Sunday, March 11, 2012

Âm Mưu Biến Ngày Quốc Hận Thành Ngày Thuyền Nhân? - Trần Gia Phụng



Trần Gia Phụng

Sau bài “Ngày Quốc hận là ngày Quốc hận”, có nhiều e-mail hỏi người viết rằng tại sao lại có âm mưu biến ngày Quốc hận thành ngày Thuyền nhân? Câu hỏi nầy đáng lẽ phải hỏi thẳng những người âm mưu. Ở đây chúng tôi chỉ phỏng đoán lý do mà thôi. Sự phỏng đoán có thể thiếu sót, xin các bậc cao minh bổ túc thêm.

1. LÀM PHAI LẠT Ý NGHĨA NGÀY QUỐC HẬN

Ngày 30-4-1975 là ngày Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, áp đặt chế độ độc tài đảng trị trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Chế độ cộng sản chà đạp tự do dân chủ, giết hại dân lành, gây nhiều tội ác, trong đó quan trọng nhất là tội phản quốc, nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng tự động đặt tên ngày 30-4 là NGÀY QUỐC HẬN.

Sau ngày Quốc hận 30-4-1975, hàng triệu người Việt Nam đã bỏ nước ra đi tìm tự do. Khoảng nửa triệu người bỏ mình trên biển cả. Cộng sản chận bắt, bắn giết những người tìm cách vượt biên. Lúc đầu, cộng sản gọi người Việt vượt biên là tay sai Mỹ ngụy, chạy theo bơ sữa tư bản.

Dần dần, người Việt hải ngoại tập họp thành những cộng đồng lớn mạnh ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu. Hàng năm cộng đồng người Việt hải ngoại gởi về hàng tỷ Mỹ kim để giúp đỡ thân nhân ở trong nước. Cộng sản liền uốn lưỡi, đổi giọng, gọi người Việt hải ngoại thành “khúc ruột ngàn dặm”. Tuy nhiên CSVN rất e ngại “khúc ruột ngàn dặm”, vì nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ, phương tiện truyền thông nhanh chóng, tất cả những tin tức ở trong nước được đưa ra nước ngoài dễ dàng. “Khúc ruột ngàn dặm” sẵn sàng tranh đấu, bảo vệ người Việt trong nước, gây trở ngại không ít cho cuộc đàn áp của độc tài cộng sản.

Đối phó với “khúc ruột ngàn dăm”, Bộ chính trị đảng CSVN đưa ra nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, để bằng tất cả các cách thu hút và nếu thu hút không được thì đánh phá các tổ chức, hội đoàn, cộng đồng người Việt hải ngoại, nhằm hóa giải, chận đứng tất cả các cuộc chống đối của người Việt hải ngoại.

Để thực hiện nghị quyết 36, CSVN đưa ra nhiều thủ đoạn thâm độc mà chúng ta không lường trước được. Có khi có người vô tình lạc vào những thủ đoạn của CSVN mà không biết. Âm mưu biến ngày Quốc hận làm ngày Thuyền nhân là một trong những âm mưu thâm độc của CSVN. Âm mưu nhằm hai mục đích:
    1. Làm phai lạt dần dần ý nghĩa Ngày Quốc hận trong lòng người Việt hải ngoại, giảm nhẹ tội ác cho CSVN.
    2. Tạo một đề tài gây tranh cãi và làm chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại.


2. VÔ HIỆU HÓA HỘI CỰU QUÂN NHÂN

Ở hải ngoại có nhiều hội đoàn. Hội đoàn có tinh thần quốc gia, dân tộc, chống cộng mạnh mẽ, lại có quy củ, có tổ chức, hoạt động mạnh nhất ở bất cứ nước nào, địa phương nào, là hội Cựu Quân Nhân (CQN). Hằng năm, nếu nơi nào không có ban chấp hành cộng đồng, như ở Toronto (Canada) chẳng hạn, thì hầu như hội CQN được giao tổ chức ngày Quốc hận 30-4. Hoặc hội CQN phối hợp với các hội đoàn khác để cùng tổ chức. Luôn luôn hội CQN làm nòng cốt, thường có lễ chào cờ, rước quốc quân kỳ…

Hội CQN là hội giữ lửa cho Cộng đồng, hội mũi nhọn trong các cuộc biểu tình chống cộng. Mỗi năm hội CQN có hai hoạt động chính là tổ chức “Ngày Quốc hận” (30-4) và “Ngày Quân lực” (19-6). Nếu vận động được các địa phương biến ngày 30-4 thành ngày Thuyền nhân, thì lúc đó hội CQN không còn cần thiết, vì đối tượng chính trong buổi lẽ sẽ là thuyền nhân, thì thuyền nhân sẽ đứng ra phụ trách. Một Uỷ ban của các thuyền nhân sẽ đứng ra tổ chức Ngày Thuyền nhân 30-4 hằng năm, thay cho hội CQN.

Khi đó, hội CQN chỉ còn buổi lễ chính là mừng Ngày Quân lực. Là ngày vui thì chỉ có ăn uống, vui chơi, nhảy đầm. Từ vai trò giữ lửa chống cộng, hội CQN trở thành một món trang sức cho cộng đồng. Như thế là một cách vô hiệu hóa hội CQN, làm giảm bớt hoạt động của hội CQN, giảm bớt ngọn lửa đấu tranh chống cộng,. Cái thâm độc của cuộc vận động biến ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân nằm ở chỗ đó. Tuy nhiên vẫn chưa hết…

3. TIÊU DIỆT TIỀM LỰC CHỐNG CỘNG

Ngày Quốc hận 30-4 là ngày của toàn dân Việt, ở trong cũng như ngoài nước, trừ một thiểu số đảng viên. Vì vậy, hằng năm, vào ngày 30-4 ở hải ngoại, khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ Kỷ niệm Ngày Quốc hận. Rất đông người đến tham dự, có thể nói là đông đảo nhất trong năm. Kỷ niệm Quốc hận hằng năm nhằm nhắc nhở ngày tang thương của dân tộc, tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, những đồng bào đã bỏ mình trên đường tìm tự do, và những tù nhân chính trị đã và đang bị đày đọa đến chết trong các trại tù cộng sản. Kỷ niệm Quốc hận 30-4 cũng là dịp cho Cộng đồng Người Việt hải ngoại lên tiếng đòi hỏi dân chủ tự do cho đồng bào ở trong nước. Nói cách khác, ngày 30-4 là ngày tưởng niệm và cũng là ngày tranh đấu.

Trong khi đó, số người thực sự là thuyền nhân hiện nay, một mặt so với dân số toàn quốc thì quá ít vì ở trong nước không có thuyền nhân, và một mặt khác so với tổng số người Việt ở hải ngoại, số thuyền nhân hiện nay chỉ bằng khoảng một phần tư (1/4) hay một phần năm (1/5) mà thôi.

Nếu ngày 30-4 hằng năm là Ngày Thuyền nhân, thì những người không phải là thuyền nhân có thể không đến dự các buổi lễ ngày 30-4, vì không liên quan đến họ. Số người tham dự các buổi lễ kỷ niệm sẽ giảm đi và có thể giảm đi rất nhiều. Như thế, dần dần ngày 30-4 sẽ phai lạt dần. Từ đó, tinh thần đấu tranh chống cộng sản bạo tàn, đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam của cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ càng ngày càng xuống giốc.

Hơn nữa, một ngày kia, những thuyền nhân sẽ lần lượt qua đời, sẽ không còn thuyền nhân trên thế giới, thì Ngày Thuyền nhân cũng tàn lụi theo. Lúc đó chắc chắn Ngày Thuyền nhân sẽ chẳng còn ai chú ý, chẳng còn ai cử hành, nghĩa là ngày 30-4 cũng sẽ mất tích luôn.

Tóm lại, âm mưu biến đổi Ngày Quốc hận 30-4 thành Ngày Thuyền nhân phát xuất từ ý đồ của CSVN, nhằm làm giảm nhẹ tội ác của cộng sản, triệt tiêu hoạt động của Hội CQN và dần dần làm biến mất ngày Quốc hận, tiêu diệt tiềm lực chống cộng của cộng đồng người Việt hải ngoại. Âm mưu nầy được tay chân của cộng sản, cùng một số tên thân cộng ở hải ngoại tìm cách thực hiện để mưu lợi, trao đổi buôn bán với cộng sản. Tuy nhiên, dầu cố gắng cách nào đi nữa, âm mưu nầy cũng không thể thành công được, vì lịch sử là những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, không ai có thể sửa đổi được lịch sử, nhất là một khi đã được khắc ghi vào bia miệng thế gian. “Trăm năm bia đá thì mòn,/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

Ở trong nước, CSVN tham nhũng, bóc lột, cướp đất dân lành, nhượng đất nhượng biển cho Trung cộng, đàn áp dân quyền và nhân quyền, bắt bớ, giam cầm những nhà tranh đấu dân chủ bất bạo động, những người yêu nước biểu tình chống Trung cộng xâm lược. Ở hải ngoại, đời sống đầy đủ, tự do dân chủ, lại có những kẻ không nghĩ đến tương lai dân tộc, không nghĩ đến đồng bào đang đau khổ vì CS ở trong nước, mà chỉ vì một chút danh lợi nhỏ nhoi, tiếp tay tuyên truyền cho CSVN, tiếp tục duy trì nạn độc tài toàn trị trên quê hương Việt Nam, thì tội lỗi nầy cũng không kém gì tội lỗi của CSVN.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 9-3-2912)

NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN - Trần Gia Phụng



Trần Gia Phụng

Biến cố 30-4-1975 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nhiều sách báo đã viết về biến cố nầy. Nhân sắp đến ngày 30-4, ở đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn.

1. DIỄN TIẾN NGÀY 30-4-1975

Từ 26-4-1975, quân cộng sản bao vây Sài Gòn từ năm hướng: hướng bắc (Quân đoàn 1 CS), hướng tây bắc (QĐ 3 CS), hướng đông (QĐ 4 CS), hướng đông nam (QĐ 1 CS), hướng tây và tây nam (Đoàn 232 và SĐ 8 thuộc Quân khu 8 CS). Chiều 26-4, CS bắt đầu tấn công, đánh phá vòng đai phòng thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa, cắt đường số 4 từ Sài Gòn đi miền Tây.

Đối đầu với lực lượng lớn mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài Gòn chỉ gồm Quân đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I và QĐ II di tản vào Sài Gòn, các lữ đoàn TQLC, Dù, các liên đoàn BĐQ, một số trung đoàn Pháo binh, Kỵ binh thiết giáp và Nghĩa quân, Địa phương quân. Các đơn vị nầy đều thiếu quân vì trước đó đã bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu trang bị võ khí, đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.

Chiều 28-4, ngay sau khi cựu đại tướng Dương Văn Minh vừa nhận chức tổng thống, 5 chiếc A-37 trước đây của Không quân VNCH bị CS tịch thu, nay dưới sự hướng dân của Nguyễn Thành Trung, cựu trung úy phi công VNCH, vốn là đảng viên CS cài vào Không quân VNCH, bay đến thả bom sân bay Tân Sơn Nhứt. Tối hôm đó, CS tiếp tục pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các phi đạo. Phi trường không thể sử dụng được, nên phải dùng trực thăng đề di tản.

Hôm sau 29-4, CS chiếm được các căn cứ Nước Trong, Long Bình, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa), Đồng Dù (Củ Chi), Hậu Nghĩa. Sáng 30-4 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành Sài Gòn. Trước sự đe dọa của CSVN, ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn toàn tan vỡ. Cuối cùng, lúc 10G 24 phút sáng 30-4-1975, qua đài phát thanh Sài Gòn, Dương Văn Minh, với tư cách tổng thống tổng tư lệnh quân đội, nhận chức trước đó hai ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đây là nguyên văn lời Dương Văn Minh:

“Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 358)

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng tham mưu phó quân đội VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của tổng thống Dương Văn Minh.

Lúc 11G 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của Đại đội 4, Lữ đoàn Thiết giáp 203 CS tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó, một số cán bộ Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 CS, do đại úy trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu, đến phòng họp dinh Độc Lập, nơi có mặt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đại úy Thệ đã nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu rằng các ông bị bắt làm tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không có gì bàn giao cả. Sau đó, quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ lời đầu hàng, và buộc cựu đại tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau:

“Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” (google.com.vn) (vào chữ Dương Văn Minh, tìm 30-4.)

Trước áp lực của họng súng quân thù, cựu đại tướng Dương Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, “kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam.” Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên rã ngủ, trong khi còn nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân đoàn IV vẫn còn nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn sụp đổ.

2. NGÀY QUỐC HẬN

Thông thường, người ta tản cư hay di tản khi chiến tranh bùng nổ. Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn. Đàng nầy, chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, lửa đạn không còn, mà người ta bỏ chạy, chạy xa thật xa, nghĩa là người ta sợ cái gì còn hơn lửa đạn.

Ngay khi CS chiếm Sài Gòn, khoảng 150,000 người Việt bỏ ra nước ngoài, trong đó khoảng 140,000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10,000 đến các nước khác. (Nguồn: UNHCR, The State of the World's Refugees - Fifty Years of Humanitarian Actions, ch. 4, tr. 81.) Cộng sản Việt Nam tố cáo những người di tản là tay sai đế quốc Mỹ. Theo luận điệu nầy, trưa ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.” (Trích nguyên văn: http://ngoclinhvugia.wordpress.com/). Viên nhạc sĩ nầy còn hát bài “Nối vòng tay lớn”, nhưng dân chúng không chấp nhận vòng tay lớn của CS, tiếp tục ra đi dù bị kết tội “phản quốc”.

Sau ngày 30-4-1975, càng ngày càng có nhiều người kiếm cách ra nước ngoài, dầu phải hy sinh chính mạng sống của mình, tạo thành phong trào vượt biên. Theo thống kê của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, từ ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, tổng số người di tản và vượt biên đến được các trại tỵ nạn là 989,100 (gần một triệu) kể cả đường biển lẫn đường bộ. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết. Ngoài ra, phải kể thêm số người rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước. Nếu kể thêm chương trình ODP (Orderly Departure Program) và chương trình HO do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường chính thức, thì tổng cộng tất cả các số liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền Nam Việt Nam, trên 1,500,000 người Việt đã bỏ nước ra đi.

Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi. Còn biết bao nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ TrầnVăn Trạch đã từng nói một câu bất hủ: "Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra đi.”

Trước khi quân cộng sản vào Sài Gòn, nhiều chức quyền cao cấp VNCH đã di tản ra nước ngoài. Trong số các chức quyền ở lại, có phó tổng thống rồi tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 28-4-1975, trước khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, đại sứ Pháp ở Sài Gòn cho người đến mời tổng thống Hương di tản. Ông Hương trả lời: “Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.” Sau khi Trần Văn Hương giao quyền tổng thống cho Dương Văn Minh tối 28-4, thì hôm sau, ngày 29-4 đích thân đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời ông ra đi. Trần Văn Hương trả lời như sau: “Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.” Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 352-355.)

Trần Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: “Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.” Nước mất là mất tất cả. Mất tất cả các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn hóa, mất tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân nữa. Trước ngày 30-4-1975, dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn vì chiến tranh, chế độ Cộng hòa vẫn là chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.

Khi mới chiếm được miền Nam, cộng sản bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của VNCH còn lại trong nước giam giữ dài hạn, không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc. Số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu, 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm, 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.) Số liệu nầy theo dư luận chung, còn thấp hơn so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù "cải tạo". (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon's fall”, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Sau khi bắt giam hàng triệu công chức quân nhân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, cộng sản trấn áp dân chúng miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:

Thực hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di chuyển, không có quyền tự do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, cộng sản đổi tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu ngày 22-9-1975, 500 đồng VNCH lấy 1 đồng mới. Đổi lần thứ hai ngày 3-5-1978 và lần thứ ba ngày 14-9-1985.) Cộng sản tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục soát nhà cửa, tịch thu vàng thật, rồi lập biên bản là “kim loại có màu vàng”, để đổi vàng giả.

Cộng sản cướp nhà cửa, buộc những người khá giả phải hiến đất, hiến nhà để khỏi bị tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh do CS quản lý. Tại nông thôn, CS quốc hữu hóa toàn thể đất đai, ruộng vườn; nông dân phải vào hợp tác xã, làm việc chấm công để lãnh lúa, dân chúng gọi là “lúa điểm” tức “liếm đũa”. Cộng sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới, sống trên những vùng khô cằn, nghèo khổ. Cộng sản thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ, để CS độc quyền lưu thông và phân phối hàng hóa. Tất cả chính sách của CS nhắm làm cho dân chúng nghèo khổ cho CS dễ cai trị.

Chính sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ vực thẳm, nguy hại cho chính CS. Trước tình hình đó, CS mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Cộng sản đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Từ đó, Việt Nam thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu 2007. Tuy nhiên dầu đổi mới về kinh tế nhưng cộng sản vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ "diễn biến hòa bình", định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.

Như thế, ngày CS vào Sài Gòn, chấm dứt chế độ VNCH, là một biến cố lịch sử có tầm vóc lớn lao, làm thay đổi dòng sinh mệnh dân tộc, ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay. Ngày 30-4 cũng là ngày mở đầu thảm họa chẳng những cho dân chúng miền Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ cộng sản càng ngày càng bạo tàn, tham nhũng và nhất là lộ rõ bộ mặt tay sai Trung cộng, dâng đất, nhượng biển, quy lụy Bắc Kinh để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng gọi ngày nầy là ngày Quốc hận. Hai chữ Quốc hận do dân chúng tự động đặt tên cho ngày 30-4 và truyền khẩu với nhau thành danh xưng chính thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính trị nào đặt ra. “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

3. NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

Những người vượt biên được gọi chung là thuyền nhân. Thuyền nhân là từ ngữ được dịch từ chữ “boat people” trong tiếng Anh, xuất hiện từ cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

Người Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra đi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng người Việt bỏ nước ra đi lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của phong trào thuyền nhân là tất cả những người vượt biên đều tự nguyện ra đi, tự mình muốn ra đi, hoàn toàn tự phát ra đi theo từng gia đình, từng nhóm nhỏ. Không có một đảng phái, một thế lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp hay tổ chức cho thuyền nhân ra đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng lòng khao khát ra đi tìm tự do của dân chúng để bán bãi, hay tổ chức vượt biên bán chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi trong kế hoạch mà CS gọi là “bán chính thức”, người ra đi vẫn là những người tự nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh nạn độc tài cộng sản.

Như thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của vài triệu người, kéo dài trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau. Phong trào nầy là hậu quả của ngày Quốc hận 30-4. Ngày 30-4 là ngày đánh dấu sự thành công của chế độ độc tài toàn trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam. Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào dân chủ quốc nội. Chỉ vì lòng yêu nước, người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược mà cũng bị CSVN bắt giam thì trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt Nam.

Hai sự kiện ngày Quốc hận 30-4 và Phong trào thuyền nhân hoàn toàn khác nhau và không thể lẫn lộn nhau. Ngày 30-4 là ngày kỷ niệm Quốc hận của toàn dân. Phong trào thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,500,000 người. Nếu ngày nay, dân số thuyền nhân phát triển lên khoảng 3,000,000, thì ở trong nước, dân số tăng lên mấy chục triệu người.

Vì vậy, để kỷ niệm phong trào vượt biên, ngày 28-4-2009, toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết số 342 do dân biểu liên bang Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn định ngày 2-5-2009 là “Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam” tại Hoa Kỳ (tức thuyền nhân Việt cộng them những người ra đi theo chương trình ODP và HO). Sau đó, ngày 12-8-2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County, tiểu bang California) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của mỗi tháng Tư hằng năm là “Ngày Thuyền Nhân Việt Nam”. Westminster là thành phố có Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, khánh thành ngày 27-4-2003, và từ đó là nơi diễn ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ nạn CS.

Cả hai nghị quyết trên đây đều chọn một ngày khác với ngày 30-4 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm tránh làm mất ý nghĩa quan trọng của ngày Quốc hận 30-4. Chỉ có cộng sản và những người làm tay sai cho CS mới cố tình vận động chuyển đổi ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân, nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của cộng sản Việt Nam trước lịch sử, trong khi tội lỗi của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không thể xóa bỏ được.

Mưu toan nầy hoàn toàn thất bại vì Cộng đồng Người Việt Hải ngoại quyết liệt phản đối, chỉ vì một lý do đơn giản, thật đơn giản: NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN, không thể nào khác hơn được và không có chữ nào đúng hơn được.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 01-02-2012)


Monday, February 27, 2012

”Cuộc đời và cái chết rất buồn của một người chính trực“

Mai Thanh Truyết

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: ”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định. Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: ”Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9, 10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đỡ của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các loại vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì … nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: ”Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%”.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: ”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: ”Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đổi lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”.

Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất
chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli)“.

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam”. Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng: ”Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Mai Thanh Truyết

Sunday, February 5, 2012

Độc nhất vô nhị, chỉ có tại Việt Nam

Xã hội của đỉnh cao trí tệ
Khách sạn cung cấp vợ miễn phí



Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc

    Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc Cho Kẻ Thù Truyền kiếp Của Dân Tộc
Trương Phú Thứ

Từ ngàn xưa, nước Việt Nam có chiều dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Cha ông chúng ta đã bao đời đổ máu và mồ hôi, nước mắt tạo dựng nên cơ đồ lừng lẫy dưới Trời Đông Á. Từng tấc đất trên núi cao, mỗi con nước hòa trong đại dương đã thấm nhuần hào kiệt uy dũng của tiền nhân; và con cháu hàng hàng, lớp lớp từ đời nọ sang đời kia hiên ngang xây dựng đất nước ngày thêm tươi tốt, chiến đấu đánh đuổi ngoại xâm, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ. Cha ông chúng ta đã khổ công khai sơn phá thạch, bồi sông lấp biển, gầy dựng cho con cháu mảnh vườn sào ruộng, là nơi chôn nhau cắt rốn của đám hậu duệ, là chỗ gửi gấm thân xác tiền nhân lúc mãn phần. Kẻ trước người sau, một lòng sắt son tô điểm sơn hà trong niềm kiêu hãnh của dòng giống Lạc Hồng. Quê Cha đất Mẹ là vành nôi ấp ủ tình tự quê hương, là bầu sữa ngọt ngào nuôi dưỡng đàn con Việt tộc. Đàn con Mẹ Việt Nam bám lấy sào ruộng, ôm lấy mảnh vườn là hương hỏa của ông cha khó công gầy dựng như mầm sống của từng thế hệ.

Đất nước ta đã bao lần đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc. Lời thề Diên Hồng còn âm vang trên núi cao. Tiếng hò Sát Đát vẫn xé gió tung bay ra bốn bể.

Nhưng đau đớn tủi nhục, xót xa, ngậm ngùi ! Đảng cộng sản Việt Nam đã ký hai hiệp định về biên giới với Trung cộng vào ngày 30-12-1999 và 25-12-2000. Hai hiệp định này đã cống hiến một phần đất đai ở tuyến cực Bắc tiếp giáp với Trung cộng, và một phần lãnh hải vịnh bắc Việt cho Trung cộng. Biên giới Trung-Việt đã lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam nhiều chỗ đến 12 cây số. Ải Nam Quan không còn nữa. Thác Bản Giốc cũng không còn nữa. Vịnh Bắc Việt đã mất thêm đến 10%. Quê hương Việt Nam đã mất một phần đất đai nơi đó là tổ ấm của nhiều dòng họ từ bao nhiêu đời. Tổ Quốc Việt Nam đã mất đi Hoàng Sa - Trường Sa, là mất đi một phần biển có nhiều dầu khí.

Ngày 27-12-2001; lễ cắm cột mốc thi hành những điều khoản của hiệp định được tổ chức và chiếu trên hệ thống truyền hình toàn quốc. Con dân nước Việt ở khắp mọi miền đất nước thắp nhang hướng về địa đầu tổ quốc khấn nguyện anh linh, tiên tổ, sụt sùi rơi lệ.

Lịch sử nước ta ghi chép, Việt tộc đã nhiều lần đứng lên đánh đuổi quân xâm lược hung hãn phương Bắc. Ngay cả lúc cha ông chúng ta ở trong thế yếu kém nhưng chưa hề bao giờ phải cắt đất nhượng biển cho quân ngoại xâm. Vậy cớ sao đảng cộng sản Việt Nam lại cúi đầu tuân phục mệnh lệnh của quan thầy cộng sản Tầu cắt đất của tổ tiên, xé biển của Tổ Quốc cống hiến cho kẻ thù phương Bắc ?!

Có nhiều giả thuyết được nói đến để tìm hiểu hành động phản phúc của đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết, là món nợ khổng lồ đã vay mượn của Trung cộng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó là sự đền ơn đáp nghĩa đối với một đàn anh cộng sản khổng lồ ngay sát nách, có đủ khả năng để bảo đảm sự an toàn của tập đoàn thống trị Hà Nội. Vì muốn nắm giữ đặc quyền, đặc lợi và đủ sức mạnh để khống chế, áp bức những người cùng huyết thống, đảng cộng sản Việt Nam đã táng tận lương tâm cắt đất, nhượng biển cung phụng những đòi hỏi quái ác của bọn cộng sản Tầu.

Hồn thiêng sông núi Việt, anh linh tiên tổ ngậm ngùi đau xót nhìn những đứa phản tặc vô ơn bạc nghĩa, mang cả gia tài của ông cha đem cống hiến cho ngoại nhân để nắm giữ quyền hành và từ đó, áp đặt một thứ chủ nghĩa độc ác phi nhân xóa bỏ tình tự đạo lý dân tộc.

Đảng cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình trọn vẹn chỉ là một công cụ vô hồn của một thé lực còn rơi rớt lại của khối cộng sản thế giới.

Phường nghịch tặc của Tổ Quốc đã chỉ vì quyền lợi của bè đảng và cá nhân đã không từ nan bất cứ một hành động phản trắc nào, hầu chỉ cần nắm giữ được quyền hành và tài sản tiền bạc của quốc gia.

Hỡi các bạn trẻ Việt Nam! Giang sơn gấm vóc mà tổ tiên chúng ta đã khổ công khai phá và xây dựng đã bị đảng cộng sản Việt Nam cắt xén dâng hiến cho Trung cộng. Còn nỗi nhục nhằn cay đắng, rách gan, đứt ruột nào hơn; các bạn đã khóc ra máu mắt nhìn bọn thảo khấu bán nước toa rập với lũ giặc phương Bắc đóng những cái mốc ngay trên phần đất hương hỏa của bao dòng họ. Các bạn đã uất hận nghẹn ngào nhìn mồ mã tiền nhân đang bị những bước chân xâm lăng của kẻ thù truyền kiếp giầy xéo. Đảng cộng sản Việt Nam vì nhu cầu sống còn đã nhẫn tâm bán rẻ tổ quốc cho bọn giặc thù phương Bắc.

Các bạn là những sinh viên đang miệt mài đèn sách nơi trường lớp. Các bạn là những viên chức nhà nước đang bị trù dập vì đoàn đảng và bọn tham ô nhũng lạm. Các bạn là những công nhân đang bị hành hạ tức tưởi bởi bọn thực dân mới Đài Loan, Hàn quốc. Các bạn là những người lính đang ngày đêm gian khổ, nhưng bị đảng cộng sản Việt Nam không cho được bảo vệ đất nước. Các bạn là những người lao động đang gục đầu nhục nhằn vì miếng cơm manh áo. Các bạn là những người buôn thúng bán bưng đang cay đắng vì đói nghèo đói bệnh tật.

Các bạn, tất cả hãy ngạo nghễ đứng lên, cùng một lời thề ước, tay trong tay bứt phá xích xiềng nô lệ tư tưởng, tù đầy, cơm áo và thoát ra khỏi bàn tay ác độc của kẻ thù tuyền kiếp phương Bắc.

Các bạn trong quân ngũ hãy quay súng lại làm tròn nhiệm vụ của Tổ Quốc và đồng bào trao phó; các bạn hãy nhận lãnh trách nhiệm với tiền nhân, với đồng bào và lịch sử; cùng nhau vùng lên đạp đổ một chủ thuyết tàn ác do đảng cộng sản Việt Nam áp đặt để độc quyền thống trị.

Các bạn cứ nhìn xem chung quang mình, bọn cán bộ chức quyền giầu có đến mức nào, trong khi bản thân các bạn đang lây lất rau cháo qua ngày. Xương máu của các bạn đang đổ ra con cháu bọn cán bộ đốt tiền bên trời Âu-Mỹ. Mồ hôi nước mắt của các bạn đang đổ ra cho đám chức quyền cao cấp nạp những đồng tiền thuế của dân vào cái túi không đáy của bọn nhà thổ. Tài sản quốc gia đã bị các quan chức lãnh đạo đản cộng sản trấn lột và hiện cất giữ ở các ngân hàng ngoại quốc.

Lớp người trẻ ở Liên Sô cũ, các quốc gia Đông Âu và các nước Á Phi đã đồng loạt đứng lên. Họ, với sức mạnh hào và khí của tuổi trẻ, họ đã làm nên đai cuộc. Các bạn hậu duệ Quang Trung, con cháu Trưng-Triệu lẽ nào nhắm mắt xuôi tay nhìn Tổ Quốc bị đảng cộng sản Việt Nam đem bán rẻ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nhìn đồng bào thân yêu triền miên trong nghèo đói, bệnh tật và dốt nát.

Đức Hưng Đạo Vương ba lần đại phá quân Nguyên đã thống thiết trong Hịch Tướng Sĩ:

"Chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giầy xéo, mà phần mộ cha ông của các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào, chẳng những thân ta kiếplưu đày chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là những người bại trận".

Các bạn hãy đứng lên !

Hùng tâm dũng khí của những người trẻ Việt Nam sẽ cứu nước và dựng lại nước. Nước Việt Nam phải là một dãi đất gấm hoa của tự do dân chủ. Người Việt Nam hào hùng phải được quyền sống trong những điều kiện bình thường của con người. Các bạn là vốn liếng quý giá của nòi giống Việt. Các bạn là tài sản trân quý của dân tộc. Các bạn là nguồn cậy trông, là niềm hy vọng của tiền nhân và đồng bào ruột thịt. Các bạn hãy đứng lên tiêu trừ đảng cộng sản Việt Nam, xóa sổ bọn tôi đòi của kẻ thù phương Bắc. Các bạn sẽ không đơn độc. Đồng bào ở trong cũng như ngoài nước luôn sát cánh bên các bạn bằng nhiều cách. Các quốc gia và những người yêu chuộng tự do dân chủ, tôn trọng hòa bình công lý trên toàn thế giới sẽ cùng đứng bên với các bạn. Các bạn hãy ngạo nghễ đứng lên !

Trương Phú Thứ


Sunday, January 8, 2012

Việt Khang, anh là ai? - Long Hải & Quốc Tuấn


Đừng Sợ Nữa Đồng Bào Tôi Ơi!
Hãy Đứng Dậy Lật Đổ Tập Đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam
Buôn Dân Bán Nước
teolangthang

_________________________________________




Việt Nam Tôi Đâu ???
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)
Chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam ...



Việt Nam ơi …

thời gian quá nửa đời người và ta đã tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ Việt Nam đau từng cơn sót dạ nhìn đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
kẻ quyền uy giàu sang dối gian

Giờ đây …
Việt Nam còn hay đã mất?
mà giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội
chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu

Là một người con dân việt nam
lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm
người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi
từng đoàn người đi chẳng nề chi
già trẻ gái trai giơ cao tay
chống quân xâm lược,
chống kẻ nhu nhược bán nước việt nam

Long Hải & Quốc Tuấn
Source: http://www.tuoitreyeunuoc.com/hotnews/vi%E1%BB%87t-khang-anh-la-ai/

Từ bản nhạc “Việt Nam Tôi Đâu” ra đời trên hệ thống Internet vào tháng 8/2011 đến bây giờ, số người nghe gần nửa triệu, lời nhạc và tiếng hát của Việt Khang đã đi vào lòng người. Việt Khang đã viết từ tận đáy lòng sâu thẳm của mình với nỗi đau ray rức nỗi đau này không phải vì đói rét, cũng không phải vì vết thương bị cắt trên da thịt mà nỗi đau của một người mất nước nỗi đau trăn trở hằn sâu trong tâm hồn người yêu nước.

Sống qua gần nửa đời người, anh đã thấm nghiệm được sự dối trá lừa đảo của chế độ độc tài đương quyền, tác giả “Việt Nam Tôi Đâu” đã mở đầu cất cao lời nhạc “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời người, và ta đã tỏ tường rồi, ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói ….”. Nửa cuộc đời, trải qua 36 năm từ ngày cả dân tộc Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản đến nay Việt Khang đã nhìn thấy xã hội muôn ngàn mảnh đời đổ vỡ, tàn tạ, bị áp bức, bóc lột, đói khát mà đáng ra bất cứ một quốc gia nào “sau tàn lửa khói” đều không thể lâm vào cảnh tượng đau đớn như Việt Nam.

Việt Khang đã tỏ tường trên thân thể gầy còm của đất “Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nhìn đời, người lầm than đói khổ nghèo nàn, kẻ quyền uy giàu sang dối dang”. Lời nhạc không mang tính hằn học thù hận nhưng mang tâm trạng đau nhói ở tâm can hoà với lời ca thống thiết nói lên sự cách biệt bất hạnh của hai giai cấp một bên là người dân đói khổ thật thà, bên kia là kẻ quyền uy giàu sang dối dang, mà kẻ quyền uy đó chính là thành phần tư bản đỏ của bạo quyền Cộng sản Việt nam hiện nay đang trấn lột đồng bào.

Còn tổ quốc Việt Nam thì sao? Việt Khang tự hỏi rằng “Giờ đây Việt Nam còn hay đã mất?”. Nếu còn, tại sao nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lại để cho “bọn giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta” mà cả một guồng máy khổng lồ của công an, bộ đội chỉ để phục vụ cho “đảng cầm quyền” mà không bảo vệ được ngư dân Việt Nam đến nỗi “Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội, chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu” ….

Tổ quốc đã không còn hiện hữu trước một bạo quyền chỉ biết hiếp đáp người dân, chỉ biết bóc lột giàu có dối gian, trong khi ngoại xâm đang thật sự hống hách trên quê mẹ Việt Nam, là một nhạc sĩ yêu nước Việt Khang dùng tiếng hát sâu xoáy của mình như tiếng kêu của con quốc quốc trong đêm thâu kêu gọi lòng yêu nước của mọi người “là một con dân Việt Nam, lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm, người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi”. Đồng bào ơi! tổ quốc đang lâm nguy không phân biệt già trẻ trai gái hãy đoàn kết “từng đoàn người đi chẳng nề chi, già trẻ gái trai hãy dơ cao tay….” đoàn kết sức mạnh dân tộc để “chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam”.

Việt Khang-Võ Minh Trí đã cất cao giọng hát từ đáy lòng sâu thẳm của tâm hồn, lời ca cao vút của anh như những nhát dao cắt lòng những ai đang trăn trở trước nguy cơ của dân tộc, anh đã buông tiếng hát nói lên phần hồn của bản nhạc mà đó cũng là ước nguyện của đồng bào.

Nhạc sĩ Việt Khang là thành viên của Tuổi Trẻ Yêu Nước, trước khi anh bỏ hồn vào hai bản nhạc “Việt Nam Tôi Đâu” và “Anh Là Ai” anh đã đoán rằng sự an ninh cá nhân của anh không được bảo đảm, nhưng đó là thứ vũ khí trong đấu tranh Diễn Biến Hoà Bình mà tài nghệ anh đang có là viết nhạc và lời ca, anh tận dụng sở trường của mình để cứu quê hương dân tộc. Tiếng hát của anh với bài “Việt Nam Tôi Đâu” là tiếng huy động lòng người, tiếng kèn thúc dục sự đứng lên của mọi giới, khi nghe tiếng hát của bài nhạc “Việt Nam Tôi Đâu” người đang trùm chăn phải thức dậy, kẻ ươn hèn trở nên can đảm. Một người thanh niên yêu nước chân chính như thế mà vào lúc 7:00 giờ tối ngày 23-12-2011, Công An Cộng sản Việt nam đã vào bắt anh đi vào trại tù, đó có thể là sự tiên đoán của bản nhạc “Anh Là Ai” mà Việt Khang đã chuẩn bị cho mình để dấn thân làm một người trai yêu nước giữa chốn hám danh, hám lợi, đầy dối trá của bạo quyền.

Chúng em viết lên đây những lời chân tình của người đồng hành với anh, anh lâm nguy chúng em vẫn còn tiếp tục cuộc hành trình với lòng tin tưởng “kẻ bán nước không bao giờ được dân tộc tha thứ, và kẻ xâm lăng không bao giờ thành công trước sức mạnh đoàn kết của một dân tộc” – Ở chốn lao tù kia, xin anh vững tin vào chính nghĩa đã chọn.

Long Hải & Quốc Tuấn

People's Power

Việt Nam hãy học bài học Tunisia, Egypt, Lybia
Free the people, Free yourself

"Those who make peaceful revolution impossible,
make violence inevitable." - John F. Kennedy


Peaceful Revolution Hopeless
Non-violence Hopeless With Vietnam Communists


Tự do không phải ngồi đó mà có,
phải trả giá bằng sự quyết tâm, bằng xương, bằng máu ..
không phải là van xin, thắp nến hiệp thông,
cầu nguyện chỉ có ở trong chùa chiền, nhà thờ.
teolangthang

________


Saturday, January 7, 2012

Việt Nam Tôi Đâu ???


Đừng Sợ Nữa Đồng Bào Tôi Ơi!
Hãy Đứng Dậy Lật Đổ Tập Đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam
Buôn Dân Bán Nước

_____________________________________


Việt Nam Tôi Đâu ???
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)
Chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam ...


Việt Nam ơi …
thời gian quá nửa đời người và ta đã tỏ tường rồi,
ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ việt nam đau từng cơn sót dạ nhìn đời
người lầm than đói khổ nghèo nàn
kẻ quyền uy giàu sang dối gian

Giờ đây…
Việt Nam còn hay đã mất?
mà giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội
chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu

Là một người con dân việt nam
lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm
người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi
từng đoàn người đi chẳng nề chi
già trẻ gái trai giơ cao tay
chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước việt nam
_______________________

Anh Là Ai ??

Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)

Xin hỏi anh là ai?
Sao bắt tôi, tôi làm điều gì sai?

Xin hỏi anh là ai?

Sao đánh tôi, chẳng một chút nương tay

Xin hỏi anh là ai?

không cho tôi xuống đường để tỏ bày
tình yêu quê hương này dân tộc này đã quá nhiều đắng cay.

Xin hỏi anh ở đâu?

ngăn bước tôi, chống giặc tàu ngoại xâm

Xin hỏi anh ở đâu?

sao mắng tôi, bằng giọng nói dân tôi

Dân tộc anh ở đâu?

sao đan tâm làm tay sai cho tàu?
để ngàn sau ghi dấu
bàn tay nào, nhuộm đầy máu đồng bào.

Tôi không thể ngồi yên

khi nước việt nam đang ngã nghiêng
dân tộc tôi, sắp phải đắm chìm
một ngàn năm hay triền miên tăm tối

Tôi không thể ngồi yên

để đời sau cháu con tôi làm người

Cội nguồn ở đâu?
khi thế giới này đã không còn Việt Nam.


People's Power

Việt Nam hãy học bài học Tunisia, Egypt, Lybia
Free the people, Free yourself

"Those who make peaceful revolution impossible,
make violence inevitable." - John F. Kennedy


Peaceful Revolution Hopeless
Non-violence Hopeless With Vietnam Communists


Tự do không phải ngồi đó mà có,
phải trả giá bằng sự quyết tâm, bằng xương, bằng máu ..
không phải là van xin, thắp nến hiệp thông,
cầu nguyện chỉ có ở trong chùa chiền, nhà thờ.
teolangthang

________


Friday, January 6, 2012

Xuân Này Con Không Về

Xuân Này Con Không Về
Trịnh Lâm Ngân
Duy Khánh



Xuân Nào Con Sẽ Về
Nhật Ngân
Duy Khánh








Tuesday, January 3, 2012

Nhạc

Việt Nam Tôi Đâu ???
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)
Chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam ...



Anh Là Ai ??
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)


Một Mai Giã Từ Vũ Khí
Ngân Khánh
Trình bày: Duy Khánh




Thursday, December 29, 2011

Cuối năm 2011. Địt mẹ ! tao chửi chúng mày một tiếng đảng cộng sản Việt Nam - teolangthang

Địt mẹ, đảng cộng sản Việt Nam
    LỜI CẦU NGUYỆN CỦA LS LÊ DUY SAN
    1. Việt Cộng chết hết và chết một cách thảm khốc cả gia đình và dòng họ.
    2. Thân Cộng chết hết và chết một cách thảm thương cả gia đình và dòng họ.
    3. Những kẻ có những lời nói, hành động cố ý làm lợi cho Việt Cộng hay gây chia rẽ hàng ngũ người Việt Quốc Gia, mạ lỵ những người chống Cộng cũng chết hết và chết một cách thảm hại cả gia đình và dòng họ.

Vô Tôn Giáo - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Theo "lý lịch trích ngang" của 16 ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam thì không một tên nào có cha mẹ cũng như không theo bất cứ một đạo nào. Đó là chủ trương vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc theo cái thuyết khốn nạn mà các tay tổ cộng sản đẻ ra nhằm biến con người thành con vật để dễ dàng cai trị ! Như vậy bất cứ tên cộng sản lớn nhỏ nào cũng không xứng đáng để được gọi là con người. Chúng còn tệ hơn cả loài thú dữ, dù ăn thịt đồng loại, nhưng con vật vẫn còn biết được đâu là tổ ấm gia đình, đâu là phần đất cần phải bảo vệ. Cọp beo, trăn rắn, kên kên …. lúc chập chững còn biết nguồn gốc tổ ấm, bám theo cha mẹ, tìm về hang động, bảo vệ lẫn nhau và chung sức chống đối kẻ thù hơn những tên cướp xuất thân từ rừng xanh, khi khôn lớn thì tự cho mình từ đất chui ra và từ chối luôn cả cha lẫn mẹ. Vậy chúng là thành phần đội phân trồi lên, chẳng khác gì dòi bọ ở các hầm cầu. Còn nữa, đã là cộng sản thì chúng luôn luôn kỵ tôn giáo và xem ‘đạo’ như một thứ thuốc phiện ru ngủ con người đồng thời là mầm mống nguy hiểm chống lại chế độ của chúng.

Có thể nói rằng, loài người là một tuyệt phẩm mà Thượng Đế đã tạo ra, nhưng muốn được gọi là con người thì phải có một bộ óc hiểu biết và một con tim nhạy cảm hơn các loài động vật khác…để từ đó con người mới biết tôn trọng lẫn nhau, sống hòa hợp, phân công và góp sức xây dựng một xã hội tốt đẹp và tiện nghi. Nhưng cái gì có thể giúp cho con người làm được những điều nầy? Phải chăng vai trò giáo dục có thể giúp con người biết điều hay lẽ phải, biết tôn trọng luật pháp, biết tu thân tích đức và làm lành tránh dữ…Như vậy muốn trở nên một con người hữu ích thì phải có một ‘lực’ linh thiêng nào đó để kềm ép thể xác tránh được những cái dục vọng, gian ác tầm thường trong mỗi con người. ‘Lực’ đó chính là căn bản của tôn giáo.

Khi đề cập đến vấn đề tôn giáo, xin hiểu rộng và đừng hạn chế trong một phạm vi hạn hẹp là tôn giáo chỉ có thờ phượng các Đấng Thượng Đế, Chúa, Allah, Phật, Ông Bà … mà phải nói đến các hình thức tôn giáo lớn nhỏ khác của loài người vượt qua ranh giới không gian và thời gian. Ví dụ như từ Thần Sông, Thần Núi, Thần Biển, Thần Rừng, Thần Đất, Thần Mưa, Thần Gió… đến Ông Voi (cá), Ông Địa, Ông Táo, Ông Tài, Ông Phước, Ông Lộc, Ông Thọ cũng như Đình Làng, Cây Đa, Khóm Tre, Gốc Cây, Ngọn Cỏ … đối với người Việt Nam nói riêng, hoặc Á Châu hay các sắc tộc khác, nói chung, là những Vị Linh Thiêng mà con người dựa vào đó để tin tưởng, khấn vái, cầu xin và sám hối. Vậy có thể nói rằng dù ở thời đại hay chân trời góc biển nào, đã là con người, không nhiều thì ít cũng mang nguồn gốc ‘hữu thần’ trong quả tim và trí óc, nghĩa là chấp nhận sự hiện diện các Đấng Linh Thiêng trong đời sống của họ để tôn sùng, cầu xin, sám hối và (được) phán xét.

Tại sao cộng sản sợ tôn giáo?

- Thứ nhất: Tôn giáo là niềm tin và điểm tựa của đời sống tâm linh, là đường dẫn con người đến với Đấng Linh Thiêng. Kẻ có tôn giáo tức là có đời sống hướng thiện, thường nghĩ rằng trần thế chỉ là tạm bợ, họ tin tưởng có thưởng có phạt trong kiếp sau, do đó họ phải làm lành tránh dữ, chống lại những gì giả dối gian manh thiếu luân lý đạo đức. Vậy, đối với cộng sản, bất cứ tôn giáo nào cũng là những cái gai nguy hiểm đối với chế độ, chúng chủ trương phải nhổ bỏ tận gốc. Nhưng thực tế, cộng sản đã lầm và lịch sử chứng minh rằng không bao giờ chúng diệt được cái gốc hữu thần trong con người. Vậy để gây chia rẽ các khối tôn giáo chính thống, chúng phải dựng lên một hình thức tín ngưỡng mới là thần thánh hóa các tên lãnh tụ để bắt dân chúng phải tôn thờ nhằm thế chỗ Thượng Đế, Chúa, Phật, Thần Thánh …

- Thứ hai: Tôn giáo là những tổ chức mạnh mẽ về đời cũng như đạo, có chiều sâu, có căn bản, có thực lực về lượng và phẩm thì đây chính là mối nguy trầm trọng đối chế độ cộng sản. Trên 60 năm qua chúng đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu xóa sổ các tôn giáo lớn tại Việt Nam. Để đối phó với vấn đề nầy, bọn việt gian cộng sản đã quỷ quyệt dùng vật chất mua chuộc những kẻ tu hành còn nặng nợ trần gian, hoặc biến công an thành tu sĩ để lập những tổ chức tôn giáo quốc doanh nhà nước và đặt dưới quyền điều động của Mặt Trận Tổ Quốc. Do đó hiện giờ các tôn giáo lớn tại Việt Nam đều có hai giáo hội hoạt động song song, một bên được ưu đãi và bên kia bị cô lập, theo dõi, kiểm soát và hăm dọa.

Để đi vào chi tiết, tại sao phải có tôn giáo trong đời sống con người? Vậy xin tóm tắt qua ba lãnh vực.

Tôn giáo là nguồn gốc tình người:

Đạo nào cũng dạy con người phải biết thương yêu, đùm bọc, chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho nhau. Tình yêu không chỉ hạn chế trong phạm vi gia đình, dòng họ, bạn bè, lối xóm với nhau mà phải bao gồm giữa những con người cùng chung dòng máu, giữa dân tộc nầy sắc dân khác, kể luôn đối với kẻ thù. Xã hội dưới chế độ cộng sản mất hẳn tình thương, do đó người ta không lạ gì khi hận thù vẫn còn phủ kín trên mảnh đất quê hương. Thù hận từ trong gia đình, thôn xóm ra đến xã hội, giữa kẻ nghèo người giàu, giữa người Bắc với Nam, giữa hai chế độ mới cũ, giữa tôn giáo nầy với tôn giáo kia. Hơn nữa tình trạng vô tôn giáo đã thật sự đưa con người dưới chế độ cộng sản hiện nay đến tình trạng ‘người bóc lột người’ một cách tàn nhẫn mà loài người không bao giờ tìm thấy trên quả đất nầy! Cũng vì thiếu tình người mà hàng trăm khách qua đường đã ngoảnh mặt làm ngơ khi một em bé bị tai nạn nằm rên la suốt cả nửa ngày ngay giữa đường chính trong thành phố. Đây chính là hình ảnh rất thực chứng minh tình người đã biến mất tại Việt Nam hiện nay.

Tôn giáo là cội nguồn đạo lý:

Tôn giáo dạy con người phải biết đạo làm người, đạo đối với cha mẹ, đạo với tổ quốc (bảo vệ giang sơn), đạo với Trời Đất. Một xã hội thiếu đạo đức thì con người không còn biết trái phải và chỉ hành xử với nhau theo bản năng vật chất và nhục dục. Cũng tại Việt Nam vì thiếu đạo đức, người trở thành con thú, cha mẹ cần tiền bán con vào động điếm, vợ chồng giết nhau chỉ vì chút lợi nhỏ, hàng xóm chém nhau chẳng qua một miếng ăn. Cũng vì vắng đạo đức mà hiệu trưởng biến trường học thành động đĩ để bán dâm cho cấp trên, bọn cầm quyền đóng thùng xuất khẩu hàng triệu gái ra nước ngoài làm vợ người, cán bộ ăn cắp tiền và phẩm vật cứu trợ của nạn nhân bảo lụt, các nhà tu hành ngủ với tín đồ phật tử và lấy tiền dâng cúng để bao gái. Những tệ trạng nầy xảy ra hằng ngày dưới cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ cộng sản. Và cũng vì vắng đạo đức, nhiều khách sạn nhà nước đã biến thành ổ mại dâm để cho hàng ngàn sinh viên học sinh tại Hà nội hành nghề ! (tin ngày 23.12.2011).

Tôn giáo là căn bản xã hội:

Nếu không có tôn giáo, nghĩa là thiếu công bằng, luật nằm trong tay kẻ mạnh, như thế xã hội mất hẳn tính chất minh bạch của con người khi đối xử với nhau ngay từ hạ tầng cơ sở. Dưới, mạnh ai thì nấy cướp cạn. Trên, bóc lột đã có môn bài. Không ai sợ tội, không ai khuyên nhủ và cũng không một lực nào để ngăn cản tội ác đang bộc phát và hoành hành trong mỗi con người. Một xã hội mà trên tham lam vơ vét của người nghèo, ăn cắp tài sản quốc gia thì không thể nào ngăn cấm răn đe cấp dưới làm lành tránh dữ và giáo hóa uốn nắn họ trở về với đường ngay lẽ phải.

Tóm lại nếu một xã hội vắng tình thương và thiếu đạo đức thì sẽ trở thành một địa ngục, ở đó vật chất và quyền lực là nấc thang để phân loại con người và là vũ khí để hành hạ chém giết lẫn nhau. Chính vì vô tôn giao, việt gian cộng sản đã biến dân lành Việt Nam thành những tên lưu manh, đểu cáng, trộm cắp, móc túi theo tư tưởng và lời dạy của già dịch mang tên Hồ. Thành phần nầy có mặt đầy dẫy không những từ hạ tầng cơ sở như đường phố, bến chợ mà còn trong các cơ quan du lịch, thương mại và ngoại giao tại nội địa cũng như hải ngoại.

Để kết luận, một đám người từ rừng chui ra, chỉ biết dùng bạo lực để biến đất nước thành một xã hội vô tổ quốc, vô gia đình nhất là vô tôn giáo thì lương tâm, quả tim và đầu óc của bọn chúng hoàn toàn bị tiêu diệt bởi nhục dục và tham vọng. Chúng là những khối thịt, chỉ biết ăn thật no hưởng thật nhiều và vơ vét cho đầy túi. Như vậy đất nước Việt Nam trên nửa thế kỷ nay bị cai trị bởi đám súc vật nầy thì thế giới đâu có lạ khi xã hộiViệt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản không còn chút gì để gọi là đạo lý và tình người…

Đinh Lâm Thanh

Saturday, December 24, 2011

Cánh chung luận là gì? - L.m. Andre Đỗ Xuân Quế o.p

    Cánh chung luận là gì?
"Đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại."

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p

Cụm từ này khó hiểu vì không có trong từ điển và trong đời thường. Trong tự điển, chỉ thấy những từ như chung kết, chung cục, chứ không thấy cánh chung. Còn trong đời thường, chỉ thấy nói đến cánh chim, cánh cửa, cánh kiến, cánh nhạn v.v…, chứ không thấy nói đến cánh chung, sở dĩ như vậy vì từ cánh chung mới xuật hiện vài chục năm nay thôi, khi linh mục Nguyễn Thế Thuấn nói đến “nhỡn giới cánh chung” ở trang 560 trong bản dịch Kinh thánh của mình. Đàng khác, cánh chung là một cái gì rất xa lạ đối với đời thường của dân chúng.

Khi muốn dịch từ eschaton ƐσχαƮoν (những sự sau) trong Kinh thánh và eschatos logos ƐσχαƮoς λογος (lời về sự sau) trong thần học, nhiều người không biết dùng từ nào, nên mượn từ cánh chung của linh mục Thuấn cho tiện. Từ đó dần dần cánh chung trở thành chữ phổ thông trong sách báo công giáo.

Vậy chính ra, cánh chung là gì và cánh chung luận là thế nào? Theo nguyên ngữ Hy lạp eschaton là những sự sau và eschatos logos là lời về những sự sau. Eschatos logos trở thành eschatology trong tiếng Anh và eschatologie trong tiếng Pháp. Đây là môn học về những sự sau, gọi là tứ chung hay bốn sự sau, tức sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục trong khoa thần học công giáo mà hiện nay người ta nói cách văn vẻ là cánh chung luận.

Sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục là nội dung được bàn đến trong cánh chung luận. Đây là những tín điều người công giáo phải tuyên xưng trong các Chúa nhật và các ngày lễ trọng. Họ buộc phải tin rằng khi chết rồi, mỗi người phải ra trước tòa Chúa để bị phán xét về các việc mình làm khi còn sống. Nếu ăn ngay ờ lành thì được thưởng. Nếu ăn ở bất nhân thì bị phạt. Người lành được thưởng trên thiên đàng còn kẻ dữ bị phạt sa hỏa ngục. Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ cho thấy cảnh tượng đó đối với những người ăn ngay ở lành:

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25,34-36)

Còn đối với những kẻ bất nhân :

“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỉ và các sứ thần của nó. vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt. 25, 41-43)

Ngày cánh chung là ngày cuối cùng, ngày chu kỳ lịch sử loài người hoàn tất, ngày Chúa ngự giá mây trời mà đến trong tư thế lẫm liệt uy hùng, để phán xét người sống và kẻ chết.

Qua những lời Chúa phán trong ngày phán xét chung, những người được ân thưởng là những người làm những việc từ thiện bác ái. Những người này không phải là những người chỉ biết sống cho riêng mình mà là những người có các mối liên hệ với xã hội, với con người. Các Ki-tô hữu được thánh Phê-rô và thánh Phao-lô dạy rằng quê hương của họ ở trên trời: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20) và họ ở trần gian này như lữ khách: “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt vốn gây chiến với linh hồn”. (1 Pr 2,11)

Quê trời là đích điểm cùa những người tin Chúa. Vì thế, cánh chung phải là ngày các Ki-tô hữu nhắm tới. Vì ngày đó mà họ cố sống theo lời Chúa dạy, khi còn ở trần gian này.

Quê hương Ki-tô hữu ở trên trời và họ ở trần gian này như những lữ khách, nhưng không phải vì thế mà họ xa lạ với trần gian. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng cũng như học thuyết xã hội của Hội thánh luôn đặt Ki-tô hữu trước những bổn phận đối với trần gian theo cái nhìn của đức tin. Phải góp phần vào việc xây dựng xã hội trần gian để đem ơn cứu độ của Chúa cho xã hội đó.

Căn cứ vào nội dung môn cánh chung luận trong thần học công giáo thì không một triết thuyết hay chủ nghĩa nào có thể mang danh hiệu là cánh chung luận, vì triết thuyết hay chủ nghĩa đó không nhìn nhận Thiên Chúa là Chủ tể càn khôn và cùng đích của loài người, Đấng thưởng người lành và phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm. Vì vậy, nói rằng:

“Bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó: không còn cảnh người bóc lột người, mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn nhu cầu có bao nhiêu là cứ việc xài. Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sư hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sư nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân, Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…” (Ngưng trích bài giảng về lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ ngày 20.11.2011 đọc thấy trên mạng NVCL của ĐC Phê-rô Nguyễn Khảm).

Thì đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại.

Thuyết Mác-xít có chăng thì chỉ là một cái bánh vẽ, một sự mơ tưởng hão huyền về một tương lai tốt đẹp cho con người, một sự ru ngủ những người cả tin vào những lời đường mật của những kẻ khéo nói có tài che đậy, để lường gạt thiên hạ mà thôi. Cứ nhìn xem những gì đã xẩy ra hay còn đang xẩy ra tại những nước áp dụng chủ nghĩa Mác-xít mà Cuốn sách đen về chủ nghĩa Cộng sản, là đủ thấy.

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.


ÔNG GIÁM MỤC và CÁNH CHUNG LUẬN - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Giám mục Nguyễn Văn Khảm vốn là một nhân vật nổi tiếng về khoa ăn nói, dân nhà quê như người viết gọi là lẻo mép, còn bậc trí thức người ta kêu là hùng biện. Một nhà hùng biện làm tới giám mục giáng về vấn đề “Cánh Chung” trong đạo thì nhất định là đúng người, đúng việc rồi chứ có gì mà phải théc méc. Ấy vậy mà sau khi ngài giám mục giảng, con chiên bổn đạo nổi lên nhao nhao phản đối. Sự thể đáng sợ thật, chỉ sợ tội thôi, bởi vì Chúa dậy trong Phúc Âm rằng tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ kia mà. “Họ” ở đây là chỉ các “đấng làm thầy” (tiếng nhà đạo). Dám cãi lại lời đức cha là tội trọng, chết sa hỏa ngục chứ chẳng chơi. Thế nhưng, đọc kỹ lại đoạn Phúc Âm thì mới thấy yên tâm. Chúa khuyên người Do Thái nên nghe lời giảng dậy của các kinh sư khi họ ngồi trên tòa Moyses để giảng lời Chúa, chứ không phải Chúa bảo bổn đạo VN phải nghe lời giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm. Vì rằng, bài giảng của ngài giám mục không dính dáng đến Chúa, mà nói về Marx. Như vậy không những là lạc đề, mà còn đưa đến nhiều nghi ngờ trong con chiên bổn đạo nữa.

Ngày lễ kính Chúa Kitô Vua (Christ the King), giám mục Khảm không giảng theo nội dung của ngày lễ, mà lại lái sang vấn đề cánh chung, còn là cánh chung của Karl Marx mới chết, không lạc đề thì còn là gì nữa. Nói thế thật ra cũng chưa đúng hẳn, vì Phúc Âm ngày lễ Chúa Kitô Vua theo thánh sử Mathew có đề cập đến vấn đề Cánh Chung. Nhưng cánh chung ở đây là ngày tận thế, Chúa quang lâm ngự xuống phán xét nhân loại, người lành cũng như kẻ dữ. Cuối cùng Thánh Sử kết luận: Thế là họ (kẻ dữ) ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời. Đấy là giáo lý và là học thuyết về Cánh Chung của người công giáo.

Ít nữa trong ngày lễ này, người tông đồ của Chúa như giám mục Khảm phải giảng thuyết làm sao chứng minh cho giáo dân thấy, và để thuyết phục những người chưa tin Chúa, nhất là bọn cộng sản vô thần chung quanh ông rằng, Chúa Giêsu là một vị đế vương. Ngài xứng đáng là vua thật. Hơn nữa còn là một minh quân, một vị hoàng đế rất thương yêu dân, biết lo cho dân, nhưng vấn đề thưởng phạt của Ngài cũng rất mực công bình, không thiên vị ai bao giờ. Con người chết đi bị Ngài xét xử để được luận thưởng hoặc phạt theo những việc làm của họ khi còn tại thế. Đó là sự cánh chung của người công giáo. Cũng nên nói cho bọn cộng sản chung quanh ông hay rằng tuy Chúa là vua, nhưng chúng mày đừng có sợ. Ngài không tranh quyền đoạt vị của chúng mày đâu, bởi vì chính Ngài đã xác nhận trước mặt Tổng Trấn Philatô, đại diện của Hoàng Đế La Mã rằng, nước của Ngài không phải là quốc gia trần tục, mà là Nước Trời. Tài cán và hùng biện như giám mục Nguyễn Văn Khảm mà sao không vẽ ra được một thiên quốc hấp dẫn để chiêu hồi bọn cộng sản. Rằng, Nước Trời là một quốc gia có tự do, và cũng có kỷ cương, chứ không loạn xà ngầu giống như nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa của chúng mày, bởi vì ở đấy có một vị vua anh minh là Chúa Kitô. Ngài lấy đức mà trị dân. Người dân trong nước của Ngài lấy thương yêu bác ái để đối xử với nhau trong tình huynh đệ. Do đó Nước Tròi của Chúa mới là Thiên Đường thực, khác xa cái thiên đàng viển vông của Karl Marx nơi trần thế. Ở Nước Trời không bao giờ có chuyện ngưòi bóc lột người. Ở đó mới có công bình và công lý thật. Mọi công dân trong Nước Trời của Chúa mới sống đích thực mình vì mọi người và mọi người vì mình. Họ không phải lao động cực nhọc mà vẫn sung mãn và hạnh phúc tràn trề ……

Thiếu gì chuyện để diễn giảng về vương quyền và lòng nhân hậu của Vua Giêsu ông giám mục không nói tới, mà lại nói về vấn đề Cánh Chung của Karl Marx, thế mới là trật duộc và sinh chuyện. Cánh Chung là gì thì lời giải thích và thí dụ ông giám mục đưa dẫn chứng cũng lại sai bét luôn. Theo từ điển Thiều Chửu, Cánh có nghĩa là trọn vẹn, sau rốt. Thí dụ như: hữu chí cánh thành nghĩa là có chí sau cùng nhất định sẽ thành công. Hoặc, cứu cánh nghĩa là xét đến cùng của sự việc. Còn chữ Chung có nghĩa là hết hoặc chết. Cánh Chung là một từ kép hán nôm, các nhà dịch giả và chú giải Kinh Thánh dùng để nói về ngày tận thế, Chúa quang lâm để phán xét loài người. Tiếng Anh chữ Cánh Chung là Eschatology, là môn nghiên cứu về những sự việc sau hết (the study of the “last things”). Last Things trong ngoặc kép muốn nói là những sự việc sau cùng của cuộc đời sau khi con người nhắm mắt xuôi tay. Đây là một luận đề phổ thông trong các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Eschatology bàn về số phận sau cùng của thế giới, của loài người, và của mỗi cá nhân. Cánh Chung trong giáo lý Công Giáo bao gồm các học thuyết về sự chết, sự sống lại, thiên đàng, hỏa ngục, sự trở lại của Chúa Giêsu và việc phán xét của Ngài. Như vậy Cánh Chung luận là luận về sự việc gì xẩy ra ngay sau cái ngày tàn của vũ trụ vạn vật hay cái chết của mỗi con người, hoàn toàn không phải là đường lối giải quyết những vấn đề thực tại của xã hội trần tục. Rõ ràng, một đàng là những vấn đề sau cái chết, còn một đàng là những vấn đề của con người còn đang sống. Hai vấn đề hoàn tòan khác nhau. Giám mục Nguyễn Văn Khảm đã thuyết giảng ra ngoài vấn đề của ngày lễ, và còn giảng sai về đề tài mà ông đề cập tới. Dưới đây xin trích lại phần chính diễn giải chữ Cánh Chung trong bài thuyết giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm:

“Dĩ nhiên, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó:

- không còn cảnh người bóc lột người,

- mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn như cầu có bao nhiêu là cứ việc xài.

Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sự hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân.

Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…”

Trích đoạn ngắn trên đây có thể nói là bản copy bức tranh cảnh thiên đàng trần thế mà Karl Marx đã tưởng tượng ra. Đó là một xã hội trong đó mọi người yêu thương nhau như anh em, không ai hà hiếp bóc lột ai, mọi người tự giác làm việc đúng khả năng và hưởng cái công lao động tùy theo nhu cầu của mình. Khung cảnh thiên đường tốt đẹp mà Marx vẽ ra hấp dẫn đến độ có hàng triệu con người dám hy sinh cả cuộc đời để kiến tạo nên nó. Những con người này chết đi chẳng cầu Niết Bàn của Đức Phật, cũng không mơ tưởng Thiên Đàng của Chúa. Họ cho là họ đã mãn nguyện rồi vì, “sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi mãi trong nhân dân.” Vô thần mà, đâu còn cái gì nữa sau khi chết. Câu này nói rõ ý nghĩa “cánh chung” của người vô thần. Đấy là Cánh Chung Luận của CS theo giám mục Nguyễn Văn Khảm. Ông không bình luận, nhưng sự diễn tả của ông cho thấy ông rất ngưõng mộ luận điểm Cánh Chung của Marx. Giám mục Khảm nói: “Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai ....” Bởi vì ông giám mục giảng cho bổn đạo trong một thánh lễ, lời giảng của ông tức là lời giáo huấn, cho nên phải hiểu rằng giám mục Khảm chủ tâm dậy bổn đạo nên noi theo hàng triệu con người CS kia mà thực hiện cái cánh chung của Marx: mãi mãi để lại sự nghiệp trong nhân dân. Thế thôi, Thiên đàng là chuyện vớ vẩn chăng?

Cánh Chung của Marx tốt đẹp và hấp dẫn như thế, nhưng Marx là ai, và người đầu tiên có công lao nhất thực hiện Cánh Chung Luận của Marx là Lenin đã suy nghĩ thế nào về luận điểm này thì giám mục Nguyễn Văn Khảm lại không nói tới cho giáo dân của ông biết.

Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho rằng Marx là một người vô thần (atheist). Điều đó chỉ đúng trên sách vở. Thực ra Marx là một ngưòi hữu thần. Ông ta không tin có Thiên Chúa hay bất cứ thần linh nào, nhưng ông lại là một tín đồ ngoan đạo của giáo phái thờ Satan (Satanist cult). Linh mục Richard Wurmbrand, một tác giả nghiên cứu thâm sâu về Marx, phát giác ra rằng Marx là một đệ tử của giáo chủ Joana Southcott, tông đồ của thần Shiloh tức Satan. Ngay từ hồi còn là sinh viên, Marx đã sáng tác những vần thơ ma quái như thế này:

    The hellish vapors rise anh fill the brain,
    Till I go mad and my heart is utterly changed.
    See the sword?
    The prince of darkness
    Sold it to me.
    For me he beats the time and gives the signs.
    Ever more boldly I play the dance of death.


(Xin tạm dịch: những luồng gió địa ngục nổi lên tràn đầy cả trí óc, cho đến khi tôi bị điên loạn, và tim tôi hoàn toàn đổi khác. Có thấy không cây kiếm mà vị hoàng tử của tối tăm đã trao nó cho tôi. Nó đánh nhịp và ra dấu cho tôi. Cứ như thế tôi càng hăng tiết đùa dỡn với tử thần.)

Một câu hỏi đặt ra là, thế thì Karl Marx xướng xuất ra thuyết duy vật vô thần không phải là vô lý sao? Không đâu, lý thuyết Marx đẻ ra chỉ là để triệt hạ các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo, sau đó xây dựng một thế giới mới không còn có thần linh mà chỉ tôn thờ tiền tài, danh vọng, và dục vọng mà thôi.

Nếu như Cánh Chung Luận của Marx đáng trân quí thật như Gm Nguyễn Văn Khảm ca tụng thì người thực hiện lý thuyết của Marx là Lenin đã chẳng phải hối hận trước khi nhắm mắt lìa đời. Trên giường bệnh, Lenin đã cay đắng thố lộ tâm sự thật của lòng mình như sau: I committed a great error. My nightmare is to have the feeling that I’m lost in an ocean of blood from the imnumerable victims. It is too late to return. To save our country, Russia, we would have needed men like Francis of Assisi (*). With ten men like him, we would have save Russia

(xin tạm dịch: tôi đã phạm phải một sai lầm lớn. Cơn ác mộng của tôi là cảm thấy như mình bị rơi vào trong một đại dương toàn máu của không biết bao nhiêu là nạn nhân. Quá trễ để quay đầu trở lại rồi. Để cứu nước Nga, quê hương của chúng ta, chúng ta cần có những con người như Francis Assisi. Được 10 người như ông ta, chúng ta có thể cứu vãn được nước Nga.)

Giám mục Nguyễn Văn Khảm nói chắc như định đóng cột rằng, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận. Câu khẳng định này thiết tưởng cần phải được ngài giám mục làm sáng tỏ. Một vị gám mục tiến sĩ thần học không thể nói năng mù mờ được. Nếu hiểu chữ cánh chung trong lý thuyết của Marx như giám mục Khảm diễn giải thì vấn đề khỏi bàn tới, vì sự diễn giải của giám mục sai rồi như chúng tôi đã trình bầy ở trên. Cánh chung trong triết thuyết của Marx là mục tiêu xây dựng xã hội mà ông mơ ước đạt tới. Nhưng nếu hiểu chữ cánh chung như học thuyết công giáo dậy thì quả thật câu nói của giám mục Khảm đã trở nên hàm hồ. Khổng Giáo chẳng hạn thì Cánh Chung Luận của đạo Khổng là gì. Khổng Tử đã chẳng nói: Đạo khả đạo phi thường đạo. Và ông còn muốn cho quan điểm của mình về các vấn đề siêu hình được rõ ràng hơn, cho rằng, với quỉ thần chỉ nên kính nhi viền chi mà không nên đề cập tới. Hay như Phật Giáo thì thật sự Cánh Chung Luận của đạo Phật giải thích ra sao khi mà Đức Phật dậy rằng vũ trụ vạn vật là một chuỗi tiếp nối “sinh diệt - diệt sinh.” Con người chết đi đầu thai vào một kiếp sống khác. Đó có phải là một chung cuộc đâu?

Cứ cho rằng trong lý thuyết của Marx có bao gồm Cánh Chung Luận như giám mục Nguyễn Văn Khảm khẳng định, nhưng điều khó hiểu là học thuyết này của Marx ngày nay đã bị cả loài người vứt bỏ vì nó sai lầm và không tưởng rồi. Thế nhưng tại sao người môn đệ tông truyền của Chúa lại nhắc lại trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, vị tôn sư của mình, và còn ca tụng nó ngụ ý là khuyên tín hữu thực hành con đường Marx vạch ra. Hầu như mọi tín hữu đều băn khoăn và thắc mắc về điểm đó. Câu trả lời đã có thể tìm ra được ngay trong Phúc Âm rồi. Chúa dậy: “… Vì lòng có đầy thì miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình …” (Mt 12, 34-35). Nếu giám mục Khảm không ấp ủ Marx canh cánh bên lòng thì ông đã không rao giảng về Cánh Chung Luận của Marx trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, người thầy của các tông đồ.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

* Francis of Assisi là một vị Thánh công giáo sống vào đầu thế kỷ thứ 13. Thánh nhân sinh ra trong một gia đình thương buôn giầu có người Ý, nhưng Ngài đã từ bỏ hết của cải, sống đời khó nghèo và lo giúp đõ cho những ngưòi vần cùng và bất hạnh.