Wednesday, May 19, 2010

Vạch mặt hai thành phần CỘNG SẢN và Công Giáo Quốc Doanh - Đinh Xuân Minh

    „Nhóm Cấp Tiến“ trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và
    „Thành phần Bảo Thủ“ trong đảng Cộng Sản Việt Nam.
    Trước biến cố việc thuyên chuyển Đức TGM Ngô Quang Kiệt
Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Lời phi Lộ:

Trong tựa đề, chúng tôi dùng danh từ „thuyên chuyển“ nghe cho thanh. Nhưng, đúng ra phải viết là „biến cố cách chức“ mới đúng. Nếu đức Tổng từ chức, thì đã không có chuyện xáo động xẩy ra, và đức Tổng không phải ra đi vội vã. Vậy, ai cách chức Ngài? Ai làm đầy tớ tay sai cho Việt Cộng? Ai tòng phạm cho sự dữ? Ai a dua trong biến cố cách chức này? Ai là nạn nhân? Ai là “chiên tế thần”? Và ai là kẻ phản bội lường gạt, một Giuđa thời đại?

Trước hết chúng ta tìm hiểu về thành phần bảo thủ trong đảng Cộng sản Việt Nam.

1. “Thành phần Bảo thủ” trong đảng Cộng Sản Việt Nam là ai?

Trong thời gian vừa qua, chúng tôi có đưa lên mạng bài viết nói về thành phần cấp tiến và bảo thủ trong đảng Cộng sản Việt Nam. Hai nhóm này xem ra đang tranh dành quyền lợi và thanh trừng lẫn nhau.

„Nhóm cấp tiến CS“ chủ trương bang giao với Tây phương và Hoa Kỳ, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc quân sự, kinh tế và chính trị của Trung Cộng. Ngược lại, thành phần BẢO THỦ, thì bám chặt vào Tầu Cộng. Thành phần này chịu làm nô lệ và nhượng đất bán biển, để hưởng sự bảo trợ của Trung Cộng, nhằm củng cố và giữ địa vị khỏi sụp đổ. Thành phần Bảo thủ là thành phần nhỏ, rất nhỏ, trong đảng CSVN. Họ là một số trong Bộ Chính trị, trong ban Bí thư và một số trong ban lãnh đạo Trung Ương đảng CSVN. Nói chung, thành phần bảo thủ, chỉ là một thiểu số nhỏ, nhưng có quyền hành. Họ lạm dụng quyền lực bạo lực và được bao che của Cộng Sản đàn anh Trung Cộng.

Nhóm bảo thủ này, đành ngậm bồ hòn, dâng hai quần đảo Trường sa và Hoàng Sa cho Tầu Cộng, để hưởng lợi. Chính sách của nhóm bảo thủ này rất tai hại, vì nguy cơ đưa dân tộc Việt Nam tới diệt vong. Và nguy cơ này, dần dần đã hiện rõ. Đất nước Việt Nam đang trở thành Tây Tạng thứ hai tại Á Châu vì tham vọng chủng tộc Hán, chủng tộc cai trị. Rồi đây, chính những kẻ phản động này rồi cũng sẽ bị đàn anh phản bội và trừng phạt. Chờ xem!

Trái ngược với Thành Phần Bảo Thủ trong đảng Cộng Sản Việt Nam. Tất cả những ai yêu chuộng tự do, cổ võ cho nền dân chủ Công Lý hòa bình thật sự, có chiều hướng thân Tây Phương, Âu Châu và Hòa Kỳ thì họ thuộc về „khuynh hướng CẤP TIẾN“. Họ không muốn Việt Nam trở thành một tỉnh lỵ của Trung Cộng, họ không muốn dân tộc Việt Nam bị Hán hóa. Nhóm CẤP TIẾN muốn ngăn chận cuộc Bắc thuộc cận đại lần thứ hai. Họ muốn loại bỏ và khai trừ thành phần BẢO THỦ ra khỏi đảng Cộng Sản Việt Nam, xây dựng một nền thể chế Dân chủ nhân bản đa nguyên pháp trị, phi Cộng sản.

Nhóm BẢO THỦ là thành phần phản bội dân tộc quê hương, bán đứng đất nước cho Tầu Cộng, để hưởng ô dù che trở bảo vệ quyền lợi riêng tư cho nhóm của họ. Dường như thành phần BẢO THỦ Việt Cộng đang thắng thế?

Nếu, chúng ta định nghĩa: tất cả những ai ao ước về Tự do, Dân chủ, nhân quyền v.v. vừa kể trên, là cấp tiến, thì chúng ta có thể nói được rằng, khối người Quốc gia, ít ra, cũng có một mẫu số chung với nhóm người Cộng Sản Cấp Tiến, trước mắt là về một phương diện chính trị này. Như vậy, khối quốc gia, những người tị nạn Cộng sản tại hải ngoại, những người cộng sản cấp tiến, và toàn khối dân tộc, không phân biệt tôn giáo, gọi chung là những thành phần CẤP TIẾN, chống lại thành phần BẢO THỦ Việt Cộng, thành phần dẫn voi Tầu Cộng về dày mồ. (Hồ Chí Minh là thần tượng hay tội đồ dân tộc, chưa xét về mặt này).

Nhóm BẢO THỦ CỘNG SẢN chủ trương không dung thứ bất cứ đường lối chính trị nào khác. Vì thế, nhóm bảo thủ, đứng đầu là Nông Đức Mạnh, đã ra tay hành hung và khủng bố, lập ra những „tòa án nhân dân“ đấu tố, đưa ra những pháp luật rừng rú, để bắt giam tất cả những chiến sĩ dân chủ hòa bình, bắt giữ những Hiệp sĩ đấu tranh dân chủ chân chính.

Thế „nhóm cấp tiến“ trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, thì sao?

2. „Nhóm CẤP TIẾN“ trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam

Khuynh hướng „Nhóm cấp tiến“, có từ lúc nào trong lòng giáo Hội Việt Nam? Xin thưa, nó thật sự hoạt động khi chính quyền Miền Nam sụp đổ, khi ngày 30-04-1975, Việt Cộng cưỡng chiếm bạo lực niềm Nam. Nhóm này, còn được gọi là nhóm Linh Mục cấp tiến, linh mục Quốc doanh, một thế lực cũng nằm trong Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo yêu nước.

Khi „Nhóm Cấp tiến Công Giáo“ bắt đầu công khai hoạt động, thì trong thời điểm đó, kỹ thuật thông tin điện tín, không như ngày nay, làm chúng tôi khó liên tưởng, và không thể ngờ được rằng sự kiện đó có thể xẩy ra. Ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi! Vậy, chúng ta hãy cùng nhau ôn cố tri ân, những gì đã xẩy ra trong Giáo Hội Việt Nam, tính từ „Ngày dân tộc đau thương“: 30/4/1975, đến nay.

a. Trường hợp thứ nhất: Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1928-2002)

Cách đây đúng 35 năm, cũng trong lúc xáo trộn hiện nay trong Giáo hội. Khi đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, qua văn thư thông báo của Tòa thánh, 22/05/1975, nhậm chức Phó TGM Sài Gòn với quyền kế vị, thì „Nhóm Cấp tiến“ đã giăng băng-rôn, biểu ngữ, phản đối việc bổ nhiệm của Tòa thánh. Chủ động là một số „Linh mục quốc doanh“ của TGP Sài Gòn. Kết qủa, Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận bị tù 13 năm, để rồi sau đó, Ngài bị „đày“ ra hải ngoại, vì sự hiện hữu của Ngài bất cứ ở đâu trong nước, đều nguy hại cho chế độ đương thời. Nguyên nhân, chỉ vì Ngài là cháu của giòng họ Ngô, cháu của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm chống cộng khét tiếng.

Và nhóm „Linh mục Cấp tiến“ đã thực thi thâm ý „bứng chức Tổng giám Mục“ ra khỏi Tổng giáo Phận Sài gòn. Đã „diệt“ thì phải diệt tận gốc tránh hiểm họa sau này?

b. Trường hợp thứ hai: Giám Mục Nikolas Huỳnh Văn Nghi

Song song đó, sự kiện lại xẩy ra với Giám Mục Nikolas Huỳnh Văn Nghi (sinh 1928). Ngày 1/07/1974, Ngài được Tòa thánh phong chức Giám mục phụ tá TGP Sài gòn, hiệu tòa Selsea. Ngày 1/08/1974, lễ tấn phong do Hồng Y Agnelo Rossi, tổng trưởng Bộ Truyền Bá Đức Tin chủ phong, với sự phụ phong của hai Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Philipphê Nguyễn Kim Điền, tại nhà thờ chính tòa Sài-gòn.

Sau khi được phong Giám mục phụ tá Sàigòn, nhưng gần năm sau, ngày 17/04/1975 Ngài làm Giám Quản Tông Tòa tân Giáo Phận Phan Thiết. Và ngày 6/12/1979, Ngài chính thức là Giám Mục chính tòa, Giáo Phận Phan Thiết.

Từ ngày 10/08/1993 đến tháng 03/1998, đức Giám Mục Nikolas Huỳnh Văn Nghi kiêm chức Giáo quản Tông Tòa TGP Sài gòn, thay cho TGM Nguyễn Văn Bình tuổi già sức yếu.

Ngày 1/07/1995, TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình mất, hưởng thọ 85 tuổi.

Tổng cộng gần trọn sáu (6) năm, kiêm chức Giám Quản tông tòa TGP Sài gòn, Đức cha Nghi đã được phép làm những gì đúng chức năng? Và nhóm „Linh Mục Cấp tiến Sài gòn“ đã tước quyền Ngài như thế nào tại Sàigòn?

Một lần nữa, nhóm „Linh Mục cấp tiến“, đã ngăn chận Giám Mục Nghi thực thi nhiệm vụ, do tòa thánh bổ nhiệm. Tòa TGM Sàigòn trống ngôi sáu (6) năm. Nhóm Linh Mục Cấp tiến tha hồ rảnh tay „dẫn dắt và lãnh đạo“ đoàn chiên mất Mục tử.

c. Trường hợp thứ ba: Đức cố TGM Huế, Philiphê Nguyễn Kim Điền (1921-1988)

Đức cố TGM Nguyễn Kim Điền là một Giám Mục mạnh dạn. Ngài dũng cảm hiên ngang công khai chống „nhóm Cấp tiến“. Chính vì vậy, Ngài được đức cố Thánh cha Gioan Phaolô II, phong tước hiệu là vị „Tổng Giám Mục Anh Dũng“.

Vào những năm đầu thập niên 1980, Đức cố TGM Nguyễn Kim Điền, đã nhiều lần viết thư cho Lm Nguyễn Hữu Vịnh, chủ tịch Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, phản đối Ủy ban này. Khi đối chọi với nhóm tay sai này của Việt Cộng, Ngài đã hiểu được dã tâm bất nhân và tiên đoán được chúng sẽ thủ tiêu Ngài. Nên, trước khi chết, Ngài đã nói: „Thiên Chúa đã gọi tôi, để tôi chịu chức tù tội và chết vì bảo vệ Nhân quyền và Công Lý“.

Vâng đúng vậy, ngày 8/06/1988, Ngài đã bị cô y tá nhân viên của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và bác sĩ Trần Văn Thọ (Hôn thê) đầu độc thủ tiêu, trong bệnh viện Chợ Rẫy Sàigòn.

d. Trường hợp thứ bốn: TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, qua công văn Tòa Thánh ngày 22-5-2010, „bị“ thuyên chuyển. Chuyển đi đâu? Hay bị phổng tay lộng hành cách chức?

Lại một lần nữa, nhóm „khuynh hướng cấp tiến“ lộng hành, tiếp tay cho Việt Cộng, ném đá dấu tay„bứng“ TGM Ngô Quang Kiệt ra khỏi TGP Hà Nội.

Đây không phải là hình thức thuyên chuyển thông thường, từ địa phận này qua giáo phận khác, song, đây là hình thức „bứng“ cương vị của một Tổng Giám Mục, cho về „hưu non“.

Xét về những trường hợp của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nikolas Huỳnh Văn Nghi, cố TGM Philiphê Nguyễn Kim Điền và TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đều có mẫu số chung. Qúi Giám mục này đều là nạn nhân của „khuynh hướng Cấp tiến“. Nhóm này được Việt Cộng tiếp tay loại bỏ chức năng Tòa thánh bổ nhiệm. Kết qủa: Đức Cố Hồng Y Thuận thì đi tù. Sau 13 năm tù, Ngài phải từ bỏ quê hương. Riêng đức cố TGM Nguyễn Kim Điền thì bị đầu độc thủ tiêu.

Nay, đức TGM Ngô Quang Kiệt thì bị „lưu đày“. Đức TGM Thuận và Kiệt, cả hai vị bị coi là „nguy hiểm“ cho chế độ và cho nhóm Cấp tiến, nên phải rời khỏi Việt Nam.

Riêng đức cha Nghi, còn được tại chức, có lẽ Ngài cũng đành ngậm đắng nuốt cay, nhìn con cái Chúa đấu đá trong hậu trường. Chắc chắn Ngài rất đau khổ trước những thủ đoạn nham hiểm của nhóm tay sai Cấp tiến trong lòng Giáo Hội.

Riêng trường hợp của đức TGM Ngô Quang Kiệt hơi khác, so với trường hợp của đức cố Hồng Y Thuận và đức cha Nghi về diện và điểm. DIỆN trong trường hợp của Đức TGM Kiệt: Dường như có sự nhường nhịn của Tòa Thánh và của một số Giám Mục trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. ĐIỂM là sự vận động của „Nhóm Cấp Tiến“ tiếp tay cho Việt Cộng. Ai tiếp sức và làm tay sai cho thủ đoạn của Việt Cộng, âm mưu cách chức Đức Tổng?

Họ đổ tội cho „thành phần Cấp tiến trong Hội đồng Giám Mục Việt Nam“ tiếp sức làm tay sai cho Việt Cộng? Họ đổ tội cho „điệp viên đeo thánh giá cấp tiến“ đã được gài vào Tòa thánh? Họ đổ tội cho đức Cha Nguyên Văn Nhơn „nhẹ dạ vâng lời mù quáng“? Họ đổ tội Hội đồng giám mục Việt Nam đang bị quốc doanh hoá? Đúng sai, oan ức? Nếu đúng, thì đây là vết thương trầm trọng cho Giáo Hội Việt Nam. Đức tin đang bị khủng hoảng. Nội bộ cấu xé, không có tình thương và lòng bác ái hy sinh quên mình, và đức chịu đựng nhịn nhục trong tình anh em. Nếu sai, thì qủa đây là sự lên án qúa khích. Nhưng đây, có lẽ cũng là cơ hội để Giáo Hội càng ngày trưởng thành và trong sáng hơn, tạo niềm tin cho bổn đạo nhiều hơn. Cơ hội cho Giáo Hội: Bạch hóa những kẻ làm tay sai cho sự gian ác của Việt Cộng, đang ở trong bóng tối, và „gỡ rối“ đường giây gián điệp gài trong lòng Giáo Hội, phải lộ diện.

(Đúng ngày 13/05, ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, ngày Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bị ám sát tại quảng trường thánh Pherô, đức Thánh Cha Benediktô XVI, hành hương đến Fatima. Ngài cầu nguyện theo mệnh lệnh Fatima: nguyện cho Cộng Sản trở lại. Cộng sản Đông Âu đã trở lại. Nay chỉ còn CS Trung cộng, Bắc hàn, Cu ba và Việt Cộng. Nguyện xin ba mệnh lệnh Fatima thực hiện trên quê hương Việt Nam thân yêu chúng con.)

Riêng TGM Kiệt: Ngài không chỉ là nạn nhân của anh em đồng giáo, song còn là „vật tế lễ hy sinh“ và là nạn nhân của sự phản bội của chính đồng bổn đạo. Có lẽ, Ngài cũng như Đức Giêsu nguyền rủa kẻ phản bội: Thà ngươi đừng sinh ra thì hơn!?

e. Trường hợp của đức cha Cao Đình Thuyên (Vinh). Ngài xin từ chức trong thời điểm này thì được hiểu là vừa bị gián tiếp „bứng“. Qua đó, ngài còn bày tỏ tình Hiệp thông và Liên đới với đức Tổng, báo động cộng đoàn Công giáo trên thế giới, về hiện tình Công Giáo Việt Nam hiện nay, dưới „triều đại Việt Gian Hồ chí Minh“. (Với 83 tuổi, nếu còn sức khỏe minh mẫn, Ngài vẫn không phải về hưu. Ngài rất còn khôn ngoan sáng suốt. Hướng dẫn và lãnh đạo đoàn chiên bằng trí óc, chứ không cần thiết bằng chân!)

Ngài „về hưu“ đúng trong thời điểm này, là Ngài bày tỏ quan điểm, báo động và phản đối về hiểm họa „thế lực đen“ của nhóm cấp tiến trong lòng Giáo Hội Việt Nam.

3. Nhận định tổng quát

Qua những sự kiện kể trên, và mới đây, qua biến cố thuyên chuyển đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, chúng ta có những nhận xét về đất nước và Giáo Hội Việt Nam như sau:

* Thành phần BẢO THỦ trong đảng Cộng sản Việt Nam, và Nhóm Linh Mục Cấp tiến, có mẫu số chung: Họ có ô dù lớn: Thành phần VIỆT CỘNG BẢO THỦ thì dựa vào Tầu Cộng để giữ quyền lực bán nước hại dân. Còn „nhóm cấp tiến quốc doanh“ thì dựa vào đảng Cộng Sản Việt Nam, để phản bội, và bán đứng anh em, tạo thành tích nhằm mua chức thánh.

* Hình ảnh người mục tử là hy sinh dấn thân cho đoàn chiên, và bảo vệ cho đoàn chiên. Thì thay vào đó, là hình ảnh „Mục tử đội lốt Cáo“, với lòng lang dạ thú, dùng mọi thủ đoạn ám hại tranh dành „mồi“ của nhau. Đoàn chiên có hai mặt trận để chống chọi: thứ nhất, đó là „tập đoàn lang sói hiện nguyên hình“ (= Cộng Sản Bảo thủ). Thứ hai là „Sói đội lốt Mục tử“, đi chung với đoàn chiên. Đây là vấn nạn lớn, vì đoàn chiên khó nhận ra được đâu là Sói và đâu là Mục tử chân chính. Mục tử tốt lành sẵn sàng dấn thân hy sinh bảo vệ đoàn chiên; Hay đây chỉ là thành phần „mục đồng chăn chiên“, là loại ô bế chiên, tẩm bổ vỗ béo cho chiên, nhằm có dịp „mần“ thịt chiên, bán lông lấy thịt. Thành phần này chẳng cầu mong họ thương tiếc gì đến đoàn chiên.

* Bất cứ ai đi „chệch hướng“ với „nhóm công giáo Cấp tiến“, có nghĩa không chịu khuất phục làm tay sai cho Việt Cộng Bảo Thủ, thì xẩy ra hai trường hợp: một là bị tiêu diệt; hai, để cho đi tù mục xương; ba là cho về „hưu non“. Nếu ngay cả Giám Mục còn bị cho về vườn, thì sá gì, những cha „chánh xứ tép riu“.

* Cả hai: Thành phần VIỆT CỘNG BẢO THỦ và nhóm CẤP TIẾN CÔNG GIÁO, đều dương cao ngọn cờ đoàn kết, yêu dân tộc. Cả hai muốn xây dựng một Xã Hội Công Dân Mới và Con Chiên Mới. Thành phẩn Bảo thủ Việt Cộng thì tiêu diệt người dân, nếu ai không theo đường hướng của họ. Thủ đoạn của Nhóm Cấp tiến Công Giáo là „bứng“, cho về „hưu non“, tạo „của lễ hy sinh toàn thiêu“. Những ai đi „chệch hướng“ nguy hiểm cho chế độ, không „đồng hành“ với thành phần bảo thủ Việt Cộng, đều bị „trừng phạt“.

* Cả hai đều dùng thủ đoạn phản bội, lòng dạ thì lang sói. Nhóm Cấp tiến Công giáo thì sẵn sàng „tế thần“ đồng đạo để lập thành tích với thành phần bảo thủ trong đảng Cộng sản Việt Nam. Còn Bảo thủ Việt Cộng thì sẵn sàng bán nước hại dân để hưởng sự bao che của đàn anh Tầu Cộng.

* Ai đấu tranh cho Công Lý hòa bình, dấn thân cho sự thật công bằng bác ái, làm chứng cho lẽ phải, đều bị hai nhóm này „kết tội“ là phản động, phải „khai trừ“.

Tóm lại:

a. Đạo diễn cho thảm kịch „TGM Ngô Quang Kiệt“ là „Thành phần Bảo thủ Việt cộng“, trong đó có Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch của cái gọi là UBNDTP Hà Nội và Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị. „Nhóm cấp tiến Công giáo“ là diễn viên diễn tuồng. Tựu chung, cả hai có những khuynh hướng cực kỳ cực đoan và rất nguy hại. Một hiểm họa cho dân tộc và Giáo hội! Theo nhóm BẢO THỦ Việt cộng thì bán nước cho Hán Cộng. Theo nhóm Cấp tiến quốc doanh thì bán Giáo Hội cho Satan! Giáo hội Việt Nam đang bị „nhóm cấp tiến“ lãnh đạo.

b. Hai nhóm này đang tìm mọi cách xây dựng một xã hội đầy bất công và hận thù gian ác. Họ gieo mần mống hận thù, chia rẽ, đầy thủ đoạn thâm độc. Thâm tâm họ thì luôn đòi tiêu diệt người khác chính kiến. Khi tiêu diệt xong, chúng kêu gọi đoàn kết. Ai lên tiếng chống lại sự lòng lang dạ sói, thì họ cho là phá rối đoàn kết. Nên, theo họ nghĩ, quy phục sự Ác là phải thời phải lúc và phải đạo. Họ đòi hỏi người khác tha thứ cho họ, nhưng họ không „nhân nhượng“ bất cứ ai đi „chệch hướng“.

c. Mệnh lệnh sứ điệp của đức cố Thánh Cha Gioan Phaolô gửi Hội Đồng Giám mục Việt Nam là: „Collaborer en résident“ (=Cộng tác trong tư thế luôn đề kháng). Dường như một số thành viên trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, mới làm được phần câu đầu „collaborer“!?

d. Đồng bào và con chiên trong nước phải biết tự vệ. Bất hợp tác dân sự là phương pháp hữu hiệu nhất, nhằm bảo vệ chính mình và bày tỏ quan điểm: không là tòng phạm cho sự gian manh độc ác của Việt Cộng.

Giáo hội do thiên Chúa lập bền vững, không có chỗ đứng cho những ai chống lại nhân phẩm và gía trị tôn giáo cũng như quyền tự do làm người của nhân loại con người. Ai tiếp tay cho sự ác, đều là tòng phạm. Cuộc Chiến giữa Thiện và Ác đang tới hồi kết chăng? Trái tim mẹ sẽ thắng!

Thiện chắc chắn sẽ thắng gian Ác!!! Sau cơn mưa trời lại sáng!

Mong ước, mọi người yêu chuộng công lý hòa bình và sự thật cần quyết tâm hăng say hơn nữa!

Lạy Mẹ La Vang, thánh mẫu giáo hội Việt Nam, xin Mẹ giải thoát dân tộc Việt Nam chúng con khỏi tà thần gian ác ma qủy Việt Cộng.

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Đức Quốc, thứ tư ngày 19/05/2010)


Giáo Hoàng và Quốc Trưởng Vatican: Một Đầu Hai Mặt - Tiến sĩ Trần An Bài




Tiến Sĩ Trần An Bài

Bài viết này nhằm hiểu thêm sự việc Đức Tổng Ngô Quang Kiệt rời khỏi chức Tổng Giám Mục (TGM) Hà Nội, rồi âm thầm vội vã ra ngoại quốc trên một chuyến bay đêm.

* Từ chức hay cách chức?

Lý do chính thức trong vụ Đức Tổng Kiệt rời khỏi chức TGM Hà Nội được chính ngài và Toà Thánh nhắc đến là "Sức khỏe: Bệnh mất ngủ". Nhưng nhiều sự việc không bình thường đã xảy ra chung quanh căn bệnh mất ngủ này, khiến người ta đặt nghi vấn và cho rằng đây chỉ là "căn bệnh chính trị giả tưởng" do Vatican và Cộng Sản Việt Nam (CSVN) giàn dựng lên. Theo dõi lịch trình làm việc trong những năm ở Hà Nội của Đức Tổng Kiệt, vị giám mục trẻ tuổi nhất VN, người ta không thấy có triệu chứng bệnh hoạn gì nơi ngài. Chỉ đến khi Vatican chính thức gửi văn thư ngày 30-1-2008 yêu cầu Đức Tổng Kiệt ngưng tay và hạ giọng trong việc hỗ trợ các giáo dân Hà Nội đốt nến cầu nguyện đòi Công Lý và kể từ ngày 23-9-2008, Cộng Sản Việt Nam (CSVN) căm phẫn đòi đuổi ngài ra khỏi chức TGM Hà Nội thì căn bệnh "mất ngủ" của Đức Tổng bắt đầu phát sinh. Dầu vậy, nhìn cách thức ngài điều khiển Tổng Giáo Phận thì ai cũng phải công nhận: Ngài vẫn còn sung sức như một chiến sĩ can trường khi ra trận. Ngay cả trong giây phút trao quyền ngày 7-5-2010 và hớt hải lên máy bay đêm 12-5-2010 để ra đi không hẹn ngày về, ngài vẫn uy dũng, khoẻ khoắn, chứ không phải nằm trên băng ca được xe Hồng Thập Tự hú còi chở đi.

Giả thuyết một: Nếu Đức Tổng bị bệnh thật thì quả thực hồn ma của bọn Karl Marx, Lênin và Hồ Chí Minh cũng "linh" đấy chứ, vì chúng đã tạo ám khí cho Đức Tổng Kiệt bị bệnh đến nỗi phải từ chức, đúng vào lúc Đảng CSVN run sợ, phải làm hết cách để đuổi ngài ra khỏi Hà Nội. Nếu hồn ma CS không "linh" thì chúng cũng gặp "hên", ngáp phải nhiều con ruồi, như trong quá khứ: Được các cường quốc chọn để thắng miền Nam, được Cộng Đồng người Việt tỵ nạn, dù ghét cay ghét đắng, vẫn cứ gửi tiền mỗi năm hàng tỷ Đô la về VN, vì không nỡ để gia đình và người thân túng đói.
Giả thuyết hai: Nếu Đức Tổng Kiệt không bệnh tật gì và cũng không chịu áp lực nào của Vatican mà khai bệnh giả để đào nhiệm thì thật tội cho những người đã tôn vinh ngài lên bậc Anh Hùng!
Giả thuyết cuối cùng: Nếu Đức Tổng Kiệt đang khỏe mạnh mà phải theo lệnh của Vatican nhận là có bệnh để ký đơn từ chức thì Vatican quả thật tàn ác, chẳng khác nào cha giết con để chiều lòng quân thù.

Trong ba giả thuyết ấy, giả thuyết nào đúng? Từ chức hay cách chức? Còn quá sớm để có câu trả lời chính xác. Tuy nhiên, dù bệnh thật hay bệnh giả, những xáo trộn, những phẫn nộ, những chán chường, những than trách và những hoang mang, thất vọng đang thực sự xảy đến cho các tín hữu VN, trong cũng như ngoài nước. Đa số hình như không tin vào hai giả thuyết đầu mà nghiêng vào giả thuyết cuối là Vatican và CSVN đã mặc cả trao đổi quyền lợi với nhau để hy sinh Đức Tổng Kiệt. Sự tin tưởng này không phải là vô lý nếu biết rằng Giáo Hội Công Giáo hiện đang mang hai bộ mặt.

* Một đầu hai mặt

Giáo Hoàng La Mã - những người kế vị Thánh Phêrô - được Chúa Giêsu giao cho sứ mạng lèo lái con thuyền Giáo Hội, nhưng các ngài còn dựng nên nước Vatican để khoác lên mình thêm chiếc áo Quốc Trưởng. Việc thành lập quốc gia Vatican hoàn toàn không nằm trong chương trình của Thiên Chúa, vì trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khẳng quyết: "Nước Ta không thuộc về thế gian này" (Gioan, 18, 36). Nước Vatican chỉ được thành lập vào ngày 11-2-1929, sau nhiều tranh cãi, giằng co, mặc cả giữa triều đại ĐGH Piô XI với chính phủ Ý. Gọi là quốc gia Vatican để có tư thế chính trị, chứ thực sự quốc gia này chỉ rộng 44 hectare (tức 110 mẫu), với khoảng 800 người mang quốc tịch Vatican. Nhất cử nhất động của quốc gia này đều không qua được mạng lưới tình báo của chính phủ Ý.

Chính vì Giáo Hoàng thành lập nước Vatican để làm chính trị, nên đã gây ra nhiều hệ lụy tang thương và làm hoen ố bộ mặt thánh thiện của Giáo Hội. Với tư cách Giáo Chủ Đạo CG, mọi hành vi và quyết định của Giáo Hoàng bắt buộc phải dựa trên nền tảng Phúc Âm. Nhưng với tư cách Quốc Trưởng một quốc gia, Giáo Hoàng phải áp dụng những nguyên tắc chính trị. Đạo giáo thì thánh thiện, còn chính trị thì mưu lược.

Sở dĩ Giáo Hoàng bị chống đối vì Giáo Hoàng làm chính trị vụng về, lươn lẹo theo thói đời. Các tu sĩ và ngay chính Giáo Hoàng cũng chỉ được huấn luyện để trở thành một tông đồ rao giảng Tin Mừng Phúc Âm, chứ không được huấn luyện để trở thành một chính khách hay một lãnh tụ trên chính trường. Các tu sĩ CG không được học chính trị, quân sự và tình báo trong chủng viện. Các chính khách phải biết tam thập lục kế để áp dụng trong chính trường, phải có những nữ tình báo chuyên nghiệp, có khi phải dùng cả mỹ nhân kế để săn tin hoặc thủ tiêu đối phương. Nhưng Vatican không thể có những phương tiện này. Vì thế, khi lao mình vào chính trị, Vatican đã tự đặt mình vào một tình huống rất khó khăn và khó xử.

Dù các Giám Mục VN có nói thế nào đi nữa, các giáo dân VN vẫn nghĩ vụ Vatican giải quyết cơn sốt TGP Hà Nội là hoàn toàn mang màu sắc chính trị và không thể chối cãi rằng Vatican đã thua nước cờ chính trị của CSVN, vì Vatican làm sao biết lật lọng và nói dối như Vẹm được. Đó là chưa kể nhiều nhân vật có tên tuổi và lý lịch rõ ràng đang quả quyết và sẵn sàng làm chứng rằng Đức Ông Cao Minh Dung, nhân viên thuộc Bộ Ngoại Giao Vatican, đặc trách Đông Nam Á, là một đặc công CSVN. Chính Đức Ông Dung là người đã giàn dựng việc thay ngôi đổi vị tại TGP Hà Nội, có nghĩa là CS đã xâm nhập được vào Vatican rồi.

* Mình với ta tuy hai mà một

Cũng chính vì có chuyện hàm hồ, lẫn lộn giữa đạo với đời mà nhiều giáo dân rất khổ tâm mỗi khi thấy Giáo Hoàng và hàng giáo phẩm bị phê bình, chỉ trích. Họ vẫn sợ rằng: "Chống Cha là chống Chúa!" Nhưng thực sự, họ đã lầm! Cha không bao giờ là Chúa. Và ngàn lần Chúa cũng không thể là Cha. Nhân dân biểu tình, đả kích các nhà lãnh đạo quốc gia của họ là chuyện thường. Quốc trưởng Vatican mặc cả, đổi chác quyền lợi với CSVN mà sai lầm, tạo cơ hội truyền hơi tiếp sức cho CSVN, làm khổ người dân VN thì tại sao giáo dân VN lại phải tung hô Vatican? Việc vạch mặt chỉ tên những gián điệp CSVN cài vào Vatican, nếu có, tại sao giáo dân VN phải im tiếng? Đã là con người, kể cả Giáo Hoàng và giáo sĩ, cũng đều có thể sai lầm. Đọc lịch sử Giáo Hội, nhiều lần Giáo Hội đã có những sai lầm nghiêm trọng. Chẳng thế mà vào năm 2000, trong một buổi lễ thật long trọng tại Roma, dưới sự chủ tọa của ĐGH Gioan Phaolô II, Giáo Hội đã công khai và chính thức xin lỗi toàn thể thế giới về những lỗi lầm của Giáo Hội.

Đối ngược với thái độ chủ trương yên lặng trước lỗi lầm của Giáo Hội, có người lại để mình rơi vào một thái cực khác. Đó là tình trạng tuyệt vọng: Bỏ đạo, bỏ Chúa khi phải chứng kiến những khuyết điểm của Giáo Hội. Thiết tưởng hành động này cũng không đúng. Những lỗi lầm lớn của Giáo Hội đã xảy ra khi Giáo Hoàng và hàng giáo phẩm đi lạc sang các lãnh vực chính trị, khoa học và xã hội. Do đó, giáo dân và những người đang tìm hiểu về Đạo Công Giáo không nên thất vọng và tức giận để rồi bỏ Chúa, bỏ Đạo, bỏ nhà thờ, ngưng học Đạo, khi thấy Giáo Hội ngu ngơ về chính trị. Đạo Chúa dựa trên nền tảng là chính Chúa, chứ không phải nơi Giáo Hoàng này, Giám Mục nọ. Cho nên, đừng vì lỗi lầm của hàng giáo sĩ mà bỏ Chúa, bỏ Đạo.

Giáo dân thường được nghe những lời giảng quen thuộc này: "Giáo Hội là Mẹ khôn ngoan. Giáo Hội được Chúa Giêsu thiết lập và quyền lực thế gian không thể nào phá nổi..." Và lời kinh Tin Kính giáo dân thường đọc rằng: "Tôi tin Giáo Hội thánh thiện". Đúng vậy! Hãy tin tưởng vào những việc Giáo Hoàng làm trong tư thế thay mặt Chúa Giêsu cai quản Giáo Hội, qua những giáo huấn liên quan đến đức tin và đời sống tâm linh. Còn tất cả những việc Giáo Hoàng làm trong tư thế Quốc Trưởng Vatican thì không phải lúc nào cũng hoàn toàn đúng. Chúa Giêsu chỉ lập Giáo Hội mà không lập Quốc Gia Vatican. Chúa chỉ giao cho Thánh Phêrô coi sóc Giáo Hội, chứ không giao nước Vatican cho thánh Phêrô hay các vị Giáo Hoàng. Vì thế, hãy vững tin rằng ma quỷ không phá hủy được Giáo Hội, nhưng ma quỷ dư sức phá được quốc gia Vatican.

Chúng tôi không chống Giám Mục Rôma, tức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đang là Giáo Chủ Đạo Thiên Chúa, nhưng chúng tôi phê bình đường lối chính trị nửa mùa của Quốc Trưởng Vatican Ratzinger đã thoả mãn yêu sách chính trị của CSVN, trói tay TGM Ngô Quang Kiệt, một người dám vì đức tin Kitô Giáo đối đầu với bọn CS vô thần, một người con yêu của Quê Hương và Dân Tộc VN đã uy dũng đứng lên chống áp bức CS phi nhân.

Khi giáo triều Vatican làm chính trị ngu ngơ, nửa mùa và sập bẫy CSVN thì phải tự đấm ngực, ăn năn và sửa mình, chứ đừng đưa Chúa ra để biện minh cho sự thất bại và cũng đừng nên trông chờ giáo dân yên lặng để che lấp sai lầm của Giáo Hội, vì thời đại giáo-dân-thần-thánh-hoá-giá o-sĩ đã qua rồi.

Những ai là nạn nhân của những lỗi lầm, kể cả hành vi tội lỗi của Giáo Hội và hàng giáo phẩm, đều có bổn phận phải lên tiếng sửa sai. Thực tế, những nạn nhân của các tu sĩ phạm tội ấu dâm đã lên tiếng để trong sạch hóa bộ mặt Giáo Hội và họ phải được trân trọng.

Đối với ai được Chúa Thánh Thần soi sáng, nhìn thấy những sai lầm và khuyết điểm của Giáo Hội, họ cũng có trách nhiệm phải lên tiếng, vì Giáo Hội cần được mọi thành phần dân Chúa, từ giáo dân đến Giáo Hoàng, trân trọng, bảo vệ và canh tân.

Xin đừng ai lấy đức vâng lời để giữ yên lặng trước tội ác. Cũng đừng ai dùng đức vâng lời để kết án và bắt những người chỉ trích Giáo Hội phải im tiếng, miễn là những chỉ trích này có căn bản, có chứng cớ cụ thể, được trình bày bằng thiện ý và trong tinh thần xây dựng. Chúa Giêsu cũng tán thành việc sửa lỗi lầm cho anh em. (Luca, 17, 3)

* Đòi một - Cho hai

Hầu hết những chỉ trích nhắm vào Vatican trong vụ thuyên chuyển Đức Tổng Kiệt là vì Vatican đã sai lầm trong chính sách và đường lối chính trị khi phải đối đầu với mưu chước của CSVN.

Hành động của Đức Tổng Kiệt khi phát động đòi Công lý cũng chỉ hoàn toàn mang tính cách công bình xã hội, một giáo điều căn bản của Kitô Giáo, tức là đòi lại chủ quyền đất đai của Tòa Khâm Sứ và của Tổng GP Hà Nội thôi, chứ không liên quan gì đến tôn giáo hay chính trị. Nhưng Đảng CSVN sợ các cuộc đốt nến, tụ họp dân chúng đông đảo có thể đụng chạm đến quyền lợi chính trị của Đảng nên họ đòi cách chức TGM Kiệt.

Vatican đã giải quyết yêu sách của CSVN bằng con đường chính trị pha lẫn đạo đức, tức là muốn dùng chính trị để củng cố đạo: Tốt đời, đẹp đạo! CSVN đòi đuổi TGM Kiệt ra khỏi Hà nội, Vatican cũng giàn dựng đưa ngài đi và đi tuốt ra tận ngoại quốc, vượt quá lòng mong ước của chúng. Đây là giải pháp chính trị có pha giáo huấn Phúc Âm: CS xin một, Vatican cho hai. CS tát má phải, Vatican đưa luôn má trái cho nó tát nữa.

Vì thế, giáo dân có quyền bất mãn với Vatican, khi vô lý hy sinh thuộc cấp của mình bằng những mánh lới chính trị, như tạo ra bệnh tật hay biện pháp tay sắt bọc nhung: "Giám Mục phó với quyền kế vị." Các linh mục và giáo dân Hà Nội đã phải một phen hốt hoảng và sửng sốt về "quyền kế vị" này. Trong khi đó, Cộng Sản đang hò hét "Dzô! dzô!" để cạn ly chiến thắng. Chúng còn coi đây là "đại chiến thắng" nữa.

* Bên một đại bại - Bên hai đại thắng

Một bản tin trên mạng với tựa đề xem ra thật chua chát "CSVN đang dành phần thắng về mình trong vụ thuyên chuyển Đức Tổng Kiệt". Chưa có ai chứng minh được rằng trong vụ này, CSVN thua và thua ở điểm nào? Trái lại, phải đau khổ mà nhận rằng Vatican đại bại, CSVN đại thắng. Chúng thắng thật, chứ không phải "cố dành phần thắng". Mình thua thì nên chấp nhận thua. CSVN thắng thì phải cho nó nói thắng.

Tin tức của báo chí CSVN viết rằng: "Thủ Tướng Chính phủ đã chấp thuận cho Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm người thay thế TGM Kiệt". Nghe sao mà xót xa, nhức nhối con tim! Nhưng nghĩ cho cùng CS nói vậy cũng có gì sai đâu? Nếu CS không chấp thuận cho Giáo Hoàng bổ nhiệm ĐC Nhơn, liệu Giáo Hoàng có dám bổ nhiệm không? - Chắc chắn là không. Vậy thì phải cho nó thắng.

Đáng lẽ vấn đề cần đặt ra là: Tại sao Giáo Hoàng từ bao nhiêu năm nay đã nhượng bộ, cho phép CSVN được xía vào quyền bổ nhiệm Giám Mục là đặc quyền của Giáo Hoàng? Nếu Giáo Hoàng cứ từ Roma công bố bổ nhiệm Giám Mục nào mình muốn, bất chấp CSVN có đồng ý hay không thì làm sao CS dám dương dương tự đắc khoe là "đã chấp thuận cho Giáo Hoàng bổ nhiệm Giám Mục"?

Nhưng nếu Giáo Hoàng không chấp nhận điều kiện của CSVN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Rất nhiều chuyện: Giám Mục được bổ nhiệm sẽ không được truyền chức, không được nhận mũ gậy với lễ nghi rềnh rang, cờ xí rợp trời và kèn trống rền vang. Rồi GHVN sẽ phải làm việc "chui" và sẽ bị làm khó dễ trăm điều. Giả như tình trạng này xảy ra thực như vậy thì cũng giống như thời kỳ Giáo Hội La Mã và Giáo Hội VN trong thời bị cấm đạo mà Giáo Sử ghi rằng đây là thời kỳ huy hoàng nhất của Giáo Hội. Nhưng nay Giáo Hội không muốn cảnh này diễn ra nữa, nên đã áp dụng lý thuyết "thực dụng". Đó là nhượng bộ CSVN để được sống còn, vì chống Cộng thì sợ mình chết trước nó. Kết quả là sau nhiều năm tháng áp dụng thuyết này, Vatican đã nhào nặn ra khuôn mặt HĐGMVN mà tôi phải chua xót dùng lời này để diễn tả: HĐGMVN ngày nay vì sợ Máu Đào Tử Đạo nên đã chấp nhận Màu Đỏ Sao Vàng và chối từ nguồn gốc Màu Vàng Sọc Đỏ.

Những người phê bình HĐGMVN thường bị những "con chiên ngoan đạo" bắt bẻ rằng: "Nói thì hay lắm. Chỉ xúi HĐGM vào chỗ chết. Về VN mà làm đi!" Thiết tưởng đây không phải là lời bênh vực HĐGMVN có tính cách thuyết phục. Sở dĩ HĐ này được các giáo dân kính trọng đặc biệt vì họ tin rằng thành phần HĐ gồm những người can đảm, đã được Chúa chọn lên hàng khanh tướng. Chính các ngài thường dạy dỗ giáo dân "Đừng Sợ!" Đừng sợ súng đạn, đừng sợ đàn áp, đừng sợ Satan, cũng đừng sợ Cộng Sản. Bài học "Đừng Sợ!" này cũng xuất phát từ nơi cửa miệng của các Đức Giáo Hoàng. Khi Giáo Hoàng dạy thế giới "Đừng Sợ!" có ai hạch hỏi và bảo các ngài về VN mà dạy đâu? Sở dĩ người ta dám nghĩ đến con đường Anh Hùng, thay vì con đường Hèn Nhát, mà HĐGHVN phải đi, vì chính các ngài từng giảng dạy rất hùng hồn bài học "Đừng Sợ!" và khuyến khích giáo dân hãy can đảm tiến bước.

* Kết luận

Qua vụ việc từ chức của Tổng GM Ngô Quang Kiệt, Giáo Hội cần xét lại việc có cần phải duy trì Quốc Gia Vatican để cho Giáo Hoàng đu đưa chính trị không? Trong khi các quốc gia văn minh tiền tiến đã loại bỏ nguyên tắc hỗn quyền giữa đạo và đời, tức là phải tách biệt hẳn các hoạt động chính trị ra khỏi các hoạt động tôn giáo. Vậy mà Giáo Hoàng La Mã đang kiêm luôn chức Quốc Trưởng Vatican.

Giáo Hoàng không nên mang hai bộ mặt cùng một lúc: Hãy bỏ bộ mặt chính trị Quốc Trưởng đi, và chỉ nên giữ lại bộ mặt đạo đức Giáo Chủ Đạo Công Giáo. Đạo Giáo thì tốt lành và thánh thiện. Còn chính trị thì lừa lọc và thế tục.

Bộ mặt Giáo Hoàng là bộ mặt đạo đức, bộ mặt nguyên thủy, bộ mặt chân thật, chất phác của ngư phủ Phêrô. Còn bộ mặt Quốc Trưởng Vatican là bộ mặt tô son trát phấn, lòe loẹt, giả tạo và rỗng tuếch!

Với bộ mặt Giáo Chủ Công Giáo, làm sao Giáo Hoàng có thể cho phép các đảng viên Cộng Sản thênh thang bước vào Giáo Đô La Mã được, vì một bên hữu thần, một bên vô thần. Giáo Hội và CS làm sao có thể bang giao với nhau được khi lệnh của Giáo Hội ra vạ tuyệt thông cho những ai hợp tác với CS vẫn còn hiệu lực? Nhưng với bộ mặt Quốc Trưởng Vatican, ĐGH Bênêdictô XVI đã mở cửa mời CS vô thần Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng vào nhà, không khác nào Giáo Hoàng mở cửa Đền Thánh cho quỷ Satan vênh váo xâm nhập. Nhờ vậy, chúng đã dán vào bàn Giáo Hoàng bản án lưu đày cho Đức Tổng Kiệt.

Và đấy là câu trả lời - tuy cay đắng - cho những ai đang thắc mắc về những điều nghịch thường, phi lý đã xảy ra trong vụ thuyên chuyển Đức TGM Ngô Quang Kiệt.

Tiến sĩ Trần An Bài


Tuesday, May 18, 2010

Theo dõi bước chân của kẻ bị trục xuất - Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Thế là xong. Kịch bản đã diễn ra như là nó phải như vậy, không thể khác được. Hơn hai năm trời tranh đấu nay tay trắng ra đi. Les jeux sont faits. Và nếu nói theo ngôn ngữ của một người theo đạo thuần thành thì mọi chuyện xảy ra đúng như ý Chúa định.

Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt rời Việt Nam, vội vã lên đường ra khỏi Việt Nam.

Theo thông cáo của linh mục thư ký tòa Tổng Giám Mục thì Gm Kiệt rời Hà Nội “tiếp tục chương trình chữa bệnh” vì gần đây sức khỏe của ông lại đột ngột suy yếu.

Ông linh mục thư ký ơi. Tôi hiểu cái vai trò thư ký của ông. Thằng bồi thì diễn đúng cái cung cách cử chỉ của một thằng bồi. Ông chủ thì xuất hiện thế nào cho oai phong như một ông chủ. Đó là điều mà triết gia Jean Paul Sartre chúa ghét vì ông cho là kịch cỡm, đóng kịch. Phần ông, đóng vai thư ký tòa Tổng giám mục, ông bắt buộc phải xử dụng thứ “ngôn ngữ Pharisiêu” như thế. Nhưng tôi nghe không lọt tai chút nào.

Trong đời sống, có những lúc phải dám nói sự thật. Đó là một bổn phận tinh thần, một thử thách đạo đức và một sự can đảm đức tin tôn giáo ông ạ. Tôi không nghĩ ông là một linh mục tốt lành. Nhưng biết đâu trong một xã hội nhố nhăng như thế với người chủ mới trong bối cảnh ở Việt Nam, ông tỏ ra thích hợp và có nhiều cơ may trở thành giám mục không biết chừng.

Chỉ khổ cho giáo dân thật thà thôi ông ạ.

Có thể nào để tránh phải đụng chạm với sự thật, ông không ra thông cáo được không?

Tôi đủ tư cách trí thức để cho ông biết sự thật mà đáng lẽ không cần phải nhiều lời. Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt không đi chữa bệnh mà đã bị nhà cầm quyền Hà Nội trục xuất ra khỏi Việt Nam ông ạ. Tôi khẳng định như thế. Số phận ông cũng giống như tình cảnh Hồng y Nguyễn Văn Thuận trước đây mà thôi.

Này nhé, theo tin của nuvuongcongly.net ngày 9-5, ông còn vào Vinh chúc mừng Kim khánh giám mục Cao Đình Thuyên, một người cùng đồng hành chia sẻ những nỗi lo toan chung của Giáo Hội Thiên Chúa giáo. Sáng 10-5, ông còn làm lễ tại dòng Mến Thánh giá Xã Đoài. Sau đó ông quay về Đan Viện Xi-Tô Châu Sơn tại Ninh Bình, nơi mà ông đã định gửi tấm thân cho những ngày còn lại của đời ông. Nhưng ngày 12-5 thì vị Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn đã từ Hà Nội xuống Ninh Bình đề nghị giám mục Ngô Quang Kiệt về Hà Nội để “có việc gấp”.

Và ngay trong đêm 12-5, ông khăn gói quả mướp rời khỏi Việt Nam.

Điều mà ông không mang theo được và ông đã để lại cho giáo dân và mọi người Việt Nam là cái tinh thần Ngô Quang Kiệt.

Điều mà ông mang theo trong đám hành lý cân nặng nhất của ông là 15.000 chữ ký thiết tha mời gọi ông ở lại với đàn chiên. 15.000 chữ ký ấy phải nhân lên 100 lần thành 1.500.000 mới đúng. Kể từ nay, Ngô Quang Kiệt nằm trong số những người lãnh đạo kiệt xuất trong danh sách những người tiền nhiệm như Trịnh Như Khuê, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Kim Điền, Phao lồ Lê Đắc Trọng và tôi cũng quý mến tất cả các giám mục đã công khai hỗ trợ tổng giám mục Kiệt trong những giai đoạn tranh đấu cho quyền lợi giáo hội và nay trên bước đường luu vong của ông. Đó là các giám mục Kontum, Lạng Sơn, Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Ninh như Nguyễn Đức Tuyên đã viết.

Tất cả thủ tục giấy tờ xuất cảnh nhà nước đã lo chu đáo nhanh chóng có thể chỉ nội trong một ngày. Kể cũng buồn cười, có những việc họ làm rất nhanh lại có những việc họ làm chậm như rùa.

Lý do duy nhất người ta trục xuất ông khỏi Việt Nam chỉ vì người ta sợ ông.

Như lời một vị trong Mặt trân tổ quốc tiết lộ, để ông Kiệt nghỉ hưu ở đâu thì ảnh hưởng của ông trên giáo dân vẫn còn đó nên buộc phải cho ông đi ra nước ngoài.

Đây là công đầu tiên trong vai trò tay sai của Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn. Ông đã làm một cách xuất sắc. Ai đã sai ông vào Ninh Bình để mời gọi giám mục Kiệt phải về Hà Nội gấp? Phải chăng đó là nhiệm vụ của một Tổng giám mục mới?

Ông Nhơn học trên Giáo Hoang Học viện Piô 10 thì hẳn không quên được những sắc chỉ của giáo hoàng Piô 12 vào năm 1948 đối với chế độ cộng sản. Cụ thể là những thư chung của hàng giám mục Việt Nam năm 1952 có đoạn:

“Chủ nghĩa cộng sản bác bỏ tất cả quyền lợi của nhân vị và gia đình. Chủ nghĩa cộng sản xung khắc tuyệt đối với công giáo. Chủ nghĩa cộng sản bác bỏ Thiên Chúa, bác bỏ mọi tôn giáo, bác bỏ thuyết linh hồn hằng sống đến nỗi Đức Thánh Cha đã tuyên bố rằng: không bao giờ có thể vừa theo cộng sản vừa theo công giáo được và người công giáo nào gia nhập đảng cộng sản thì lập tức bị khai trừ khỏi giáo hội.”

Thư chung của giám mục miền Nam vào năm 1960 cũng nhắc lại cái tinh thần ấy.

Cái tinh thần ấy đã có những nạn nhân làm vật hy sinh tế thần ở Hà Nội như các linh mục Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Ngọc Oánh, Phạm Hân Quynh và Nguyễn Văn Thông.

Nay thì tình thế đã đổi khác. Gió đã đổi chiều, người ta nói đến hòa hợp hòa giải? Nhưng hòa giải với ai? Và hòa giải về cái gì?

Thực tế mà nói, công việc của ông Nhơn tại giáo phận Hà Nội sẽ thuận buồm xuôi gió theo tinh thần chủ bảo tớ nghe, răm rắp đâu vào đó bất kể dân theo đạo nghĩ gì, mong muốn gì.

Nhưng cái nỗi khổ cho ông giám mục Nhơn là từ nay nếu gặp giáo dân thì phải cúi mặt xuống. Vừa rồi người ta đã có nhận xét, ông Nhơn đi giữa hai hàng giáo dân mà mặt nhìn thẳng, không vẫy tay chào lại.

Ông làm sao phủ lấp được bóng dáng Ngô Quang Kiệt? Ông làm sao thay thế chỗ trống Ngô Quang Kiệt trong tim mỗi người giáo dân? Ông sẽ trở thành kẻ xa lạ giữa hơn 300.000 ngàn giáo dân Hà Nội dưới quyền ông.

Dám ông trở thành thứ mục tử lạc loài, chăn chiên mà không có chiên để chăn?

Và vì thế, ông giảng ông nghe. Cùng lắm quanh ông vài kẻ theo đóm ăn tàn. Cái đó thì thời nào chả có. Phần tôi sẽ không liên lạc, điện thoại, không chơi với Paul Deslierres, không rủ ông đi ăn Phở, không mời ông ăn chả giò, những món ăn Việt Nam mà ông ưa chuộng nữa vì ông đã không biết dạy học trò.

Tôi cũng đã đọc tất cả những thư từ của giáo dân chia sẻ về sự ra đi của Giám mục Kiệt mà tôi có được. Tôi cũng nhìn và quan sát cái cảnh ngày lễ nhậm chức của giám mục Nguyễn Văn Nhơn. Một cái cảnh mà trong đời tôi chưa hề nhìn thấy cái cảnh đó bao giờ.

Cái cảnh đó là dấu hiệu của sự trưởng thành, của tinh thần dân chủ hay dấu hiệu của sự bất tín nhiệm?

Có hàng triệu người buồn hoặc thất vọng. Có nhiều người xúc động không cầm được nước mắt. Tôi xin được đứng trong danh sách những người ấy mặc dù danh sách cũng được gửi đến, nhưng tôi đã không ghi danh vào đó làm gì. Vì tôi biết trước đó chỉ là một cách cụ thể hóa một biểu lộ hơn là một thực tế đòi hỏi.

Nay Người đã đi rồi. Thế là hết. Hết tất cả.

Nỗi lo sợ chính của tôi là nay danh hiệu Quốc doanh có thể được nâng cấp lên hàng giám mục như trong một bài viết trước. Lm Đỗ Xuân Quế đã viết một bài cảnh báo về nạn giám mục quốc doanh xâm nhập cả vào tổ chức của Vatican.

Nhưng trước mắt, việc thay thế hai giám mục Kiệt và Thuyên bằng giám mục Nhơn và linh mục Nguyễn Thái Hợp làm chúng ta lo ngại.

Ông Nguyễn Thái Hợp được biết giao du với bọn Tứ nhân Bang và Nguyễn Đình Đầu, thường viết bài cho Công giáo và dân tộc. Tôi có một bài viết của ông qua một người bạn trong nước gửi ra là bài Thử nhân diện con người Việt Nam. Bài viết thuộc loại bài bản, khuôn mẫu như có đoạn, “Chúng ta từng làm nên Điện Biên Phủ, mùa xuân đại thắng 1975, vậy mà 30 năm qua hòa bình độc lập ta làm được gì để không hổ thẹn với cha ông?”

Giáo hội quốc doanh thông qua những việc bổ nhiệm mới đây, phải chăng đó là mục tiêu của chính quyền đề ra trong lúc này?

Nguyễn Văn Lục


Friday, May 14, 2010

Australian Jessica Watson, 16, to become youngest to sail around the world




Jessica Watson (born 18 May 1993 in Gold Coast, Queensland, Australia) is an Australian sailor and resident of Buderim, Queensland. She is currently attempting to become the youngest person to sail solo, non-stop and unassisted around the world.

The departure was from Sydney, Australia on 18 October 2009, headed eastbound over the Pacific Ocean, Atlantic Ocean, and the Indian Ocean. Her arrival back in Sydney is expected on 15 May 2010.

The Los Angeles Times reported Watson's reason for her journey: "I wanted to challenge myself and achieve something to be proud of. And yes, I wanted to inspire people. I hated being judged by my appearance and other people's expectations of what a 'little girl' was capable of. It's no longer just my dream or voyage. Every milestone out here isn't just my achievement, but an achievement for everyone who has put so much time and effort into helping getting me here."

Watson is writing a book about her experience to be called True Spirit and published by Hachette Publishing three months after completing her journey.












Monday, May 10, 2010

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận: Bí Ẩn 30.4.1975 - Phạm Trần Hoàng Việt

Phạm Trần Hoàng Việt

1. Mở đầu

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhất của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

2. Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung ... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow ... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái). Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3. Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

a. Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Âu châu và Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.

Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)

Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/List_of_Jewish_ American_ politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:

- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).

- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton ...

- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.

- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.

- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.

- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.

Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh ...

Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford ... (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Đức Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.

b. Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan ... , nhưng luôn luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c. Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ ... bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.

Tướng độc nhãn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy !). Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam!

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.

Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:

"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:

“Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng”.

Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

4. Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.

Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua !) vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”). Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh.
Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland !), họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng "Đồng Minh tháo chạy" từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH. Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản !) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh "Về miền đất hứa / Exodus" của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm "Bài học Israel (Do Thái)" . Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay !

Phạm Trần Hoàng Việt
(Tháng Tư Đen 2010)

Phụ đính

Tiểu Sử Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy
Sanh vào ngày 2 tháng 11 năm 1924, quê tại Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa.
Văn bằng:
§ 1963: Tiến Sĩ Chánh Trị Học, Trường Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris. Luận án: “Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời”
§ 1960: Cao Học Chánh Trị, Trường Đại Học Luật Khoa & Kinh Tế Paris.
§ 1959: Cử Nhơn Luật Khoa và Kinh Tế, Viện Đại Học Paris.
§ Tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chánh Trị Đại Học Paris.
§ Tự học thi đậu bằng Tú Tài.
§ Học sinh trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, thi đậu bằng Trung Học. Một trong học sinh đậu xuất sắc nhứt tại Đông Dương (xem phim tài liệu về Thân Thế & Sự Nghiệp Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phương thực hiện năm 2007).
Chức vụ:
Trong Ngành Giảng Huấn:
§ Từ 1976: Phụ Khảo tại Trường Đại Học Luật Khoa Harvard (Hoa Kỳ).
§ 1965-1975: Giáo Sư Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài Gòn, Trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ, Trường Đại Học Sư Phạm tại Sài Gòn, Trường Đại Học Luật Khoa tại Huế. Ngoài ra còn giảng dạy tại các Trường Đại Học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Minh Trí... và ở Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị.
§ 1967-1968: Khoa Trưởng Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội tại Cần Thơ.

Trong Chánh Quyền:
§ 1973 và 1968-1970: Nhơn viên phái đoàn tham dự thương thuyết Hòa Đàm Paris.
§ 1967: Hội Viên Hội Đồng Dân Quân.
§ 1964: Đổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Thủ Tướng Đặc Trách Bình Định.

Hoạt Động Chánh Trị:
§ Từ 1986: Hội Viên Ủy Ban Danh Dự của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ VN Tự Dọ
§ Từ 1981: Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương Liên Minh Dân Chủ Việt Nam.
§ 1973-1975: Đồng Chủ Tịch Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội (gồm 6 đảng).
§ 1969-1975: Tổng Thơ Ký Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.
§ 1964-1990: Thành lập đảng Tân Đại Việt và là lãnh đạo đảng cho đến năm 1990.
§ 1945-1964: Đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng và tham dự Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương năm 1948.

Tưởng Lục:
§ WHO'S WHO đông bộ Hoa Kỳ, ấn bản lần thứ 18, 1981-1982.
§ Giải thưởng của Viện Đại Học Paris trao luận án Tiến sĩ xuất sắc nhất trong năm.

Chuyên Môn:
§ Luật Hiến Pháp, Tư Tưởng Chánh Trị, Định Chế Chánh Trị, Bang Giao Quốc Tế.
§ Thông thạo ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh và Hán văn.

Tác phẩm:
§ Tiếng Việt:
1. HỒN VIỆT, thơ, Sài Gòn, 1950, tái bản ở Paris năm 1984.
2. QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT (Quyển A), Việt Publisher, Canada, 1990.
3. DÂN TỘC SINH TỒN, chủ thuyết của Đại Việt Quốc Dân Đảng, được bổ túc, phong phú hóa và thâu nhận các nguyên tắc tự do dân chủ, (2 quyển), Sài Gòn, 1964.
4. DÂN TỘC HAY GIAI CẤP ?
5. BIỆN CHỨNG DUY XẠO LUẬN (Trào phúng).
6. CÁC ẨN SỐ CHÁNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG, Thanh Phương Thư Quán, San Jose, Hoa Kỳ, 1986.
7. HÀN PHI TỬ: bản dịch ra Việt ngữ tác phẩm của Hàn Phi, nhà lý thuyết trứ danh của học phái Pháp Gia Trung Quốc, (2 quyển), Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974.
8. LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÁNH TRỊ, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1970-1971.
9. ĐỀ TÀI NGƯỜI ƯU TÚ TRONG TƯ TƯỞNG CHÁNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ THỜI, bản dịch Luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1969.
10. Tên Họ Người Việt Nam . Mekong-Tỵnạn, California, USA
- Cùng viết với Gs Trần Minh Xuân (2 cuốn 11 và 12 trong danh sách này):
11. Hiệu đính và chú thích LỤC SÚC TRANH CÔNG. Đi tìm tác giả và dụng ý chánh trị trong tác phẩm. Mekong-Tỵnạn, California, USA, 1991.
12. HỒ CHÍ MINH: TỘI PHẠM NHƠN QUYỀN VIỆT NAM. Mekong-Tỵnạn, USA, 1992.

§ Tiếng Pháp:
13. POUR UNE NOUVELLE STRATÉGIE DE DÉFENSE DU MONDE LIBRE CONTRE L'EXPANSION COMMUNISTE, Alliance Pour La Démocratie Au Vietnam, Paris, 1985.
§ Tiếng Anh:
14. THE LÊ CODE: LAW IN TRADITIONAL VIETNAM, bản dịch ra tiếng Anh và chú thích bộ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT, tục danh LUẬT HỒNG ĐỨC của nhà Lê (1428-1788), Ohio University Press, Hoa Kỳ, 1987 - cùng viết với Gs Tạ Văn Tài và Gs Trần Văn Liêm -
15. A NEW STRATEGY TO DEFEND THE FREE WORLD AGAINST COMMUNIST EXPANSION, Alliance For Democracy In Vietnam, 1985.
16. PERESTROIKA OR THE REVENGE OF MARXISM OVER LENINISM, Việt Publisher, Canada, 1990.
Cùng viết với Gs Stephen B. Young (2 cuốn 17 và 18 trong danh sách này)
17. UNDERSTANDING VIETNAM, do T.D.T. Thomason xuất bản, The Displaced Persons Center Information Service, Bussum, The Netherlands.
18. THE TRADITION OF HUMAN RIGHTS IN CHINA AND VIETNAM, Yale Southeast Asia Studies, The LẠC VIỆT Series, New Haven, CT, USA, 1990.

Bài Đăng Báo:
§ Tiếng Việt:
- 1947-1990: Bài nhận định Tình Hình Thế Giới Trong Tháng Vừa Qua cùng nhiều bài báo về văn hóa & chánh trị Việt Nam trên nhiều tờ báo tiếng Việt ở trong và ngoài nước, như TỰ DO DÂN BẢN, ĐƯỜNG MỚI, MEKONG-TỴNẠN, SAIGON, THẰNG MÕ, HỒN VIÊT, HƯỚNG VIỆT, DIỄN ĐÀN VIỆT NAM, CẤP TIẾN, DÂN QUYỀN, LỬA THIÊNG, QUỐC PHÒNG, ĐUỐC VIỆT, THANH NIÊN ...

§ Tiếng Pháp:
- LA FRANCE ET LE VIETNAMIEN PARTISAN DE LA DÉMOCRATIE LIBÉRALE, trong ĐƯỜNG MỚI, Pháp Quốc, số 4, 1985.
- LE CODE DES LÊ, nhận xét về bản dịch bộ luật nhà Lê ra tiếng Pháp của Ông Deloustal và về niên biểu ấn hành của bộ luật này, trong BULLETIN DE L'ÉCOLE FRANCAISE D'EXTRÊME ORIENT, Quyển LXVII, Pháp Quốc, 1980.

§ Tiếng Anh:
- Cùng viết với Gs Tạ Văn Tài: THE VIETNAMESE LEGAL TEXTS, trong THE LAW OF SOUTH-EAST ASIA, Quyển 1, THE PRE-MODERN TEXTS, do M.B. Hooker xuất bản, Butterworth & Co, 1986.
- LIMITS ON STATE POWER IN TRADITIONAL CHINA AND VIETNAM, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 6, Hè-Thu 1985.
- THE MING CODE IN VIETNAMESE LEGAL HISTORY: ITS INFLUENCE ON THE VIETNAMESE CODES AND OTHER LEGAL DOCUMENTS, trong MING STUDIES, số 19, Thu 1984.
- ON THE PROCESS OF CODIFICATION OF THE NATIONAL DYNASTÝS PENAL LAWS, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 1, Đông-Xuân 1983.
- THE PENAL CODE OF VIETNAM'S LÊ DYNASTY, trong STATE AND LAW IN EAST ASIA, để kỹ niệm ngày Ông Karl Bunger trí sĩ, do Dieter Eikemeier và Herber Franke xuất bản, Otto Harrassowitz, Weisbaden, 1981.

Thuyết Trình:
· VAI TRÒ HỒ CHÍ MINH TRONG DIỄN TIẾN CỦA TÌNH TRẠNG NHƠN QUYỀN TẠI VIỆT NAM, HỘI THẢO VỀ ĐỀ TÀI “CON NGƯỜI VÀ DI SẢN CỦA HỒ CHÍ MINH” tại Điện Luxembourg (Trụ sở Thượng Nghị Viện Pháp), trong 2 ngày 25 và 26-5-1990.
· CHÁNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM tại Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 11-4-1988.
· KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ TẠI VIỆT NAM , Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 12-4-1988.
· CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH Á CHÂU tại Đại Học Monash, Melbourne, Úc Đại Lợi, ngày 17-9-1987.
· LIÊN MINH LIÊN SÔ - CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH CỦA ĐÔNG NAM Á CHÂU, Hội Thảo Bàn Tròn do Hội Đồng An Ninh Quốc Tế tổ chức ở Bangkok từ ngày 6 đến 8-7-1986.
· TRẬN CHIẾN ĐẤU CUỐI CÙNG VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM: 1973-1975, Hội Thảo do Đại Học Glassboro tổ chức trong ngày 7 và 8-4-1986.
· VIỆT NAM DƯỚI ÁCH CỘNG SẢN, Hội Thảo tại Đại Học Harvard, ngày 23-11-1981, sau được Đại Học George Mason đăng trong bài nghiên cứu về VN.
· THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ DO CÁC NƯỚC ẤY GÂY RA, Đại Học Minnesota, 3-10-1981.
· NGUYÊN NHƠN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC MIỀN NAM VIỆT NAM SỤP ĐỔ NĂM 1975, tại Đại Học Washington ở Seattle, 1980.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời vào ngày 28-7-1990 tại Paris hưởng thọ 66 tuổi, mang lại tiếc thương vô vàng cho mọi người mến mộ. Không những cho riêng người Việt, mà ngay cho cả người ngoại quốc. Có lẻ lần đầu tiên một người Việt Nam qua đời , được chính Tổng Thống Hoa Kỳ đương nhiệm - ông George Bush - chia buồn và lên tiếng ca ngợi là một nhân vật tận tụy phụng sự cho dân tộc Việt với tấm gương sáng ngời cho thế hệ mai sau (xem: Nhà Chí Sĩ Thời Đại: Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phương xuất bản năm 2003 / trang 11).



Sunday, May 9, 2010

Ý kiến về cái gọi là "Lời xin lỗi chân thành, món nợ 35 năm đến hồi phải trả!" - conbenho Nguyễn Hoài Trang






Những cực hình man rợ hành hạ giết dân dã man tàn bạo của tập đòan THÚ VẬT csVN

và còn hàng triệu những TỘI ÁC vô tiền khóang hậu của tập đòan ÁC THÚ csVN đã gây ra và vẫn còn đang tiếp tục gây ra trên Đất Nước VN đọa đày hàng ngày, hàng giờ ..

Ai dám nói lũ Bán Nước Diệt Chủng csVN chỉ còn "nợ Dân Tộc VN một lời xin lỗi " dù đó là cái gọi là "lời xin lỗi chân thành" ???

***


Hôm nay, nhân đọc bài viết: "Nhắn anh Bùi Tín: Món Nợ Không Thể Trả " của GS Trần Đình Ngọc trả lời bài viết "Lời xin lỗi chân thành, món nợ 35 năm đến hồi phải trả!" của Bùi Tín, cbQR xin được "post" lại bài thơ con cóc, ngày 18-02-2010 dưới đây thay vài suy nghĩ thô thiển và còn nhiều thiếu sót về cái gọi là "Lời xin lỗi chân thành, món nợ 35 năm đến hồi phải trả !" của tập đoàn chó má CƯỚP NƯỚC, DIỆT CHỦNG, PHẢN QUỐC, BÁN NƯỚC csVN mà bè lũ cò mồi chó ghẻ trong và ngòai nước đã và đang mớm để rửa tội cho lũ chó má csVN cũng như muốn duy trì cái chế độ xuống hàng chó ngựa của chúng.

Hãy nhìn vào những gì bè lũ chó má csVN đã và đang làm suốt 35 năm qua từ sau ngày chúng chiếm tòan cõi Giang Sơn Việt. Hãy sáng suốt để nhìn cho ra lý do tại sao lũ chó ghẻ trong và ngoài nước vẫn cố tình rửa mặt cho lũ TỘI ĐỒ DÂN TỘC csVN.


    "Một lời xin lỗi" CÓ, KHÔNG, ÍCH gì ???

    Thật quá ngây thơ quá dại khờ
    Còn nằm trong mộng ngủ trong mơ
    Còn tin Việt cộng còn o bế
    Còn cố bao che lũ giặc hồ

    Đảng CƯỚP Việt gian, đảng TỘI ĐỒ
    Giết Dân BÁN NƯỚC đại tham ô
    Thờ tàu, đội hán, vô Tông Tổ
    Bán nước buôn nòi thật nhuốc nhơ

    TỘI ÁC Việt gian đã để mồ
    Vẫn còn có kẻ muốn bưng bô
    Quốc dân cả nước còn chưa xử
    Ai dám thứ tha lũ ÁC ĐỒ ?

    TỘI BÁN NƯỚC BUÔN NÒI DIỆT CHỦNG
    "Sai lầm" chi với lũ phi nhân
    Đừng ba hoa giở trò ma cạo
    "Xin lỗi" Quốc Dân để cố quyền

    Bọn khốn kiếp chưa hề biết lỗi
    Lũ cò mồi đã dọn đường hưu
    Cả tay sai bắt bè bê đội
    Cùng hứng tung :"ai chả lỗi lầm" !

    Sai lầm chi cả trăm năm
    Hành hạ, giết chóc, tuyệt mầm Dân Nam
    Vô loài độc ác dã man
    Trên đời chỉ có Việt gian đảng hồ

    Chúng sống khỏe, Dân chết mòn
    Diệt chủng kiểu mới là đòn chúng đi
    Tinh vi rất mực tinh vi
    Chúng còn cai trị, Dân thì diệt vong

    Dân Việt phải nhớ nằm lòng
    Cộng phỉ không phải con Rồng cháu Tiên
    Cộng đảng BÁN NƯỚC GIỮ QUYỀN
    Bám đôn đế Mỹ, lòn trôn chuột tàu

    MẤT DẠY là lũ quy đầu
    Tiếp tay cộng đảng mưu cầu lợi danh
    Mớm cho lũ giặc lưu manh
    "Một Lời xin lỗi Quốc dân đồng bào" !?

    Đúng là cái bọn hưu, ngao
    Ngây ngô ngờ nghệch khác nào nai tơ
    Giặc BÁN NƯỚC, giặc GIẾT DÂN
    Hủy diệt Văn Hóa, Nhục lăng Ông Bà

    Nhục Quốc Thể, Nhơ Nước Nhà
    Mầm non đất nước nhiễm tà, lai căng
    Sa đọa, nhục thể, loạn cuồng
    Ăn chơi hưởng thụ như loài THÚ TÂN

    Bán trôn, bán miệng, bán tâm
    Nhầy nhụa ngụp lặn hoa trăng kiếp LỪA
    Nhục nhằn dưới bóng "thiền" đưa
    Của loài quỷ đỏ không chừa mưu ma

    Còn đâu rường cột Quốc Gia
    Chống giặc cứu nước giữ nhà Việt Nam ???

    Biển Đông loan máu Lạc Hồng
    Tàu giết dân Việt, đảng câm miệng chồn

    Bán nước đảng ngậm bồ hòn
    Từ trên xuống dưới lòn trôn thằng tàu

    NHỤC thay hai chữ "sĩ phu"
    Từ nam chí bắc ngục tù lương tri
    Ngày xưa đứng "dậy mà đi"
    Giết dân hại nước chỉ vì "lầm ta"
    Ngày nay đã thấy rõ ra
    Cộng đảng BÁN NƯỚC lại là "lầm tôi"
    Thương thay cái lũ cò mồi
    Chờ lời "xin lỗi" của loài dã nhân

    Thương thay một lũ "sĩ" đần
    Thậm thò thậm thụt chia phần đảng gian

    TỘI ÁC Việt cộng đã làm
    Uất ngập Non Thái Hờn tràn Biển Đông
    Ố khí bao phủ Núi Sông
    "Một lời xin lỗi" CÓ, KHÔNG, ÍCH gì ???

    Thương thay "hữu trí" vô tri
    Vô tình , hữu ý duy trì đảng gian
    Bám quyền lực, giữ ngai vàng
    Đua nhau BÁN NƯỚC BUÔN DÂN, TỘI ĐỒ .

    Thương thay một lũ vong nô
    Ngàn năm chữ NHỤC trên mồ: Việt gian .

    Quốc dân Việt hãy đứng lên
    Trị tội cộng đảng Việt gian TỘI ĐỒ
    Quốc dân Việt hãy đứng lên
    Diệt Cộng Cứu Nước Xây Nền Tự Do.
(Soi Dòng Sông Chữ Thấy Mù Tâm .. )



Ghi vội cảm nghĩ khi đọc một vài bài viết cũng như nghe một vài kẻ "sĩ" đợi, "sĩ" đờ .."sĩ" chờ tập đoàn THÚ VẬT csVN nói lời "xin lỗi" dân tộc Việt Nam, thay vì phải kêu gọi Quốc dân đồng bào cùng đứng lên lật đổ lũ ÁC THÚ csVN này để tự giải thóat kiếp nô lệ cho mình và giữ gìn toàn vẹn Lãnh Thổ Giang Sơn Việt, rửa NHỤC cho Dân Tộc Việt và xây dựng lại một Nước Việt, không có lũ bán nước hại nòi làm nhơ danh người Việt là lũ THÚ VẬT csVN ..) .

Chân thành cám ơn Quý Anh Chị ghé thăm "conbenho Nguyễn Hoài Trang Blog" .
Xin được lắng nghe những ý kiến đóng góp chia sẻ của quý Anh Chị trực tiếp tại Diễn Đàn Paltalk: 1Latdo Tapdoan Vietgian CSVN Phanquoc Bannuoc .

Kính chúc Sức Khỏe Quý Anh Chị .

conbenho
Tiểu Muội quantu
Nguyễn Hoài Trang
10052010
______________
CSVN CƯỚP NƯỚC, Diệt Chủng, Phản Quốc, BÁN NƯỚC
Diệt Cộng Cứu Nước

Friday, May 7, 2010

Xin Nói Chuyện Với Đức Ông Cao Minh Dung - Nguyễn Phúc Liên

Gioan Nguyễn Phúc Liên
    Kính gửi

    Đức Ông Francesco CAO MINH DUNG,
    Thánh Bộ Ngọai Giao Vatican
    VATICAN (Roma)

    Trọng kính Đức Ông,
Con là Gioan Nguyễn Phúc Liên, 71 tuổi, Quốc tịch Việt Nam, hiện cư ngụ tại địa chỉ: 22 Rue du Prieure, 1202 GENEVA, Switzerland. Con là cựu Chủng sinh và trước đây học một năm cùng lớp Ban Triết học với Đức Ông Nguyễn Văn Phương cũng như với Linh mục Phan Khắc Từ. Xin Đức Ông cứ hỏi Đức Ông Nguyễn Văn Phương để biết thêm Lý Lịch của con.

Trong những tuần gần đây, con rất quan tâm đến việc âm mưu thay thế Đức TGM Ngô Quang Kiệt tại Hà Nội bằng Giám mục Nguyễn Văn Nhơn. Theo những tin tức từ Việt Nam, thì việc thay thế này là do sự cố vấn của Đức Ông theo chiều hướng Cộng sản Việt Nam muốn như vậy.

Con nhận được một Bản Tin từ một Linh mục trọng tuổi từ Huế và con đã phổ biến trên các Diễn Đàn Internet nhiều lần. Linh mục đưa tin sẵn sàng đưa tên tuổi để chịu trách nhiệm về Bản Tin. Đồng thời, trong Bản Tin có nêu tên Cha Giải, Thầy dậy của Đức Ông. Con sẵn sàng yêu cầu Cha Giải khẳng định về tin tức này có xác thực hay không.

Theo Bản Tin, thì Đức Ông thân với CSVN và đã bầy tỏ ý kiến là loại Đức TGM Ngô Quang Kiệt ra khỏi địa bàn Hà Nội theo như lời luôn luôn đòi hỏi của Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội.

Đối với con, điều quan trọng là Cộng sản Việt Nam chủ ý phá tan Tinh thần của Giáo dân, Linh mục và Nam Nữ Tu sĩ của Tổng Giáo phận Hà Nội đã can đảm cùng nhau đứng lên từ biến cố Tòa Khâm sứ, Xứ Thái Hà, Tam Tòa và Đồng Chiêm. Đức TGM Ngô Quang Kiệt nhận thấy tinh thần đó là chính đáng, nên Ngài đã đứng mũi chịu sào với việc Giáo dân, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ cùng đòi hỏi CÔNG LÝ ĐỂ CÓ HÒA BÌNH thực sự. Đây không những là niềm hãnh diện cho người Công Giáo, mà còn là việc đóng góp với cố gắng của Dân Tộc trong việc chống BẤT CÔNG, đòi CÔNG LÝ.

Con xin đăng Bản Tin nhận được nguyên văn như sau về Đức Ông: (Bản Tin trên chuyển sang UNICODE do Nguyễn Phúc Liên để độc giả dễ đọc)
    «Anh ....... thân mến,

    Xin cảm ơn Anh đã hồi âm. Chúng tôi sẽ cầu nguyện theo ý của Anh.

    Về Dức Ông Dung (dưới tôi 6 lớp) thì quả thật từ lâu chúng tôi đã rất thất vo.ng. Bản thân cũng như gia đình Dung rất được CS o bế và ngược lại Dung cũng rất thân thiết với cán bộ CS. Mỗi lần về Huế (đặc biệt qua hai đám tang thân mẫu và thân phụ), Dung bao giờ cũng gặp mặt, tặng quà (hàng triệu đồng) cho mấy tên Công an tôn giáo (như trung tá Phạm Đức Thuận và trung tá Nguyễn Hồng Lam ...). Lần đám tang thân mẫu của Dung, Đức Cha Thể ban đầu không muốn chủ sự lễ an táng (như ý Dung mời), nhưng khi nghe Dung nói là chính quyền và công an tôn giáo tỉnh đã đến phân ưu, Đức Cha liền thay đổi thái độ, nhân làm chủ tế.

    Lần Dung về Hà Nội ngày 15-02-2009 cùng với Đức Ông Parolin và Đức Ông Nguyễn Văn Phương, chúng tôi đã nghe rằng Dung có lập trường đẩy Đức Cha Kiệt khỏi Hà Nộị Lần đó phái đoàn không ở Tòa Giám mục mà ở nhà khách chính phủ, và CS đã cho xe vào Huế chở mấy em của Dung ra Hà Nội cho Dung gặp, ở lại nhà khách chính phủ cùng với Dung.

    Mỗi lần về Huế, Dung chỉ gặp Đức Cha Thể và gặp những cha nào có lập trường thỏa hiệp với CS thôi, không bao giờ gặp cha Giải (thầy dạy), cha Lý và ..... (cùng cha bảo trợ, cùng giáo xứ, cùng chủng viện). Thậm chí hôm đám tang thân phụ (ông Cao Minh Hiếu), Dung cũng không mời cha Giải và ...... đồng tế vì sợ liên lụỵ
    ……….

    (Tôi, Nguyễn Phúc Liên, cắt đi hai hàng của Bản Tin quá tế nhị chưa tiện đưa lên Diễn Đàn lúc này. Xin xem thêm CHÚ THÍCH)
    ............ .

    Tôi đồng ý với Anh là một nhân viên ngoại giao của Tòa Thánh phải luôn giữ lập trường trung lập. (đặc biệt là khi liên hệ mới một chính quyền gian trá như CS), và nên để một chức sắc nước ngoài phụ trách Việt Nam thì tốt hơn».
CHÚ THÍCH (của Nguyễn Phúc Liên về hai dòng cắt đi trong Bản Tin):

Hai dòng này liên hệ đến vấn đề đàn bà liên quan đến một người rất thân của Đức Ông Cao Minh Dung. Đây là phạm vi mà Công sản xử dụng như một chìa khóa bắt ép đối thủ phải chấp nhận những điều kiện. Vấn đề này liên hệ đến Linh mục Đỗ Thành Châu (đang sống ở Hoa kỳ). Chúng tôi muốn liên lạc với Cha Đỗ Thanh Châu để chính Ngài khẳng định hay liên lạc với Đức Ông Cao Minh Dung thì tốt hơn.

Theo Bản Tin này, thì Đức Ông chơi thân với CSVN, đồng thời lại thay thế Đức Ông Nguyễn Văn Phương trong nhiệm vụ cố vấn Vatican về bổ nhiệm và thuyên chuyển Giám mục ở Việt Nam.

Vì tha thiết bảo vệ Tinh thần can đảm đứng lên đòi CÔNG LÝ ĐỂ CÓ HÒA BÌNH của Giáo dân, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ Tổng Giáo phận Hà Nội mà Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã cùng họ đứng mũi chịu sào, nên con thấy việc Đức Ông cố vấn Vatican bổ nhiệm về Hà Nội Gm Nguyễn Văn Nhơn, một người đã tích cực cùng với Lm Phan Khắc Từ, Lm Nguyễn Tấn Khóa ca tụng Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo, là việc làm hại cho Tinh thần người Công Giáo đã vì ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM mà đứng lên.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nói:
    «Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che dấu mà không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng.» (Mt.10, 26-27).
Trong lời hát Lễ Mồ, khi người ta chết, có câu: «Quidquid latet apparebit» (Điều gì giấu diếm thì sẽ hiện ra).

Theo tinh thần ấy, con muốn đề nghị được ĐỐI THOẠI với Đức Ông về một số điểm ẩn hiện để cho được minh bạch trước ánh sáng:

1. Đức Ông có chủ trương loại bỏ TGM Ngô Quang Kiệt ra khỏi địa bàn Hà Nội hay không? Vì sao?

2. Đức Ông góp ý với Vatican cho việc bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Nhơn về thay thế Đức TGM Ngô Quang Kiệ phải không ?

3. Nếu Gm Nguyễn Văn Nhơn chiều theo ý Pharisiêu CSVN mà làm hại Tinh thần đòi CÔNG LÝ ĐỂ CÓ HÒA BÌNH của Giáo dân, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ dựa trên căn bản ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công giáo, thì Đức Ông có góp ý với Vatican đưa TGM Ngô Quang Kiệ trở lại Hà Nội hay không ?

4. Người ta cũng đồn rằng Đức Ông đang vận động để khi đặt quan hệ Ngoại giao giữa Hà Nội và Vatican, thì Đức Ông sẽ về Hà Nội làm Khâm sứ Tòa Thánh cho trọn bộ quốc doanh từ Hà Nội—Huế--Sài gòn. Tin đồn này có nền tảng hay không ?

Con xin được thảo luận, đối thọai với Đức Ông trong tinh thần sự thật đơn sơ như con trẻ mà Chúa Giêsu của chúng ta khuyên trong Phúc Âm.

Trọng kính Đức Ông,

Con: Gioan Nguyễn Phúc Liên

22 Rue du Prieure

1202 GENEVA

Tel. : 0041 22 731 82 66 0041 22 731 82 66 hoặc 0041 22 738 28 08 0041 22 738 28 08

Mobiles : 0041 79 766 65 83 0041 79 766 65 83 hoặc 0041 79 766 65 72 0041 79 766 65 72

E-Mail : drlienwimimpact@yahoo.com hoặc wimimpactdrlien@yahoo.com

Chú Thích: Lá Thư này sẽ được gửi bằng TỐC HÀNH và BẢO ĐẢM qua DHL để có bằng chứng chính Đức Ông đã ký tên nhận được (REGISTERED EXPRESS DHL LETTER).