Tuesday, April 28, 2009

Phật Tử Vùng Lên Bảo Vệ Chánh Pháp - Trương Minh Hòa

    PHẬT TỬ VÙNG BẢO VỆ CHÁNH PHÁP, LẤY LẠI CHÙA, LÙA BỌN TU GIẢ RA KHỎI TỰ VIỆN
Trương Minh Hòa

Từ hàng chục năm qua ở hải ngoại khắp các châu lục, tuyệt đại đa số Phật tử và người Việt Nam tỵ nạn đã lầm "trông thành phần bất hảo cạo đầu, mặc ác cà sa mà tưởng là sư" sau khi đóng góp công của để xây dựng nhiều "tự viện hoàng tráng" cho những người mặc áo cà sa, cạo đầu, dựng lên các bàn thờ, tượng Phật, thu tiền, trở thành "tư bản Phật Giáo", mỉa mai qua câu: "tu nhất kiếp giàu nhất thời", không hề đổ mồ hôi làm việc để tạo ra của cải vật chất, nhưng: "không lao động mà lại vinh quang" nên đa số mỗi sư, ni đều có trong tay ít nhất là một ngôi chùa, đáng giá bạc triệu, có vị còn phát triển thêm nhiều ngôi chùa, dùng tiền bá tánh đóng góp để du hý, du dâm hơn 15 năm "tịnh thất":

- Như trường hợp của huề thượng Thích Phước Huệ, cư sĩ chùa Chánh Giác ở Tây Úc, lợi dụng việc làm từ thiện để ép phụ nữ tên Nguyễn Thị Huệ, trong hoàn cảnh khó khăn đưa con từ Việt Nam sang Úc để trị bịnh, nên bị đưa vào tròng phục vị sinh lý một cách "man rợ" đàng sau chánh điện;

- Như đại đức Thích Nguyên Trực, cởi ca sa giả dạng một "dân chơi bời lậu", trên đường tìm đến "hành lạc" với không phải "hành đạo", đón gái trên đường phố để tìm đường lên Niết Bàn, đến thế giới miền "Cụp Lạc" với giá 50 Úc Kim mà còm trả giá bớt 20%, thành 40, nay nhờ "công đức tu hành" nầy mà sau nầy lên chức Thượng Tọa, giữ chức Tổng Vụ Phó Tăng Sự (tức là phó vụ quản trị tăng ni của cánh nầy)... đa số chùa "phật Giáo ngày nay" còn có thêm "mặt mạnh" là công tác chủ yếu, bảo lãnh sư Vẹm từ các cơ sở giáo hội Phật Giáo quốc doanh sang tu giả, tu rửa tiền, trà trộn, và dần dần "bào giao trong vòng trật tự" các tự viện do Phật tử đóng góp cho sư ở Việt Nam sang, vốn thông suốt chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh hơn là kinh Phật; sự kiện lộng hành, tiếp tay cho giặc trà trộn, khuynh đảo Phật Giáo hải ngoại được bạch hóa sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước, do hòa thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo, ban hành giáo chỉ số 9, nêu đích danh những kẻ mượn đạo tạo tiền, trở thành "lãnh đạo tinh thần ngang hông" thường đội mão y như "giáo hoàng Phật Giáo" tự biên tự diễn, lãnh đạo "không người lái", hiu hiu tự đắc, trong tiệm Phật, được "cung thỉnh" trong sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ngồi hàng ghế danh dự, được xướng danh thật long trọng, vênh váo với các chánh khách tại các nước tạm dung, nên chúng tưởng mình đúng là "thế gian ta Phật sắp thành" vừa đánh lừa Phật tử, tung hỏa mù ở xã hội .... nay bộ mặt "tiếm danh" đã bị phơi bày trước kính chiếu yêu "giáo chỉ số 9", cũng đúng theo luật nhân quả nhà Phật, bộ mặt thật lòi ra, là đám quỷ ma, lợi dụng danh đức Phật Thích Ca để ra vô hốt bạc, bày ra lễ nhạc, là đạt mục đích làm giàu nhanh, mạnh hơn bất cứ thương nghiệp nào trên thế gian, là tay ngang làm giàu bằng nghề không vốn, chẳng tốn công lao gì cả.

Từ lâu nay, các tay tu dỏm, tu giả, tu tiền, tu thịt, tu gái, tu theo đạo ù ù ... đã lợi dụng danh nghĩa của giáo hội do huề thượng Quảng Độ trong nước, sớm biến ngôi chùa thành Tiệm Phật mà không cần "kinh qua" giai đoạn quá độ, cứ âm thầm THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI mà "thanh tâm trường hốt bạc", lung lạc Phật pháp, thi đua xây bảo tháp để kinh doanh tro người chết, là lũ "đếch tu" mượn tượng Phật để kiếm xu, nên có nhiều Tam Tạm thời đại ngu, mang tiền đến chu, là lọt vào âm mưu gian tăng, ung dung an trên đầu bá tánh, lại lập nhiều phe cánh, tranh giành quyền lợi nhưng miệng đọc "Nam Mô" mà" trong lòng lại chứa "một bồ gươm dao", là đau lòng Phật tử thuần thành.

Do đó sau khi giáo chỉ số 9 ra đời, bọn ma tăng, quỷ ni như trúng phải ánh đạo vàng, khiến chúng hốt hoảng, ban hành nào là thông cáo chung gồm, 124 kẻ "mượn áo cà sa", mà đa số là tu sĩ được xuất khẩu với nhãn hiệu "made in Vietnam" đưa sang trà trộn. Tại Úc Châu, những kẻ tiếm danh cũng phản ứng, cũng hội thảo và tung ra cái gọi là "ban Điều Hành Liên Châu" là chiêu chống đỡ cuối cùng, gượng gạo của hòa thượng Thích Như Huệ và đồng bọn như Quảng Ba, Bảo lạc, Nguyên Trực, Viên Trí .... tuy nhiên bộ mặt tiếm danh đã lộ, không còn ăn khách là "đạo mạo, từ bi". Phật tử nhìn thấy nên không còn "kính tăng" như xưa, sau khi khám phá ta tăng còn tệ hơn người thường, có khi còn thua cả phong cách của những người bất lương, thì không thể làm gương cho bánh tánh, nên càng ngày Phật tử xa lánh bọn quỷ ma giả làm tăng chúng.

Tại tiểu bang Nam Úc (nước Úc Đại Lợi) thủ phủ là Adelaide, nhiều Phật tử đã vạch mặt "gian tăng, dỏm sư, giả ni" từ lâu nay, từ lâu núp bóng Phật đà, ăn trên đầu cha Phật tử, gây bao điều dữ, cuối cùng thiện nam tín nữ vùng lên, loại bỏ những tên gian tà tu giả, núp bóng từ bi. Đây là phản ứng tự nhiên, nhằm lấy lại chùa từ tay gian sư, là tài sản mà Phật tử đóng góp lâu nay, lẽ nào lại trở thành tài sản riêng của bọn "mượn đạo tạo tiền" và nhất là có chiều hướng bàn giao cho các sư ở Việt Nam sang, biến Phật Giáo hải ngoại nằm trong hệ thống quốc doanh, mà hiện tượng đám Tiếm danh do Thích Như Huệ cầm đầu đã từng mời tên sư Vẹm, đại đức Thích Nhật Từ sang "lếu láo" với danh nghĩa thuyết pháp, phổ biến những dĩa DVD của một số sư" áo vàng, đít đỏ "nhằm tuyên truyền, ru ngủ ....

Do đó, các Phật tử đã đứng lên giành lấy chùa Pháp Âm về tay Phật tử, thuộc Giáo Hội Phật Giáo trong nước, đang bị cơn đại pháp nạn, dưới sự lãnh đạo của huề thượng Thích Quảng Độ là điều cần phải hành động, nhất là trong giai đoạn nầy. Trong tương lai, các Phật tử cũng có khả năng giành lại luôn tiệm Phật Pháp Hoa, là bản doanh của huề thượng "tiệm chủ" Thích Như Huệ, để đưa về vị thế tôn nghiêm của một tự viện, là bảo vệ chánh pháp, chánh nghĩa "Đạo pháp gắng liền với dân tộc", giải độc trong đạo Phật tại hải ngoại.

Từng bước đứng lên, với đa số Phật tử, dùng hình thức dân chủ để lấy lại những gì đã bị bọn gian sư, mạo danh, lừa đảo từ bấy lâu nay, đã đến lúc ma tăng, quỷ ni, quái cư sĩ phải trả lại những gì mà chúng tạo ra từ thủ đoạn bất lương, mánh khóe dùng tượng Phật để thu tiền, phát triển nhiều dịch vụ ma chay, tụng niệm, cầu siêu, điểm nhãn .... và những cách dùng mê tín dị đoan hù dọa, phù phép, dựa vào kinh Phật mà hốt thêm tiền, dạy thiền kiếm bạc, lung lạc Phật tử, làm điều dữ mà cho là phụng sự đạo pháp. Đây là công việc cần thiết, cấp bách trong cơn pháp nạn và sự an nguy của Phật Giáo hải ngoại đang bị tác hại bởi các gian tăng, giả ni, nhất là có thê "sư về nguồn" sau kỳ Phật Đản "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" tại Hà Nội năm 2008, lại thêm hơn 2,000 tên cán Cộng, gồm công an, gián điệp, được bảo lãnh từ Việt Nam sang dưới tàng lộng tôn giáo, trở thành "lực lượng đặc công tôn giáo vận" rất nguy hiểm cho Phật Giáo nói riêng và cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại nói chung.

Do đó, ngọn "đuốc từ bi" từ tiểu bang Nam Úc đang chiếu sáng khắp năm châu, làm cho đám sư tiếm danh lo âu, đó là "thứ sâu" nằm trong cửa Phật lâu nay phải có ngày bị hiện nguyên hình. Những bước lấy lại chùa bước đầu, đưa tiệm Phật thành chùa Phật, dưới sự lãnh đạo của hòa thượng Quảng Độ, đang nằm trong tay Phật tử hải ngoại, với đa số tuyệt đối, có thể dùng sức mạnh để "gianh lấy chùa về tay Phật tử" với những biện pháp khả thi như sau:

- Dùng lối sinh hoạt dân chủ để ứng cử vào các ban trị sự chùa, nếu các sư gian có lệ bầu cử theo nhiệm kỳ

- Nếu không có bầu cử, các Phật Tử đứng lên thành lập "ban trị sự" với danh sách số đông Phật Tử, là nguyên tắc dân chủ được tôn trọng tại các nước Tây Phương. Sau đó yêu cầu "ban trị sự thiểu số" do gian sư lãnh đạo phải "triệt thoái" ra khỏi chùa, vì họ không còn là đa số đại diện nữa. Khi có tranh chấp trước pháp đình, thì chính cái đa số nầy là ưu điểm để tống cổ lũ gian sư ra khỏi chùa bằng pháp luật các nước dân chủ và đồng thời thanh lọc những tăng ni giả, được móc nối bảo lãnh sang, từ lâu nay phá đạo một cách qui mô, có sách lược, đang trên đà lập lại những biến động Phật Giáo trước đây tại Việt Nam.

Nếu chúng ngoan cố, thì hãy nhờ đến "kiếng chiếu yêu SỞ THUẾ" để bắt buộc các gian sư "trụ trì" chưa chịu từ bỏ chùa theo "ý Phật tử là ý trời" qua số đông, cũng là những người đóng góp công, của nhiều nhất. Cứ báo với sở thuế, vì hầu hết các sư, ni đều "không bao giờ làm việc", đóng thuế, mà trong tay có tài sản bạc triệu; đương nhiên là trong phạm vi chuyên môn, nhân viên sở thuế sẽ đặt nhiều câu hỏi cho các sư nào muốn chiếm đoạt tài sản từ mồ hôi của Phật tử như:

- Tiền ở đâu mà có?
- Tiền có đóng thuế từ năm nào?

Nếu chùa do sư đứng tên, thì đây là yếu tố pháp lý quan trọng để tống cổ chúng ra khỏi nơi mà phật tử đổ biết bao công sức để cho họ hưởng, mà còn làm nhiều việc ác nhân, tà dâm, tham lam, nối giáo cho quỷ đỏ vô thần, thò bàn tay lông lá, dùng cửa chùa để đánh phá cộng đồng hải ngoại. Tại các nước dân chủ, người ta có câu: "con người không ai tránh khỏi chết và đóng thuế", nên tất cả mọi người đều trả thuế và ngay cả các cơ quan từ thiện cũng phải khai thuế hàng năm. Tại các cộng đồng người Việt Tự Do Úc Châu, dù có được chính phủ cấp tiền để hoạt động, nhưng hàng năm ban chấp hành phải khai thuế. Tuy nhiên, hiện tượng các chùa giàu "nức tượng Phật" là điều mà người ta thắc mắc.

Chắc chắn là những câu hỏi nầy của sở thuế, trở thành bí lối đối với tất cả tăng ni nào trong các giáo hội tiếm danh và nhiều khi nhân viên chuyên môn sở thuế còn tìm ra được những "đường dây rửa tiền" từ trong nước, do đảng cướp Việt Cộng ngầm thực hiện, để làm bàn đạp xâm nhập lâu dài tại hải ngoại, có phương hại đến nền an ninh quốc gia, kinh tế các nước dân chủ.

Chỉ có lực lượng "thiên lôi thuế vụ" mới làm cho những tăng ni tiếm danh phải bỏ chùa mà chạy, để tài sản về tay điều hành và quản trị của Phật tử, là những người xứng đáng được trông nôm tài sản chung qua ban trị sự được chính Phật tử bầu ra. Phật tích tâm, nên khi mọi người có lòng thành, thì không cần sư, nhất là sư gian, có tâm địa thuộc TỨ DIỆU XÚ: "giam, ác, tham, dâm", biến chùa thành Tiệm Phật, làm nhiều chuyện tà dâm, thì Phật cũng tránh xa và đương nhiên quỷ ma nhập vào, làm hao chánh pháp ... nên việc hạ bệ sư bá láp là biện pháp khả thi, để đức từ bi được tránh khỏi thời suy pháp nạn.

Trong Phật tử có nhiều người học cao, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư .... thuưa khả năng để am hiểu những kinh sách nhà Phật, trong khi đó, tuyệt đại đa số sư, ni không được đào tạo một cách đứng đắn, nhiều khi ít học mà cạo đầu, mặc y phục cà sa và trở thành "THẦY", nên họ không có khả năng thấu hiểu Phật pháp, rồi lái sang mê tín dị đoan, lãnh đạo tinh thần và làm hoen ố cả đạo Phật, chính những người không hiểu đạo mà hành đạo là nguyên nhân chính tạo nên mạt pháp. Do đó, khi Phật tử dứng ra điều hành giáo hội, chùa, thì việc "đảnh lễ" Phật không khó khăn, kinh sách có sẵn, ma chay cứ lấy kinh ra đọc, với tấm lòng thành, thì cũng coi như được Phật chứng minh.

Trong khi gian sư như thích Phước Huệ, Như Huệ, hay những dâm tăng "dơ dái" trong ba quyển "giặc thầy chùa" của Đặng Văn Nhâm, đọc kinh cầu siêu cho người chết, công phu trước chánh điện ... là trò hề, che mắt thế gian qua bức màng the "phật sự". Trong hàng Phật tử có biết bao người đạo hạnh, lòng thành, tư cách còn hơn những người tự nhận là "thầy" rất nhiều. Cư sĩ cũng điều hành chùa, như ở Tây Úc, cư sĩ Lê Tấn Kiết đã điều hành chùa Chánh Giác 29 năm, cũng tụng kinh, ma chay .... tuy nhiên cư sĩ nầy "ít học" nên đọc kinh không đúng chữ, nếu ở đây, các Phật tử đứng lên lấy lại chùa, tự quản lý, thì trong nghi thức, có nhiều Phật tử có trình độ văn hóa. Và nay thì cư sĩ Lê Tấn Kiết bị lột mặt, nên Phật tử Tây Úc cần đoàn kết lại, thành lập ban trị sự, tự điều hành như ở Nam Úc và nhất là: "không bao giờ mời sư từ Việt Nam sang với danh nghĩa trụ trì" là vô tình mời công an sang đấy, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Như Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, do cư sĩ Võ Văn Ái điều hành, vẫn chạy việc như thường .... nếu mai nầy, các ban trị sự, văn phòng ... trở cờ, thì chính Phật tử đứng lên điều hành, tiếp tục bảo vệ đạo pháp.

Trong xã hội loài người, từ xưa đến nay, đã có thành phần TRUNG GIAN mà trong từ ngữ kinh tế tiếng Anh gọi là BROKER, là những người làm ít hay không làm gì mà hưởng nhiều nhất.

- Thời bộ lạc, giai cấp tù trưởng, thầy mo, tự nhận là "thay thần linh" để cai trị dân trong các bộ tộc, là thứ broker giữa thần và các thành viên bộ tộc, nên tự ban cho minh quyền hành sanh sát trong tay, dưới nhản hiệu thần linh.

- Thời phong kiến, vua chúa chính là Boker, cũng tự nhận là "giới trung gian" giữa trời và dân, họ tự nhận là con trời. Nếu đất nước có được Broker lương thiện, thì dân được thái bình, là những minh quân; nhưng gặp thứ broker xấu, là những tên hôn quân, nhan nhản trong lịch sử các nước từ Âu sang Á.

- Tại các nước dân chủ, những bộ máy điều hành quốc gia chính là "broker" giữa chính quyền và dân chúng, nơi nầy cũng có nhiều đảng phái khác nhau, thi đua vào làm "broker" nên các đảng phái luôn tìm những chính sách để phục vụ dân chúng để giữa "công ty trung gian", nếu không sẽ bị dân đá văng ra khỏi bộ máy cai trị. Trong khi đó tại các nước Cộng Sản, giới Broker bất lương chính là tập đoàn đảng Cộng Sản, vì không có bất cứ đảng phái nào cạnh tranh, nên đảng Cộng Sản là thứ Broker độc quyền, tha hồ làm mưa làm gió, tự ý ban hành những thứ luật rừng để hưởng lợi.

- Trong thương trường, các super market là những broker giữa các công ty sản xuất và người tiêu thụ, nên các broker phải cạnh tranh nhau để được người tiêu thụ đến mau càng đông càng tốt. Do yếu tố cạnh tranh lành mạnh, theo luật pháp nên đa số các thương nghiệp là những broker lương thiện, giá cả đàng hoàng; tuy nhiên khi gặp phải gian thương, sau thời gian mánh mun, rồi vũng bị bể và bị chế tài theo luật pháp.

Trong tôn giáo cũng thế, tu sĩ chính là giới BROKER giữa trời, Phật, chúa và tín đồ, nên đây là sợi dây quan hệ mật thiết giữa đạo và đời. Do đó đức thầy Huỳnh Giáo Chủ, đạo Hòa Hảo có hai câu thơ ý nghĩa:

"Đời không đạo, đời vô liêm sĩ.
Đạo không đời, đạo biết dạy ai?"

Trong tôn giáo, giới tu sĩ Broker rất quan trọng, nên việc đào tạo là nhu cầu cần thiết trong việc bảo tồn và phát triển. Thiên Chúa giáo đào tạo tu sĩ rất kỹ, nên những chức sắc phải là những người thông hiểu kinh hơn các con chiên, đào tạo như vậy mà thỉnh thoảng cũng có những linh mục, giám mục làm sai và bị chế tài bởi giáo hội. Hồi giáo cũng có một số giáo sĩ cực đoan (Cleric), tự nhận là trung gian giữa Hallah và tín đồ, rồi có một số broker tự cho mình có quyền năng, cấp "chiếu kháng" cho bất cứ tín đồ nào ôm bom tự sát, dưới chiêu bài "thánh tử đạo" là nguyên nhân gây ra nạn khủng bố.

Phật giáo vốn lỏng lẻo về đào tạo, nên giới tu sĩ Broker làm sai chiếm khá nhiều, trong thương trường là gian thương, thì trong Phật giáo là gian tăng, nhan nhản trong các tự viện, khi làm sai mà không có ai chế tài, thì coi như đám gian sư lộng hành và tiếp tục phá đạo. Một số broker làm ăn khắm khá như thiền sư Thích Nhất vẹm, có cả hệ thống "supper Budhha market" từ Pháp sang Mỹ, sản nghiệp kếch xù hàng trăm triệu Mỹ kim. Hệ thống Phước Huệ công đức tùm lum, hệ thống phái Như Huệ .... và các tiệm Phật khắp nơi trên thế giới càng phát triển. Giới gian sư, ma ni trong Phật Giáo rất đông, nên giới tiêu thụ chính là các Phật tử hảy chọn nơi nào tốt để cùng nhau tu học, tìm đường giải thoát. Do đó, việc lấy lại các tự viện về tay Phật tử quản lý là điều cần thiết, trong tinh thần "đại hùng, đại lực, đại từ bi" là giúp đạo vượt qua cơn pháp hạn. Khi Phật tử đứng ra điều hành, thì sáng suốt hơn cá nhân các sư, và trong tương lai, nếu giáo hội trong nước bị nhuộm đỏ, hay bị khống chế, bị lái sang "định hướng xã hội chủ nghĩa" thì những tự viện ở hải ngoại do chính Phật tử điều hành, là nơi bảo tồn đạo pháp để chờ ngày bọn quỷ đỏ tiêu diệt, chấn hưng đạo, giúp đời. Nếu tự viện nào được minh sư hướng dẫn thì theo và nơi nào gặp gian sư, Phật tử nên làm cuộc đứng lên giành lấy chùa, bảo vệ chánh pháp.

Ánh sáng từ chùa Pháp Âm vùng sáng trên nền trời chánh đạo, hy vọng các nơi khác, khắp các châu lục, Phật tử hảy vùng lên lấy lại chùa, bảo vệ chánh pháp, là công đức to tát trong thời Mạt Pháp, tống cổ bọn gian sư, bao năm bòn rút mồ hôi trở thành MẬP PHÁT trong các Tiệm phật; đã đến lúc phải làm cái gì, bằng không thì ma quái tiếp tục lộng hành.

Trương Minh Hòa
27.4.2009


Monday, April 27, 2009

Thư mời biểu tình ngày quốc hận 30-4-2009 - Cộng Đồng Tỵ Nạn Hòa Lan

Thư mời biểu tình ngày quốc hận 30-4-2009

Kính gởi:
    - Quý vị lãnh đạo tôn giáo
    - Quý vị đại diện các đoàn thể, các ban đại diện địa phương.
    - Quý đồng hương.
Thưa quý vị,

Việt Nam đã mất thác Bản-Giốc, mất ải Nam-Quan, mất 700 km2 vùng biên giới phía Bắc, trong đó có nhiều ngọn đồi chiến lược.
    Việt Nam đã mất 20000 km2 lãnh hải.
    Việt Nam đã mất Hoàng Sa, mất Trường Sa.
    Chưa hết, Việt Nam đang có nguy cơ mất toàn bộ đất nước.
Hiện nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục bán vùng cao nguyên trù phú để Trung Cộng khai thác bauxite. Đây là vấn nạn gây tai hại to lớn trên nhiều lãnh vực như môi trường sinh thái, thế địa lý chính trị quân sự, kinh tế và nguy hiểm nhất là hàng vạn công nhân Trung Cộng đang đổ vào Việt Nam. Điều này đưa đến tai họa lâu dài cho dân tộc mà hậu quả là đất nước chúng ta sẽ rơi vào tay Trung Cộng và sẽ biến thành chư hầu của phương Bắc. Đất nước thật sự đang lâm nguy.

Trước tình hình khẩn thiết này, nhân ngày quốc hận 30-4-2009, CDVNTNCS/HL phối hợp cùng các đoàn thể sẽ tổ chức cuộc biểu tình trước sứ quán VC để phản đối việc bán nước cầu vinh này.
    Địa chỉ: Nassauplein 12, 2585 EB Den Haag
    Thời gian: Ngày 29-4-2009 từ 13:00 --- 15:30 giờ
Chúng tôi tha thiết kêu gọi đồng hương tích cực tham gia cuộc biểu tình vào ngày giờ nói trên.

Sự hiện diện của quý vị là biểu hiện cụ thể cho công cuộc tranh đấu vì tự do dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chúng ta.

Trân trọng

T/m Ban Thường Vụ CDVNTNCS/HL

Chủ tịch,

Nguyễn Liên Hiệp

*
* *


Tuyên cáo chung
Của Cộng Đồng Và Hội Đoàn Hòa Lan

v/v: Cộng Sản Việt Nam để cho Trung Cộng khai thác quặng Bauxite ở Tây nguyên

Nhận định rằng:

1. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Tổ tiên và các bậc tiền nhân của ta đã hy sinh biết bao xương máu chống lại

kẻ thù phương Bắc để bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho con cháu giống nòi.

2. Thế, mà vì muốn dựa Trung Cộng để giữ độc quyền thống trị đất nước, CSVN đã khiếp nhược đem đất đai, lãnh hải dâng hiến cho kẻ thù qua các việc:
    - Xác nhận Hoàng Sa, Trường sa thuộc về Trung Cộng qua Công hàm T/T Phạm Văn Đồng ký năm 1958

    - Dâng thác Bản-Giốc, ải Nam-Quan và cả ngàn cây số vuông dọc theo biên giới phía Bắc, trong có nhiều ngọn đồi chiến lược, qua Hiệp ước phân định lãnh thổ năm 1999.

    - Dâng hàng chục ngàn cây số vuông lãnh hải với bao nhiêu là tài nguyên phong phú, qua Hiệp ước phân định vịnh Bắc-Bộ năm 2000.
3. Chưa hết, hiện nhà cầm quyền CSVN bất chấp mọi khuyến cáo của các thành phần dân tộc và các nhà nghiên cứu, rước Trung-Cộng khai thác quặng Bauxite ở Tây nguyên mà hậu quả nghiêm trọng sẽ là:
    - Gây ô nhiễm và hủy diệt môi trường sinh thái đất nước.

    - Triệt tiêu văn hóa của các thành phần dân tộc ít người.

    - Mất ưu thế về chiến lược phòng ngự bảo vệ an ninh tổ quốc.

    - Nguy hiểm nhất, hàng vạn công nhân Trung Cộng đổ vào VN, mối đe dọa bành trướng của phương Bắc trở thành hiện thực, nạn mất toàn bộ đất nước có nguy cơ xảy ra.
Trước tình hình nguy ngập đó, Cộng-Đồng Việt-Nam Tỵ-Nạn Cộng-Sản tại Hòa lan cùng các đoàn thể, tổ chức người Việt Quốc Gia tại Hoà Lan đồng thanh tuyên cáo:
    1. Cực lực lên án nhà cầm quyền CSVN làm tay sai cho Trung Cộng bán nước cầu vinh.

    2. Lên án mọi hành động xâm lăng của Trung Cộng trước dư luận quốc tế và trước Liên-Hiệp-Quốc

    3. Kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước cùng nhau đứng lên đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

    4. Mạnh mẽ đòi nhà cầm quyền CSVN lập tức chấm dứt ngay dự án khai thác Bauxite Tây nguyên và ngưng ngay việc nhập cảng công nhân Trung-Cộng vào VN

    5. Nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi “tháng năm biểu tình tại gia chống việc lấy vàng dân tộc đổi nhôm nước ngoài”của đại lão Hòa-Thượng Thích-Quãng-Dộ, phổ biến ngày 29/3/2009.
Làm tại Eindhoven ngày 14-4-2009


Phát động chiến dịch Viết Thư Về Quê Hương - Đảng Thăng Tiến Việt Nam

Đảng Thăng Tiến Việt Nam
Vietnam Progression Party (VNPP)
Headquarters: 86 Lê Ngô Cát, Huế (temporary closed)
Email: ttvnhn@gmail.com
Web: www.thangtien.de & www.thangtienvietnam.org

Đức quốc, ngày 22 tháng 4 năm 2009
TB03/2009

Thông Báo
Phát động chiến dịch Viết Thư Về Quê Hương

Hãy nói cho dân ta nghe: bọn giặc Hồ buôn dân bán nước,
Hãy nói cho dân ta nghe: bọn Việt cộng bán nước buôn dân.

Đồng kính gởi:
    - Đồng bào Việt Nam, trong và ngoài nước,
    - Quý Hội đoàn, Đoàn thể, Đảng phái phi cộng sản, xin tiếp tay.
    - Quý vị lãnh đạo các tôn giáo, xin hưởng ứng, hỗ trợ.
    - Quý cơ quan truyền thông, nhờ phổ biến.
Kính thưa Đồng bào,
Kính thưa quý Chư vị,

Lịch sử Việt Nam từ ngàn xưa đã toàn tâm, toàn lực trong các cuộc diệt Nguyên, đuổi Tống, kháng Minh, đánh Hán, dẹp Thanh và chống thực dân Pháp. Rồi gần đây là cuộc chiến với Trung cộng tại hải đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đã nói lên ý chí sắt son của toàn dân ta trong công cuộc bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của quê hương. Nhưng tệ hại thay, từ năm 1930, Hồ chí Minh và tập đoàn Việt gian đã gieo mầm ký sinh cộng sản vào đất nước Việt Nam với những dã tâm ghê gớm:

1. Về đối nội: Chúng chủ trương áp dụng một nền văn hóa ngu dân, bạc nhược, hèn kém, bưng bít mọi thông tin, nhằm làm băng hoại nền văn hóa Nhân Bản dân tộc và tiêu diệt nền luân lý đạo đức cơ bản của xã hội, để ngày ngày người ta phải giả dối nhau mà sống. Tệ hơn thế, bằng một loại luật lệ vô pháp vô cương, ô dù, chúng đã tạo ra những tệ nạn tham ô, hối lộ, cửa quyền, đẩy cả xã hội vào cuộc sống bất công, với hàng ngũ dân oan mất đất, mất nhà lan tràn trên bình diện cả nước. Riêng các cán bộ, đoàn đảng viên nhà nước từ trung ương cho đến địa phương thì tự do thi đua rúc rỉa, đục khoét, trộm cướp, bòn mót của công cũng như của tư để cho vào túi tham riêng.

2. Mặt đối ngoại: Chúng chủ trương đưa đất nước Việt Nam vào quỹ đạo làm thuộc địa, nô lệ cho tàu cộng. Bằng chứng điển hình là:
    • Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng đã cúc cung đời nô lệ qua việc ký công hàm năm 1958, công nhận chủ quyền 12 hải lý của Tàu cộng trên quần đảo Trường Sa Hoàng Sa là phần đất thuộc Việt Nam về mặt lịch sử và trực thuộc miền nam Việt Nam quản trị theo hiệp định Geneve năm 1954 quy định.

    • Đến cuối năm 1999 và 2000, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Nguyễn mạnh Cầm lại ký hiệp định và hiệp thương về biên giới và lãnh hải, nhường thêm những địa danh như thác Bản Dốc, Ải Nam Quan và vùng biển bắc bộ rộng hàng ngàn Kilô mét vuông trên bộ cũng như lãnh hải cho Tàu cộng để tỏ rõ ý chí thần phục bành trướng phương bắc.

    • Đến nay, Nguyễn tấn Dũng, Nông đức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Phạm phú Trọng, không những chỉ đồng ý đóng lại các cột mốc ở biên giới lui sâu vào xương thịt Việt Nam cho vừa lòng Tàu cộng, chúng còn ruớc Tàu qua Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Tiếng là nhượng đặc quyền quản trị và khai thác mỏ bauxite, nhưng thực tế là chúng đang thực hiện chủ trương của Việt cộng, quyết tâm đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của tàu bàng cách bao che và khai mở ra cuộc di dân vĩ đại, được bảo vệ và tổ chức từ phương bắc tràn qua lãnh thổ Việt Nam sinh sống một cách hợp pháp. Bởi lẽ, đã sang đến đây, chúng có khi nào quay trở về? Và nhà cầm quyền Việt cộng có khi nào dám đòi hỏi đến việc cấp chiếu khán có thời hạn, hoặc được quyền kiểm soát số nhân viên thuộc công nông trường và an ninh của tàu cộng sang sinh sống, khai thác hầm mỏ hay rà đặt các căn cứ quân sự?
Kính thưa toàn thể đồnng bào,

Nước Việt Nam và dân tộc ta đang trong cơn nguy biến. Tổ quốc thân yêu Việt Nam của chúng ta đang bị nhà nước Việt cộng chuyển hóa từ từ cho mộng bành trướng bá quyền từ phương bắc. Con cháu chúng ta thật khó mà còn có được một mảnh đất độc lập và tự do mang tên Việt Nam. Theo đó, đảng Thăng Tiến Việt Nam long trọng công bố một sách lược không khoan nhượng với nhà cầm quyền Việt cộng: Dù chỉ còn lại một người đảng viên cuối cùng thì đảng Thăng Tiến Việt Nam vẫn cương quyết chiến đấu. Trước là khai trừ đảng và nhà nước Việt cộng ra khỏi địa bàn sinh hoạt chính tri Việt Nam. Sau là bảo toàn lãnh thổ, lãnh hải, bảo toàn nền Độc Lập, xây dựng một xã hội nhân bản trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý cho Việt Nam.

Cùng với bản thông tin này, đảng Thăng Tiến Việt Nam, dốc toàn lực phát động chiến dịch: Gởi Thư Về Quê Hương. Trong chiến dịch này, chúng tôi trân trọng kính đề nghị toàn thể đồng bào cùng thực hiện với chúng tôi những mục tiêu ngắn hạn sau đây:
    1. Đồng bào hãy rỉ tai, thông báo cho nhau, để từng nhà, từng người từ thành thị cho đến nông thôn, người người được biết, và hiểu rõ dã tâm của nhà nước Việt cộng đang từng bước hiến dâng tổ quốc Việt Nam cho Tàu cộng và đẩy toàn dân ta vào vòng nô lệ mới.

    2. Vì trong nước thiếu hệ thống thông tin chính xác và nhà cầm quyền bưng bít mọi loại tin tức có liên quan đến việc dâng đất, hiến biển để chúng dễ thực hiện vịệc xin làm nô lệ cho phương bắc. Chúng tôi kính xin đồng bào ở ngoài nước, hãy viết thư về quê hương cho thân nhân, cho bạn bè, cho làng xóm, cho phố phường của mình biết rõ dã tâm của nhà nước Việt cộng đang từng ngày, từng bước dâng hiến toàn bộ giang sơn Việt Nam cho bá quyền Trung cộng để cho dân ta phải sống đời nô lệ. Phần chúng, với những món tiền khổng lồ thu về từ các vụ tham ô, hối lộ hoặc bán đất, dâng biển cho Tàu qua các hiệp định, hiệp thương, dựng cột mốc, nên chúng đã sẵn sàng cuốn gói ra đi, sau khi bán sạch giang sơn của cha ông chúng ta cho Tàu cộng

    3. Chúng tôi khẩn thíết xin đồng bào: Nếu không cần thì đừng về Việt Nam du lịch vào lúc này. Nếu chưa cấp bách thì cũng đừng gởi tiền về cho thân nhân. Hoặc giả, nếu cần chỉ gởi tối thiểu để cuộc sống của đồng bào ta khỏi lầm than mà thôi. Bởi vì, tất cả tiền bạc do quý đồng bào gởi về hoặc tiêu xài tại Việt Nam thì lại trở thành tiền tươi trong túi áo của những đảng viên Việt cộng, giúp vốn cho chúng cất giữ trong các ngân hàng tại ngoại quốc mà thôi.

    4. Chúng tôi cũng kêu gọi đồng bào và các giới, đặc biệt là các gia đình và bản thân các thành viên đảng Thăng Tiến Việt Nam hãy tích cực ủng hộ và tham gia chiến dịch “bất tuân dân sự” biểu tình bất bạo động tại gia như lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Quảng Độ để rút ngắn tíến trình tranh đấu cho dân chủ, ngõ hầu bảo vệ tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Kính thưa toàn thể đồng bào.

Đất nước Việt Nam, thuộc về toàn thể dân ta, không phải là của riêng các cán bộ, đảng viên nhà nước Việt cộng. Chúng không có quyền hiến dâng một tấc đất, một tấc biển cho ngoại bang.

Kính xin đồng bào cùng với chúng tôi, cương quyết phủ nhận tất cả mọi hiệp thương, hiệp định, công hàm có liên quan đến biên giới lãnh hải của Việt Nam do nhà nước Việt cộng ký kết với Trung cộng.

Chúng tôi, đảng Thăng Tiến Việt Nam, nguyện sát cánh cùng đồng bào trong cuộc chiến giải trừ chế độ bạo tàn cộng sản tại Việt Nam và nguyện lấy lại từng tấc đất, tấc biển của cha ông chúng ta để cùng nhau xây dựng một xã hội Nhân Bản trong Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý và Phú Cường.

Trân trọng kính chào đồng bào.

Ban Điều Hành Đảng Thăng Tiến Việt Nam
Nguyễn Phong, Trưởng ban thành lập. Thái thanh Thủy, thư ký VPHN
Lê thị Công Nhân, Phát ngôn nhân

LM Nguyễn văn Lý, cố vấn



Nghĩ gì về 34 năm ngày "giải phóng" - Âu Dương Thệ

    Nghĩ gì về 34 năm ngày "giải phóng"
    Không được phép đánh lừa thanh niên VN một lần nữa!
Âu Dương Thệ
    · Nói và làm của nhóm cầm đầu chế độ độc tài toàn trị
    · Những nguy hiểm và bất lợi trước mắt cho đất nước
Trong thời gian gần đây càng gần ngày kỷ niệm 30.4 và ngày sinh nhật người sáng lập chế độ toàn trị người ta lại thấy nhóm cầm đầu chế độ này đang phát động một phong trào đề cao đoàn kết dân tộc, lòng yêu nước và "làm theo Bác". Cuộc vận động mới này không chỉ dừng trong các giới đồng bào các dân tộc, người Việt ở nước ngoài, mà trọng tâm chính là các giới trẻ như sinh viên, học sinh và thanh niên. Thậm chí vào dịp lễ giỗ Tổ Hùng Vương vào đầu tháng 4 và dịp kỷ niệm 78 năm thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM, Nguyễn Tấn Dũng đã để cho tổ chức một cuộc gặp mặt với Ban Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM để nghe sự hoạt động phong trào của Đoàn về "Năm xung kích phát triển KT-XH và bảo vệ tổ quốc".[1] Trước đó vài tuần nhóm cầm đầu chế độ toàn trị cũng cho tổ chức đình đám "Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Sinh viên VN" vào giữa tháng 2.04 với sự hiện diện của một số nhân vật cựu trào cực kì bảo thủ và thần phục Bắc kinh như Đỗ Mười, Lê Đức Anh và người đại biểu trung thành của nhóm này trong Bộ chính trị hiện nay là Nguyễn Phú Trọng đã đọc diễn văn chính ra chỉ thị cho sinh viên.[2]

Các câu hỏi quan trọng đặt ra ở đây là: Đằng sau tấm màn của các "Đại hội" và gặp gỡ với các giới trẻ của những người cầm đầu chế độ toàn trị nói lên điều gì? Lời nói và việc làm của họ có đi đôi với nhau không?

Theo dõi sát tình hình chính trị, kinh tế và ngoại giao của chế độ toàn trị CSVN trong thời gian qua thì ai cũng thấy rất rõ, khó khăn kinh tế-tài chánh càng lớn thì họ lại càng quay đầu cầu cứu phương Bắc nhiều hơn và nhóm cầm đầu Bắc kinh đã tận dụng cơ hội này để đưa ra những yêu sách ngày càng ngang ngược và nguy hại cho đất nước. Rõ rệt nhất là trong dịp 30 năm Bắc kinh mở cuộc chiến tranh biên giới chống VN (2.1979- 2. 2009) những thủ lãnh của CSVN đã không dám mở một buổi lễ kỉ niệm nào, ngay cả việc thăm viếng mộ các chiến sĩ cũng không có. Thậm chí còn không cho báo chí được viết các bài về cuộc chiến tranh xâm lược này. Nhưng cũng lúc đó thì họ đã cùng với Bắc kinh tổ chức long trọng "Lễ chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc biên giới" Việt-Trung vào ngày 23.2 ở Lạng sơn, mặc dầu trong suốt hơn 10 năm đàm phán và thực hiện Hiệp định Biên giới thì Bắc kinh luôn luôn ở thế thượng phong![3] Trong buổi lễ này Ủy viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã không ngớt lời ca tụng mối bang giao mà hai bên gọi là "16 chữ vàng" và "4 tốt":

"Đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện giữa 2 nước và cũng là thông điệp quan trọng khẳng định với thế giới về mối quan hệ hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Trung Quốc." [4]

Mới vài ngày trước đây Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự Hội nghị kinh tế Bác Ngao ở Hải nam, Trung quốc. Trong dịp này ông Dũng đã phải chấp nhận yêu sách của Thủ tướng Trung quốc Ôn Gia Bảo là thời gian tới sẽ tiến hành thảo luận nhanh về các vấn đề ở biển Đông và vẫn ca lại tình giao hảo "hữu nghị". Đài Bắc kinh tường thuật cuộc hội đàm này và cho biết, Ôn Gia Bảo đã khuyên Nguyễn Tấn Dũng:

"Hai bên phải nhìn xa trông rộng, xuất phát từ đại cục, tích cực giữ gìn sự ổn định của Biển Nam, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, cố gắng tiến bước tích cực trong việc cùng khai thác Biển Nam." [5]

Còn Nguyễn Tấn Dũng chỉ biết vâng dạ, vẫn theo đài này:

"Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ, Việt Nam sẵn sàng thể theo tinh thần tôn trọng và thương lượng lẫn nhau, giải quyết ổn thỏa vấn đề Biển Nam."[6]

Tuy nhiên, những lời trên chẳng đánh lừa được ai, nhất là thanh niên VN. Những bất lợi cho VN về lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo và tài nguyên cùng những thái độ nhu nhược và làm mất thể diện dân tộc của nhóm cầm đầu CSVN đã không thể nào qua mặt được phần đông thanh niên và chuyên viên VN, những người rất nhạy cảm, nhiều nhiệt huyết và còn biết quí sự tự trọng và danh dự tổ quốc.

Chính vì thế, nên nhóm cầm đầu chế độ toàn trị đã bày mưu định kế để tìm cách xoa dịu sự thất vọng, bất mãn của các giới trẻ bằng những "Đại hội sinh viên", bằng những cuộc gặp gỡ của lãnh đạo với các Đoàn thanh niên của ĐCSVN để biểu giương các thành tích của các giới trẻ. Trong các dịp này họ đã chọn lựa để cho một số nhân vật cầm đầu hiện nay đang bị dư luận chỉ trích là quá ngả hoặc nhượng bộ vô điều kiện với Bắc kinh để gặp gỡ các đoàn thanh niên, sinh viên trong các đại hội và các lễ lớn để tìm cách rửa mặt. Vì vậy, Nguyễn Phú Trọng không chỉ xuất hiện và đọc diễn văn chỉ đạo trong "Đại hội Sinh viên toàn quốc" vào giữa tháng 2 mà ông ta còn chủ tọa "Ngày kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ đội Biên phòng" vào đầu tháng 3. Cũng không phải tình cờ, trong hai cuộc họp mặt lớn này đứng cạnh Nguyễn Phú Trọng đều có cựu Tổng bí thư Đỗ Mười, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, mặc dù họ không còn giữ một chức vụ gì trong Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn còn quyền uy rất lớn trong giới lãnh đạo hiện nay.[7] Đây là hai nhân vật chính đã đặt viên đá mở đường sang thần phục Bắc kinh từ cuối thập kỉ 80 của thế kỉ trước.

Lời nói không đi đôi với việc làm

Trong Đại hội Sinh viên và gặp Bộ đôi Biên phòng Nguyễn Phú Trọng ca tụng lòng yêu nước của giới trẻ và bộ đội, nhưng chỉ ít ngày sau khi thăm một số tỉnh Tây nguyên chính ông ta lại cổ động cho việc tiếp tục để Bắc kinh khai thác mỏ Bauxite ở đây.[8] Nguyễn Tấn Dũng cũng chọn thái độ trí trá, đánh hỏa mù như thế. Sau khi cấm đoán báo chí không được đưa tin về khai thác Bauxite ở Tây nguyên không đạt kết quả. Dư luận các giới chuyên viên và nhân sĩ ngày càng bất bình, báo chí và giới trẻ tỏ cảm tình với các quan tâm chính đáng về vấn đề này. Cho nên Nguyễn Tấn Dũng đã cho Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mở cuộc "Hội thảo Khoa học" về việc khai thác Bauxite ở Tây nguyên vào ngày 9.4. Họ tỏ ra như muốn lắng nghe ý kiến của tướng Võ Nguyên Giáp cũng như của các chuyên viên và nhân sĩ về những tai hại cho môi trường, kinh tế, xã hội và quốc phòng. Nhưng trước khi chấm dứt cuộc Hội thảo Hoàng Trung Hải đã kết luận, "chủ trương phát triển công nghiệp khai thác Bauxite Tây nguyên là đúng đắn".[9] Ông Hải còn cho biết, các công trình Tân Rai và Nhân Cơ do các chủ thầu của Trung quốc vẫn tiếp tục được khai thác như đã định trước. Mở ra cuộc Hội thảo ông ta chỉ làm một công việc tìm cách đánh lừa sự theo dõi và bất bình của dư luận khi nói rằng, đây là "thí điểm" đầu tiên để học tập.

Cũng bằng cách đánh lừa quen thuộc, trong dịp Giỗ Tổ Hưng Vương, vào đầu tháng 4 Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước, đã lại ca "đoàn kết dân tộc" và "yêu nước" theo sách lược, yêu nước là yêu đảng, kính lãnh đạo và yêu XHCN:

"Đảng và Nhà nước không có thành kiến với những kiều bào còn chưa hiểu rõ về đất nước. Mẹ hiền Việt Nam luôn dang rộng cánh tay đón những người con về với Tổ quốc, kể cả những người từng lầm đường, lạc lối." [10]

Thoạt nghe qua thì tưởng đây là chủ trương "đoàn kết dân tộc". Nhưng đọc kỹ những từ ngữ và ý của đoạn trên thì rõ ràng Nguyễn Minh Triết vẫn lập lại thái độ yêu nước độc quyền mà khi còn sinh thời chính cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã công khai kết án. Không những thế, Nguyễn Minh Triết còn tỏ thái độ ngạo mạn trịch thượng, kẻ cả, hống hách, coi ĐCS là "mẹ hiền" và khinh thường coi người Việt nước ngoài là "các con". Đây chính là tư duy cực kỳ phong kiến của các vua chúa trước đây. Nghĩa là ở đây ông ta vẫn lập lại cái ý trước đó vài năm phải tiếp tục giữ độc quyền lãnh đạo cho ĐCS, cho nên phải duy trì Điều 4 của Hiến pháp 1992. Vì nếu không như thế, theo ông Triết "bỏ Điều 4 Hiến pháp… là tự sát" [11]. Cũng ngay khi Nguyễn Minh Triết tỏ ra vẻ hồ hởi với kiều bào thì nhà cầm quyền đã không cho Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc vừa từ Úc đáp xuống sân bay Nội bài vào VN. Họ cưỡng ép Ông phải ra khỏi ngay VN. GS Quốc là một chuyên viên có uy tín, yêu nước và không có một tội gì cả.[12] Việc cấm cản hay gây khó khăn cho người Việt từ nước ngoài về là sự tự tố cáo lòng giả dối và thái dộ kiêu ngạo quyền lực của Nguyễn Minh Triết cũng như những người cầm đầu CSVN.

Cũng theo cách làm tương tự, Nông Đức Mạnh, người cao nhất của chế độ toàn trị, với tư cách là Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương trong Phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM" luôn luôn rao giảng đạo đức và lòng yêu nước. Nhưng thực sự lại là người chỉ lo thu vén quyền tiền, ăn bẩn nhất và gia đình trị, bất cần đến dư luận và đạo đức và còn mở đường để Bắc kinh đang áp đảo VN. Trong chuyến thăm Bắc kinh vào cuối tháng 5.08 ông Mạnh đã đồng ý với Hồ Cẩm Đào để Bắc kinh khai thác Bauxite ở Tây nguyên, đồng thời thỏa thuận lập "quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện" giữa hai nước.[13] Nghĩa là sau khi khống chế được kinh tế, thương mại của VN, Bắc kinh sẽ ép nhóm cầm đầu CSVN phải hợp tác cả trong an ninh và quốc phòng, biến VN thành một liên minh chiến lược của TH ở phía Nam.

Trước Đại hội 10 (4.06) để cứu cái ghế Tổng bí thư và người con rể, Nông Đức Mạnh đã cách chức một số nhân vật thân tín dính líu vào vụ tham nhũng nghiêm trọng PMU 18 và phải hoãn kế hoạch đưa con trai Nông Quốc Tuấn vào Trung ương đảng. Nhưng sau khi củng cố lại được quyền lực thì Nông Đức Mạnh đã tìm cách đổi trắng thay đen, cho bỏ tù một số nhà báo tố các quan lớn tham nhũng, thả cựu Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến và vất hồ sơ vụ tham nhũng này vào sọt rác. Không những thế, chỉ cách đây vài ngày Nông Đức Mạnh đã ra lệnh cho Ban Bí thư Trung ương phải để cho con trai là Nông Quốc Tuấn làm Phó Bí thư tỉnh ủy Bắc giang.[14] Trước đây Nông Quốc Tuấn là Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, một chức vụ khó kiếm chác. Với chức vị mới này sẽ là cái cầu để cậu ấm có cơ hội ăn bẩn giống bố và chuẩn bị nhẩy lên Trung ương đảng trong Đại hội 11 sắp tới.

Mối nguy cho đất nước đang đứng trước mắt

Hiện nay Trung quốc là cường quốc kinh tế đứng thứ ba trên thế giới, có mức dự trữ ngoại tệ rất cao là trên 2000 tỉ USD và đã bỏ gần một nửa số trữ kim trên để đầu tư và mua trái phiếu nhà nước của Mĩ. Do tác động rất lớn của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở Mĩ và trên thế giới hiện nay cho nên vai trò và ảnh hưởng của Bắc kinh cũng đang gia tăng ở ngay cả Hoa kì. Đối với VN, hiện Trung Hoa đứng đầu thế giới trong quan hệ buôn bán với VN, mức giao thương hiện đã lên tới trên 20 tỉ USD. Trong số này thì số hàng nhập cảng từ Trung quốc cao hơn nhiều so với hàng xuất cảng của VN sang Trung quốc. Vì thế số nhập siêu của VN trong buôn bán với Trung hoa có thể lên hơn phân nửa tổng số trữ kim của VN. Tình trạng bất lợi đến mức nguy hiểm này ngày càng gia tăng nhất là từ khi cuộc khủng hoảng tài chánh-kinh tế thế giới bùng nổ.

Trong chiến lược hiện nay của nhóm lãnh đạo Bắc kinh thì họ coi các sức mạnh tài chánh, thương mại và viện trợ kinh tế của họ là mũi nhọn trong việc mở rộng ảnh hưởng và thế lực ở các khu vực trên thế giới từ Mĩ, Âu châu, Phi châu và đặc biệt ở Đông Nam Á. Sách lược dùng các "phần mềm" này để áp đảo các nước lân bang đang gặp khó khăn về tài chánh và kinh tế là đường lối chính của Bắc kinh trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện sách lược này dễ dàng hơn thì họ cần có sự ủng hộ của một số cá nhân có quyền lực trong những nước này. Đó là sách lược mua chuộc các nhà lãnh đạo các nước nhỏ bằng nhiều mánh lới và thủ đoạn rất tinh ranh. Mặt khác, Bắc kinh sử dụng các lợi thế về tài chính và kinh tế của mình để gây áp lực nhằm mở rộng ảnh hưởng. Trong lúc này Bắc kinh chưa cần và cũng chưa đủ mạnh để sử dụng phần cứng, tức võ lực. Hiểu rõ những thâm ý và tính toán thâm độc của Bắc kinh cho nên trong Kiến nghị ngày 12.4 về "vụ khai thác Bauxite ở Tây nguyên" nhiều chuyên viên và nhân sĩ trong và ngoài nước đã cảnh báo những người cầm đầu chế độ toàn trị:

"Người Trung Quốc đóng cửa các mỏ khai thác bauxite của họ để chuyển sang khai thác ở Việt Nam, định trút gánh nặng ô nhiễm môi trường cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và nhiều đời mai sau – những hành động y hệt như họ đã và đang làm ở châu Phi với sự giúp sức của những chế độ cai trị tham nhũng tại châu lục này, và đang bị dư luận thế giới theo dõi chặt chẽ và hết sức công kích" [15]

Trong quan hệ VN-Trung quốc từ đầu thập niên 90 của thế kỉ trước cho tới nay sách lược "phần mềm" đã giúp Bắc kinh đạt được từ thắng lợi này sang thắng lợi khác. Khi biết được nhóm Đỗ Mười, Lê Đức Anh coi lợi ích giữ quyền cho mình và cho đảng cao hơn lợi ích của đất nước, nên Bắc kinh đã ra những điều kiện cho việc đi cầu hòa của nhóm này. Cho nên những người kế tục của họ như Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải đã phải kí các hiệp định về biên giới, lãnh hải và mở rộng giao thương trong những điều kiện rất bất lợi cho VN vào các năm sau này. Hiện nay ảnh hưởng của Bắc kinh ở VN không chỉ mở rộng mạnh trong chính trị và ý thức hệ xuyên qua Nguyễn Phú Trọng, mà còn đang áp đảo trong tài chánh, kinh tế. Vì thế Nông Đức Mạnh đã phải chấp nhận đòi hỏi của Bắc kinh lập "quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện" vào giữa năm qua. Tiếp theo Nguyễn Tấn Dũng vào cuối năm qua đã phải sang Bắc kinh nghe chỉ thị của Hồ Cẩm Đào và thực hiện việc lập đường giây nóng giữa hai bên. Trong thực tế, có nghĩa là từ nay Bắc kinh có thể ra lệnh trực tiếp cho nhóm cầm đầu Hà nội. Mới đây Bắc kinh cũng đã giục Nguyễn Minh Triết phải sớm sang Bắc kinh.

Bước phát triển mới mà Bắc kinh đang theo đuổi ở VN trong giai đoạn từ sau khi "quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện" đươc thiết lập là đùng sức mạnh tài chánh và kinh tế để đưa người và các trang bị khai thác tài nguyên và xây dựng những cơ sở có lợi ích chiến lược quốc phòng ngay ở VN có lợi cho Trung Hoa về lâu dài. Việc này người ta thấy rõ ràng nhất là qua việc nhóm cầm đầu Hà nội đã để Bắc kinh chính thức đưa hàng ngàn công nhân sang khai thác các mỏ Bauxite tại Tây nguyên, bất chấp những lời cảnh báo của tướng Võ Nguyên Giáp và các chuyên viên, nhân sĩ về những tai hại đối với môi trường, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của VN. Mới đây báo chí trong nước cho biết, đang có hàng chục ngàn công nhân phổ thông (không chuyên môn) Trung quốc đang ào ạt vào VN làm việc trong các công trình mà các công ti Trung Hoa đã "trúng thầu" ở VN.[16] Riêng ở Tây nguyên, theo báo chí trong nước, có tới 2.000 công nhân Trung quốc sang làm việc.[17]

Giữa khi hàng vạn công nhân phổ thông Trung quốc ào ạt vào VN làm việc thì trong cuộc chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào giữa tháng 3, Ủy viên Trung ương Đảng Bộ trưởng Lao động, thương bình và xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã thừa nhân đang có hàng chục ngàn công nhân phổ thông VN đang bị thất nghiệp, không được hưởng trợ cấp thất nghiệp phải quay về quê sống trong nghèo đói. Tuy đứng đầu Bộ lao động nhưng bà Ngân vẫn giữ thái độ rất vô trách nhiệm và vô cảm với những người thất nghiệp khi trả lời các đại biểu:

"không nên quá bi quan về chuyện lao động ở các làng nghề mất việc do thiếu đơn hàng. Bởi không làm nghề này, họ sẽ chuyển đổi sang nghề khác, hoặc quay về làm nghề nông" [18].

Chưa một nước nào độc lập, có chủ quyền và chính quyền biết lo cho dân lại để hàng chục ngàn công nhân phổ thông nước ngoài ồ ạt vào trong một khoảng thời gian ngắn. Trong khi đó thì hàng chục ngàn công nhân nước mình thì bị mất việc, không được trợ cấp thất nghiệp và phải về quê sống cảnh nghèo khó. Đây là hoàn cảnh của VN hiện nay!

Về phương diện quốc phòng, như tướng Võ Nguyên Giáp đã cảnh báo trong thư gởi cho Nguyễn Tấn Dũng vào đầu tháng 1.09, Tây nguyên được coi là cái nóc nhà của VN và Đông dương. Nay Bắc kinh đang đem hàng ngàn công nhân Trung Hoa sang khai thác ở Tây nguyên, họ có thể lấy lí do, vì nhu cầu kinh tế và hợp tác chiến lược giữa hai nước để thiết lập những trung tâm Radar ngay trên Tây nguyên của VN. Với những Radar đặt ở Tây nguyên, Bắc kinh có thể kết hợp với hệ thống Satellit của Trung Hoa đang hoạt động trong vũ trụ thì mọi di chuyển quân sự của Quân khu 5 của VN, chạy từ Đà nẵng tới Tây nguyên, tức Quân khu phụ trách an ninh cho các quần đảo Hoàng sa và Trường sa và biển Đông, ngày đêm sẽ không thóat khỏi các mắt thần điện tử của Bắc kinh.

Xa hơn nữa, nếu lấy lý do là hai nước Trung quốc và VN đã thiết lập „quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện“ thì Bắc kinh có thể lập các đài Radar với những kỹ thuật cao nhất hiện nay, rồi từ đó hợp sức với các Satellit của Trung quốc và các tầu ngầm có hỏa tiễn với đầu đạn nguyên tử của Trung quốc có thể hoạt động ở tầm xa. Khi đó không chỉ an ninh quốc phòng của VN bị đe dọa trực tiếp và thường xuyên, mà ngay cả toàn bộ khu vực biển Đông, con đường biển thương mại chính giữa Đông Á và Đông Nam Á với thế giới sẽ bị đe dọa an ninh trầm trọng. Ý đồ này được thể hiện rất rõ qua cuộc diễn binh lần đầu tiên của hải quân Trung quốc với sự chứng kiến của Hồ Cẩm Đào vào ngày 23.4 vừa qua. Trong đó Bắc kinh đã cho biểu diễn các tầu ngầm có đầu đạn nguyên tử để trình diện với thế giới và đe dọa các nước trong khu vực về một nước Trung quốc dưới chế độ độc tài toàn trị không chỉ áp đảo về kinh tế-tài chánh mà còn là một cường quốc quân sự không còn xa![19] ♣

GHI CHÚ
[1] . Nhân dân (ND) 6.4
[2] . ND 16.2
[3] . Âu Dương Thệ, khi Nguyễn Phú Trọng tuyên bố bảo vệ đất nước và quyền lợi lãnh thổ, xem phần Thời sự trong www.dcpt.org
[4] . Phạm Gia Khiêm trong buổi „Lễ chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc biên giới“, Chính phủ điện tử (CP) 23.2
[5] . Đài Bắc kinh, 17.4
[6] . Như trên
[7] . Quân đội nhân dân điện tử (QĐND) 2.3
[8] . QĐND 14.3, Cộng sản điện tử 13.3
[9] . CP 9.4.
[10] . Vietnam Net (VNN) 4.4
[11] .Nguyễn Minh Triết tuyên bố ngày 27.8.07 tại Tổng cục Chính trị; Âu Dương Thệ, Nguyễn Minh Triết: „Bỏ Điều 4 Hiến pháp…là tự sát“, trong Tạp chí Dân chủ & Phát triển số 34, 10.07, tr 66/67
[12] . Người Việt, 7.4
[13] . Thông cáo chung VN-TQ, ND 2.6.08
[14] . Công an Nhân dân điện tử 22.4
[15] . Nguyên văn Kiến nghị xem trong: www.dcpt.org
[16] . Tuổi trẻ điện tử 19.4
[17] . VNN, 24.4
[18] . VNN 20.3
[19] . Đài Bắc kinh 24.4, BBC 20.4, VNN 23.4




Úc Châu Quốc Hận 30-04-2009




Trần VănThinh
Nguyên Hương


Quốc Hận 30 tháng Tư đen mỗi người trong chúng ta không ai không nghĩ đến thảm cảnh đất nước nhà tan cửa nát, vì chế độ csvn đã và đang gây ra đã khiến người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, không biết bao nhiêu sinh mạng đã bỏ mình trên biển cả, trong rừng sâu nước độc để tìm tự do. Đã 34 năm kể từ ngày 30 tháng tư đen 1975 Việt Cộng áp dụng chánh sách trả thù dân quân cán chính VNCH dưới chiêu bài "học tập cải tạo" chịu nhiều khổ đau trong lao trù việt cộng. Đã 34 năm kể từ ngày 30 tháng tư đen 1975 Việt Cộng áp dụng chánh sách trả thù Dân quân cán chính VNCH dưới chiêu bài "học tập cải tạo" chịu nhiều khổ đau trong lao trù việt cộng xuất cảng đưa công nhân ra nước ngoài làm việc đã bị các công ty ngoại quốc đối xử tồi tệ đánh đập, mà không có được một sự bảo vệ nào từ phía CSVN

Ngày 26 tháng 4 năm 2009 lúc 6giờ 30 sáng trước khi lên đường tiến về thủ đô Canberra để tham dự cuộc biểu tình lên án bọn bán nước cầu vinh tại tòa đại sứ Việt Cộng, đồng bào cùng các gia đình quân đội cựu quân nhân QLVNCH/ Úc Châu/NSW đã tề tựu trước Tượng Đài chiến sĩ Việt Úc tại công viên Cabra Vale Park, góc đường Railway Parade và Bartley St, NSW để làm lễ thượng kỳ và đặt vòng hoa tưởng niệm chiến sĩ VNCH.

Trong thời tiết lạnh giá và lộng gió với nhìẹt độ trên dưói 10 độ C, có đến trên một ngàn năm trăm đồng hương từ khắp các tiểu bang trên toàn nước Úc đã vượt hàng ngàn cây số để tham dự cuộc biểu tình Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 34. Sau nghi thức chào cờ Úc Việt và một phút mặc niệm là phần phát biểu của ông Nguyễn Thế Phong, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu đã không quên ghi nhớ công ơn của tiền nhân và nhắc nhở mọi người nhớ đến vận mệnh của đất nước ngày hôm nay.


Ông cũng đã đề cập đến hành động "rước voi về dầy mả tổ" của bọn Việt Cộng bán nước, ông cũng không quên nhắc nhở đến sự hy sinh của các chiến binh VNCH và chiến binh Úc trong việc bảo vệ tự do của miền nam VN chống lại sự xâm lăng của Việt Cộng. Trước khi dứt lời, ông nhấn mạnh về bổn phận của mỗi người Việt tỵ nạn Cộng Sàn là không được phản bội những sự hy sinh của đồng bào đã hy sinh trên đường đi tìm tự do.


Kế tiếp là phần phát biểu của Ls Võ Trí Dũng chủ tịch CĐNVTDUC/NSW về nghị quyết 36 của CSVN nhằm mục đích bình thường hóa sự hiện dìện của VC tại hải ngoại bằng nhiều cách. Có 2 phương cách màVC thực hiện: Thứ nhất là chiêu dụ những cá nhân và thương gia về nước hợp tác để có lợi cho VC. Thứ hai là gây chia rẽ, đánh phá Cộng Đồng qua chính sách văn hóa vận bằng các buổi trình diễn văn nghệ như "Duyên Dáng VN", "Mr.Dam" v.v...

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu luôn luôn đề cao cảnh giác, tiếp tục phản đối những âm mưu dùng văn hóa để bóp méo sự thật về lịch sử VN và những hoạt động từ thiện của VC nhằm chận đứng sự len lỏi của VC trong âm mưu xây dựng những trung tâm văn hoá ở hải ngoại. Để kết luận LS Dũng đã khẳng định rằng ngày nào CS còn ngự trị trên đất nước VN ngày đó chúng ta tiếp tục đấu tranh để mang lại tự do dân chủ cho VN.


Phần phát biẻu LS Dũng đã được đồng hương cổ võ liên tục bằng những khẩu hiểu xen kẽ trong bài phát biểu của ông: "Đả đảo CSVN", "Freedom For VN", "Human Right For VN", Demoncracy For VN".

Tiếp theo là phần phát biểu của ông Lê Công, chủ tịch CĐNVTDUC/ACT, ônggởi lời chào mừng đến các đồng hương đến từ khắp các tiểu bang trên nước Úc và các bạn trẻ sinh viên và đề cập đến tình trạng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên. Xen kẽ là những tiếng hô "Đả đảoVC bán nước" của đồng hương.


Ông Nguyễn Thế Phong chủ tịch, CĐNVTDUC/VIC trong phần phát biểu về tình cảnh người dân VN trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu đã nêu bật thảm cảnh dân VN đã sống trong hoàn cảnh tồi tệ lại càng tồi tệ hơn trong cơn khủng hoảng kinh tế trên thế giới.

Thay vì được bảo vệ quyền đươc thông tin về kinh tế tài chánh một cách trung thực thì đã bị bưng bít tin tức và được cung cấp những thông tin lừa đảo. Theo thống kê của tạp chí Forbes thì VC được xếp hạng 113, có mức độ tham nhũng và quan liêu cao nhất trong số 127 quốc gia tại Á Châu. Thảm trạng lao nô ở ngoại quốc lâm vào tình trạng thất nghiệp trầm trọng, công nhân đã không có tiền để trở về nước, có người đã phải ăn xin, thâm chí có người đã phải tự tử.

Theo định nghĩa "Nghèo" của VC thì thu nhập từ 200 đến 250 ngàn đồng một ngày (tương đương USD 0.40) do đó đã nẩy sinh ra hiện tượng sinh viên học sinh phải dùng mọi thủ đoạn để được bán máu 2 hoặc 3 lần trong một tháng. Ông cũng đề cập đến tình trạng 60% hợp đồng xuất khẩu của VN lệ thuộc vào Hoa Kỳ và Nhật Bản nay vốn đầu tư ngoại quốc giảm đến mức báo động mà nhà cầm quyền cộng sản đã không làm gì để giúp những công nhân này. Ông kết luận là những thảm trạng này chỉ có thể chấm dứt khi nào mầm mống cộng sản bị tiêu diệt.

Phần phát biểu kế tiếp của Bác Sĩ Bùi Trọng Cường, chủ tịch CĐNVTDUC/QLD về đề tài những âm mưu thâm độc của Trung Cộng trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite tại Tây Nguyên nhằm mục đích biến VN thành một tỉnh lỵ nghèo nàn của Trung Cộng với một môi trường sinh thái độc hại không bao giờ cứu vãn được. Do đó BS đã kêu gọi chúng ta hãy ủng hộ lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Quảng Độ về việc biểu tình tại gia để bày to thái độ quyết liệt của chúng ta về việc mãi quốc cầu vinh của bọn CS VN.

Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, chủ tịch CĐNVTDUC/ADL đã bày tỏ sự ủng hộ đối với những phong trào đấu tranh ở trong nước mà theo ông thì từ sau năm1975 đến nay thì những phong trào này ngày càng đẩy VC vào đường cùng. Ông nhắc nhở mọi người về bổn phận của người Việt hải ngoại trong việc tiếp tục hỗ trợ bằng tất cả nỗ lực của từng người.

Cô Trần Hương Thủy, chủ tịch CĐNVTDUC/WOLONGGONG xác định vị trí của nhửng chiến sĩ VNCH ngày hôm nay là để nhắc nhở chúng ta là cuộc chiến chưa chấm dứt vì những thảm nạn của đất nước dưới sự cai trị của CSVN. Một trong những thảm nạn đó là nhân phẩm của trẻ em và phụ nữ bị chà đạp qua việc buôn bán một trăm ngàn trẻ em để cung cấp cho các nhà thổ ở Campuchia. Phụ nữ thi bị rao bán tên mạng ebay từ 1 đến 2 ngàn Mỹ Kim một người, bị bán qua Đài Loan để làm nô lệ tình dục...

Cô đã kêu gọi phụ nữ hãy đứng lên đòi lại chỗ đứng trong lịch sử của phụ nữ VN. Đồng bào đã cùng cô hô to: "Phụ nữ VN muôn năm", "Đả đảo CSVN"...


Kết thúc là phần phát biểu của bạn trẻ Vương Nguyễn, đại diện Sinh Viên NSW. Anh tâm sự là đã học hỏi được nhiều điều từ tiền nhân như Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Hai Bà Trưng. Anh mong ước được các bậc trưởng thượng trong Cộng Đồng nâng đỡ và giúp đỡ anh cũng như các bạn trẻ trong việc đóng góp xây dựng Cộng Đồng và nền tự do dân chủ cho VN.

Ông Nguyễn Thế Phong đã cám ơn đồng bào, cảnh sát Úc đã giữ gìn an ninh trật tự cho cuộc biểu tình và mời đồng hương tham dự buổi tưởng niệm tại Đài Tưởng Niệm.


Sau đó đồng bào đã đến đài tưởng niệm 504 chiến sỹ Úc đã hy sinh tai chiến trường VN. Trong dịp nay Ông Nguyễn Thế Phong đai diện đồng bào đã phát biểu như sau: Muc đích của chúng ta ngày hôm nay có mặt tai Đại Lộ Vinh Danh (the boulevard of honor) của Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan để bày tỏ lòng tri ơn sâu xa của dân VN đối với sự hy sinh của 504 chiến sĩ Úc va hang trăm ngàn chiến sĩ VNCH đã bỏ mình trong cuộc chiến bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam. Mặc dù chiến tranh chưa hề xảy ra trên nước Úc va Tân Tây Lan nhưng ngừơì lính Úc và Tân Tây Lan luôn luôn mang tinh thần Anzac để chiến bênh vực lẽ phải, tự do và dân chủ của thế giới.

Ông Mai Đức Hòa Chủ Tịch Tổng Hội CQNQLVNCH Úc Châu đã phát biểu như sau: Mặc dù chiến tranh VN đa bị thế giới nhìn một cách sai lạc và ngay cả đồng minh Úc cũng đã bị nhìn như thế. Nhưng vào năm 1987 toàn thể dân Úc Đại Lợi đã vinh danh cuộc chiến đấu của quân đội hoàng gia Úc, và đã xây dựng đài tưởng niệm 504 chiến sĩ Úc đã chiến đấu và hy sinh cho nền tự do của miền nam VN. Ngừơi VN nói riêng luôn dành cho 504 vị đồng minh này và chiến sĩ QLVNCH sự tri ơn.


Sau cùng Ông xác định rằng cuộc chiến của chiến sĩ VNCH vẫn đang tiếp diễn vì sự tàn phá trong việc khai thác bauxite, sự cưỡng chiếm Hòang Sa và Trường Sa của quan thầy bọn CSVN là Trung Quốc và cho sự no ấm, tự do và dân chủ của toàn dân VN.

Cờ máu treo ngược của đám việt gian csVN

Buổi lễ đã chấm dứt vào khoảng 3 giờ chiều cùng ngày.

Trần Văn Thinh - Nguyên Hương (26 - 4 -2009)

Sunday, April 26, 2009

Úc Châu trong ngày biểu tình Quốc Hận 30/4/2009 - Lê Minh


Lê Minh

Năm nay cuộc biểu tình để kỷ niệm ngày Quốc Hận thứ 34 tại Úc Châu được tổ chức vào ngày chủ nhật 26/4, mặc dầu ngày 30/4 rơi vào ngày thứ Năm trong tuần. Đây là thông lệ về thuận tiện thời gian để đồng hương Việt Nam có thể tham dự.

Tại Sydney, nơi có đông người Việt Nam cư ngụ, đã bắt đầu chuyến đi bằng lễ Thượng Kỳ Úc-Việt tại công viên Cabra-Vale Park từ 7g sáng tinh mơ của cái lạnh đầu đông. Sau phần nghi thức thượng kỳ Úc-Việt thì các vị đại diện cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang NSW đã đặt vòng hoa ngay chân tượng đài chiến sĩ Úc-Việt trước khi đoàn xe bus của Sydney lên đường đến Canberra.


Đặt vòng hoa tại tượng đài Úc-Việt tại công viên Cabra-Vale lúc 7g sáng

Khoảng 11g sáng khi đoàn xe bus của Sydney đến địa điểm tập kết là bên ngoài Tòa đại sứ CSVN, thì phái đoàn của các tiểu bang thành phố khác cũng đã tề tựu gần như đầy đủ.

Lúc này bầu trời ở thủ đô đã nổi gió mạnh, cùng những cơn mưa bất chợt lúc tắt lúc hiện. Tiếng gió rít khiến nhiệt độ bất ngờ trở lạnh xuống gần 10 độ C. Đến 11.30g sáng, khi những bàn tay và quai hàm bắt đầu run vì lạnh thì hai MC Quốc Dũng và Thanh Trúc đã bắt đầu "khởi động" bằng các khẩu hiệu sôi nổi:

Freedom for Vietnam - Now, now, now,...
Down with the VC - Down, down, down,...
Human rights for Vietnam - Now, now, now,...

Vừa chấm dứt giây phút "khởi động" thì ông Lê Công, vị chủ tịch cộng đồng tiểu bang ACT đã giới thiệu với bà con đồng hương lá cờ đỏ "treo ngược" trên cột cờ chính ngay bên trong khuôn viên Tòa Đại Sứ CSVN. Liền lúc đó, trong đám đông có tiếng cười nói hả hê "Lá cờ mà treo ngược là ngày tàn của chế độ rồi,..."

Cờ máu treo ngược của đám việt gian csVN

Sau phần nghi lễ chào cờ Úc-Việt diễn ra đúng 12g trưa thì ông Nguyễn Thế Phong, vị chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do liên bang Úc Châu lên ngỏ lời chào đến tất cả đồng hương đến từ mọi miền của Úc. Ông vắn tắt giới thiệu "chủ đề" của cuộc biểu tình năm nay xoáy quanh vấn đề chủ quyền đất nước và quần đảo Hoàng-Trường Sa, và cũng cho đồng hương biết về cuộc sinh hoạt "đem tâm tình của tuổi trẻ VN" do Tổng Hội Sinh Viên VN Úc Châu tổ chức vào đêm hôm trước tại thủ đô Canberra.

Mở đầu phần phát biểu của các vị đại diện các tiểu bang, là phần trình bày của Luật sư Võ Trí Dũng chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tại tiểu bang NSW về những nguy cơ đánh phá cộng đồng của Nghị Quyết 36 và những vấn đề liên quan đến việc cho Trung Quốc khai thác Bauxite tại Tây Nguyên VN.

Tiếp theo, ông Lê Công lên chào đồng hương đến từ các thành phố của nước Úc. Ông cũng lập lại các tác hại đến môi sinh, môi trường từ việc CSVN cho phép Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên.

Liền đó âm thanh bài hát "Hoàng Trường Sa là của ta" của nhạc sĩ Trường Hải đã làm nức lòng đồng hương tham dự biểu tình.

Ông Nguyễn Thế Phong, trong cương vị đại diện cộng đồng tiểu bang Victoria, đã trở lại trình bày các thảm họa của "dân chúng VN dưới chế độ cộng sản trong cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay". Trong bối cảnh các nước tiên tiến đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng thì một nền kinh tế lệ thuộc vào xuất khẩu như VN càng khiến cho đời sống người dân càng thêm khốn đốn vì lạm phát tăng vọt trong khi phải đối diện với nạn thất nghiệp đang tăng cao. Trong khi đó nạn cường quyền ác bá, quan chức lộng hành cướp đất càng đẩy người dân vào chốn khốn cùng.

Ông Thế Phong kết thúc bài phát biểu bằng việc trích bài thơ "Người Cách Mạng" từ tập thơ Hoa Địa Ngục của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện:
....

Chúng thực tế là những tên đao phủ
Trăm lần tởm kinh hơn ác thú!
Đáng giận là còn có những cái đầu mê mụ
Cho lũ gian manh biến thành công cụ
Loại đầy tớ này chỉ một ngày nếu dân làm chủ
Sẽ đưa tất cả chúng về âm phủ!


Ông Nguyễn Thế Phong – chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do liên bang Úc Châu

Tiếp theo, bác sĩ Bùi Trọng Cường, vị chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang Queensland đã trình bày cùng đồng hương đề tài "CSVN là chư hầu không thể chối cải của Trung Cộng". Trước khi bắt đầu, ông đã mời đồng hương cùng đồng ca bài hát quen thuộc "Cái nhà của ta":

Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha làm ra.
Cháu con phải gìn giữ lấy, muôn năm với nước non nhà.


Bác sĩ Bùi Trọng Cường, chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang Queensland

Trong phần trình bày này, ông đã nêu ra mối đe dọa từ phương Bắc khi Trung Cộng thực hiện chiến thuật "tằm ăn dâu", lấn dần hải đảo, nay lại vào trong tận đất liền qua việc CSVN cho phép Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên

MC Quốc Dũng và Thanh Trúc

Tiếp tục chương trình, MC Thanh Trúc đã xuớng lên bài "Hồ Chí Minh, tội đồ dân tộc", trước khi mời ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, vị chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang Nam Úc. Ông Lộc nêu lên vấn nạn "dân oan" và vấn đề đấu tranh liên quan đến vấn nạn này, cũng như kêu gọi đồng bào ở hải ngoại hãy hỗ trợ đồng bào trong nước trong công cuộc đấu tranh đòi lại công lý.

Để xen kẻ chương trình, MC Thanh Trúc đã giới thiệu tiếng hát của thế hệ tỵ nạn "3X" qua phần trình bày của cô bé 10 tuổi Khánh Vân và bạn trẻ Quốc An với nhạc phẩm "Đáp lời sông núi" của nhạc sĩ Trúc Hồ.

MC Thanh Trúc cũng giới thiệu đến đồng hương nhạc sĩ Dương Hải Linh đến từ Melbourne với nhạc phẩm tự sáng tác mang tên "Chúng con đã nghe"

Nhạc sĩ Dương Hải Linh và anh Quang

Vị đại diện cuối cùng là cô Hương Thủy, chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tại thành phố Wollongong, đã lên án chế độ CSVN bán nước, đàn áp người dân.


Nguyễn Bá Vương đại diện Tổng hội Sinh Viên VN

Trong tinh thần "tre già măng mọc", Nguyễn Bá Vương đại diện Tổng hội Sinh Viên VN Úc Châu vắn tắt với đồng hương về chủ đề "Triệu trái tim hồng" của đêm sinh hoạt không ngủ vào tối thứ Bảy đêm trước tại Canberra.

Kết thúc cuộc biểu tình chị Bảo Khánh đã mời toàn thể đồng hương cùng đồng ca bài "Kẻ thù truyền kiếp vào tội đồ dân tộc" của nhạc sĩ Trường Hải.

Cuộc biểu tình chấm dứt đúng 1.30g chiều và đoàn biểu tình chuyển sang đài chiến sĩ trận vong Úc-Việt để đặt vòng hoa trước khi ra về trong cơn mưa gió lạnh của ngày đầu đông tại Canberra.

Ghi nhanh
Lê Minh - Canberra ngày 26/04/2009

---o0o---


Những hình ảnh thân thương tại cuộc biểu tình:


Bà cụ 94 tuổi đi cùng đàn con, cháu và chắt đến cuộc biểu tình


Cụ bà vẫy cờ cùng chiến sĩ Võ Đại Tôn


Ca sĩ tí hon Khánh Vân song ca cùng với bạn trẻ sinh viên Quốc An

Bài hát "Chúng con đã nghe" của nhạc sĩ Dương Hải Linh


Trích từ: http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=918:918&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58

34 NĂM SAU "GIẢI PHÓNG" - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Theo nghĩa thông thường, "giải phóng" là cởi trói, là thay đổi hoàn cảnh sống theo hướng làm cho đời người trở nên êm ả hơn, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, sau 30/04/1975, người Việt Nam, đặc biệt là những người sanh sống tại miền Nam Việt Nam trước 1975 ngày càng tỏ ra hoài nghi về ý nghĩa của hai chữ “giải phóng” do chế độ Hà Nội xử dụng.

Ngay giữa Saigon, đầu năm 1976, nhạc sĩ Trần Nhật Ngân là người đầu tiên đặt dấu hỏi về hồ sơ giải phóng. Dấu hỏi kia được gói ghém trong nhạc phẩm “Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh?”. Sau dấu hỏi của Trần Nhật Ngân, mọi người nhanh chóng nghiệm ra rằng: Đối với CSVN, “giải phóng” có nghĩa là cưởng bách nhân dân phải từ bỏ thiên đàng để nhảy xuống hỏa ngục. Bây giờ, 34 năm đã trôi qua, chúng ta có thừa bình tĩnh để suy nghĩ về “cơn đau giải phóng”. Sau đây là những tình huống “bị” giải phóng điển hình:

Nạn nhân đầu tiên của hành động giải phóng lại chính là con đẻ của Bắc Kinh và Hà Nội. Đó là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Thực vậy, sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hà Nội vội vàng “giải phóng” Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam. Nói cách khác Hà Nội đã giải tán MTGPMNVN không trống, không kèn, không một lời cảm ơn, không một lễ hạ cờ. Kế tiếp màn giải-phóng-Mặt-Trận-Giải-Phóng là sự việc hàng loạt cán bộ Hà Nội được tung ra để chiếm giữ vị trí lãnh đạo, đồng thời cũng là vị trí tham ô từ trong Nam ra tới ngoài Bắc, từ xã ấp lên tới trung ương. Đó là ý nghĩa của tình đồng chí giữa Cộng Sản Bắc và Cộng Sản Nam.

Bây giờ chúng ta hãy xét tới mối “liên hệ giải phóng” giữa đảng CSVN và đất nước Việt Nam. Đất nước ở đây gồm nhân dân và lãnh thổ.

“Giải phóng” nhân dân Việt Nam

Sau 1975, đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam, CSVN đánh các đòn giải phóng sau đây: giải phóng khỏi đời sống tự do để đưa vào những nhà tù khổ sai dưới mỹ danh “học tập cải tạo”. Giải phóng khỏi những ngôi nhà khang trang để “tự giác” tìm tới vùng kinh tế mới. Giải phóng khỏi quê hương thân yêu để trôi dạt tới những vùng đất tạm dung nằm rãi rác khắp năm châu. Người Việt sinh sống tại hải ngoại khỏang 3 triệu người. Người Việt gục ngã trên đường vượt biên khoảng 500 ngàn người. Từ 1975 cho tới 1985 những người vượt biên bị gọi là phản quốc, bị đẩy ra biển trong chương trình vượt biên bán chính thức, vượt biên bất chấp những an toàn tối thiểu của những chuyến đi biển … Mặc dầu bị đối xử tàn tệ như vừa kể, lòng yêu gia đình, yêu quê hương hối thúc người Việt hải ngoại gửi tiền về trong nước ngày càng nhiều. Khối tiền to lớn kia đã che khuất hai chữ “phản quốc”. Người Việt hải ngoại được Hà Nội xảo trá tặng cho danh hiệu “những khúc ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Rõ ràng là CSVN bất chấp liêm sĩ, sẳn sàng nói ngọt với người Việt hải ngoại chỉ để tiếp tục “giải phóng” túi tiền của những người trước kia đã bị CS ra tay hành hạ ở mức độ hiểm ác nhất. Đối với khúc- ruột- ngàn- dặm “moi tiền” là mục đích chính. Đối với đồng bào sống ngay tại quốc nội CSVN đã đối xử ra sao?

Trước tiên, hãy nói tới “Mẹ chiến sĩ”. Mẹ ở đây là những người đã dày công bảo bọc, che chở, tiếp tế cơm gạo cho đám cán binh Việt Cộng trong thời kỳ CSVN phải sống chui rúc ở hốc núi, hầm đất cùng đủ loại địa đạo … Ngày nay đám “con chiến sĩ” đã có quyền lực đầy mình, tiền bạc đầy túi. Thay vì đền đáp công ơn Trời Biển của Mẹ, đám con tai quái kia lại quay ra “giải phóng” nhà, “giải phóng” ruộng vườn của Mẹ và của vô số đồng bào khác. Công viêc giải phóng yêu ma kia đã tạo ra tại Việt Nam một giai cấp mới: giai cấp dân oan.

Giai cấp dân oan cộng với nông dân thất nghiệp phải chạy vào thành phố kiếm sống cộng với giới phụ nữ chấp nhận “lấy chồng ngoại” để có được cơm áo cho gia đình cộng với đông đảo nam nữ thanh niên sẳn sàng bán bắp thịt trong những chương trình “xuất khẩu lao nô” cộng với khối quần chúng lớn lao không có cơ hội đi học, không có nghề nghiệp chuyên môn… Các bài toán cộng vừa nêu dẫn tới nhận định rằng: hầu hết lực lượng lao động của xã hội Việt Nam ngày nay chỉ có thể là lao động chân tay. Lao động kiểu này gọi là lao động “tay làm, hàm nhai”. Lợi tức của “lao động tay làm hàm nhai” gọi là lợi tức cơm chim. Thế nhưng, ngày cả cơm chim của nhân dân cùng khổ cũng bị CSVN tận tình “giải phóng”. Thực vậy, thời gian gần đây, dưới danh nghĩa cờ bauxite và cờ công tác xây dựng, CSVN vừa miển thuế kinh doanh cho Trung Quốc, vừa mời gọi Trung Quốc tự do mang dân Tàu vào Việt Nam làm việc tại những nơi Trung Quốc trúng thầu, gọi là tụ điểm Tàu. Do được miễn thuế kinh doanh, Trung Quốc trở thành quốc gia độc quyền trúng thầu tại Việt Nam. Vì vậy, hiện nay từ Bắc chí Nam của lãnh thổ Việt Nam tràn ngập tụ điểm Tàu. Mỗi tụ điểm Tàu có trên dưới 2000 dân Tàu, hầu hết chuyên làm lao động tay chân. Đó là lý do giải thích tại sao giới lao động chân tay người Việt bị thất nghiệp và cơm chim của giới này đã bị người Tàu “giải phóng” với sự hổ trợ tích cực của nhà cầm quyền Hà Nội.

Như vậy là dạ dày của người dân đã trống rỗng. Liệu chừng có hay không hiện tượng rằng: bên trên cái dạ dày lép kẹp là quả tim và bộ óc hừng hực chống Tàu? Chính vì lo sợ lòng căm thù Tàu trong mỗi người Việt dâng cao, ngày 03/04/2009, chính phủ CSVN đã ký ban hành công văn số 1992/VPCP-QHQT cho phép thành lập học viện Khổng Tử tại Việt Nam. Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết hoc. Nó không là tư tưởng biện chứng. Nó bao gồm những bài học rời rạc của Khổng Tử. Những bài học rời rạc kia khi đi vào thực tiễn đời sống của người Trung Quốc, người đời nhìn ra ba trọng điểm:

Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao. Vợ con chỉ là những người phải tuyệt đối tuân lệnh gia trưởng. Trọng nam, khinh nữ là chân lý không cần chứng minh. Biết bao nhiêu tỷ phụ nữ đã chết vì “chân lý” quái ác vừa kể. Khổng Tử và đệ tử của Khổng không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào.

Trong xã hội quốc gia: Vua là tối cao. Vua nắm quyền sinh, sát toàn dân.

Trong bang giao quốc tế: Trung Quốc là nước vua. Những quốc gia chung quanh chỉ là nước tôi. Trung Quốc có toàn quyền tùy nghi bành trướng.

Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt Nam sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của Trung Quốc trên căn bản tư tưởng rằng: Trung quốc là nước vua, Việt Nam là nước tôi. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho Trung Quốc trong nổ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” TÍNH Việt và TÌNH Việt ra khỏi con người Việt Nam, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường. Thường ở đây là con người chấp nhận thân phận hèn mọn trước gia trưởng, trước Đức Vua và trước “Trung Quốc vĩ đại”.

“Giải phóng” lãnh thổ Việt Nam

Câu chuyện cơm chim bị giải phóng đi kèm với sự việc tính Việt và tình Việt bị giải phóng cho thấy: Con người Việt Nam đang bị CSVN ra sức giải phóng cả thể chất lẩn tinh thần. Từ đó, không cần tốn một viên đạn, người Tàu đã nghiểm nhiên tràn ngập lảnh thổ Việt Nam. Bây giờ hãy bàn tới biên giới và hải giới. Tất cả người Việt Nam đều còn nhớ năm 1999 và 2000 CSVN ký hiệp ước dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc. Từ đó hai hiệp ước kia, đặc biệt là bản đồ biên giới Việt Hoa bị CSVN triệt để dấu kín. Ngày 29/03/2009, trong Lời Kêu Gọi Bất Tuân Dân Sự, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quãng Độ yêu cầu chế độ Hà Nội hãy khai trình với Liên Hiệp Quốc thềm lục địa Việt Nam đúng theo đòi hỏi của luật biển 1982. Lời kêu gọi vừa nói có hậu ý tố cáo CSVN không dám lập hồ sơ khai trình bởi lẽ hầu hết thềm lục địa Việt Nam đã bị CSVN cống hiến cho Trung Quốc. Sự việc bản đồ biên giới bị dấu kín đi kèm với sự việc CSVN không dám làm thủ tục khai trình thềm lục địa cho thấy CSVN đã “giải phóng” đất đai và biển cả Việt Nam ra khỏi khối tài sản của tổ tiên để dâng cúng cho Trung quốc.

Nói tóm lại, sau 34 năm cướp quyền cai trị đất nước, cái gọi là công lao giải phóng dân tộc của chế độ Hà Nội bao gồm các điểm trọng yếu sau đây:

1. Giải phóng ba triệu đồng bào ra khỏi quê hương để sống cuộc đời tị nạn khắp năm châu.

2. Giải phóng “cơm chim” của tuyệt đa số nhân dân lao đông để mở đường cho nhiều vạn dân Tàu, lính Tàu vào Việt Nam kiếm sống bằng nghề lao động tay chân.

3. Giải phóng tính Việt, tình Việt ra khỏi tim óc Việt Nam để thay vào đó là tư tưởng Khổng với mục đích ngấm ngầm tạo hoàn cảnh tâm lý để người Việt Nam chấp nhận suy- nghĩ- kiểu- Tàu, sống- theo- trật- tự- Tàu. Trật tự gia trưởng. Trật tự trọng Nam, khinh Nữ. Trật tự vua tôi: vua là đảng, tôi là dân. Trật tự nước vua là Tàu, nước tôi là Việt.

4. Giải phóng đất Việt, biển Việt ra khỏi tầm tay Việt Nam để làm lễ vật triều cống cho vua Trung Quốc.

Bốn khối tội ác giải phóng kể trên đã biến đảng CSVN thành tên phản quốc lớn nhất trong thế giới của các loại phản quốc.

Đỗ Thái Nhiên


Xin Bình An Cho ... Những Người Đã Chết - Phạm Hậu

Lời Giới Thiệu: Trước 30.4.1975, tôi quen biết Đại Tá Phạm Hậu qua chức Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội và sau này qua các chức vụ quan trọng hơn như Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, Tổng Giám Đốc Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam và đặc biệt tôi quen biết ông qua bút hiệu Nhất Tuấn, nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ với thi phẩm bất hủ "Chuyện Chúng Mình"...

Tôi có đọc qua bản thảo bài viết của Đại Tá Phạm Hậu cách đây chừng hơn 2 tháng nhân ông hứa sẽ viết 1 bài để đăng vào đặc san của Khóa 12 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam - Đà Lạt và khóa này đã đào tạo Đại Tá Phạm Hậu và nhiều sĩ quan ưu tú khác dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu và sau này là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa thời Đệ Nhị Cộng Hòa.

Đại Tá Phạm Hậu và tôi cùng có quan điểm chung là nên viết chuyện thật người thật dù không nhiều thì ít cũng gặp sự phê bình, chỉ trích khắc khe hay dưới một góc nhìn của người khác không cùng mình nhìn về một hướng. Vì vậy, Cựu Đại Tá Phạm Hậu - nhà thơ Nhất Tuấn chỉ muốn dùng bài viết: Xin Bình An Cho Những Người Đã Chết đăng trong đặc san của Khóa 12 Đà Lạt, nhưng tôi nghĩ đây là một bài viết có tính lịch sử, có cái nhìn của một người học trò trông nhìn vào thần tượng ông thầy của mình và những tâm tình của cựu Đại Tá Phạm Hậu viết về cựu Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, một bài viết có giá trị về nhiều mặt.

Với tư cách là người đồng tuế với cựu Đại Tá Phạm Hậu, sinh năm 1935, với cấp bậc trong Quân Đội tôi kém hơn 2 mai bạc và cũng là người bạn thân của bào đệ ông là cựu Thiếu Tá Phạm Huấn, cùng ám số chuyên nghiệp quân sự 470.0 - sĩ quan thông tin báo chí. Tôi xin mạo muội gởi bài viết này để xin bình an cho những người đã chết cho quốc gia dân tộc. Cựu Thiếu Tá Trần Văn Ngà, Khóa 13 Thủ Đức, cựu Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí QLVNCH.


*
* *

    XIN BÌNH AN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT
Kính truy tặng cố Trung Tá CHT, Cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu

Phạm Hậu, K12/VBĐL

1. Những năm tháng đau buồn ấy


Được mời bất ngờ, cùng các bạn Đài Phát Thanh QĐ và Báo Diều Hâu & Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến dự bữa cơm tối tại hoa viên Dinh Độc Lập với Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, rồi khoảng 2 tháng sau tôi bàn giao đài Phát thanh Quân Đội cho anh Văn Quang để theo học Khóa 7 Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp (CHTM/CC). Mãn khóa, 1/1971, về lại TC/CTCT và sau đó tôi qua Bộ Thông Tin, quản trị Nha Vô Tuyến Truyền Thanh (VTTT).

Việc đề cử tôi về VTTT khi tôi còn đang học lớp CHTM/CC trên Đàl Lạt là do ông Hoàng Đức Nhã, khi đó là Bí Thư Tổng Thống kiêm Tham Vụ Báo Chí Phủ Tổng Thống, và được sự chấp thuận của TT Nguyễn văn Thiệu.

Hơn 30 năm sau, ông Nhã kể lại khi trình hồ sơ với những lý do tại sao chọn tôi trong danh sách ứng viên do nhiều cơ quan, yếu nhân, đoàn thể đề nghị, Tổng Thống Thiệu coi hồ sơ, và thấy tên tôi, tốt nghiệp VBĐL/K12, ông mỉm cười nói với ông Nhã:

- Còn nhớ anh chàng này !

Từ ngày tôi về điều hành VTTT (20/07/1971), sau đổi là Hệ Thống Truyền Thanh VN (HTTT/VN) thuộc Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi (BDVCH), tiếp theo qua đảm trách Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, (trực thuộc Bộ DV & CH) tôi và hai cơ quan truyền thông trọng yếu này đã hòa nhập ngay vào “guồng máy quốc gia” cùng Đệ Nhị Cộng Hòa và toàn dân Miền Nam, nổi trôi theo Mệnh Nước, qua Mùa Hè Đỏ Lửa cùng Bình Long Anh Dũng, Kontum Kiêu Hùng Trị Thiên Vùng Dậy …

Và rồi … Tháng Tư Đen 30/4/1975, như một trận Bão Thần kinh hoàng ập tới, kéo sụp Miền Nam của chúng ta.

Nhớ tới những tháng ngày kinh khủng và cuộc đổi đời đó, tôi cũng viết vài bài đề cập tới giờ phút chót thoát khỏi VN (1), và “Những Kỷ Niệm với Ngành Phát Thanh” (2)

Nhân dịp phát hành “Kỷ Yếu Khóa 12”, vào tuổi “cổ lai hy” tôi muốn viết ít cảm nghĩ về “ Trung Tá Thiệu, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu” để các bạn Khóa 12 rõ ; và nếu cuốn kỷ yếu này tới tay các độc giả bên ngoài, xin quý vị tùy nghi tìm hiểu thêm những năm tháng đau buồn ấy của Miền Nam thân yêu.

2. Hoàn cảnh VN thời Đệ Nhị Cộng Hòa

Khác xa với Đệ Nhất Cộng Hòa thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi Ông Thiệu làm Tổng thống thì Hoa Kỳ đã áp đặt được nền Dân Chủ kiểu Mỹ mà họ rất hãnh diện, để chỉ bảo cho các quốc gia nhược tiểu chậm tiến trông vào Mỹ mà bắt chước.

Thấy vậy nhưng không phải vậy, vì trên thực tế, Việt Nam bị những áp chế lấn luớt dưới đây của anh bạn Đồng Minh kiêu căng:

a. Cùng một lúc họ cử 2, 3 Đại Sứ, Phó Đại sứ tới thường trực tại VN; về phía quân sự, họ đưa qua cả chục tướng lãnh sao đầy trên vai, trên cổ áo. Thêm vào đó, tại Miền Nam VN còn có hơn nửa triệu quân của Mỹ, và quân của đồng minh (Đại Hàn, Thái Lan, Phi, Tân Tây Lan, Úc …)

b. Các cố vấn Hoa Kỳ thì lan xuống tới cấp Tiểu Đoàn, Chi khu.

c. Mỹ có các Đài Phát Thanh riêng, có các Đơn Vị Dân Sự Chiến Đấu và tiêu tiền dollars riêng. Đại Hàn cũng có đài phát thanh riêng tại VN cho quân đội của họ.

Quân đội Mỹ tràn vào VN đúng vào thời gian nội các quý ông Phan Huy Quát & Bùi Diễm (nhóm Đại Việt) cùng kỹ sư Phan Khắc Sửu điều khiển guồng máy quốc gia và quý vị lãnh đạo này, tiếc thay, không ai dám phản đối quyết liệt.

Thương quá anh em Tổng Thống Ngô đình Diệm của Đệ Nhất Cộng Hòa trước đó đã bị thảm sát vì chống đối không chịu để Mỹ trực tiếp tham chiến tại miền Nam. Anh em ông Diệm, Nhu, Cẩn … họ không muốn cuộc chiến đấu chống Cộng mất hết chính nghĩa qua sự hiện diện của quân ngoại quốc tại Miền Nam.

Gần đây, cuốn sách Triumph Forsaken: the Viet Nam War,1954-1965, của Tiến sĩ Mark Moyar, hiện là giảng viên tại đại học Thủy Quân lục Chiến của Hoa Kỳ ở Quantico, tiểu bang Virginia, “đã phản bác phương cách giải thích thông thường về vai trò của HK trong cuộc chiến. Sự đóng góp lớn của ông Moyar là đã cho thấy rằng quyết định của HK bỏ rơi ông Diệm và giúp lật đổ ông ta là lỗi lầm lớn nhất trong cuộc chiến” (3).

3. Thuợng tôn Pháp Luật

Sau nhiều cuộc chỉnh lý, đảo chính … những ngôi sao mọc nhanh hơn nấm, đủ loại tướng. Nhưng có một số nhỏ tướng bất tài, vô kỷ luật cũng như vài chính trị gia không đặt quyền lợi Tổ Quốc lên trên và còn làm bậy, làm hại cho tinh thần chiến đấu chống Cộng của quân dân Miền Nam, xét theo luật, ông Thiệu trừng trị họ thẳng tay.

Ông Thiệu nổi tiếng là rất kỹ khi ban tặng các huy chương, nhất là Bảo Quốc Huân Chương với nhành dương liễu; và khi các cơ quan Tư Pháp trình lên, những vụ nhũng lạm, phạm pháp, nếu có đầy đủ chứng cớ, Ông cũng đã xử phạt nhiều tướng lãnh khá nghiêm ngặt bất ngờ.

Trong số này nhiều vị đã là sỹ quan cấp tá, Tư Lệnh Liên Đoàn BB ở ngoài Bắc trước 1954 khi ông Thiệu còn ở cấp đại uý, cũng như nhiều vị là cựu bộ trưởng, đương kim tư lệnh sư đoàn do chính ông bổ nhiệm, hay có vị đã từng đảm nhận chức Tư lệnh Sư Đoàn, Tư lệnh Binh Chủng trước ông ngay từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, bị phạm kỷ luật nặng có chứng cớ thật rõ ràng thì cũng không khoan nhượng.

3. Truy tố, tống giam hay quản thúc trong khi chờ Tòa xét xử

Ô. Nguyễn tấn Đời, Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Dân Biểu Trần Ngọc Châu, Nghị sĩ Nguyễn văn Chức ….

4. Cho ký giả ngoại quốc … biết phép nước

Từ cuối thập niên (19)60, VN là nơi rất đông ký giả ngoại quốc tới thuờng xuyên. Một số, nhất là ký giả Hoa Kỳ, lộng hành làm trời làm đất, coi dân Việt, cảnh sát và giới chức thông tin của ta … bằng nửa con mắt.

Khi ông Nhã, em họ Tổng thống Thiệu, giữ chức vụ Bí Thư Tổng Thống (1968), tiếp kiêm Tham vụ báo chí Phủ TT (1969), và sau coi Bộ Bộ Dân Vận & Chiêu Hồi, ngay từ đầu đã chỉ thị Trung Tâm Báo Chí (TTBC) theo dõi thật sát để giữ đám ký giả ngông nghênh này trong khuôn phép.

Những chuyên viên của TTBC đa số đều tốt nghiệp Cử Nhân, Cao Học tại ngoại quốc. Họ tình nguyện về phục vụ Đất Nước với quyền lợi lương bổng bằng ½ nhiều khi bằng 1/5 so với các hãng ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Nhật trả cho họ.

Ví dụ ông Cục Phó Cục Thông Tin Quốc Ngoại, trong đó có Trung Tâm Báo Chí (TTBC) mà ông trông coi. Ông Trần Khánh Vân này có bằng kỹ sư hầm mỏ tại trường University of Missouri, School of Mines. Ông đậu Thủ Khoa, nhưng đặc biệt, điểm tốt nghiệp của ông cao nhất trong lịch sử từ khi ngôi trường rất danh tiếng này được thành lập.

Phối hợp trước vói cơ quan An Ninh, nhiều phóng viên ngoại quốc (đa số là Hoa Kỳ) gây rối loạn nơi công cộng, uống rượu say lái xe, đánh nhau dành gái bị “các em” khiếu nại … và xe Cảnh Sát … rất tình cờ … tới lúc đó, để nhân viên công lực còng tay ngay trên phố đông, hay nơi khách sạn, giữa tiệm ăn … rồi đẩy kẻ phạm pháp lên xe về bót nằm ít giờ hay 1, 2 ngày. Văn phòng ông Vân là cứu tinh của họ trong các trường hợp này, và lẽ dĩ nhiên tùy “lý lịch riêng” của mỗi người, Ông Vân sẽ giúp họ khác nhau.

Có người 1,2 giờ ngồi cho muỗi đốt. Có người ... phải chờ vài ngày, nằm ép rệp, ngửi mùi nước tiểu khai nồng, thèm thuốc điên người.

Trường hợp “đặc biệt” 3, 4 phóng viên bị trục xuất khỏi VNCH, trong đó có trưởng phòng đại diện của báo New York Times, dù đại sứ Bunker đích thân can thiệp với Ông Nhã, nhưng cuối cùng hắn vẫn bị đuổi về Mỹ!

Đây là thành tích ngoạn mục nhất, ông Vân theo lệnh ông Nhã, cho ký giả ngoại quốc ở VN "biết phép nước"… mà các trào truớc, thời cụ Diệm, thời quý ông Phan Huy Quát, Bùi Diễm, Phan Khắc Sửu, thời tướng Kỳ … chưa có trường hợp tương tự.

5. Rất thương quân sĩ và vô cùng can đảm

Ông Thiệu là một trong những sỹ quan có bằng nhẩy dù tuy không bắt buộc vì ông không ở binh chủng này. Trước đó khi là sĩ quan cấp úy, ông đã phục vụ tại Đệ Tam quân Khu Bắc Việt cùng các sỹ quan cấp úy cấp tá như: Trần Thiện Khiêm, Phạm văn Đỗng, Dương Quý Phan, Nguyễn BảoTrị, Tôn Thất Đính, Trần Văn Cường, Đỗ ngọc Nhuận, Đỗ Mậu.v ..v..

Khi biết chuyện Quỹ Tiết kiệm Quân Đội có sự mờ ám và bọn đầu nậu lon to lấy tiền lính góp hàng tháng để đầu tư riêng cho phe cánh tài phiệt của họ, ông cho lệnh điều tra ngay. Có chứng cớ rõ ràng, ông bãi bỏ quỹ này, trả lại tiền cho lính cùng nghiêm phạt các giới chức liên hệ .

Mùa Hè Đỏ Lửa, tháng 5/1972, ông Thiệu ra thanh sát chiến trường Trị Thiên. Đoàn xe 6 chiếc Jeep quân đội mui trần. Ông ngồi xe đầu bên cạnh tướng Trưởng, Tư Lệnh QK1.

Xe thứ 2 là Lữ Đoàn trưởng Thiết Kỵ và Bộ Tham Mưu Quân Đoàn.

Xe thứ 3 có tướng Đặng Văn Quang, ông Hoàng Đức Nhã và vài sỹ quan tham mưu.

Các toán truyền tin, cận vệ chất trên những chiếc Jeep sau.

Suốt lúc đi cũng như khi về, pháo và hỏa tiễn địch rơi dọc hai bên đường khi xa lúc gần ở cả phía trước và phía sau đoàn xe.

Lúc đó thì bom đạn tránh người và bà gọi ai người ấy thưa! Biết đâu mà né trốn?

Đó là Chiến Trường Trị Thiện Vùng Dậy.

Rồi ngày 7/7/72, Tổng Thổng Thiệu và Đại Tướng Viên với 2 trực thăng bất chợt nhào vào Bình Long Anh Dũng thăm chiến sĩ mặt trận An Lộc khi tiểu khu này còn đang mịt mù khói lửa.

Xin trích 1 đoạn bài viết của CÙI 12 TBX: viết trên đặc san trường VBĐL:


"TT Thiệu tới trước Đài Chiến Sĩ Trận Vong của Biệt kích 81 quỳ xuống tưởng niệm. Khi đứng dậy, ông rút khăn mùi-xoa lau mắt đỏ hoe.

Ông chỉ thị cho Đại Tướng Cao Văn Viên: - Bộ TTM xét trình thăng thưởng đặc cách mỗi người 1 cấp và thiết lập loại huy chương đặc biệt, đặt tên là “Bình Long Anh Dũng”, ân thưởng cho những quân nhân đã dự chiến trường tại An Lộc.

Trọng pháo vẫn nổ ì ầm, khi xa lúc gần. Nhưng khi ông Thiệu vừa dứt tiếng, bỗng pháo địch rơi ào ạt quanh khu Bắc An-Lộc, có trái rớt cách phái đoàn vài trăm thước đất cát tung mờ mịt. Từ TT Thiệu, tới các tướng tá và cả ông Bí Thư dân sự Nhã không một ai hoảng sợ nằm xuống hay chạy nấp sau các bao cát.

Trái lại mấy người cùng cười vang khi TT Thiệu quay qua nói với tướng Pháp Vanuxem:

- Nó lại pháo nữa như mọi ngày, cả hơn 3 tháng rồi. Chắc nó biết tôi đến hôm nay nên nó đón chào tôi đấy!"


Tại chỗ Vòm Chợ, có một số đồng bào và anh em quân sĩ đứng ngồi rải rác xung quanh chờ đợi. TT Thiệu tới, đứng trên chiến xa giữa cả đống chiến xa địch đã bị bắn cháy. Ông nói rất hay, hùng hồn lưu loát. Ông khen quân dân An Lộc không chịu khuất phục bọn CS ác ôn. An Lộc rất xứng đáng là Bình Long Anh Dũng cũng như Kon Tum Kiêu Hùng. Đặc biệt ông khen các đơn vị Địa Phương Quân cũng như Nghĩa Quân của Tiểu Khu Bình Long không tiếc lời vì họ chiến đấu dũng cảm không thua sút đơn vị chính quy.

Cùng với đơn vị phòng thủ, ĐPQ/NQ cũng bắn hạ các chiến xa đủ loại của địch, từ thiết vận xa PT76, chiến xa phòng không ZSU 57/2 và ngay cả chiến xa số 1 của Nga viện trợ cho CSBV, chiếc T 54 nổi tiếng khắp thế giới, cũng bị anh em ĐPQ bắn cháy !

Ông còn nói thêm: - Đồng bào đừng quên, tướng Hưng và Đại Tá Nhựt cùng các chiến sĩ giữ vững An lộc tới giờ phút này là nhờ toàn dân hậu thuẫn, sát cánh với các chiến sĩ. Vậy đây là thành tích chung của Quân Dân An Lôc.

Chỉ ít ngày sau chuyến vào An lộc của TT Thiệu, 1 trực thăng HK, thả tướng Tallman và phái đoàn rồi vút lên rất nhanh. Bắc Quân vẫn còn phục sẵn ở Đồi Gió, dùng súng không giật 75 ly bắn vào bãi đáp. Trực thăng thoát, nhưng tướng Tallman và một số sĩ quan Mỹ chết tại chỗ.” (4).

6. Quyết liệt bảo vệ Đất Nước

Miền Nam mất đã hơn 30 năm. Đọc các lời tuyên bố, bài báo và hồi ký của yếu nhân Mỹ: Ô Nixon, Kissinger, Johnson, Ford, hay những bài viết trung thực mới đây của tiến sỹ Lewis Sorley (5), họ đều có nhận xét ông Thiệu đã quyết liệt tranh đấu tới phút cuối cùng cho quyền lợi của VNCH trong vụ Hòa Đàm Ba Lê.

Quân Dân Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của ông đã tin tưởng và đánh thắng CSBV nhiều trận rất oai hùng (TCK/Mậu Thân, Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa..)

Dịch bài của Sorley xong, những giòng kết luận, cựu Trung Tá Không Quân Trần Đỗ Cung, người dịch, đã viết:

“Trong phần dành cho Thiệu tôi thấy thương ông ta khổ tâm nhiều trong thời kỳ mười năm nắm vận mệnh quốc gia, đương đầu với Mỹ, với đe dọa đảo chính và với tình hình đa đoan của nước nhà.

Được đọc bài phỏng vấn cựu Phụ Tá thân cận Nguyễn Văn Ngân của Trần Phong Vũ tôi càng nhìn rõ sự cô đơn của một lãnh tụ, thông minh, mưu trí nhưng sinh bất phùng thời. Và tôi càng thông cảm nỗi bất hạnh của ông để đặt câu hỏi “một người khác nắm quyền có khá hơn không hay là chúng ta lại phải trải qua một bất hạnh lớn hơn ?

Ngoài ra chúng ta có thể tìm đọc thêm những tài liệu vừa đựơc Hoa kỳ cho giải mật, ví dụ cuộc thảo luận giữa Chu Ân Lai và Kissinger ngày 20/6/1972, đề cập tới sự sắp xếp của các đại cường Tư Bản và Cộng Sản quốc tế mà Mỹ & Trung Cộng, gạt Nga ra ngoài, để Mỹ và Trung Cộng giữ vai trò then chốt (6). Nhưng có một câu hỏi tới nay chưa ai trả lời rõ ràng được:

Vụ rút quân khỏi Vùng 2 và Vùng 1 Chiến Thuật?

Còn nhớ, tháng 7/2000, nhân dịp đám cưới con gái Lôi Hổ (LH) Đoàn Hữu Đ. ở VA., một số đông anh em LH quanh vùng mà 1/3 là tù cải tạo vừa qua Mỹ đoàn tụ nghe tin Ông Bà Thiệu đến, họ tự động tới nơi tổ chức tiệc cưới; phần để chung vui với LH Đ. phần để âm thầm bảo vệ Ông bà Thiệu như khi ông Thiệu còn là Tổng thống VNCH của họ năm xưa.

Bàn ông Thiệu trong tiệc cưới có nhiều tướng lãnh ngồi chung, nhưng không có Tướng Trưởng.

Một trung tá, học trò Ông Thiệu, người đã thăng cấp đại úy trước tướng Trưởng 3 năm, từ Seattle qua VA mừng gia đình bạn đồng nghiệp ở bộ Dân Vận & Chiêu Hồi ngày nào nhân dịp cháu Hải V., trưởng nữ của bạn vu quy, nghe LH Đ. nói, có ÔB Thiệu ngồi bàn gần đó nên vội dẫn vợ con lại chào và thấy ông vẫn còn khỏe mạnh vui vẻ.

Ai ngờ, năm sau vào ngày đám cưới Hải N., thứ nữ của LH Đ., tuy đã nhận lời, nhưng ÔB Thiệu không thể tới dự vì đúng ngày 29/9/2001, Ông Thiệu mất do biến chứng của bệnh xuất huyết trên não.

7. Tin Đồn và…có những câu hỏi !

Ngày 7/2/2007 tôi đọc 2 bài báo. Bài mới của Nguyễn kỳ Phong (NKP), và bài cũ cho đăng lại của Phạm Kim (PK). Vào cuối tháng 1/2007, tướng Trưởng tạ thế, nên dịp này họ viết nhiều về ông.

Phạm Kim thuật lại khá chi tiết lúc tướng Trưởng, mặc quần áo xám của lính Hải Quân, không có cấp bậc, ngồi trên bãi bể chờ Hải Quân cứu.

Ông bị bắt ngay khi về tới Saigon.

Lại thêm nhiều bí mật hé lộ.

Bí mật và tin đồn thì nhiều lắm lắm. Phe Ông Kỳ dọa đảo chánh liên miên. Một ông Tướng mà ông Thiệu vừa đeo sao và bổ nhậm làm Tư Lệnh 1 đại đơn vị, sau này viết trên báo ở Hải Ngoại, tiết lộ … đã nói với ông Trưởng - bạn cùng khóa - để ông đem đơn vị đang tăng phái tại V1, về đập tan Dinh Độc Lập, nhưng ông Trưởng không thuận.

Xin bình yên cho những người đã chết

Bài của Phạm Kim đã đăng trên nhật báo NVCali và Quán Văn từ 4/2005, và Phạm Kim nói với người viết ngày 12/2/07, Đô Đốc Chung Tấn Cang xác nhận là PK viết đúng sự thực mặc dù vị tướng HQ này là một người tu xuất bên đạo CG và rất ít nói.

Nhiều quân nhân VNCH bị chết thảm vì phi cơ của ta oanh kích “lầm” (?) trên chiến hạm HQ 404 - nơi mà Saigon biết … như là có tướng Trưởng ở trên tầu này.

Một trong những người chết là Trung Úy Nguyễn Độ, người Bắc, bạn của Phạm Kim. Phạm Kim, cựu SQ Báo Chí của Hải Quân trước 1975, một ký giả chuyên nghiệp yêu nghề và rất thành đạt trong báo giới, cũng là người hơn 15 năm trước giới thiệu nhà thơ trẻ Trần Mộng Tú, và đúng như sự kỳ vọng của anh, Trần Mộng Tú là một nữ thi sĩ nổi danh khắp thế giới sau đó, và có đông độc giả ở VN hiện nay.

Phạm Kim còn nhấn mạnh, chính vị Tư Lệnh HQ cuối cùng do Đại tướng Dương Văn Minh chỉ định, Đại Tá Nguyễn VănTấn, 1 trong những người tù lâu năm nhất trong Trại Cải Tạo của CS, cũng xác nhận bài viết của PK trung thực.

Lại xin bình an cho những người đã chết

Lịch sử sau này sẽ có nhiều việc, rất nhiều viêc phải làm cho rõ trắng đen. Cấp chỉ huy nào đã ra lệnh cho chuẩn tướng Chức để ông dám sẵng giọng hỏi trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân ĐOÀN I:

- Ai cho anh về? (7) Tướng Trần Văn Đôn tân Tổng Trưởng Quốc Phòng, hay ông Thiệu?

Nhưng trong bài mới nhất viết về tướng Trưởng, ông đã trả lời sau khi Nguyễn Kỳ Phong, gặng hỏi ông nhiều lần, v/v rút quân khỏi V1:

“Tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ, đại phu, khi để mất nước không thể nói mình có mưu lược.”(8)

Có thể qua câu nói này, với tuổi đời ngày một già, và đọc thêm nhiều tài liệu đã giải mật, ông Trưởng phần nào hiểu được tại sao có vụ thảm bại Tháng Tư Đen.

Và đặt địa vị ông vào chỗ ông Thiệu, ông sẽ làm như thế nào?

Có khá hơn chăng?

Có giữ được Miền Nam chăng, dù rút hay không rút khỏi 2 VCT (I và II)?

Gác bỏ ra ngoài mọi nghi vấn, tôi vẫn nghĩ: ông Trưởng là một dũng tướng rất đáng kính phục của binh chủng Dù chúng tôi.

Hơn nữa, ông là vị tướng thanh liêm, ăn ở tròn trịa. Cùng 3 sao, nhưng Tư Lệnh Quân Khu Ngô Quang Trưởng vẫn ra tận sân bay nghiêm chỉnh chào đón Tư lệnh Sư đoàn Dù, xếp cũ của mình, mỗi lần Trung tướng Dư Quốc Đống tới Vùng 1/CT.

Hơn nữa tình hình đâu đã quá bi đát ??

Cổ Thành Quảng Trị còn lấy lại được, huống hồ giữ Huế dù gay cấn cho lắm thì cũng chỉ như hồi Mậu Thân 1968 là cùng!

Nhưng lệnh từ Dinh Độc Lập, rồi từ Tổng Tham Mưu ... nhiều lệnh và cấp bách quá. Chuyện quốc gia, người nào cũng rối như tơ vò và mấy ai hiểu cho lòng tướng biên thùy lúc này ?

"…Lệnh sáng: giữ, lệnh chiều: bỏ Huế
Bao chiến công cũng thế mà thôi
Tro thiêu rải bốn phương trời
Hạt tro nào …dạt vào nơi Cổ Thành”
(nhất tuấn /TCM)

Và … nơi quê người, mặc dù tướng Trưởng bị TT Thiệu phạt, ông vẫn đích thân lên Boston dự lễ an táng của TT Thiệu, khác với nhiều tướng lãnh, tổng trưởng, đại sứ … trước đây nhận ngập ơn mưa móc; nay nghĩa tử là nghĩa tận, lại viện cớ không tới dù ở cách thành phố Boston chẳng bao xa.

Mấy ông tai to mặt lớn này thua tướng Trưởng, và các anh Mạch Văn T., Lưu Vĩnh L. K12 chúng tôi rất xa!

Nhiều lần ông Nhã tâm sự với người viết, những ngày hòa đàm Hiệp Định Ba Lê, đôi khi thật tột cùng cô đơn, vì với bao nhiêu tướng lãnh bộ trưởng trong phòng họp ở Dinh Độc lập, nhìn quanh … không còn một ai là dám cãi lại Đồng Minh dù thấy rõ là họ đang ép mình tới nghẹt thở, và nước sắp mất tới nơi.

Chỉ có TT Thiệu và ông Bí Thư Nhã, hai người dân Phan Rang, nhất định chống kỳ cùng để “còn nước còn tát’, chịu chung trách nhiệm với quân dân đang ngày đêm chống giặc thù từ tuyến đầu lửa đạn.

Khi tính mạng bị đe dọa sỗ sàng kín, hở, ông Nhã đã nói thẳng với viên đại tướng da trắng tóc hung đó:

- Các ông ám sát chúng tôi là cùng chứ gì! (9).

Trong một buổi chiều trung tuần tháng 10/1972, khi ông Kissinger sang Saigòn để ép TT Thiệu ký hiệp định Ba Lê mà ông ta (Kissinger) đã kết thúc với Bắc Việt trước đó vài ngày, nhưng Đại sứ Bunker và phái đoàn của Kissinger phải ngồi chờ hơn nửa giờ mới được DĐL tiếp, tiếp một cách rất miễn cưỡng, và Kissinger về tay trắng, bẽ bàng vì không giữ được lời hứa trước chắc chắn hòa đàm Ba Lê sẽ được ký ngày đó … tháng đó ...

Và ngay lập tức HTTT/VN chúng tôi … mấy ngày liên tiếp … đã đả kích đích danh “cố vấn” Kissinger cùng Thượng nghị sĩ McGovern (ứng cử viên TT của đảng DC, vua phản chiến và gọi Saigon/VN là ổ điếm) và nói thẳng, giải pháp của Mỹ trong hòa đàm ở Ba Lê đã ép VNCH và làm lợi cho CSBV quá nhiều.

Mới đây, các nhà viết sử đã nghiên cứu viết lại cho thật chính xác về: Lê Ngọa Triều, về «Ngụy Tây Sơn», về «Việt Gian theo Pháp Nguyễn Thân» khi tiểu loạn Cần Vương, đào mả cụ Phan Đình Phùng, thiêu ra tro, trộn với thuốc súng bắn khắp 4 phương (10).

8. Lịch Sử sẽ xét lại hết

Xin hãy để lịch sử xét công và tội của TT Nguyễn Văn Thiệu.

Khi ông chết, các Sỹ Quan K12 trên Miền Tây Bắc Hoa Kỳ chúng tôi vẫn tổ chức lễ truy điệu ông rất trang trọng, do Thượng Tọa Trụ Trì Chùa Phật Giáo VN chủ lễ, dù có sự chống đối đả kích ở địa phương.

Là khóa đầu tiên của nền Cộng Hòa, chúng tôi có nhiều người khi ra trường được tuyển chọn làm Sỹ quan tùy viên của TT Ngô đình Diệm, như các anh Lê công Hoàn, Nguyễn Cửu Đắc, Đỗ Thọ.

Khóa 12 cũng có nhiều người đảm trách các chức vụ dân cử, công cử, tiểu khu trưởng. Chúng tôi cũng có nhiều anh mang cấp đại tá; có vị lên tướng, như anh hùng An-Lộc, Chuẩn tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB.

Ra trường tôi không làm việc trực tiếp dưới quyền ông Thiệu.

Mang cấp đại úy từ 10/1960, cấp bậc Thiếu tá do Niên Trưởng Vũ Đức V. (K1 VBNĐ) đề nghị vì thấy tôi đeo 3 mai vàng cùng với ông, nay ông đeo 2 mai bạc là Tổng Giám Đốc Cục VTTT, tôi coi đài PT Nha Trang vẫn còn ở cấp đại úy.

Còn thăng cấp Trung Tá đầu năm 1972 không phải do Bộ Thông Tin đề nghị mà theo danh sách thăng thưởng thường niên tự động nếu đủ tiêu chuẩn của BTTM/TQT.

Tuy chỉ là một cấp chỉ huy điều hành các cơ quan thừa hành trong chính phủ, nhưng hàng ngày nghe tường thuật của các phóng viên khi họ ra tiền tuyến làm phóng sự chiến trường hoặc theo cấp lãnh đạo vào Trị thiên, Kontum, An Lộc (11); và trên hết, vì được làm gần cấp lãnh đạo trong giờ phút nghiêm trọng của Đất Nước, tôi mới cảm nhận thấy hết được sự phẫn hận đau đớn tủi nhục tột cùng của nguời dân một nước VN nhược tiểu.

Cũng vì thế tôi càng thêm kính phục Tổng Thống Thiệu cùng ông Nhã về tinh thần yêu nước của hai người. Họ không sợ đảo chánh, ám sát, dù rất cô đơn mà vẫn quyết một lòng tranh đấu cho Quê Hương.

Còn ai làm hơn họ lúc đó?

Dù bài viết này có thể không vừa ý nhiều người, nhưng tôi không thể ngậm tăm mãi!!

Tôi muốn nói rõ ra sự can đảm của những cấp chỉ huy đáng kính của tôi vì tôi biết họ chịu muôn áp lực từng giờ phút, mà vẫn xả thân lo việc nước..

Cá nhân tôi, tới bây giờ vẫn kính trọng vị cựu Chỉ Huy Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu, như thời gian tôi và các bạn K12, khóa đầu tiên của nền Cộng Hòa (12), khi mái tóc còn xanh, mộng đời còn đầy ắp, hăm hở xin nhập học trường VBLQĐL hơn nửa thế kỷ trước.

Ngay cuối thập niên (19)49 và giữa thập niên (19)50 ông Thiệu đã được cử du học ở Pháp (khóa Sỹ Quan BB) và Hoa Kỳ, khóa dành cho sỹ quan cao cấp, học về nghệ thuật quân sự và phương cách lãnh đạo chỉ huy cấp sư đoàn cùng sự điều động cấp quân đoàn trong các cuộc hành quân phối hợp. Đặc biệt tại Fort Leavenworth, Kansas, Khóa dậy Nghệ Thuật Chỉ Huy và Lãnh Đạo, chính các sỹ quan Khóa Sinh Mỹ than là lớp học rất khó, có nhiều người phải tự tử.

Niên Truởng Thiếu tướng Trần Quang K., khóa 6/VBDL, là khóa sinh của trường này, cũng xác nhận với tôi đó là sự thật qua lá thư của Tổng thống Eishenhower cựu khóa sinh, đã than phiền «khóa học hết sức căng thẳng, thời gian quá dài»…

Lá thư này hiện nay còn đóng khung treo tại Nhà trường.

Là con người, hẳn ông Thiệu cũng có nhiều lỗi lầm trong binh nghiệp cũng như nơi chính trường. Có nhiều câu hỏi như trên tôi đã viết, lịch sử cần phải làm cho sáng tỏ.

Và thêm vài điều như:

- Năm 1972-1974, mình đánh bao nhiêu trận hào hùng, tinh thần Dân Quân Cán Chính lên như diều dù lúc đó Bắc Quân đã vượt Bến Hải đánh khắp mọi nơi vô cùng nguy ngập mà vẫn giữ được nước.

Qua năm 1975 chưa đánh trận nào đã mất ½ lãnh thổ và 2 Quân Đoàn (13); và “tại sao Miền Nam VN với một quân đội được trang bị đầy đủ và thiện chiến như vậy, chỉ trong 40 ngày đã biến mất?” (14)

- Tại sao những dũng tướng của QL/VNCH, ngoài tướng Trưởng, ví dụ 1 ông tướng trước khi về đảm nhận trách vụ tư lệnh 1 đại đơn vị, đã từng nổi danh là Tư lệnh Lữ đoàn Ưu Tú nhất trong tứ trụ: Lịch, Nam, Lưỡng, Trưởng, rất dạn dầy chinh chiến của SĐ Nhẩy Dù; nếu bỏ tù ông vì liên hệ tới các vụ buôn lậu, tại sao một vị trung tướng khác và “mấy bà lớn nổi tiếng với những áp phe kinh người” mà dư luận chú ý tới nhiều hơn … vẫn bình chân như vại?

Cả việc bắt giữ BS Trần Kim Tuyến và LS Nguyễn văn Chức cũng có nhiều dị nghị.

Hẳn có nhiều uẩn khúc phức tạp mà chỉ có giới chức Tư Pháp cao cấp mới có thể hiểu rõ được!

Và cũng quan trọng hơn hết, thực sự công tội ông ra sao? Ông tháu cáy với Mỹ ??

Tuy không là sử gia, nhưng tôi có thể nói ngay điều này: chắc chắn chính Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất vì để mất Miền Nam!

Nhưng tôi tin ông không bán nước cầu vinh. Và tôi cũng không tin ông thấy Miền Nam Tự Do sắp mất, mà sợ hãi, lo giữ lấy thân, cắm đầu nhắm mắt tuân theo lệnh ngoại bang; hoặc diễn trò ma giáo "nhận dollars của Mỹ còn chống Mỹ giả vờ !" như luận điệu của các phần tử chống đối ông đã ác ý xuyên tạc.

Chê trách thì nhiều lắm lắm và ai cũng nói được; nhưng, như GS Nguyễn Ngọc Linh trong bài gần đây nhất, sau khi thống trách các nhà lãnh đạo Đệ II VNCH về thảm nạn Tháng Tư Đen:

- người ra lệnh vội rút quân rồi chạy thoát thân;

- người không biết xoay sở nên đã lấy quyết định bất hợp pháp;

- kẻ chưa bao giờ được dân cử dù là chức xã trưởng, mà lúc đó cũng tranh đòi điều khiển quốc gia …

cuối cùng tác giả Râu Cáo dịu giọng:

- “Trách là trách đấy thôi, chứ đến 10 ông Thiệu, ông Hương, ông Minh cũng không làm sao cứu vãn được tình thế một khi Mỹ đã nhất quyết cắt hết viện trợ quân sự khiến vào những ngày cuối cùng của chiến tranh, mỗi người lính chỉ còn được phát mỗi ngày có mấy viên đạn và một trái lựu đạn mà thôi.” (15)

Và thành thật mà nói, trong hoàn cảnh này, liệu ai có phép thần thông để giữ được Miền Nam? Hay “một người khác nắm quyền có khá hơn không hay là chúng ta lại phải trải qua một bất hạnh lớn hơn ”? như dịch giả Trần Đỗ Cung đã viết ở trên.

Các vị này đã có lý khi nêu những nhận xét khách quan trên, vì trong cùng số báo Ngày Nay 594, mục thường xuyên, cũng có bài bác sĩ Việt Nguyên viết căn cứ theo cuốn sách “Nixon and Mao“ của bà Magaret Macmillan, một sử gia Gia Nã Đại, cho thấy những bí mật tình báo bất ngờ tới nay mới được khám phá:

“Chánh phủ Trung Quốc đã trợ giúp cho Bắc Việt lên đến 20 tỷ Mỹ kim từ năm 1950 tới 1975 khi Saigon sụp đổ. Trung quốc gửi hàng trăm ngàn súng đạn, quân cụ, quân trang, quân dụng, mùng chống muỗi; tổng cộng 320,000 quân vào cuối thập niên 1960. Trung quốc xây cầu đường nhưng đồng thời xử dụng điều khiển đại pháo chống phi cơ và hỏa tiễn phòng không.

Sự hiện diện của lính Trung Cộng giúp Bắc Việt rảnh tay đánh lại VNCH và Hoa Kỳ” (16)

Ngay từ 1955, không phải lệnh nào của Mỹ cũng phải tuân theo vì Trung Tá Nguyễn văn Thiệu đã bênh vực tôi khi xảy ra sự lộn xộn giữa tôi và viên giáo sư Mỹ, dậy Anh Ngữ trong trường rồi ông này vu cáo tôi, đòi đeo súng cũng như phải có người theo bảo vệ mỗi khi tới trường VBDL vì nếu không SVSQ Phạm Hậu sẽ giết ông ta.

Gần đây, Niên Trưởng Ngô văn N., học trước tôi nhiều lớp ở Chu Văn An Hanoi, cựu y sỹ Liên Đoàn Nhẩy Dù VN, đã khen ông Thiệu, khi nhớ lại lúc bên Hành Pháp mời 10 người, trong đó có Ông N. vào dự dạ tiệc tại Dinh Độc lập.

Số người này thuộc bên Lập Pháp (Quốc Hội Lập Hiến) dù đã nhiều lần được phía quân đội khéo léo dò hỏi rồi thuyết phục, họ vẫn không dứt khoát thuộc phe Thuận hay Không Thuận trong số phiếu quyết định cuối cùng để cho liên danh Thiệu Kỳ đắc cử hợp pháp.

Trái với dự đoán của mọi người, không có vụ đe dọa, hay mua chuộc bằng chức vụ, cho các ghế đại sứ, bộ trưởng ….

Vào điểm chính, sau bữa ăn, khi gần tiễn khách, ông Thiệu nói với mọi người, đại ý:

- Việc Nước là việc Chung. Thế cờ đã như thế, các anh OK thì cùng làm, bằng không thì chúng ta xóa bài làm lại !

Từ truớc 1970 cho tới nay, lời dặn dò của TT Thiệu đôi khi như văng vẳng bên tai: "Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm !".

Tới bây giờ câu nói này vẫn còn rất đúng!!

Và ngay đầu năm 1974, dù biết Đồng Minh không yểm trợ chúng ta, nhưng trong trận hải chiến Hoàng Sa ,TT Thiệu đã chỉ thị rõ ràng cho HQVN: "Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả ! " (17)

9. Cái Quan Định Luận

Làm người thật khó. Người lãnh đạo một nước còn khó hơn gấp bội!!

Đọc Sử VN cận đại, anh hùng Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh, chết rồi còn bị quật mồ, phân thây, đầu lâu là bình nước tiểu mỗi ngày cho người thắng trận.

Cận thần nam nữ danh tướng của mình thì bị voi dầy ngựa xé và mấy trăm năm sau chính sử nhà Nguyễn vẫn gọi triều đại Tây Sơn là Ngụy Tây.

Tổng thống một cường quốc bên kia Thái Bình Dương của VN, hai anh em lần lượt cùng bị bắn chết trong mùa tranh cử.

Người chết có thể lờ mờ đoán được ai là kẻ thù, nhưng chính hung thủ còn sống cũng không sao hiểu được, phút chót lệnh tới, họ phải bấm cò nhả những viên đạn oan nghiêt vào mặt vào ngực những người rất đáng kính trọng này.

Còn TT Ngô đình Diệm?

Phe CS chôn sống anh và cháu ông năm 1945. Gần 20 năm sau, tới luợt 3 anh em ông bị đâm, bắn trên Thiết vận xa, bị xử bắn bởi lệnh các tướng lãnh của VNCH, quốc gia Miền Nam Tự Do mà chính ông thành lập nên gần 10 năm trước đó!

Và TT Nguyễn Văn Thiệu?

Không bị giết chết, nhưng cũng quá tệ!! Lính đập phá mồ mả, đốt nhà cửa xóm làng ông, viết trên mộ trên tường những lời chửi bới tàn độc. Rồi suốt bao năm nơi viễn xứ lưu đầy, ông nhận chịu bao nguyền rủa, thù hận của thuyền nhân, của tù cải tạo, của cô nhi tử sĩ … qua các cơ quan truyền thông, trút hết cho ông chỉ vì 4 chữ «TỘI QUY VU TRƯỞNG ».

Tám năm làm Tổng Thống, chẳng biết quyền rơm vạ đá ra sao, chỉ thấy ông phải chịu hơn 30 năm ngậm hờn cho tới lúc chết.

Tôi chưa từng nghe 1 bạn nào cùng Khóa 12 nặng lời chê trách Ông Thiệu bao giờ.

Họ chỉ nói ông giỏi tham mưu, rất kỹ trong công việc khi ra lệnh thì kiểm soát việc thi hành lệnh từng chi tiết, và nhớ dai để … quên đeo sao cho ông này ông nọ (các đạị tá Đỗ Ngọc N., Nguyễn Quốc Q, Trần Văn C. vv ….), phòng xa tránh hậu hoạn, nhưng không đuổi tận diệt tuyệt, và người có khả năng vẫn cho làm việc tương xứng.

Với tôi và rất đông các bạn K12, ông Thiệu là một vị tướng lãnh tài giỏi, can đảm; vị Tổng Thống Yêu Nước Thương Dân Thương Lính và cũng như vị tiền nhiệm của ông, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã tận lực bảo vệ Miền Nam thân yêu của chúng ta.

Tiếc thay việc lớn không thành!!

Từ ngàn xưa mấy ai đem thành bại luận anh hùng ???

Lần cuối, lại “Xin Bình Yên cho những người đã chết. (XBYCNN ĐC)

Phạm Hậu
(Tháng Tư Đen , 2007)

(1). Một lời cám ơn rất muộn , Phạm Hậu Nguyệt San Khởi Hành số 42, tháng 4/2000

(2). Những kỷ niệm với ngành Phát Thanh, Phạm Hậu - Đặc San Truyền Thông Quốc Gia (TTQG) 2005.

(3). Này Kia Kia Nọ, Râu Cáo - Ngày Nay số 590, tháng 2/2007.

Râu Cáo là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, cựu Giám Đốc Nha VTTT, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Thông Tin, và TG Đ Việt Tấn Xã . Cũng trong bài báo , GS Linh đã tóm tắt một trong những điểm chính của cuốn sách này : “cuộc đảo chính lật đổ ông Diệm vào ngày 1/11/1963, do ông Cabot Lodge đề xướng mà không có sự thỏa thuận của TT Kennedy, theo ông Moyar, là một nhầm lẫn đưa đến thất bại của Mỹ và làm mất Miền Nam VN vào tay Cộng Sản một cách lãng nhách.”

Có thể đọc thêm sách của TS Mark Moyar: “Phoenix and the birds of Preys”: The CIA ‘s Secret Campaing to Destroy the Viet Cong, 11/1997

(4). Ông Bush đi Bagdah, ông Thiệu vào An-Lộc, Cùi 12 TBX - Đặc San Đa Hiệu, 2001

(5). Xác định giá trị QLVNCH, TS. Lewis Sorley - Đặc San Không Quân Bắc Cali, Xuân 2007, dịch bởi Trung tá Không Quân Trần Đỗ Cung (cựu Tổng Cục Trưởng TC Tiếp Tế) và xin đọc chi tiết đầy đủ trong website www.kbchaingoai.net/XacDinhGiaTriQLVNCH.html.

(6). Sự Thực Về Cái Gọi Là “Đại -Thắng Mùa Xuân”, Trần Bá Hợi, 2007.

Phần mở đầu bài dịch tài liệu của Tòa Bạch Ốc, Ông Hợi, cựu sỹ quan cao cấp của KQVN đã viết như sau: ” Kể cả cái gọi là Đại Thắng Mùa Xuân mà tướng Dũng huyênh hoang cũng không đáng được coi là một chiến thắng vẻ vang. Đó thực ra chỉ là một kết quả tất nhiên khi Hoa Kỳ, đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa, thay đổi chính sách đối ngoại. Để tái lập bang giao với Trung Cộng hầu khai thác thị trường to lớn trong lục địa, ngoài việc không muốn tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt, Hoa Kỳ còn rút quân và bỏ ngỏ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó Hoa Kỳ cắt quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa trong khi cộng sản Bắc Việt được Nga và Tầu Cộng tiếp tục yểm trợ tối đa để cưỡng chiếm miền Nam. Trong hoàn cảnh thiếu thốn tận cùng về vũ khí và nhiên liệu, không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa mà bất cứ quân lực của một quốc gia nào vào hoàn cảnh tương tự cũng phải chịu bó tay. Tương quan hỏa lực và phương tiện giữa hai phe lâm chiến quá chênh lệch.”

(http://vietnameseamericanvets.com/page-freedom)

(7) - Di Tản về Miền Tây, Phạm Kim - NgườiViệtCali 4/2005 va NVTayBac Online , 2/2007.

Trung uý Pham Kim, SQ Báo Chí Hải Quân, khi đó đứng sau TLHQ Chung Tấn Cang, lúc tướng Trưởng từ HQ 404 đáp vào Bến Bạch Đằng, trước mặt BTL/HQ , đã nghe được câu hỏi này và tới nay (13/02/2007), PK xác nhận với người viết là vẫn còn nhớ rõ.

Nhưng ngày 18/05/07 Pham Kim lại gửi thêm 1 email xin sửa 2 chi tiết nhỏ:

a. Trung tướng Trưởng mặc đồ lục quân ngồi ở bãi biển chờ tầu HQ đón. Trên tầu ông được “biếu” 1 bộ đồ xám và ngủ giường đôi (crew bunker) của đoàn viên.

b. Nhiều quân nhân bị chết thảm vì phi cơ của ta (?) oanh kích “lầm” (?) trên chiến hạm HQ 404, xin sửa và thêm là:

“chẳng lẽ là HQ 404(!) –mà có thể là một hộ tống hạm mà trên máy vô tuyến lúc báo cáo là chiến hạm loại 400.

Nhưng theo Đô Đốc HVKỳThoại cho biết lúc bấy giờ quá hỗn loạn không còn là vấn đề có thể là “Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp”- Bị trúng đạn máy bay trong giờ phút hỗn loạn không còn báo cáo được nữa”

http://www.nguoiviet-taybac.com/btl-haiquan30-4-1975.html

(8) - Nguyễn Kỳ Phong coi web site: http://www.tqlcvn.org/tqlc/tl-tuongniem-tuong-ngt.htm

(9) - Có bạn như vậy, ai cần kẻ thù? Hoàng đức Nhã - Đặc San Không Quân Bắc Cali, Xuân 2005

(10) - Diên-Lộc Quận Công Nguyễn Thân, Nguyễn Đức Cung - Nhà xuất bản Nhật Lệ, 2002 , Kearny, NJ 0703

(11) -Nhật Ký Phóng Viên, Năm 72 ở VTVN, Nguyễn Mạnh Tiến Đặc San Truyền Thông Quốc Gia, 2005.

(12) -Trong lễ mãn khóa (12/1956) , Trung tá Nguyễn văn Thiệu, CHT/VBLQDL, xin vị chủ tọa đặt tên khóa cho các sỹ quan vừa tốt nghiệp đang quỳ dưới Vũ Đình Trường, và được TT Ngô Đình Diệm đặt tên Khóa 12 là Khóa Cộng Hòa.

(13) - Các bài rải rác trên báo Việt Ngữ ở Hải Ngoại -1976-1986- của trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, cựu Chủ Nhiệm Tuần báo Diều Hâu và Trưởng Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến TC/CTCT trướcc 1975 (email nguyendatthinh@aol.com)

(14) - Viết Mà Chơi, “Can trường trong chiến bại”, Tú Gàn - Tuần san SàiGònNhỏ số 537, ngày 30/3/2007

(15) -Này Kia Kia Nọ, Râu Cáo. Ngày Nay số 594, ngày 15/04/2007. Râu Cáo là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, cựu Giám Đốc Nha VTTT, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Thông Tin, và TGĐ Việt Tấn Xã .

(16) -Từ Bàn Viết Houston, Việt Nguyên Ngày Nay số 594, ngày 15/04/2007

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=58487&z=100

(17) Can Trường Trong Chiến Bại, tái bản, 2007, Hồ Văn Kỳ Thoại, 252 N. Washington St., Suite 103, Falls Church, VA 22046

Email: thoai.hovanky@gmail.com
Điện thoại : (703) 802-0999

XBACNNĐC đã viết xong từ cuối tháng 4/2007, nhưng vì Kỷ Yếu Võ Bị Đà Lạt (KYVBĐL) K12- 2007 không ấn hành như dự định; do đó ..bài này phải đăng phần lớn trên tờ báo SaiGon Nhỏ và trên 2 websites .

a. (Anh Ngữ) do Niên Trưởng Trần Đỗ Cung dịch posted trên website của cựu KQVN Thiếu Tá Trần Bá Hợi chủ trương:

- http://www.vietamericanvets.com/Page-PointOfViewrequiescat_in_pace.htm

b. (tiếng Việt) Viet Kieu Ai Lao NET

Nhân dịp (KYVB ĐL Khóa 12 - 2009 có thể phát hành chúng tôi một lần nữa … hy vọng sẽ có bài XBYCNNĐC này trên đó.

Vì thế, 31/3/2009, chúng tôi ghi thêm những tài liệu đặc biệt sau đây và sẵn sàng đăng lời đính chính của bất cứ cơ quan Mỹ Việt nào liên hệ tới các sự việc ghi trong sách, để rộng đường dư luận.

A. Các tài liệu mới được Hoa Kỳ giải mật (09/15/2008). Tài Liệu của Tòa Bạch Ốc về Cuộc Chiến VN chấm dứt sau 30 năm (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ giải mật)
~~~~~~~~

THE NATIONAL SECURITY ARCHIVE

http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB121/index.htm (1)
http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB195/index.htm (2)

B. Bộ Tổng Tham MưuQLVNCH đã trình Tổng Thống Thiệu kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa năm 1974, nhưng …

Xin đọc bài của cựu trung tá pháo binh Nguyễn Văn Tý, Khóa 5 Thủ Đức trên đặc san Pháo Binh 2009. Có thể liên lạc với Ban Biên Tập

Mr. Lê Văn Trang:

9200 Westminster Ave. # SPC 35
Westminster, CA 92683-4775
Đ T : (714) 899-8190

C. và cuốn sách của Trung Tá Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ , Daniel Marvin (đặc biệt trang 292). EXPENDABLE ELITE - USA, 2003 cùng bài báo của cựu Thiếu Tá Trần Văn Ngà phổ biến ngày 22/12/2008.

Ông Ngà, căn cứ vào báo chí Hải Ngoại và sách của ông Daniel Marvin, về vụ CIA, cùng báo chí Hoa Kỳ bịa đặt tướng Đặng Văn Quang buôn lậu ma túy.

Thực ra lý do chính chỉ vì ông Quang chống không cho quân đội Đồng Minh tràn vào Miền Tây của Quân Đoàn IV, và chút xíu CIA đã thành công trong việc xử dụng một Trung Đoàn BB của QLVNCH đánh vào Khu Vực Hòa Hảo Miền Tây .

Và mặc dù bị áp lực rất mạnh , TT Thiệu vẫn bảo vệ ông Quang vì vừa là bạn cùng Khóa 1 VBDL, vừa biết thành tích chiến đấu sáng chói của vị Tư Lệnh Q Đ IV này.

Cần kiểm chứng, hay muốn hỏi thêm hoặc muốn có bài đọc này …xin liên lạc: Trần Văn Ngà (cựu Thiếu Tá - Khóa 13 Thủ Đức) Cựu Trưởng BanThông Tin Báo Chí QĐ4 & V4CT. Email: tranvannga@hotmail.com. điện thoại: (nhà) 916.427.) 6638 (Cell): 916.519.8961

D. Quyển sách của John Perkins: Confessions of an Economic Hit Man, 2004, USA (Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế) www.JohnPerkins.org

Qua quyển sách này, độc giả thấy từ mấy chục năm qua, nhiều cơ quan của Hoa Kỳ đã lũng đoạn các quốc gia đồng minh một cách quỷ quyệt thần sầu. Họ viện trợ đấy mà thật ra là cho vay nợ lãi cắt cổ … để người vay nợ không bao giờ có thể trả hết nợ và luôn luôn là kẻ chịu ơn.

Với sự khuynh loát của tài phiệt Hoa Kỳ, ngay cả những quốc gia đồng minh nào muốn tự lực sinh tồn, phát triển họ cũng ngăn chặn tối đa.

Đó là trường hợp Kế Hoạch Khu Trù Mật, Ấp Chiến Lược thời Đệ Nhất VNCH và Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội thời Đệ Nhị VNCH.

Cố vấn Ngô Đình Nhu chết oan, tướng Nguyễn Văn Vỹ, tổng trưởng Quốc Phòng bị giải nhiệm tai tiếng dù các cộng sự viên ở Bộ Quốc Phòng đều biết ông là vị tướng lãnh rất thanh liêm và tận lực làm việc cho Quân Đội, cho Quốc Gia.

Hai quyển sách của John Perkins và Daniel Marvin đều có thể mượn rất dễ dàng ngay tại các thư viện công cộng ở thành phố.