam được hưởng dân chủ từ từ, nhỏ giọt và những kẻ như TRẦN CHUNG NGỌC cũng sẽ tung hô sự sáng suốt, ân sủng của Ðảng đã ban cho nhân dân. Ông Ngọc nên xem bài viết của Hà Sĩ Phu trả lời nhóm Thông luận mới đây để hiểu thêm về Cộng Sản Việt Nam.

Tôi đồng ý Ông Ngọc ở điểm không thể dựa vào bất cứ ngoại bang nào trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của đất nước và giá trị văn hóa Ðông phương vẫn là những giá trị lâu đời, bền vững không thể bị khuất phục trước các quan niệm và trào lưu phương Tây. Thế nhưng những quan niệm về dân chủ, nhân quyền nó không ở trên bình diện văn hóa mà là trên bình diện chính trị, xã hội thì dù nó không có giá trị tuyệt đối với Ðông phương thì nó cũng đã có giá trị tích cực tương đối riêng của nó. Có điều là phần tích cực tương đối nầy hiện nay không có được trong xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của Ðảng Cộng sản mà thôị Tôi cũng hiểu là không thể rập khuôn cách thức tổ chức xã hội chính quyền,luật pháp Tây phương vào xã hội Việt Nam; nhưng những nguyên tắc căn bản như các quyền tự do-là quyền công dân - phải được tôn trọng trong khuôn khổ truyền thống văn hóa, xã hội Việt Nam. Ví dụ không thể áp dụng các kiểu tự do quá trớn như Mỹ trong tình dục, quan hệ gia đình, sở hữu vũ khí, báo chí, ti vi khai thác bừa bãi các hình ảnh vô luân, bới móc đời tư cá nhân,làm lộ bí mật quốc gia ... vào xã hội và luật pháp Việt Nam. Những người Việt tha hương có một sứ mệnh là học hỏi những cái tốt của xứ người, tinh lọc để sau này đem về xây dựng đất nước chứ không phải là rập khuôn cách sống, cách nghĩ, cách tổ chức của xã hội người.

Gần cuối bài Ông Chung Ngọc nói là Việt Nam đang đi trở về với cội nguồn dân tộc. Ông dẫn chứng Ông Lý Quang Diệu với Khổng Giáo. Thưa ông một điều là Lý Quang Diệu không phải là một người Cộng sản nước và Singapre không phải là một nước Cộng sản. Cho đến tận lúc nầy các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn nhai đi nhai lại mớ tư tưởng vay mượn gọi là tư tưởng Hồ chí Minh trong các nghị quyết mới ban hành. Ông lại xem các khẩu hiệu mà Cộng sản rêu rao làm thật thì quả là chính ông mới bị cận thị nặng. Ở Việt Nam hiện nay không phải là tiên học lễ hậu học văn đâu thưa ông mà là tiên học phí, hậu học văn đấỵ Những lễ hội ông kể chỉ là mặt nổi, mặt tuyên truyền và kinh doanh chứ thực chất không phát xuất từ nhu cầu về nguồn như ông tưởng đâu . Ông vẫn nhai đi nhai lại cái luận cứ của Cộng sản là: "đã kiên cường chiến đấu để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam." Ðộc lập và thống nhất có nghĩa lý gì khi hàng triệu người dân hai miền Nam Bắc bỏ xác trên khắp các nẻo đường quê hương, nơi những vùng biển trên bước đường đi tìm tự do - những người đi tìm tự do chắc không có ông Chung Ngọc vì ông ,tôi không biết đi theo hình thức nào, khi nào- có thể ra đi mang các chỉ thị trong ngườị Ðộc lập và thống nhất có nghĩa lý gì khi nhân dân còn lầm than khốn khó. Không thể đem vài năm đổi mới ngoài da để che lấp đi hàng 50 năm máu xương và nước mắt của nhân dân hai miền đã đổ xuống.

Cuối cùng, mặc dù ở phần cuối bài Nhân quyền của ai và cho ai tôi có vài điểm đồng ý với ông về Kitô giáo. Tuy nhiên, về phần những quan niệm của ông về Cộng sản có nhiều thiên lệch, ông ca tụng bài của Hòa thượng Quảng Liên. Thú thật HT.Quảng Liên với tâm từ bi của một vị tu hành và ông ta nhìn chính quyền Cộng sản với cái nhận thức, mắt kính của riêng mình khi viết: "Cộng sản ngày nay không phải là Cộng sản trước năm 75, qua quá trình lèo lái con thuyền chính trị Việt Nam, chính quyền đã và đang nhận thức chuyển mình theo thời gian, thời gian là vàng ngọc. Cuối cùng nhận thấy ai cũng là người yêu nước, yêu dân tộc bằng cách nầy hay cách khác. Khác tư tưởng quan niệm không thành vấn đề mà quan trọng là vấn đề đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh."

Ðoạn văn trên rất hay, lý tưởng nhưng rất tiếc chỉ là những điều "mơ ước " của Hòa Thượng Quảng Liên chứ không phải nằm trong văn kiện, quan niệm thật sự của giới lãnh đạo Cộng sản. Hòa thượng bảo khác quan niệm không thành vấn đề, tại sao các vị Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Trần Ðộ ... đóng góp ý kiến xây dựng nhà nước, xây dựng Ðảng thì lại bị trù dập, áp bức. Phong trào nhân dân chống tham nhũng lại bị bắt bớ, đàn áp. Cộng sản ngày nay không phải như trước năm 75. Tại sao quý vị lại không thấy Cộng sản đến năm 90, 2000 vẫn còn áp bức? Cộng sản hôm nay có khác, khác ở chỗ không phải tốt đẹp hơn lên, tự do dân chủ hơn mà là thâm độc, tinh vi hơn và tham nhũng hơn cũng như giàu có hơn.

Vấn đề đoàn kết ta nên hiểu là đoàn kết theo quan điểm của Cộng sản là phải tuân theo sự chỉ đạo của Cộng sản có nghĩa là anh phải bỏ đi cái khác biệt của anh để hoàn toàn hòa nhập vào tôi - chứ không phải là loại đoàn kết mà hai bên cùng tôn trọng bình đẳng, hơp tác lẫn nhau đâụ

Kết luận Hòa thượng Quảng Liên nói rõ: "Kẻ thù của chúng ta không phải là Ðảng và nhà nước Xã hội chủ nghĩa mà là nhóm người có tổ chức quốc tế hướng ngoại, âm mưu lật đổ chính quyền và cũng âm mưu giết hại chúng ta nếu có cơ hội". Lời Hòa thượng Quảng Liên đúng là phát ngôn viên của chính quyền Cộng sản, thêm nữa chụp mũ cho các hoạt động nhằm thay đổi chế độ Cộng sản ở bên trong nước là "có tổ chức quốc tế hướng ngoại". Nếu mai nầy nhân dân Việt Nam có nhất tề nổi dậy như Ba Lan, Nam Tư ... chắc Hòa thượng Quảng Liên cũng sẽ -giống như Cộng sản sẽ nói - là do ngoại quốc giựt dây, là tay sai của ngoại bang. Ðồng thời Hòa thượng còn thòng thêm một câu ám chỉ để phá vỡ sự đoàn kết của các Tôn giáo ở Việt Nam. Xin nhớ cho rằng không phải tất cả những người Phật Giáo đều tốt cả, đều có tinh thần dân tộc và đạo pháp cả và không phải tất cả những người Thiên chúa giáo đều vọng ngoại, đều là lính của La Mã cả.

Ông CHUNG NGỌC nhắc lại Hòa thượng Quảng Liên là một trong những vi lãnh đạo Giáo hội Phật Giáo Thống nhất tại Việt Nam trước và sau năm 75 cũng chẳng nói lên được điều gì vì không thể chứng minh là trước năm 75 và sau năm 75 Ông vẫn là Ông, không thay đổi chính kiến. Không thể chứng minh là trước năm 75 ông chống Cộng mà bây giờ ông không chống Cộng hay ngược lại. Chỉ xin nhìn vào những lời lẽ của ông để đánh giá, ông cũng chỉ là cò mồi của chính quyền Cộng sản không hơn không kém.

Ông CHUNG NGỌC bênh vực, tán đồng Hòa thượng Quảng Liên bởi vì Ông cũng chỉ - tự nguyện có ý thức - làm một thứ mẹ mìn cho chính quyền Cộng sản Việt Nam mà thôi .

Trí Đức

Bản Lên Tiếng về Báo Người Việt

Ngày 15-5-2008

Kính gửi quý Cộng Đồng, Chính Đảng, Ðoàn Thể, và Cá nhân ký tên trong bản Lên Tiếng phản đối báo Người Việt nhục mạ lá cờ Quốc gia;

Thưa quý vị,

Tính tới nay, Bản Lên Tiếng phản đối báo Người Việt đã có 171 đoàn thể và trên 266 cá nhân trên toàn cầu ký tên đồng ý. Chúng tôi cũng đã nhận được danh sách mấy trăm người nữa, và hiện đang kiểm lại trước khi cập nhật. Sự thành công hiếm có này là do nỗ lực của tất cả chúng ta, đáp ứng một thách đố vô cùng nghiêm trọng. Một lần nữa xin đa tạ qúy vị.

Việc sỉ mạ lá cờ vàng ba sọc đỏ biểu tượng cho các cộng đồng Việt Nam hải ngoại bởi một người hay một nhóm người tuy là điều phải nghiêm khắc lên án, nhưng tự nó không phải là điều khiến các hội đoàn và đồng bào tiếp tục ký tên ủng hộ. Thực vậy, nếu chỉ là một sai sót cá nhân hay phe nhóm thì một giải thích và một lời xin lỗi nghiêm túc cũng đủ để chuyện êm dần. Nhưng trên thực tế sự việc vẫn còn được bàn tán tại các địa phương trên khắp các cộng đồng hải ngoại. Tại sao?

Trước hết vì những "sai sót" tương tự, cộng với cung cách đưa tin và bình luận trên báo Người Việt, trong một quá trình lâu dài, đã tạo một dấu hỏi khiến đồng hương phải quan ngại về bản chất của tờ báọ Hai tấm hình chủ công ty Người Việt Đỗ Ngọc Yến hội họp với các lãnh đạo CSVN từ gần chục năm nay đã làm cho những người quan tâm phải thốt lên "Thì ra thế". Chính vì vậy, khi đồng hương dần dần biết rõ sự việc họ mới có thái độ mà tham gia ủng hộ.

Vấn đề báo Người Việt do đó không phải là một hiện tượng riêng lẻ mà là một biểu lộ cùng tính chất với vụ Madison Nguyễn ở San Jose, vụ báo Việt Weekly, và vụ chủ trương để cờ đỏ song song với cờ vàng, hay không mang cờ nào mà chỉ mang bản đồ Việt Nam sơn màu đỏ, hay vụ ca tụng Bùi Tín, Hoàng Minh Chính ... là những người yêu nước có công lớn với nhân dân Việt Nam, vân vân… Vắn tắt, đó là những nỗ lực để một mặt làm yếu tập thể người Việt Quốc gia, một mặt giúp CSVN len lấn vào các cộng đồng hải ngoại, nhằm bình thường hoá sự có mặt của chế độ Cộng Sản Việt Nam tại hải ngoại, một mặt giúp cho Việt Cộng biến thái có một hình thức coi được. Trước các mưu đồ này, hải ngoại đã bầy tỏ lập trường của mình, từ những góc độ khác nhau, và bằng những cung cách khác nhau.

Cũng bởi đó, ngoài sự tiếp tục ký tên hưởng ứng Bản Lên Tiếng, một số các hội đoàn và cá nhân đã kêu gọi làm việc này việc nọ, phản ảnh tinh thần "muốn làm một cái gì". Mong rằng sẽ có những biện pháp tích cực và cụ thể, để duy trì được hiệu quả trận thế chống Cộng sản biến tháị Ðặc biệt là các đồng hương biểu tình trước báo Người Việt sẽ vẫn kiên trì bày tỏ thái độ, và chuyển cuộc tranh đấu sang một mức độ cao hơn, nhất là sau khi bản chất báo Người Việt được nhận ra, nhờ vào hai yếu tố: thứ nhất là 2 tấm hình chụp Đỗ Ngọc Yến với cán bộ cao cấp cộng sản; và thứ hai là sự cố gắng của báo này ứng phó với các biện pháp ngăn chặn nỗ lực len lấn của CSVN, để giúp chúng thi hành kế hoạch lũng đoạn cộng đồng trong tinh thần nghị quyết 36 của bộ chính trị CSVN.

Vì thế chúng tôi mong rằng trong tương lai sắp tới sẽ có những hình thái đấu tranh khác nữa trong cộng đồng Việt Nam, nhằm củng cố lập trường quốc gia dân tộc của hải ngoại, hoàn chỉnh trận thế chống CS biến thái len lấn vào các cộng đồng tỵ nạn của ta, đánh sập toan tính xoá bỏ biểu tượng hải ngoại là lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Chúng tôi cũng hy vọng rằng đồng bào sẽ tiếp tục cảnh giác và sáng suốt nhận định về trận đấu vô cùng phức tạp hiện nay, trong đó cộng sản và tay sai sử dụng những sảo thuật tuyên truyền quỷ biện, tinh vi, núp dưới những danh nghiã tốt đẹp của người Quốc gia, để trà trộn và làm ung thối các cộng đồng hải ngoại của ta, mở đường cho ngụy quyền Việt cộng khống chế tập thể người Việt Quốc gia hải ngoạị

Trân trọng,

Nhóm đề xướng Bản Lên Tiếng
phản đối báo Người Việt Nhục Mạ Lá Cờ Quốc Gia


Email: baovetudo@gmail.com

Một vài nhận xét về các khuynh hướng chống cộng hiện nay

Trần Thanh

Trong vấn đề chống cộng hiện nay có rất nhiều khuynh hướng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Bên cạnh những khuynh hướng lớn là những thái độ chống cộng cũng rất nhiều màu sắc. Tất nhiên trong tình trạng vàng thau lẫn lộn, chúng ta cần tỉnh táo, sáng suốt, phân biệt đâu là thật, đâu là giả để từ đó rút ra một phương châm hành động đúng đắn, thích hợp nhất cho hoàn cảnh.

  • Khuynh hướng 1:
    Bất cứ nhà dân chủ nào xuất hiện ở trong nước đều là dân chủ cuội, do cộng sản giật giây hoặc do bọn cơ hội chủ nghĩa làm đạo diễn.
Nhận xét 1:

Bọn việt gian cộng sản hiện nay đã yếu đi rất nhiều so với thời kỳ của tên hung thần Lê Duẩn. Ngày nay, trong các cuộc biểu tình, người dân đã dám xô xát với bọn công an. Có trường hợp công an bị ném đá, phải ôm đầu máu bỏ chạy, xe của công an bị người dân đốt! Trong thời điểm này, chúng ta có thể tin tưởng có một số người đang thật sự đấu tranh cho tự do và họ là những nhà dân chủ chân chính. Những người này thường bị việt cộng đối xử rất nặng tay và bị bỏ tù. Nếu chúng ta quá đa nghi thì không làm được việc gì hết, bởi vì đấu tranh là công việc chung, cần sự góp sức của rất nhiều người trong và ngoài nước.

  • Khuynh hướng 2:
    Bất cứ nhà dân chủ nào ở trong nước cũng đáng hoan nghênh, miễn là họ dám chửi cộng sản, dám đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền. Chúng ta ở hải ngoại phải có bổn phận yểm trợ những nhà dân chủ này hết mình, không cần biết quá khứ của họ là gì, đảng viên cộng sản hay không phải là đảng viên cộng sản.
Nhận xét 2:

Ngược với khuynh hướng 1, khuynh hướng 2 lại tỏ ra quá dễ dãi. Thái cực nào cũng có hại. Việt cộng nó thừa sức "chế tạo" ra hàng ngàn những "nhà dân chủ" như một xưởng đồ chơi sản xuất ra các búp bê. Thậm chí hiện nay bọn chúng đang chuẩn bị sẵn một số những "nhà dân chủ" đang .... "bị" ở tù Chí Hòa, Hỏa Lò đàng hoàng, có lý lịch đấu tranh rất lừng lẫy, chỉ chờ khi có thời cơ thuận lợi là chúng tung những âm binh này ra hoạt động! Khi thấy thời cơ thuận lợi, bọn chúng sẽ cho trình làng những "nhà dân chủ" này và yêu cầu những hội đấu tranh cho nhân quyền của người Việt quốc gia tại hải ngoại đi vận động chính quyền Mỹ và thế giới can thiệp để đòi trả tự do cho những "NHÀ DÂN CHỦ HEO MỌI"*. Rồi một ngày nào đó, chúng ta lại thấy những con heo mọi này ung dung được bảo lãnh sang Mỹ, đi khắp nơi diễn thuyết, "dạy" cho cộng đồng người Việt thế nào là "yêu thương", thế nào là "bao dung, nhân ái", thế nào là "anh em một nhà", và nên xóa bỏ hận thù!!!

Sở dĩ hiện nay xưởng chế tạo đồ chơi Hà Nội chỉ chế tạo ra một số ít CON HEO MỌI bởi vì đường binh xập xám này không ăn khách. Sự chống đối, tẩy chay của đồng bào ở hải ngoại vẫn còn mạnh. Những trò lưu manh, lường gạt của bọn chúng đã bị một số người vạch mặt, tố cáo. Đây cũng là điều may mắn cho chúng ta vì chúng ta còn có tự do truyền thông. Do đó, bọn việt gian cộng sản chỉ sản xuất cầm chừng và bỏ hàng vào nhà kho "Chí Hòa, Hỏa Lò", và lo đóng dấu trước cái nhãn hiệu "Ở TÙ CỘNG SẢN", còn cái nhãn hiệu "NHÀ DÂN CHỦ" thì chờ chính CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI HẢI NGOẠI ĐÓNG DẤU CHỨNG NHẬN CHO BỌN CHÚNG. Khi đã lấy được con dấu "chứng nhận" của cộng đồng người Việt hải ngoại rồi thì bước tiếp theo là xin con dấu của chính quyền Mỹ và của quốc tế. Đây là việc làm dễ dàng vì "cấp trên" có biết cóc khô gì, cứ chiếu y "cấp dưới" mà xác nhận!!! Thế rồi một ngày nào đó những CON HEO MỌI này hiên ngang kêu gọi chúng ta "hòa hợp hòa giải" với việt cộng. Nếu gặp sự chống đối thì bọn chúng sẽ rêu rao lên rằng: - Chúng tôi đã được CHÍNH QUÝ VỊ và cả thế giới xác nhận là "nhà dân chủ". Chúng tôi đang THAY MẶT CHO QUÝ VỊ, ĐẤU TRANH GIÙM QUÝ VỊ!!! Tại sao lại đánh phá những "nhà dân chủ"!!!???

Lúc đó chúng ta chỉ còn có nước cứng họng. Còn những những nhà đấu tranh "BLOW-JOB, HAND-JOB"* (thổi ống đu đủ và đóng dấu) lúc đó sẽ bỏ trốn mất biệt, lặn sâu 20 ngàn dặm dưới đáy biển!!!

Không phải chỉ có những người đang sống trong nước, dám chửi cộng sản mới xứng đáng được gọi là "nhà dân chủ", còn những người đang sống ở hải ngoại mà chửi cộng sản thì bị coi là "đánh võ mồm". Thực tế, nhiều người đang sống tại hải ngoại, trước khi được tự do, họ đã có một quá trình đấu tranh chống cộng, trước và sau năm 1975, NGAY Ở TRONG NƯỚC và đã bị việt cộng giam cầm, hành hạ rất dã man, nhiều người đã hy sinh. Khi ra hải ngoại họ vẫn tiếp tục hy sinh cuộc sống riêng tư của họ để đấu tranh cho tự do. Chúng ta phải có tầm nhìn và sự đánh giá cho công bằng.

  • Khuynh hướng 3:
    Cứ lên tiếng ủng hộ những nhà dân chủ đang hoạt động ở trong nước, không cần phải xem xét hay thận trọng gì hết. Nếu lỡ ủng hộ nhầm những nhà dân chủ cuội thì có sao đâu? Mình đang sống ở hải ngoại có bị thiệt hại gì đâu? Còn nếu ủng hộ đúng thì mình được cái tiếng là những người đấu tranh cho nhân quyền!
Nhận xét 3:

Khuynh hướng này là khuynh hướng rất vô lương tâm, vô trách nhiệm, ích kỷ và là khuynh hướng giết người. Nếu ủng hộ lầm thằng tướng cướp thì có sao đâu? Đúng như vậy, đối với những việt kiều đang sống ở nước ngoài thì không bị ảnh hưởng. Nhưng còn đối với những đồng bào ở trong nước? Hàng triệu người sẽ khốn đốn vì trao duyên lầm tướng cướp! Chẳng hạn như thằng Hồ Chí Minh, hồi năm 1945, nhiều người lầm tưởng nó là nhà "ái quốc". Hậu quả là, tính cho đến nay, năm 2008, khoảng MƯỜI TRIỆU NGƯỜI ĐÃ BỊ CHẾT OAN UỔNG vì sự ủng hộ LẦM đó!!!

    Nằm mơ tưởng chỉ cởi trần
    Gió lay tờ báo nhớ quần chưa khô
    Đời tàn bèo dạt sóng xô
    Chỉ vì người LỠ hoan hô LẦM người!* (3)

Chỉ vì hoan hô LẦM cái thằng tướng cướp Hồ Chí Minh mà nhiều người ngày nay đã không còn một cái quần xà lỏn để mặc, như bốn câu thơ trên mô tả!

Khuynh hướng 3 này là khuynh hướng của những kẻ cơ hội chủ nghĩa, trây máu ăn phần, hay gọi nôm na là những nhà CHÍNH TRỊ ỐNG ĐU ĐỦ. "Đồ nghề" hành sự của mấy kẻ này là một cái ống thổi đu đủ và một con dấu bằng đồng có khắc dòng chữ "Cầu chứng tại tòa. Chính cống bà lang trọc", miệng thì thổi, tay thì đóng dấu lịa lịa, không cần biết đó là đồ dỏm hay đồ thiệt. Người Mỹ gọi những công việc này là "BLOW JOB" và "HAND JOB"!!!*

Nếu ủng hộ sai thì không bị thiệt hại gì, (cho những kẻ đó!) còn nếu ủng hộ đúng thì sau này những tên cơ hội này sẽ lên tiếng kể công! Vận mạng của hàng triệu người dân đâu phải là trò đùa mà chúng ta có thể đem ra để giải trí như chơi môn cờ bạc tài xỉu hay xóc đĩa!

  • Khuynh hướng 4:
    Chúng ta phải đấu tranh đòi đa nguyên, đa đảng, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đòi có một cuộc trưng cầu dân ý có quốc tế giám sát, đòi sửa lại hiến pháp, đòi bầu cử quốc hội có quốc tế giám sát, đòi có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tôn giáo, đòi phải có một nền giáo dục nhân bản, đòi phải tách đảng ra khỏi chính quyền, đòi phải được thành lập hội chống tham nhũng, đòi phải thả hết các tù chính trị ..v..v.. Đây là những mục tiêu đấu tranh rất quan trọng mà chúng ta phải dốc hết công sức để đòi cho bằng được!
Nhận xét 4:

Đây là những mục tiêu đấu tranh rất tản mạn, không đánh trúng tử huyệt của bọn việt gian cộng sản. Chúng nó sẽ không chết mà chúng ta sẽ dần dà bị kiệt sức và thua cuộc.

Có một câu chuyện thần tiên kể lại rằng: một đôi vợ chồng nghèo, đói meo, ngồi ôm nhau trong một cái chòi lá trong rừng, khóc lóc thảm thiết. Vừa lúc ấy thì bỗng có một bà tiên hiện ra nói: - Các ngươi chớ có buồn, ta sẽ ban cho các ngươi BA ĐIỀU ƯỚC. Nói xong thì bà tiên biến mất. Bà vợ nghe bà tiên nói vậy, mừng quá, và ngay lập tức, bà buột miệng ra nói: - Mình ơi, em thèm ăn dồi chó quá! Phải chi có một đĩa dồi chó nướng thì tụi mình ăn sướng biết chừng nào! Vừa nói xong thì bà ta thấy có ngay một đĩa dồi chó nóng hổi, thơm phức hiện ra trước mắt. Ông chồng thấy vậy thì nổi giận đùng đùng, mắng bà vợ: - Đò ngu như bò. Mày đã phí phạm hết một điều ước! Tại sao mày không ước có vài tỷ đô la như mấy thằng trong bộ chính trị thì muốn ăn, muốn xài bao nhiêu mà không được? Đồng thời, vẫn chưa hết giận, ông ta xài luôn điều ước thứ hai: - Ước gì mấy khúc dồi chó dính luôn vào khuôn mặt của mày cho bõ ghét cái tội ngu! Thế là, ngay lập tức, mấy khúc dồi chó thi nhau dính chặt vào cái mặt của bà vợ, làm cho bà ta trông giống như một con quái vật! Kết thúc câu chuyện như thế nào? Ông chồng vì thương vợ, đành phải dùng nốt điều ước thứ ba để xin những khúc dồi chó đừng dính vào mặt bà vợ nữa! Kết cuộc, vì ngu ngốc mà đôi vợ chồng nghèo đã xài hết ba điều ước rất quý báu để chỉ ăn được một đĩa dồi chó!

Mục tiêu đấu tranh của chúng ta là đòi TỰ DO. Chỉ hai chữ "TỰ DO" thôi là đủ, không cần phải nói dài dòng "đòi dân chủ, nhân quyền, nhân sinh hay nhân bản, đa nguyên hay đa đảng ..v..v.."

Có tự do là chúng ta sẽ có tất cả. Khi đòi TỰ DO, chúng ta phải hiểu rằng nó có nghĩa là PHẢI XÓA SẠCH, ĐẠP ĐỔ BẠO QUYỀN, XÓA HẾT CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN, XÓA BỎ ĐẢNG VIỆT GIAN CỘNG SẢN VÀ LÀM LẠI TỪ ĐẦU.

Người dân sẽ bầu lại quốc hội. Bọn việt gian cộng sản là NHỮNG KẺ PHẢN QUỐC. Đã là những kẻ phản quốc thì đương nhiên BỊ MẤT QUYỀN CÔNG DÂN và bọn chúng không được quyền bầu cử và ứng cử trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như vậy là chúng ta triệt tận gốc những kẻ tội phạm, phản bội tổ quốc, không cho chúng có cơ hội ngóc đầu dậy.

Có một số người chủ trương rằng phải tổ chức bầu cử quốc hội hoặc trưng cầu dân ý, có mời quốc tế giám sát. Làm như vậy là ngu ngốc và tự sát. Bọn việt gian cộng sản với những phương tiện hùng mạnh sẵn có trong tay, chúng thừa sức gian lận để thắng cử. Thậm chí chúng không cần gian lận, đảng của chúng cũng thừa sức chiếm đa số ghế trong quốc hội.

Một chủ trương khác cho rằng, khi tổ chức bầu cử quốc hội có quốc tế giám sát, các đảng viên cộng sản cũng được quyền ứng cử và bỏ phiếu VÌ BỌN CHÚNG CŨNG LÀ CÔNG DÂN NƯỚC VIỆT NAM(!) Hơn nữa làm như vậy là để cho quốc tế thấy, những người quốc gia rất "rộng lượng" và công bằng, cho những kẻ phản quốc!

Chủ trương này rất sai lầm. Đã là việt gian phản quốc là đương nhiên bị mất quyền công dân. Nếu bọn chúng biết ăn năn, hối hận thì sẽ được khoan hồng nhưng dứt khoát là không được tham gia vào chính quyền. Hiện nay, nhiều tên việt gian cộng sản vẫn còn hy vọng, nếu bọn chúng bị toàn dân lật đổ thì sau này bọn chúng vẫn có thể trở lại nắm quyền thông qua việc ứng cử và bầu cử!

Không có chuyện đó đâu, chưa bị treo cổ như thằng tổng bí thư đảng cộng sản Rô Ma Ni, Xô Xét Ku là may rồi! Để rồi xem!

Việc đấu tranh, đánh vào những mục tiêu phụ cũng chẳng khác gì câu chuyện hai vợ chồng nghèo đã phung phí ba điều ước để được ăn dồi chó, rốt cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo! Huống chi chúng ta không hề có bà tiên nào giúp sức. Bà tiên, nếu có, chính là chúng ta phải tự cứu chúng ta trước. Giả sử bạn đang bị giam trong tù và bà tiên hiện ra cho bạn MỘT ĐIỀU ƯỚC thì bạn sẽ sử dụng điều ước đó như thế nào?

    1. Bạn ước chế độ việt gian cộng sản bị toàn dân đứng dậy quật đổ?
    2. Bạn ước bạn được bọn cai ngục việt cộng trả tự do cho bạn?
    3. Bạn ước bạn được ăn một bữa ăn thật ngon trong tù cho bõ những ngày bị nhịn đói?
    4. Hay bạn ước bạn được việt cộng nó phát cho một chai thuốc xức ghẻ và cho bạn đi ra ngoài sân phơi nắng?

Rõ ràng chúng ta thấy rằng những điều ước số 3 và 4 là ĐẤU TRANH ĐỂ ĐƯỢC SỐNG THOẢI MÁI HƠN TRONG NHÀ TÙ, hoặc như một con chim đòi "tự do" trong cái lồng chim!!! Gọi nôm na, đó là phương pháp "đấu tranh dồi chó"!!!

    Khuynh hướng 5:
    Những người đảng viên cộng sản dù có thật sự phản tỉnh cũng không đáng tin tưởng bởi vì trong quá khứ họ đã từng tham gia vào cái đảng cướp, cũng ví như một người đã trót đi làm đĩ thì suốt đời họ là nhơ nhớp, đáng khinh bỉ.

Nhận xét 5:

Đây không phải là chủ trương của những người quốc gia chân chính. Vấn đề ở đây không phải là đảng viên cộng sản. Vấn đề là quan niệm và hành động của người đó có đúng hay không, có thực sự DỨT KHOÁT từ bỏ quá khứ tội lỗi của mình và THỰC SỰï đấu tranh cho tự do cho đất nước hay không? Hay chỉ là những hành động CHỐNG ĐẢNG ĐỂ CỨU ĐẢNG?

Trước năm 1975, chúng ta thấy có nhà văn Xuân Vũ đã về hồi chánh với chính nghĩa quốc gia. Ông ta đã từng là tư lệnh phó mặt trận Củ Chi. Tôi không rõ cấp bậc của ông ta nhưng chắc chắn phải là từ cấp tá trở lên. Ông đã viết những quyển tiểu thuyết nổi tiếng như: - Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Củ Chi Đất Thép Thành Bùn ..v..v.. Ông ta dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ cho nên vẫn được những người quốc gia kính trọng.

Một số "nhà dân chủ" bị dư luận ở hải ngoại chống đối, phê phán vì họ là những kẻ phản tỉnh cuội khoác áo dân chủ. Họ KHÔNG DÁM DỨT KHOÁT TỪ BỎ QUÁ KHỨ của họ. Một là họ còn luyến tiếc những cái "hào quang" trong quá khứ; hai là, nếu hoàn toàn phủ nhận quá khứ thì có khác gì tự họ tát vào mặt họ mấy cái? Chính vì sự lưng chừng nửa dơi nửa chuột, không dứt khoát về tư tưởng cho nên họ đã bị dư luận lên án. Đừng có trách dư luận tại sao lại hẹp hòi, tại sao không cho những người đảng viên cộng sản một cơ hội để làm lại cuộc đời. Cơ hội luôn rộng mở như trường hợp điển hình của nhà văn Xuân Vũ. Cơ hội không bao giờ đến với những kẻ "dơi chuột" như Trần Độ, Trần Khuê, Nguyễn Khắc Toàn ..v..v..

Hỡi những người đã và đang phản tỉnh. Hãy thành thật với chính mình, người dân sẽ đón nhận các bạn!

Trong vấn đề đấu tranh, suy nghĩ đúng sẽ dẫn đến hành động đúng. Nếu đánh trúng tử huyệt của con ác quỷ thì nó sẽ chết nhanh chóng. Ngược lại, nếu đánh vào những nơi không nguy hiểm, nó sẽ còn sống hoài và phản công, chúng ta sẽ thua. GỌI ĐÚNG TÊN, NÊU ĐÚNG TỘI là điều chúng ta phải làm và có can đảm phải làm. Tụi nó là VIỆT GIAN CỘNG SẢN thì phải gọi đúng tên, đúng tội của bọn chúng. Tại sao lại sợ? Thậm chí nhiều tờ báo không dám gọi bọn chúng là "việt cộng" hay "cộng sản" mà chỉ dám gọi là "chính quyền Hà Nội"! Nếu có ai théc méc thì những người này lại viện lý do "lịch sự" ra để giải thích!

Không dám điểm mặt kẻ thù tức là biểu hiện của sự đầu hàng. Người đang sống ở hải ngoại, vừa cầm cây viết vừa run, sĩ khí rụt rè gà phải cáo, thì người trong nước còn mong chờ gì nơi chúng ta? Và trong lòng họ có "nể" những Việt kiều lũ lượt về thăm quê hương hay không hay họ rất oán hận và khinh bỉ???

Trần Thanh
Ngày 13 tháng 5 năm 2008

Chú thích:

1. Nhà dân chủ heo mọi:
Một con heo mọi ở trên rừng khi được buôn về thành phố, được các dân nhậu rất quý vì thịt của nó ngon, nó là sản phẩm thứ thiệt ở trong rừng. Bọn việt gian cộng sản đã áp dụng nguyên tắc buôn bán này nhưng lưu manh tráo trở: bọn chúng chế tạo ra những "nhà dân chủ heo mọi" rồi đem buôn ra nước ngoài, dưới những hình thức như :"xuất cảnh lậu", "đi chữa bệnh", "được quốc tế can thiệp", "trốn ở lại hải ngoại xin tỵ nạn chính trị" ..v..v.. Một số người nhẹ dạ ở hải ngoại tha hồ ngưỡng mộ những con heo mọi này vì nó là sản phẩm "thứ thiệt" ở trên "rừng" về! Những nhà chính trị "ống đu đủ" tha hồ làm "blow-job" và "hand-job"!!!

2. Blow-job, hand-job: Những chữ diễn tả sự tục t trong các phim sex.
3. Thơ Nguyễn Hữu Nhật

Thấy và Nghe Được Gì ở Saigon Ngày Nay

Phó Thương Dân

Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó - mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi , tai nghe tận chỗ - ghi lại môt cách trung thực.

Tôi thấy bộ mặt Saigòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫỵ Đổi mới với những nhà hàng “vĩ đại” trên các tuyến đường du lịch. Với những trung tâm “thư giãn” sang trọng, quý phái cỡ câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ, chương trình học của Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ - học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỹ - 600US$ đến 1000US$/tháng (giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con?).

Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử “đỏ”, các nhà giàu mới - thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để “thư giãn”, uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỹ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XO. Vụ MPU.18 cá độ hàng triệu US$ đã bị phanh phui ... là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi... "lắc" suốt đêm. Vài hôm sau - đâu cũng vào đó ...

Tôi cũng thấy Sàigòn - người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở - vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự - ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt ... nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắt tiền. Nhà trong hẻm - phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi xỉ vô duyên ..., lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường ...

Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiễm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 3.000.000 chiếc Honda - phun khói mịt mù - chưa kể đến xe hơi. Và hệ thống cống rãnh lạc hậu ... mỗi khi trời mưa lớn - nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu ... không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhung nhúc như kiến ... Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ ... hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể ... Máu kinh tế Việt Nam bị loãng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1000 đô la Mỹ chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt ... Thuốc lá và bia - bia nội, bia ngoại - có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Đảng viên, cán bộ - giai cấp thống trị - nhậu. Già nhậu, trẻ nhậu ... con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói ... Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị - đã lột xác - không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa - mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút - thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá. Các hãng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc cũng không giấu được nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh.

Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng "tiếm công vi tư" lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê. Chưa thảo mãn - ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậỵ Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu - nơi gặp gỡ của 2 đường Nguyễn Trãi và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ - thì rõ.

Còn nhiều... rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhản ở khắp Saigòn . Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao Đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao Đàn) - mặt tiền ngó vào trong - mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ ) - bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành

Mỹ kim - ngon ơ!

Tương tự như vậy - ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ... trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 - phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần Hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng ... Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ bây giờ là câu lạc bộ Lao động - nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao ... buôn bán ầm ĩ, náo nhiệt suốt ngày.

Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với aỉ Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn: "Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao?" (Nhật ký "Rồng rắn" của Trần Độ).

Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn - đã biến mất. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ - mũi và miệng bịt kín bằng "khẩu trang", găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay trên đường phố.

Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Ny long, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gỗ đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình).

Bộ mặt Sàigòn "đổi mới" bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng Uyển của vua chúa ngày xưa những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố - nhiều người chóa mắt choáng váng, cho là "Việt Nam bây giờ tiến bộ quá". Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ: Như vậy có phải là tiến bộ không? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt: Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt Nam - theo thống kê của báo The Economist - bằng: 555 US$ năm 2007 (Hà Nội bốc lên 730 US $) chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh.

So với các nước láng giềng: Thái Lan: 2550 US$ - Phi Luật Tân: 1040US$ - Nam Dương: 1160US$. Tân Gia Ba 24840US$. (The Economist World, năm 2007 - p.158,176,238) - Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy - nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn - vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? - thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngũ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê - giai cấp giàu có bây giờ là ai ? giai cấp địa chủ là ai ? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có??

HIỆN TƯỢNG NGƯỜI BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU TOÀN BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI QUAN TRỌNG Ở SAIGÒN - KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU Ở MIỀN NAM.

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng "đánh Tây, đuổi Mỹ" - cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàgòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn và các khu phố sầm uất nhứt vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản - từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong - cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75 - như các tiệm vàng Nguyễn Thế Tài, Nguyễn Thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn Văn Đắc, Phạm thị Trước hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cất lại nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán đồ nhập cảng v.v... cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN. (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ - dĩ nhiên - vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu - cũng đều là người Bắc - trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết - theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam - thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc.

Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới - từ Trung ương đến địa phương - từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xã gần - đều do đảng viên người miền Bắc XHCN - nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cỡ, những công Ty thương mãi sản xuất lớn - điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ.

Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấỵ Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu,chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản,cải tạo công thuơng nghiệp - nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức - tài sản những người thuộc diện tư sản - toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung,miền Nam - được đem đi đâu? - Không ai biết.

Thông thường - những của cải nầy phải được sung vào công quỹ - để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẽ. Thế nhưng - sự thật trước nhứt - là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai - Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông nhỏ - nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy - vì lo sợ cái gì đó - bèn đem "bán non" những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước . Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu - không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại - là những biện pháp vá víụ Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên, mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xã tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê. Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Saigòn với giá gần như cho không và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn.

Mang xe tăng T.54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là "giải phón" nhân dân miền Nam - nhưng sự thật khó chối cãi được - là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Saigòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau - để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi - những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc.(Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỹ là trường hợp điển hình). Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh - một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình - các ông tự gọi mình đi.

Đến thời "mở cửa" - cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương - đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá , xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỹ tiền tệ quốc tế - những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ điển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ - quê hương của Phạm Hùng - nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.

Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt - là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực - những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê - nhứt là miền Nam - ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn - đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.

Nhà văn - bác sĩ Hoàng Chính - gọi thời kỳ sau 75 là thời "Bắc thuộc":

- "Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh.

- Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán.

- Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy , có những bộ xương thôi tập khóc cười ..."

Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.

BỘ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực - người viết ghi những điều thấy và nghe - không bình luận - tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam - những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào?. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. "Cầu tre lắt lẻo", cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái Bè, Cái Răng) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ - chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn - còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy - dọc theo bờ sông Long Hồ - một số nhà gạch nhỏ mới cất xen kẽ những mái lá bạc màu. Vùng Trà Ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.

Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung - có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữạ Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai quằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương.

Dưới sông - từ kinh Vĩnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang - hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đỡ sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu bắc phía saụ Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế - cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổị Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá Basa, cá điêu hồng v.v.. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu - người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: "Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi !" Tôi hỏi thêm: “Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập các cô gái nầy không sợ sao ông? – “Biết hết - mấy cổ biết hế, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghè, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp maỵ". Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết.

Tờ Tuổi trẻ - số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi - trong bài: ”Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số phận của 65,000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: ”Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn Quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình”. Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: "Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỹ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gáị Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí - những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm".

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: “Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỹ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoảng chừng 18 đến 20 đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện - tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.

Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức “môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thá i Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục các cô gái làm điếm hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhản xảy ra hằng tuần - thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11 Sàigòn.

Cho dù chánh thức hay lậu hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhaụ Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn - ban ngày làm nô dịch ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gỡ vốn lại.

(Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng). Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm Biết bao nhiêu thảm cảnh biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loạị Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời!

Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ,ngược đãi, đánh đập nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt?

Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người - những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệụ Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn?

Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng. Đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên - cuộc sống vô vọng mịt mờ - có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) - những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy - khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chân. Nhưng động lực chánh là nghèo.

NGHÈO .......

Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - vựa lúa nuôi sống cả nước - sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy - nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam - thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37% . ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 % . ĐBSH: 9% . (Nhà x.b. Thống kê - Hànội ,trang 13 - LVB trích dẫn). Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) - mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) - ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH - bởi lẽ khi nghèo về lương thực - thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá.

Đó là cái nghèo mà anh Lâm Văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều - cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát khi trời mưa lúc ban đêm.không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc. Cái nghèo của một người đi mượn tiền , muợn gạỗ tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân.

Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. - Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chài lưới ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2007) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội - nghèo ! Đời cha nghèo ! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cộng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo - không đổi đời cho người nghèo thành giàu .Người nghèo vẫn tiếp tục nghèọ Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác - còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền trong khi dân số lại gia tăng quá tảị Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực Tiến sĩ Lê Đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết: “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi , nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được ?"

MIỀN NAM - 32 NĂM DƯỚI CHẾ ĐÔ C.S.

Kinh tế Việt Nam - trong đó có miền Nam - có chút tiến bộ - so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửạ Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt cầm lồng đèn đỏ. Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục (công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại - muốn phát triển công nghiệp - nhà cầm quyền địa phương - theo lệnh Đảng - mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược.. Lòng dân phẫn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không?

KẾT LUẬN

- 32 năm nhìn lại: Người ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sàigòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng”quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển ”Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ” đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.

- 32 năm nhìn lại: Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2003) - bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2005). Chỉ trong năm 2005 - có khoảng 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc (Theo UNI CEF - LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam).

- 32 năm nhìn lại: Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2002: “Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ Me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc - người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở đó.”

- 32 năm nhìn lại: Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam - khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc. Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước .Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu (Trích Người Việt Hải Ngoại - Nguyễn Văn Trấn).

Phó Thương Dân

Tuesday, May 13, 2008

Sách Lược Xâm Lăng Toàn Cầu Của Bắc Kinh

Trương Minh Hòa

Trong vấn đề tiêu xài, người làm ra đồng tiền bằng chính mồ hôi, nước mắt của mình thường hay đắn đo trước khi chi ra cho món đồ, dịch vụ cho cuộc sống cá nhân, gia đình ... trong khi đó những người làm tiền bằng những việc bất lương như lừa đảo, cướp giựt, buôn bán ma túy, tham nhũng ... thì thường hay tiêu xài phung phí, vun vít tiền chẳng tiếc tay. Ngày xưa vào thời Pháp thuộc, đồng bạc Đông Dương có giá trị cao, tuy nhiên nhân vật Công tử Bạc Liêu, sinh ra trong gia đình giàu có, cuộc sống nhung lụa, không biết cái giá trị làm ra đồng bạc phải đổ mồi hôi, xót con mắt như thế nào, coi tiền như rác, có tánh phô trương, dám dùng tờ giấy bạc "Bộ Lư" trị giá 20 đồng làm lửa đốt để giúp cho một ông bạn lỡ làm rớt tờ giấy bạc chỉ trị giá 5 đồng.

Sự chênh lệch giàu nghèo là điều đương nhiên trong bất cứ xã hội nào từ cổ chí kim; tuy nhiên mức độ nầy tại các quốc gia Cộng Sản càng ngày càng xa, do thiểu số cầm quyền bằng bạo lực, là bản chất của kẻ cướp luôn tìm mọi cách "róc xương, xẻ thịt, lột da, vắt tủy" người dân, đem bán cả tài nguyên, kể cả con người để thu tiền, cho nên tuyệt đại đa số dân chúng kiếm không đủ miếng cơm, phải bán máu, cầm cố bất cứ thứ gì để đổi điều chỉnh cuộc sống; còn cán bộ trong trung ương đảng thì không đủ thời giờ để đếm tiền, họ chi tiêu không tiếc tay, dám mua một thướt vuông đất tại Saigon với giá 5 ngàn Mỹ Kim, xây dựng "cơ ngơi" đầy đủ tiện nghi như ở các nước Tây phương với "bể bơi" hiện đại có cả máy sưởi bằng năng lượng mặt trời "không người lái", cho con cháu du học, xuất ngoại ở các khách sạn hạng sang, đánh bạc vui chơi thoải mái tại các sòng Casino quốc tế mà không ngại bị hết tiền.

Trong xã hội, có những người làm tiền nhờ tài năng kinh doanh, thời cơ bằng tâm trí, lương thiện, hợp với luật pháp; bọn bất lương làm giàu bằng nhiều cách: buôn bán ma túy, lừa đảo, trốn thuế, cướp giật nhất là những nhân vật quyền lực trong các chế độ độc tài, nhờ vơ vét mồ hôi, nước mắt của hàng triệu người dân mà trở nên triệu, tỷ phú. Bọn nầy tiêu pha tiền như giấy, đánh bạc, vui chơi, ăn nhậu hay rửa tiền tại các quốc gia khác, từng bị một số chính phủ phát giác, đưa ra tòa xét xử.Trong lãnh vực kinh doanh, tại các quốc gia dân chủ, tự do cạnh tranh, tài năng, thời cơ tạo ra những nhà tỷ phú lừng danh như Bill Gate với công ty Microsoft, việc làm ăn có nầy khi khác, tùy theo thị trường, tình hình, nên các phần hùn qua các cổ phần cũng không có gì bảo đảm bền vững mãi mãi, nên nhớ là đầu tư cũng giống như chơi một canh bạc vậy. Mỗi khi có khủng hoảng hay biến động kinh tế, chiến tranh, các công ty không tránh khỏi bị ảnh hưởng, giá cổ phiếu giảm, nên thường đưa đến sự khánh tận của một số công ty, bất kẻ là lớn hay nhỏ. Trong khi đó, các nước Cộng Sản theo chính sách kinh tế tập trung, tất cả tài sản, tiền bạc, con người đều nằm trong tay của một thiểu số đảng viên Cộng Sản; đó là những nhà tư bản đỏ, nên họ đầu tư trong nước qua hình thức các công ty quốc doanh, mang tiền kinh doanh, cạnh tranh với các nước khác bằng số tiền chùa vô tận, không sợ bị lổ lã, cứ tung tiền ra làm ăn như đánh bạc, có thắng thì tốt, giàu thêm, còn thua thì chẳng thiệt hại gì, nhân dân sẽ nay lưng ra cung cấp vốn, cứ thế mà phát huy. Do đó những "nhà tư bản đỏ" làm kinh doanh không cần phải học hành để có được một số kiến thức "cơ bản" về kinh tế, cũng không cần sự cố vấn, quản trị của các kinh tế gia có bằng tiến sĩ, giáo sư đại học như các công ty ngoại quốc; những người ít học cũng trở thành "kinh tế gia vĩ đại "nắm hàng chục tỷ Mỹ Kim trong tay, như thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với trình độ văn hóa thực sự chỉ tới lớp "đệ lục" bậc trung học đệ nhất cấp, là người đang nắm trong tay hệ thống "xí nghiệp quốc doanh" cả nước và các công ty xuất nhập cảng, có quan hệ với nhiều cường quốc Tây phương mà không bao giờ sợ bị hết tiền, dù các công ty quốc doanh trong nước thường bị lỗ.

    " Ai bị lỗ mà không hề khánh tận?
    Ai kinh doanh mà tiền chẳng hết bao giờ?
    Dậy mà đi, dậy mà đi,
    Bởi tiền chùa nhân dân ..."
Có thể nói từ nhiều thập niên qua, là các siêu cường Âu-Mỹ đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng do tánh thành thật, suy bụng ta ra bụng mình, nên lúc đầu không dè dặt; đặt mục tiêu chính trị ưu tiên trong chiến tranh lạnh để triệt hạ đế quốc Cộng Sản số một là Liên Sô, nên Hoa Kỳ dễ giải với Trung Cộng: vừa giúp đỡ phát triển khoa học kỷ thuật, kinh tế và dần dần tạo thế đứng của nước Cộng Sản nguy hiểm nầy trên trường quốc tế; tức là Hoa Kỳ tháo gở lá bùa trừ tà "cấm vận" được dán từ 1949 đến 1972 do công lao của ông tiến sĩ Henry Kissinger và nhất là thời tổng thống Bill Clinton, vì bị quỷ ám sau khi lọt bẫy của gián điệp Bắc kinh nên đã góp công nuôi cho con ác quỷ Trung Cộng được mập, phục hồi sức lực, gắng thêm nanh vuốt để nó làm hại cả thế giới sau nầy, trong đó có cả người từng giúp nó: vận động vào Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mà sau nầy nhận lãnh hậu quả khi bị Trung Cộng dùng quyền hạn thành viên thường trực để phủ quyết chống lại Hoa Kỳ trong những cuộc xung đột quốc tế như vụ chiến tranh Iraq, khủng hoảng nguyên tử Bắc Hàn, Iran ... Hoa Kỳ đã ban cấp qui chế tối huệ quốc vĩnh viễn, vận động cho vào WTO.

Trong lãnh vực giao thương, Thế Giới Tự Do đã và đang bị Trung Cộng và sau nầy có Cộng Sản Việt Nam dùng vốn chùa để cạnh tranh, trong khi các nước tự do, vốn tư nhân cạnh tranh có giới hạn, nên các công ty hay có chữ LTD (limited: công ty hữu hạn) kèm theo bản hiệu, thì làm sao có thể dám liều lỉnh xả láng như những người dùng vốn chùa làm ăn. Sự kiện Trung Cộng, Việt Nam dùng nhân công rẻ mạt trong ngành hải sản, bán cá, tôm sang với giá rẻ, bóp chết những nông trại nuôi cá, cơ sở chế biến, khiến cho các công ty ở Hoa Kỳ chới với; rồi chính phủ thức tỉnh, mới có biện pháp thuế khóa đánh vào các sản phẩm nhập cảng để cân bằng giá, cứu các công ty và nhân công tại nước mình, đúng là "gậy ông đập lưng ông"; vụ cá tôm một thời giao động dư luận, khi các" đại gia đỏ "biết khai thác hệ thống luật pháp tại các nước Tây Phương, dùng tiền chùa mướn luật sư, kiện ra tòa án, nhưng các nhà tư bản đỏ đã hoàn toàn bị thất bại trước công lý. Hàng may mặc, giày dép cũng bị các công ty quốc doanh Trung Cộng, Việt Cộng lợi dụng tình hình tự do cạnh tranh để thao túng trên các thị trường, các công ty xuất nhập cảng vì ham rẻ mà nhập sản phẩm, khiến nhiều công nhân ở các nước Tây Phương bị mất việc, cho nên các nước có những biện pháp nhằm đối phó với những nhà "tài phiệt quốc doanh Đỏ" với nguồn vốn vô tận theo kiểu" thua keo nầy, ta bầy keo khác", đó là cái nguy cơ trước mắt, có khả năng làm lũng đoạn dần dần nền kinh tế các nước tự do cạnh tranh và sau đó khống chế kinh tế toàn cầu. Tức là các nước Cộng Sản lợi dụng tính cạnh tranh tự do trên thị trường, khai thác mặt yếu của các công ty do tư nhân làm chủ là ham lời nhiều, rồi dùng vốn lớn để áp đảo, luồn lách qua khe hở của luật đầu tư mà xâm nhập, lũng đoạn dần dần theo kế hoạch tầm ăn dâu, là hình thức xâm lăng tinh vi, nhẹ nhàng nhưng vô cùng nguy hiểm. Các công ty tư nhân dù có nhiều vốn, cũng không dám liều, làm giảm trị giá cổ phần, dám giảm giá tối đa để cạnh tranh. Trong khi đó các công ty quốc doanh do nhà nước Trung Cộng, Việt Cộng, không ngại. Đó là hình thức cạnh tranh theo công thức "lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", gây nhiều thiệt hại cho các nước tự do, sau thời gian giao thương với các nước Cộng Sản.

Sau sự tan rả của khối Cộng Sản Quốc Tế từ năm 1991 với Liên Sô và toàn bộ khối Cộng Đảng Đông Âu, các nước tàn dư Cộng Sản lâm vào trạng huống" thoái trào cách mạng "lúc đầu, sau đó họ" điều nghiên rất kỹ "kẻ thù" tư bản phản động "để tìm cách tiêu diệt, là bản chất trường kỳ mai phục chờ thời cơ ra tay trong sách lược: "lùi một bước để chuẩn bị ba bước tiến"; sau Liên Sô, thì Trung Cộng sớm trở thành nước Cộng Sản lãnh đạo trong "khối tàn dư" tiếp tục cuộc Hậu Chiến Tranh Lạnh. Họ thừa biết thi đua vĩ trang, không gian với Hoa Kỳ và các nước Âu Châu là coi như "đem trứng chọi với đá", cái gương Liên Sô là bài học "cụ thể" để các đảng Cộng Sản tàn dư rút lấy kinh nghiệm, họ" tự phê, phê bình" để tìm ra mặt mạnh, mặt yếu để chuẩn bị tiến công bằng mũi tiến quân khác; đó là kế: "chỉ tang ma hòe" hay "thiết trụ khai hoa", nhằm đánh lạc hướng đối phương: bề ngoài thì có vẻ là Trung Cộng đang ráo riết thi đua võ trang theo kế của Lưu Bang thời Hán-Sở tranh hùng: "Minh tu sạn đạo ám độ Trân Thương" để che dấu mặt trận chánh với đại quân kinh tài đang luồn lách khắp nơi. Do đó, mặt trận "đặc công KINH TẾ" đi xung kích để dọn đường cho "đại đơn vị kinh tài" ở rộng mặt trận trên toàn cầu đã hoạt động từ lâu, nhất là tại các nước tư bản giàu mạnh, như kế: "cầm tặc cầm vương", được coi là mũi nhọn chiến lược, một mặt trận không có bất cứ tiếng súng, nhưng nguy hiểm khôn lường, như tầm ăn dâu, có khả năng đưa đến "bất chiến tự nhiên thành" nếu Trung Cộng thò bàn tay lông lá nắm hết các nguồn tài nguyên huyết mạch như quặng mỏ, các đại công ty của các nước Tây Phương bằng chính sự "ham lời" của các tay tài phiệt tư nhân và luật đầu tư, kinh doanh của kẻ thù mà khai triển một cách khéo léo, đó là mặt yếu của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Từ đó, Trung Cộng phát huy thanh thế qua các "nhà tư bản gốc đỏ" hay các đại công ty bị nhuộm đỏ do họ khống chế quyền quản trị với số cổ đông (share) áp đảo; nên có khả năng tạo ảnh hưởng, tác động vào chính quyền, ban hành những chính sách có lợi cho Trung Cộng hiện tượng nhiều nước Tây Phương ngậm bồ hòn làm ngọt khi nhìn thấy bạo quyền Bắc Kinh vi phạm nhân quyền trầm trọng mà không dám lên tiếng, hoặc có lên tiếng cũng nhẹ nhàng như "phủi bụi" để không làm phật lòng bạn hàng Bắc kinh và những công ty trong nước có phần hùn của người Hoa. Mặc dù được gia nhập vào tổ chức WTO, Trung Cộng cũng như Việt Cộng đều phải tuân thủ cam kết, hứa giải tư các công ty quốc doanh để có thể tham gia và thị trường quốc tế; nhưng câu: "đừng nghe những gì Cộng Sản nói" để đề cao cảnh giác. Các nước Cộng Sản xào trá khôn lường, nếu giải tư hết thì quyền lãnh đạo, cai trị bị đe dọa ngay, cho nên sang tên cho người của họ, hình thức là các công ty do tư nhân đứng tên, nhưng bên trong là đám tư bản đỏ làm chủ, cũng không thay đổi chút nào, mặt khác còn lừa được thế giới.

Sau thời kỳ khá dài với bình phong "đổi mới" mở cửa, hai nước Cộng Sản tàn dư nầy nhờ tư bản hà hơi tiếp sức trong lúc sắp chết, nay họ khôi phục sức lực nhờ thần dược "đô la" cứu chữa, qua hình thức cạnh tranh trên thương trường quốc tế, làm thiệt hại rất nhiều quyền lợi của các nước từng giúp họ đứng lên, nhân công bị mất việc làm, tạo tình trạng rối loạn xã hội, là những mục tiêu mà các nước Cộng Sản, dù hết thời cũng luôn đặt lên hàng chiến lược là "tiêu diệt các nước tư bản phản động" theo đúng giáo điều của Karl Marx. Đối với người Cộng Sản, dù đối xử với họ tử tế, cho ăn ngập mặt như các gia đình địa chủ, nhà giàu thời đánh Tây; các bà mẹ chiến sĩ thời đánh Mỹ...Cộng Sản luôn coi là kẻ thù, có cơ hội là ra tay triệt hạ ngay, hay nói đúng hơn là "NGƯỜI CỘNG SẢN KHÔNG CÓ TÌNH CẢM, ÂN NGHĨA... MÀ CHỈ CÓ QUYỀN LỢI CỦA ĐẢNG MÀ THÔI". Trung Cộng ngày nay bắt đầu trổi dậy chủ nghĩa Đại Hán sau thời gian dài nằm im mai phục, để điều nghiên theo kế: "man thiên quá ải", nhờ tư bản mà họ có tất cả những vũ khí quân sự từ bom nguyên tử, hỏa tiển liên lục địa, vệ tinh; nhưng đây là kế "thanh đông kích tây" nhằm che đậy, đánh lạc hướng các nước Tây Phương, để cho những đại quân "đặc công kinh tế "đã và đang từng bước" tiến vào túi tiền, trận cuối là trận nầy "phát triển" trăm hoa đua nở " ngay trong lòng địch. Các nhà tư bản Tây Phương vì ham lợi nhuận qua việc mướn nhân công rẻ mạt nên mang tiền sang Hoa Lục làm ăn; đương nhiên là cũng phải có điều kiện với đảng và nhà nước mới dễ dàng làm ăn, đồng thời cũng giúp cho dân chúng tại nước Cộng Sản có việc làm, đời sống khá hơn, là cái nút xì hơi, giảm thiểu tình trạng bất ổn kinh tế đưa đến bạo loạn, lật đổ chính quyền; hai bên đều có lợi cả, nên việc làm ăn kéo dài từ nhiều thập niên. Các mặt hàng của nhiều công ty nổi tiếng được mang nhãn hiệu "Made in China" tràn ngập thị trường khắp nơi trên thế giới, che lẫn với các mặt hàng nhái, giả .... Tại hải ngoại thì các đại gia người Hoa, di dân bằng nhiều cách, trở thành công dân các nước tư bản, nhưng đàng sau là bàn tay lông lá của giới tư bản đỏ Trung Cộng; họ luồn lách, mang tiền ra mua các cổ phần nhiều công ty tư nhân và dần dần khống chế nhiều mặt kinh tế; tức là "công ty của các nước tư bản phản động được định hướng theo xã hội chủ nghĩa". Ngày xưa Trung Hoa muốn xâm lăng một nước khác, phải cử đại binh, có tướng chỉ huy...nhưng ngày nay Trung Cộng đưa những "đại gia" người Hoa, là cư dân bản xứ, bề ngoài là không có gì nguy hiểm, được cho là "giới doanh gia", họ đi bằng cửa chánh, được các chủ công ty niềm nở tiếp đón như thượng khách và sau đó dâng cả công ty sau khi mặc cả với giá cao; các tướng Tàu thời xưa mặc áp giáp, mang gươm thì ngày nay các "đại gia" mặc veston, thắt cà vạt, xách cặp samsonite dần dần thôn tín hầu bao của các nước một cách nhẹ nhàng.

Trung Cộng bán vũ khí, đầu tư nhiều nơi, cạnh tranh với các nước Tây Phương, có dư tiền để trở thành chủ nợ nhiều nước, vói tay ủng hộ các tổ chức khuynh tả Maoist, cấu kết ngầm với các thế lực chống Mỹ (không loại trừ các tổ chức khủng bố), không loại trừ cả việc sử dụng vũ khí ma túy để làm lũng đoạn xã hội, trong sách lược trường kỳ mai phục. Nhờ các công ty ngoại quốc đầu tư vào Hoa Lục và những đơn đặt hàng béo bở của các đại công ty tư bản, nên hàng năm Trung Cộng thu vào món lợi không nhỏ, đủ sức để phát huy chủ nghĩa bành trướng và tăng uy tín thế giới nhờ là bạn hàng của các nước giàu mạnh nhất hành tinh nầy. Trung Cộng có sẵn trong tay số tiền lớn, có mối bang giao kinh tế nhiều nước, nên đưa đến ràng buộc chính trị là điều dễ hiểu. Điển hình là Đức Đai Lai Đa Ma, vị lãnh đạo tinh thần của người Tây Tạng, mỗi khi đi thăm viếng các nước như Hoa Kỳ, Úc, Âu Châu thường bị Trung Cộng dùng chiêu bài: "phương hại đến bang giao" mà gây áp lực các nguyên thủ quốc gia không tiếp kiến vị lãnh đạo tinh thần khả kính của người Tây Tạng.

Với số tiền lớn, nguồn tài nguyên "nhân dân" vô tận với hàng tỷ người, sẵn sàng nay lưng ra để bù lổ cho các công ty nhà nước, nên càng ngày Trung Cộng càng bành trướng thế lực kinh tế đối với các quốc gia giàu mạnh, là hình thức xâm lăng bằng luật đầu tư ngay chính các nước ấy ban hành, cũng là "gậy ông đập lưng ông" lần nữa. Các công ty tại các nước dân chủ thường là do tư nhân hay công ty chính phủ giải tư, theo tinh thần cạnh tranh trong luật định, thể hiện sinh hoạt dân chủ từ chính trị đến kinh tế. Trung Quốc lợi dụng thời cơ nầy để dùng tiền mua các cổ đông tại các công ty tư nhân bán ra, có khi với giá cao qua tay các doanh gia bản xứ gốc Hoa (bên trong có quan hệ mật thiết, hay là người của Trung Cộng). Các công ty tư nhân, vì ham lời, nên có thể bán các cổ phiếu với giá cao cho các công ty quốc doanh Trung Quốc, từ từ các cơ sở kinh doanh trọng yếu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoán sản bị lọt về tay Trung Cộng; đây là hình thức khống chế toàn cầu của chủ nghĩa Đại Hán bằng kinh tài, thực hiện một cách êm ả, hợp pháp; đây cũng là phương thức khống chế kinh tế của người Hoa, nhờ tiền nhiều mà trở thành thế lực trong bóng tối tại các nước Á Châu như Thái Lan, Việt Nam, Miên .... tài phiệt người Hoa tại các nước nầy tác động, ảnh hưởng rất nhiều vào chính quyền; cho nên người ta không ngạc nhiên khi thấy cuộc rước đuốc thế vận Hội Bắc Kinh 2008 tại Thái Lan được chính quyền bảo vệ tối đa.

Trước "mưu đồ" nầy, các nước tự do cũng không thể ngồi yên để nhìn tài phiệt đỏ Trung Cộng lợi dụng luật đầu tư của các nước dân chủ, dùng tiền gom góp từ hàng tỷ người để mua hết các cổ phần trong nước. Tình trạng nầy đã xảy ra như ở nước Úc, Trung Cộng lợi dụng khe hở của luật đầu tư, mua khoản 19% cổ phần hãng thép lớn nhất thế giới là BHP (Billiton), nên họ có đủ số thép để cung cấp cho các công trình xây dựng vận động trường, các cơ chế phục vụ Olympic, kỹ nghệ; tại tiểu bang Tây Úc do thủ hiến Alan Carpenter thuộc đảng Lao Động điều hành, công ty thép do tư nhân làm chủ là Midwest vì ham lời, nên đã bán cổ phần đa số cho Trung Cộng, nên một dân biểu, nguyên là cựu thủ lãnh đối lập đảng Tư Do là ông Colin Barnett đã cảnh báo trên đài truyền hình quốc gia, đài chiếu hình ảnh công ty thép văn phòng đầu não của công ty Midwest tại nước Úc, nhưng bản hiệu được viết bằng tiếng Tàu, nếu có thêm lá cờ đỏ với 5 sao vàng thì không khác gì cơ sở của một công ty quốc doanh ở Hoa Lục; thủ hiến Morris Iemma ở tiểu bang đông dân nhất nước Úc là N.S.W đang có kế hoạch giải tư công ty điện năng tiểu bang, gặp nhiều sự chống đối từ giới nghiệp đoàn vì ngại nhiều vấn đề bất lợi trong tương lai; tiểu bang Queensland đã giải tư công ty điện và nay nằm trong tay các đại gia Trung Cộng. Nước Úc là thí dụ điển hình, đang bị chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh nhắm đến, người dân cũng đã thức tỉnh, cảnh giác: nhà triệu phú Dick Smith nói chuyện trên đài ABC, hệ thống truyền hình quốc gia, đã cảnh báo về họa Bắc Kinh, ông báo động là: bán các quặng mỏ cho Trung Cộng là bán cả tương lai của nước Úc.

Ông thủ tướng Kevin Rudd, người từng làm việc ở sứ quán Úc trên đất Tàu, có cái tên tiếng Trung Hoa là LU KEWEN hay là LƯ KẾ VĂN, được coi là người có khuynh hướng gần Trung Quốc so với các thủ tướng khác, nhưng vì quyền lợi quốc gia, nên gần đây chính phủ Lao Động ban hành luật lệ nhằm ngăn chận các công ty quốc doanh Trung Cộng thò tay sâu vào các công ty chiến lược, nhất là quặng mỏ; không biết bên trong có những mật ước nào để tương nhượng với Trung Cộng? Tuy nhiên việc bán chất Uranium cho Trung Cộng là một đại họa, có ai kiểm soát được Trung Cộng sử dụng vào việc chế vũ khí nguyên tử, lòn cho Bắc Hàn, Iran, các tổ chức khủng bố; chính phủ nầy nại lý do Ấn Độ không ký vào hiệp ước hạn chế vũ khí hạch tâm nên không bán Uranium (trong khi đảng đối lập Tự Do ủng hộ bán Uranium cho nước dân chủ lớn nhất thế giới nầy). Được biết vào tháng 3 năm 2008 thủ tướng mở cuộc công du trong vòng 18 ngày khi mới lên cầm quyền từ tháng 12 năm 2007; ông đi đến Hoa Kỳ, Âu châu, rồi chặng cuối là Trung Cộng, được các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải từ chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến thủ tướng Ôn Gia Bảo tiếp đón nồng hậu với thảm đỏ, dù ông có vài lời chiếu lệ về tình trạng vi phạm nhân quyền, cuộc đàn áp Tây Tạng để cho có vẻ là lãnh tụ của một nước dân chủ có quan tâm đến vần đề nhạy cảm nầy, nhưng bên trong hình như có những toan tính chính trị; có lẽ ông Kevin Rudd ngại làm mất lòng người anh em Bắc Kinh nên không thèm ghé thăm Nhật, dù nước nầy nằm sát bên Trung Cộng nên bị đảng đối lập chỉ trích, thế là ông hẹn tháng 6 sẽ qua thăm.

Hiện tượng hàng chục ngàn sinh viên Trung Cộng tại nước Úc mang cờ đỏ với 5 sao vàng, biểu ngữ, có người còn mặc cả bộ "đại cán" màu xanh lục, đội nón lưỡi trai với ngôi sao đỏ giống như Mao Trạch Đông, lợi dụng sinh hoạt dân chủ để tấn công, chửi bới những người Tây Tạng lưu vong, cả những người Úc trước ống kính của các đài truyền hình quốc tế, sinh viên Trung Cộng không coi dân Úc ra gì, chúng hung hăng dùng cán cờ làm vũ khí tấn công những người Úc ủng hộ người dân Tây Tạng bị đàn áp tại Hoa Lục; may là nhờ có cảnh sát Úc can thiệp. Hình ảnh của những người Úc trong cuộc rước đuốc thế vận ngày 24 tháng 4 năm 2008 tại thủ đô Canberra bị sinh viên Trung Cộng hành hung, lăng nhục, chắc chắn có sự chỉ đạo của trung ương đảng ở Bắc Kinh nên được tổ chức chu đáo, khiến người ta có cảm tưởng thủ đô Canberra như là một lãnh địa của Trung Quốc với lực lượng Hồng Vệ Binh thời Mao, đang hoành hành, đấu tố trong cuộc đại cách mạng văn hóa cách đây hơn 40 năm về trước. Người dân nước Úc chưa bao giờ bị bất cứ người ngoại quốc nào dùng số đông để đàn áp như lần nầy, có lẽ đây là sản phẩm tuyệt hảo của mối tình hữu nghị Úc-Trung như răng với môi, mà ông thủ tướng Kevin Rudd là người thường tự hào nói giỏi tiếng Quan Thoại, có chàng rể là dân Trung Hoa, và bà thượng nghị sĩ Penny Wong cũng được trọng dụng lên làm bộ trưởng bộ nguồn nước. Thập niên 1970, thời ông thủ tướng Lao Động khuynh" cực tả" Gough Whitlam, tình báo Liên Sô hoạt động rất mạnh, tác động, ảnh hưởng vào chính quyền, chắc có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân mà tổng toàn quyền John kerr, thay mặt Nữ Hoàng Anh, vì quyền lợi sống còn của dân Úc mà truất phế ông thủ tướng vào năm 1975. Sau kỳ rước đuốc thế vận 2008, trên thế giới cảm thấy bất an trước đạo quân hải ngoại của Trung Cộng, đang có khả năng đứng dậy để hổ trợ cho các chính sách bá quyền, kinh tế của Bắc Kinh; trong tương lai, lực lượng Hồng Vệ Binh Trung Cộng có thể lạm dụng sinh hoạt dân chủ các các nước Tây Phương để tổ chức biểu tình ủng hộ chính sách xâm lược của Bắc Kinh, giống như các cuộc biểu tình của phong trào phản chiến, dùng chiêu bài hòa bình để phản đối chính phủ Hoa Kỳ, Úc ... trong cuộc chiến chống Cộng trong cuộc chiến Việt Nam, chống khủng bố ở A Phú Hãn, lật đổ tên đồ tể thành Bá Đa Saddam Huessein. Trung cộng ngày nay lộ mặt là hiểm họa mới cho nhân loại, là nước lãnh đạo khối tàn dư Cộng Sản, tiếp nối Hậu Chiến Tranh Lạnh.

Thế giới ngày nay đã nhận chân bộ mặt gian manh của Trung Cộng, nên các nước có những luật lệ trong phản ứng tự vệ, nhằm bảo vệ quyền lợi quốc gia. Trong thời gian qua, sự bành trướng thế lực, phát triển kinh tế theo công thức "mượn đầu heo nấu cháo" của nhà cầm quyền Trung Nam Hải với vốn chùa, có khả năng mua hết tài nguyên của các nước qua hình thức thị trường chứng khoán. Trung Cộng lầm tưởng tất cả thế giới đều không khôn bằng giống Đại Hãn, nên tung ra nhiều chiêu vụn về, làm lộ mặt một tên gian thương trong khu chợ quốc tế. Rồi đây, tay gian thương nầy sẽ phải nhận lấy hậu quả khi thế giới có những biện pháp ngăn chận và trừng trị đích đáng cũng bằng những biện pháp kinh tế, pháp luật. Trung Cộng trở thành hiểm họa cho nhân loại, nguy hiểm hơn tất cả các tổ chức khủng bố, vì kẻ thù nầy luôn trang bị bộ gió "tếu lý tàng đao", thủ đoạn khôn lường:

- Với các cường quốc mạnh, giàu hơn, thì Trung Cộng dùng giao thương, kinh tế để gây áp lực, tạo thế đứng; học hỏi những kỷ năng, lợi dụng khe hở để chen vào nội tình, khuynh đảo kinh tế trước tiên, bằng cách làm chủ các công ty, tài nguyên quốc gia, rồi dần dần tiến đến chính trị. Trung Cộng tươi cười bắt tay trong cái gọi là "quan hệ ngoại giao", nhưng đàng sau luôn thủ sẵn con dao, nếu sơ ý là bị thiến hầu bao, cắt cổ ngay.

- Đối với các nước nhỏ, Trung Cộng dùng thanh thế, áp lực quân sự (nếu ở trong khu vực lân bang), chèn ép, đút lót các chính quyền .... sau cùng chiếm dần đất đai bằng các hiệp ước; tức là Trung Cộng hiện đại hóa chủ nghĩa bành trướng, chiếm nước khác bằng giấy (thay vì súng đạn, gươm giáo).

Chiến lược chung là cho người di dân vào tất cả các nước trên thế giới, tạo thành một thế lực nằm vùng, đạo quân dự phòng, dùng thương mại làm giàu và tác động vào các chính quyền sở tại; học hỏi hay đánh cắp kỷ thuật, nghiên cứu sơ hở để lòn lách, lợi dụng sinh hoạt dân chủ để tiến công tức là Trung Cộng đã và đang tung ra nhiều lực lượng tinh nhuệ xâm nhập toàn thế giới. Sự xuất hiện cờ đỏ và hàng ngàn sinh viên Trung Cộng tại nhiều quốc gia trong kỳ rước đuốc thế vận là báo động cho các nước trên thế giới về chủ nghĩa bành trướng Bắc kinh, đang trong giai đoạn chuẩn bị tiến công bằng nhiều mũi xung kích. Trung Cộng áp dụng lối đánh đồn của Việt Cộng trong cuộc chiến Việt Nam: lúc bình thường, du kích hoạt động lẻ tẻ, khi cần tập trung thành lực lượng lớn. Ngày nay tại các quốc gia dân chủ, bình thường sinh viên Trung Cộng phân tán mỏng tại các trường học, khi cần, sứ quán bỏ tiền mướn xe bus, có khả năng tập trung hàng ngàn sinh viên với cờ đỏ, có tổ chức để biều tình, ủng hộ các chính sách, quyền lợi của Trung Cộng trên thế giới. Ngày nay Trung Cộng là kẻ thù tối nguy hiểm của thế giới, nếu không muốn bị khống chế, các nước dân chủ phải có những hàng rào luật pháp, nhất là luật đầu tư, di trú bằng không thì trong thời gian không lâu, tư bản đỏ Trung Cộng sẽ kiểm soát nhiều hầu bao lớn ngay tại các nước Tây phương, từ đó họ tha hồ đàn áp dân trong nước, áp đảo các siêu cường qua cái lá bùa quan hệ kinh tế chằng chịt.

Trương Minh Hòa

PHÁP TRƯỜNG TRUNG CỘNG

  • PHÁP TRƯỜNG TRUNG CỘNG








  • Đại Lễ Phật Đản Của GHVNTN Tại California

    Đại lễ Phật Đản của GHPGVNTN tổ chức tại chùa Diệu Pháp ở miền Nam California
    200 Chư Tăng Ni và 5000 Phật Tử Tham Dự


    Sáng ngày 11.5, Văn phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức Đại lễ Phật Đản tại chùa Diệu Pháp, là trụ sở của Giáo hộị Hai trăm chư Tăng Ni Việt Nam và các nước Cam Bốt, Hoa Kỳ, Miến Điện, Tây Tạng, Tích Lan, Thái Lan, Trung hoa quan lâm lễ đài và gần năm nghìn Phật tử tham dự. Hội trường chật kín, đồng bào phải đứng tràn ra đường phố, ngồi chật trong Chánh điện, trong nhà trù và trong sân chùa cạnh hội trường. Một không khí hân hoan, tưng bừng dưới vòm hội trường che bằng những cuộn vải màu ngũ sắc thành lá đại kỳ Phật giáo lừng lửng trên trời xanh.

    Khai mạc vào lúc 10giờ 30 sáng bằng cuộc thuyết pháp của Pháp sư Thích Giác Đức, Tổng uỷ viên Nghiên cứu Kế hoạch Văn phòng II Viện Hoá Đạo, nói về ý nghĩa Ngày Phật Đản. Sau đó ông Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo kiêm Tổng uỷ viên Ngoại vụ Văn phòng II Viện Hoá Đạo, Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo quốc tế đến từ Paris, nói về tình trạng nhà cầm quyền Cộng sản đàn áp GHPGVNTN tại các tỉnh Lâm Đồng, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. Ông Ái tố cáo Hà Nội lợi dụng ngày Đức Phật Đản sinh để tuyên truyền cho chế độ, trong khi vẫn gia tăng đàn áp GHPGVNTN.

    Ông cho đồng bào Phật tử được biết thế giới đang quan tâm tới tự do tôn giáo tại Việt Nam và hậu thuẫn GHPGVNTN trong cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho Giáo hộị Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã có thư và hồ sơ gửi đến số lớn các phái đoàn Phật giáo được mời về Hà Nội dự lễ Phật Đản, thông báo về hiện tình đàn áp GHPGVNTN. Một diễn giả quan trọng tại Đại lễ Phật Đản ở Hà Nội được nhà cầm quyền đề cao trên Trang Nhà Phật Đản là ông Amartya Sen, Giải Nobel Kinh tế và giáo sư tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ, đã từ chối không về Hà Nội.

    Ông Ái công bố bức thư gửi Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng với chữ ký của 54 nhân vật quốc tế. Đặc biệt như Bà Maired Maguire, Giải Nobel Hoà bình, Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ Frank Wolf (Đồng chủ tịch Uỷ ban Nhân quyền Hạ viện, tác giả Đạo luật Tự do Tôn giáo trên Thế giới được Quốc hội Hoa Kỳ thông quan năm 1998 mở đấu cho danh sách CPC), Đức Giám mục Vaclav Maly từ thủ đô Prague, Tiệp, Giáo sĩ Do Thái giáo Shmuel Herfeld, bà Nina Shea, Uỷ viên Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới, các Dân biểu nổi danh Quốc hội Châu Âu Graham Watson, Marco Pannella, Edwards McMillian-Scott (Phó chủ tịch Quốc hội Châu Âu), Luisa Morgantini (Đảng Cộng sản, Phó chủ tịch Quốc hội Châu Âu), Emma Bonino Phó chủ tịch Thượng viện Quốc hội Ý, Huân tước Avebury và Huân tước Alton, Thượng viện Quốc hội Anh, Liljedahl Lynngard, Chủ tịch Uỷ ban Giải Rafto, bà Jennifer Windsor, Giám đốc Điều hành Freedom House, Hoa Kỳ; Giáo hội Tăng già Tứ phương, Nhật Bản, và chư Tăng lãnh đạo GHPGVNTN Hải ngoại, v.v…

    Nêu rõ xong hiện trạng đàn áp GHPGVNTN, bức thư kết luận: «Nhân dịp Đại lễ Phật Đản LHQ, chúng tôi kêu gọi quý ông hãy chấm dứt mọi đàn áp đối với GHPGVNTN, trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN. Bằng động thái đó, quý ông sẽ tái lập ý nghĩa đích thực cho Ngày Đại lễ Phật Đản LHQ, và tôn vinh 2000 năm truyền đăng nền Phật giáo Việt Nam».

    Sau phần thuyết pháp và thuyết trình, là phần tuyên đọc Đạo từ, Thông điệp, Thông bạch Phật Đản cùng các quan khách phát biểu.

    Khởi đầu, Thượng toạ Thích Viên Lý, Viện chủ chùa Diệu Pháp, Tổng thư ký Văn phòng II Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, đồng thời là Trưởng ban Tổ chức Đại lễ Phật Đản, đọc Diễn văn khai mạc. Thượng toạ ngỏ lời chân thành tri ân chư Tôn đức Giáo phẩm đã quang lâm chứng minh, và thành tâm cảm tạ quý quan khách, rồi đề cao nếp sống của hàng lãnh đạo giáo hội nơi quê nhà : «Nhân mùa đản sanh của đức Phật, chúng con xin hướng vọng về quê nhà, đê đầu đảnh lễ thâm tạ Đức đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo đã sống đúng và sống như chánh pháp, đã lãnh đạo Giáo Hội một cách từ bi nhưng vô cùng sáng suốt giữa một bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn để Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn mãi là ngọn hải đăng giữa đêm dài lịch sử». Thượng toạ cũng xác nhận lập trường của người Phật tử Việt Nam:

    «Là người Phật tử chân chính, chúng ta không bao giờ chạy theo hay tìm cách nương tựa vào những thế lực bên ngoài nhất là những thế lực vô minh manh động, vì sức mạnh nội tại đích thực của đạo Phật là chính là từ bi và trí tuệ chứ không phải bất cứ thế lực ngoại tại nàọ Chúng ta không thể đứng và bước vững trên đôi chân của kẻ khác, chúng ta cũng không thể sống bằng cách thở nhờ lỗ mũi của người khác. Người Phật tử chân chính không bao giờ có ý định lợi dụng bất cứ ai, nhất là lợi dụng quyền lực của nhà nước CS để làm Phật sự. Chỉ móng khởi cái tâm ý lợi dụng người khác, chính ý tưởng ấy là ý tưởng bất chính. Vì thế, việc lợi dụng CSVN để làm cho Phật Giáo phát triển điều đó chẳng khác nào lợi dụng một tổ chức chuyên giết người cướp của để làm giàu cho bản thân mình».

    Tiếp đến, Đại lão Hoà thượng Thích Hộ Giác, nhân danh Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hoá Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, ban Đạo từ Phật Đản. Hoà thượng nhắc nhở rằng:

    «Đất nước Việt Nam là quê hương mang nhiều đau khổ. Đã hơn một thế kỷ rồi dân tộc Việt Nam vẫn phải trăn trở với bao ách nước tai trờị Đạo pháp cũng đồng thân phận với dân tộc. Người Phật tử Việt có hai sứ mệnh quan trọng phải làm. Một là vận dụng một cách sáng suốt nguồn trí tuệ của Đạo Phật để xây dựng nước nhà. Thứ hai là thể hiện tinh hoa của Chánh pháp giữa muôn trùng ma chướng. Sự hưng thịnh của Phật pháp không phải nằm ở con số đông người đi chùa mà chính là ở những con người thật sự tin, hiểu và thể hiện lời Phật dạy». Dù sự đau thương tràn ngập trên quê hương Việt, nhưng Hoà thượng không quên nhắc nhở đến sự đau thương của các nước láng giềng:

    «Những đau thương mà chúng ta được biết qua những tin tức về Tây Tạng, Miến Điện nhắc nhở nhiều hơn về nỗi khổ đau do vô minh, tham vọng của những thế lực bạo quyền độc tài đảng trị. Chúng ta cũng nhân mùa Khánh Đản hãy cầu nguyện cho những nạn nhân thiên tai ở Miến Điện đang sống trong cảnh màn trời chiếu đất sau cơn bão Nagris».

    Bức Thông điệp Phật Đản của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang được Hoà thượng Thích Chánh Lạc tuyên đọc. Hoà thượng là Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo kiêm Tổng uỷ viên Nội vụ và Hoàng pháp Văn phòng II Viện Hoá Đạọ Đức Tăng thống nhận xét tình hình Việt Nam như sau:

    “Nhìn lại khối người 85 triệu mà chư Tôn đức Tăng Ni đang hoằng pháp lợi sinh, thì thấy kinh tế Việt Nam có chiều phát triển. Nhưng chênh lệch giàu nghèo ngày càng đào sâu thăm thẳm. Không chênh lệch giữa quốc dân, mà chênh lệch giữa giới quan lại và quần chúng, gây ra cảnh “nước giàu dân nghèo” mâu thuẫn với các khẩu hiệu Nhà nước đề cao”.

    Mặt khác, “Về đường tinh thần, mọi tự do cơ bản bị chà đạp, nên tôn giáo không phát triển, tệ nạn xã hội hoành hành và gia tăng. Việc giải thoát giác ngộ không thể xây dựng trên sự nghèo đói và thiếu tự dọ Nay lại thêm chuyện lãnh thổ bị xâm lấn khiến lòng người ưu tư khắc khoảị Hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa đang trong cơn hấp hối, mà các nhà lãnh đạo đất nước làm ngơ. Không như thưở trước, dưới các triều Đinh, Lê, rồi Lý, Trần, Lê, từ vua quan, bậc Cao tăng và Phật tử cho đến toàn dân đều một lòng giữ nước. Vì giữ nước mới có đất nuôi dân. Vì giữ dân nên thăng hoa tinh thần và đạo lý làm nên văn hiến nước nhà”.

    Đức Tăng thống Thích Huyền Quang kêu gọi: “Người Phật tử bồi đắp tâm linh bao nhiêu cho tiến trình giải thoát giác ngộ, thì càng bảo vệ lãnh thổ bấy nhiêu cho chủ quyền của nòi giống tự do thoát ly nô lệ”. Vì “Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ, chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèọ Bản hoài xuất thế của chư Phật là xuất hiện nơi trần thế để cứu độ muôn loài”.

    Cho nên “Đồng bào Phật tử trên khắp năm châu càng rạng rỡ bao nhiêu thì càng chiếu rọi trở về nơi quê hương cho nước Việt sớm huy hoàng. (...) Xin chư liệt vị hãy hóa thân vào nền văn minh của trí tuệ Bát Nhã, làm bản tâm cho bậc nhân đức cứu nguy đất nước và loài người”.

    Hoà thượng Thích Thiện Tâm, Tổng uỷ viên Đặc trách liên lạc Canada, tuyên đọc Thông bạch Phật đản của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN. Qua Thông bạch Hoà thượng khẳng định Giáo hội “không tham dự, cũng không cử đại biểu tham dự” Vì Đại lễ Phật Đản do nhà cầm quyền Cộng sản tổ chức «xuấ́t phát từ động cơ chính trị, lợi dụng Phâ,t đản để̉ sơn phết bộ mặtyếu kém về tự do dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo của Cộng sản Việt Nam trước đông đảo quan khách quốc tế đến tham dự Phật đản Vesak 2008 tatại Hà Nội”.

    Hoà thượng căn dặn Giáo hội các cấp: «Tham gia các buổi lễ cầu nguyện cho GHPGVNTN sớm được phục hoạt; các lãnh đạo tối cao của Gíao hội, chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ trong Hội Đồng Lưỡng Viện, các Tăng sĩ, cư sĩ Phật tử đang bị nhà nước quản chế hoặc bức hại sớm được trả lại quyền tự do đi lại và quyền tự do hành Đạọ Tổ chức thăm viếng chư Tôn đức Tăng ni và các Cư sĩ... vì tham gia sinh hoạt với GHPGVNTN mà gặp phải hoạn nạn, hoặc đang lâm bệnh. Tổng Vụ Từ Thiện Xã hội tổ̉ chức các cuộc thăm hỏi và tặng quà Phật đản tại các cơ sở từ thiện xã hội trong thành phố tuỳ theo khả năng”.

    Sau các văn kiện Phật giáo, Hoà thượng Thích Chơn Trí, Tổng ủy viên Giáo dục Văn phòng II Viện Hoá Đạo, đọc bức Thông điệp của Tổng thống Georges W. Bush:

    TOÀ BẠCH ỐC - HOA THỊNH ĐỐN

    Ngày 8 tháng 5 năm 2008

    «Tôi xin gửi lời chào mừng đến chư vị tham gia Đại lễ Phật Đản PL. 2552.

    «Trong ngày đặc biệt hôm nay, có biết bao người tôn vinh đời sống Đức Phật, mà di sản truyền thừa gây ảnh hưởng cho hàng triệu con người trên trái đất. Bằng sự lan truyền thông điệp của niềm hy vọng và thân ái, sự dũng mãnh và đại lực của Đức Phật đã gây cảm hứng cho nhân quần. Đại lễ hôm nay là cơ hội cho chúng ta phản ảnh nền minh triết của tình thương, tính bao dung và lòng từ bi để nguyện cầu cho nền hoà bình mà chúng ta tìm kiếm.

    «Tôi tán thán chư vị cử hành lễ tôn vinh Đức Thế Tôn. Nỗ lực tôn vinh của quý vị làm sáng lên một hình ảnh lịch sử vĩ đại.

    «Laura và tôi xin gửi đến quý liệt vị lời chào nồng nhiệt».

    Thượng toạ Thích Phước Nhơn, Tổng ủy viên Tài chánh Văn phòng II Viện Hoá Đạo, đến từ Úc Đại Lợi, thay mặt Giáo hội và Ban Tổ chức tiếp nhận ba tấm bằng Vinh danh GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ của ông Antonio R. Villaraigosa, Thị trưởng thành phố Los Angeles, Thượng nghị sĩ Jack Scott, Thượng viện tiểu bang California, và của Tiến sĩ Judy Chu, Chủ tịch Cục Bình quân, tiểu bang California.

    Các quan khách lên lễ đài phát biểu có hai vị rất đặc biệt. Thứ nhất là ông John Trần, Thị trưởng thành phố Rosemead. Ông là thị trưởng gốc Việt Nam đầu tiên của Hoa Kỳ. Chào mừng Đức Phật Dản sinh, ông cho biết rằng ngày cha mẹ ông vượt biển đến Hoa Kỳ ông mới có 3 tuổi mà thôị Vị khách đặc biệt khác là Giáo sư Ananda W.P. Guruge, Phó chủ tịch Liên hữu Phật giáo Thế giới, cựu Đại sứ Tích Lan tại Hoa Kỳ. Ông tuyên bố trước sự vỗ tay nồng nhiệt của đồng bào tham dự:

    «Hôm nay tôi đã chọn lựạ Thay vì về Hà Nội tham dự Đại lễ Phật Đản Tam hợp LHQ 2008 theo lời mời, tôi chọn đến đây tham dự Đại lễ Phật đản do GHPGVNTN tổ chức. Tôi muốn đứng bên cạnh Phật giáo đồ Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho tự dọ Tôi đến đây để hậu thuẫn cuộc đấu tranh của các bạn, không riêng cho tự do tôn giáo mà cho nhân quyền của mọi người».

    Sau phần tôn vinh Đức Phật và cuộc đấu tranh của Phật giáo đồ Việt Nam mà ông nghe qua Thông điệp Phật Đản của Đức Tăng thống và Thông bạch Phật Đản của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Giáo sư Ananda W.P. Guruge kết luận:

    «Năm 2011 tới đây, thế giới sẽ long trọng tổ chức kỷ niệm 2600 năm Ngày Đức Thế tôn khánh đản. Tôi tin rằng ngày đó các chế độ độc tài toàn trị hay quân phiệt tại Á châu sẽ sụp đổ, Việt Nam và Miến Điện sẽ tìm thấy tự do, dân chủ».

    Phần phát biểu chấm dứt, nghi lễ Khánh đản bắt đầu theo hai truyền thống Nam tông và Bắc tông. Tiếng kinh trầm hùng của 200 chư Tăng Ni đại diện 8 quốc gia Á châu và Hoa Kỳ cùng với 5000 Phật tử là lượn hải triều hùng vĩ dâng cao thanh âm chúc tụng ngày trần gian chào đón Đức Phật Từ Tôn Thích Ca Mâu Ni ra đời cứu khổ.

    Nghi thức vừa chấm dứt, thì từ lễ đài 10 Lời Cầu nguyện của Phật tử Việt Nam cúng dường Phật Đản 2552 cất lên trầm hùng bi thiết:

    MƯỜI LỜI CẦU NGUYỆN CÚNG DƯỜNG PHẬT ĐẢN PL. 2552

    Toàn thể chúng con cúi đầu đảnh lễ Đức Phật từ bi vô lượng

    (Đại chúng đồng thanh đáp): Chúng con cùng đảnh lễ !

    Toàn thể chúng con cúi đầu đảnh lễ Pháp trí tuệ vô song

    (Đại chúng đồng thanh đáp): Chúng con cùng đảnh lễ !

    Toàn thể chúng con cúi đầu đảnh lễ Tăng già truyền đăng nẻo đạo

    (Đại chúng đồng thanh đáp): Chúng con cùng đảnh lễ !

    1. Chúng con đồng thanh nguyện cầu cho nhân loại thọ trì nghiêm giới không sát sanh, và quyết tâm chận đứng sự sát sanh của kẻ khác;

    2. Chúng con đồng thanh nguyện cầu cho nhân loại thọ trì nghiêm giới không trộm cắp, và quyết tâm chận đứng sự trộm cắp ngày đêm của kẻ khác;

    3. Chúng con đồng thanh nguyện cầu cho nhân loại thọ trì nghiêm giới không tà hạnh, và quyết tâm chận đứng sự tà hạnh của kẻ khác để tái tạo thuần phong mỹ tục trong đời sống;

    4. Chúng con đồng thanh nguyện cầu cho nhân loại thọ trì nghiêm giới không vọng ngữ, và quyết tâm chận đứng sự vọng ngữ, dối gạt của kẻ khác;

    5. Chúng con đồng thanh nguyện cầu cho nhân loại thọ trì nghiêm giới không rượu chè, ma tuý, và quyết tâm chận đứng sự rượu chè, ma tuý của kẻ khác để tiết độ cuộc sống an lành, thanh tịnh;

    6. Chúng con đồng thanh phát nguyện nghiêm trì tịnh giới, đem năng lượng từ bi, trí tuệ kết đoàn để bảo vệ chư Tăng và nhân dân Miến Điện sớm thoát ách quân phiệt khủng bố;

    7. Chúng con đồng thanh phát nguyện nghiêm trì tịnh giới, đem năng lượng từ bi, trí tuệ kết đoàn để bảo vệ chư Tăng và nhân dân Tây Tạng sớm giành lại chủ quyền và thoát ách diệt chủng;

    8. Chúng con đồng thanh phát nguyện nghiêm trì tịnh giới, đem năng lượng từ bi, trí tuệ kết đoàn bảo vệ chư Tăng, Ni, Phật tử và nhân dân Việt Nam sớm thoát ách khủng bố, độc tài toàn trị, công an trị để toàn dân bước lên đường dân chủ, tự do, huynh đệ;

    9. Chúng con đồng thanh phát nguyện nghiêm trì tịnh giới, đem năng lượng từ bi, trí tuệ bảo vệ đất nước, đồng bào và toàn vẹn lãnh thổ trước các nạn ngoại xâm và nội xâm;

    10. Chúng con đồng thanh phát nguyện nghiêm trì tịnh giới, đem năng lượng từ bi, trí tuệ cầu an cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ cùng chư tôn giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện, các Ban Đại diện, đồng bào Phật tử và đồng bào các giới trong và ngoài nước.

    (Đại chúng đồng thanh đáp) : Chúng con cùng cầu nguyện !

    Đại lễ được kết thúc với lễ Mộc dục và phóng sinh chim, cùng lời phát biểu cảm tạ của Thượng toạ Thích Viên Huy, Phó trưởng ban Tổ chức Đại lễ Phật Đản.

    Phần thứ hai của Đại lễ Phật Đản là chương trình văn nghệ Phật Đản. Đặc biệt là lễ phát phần thưởng cho các em học sinh, sinh viên ưu tú. Ưu tú theo thứ vị xuất sắc tại học đường Hoa Kỳ kết hợp với kỳ thi Phật Pháp tại chùa Diệu Pháp.