Monday, February 27, 2012

”Cuộc đời và cái chết rất buồn của một người chính trực“

Mai Thanh Truyết

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: ”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định. Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: ”Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9, 10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đỡ của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các loại vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì … nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: ”Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%”.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: ”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: ”Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đổi lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”.

Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất
chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli)“.

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam”. Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng: ”Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Mai Thanh Truyết

Sunday, February 5, 2012

Độc nhất vô nhị, chỉ có tại Việt Nam

Xã hội của đỉnh cao trí tệ
Khách sạn cung cấp vợ miễn phí



Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc

    Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc Cho Kẻ Thù Truyền kiếp Của Dân Tộc
Trương Phú Thứ

Từ ngàn xưa, nước Việt Nam có chiều dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Cha ông chúng ta đã bao đời đổ máu và mồ hôi, nước mắt tạo dựng nên cơ đồ lừng lẫy dưới Trời Đông Á. Từng tấc đất trên núi cao, mỗi con nước hòa trong đại dương đã thấm nhuần hào kiệt uy dũng của tiền nhân; và con cháu hàng hàng, lớp lớp từ đời nọ sang đời kia hiên ngang xây dựng đất nước ngày thêm tươi tốt, chiến đấu đánh đuổi ngoại xâm, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ. Cha ông chúng ta đã khổ công khai sơn phá thạch, bồi sông lấp biển, gầy dựng cho con cháu mảnh vườn sào ruộng, là nơi chôn nhau cắt rốn của đám hậu duệ, là chỗ gửi gấm thân xác tiền nhân lúc mãn phần. Kẻ trước người sau, một lòng sắt son tô điểm sơn hà trong niềm kiêu hãnh của dòng giống Lạc Hồng. Quê Cha đất Mẹ là vành nôi ấp ủ tình tự quê hương, là bầu sữa ngọt ngào nuôi dưỡng đàn con Việt tộc. Đàn con Mẹ Việt Nam bám lấy sào ruộng, ôm lấy mảnh vườn là hương hỏa của ông cha khó công gầy dựng như mầm sống của từng thế hệ.

Đất nước ta đã bao lần đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc. Lời thề Diên Hồng còn âm vang trên núi cao. Tiếng hò Sát Đát vẫn xé gió tung bay ra bốn bể.

Nhưng đau đớn tủi nhục, xót xa, ngậm ngùi ! Đảng cộng sản Việt Nam đã ký hai hiệp định về biên giới với Trung cộng vào ngày 30-12-1999 và 25-12-2000. Hai hiệp định này đã cống hiến một phần đất đai ở tuyến cực Bắc tiếp giáp với Trung cộng, và một phần lãnh hải vịnh bắc Việt cho Trung cộng. Biên giới Trung-Việt đã lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam nhiều chỗ đến 12 cây số. Ải Nam Quan không còn nữa. Thác Bản Giốc cũng không còn nữa. Vịnh Bắc Việt đã mất thêm đến 10%. Quê hương Việt Nam đã mất một phần đất đai nơi đó là tổ ấm của nhiều dòng họ từ bao nhiêu đời. Tổ Quốc Việt Nam đã mất đi Hoàng Sa - Trường Sa, là mất đi một phần biển có nhiều dầu khí.

Ngày 27-12-2001; lễ cắm cột mốc thi hành những điều khoản của hiệp định được tổ chức và chiếu trên hệ thống truyền hình toàn quốc. Con dân nước Việt ở khắp mọi miền đất nước thắp nhang hướng về địa đầu tổ quốc khấn nguyện anh linh, tiên tổ, sụt sùi rơi lệ.

Lịch sử nước ta ghi chép, Việt tộc đã nhiều lần đứng lên đánh đuổi quân xâm lược hung hãn phương Bắc. Ngay cả lúc cha ông chúng ta ở trong thế yếu kém nhưng chưa hề bao giờ phải cắt đất nhượng biển cho quân ngoại xâm. Vậy cớ sao đảng cộng sản Việt Nam lại cúi đầu tuân phục mệnh lệnh của quan thầy cộng sản Tầu cắt đất của tổ tiên, xé biển của Tổ Quốc cống hiến cho kẻ thù phương Bắc ?!

Có nhiều giả thuyết được nói đến để tìm hiểu hành động phản phúc của đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết, là món nợ khổng lồ đã vay mượn của Trung cộng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó là sự đền ơn đáp nghĩa đối với một đàn anh cộng sản khổng lồ ngay sát nách, có đủ khả năng để bảo đảm sự an toàn của tập đoàn thống trị Hà Nội. Vì muốn nắm giữ đặc quyền, đặc lợi và đủ sức mạnh để khống chế, áp bức những người cùng huyết thống, đảng cộng sản Việt Nam đã táng tận lương tâm cắt đất, nhượng biển cung phụng những đòi hỏi quái ác của bọn cộng sản Tầu.

Hồn thiêng sông núi Việt, anh linh tiên tổ ngậm ngùi đau xót nhìn những đứa phản tặc vô ơn bạc nghĩa, mang cả gia tài của ông cha đem cống hiến cho ngoại nhân để nắm giữ quyền hành và từ đó, áp đặt một thứ chủ nghĩa độc ác phi nhân xóa bỏ tình tự đạo lý dân tộc.

Đảng cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình trọn vẹn chỉ là một công cụ vô hồn của một thé lực còn rơi rớt lại của khối cộng sản thế giới.

Phường nghịch tặc của Tổ Quốc đã chỉ vì quyền lợi của bè đảng và cá nhân đã không từ nan bất cứ một hành động phản trắc nào, hầu chỉ cần nắm giữ được quyền hành và tài sản tiền bạc của quốc gia.

Hỡi các bạn trẻ Việt Nam! Giang sơn gấm vóc mà tổ tiên chúng ta đã khổ công khai phá và xây dựng đã bị đảng cộng sản Việt Nam cắt xén dâng hiến cho Trung cộng. Còn nỗi nhục nhằn cay đắng, rách gan, đứt ruột nào hơn; các bạn đã khóc ra máu mắt nhìn bọn thảo khấu bán nước toa rập với lũ giặc phương Bắc đóng những cái mốc ngay trên phần đất hương hỏa của bao dòng họ. Các bạn đã uất hận nghẹn ngào nhìn mồ mã tiền nhân đang bị những bước chân xâm lăng của kẻ thù truyền kiếp giầy xéo. Đảng cộng sản Việt Nam vì nhu cầu sống còn đã nhẫn tâm bán rẻ tổ quốc cho bọn giặc thù phương Bắc.

Các bạn là những sinh viên đang miệt mài đèn sách nơi trường lớp. Các bạn là những viên chức nhà nước đang bị trù dập vì đoàn đảng và bọn tham ô nhũng lạm. Các bạn là những công nhân đang bị hành hạ tức tưởi bởi bọn thực dân mới Đài Loan, Hàn quốc. Các bạn là những người lính đang ngày đêm gian khổ, nhưng bị đảng cộng sản Việt Nam không cho được bảo vệ đất nước. Các bạn là những người lao động đang gục đầu nhục nhằn vì miếng cơm manh áo. Các bạn là những người buôn thúng bán bưng đang cay đắng vì đói nghèo đói bệnh tật.

Các bạn, tất cả hãy ngạo nghễ đứng lên, cùng một lời thề ước, tay trong tay bứt phá xích xiềng nô lệ tư tưởng, tù đầy, cơm áo và thoát ra khỏi bàn tay ác độc của kẻ thù tuyền kiếp phương Bắc.

Các bạn trong quân ngũ hãy quay súng lại làm tròn nhiệm vụ của Tổ Quốc và đồng bào trao phó; các bạn hãy nhận lãnh trách nhiệm với tiền nhân, với đồng bào và lịch sử; cùng nhau vùng lên đạp đổ một chủ thuyết tàn ác do đảng cộng sản Việt Nam áp đặt để độc quyền thống trị.

Các bạn cứ nhìn xem chung quang mình, bọn cán bộ chức quyền giầu có đến mức nào, trong khi bản thân các bạn đang lây lất rau cháo qua ngày. Xương máu của các bạn đang đổ ra con cháu bọn cán bộ đốt tiền bên trời Âu-Mỹ. Mồ hôi nước mắt của các bạn đang đổ ra cho đám chức quyền cao cấp nạp những đồng tiền thuế của dân vào cái túi không đáy của bọn nhà thổ. Tài sản quốc gia đã bị các quan chức lãnh đạo đản cộng sản trấn lột và hiện cất giữ ở các ngân hàng ngoại quốc.

Lớp người trẻ ở Liên Sô cũ, các quốc gia Đông Âu và các nước Á Phi đã đồng loạt đứng lên. Họ, với sức mạnh hào và khí của tuổi trẻ, họ đã làm nên đai cuộc. Các bạn hậu duệ Quang Trung, con cháu Trưng-Triệu lẽ nào nhắm mắt xuôi tay nhìn Tổ Quốc bị đảng cộng sản Việt Nam đem bán rẻ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nhìn đồng bào thân yêu triền miên trong nghèo đói, bệnh tật và dốt nát.

Đức Hưng Đạo Vương ba lần đại phá quân Nguyên đã thống thiết trong Hịch Tướng Sĩ:

"Chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giầy xéo, mà phần mộ cha ông của các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào, chẳng những thân ta kiếplưu đày chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là những người bại trận".

Các bạn hãy đứng lên !

Hùng tâm dũng khí của những người trẻ Việt Nam sẽ cứu nước và dựng lại nước. Nước Việt Nam phải là một dãi đất gấm hoa của tự do dân chủ. Người Việt Nam hào hùng phải được quyền sống trong những điều kiện bình thường của con người. Các bạn là vốn liếng quý giá của nòi giống Việt. Các bạn là tài sản trân quý của dân tộc. Các bạn là nguồn cậy trông, là niềm hy vọng của tiền nhân và đồng bào ruột thịt. Các bạn hãy đứng lên tiêu trừ đảng cộng sản Việt Nam, xóa sổ bọn tôi đòi của kẻ thù phương Bắc. Các bạn sẽ không đơn độc. Đồng bào ở trong cũng như ngoài nước luôn sát cánh bên các bạn bằng nhiều cách. Các quốc gia và những người yêu chuộng tự do dân chủ, tôn trọng hòa bình công lý trên toàn thế giới sẽ cùng đứng bên với các bạn. Các bạn hãy ngạo nghễ đứng lên !

Trương Phú Thứ


Sunday, January 8, 2012

Việt Khang, anh là ai? - Long Hải & Quốc Tuấn


Đừng Sợ Nữa Đồng Bào Tôi Ơi!
Hãy Đứng Dậy Lật Đổ Tập Đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam
Buôn Dân Bán Nước
teolangthang

_________________________________________




Việt Nam Tôi Đâu ???
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)
Chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam ...



Việt Nam ơi …

thời gian quá nửa đời người và ta đã tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ Việt Nam đau từng cơn sót dạ nhìn đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
kẻ quyền uy giàu sang dối gian

Giờ đây …
Việt Nam còn hay đã mất?
mà giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội
chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu

Là một người con dân việt nam
lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm
người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi
từng đoàn người đi chẳng nề chi
già trẻ gái trai giơ cao tay
chống quân xâm lược,
chống kẻ nhu nhược bán nước việt nam

Long Hải & Quốc Tuấn
Source: http://www.tuoitreyeunuoc.com/hotnews/vi%E1%BB%87t-khang-anh-la-ai/

Từ bản nhạc “Việt Nam Tôi Đâu” ra đời trên hệ thống Internet vào tháng 8/2011 đến bây giờ, số người nghe gần nửa triệu, lời nhạc và tiếng hát của Việt Khang đã đi vào lòng người. Việt Khang đã viết từ tận đáy lòng sâu thẳm của mình với nỗi đau ray rức nỗi đau này không phải vì đói rét, cũng không phải vì vết thương bị cắt trên da thịt mà nỗi đau của một người mất nước nỗi đau trăn trở hằn sâu trong tâm hồn người yêu nước.

Sống qua gần nửa đời người, anh đã thấm nghiệm được sự dối trá lừa đảo của chế độ độc tài đương quyền, tác giả “Việt Nam Tôi Đâu” đã mở đầu cất cao lời nhạc “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời người, và ta đã tỏ tường rồi, ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói ….”. Nửa cuộc đời, trải qua 36 năm từ ngày cả dân tộc Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản đến nay Việt Khang đã nhìn thấy xã hội muôn ngàn mảnh đời đổ vỡ, tàn tạ, bị áp bức, bóc lột, đói khát mà đáng ra bất cứ một quốc gia nào “sau tàn lửa khói” đều không thể lâm vào cảnh tượng đau đớn như Việt Nam.

Việt Khang đã tỏ tường trên thân thể gầy còm của đất “Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nhìn đời, người lầm than đói khổ nghèo nàn, kẻ quyền uy giàu sang dối dang”. Lời nhạc không mang tính hằn học thù hận nhưng mang tâm trạng đau nhói ở tâm can hoà với lời ca thống thiết nói lên sự cách biệt bất hạnh của hai giai cấp một bên là người dân đói khổ thật thà, bên kia là kẻ quyền uy giàu sang dối dang, mà kẻ quyền uy đó chính là thành phần tư bản đỏ của bạo quyền Cộng sản Việt nam hiện nay đang trấn lột đồng bào.

Còn tổ quốc Việt Nam thì sao? Việt Khang tự hỏi rằng “Giờ đây Việt Nam còn hay đã mất?”. Nếu còn, tại sao nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lại để cho “bọn giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta” mà cả một guồng máy khổng lồ của công an, bộ đội chỉ để phục vụ cho “đảng cầm quyền” mà không bảo vệ được ngư dân Việt Nam đến nỗi “Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội, chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu” ….

Tổ quốc đã không còn hiện hữu trước một bạo quyền chỉ biết hiếp đáp người dân, chỉ biết bóc lột giàu có dối gian, trong khi ngoại xâm đang thật sự hống hách trên quê mẹ Việt Nam, là một nhạc sĩ yêu nước Việt Khang dùng tiếng hát sâu xoáy của mình như tiếng kêu của con quốc quốc trong đêm thâu kêu gọi lòng yêu nước của mọi người “là một con dân Việt Nam, lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm, người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi”. Đồng bào ơi! tổ quốc đang lâm nguy không phân biệt già trẻ trai gái hãy đoàn kết “từng đoàn người đi chẳng nề chi, già trẻ gái trai hãy dơ cao tay….” đoàn kết sức mạnh dân tộc để “chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam”.

Việt Khang-Võ Minh Trí đã cất cao giọng hát từ đáy lòng sâu thẳm của tâm hồn, lời ca cao vút của anh như những nhát dao cắt lòng những ai đang trăn trở trước nguy cơ của dân tộc, anh đã buông tiếng hát nói lên phần hồn của bản nhạc mà đó cũng là ước nguyện của đồng bào.

Nhạc sĩ Việt Khang là thành viên của Tuổi Trẻ Yêu Nước, trước khi anh bỏ hồn vào hai bản nhạc “Việt Nam Tôi Đâu” và “Anh Là Ai” anh đã đoán rằng sự an ninh cá nhân của anh không được bảo đảm, nhưng đó là thứ vũ khí trong đấu tranh Diễn Biến Hoà Bình mà tài nghệ anh đang có là viết nhạc và lời ca, anh tận dụng sở trường của mình để cứu quê hương dân tộc. Tiếng hát của anh với bài “Việt Nam Tôi Đâu” là tiếng huy động lòng người, tiếng kèn thúc dục sự đứng lên của mọi giới, khi nghe tiếng hát của bài nhạc “Việt Nam Tôi Đâu” người đang trùm chăn phải thức dậy, kẻ ươn hèn trở nên can đảm. Một người thanh niên yêu nước chân chính như thế mà vào lúc 7:00 giờ tối ngày 23-12-2011, Công An Cộng sản Việt nam đã vào bắt anh đi vào trại tù, đó có thể là sự tiên đoán của bản nhạc “Anh Là Ai” mà Việt Khang đã chuẩn bị cho mình để dấn thân làm một người trai yêu nước giữa chốn hám danh, hám lợi, đầy dối trá của bạo quyền.

Chúng em viết lên đây những lời chân tình của người đồng hành với anh, anh lâm nguy chúng em vẫn còn tiếp tục cuộc hành trình với lòng tin tưởng “kẻ bán nước không bao giờ được dân tộc tha thứ, và kẻ xâm lăng không bao giờ thành công trước sức mạnh đoàn kết của một dân tộc” – Ở chốn lao tù kia, xin anh vững tin vào chính nghĩa đã chọn.

Long Hải & Quốc Tuấn

People's Power

Việt Nam hãy học bài học Tunisia, Egypt, Lybia
Free the people, Free yourself

"Those who make peaceful revolution impossible,
make violence inevitable." - John F. Kennedy


Peaceful Revolution Hopeless
Non-violence Hopeless With Vietnam Communists


Tự do không phải ngồi đó mà có,
phải trả giá bằng sự quyết tâm, bằng xương, bằng máu ..
không phải là van xin, thắp nến hiệp thông,
cầu nguyện chỉ có ở trong chùa chiền, nhà thờ.
teolangthang

________


Saturday, January 7, 2012

Việt Nam Tôi Đâu ???


Đừng Sợ Nữa Đồng Bào Tôi Ơi!
Hãy Đứng Dậy Lật Đổ Tập Đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam
Buôn Dân Bán Nước

_____________________________________


Việt Nam Tôi Đâu ???
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)
Chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam ...


Việt Nam ơi …
thời gian quá nửa đời người và ta đã tỏ tường rồi,
ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ việt nam đau từng cơn sót dạ nhìn đời
người lầm than đói khổ nghèo nàn
kẻ quyền uy giàu sang dối gian

Giờ đây…
Việt Nam còn hay đã mất?
mà giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội
chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu

Là một người con dân việt nam
lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm
người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi
từng đoàn người đi chẳng nề chi
già trẻ gái trai giơ cao tay
chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước việt nam
_______________________

Anh Là Ai ??

Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)

Xin hỏi anh là ai?
Sao bắt tôi, tôi làm điều gì sai?

Xin hỏi anh là ai?

Sao đánh tôi, chẳng một chút nương tay

Xin hỏi anh là ai?

không cho tôi xuống đường để tỏ bày
tình yêu quê hương này dân tộc này đã quá nhiều đắng cay.

Xin hỏi anh ở đâu?

ngăn bước tôi, chống giặc tàu ngoại xâm

Xin hỏi anh ở đâu?

sao mắng tôi, bằng giọng nói dân tôi

Dân tộc anh ở đâu?

sao đan tâm làm tay sai cho tàu?
để ngàn sau ghi dấu
bàn tay nào, nhuộm đầy máu đồng bào.

Tôi không thể ngồi yên

khi nước việt nam đang ngã nghiêng
dân tộc tôi, sắp phải đắm chìm
một ngàn năm hay triền miên tăm tối

Tôi không thể ngồi yên

để đời sau cháu con tôi làm người

Cội nguồn ở đâu?
khi thế giới này đã không còn Việt Nam.


People's Power

Việt Nam hãy học bài học Tunisia, Egypt, Lybia
Free the people, Free yourself

"Those who make peaceful revolution impossible,
make violence inevitable." - John F. Kennedy


Peaceful Revolution Hopeless
Non-violence Hopeless With Vietnam Communists


Tự do không phải ngồi đó mà có,
phải trả giá bằng sự quyết tâm, bằng xương, bằng máu ..
không phải là van xin, thắp nến hiệp thông,
cầu nguyện chỉ có ở trong chùa chiền, nhà thờ.
teolangthang

________


Friday, January 6, 2012

Xuân Này Con Không Về

Xuân Này Con Không Về
Trịnh Lâm Ngân
Duy Khánh



Xuân Nào Con Sẽ Về
Nhật Ngân
Duy Khánh








Tuesday, January 3, 2012

Nhạc

Việt Nam Tôi Đâu ???
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)
Chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam ...



Anh Là Ai ??
Nhạc và lời Việt Khang trình bày
(Võ Minh Trí)


Một Mai Giã Từ Vũ Khí
Ngân Khánh
Trình bày: Duy Khánh




Thursday, December 29, 2011

Cuối năm 2011. Địt mẹ ! tao chửi chúng mày một tiếng đảng cộng sản Việt Nam - teolangthang

Địt mẹ, đảng cộng sản Việt Nam
    LỜI CẦU NGUYỆN CỦA LS LÊ DUY SAN
    1. Việt Cộng chết hết và chết một cách thảm khốc cả gia đình và dòng họ.
    2. Thân Cộng chết hết và chết một cách thảm thương cả gia đình và dòng họ.
    3. Những kẻ có những lời nói, hành động cố ý làm lợi cho Việt Cộng hay gây chia rẽ hàng ngũ người Việt Quốc Gia, mạ lỵ những người chống Cộng cũng chết hết và chết một cách thảm hại cả gia đình và dòng họ.

Vô Tôn Giáo - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Theo "lý lịch trích ngang" của 16 ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam thì không một tên nào có cha mẹ cũng như không theo bất cứ một đạo nào. Đó là chủ trương vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc theo cái thuyết khốn nạn mà các tay tổ cộng sản đẻ ra nhằm biến con người thành con vật để dễ dàng cai trị ! Như vậy bất cứ tên cộng sản lớn nhỏ nào cũng không xứng đáng để được gọi là con người. Chúng còn tệ hơn cả loài thú dữ, dù ăn thịt đồng loại, nhưng con vật vẫn còn biết được đâu là tổ ấm gia đình, đâu là phần đất cần phải bảo vệ. Cọp beo, trăn rắn, kên kên …. lúc chập chững còn biết nguồn gốc tổ ấm, bám theo cha mẹ, tìm về hang động, bảo vệ lẫn nhau và chung sức chống đối kẻ thù hơn những tên cướp xuất thân từ rừng xanh, khi khôn lớn thì tự cho mình từ đất chui ra và từ chối luôn cả cha lẫn mẹ. Vậy chúng là thành phần đội phân trồi lên, chẳng khác gì dòi bọ ở các hầm cầu. Còn nữa, đã là cộng sản thì chúng luôn luôn kỵ tôn giáo và xem ‘đạo’ như một thứ thuốc phiện ru ngủ con người đồng thời là mầm mống nguy hiểm chống lại chế độ của chúng.

Có thể nói rằng, loài người là một tuyệt phẩm mà Thượng Đế đã tạo ra, nhưng muốn được gọi là con người thì phải có một bộ óc hiểu biết và một con tim nhạy cảm hơn các loài động vật khác…để từ đó con người mới biết tôn trọng lẫn nhau, sống hòa hợp, phân công và góp sức xây dựng một xã hội tốt đẹp và tiện nghi. Nhưng cái gì có thể giúp cho con người làm được những điều nầy? Phải chăng vai trò giáo dục có thể giúp con người biết điều hay lẽ phải, biết tôn trọng luật pháp, biết tu thân tích đức và làm lành tránh dữ…Như vậy muốn trở nên một con người hữu ích thì phải có một ‘lực’ linh thiêng nào đó để kềm ép thể xác tránh được những cái dục vọng, gian ác tầm thường trong mỗi con người. ‘Lực’ đó chính là căn bản của tôn giáo.

Khi đề cập đến vấn đề tôn giáo, xin hiểu rộng và đừng hạn chế trong một phạm vi hạn hẹp là tôn giáo chỉ có thờ phượng các Đấng Thượng Đế, Chúa, Allah, Phật, Ông Bà … mà phải nói đến các hình thức tôn giáo lớn nhỏ khác của loài người vượt qua ranh giới không gian và thời gian. Ví dụ như từ Thần Sông, Thần Núi, Thần Biển, Thần Rừng, Thần Đất, Thần Mưa, Thần Gió… đến Ông Voi (cá), Ông Địa, Ông Táo, Ông Tài, Ông Phước, Ông Lộc, Ông Thọ cũng như Đình Làng, Cây Đa, Khóm Tre, Gốc Cây, Ngọn Cỏ … đối với người Việt Nam nói riêng, hoặc Á Châu hay các sắc tộc khác, nói chung, là những Vị Linh Thiêng mà con người dựa vào đó để tin tưởng, khấn vái, cầu xin và sám hối. Vậy có thể nói rằng dù ở thời đại hay chân trời góc biển nào, đã là con người, không nhiều thì ít cũng mang nguồn gốc ‘hữu thần’ trong quả tim và trí óc, nghĩa là chấp nhận sự hiện diện các Đấng Linh Thiêng trong đời sống của họ để tôn sùng, cầu xin, sám hối và (được) phán xét.

Tại sao cộng sản sợ tôn giáo?

- Thứ nhất: Tôn giáo là niềm tin và điểm tựa của đời sống tâm linh, là đường dẫn con người đến với Đấng Linh Thiêng. Kẻ có tôn giáo tức là có đời sống hướng thiện, thường nghĩ rằng trần thế chỉ là tạm bợ, họ tin tưởng có thưởng có phạt trong kiếp sau, do đó họ phải làm lành tránh dữ, chống lại những gì giả dối gian manh thiếu luân lý đạo đức. Vậy, đối với cộng sản, bất cứ tôn giáo nào cũng là những cái gai nguy hiểm đối với chế độ, chúng chủ trương phải nhổ bỏ tận gốc. Nhưng thực tế, cộng sản đã lầm và lịch sử chứng minh rằng không bao giờ chúng diệt được cái gốc hữu thần trong con người. Vậy để gây chia rẽ các khối tôn giáo chính thống, chúng phải dựng lên một hình thức tín ngưỡng mới là thần thánh hóa các tên lãnh tụ để bắt dân chúng phải tôn thờ nhằm thế chỗ Thượng Đế, Chúa, Phật, Thần Thánh …

- Thứ hai: Tôn giáo là những tổ chức mạnh mẽ về đời cũng như đạo, có chiều sâu, có căn bản, có thực lực về lượng và phẩm thì đây chính là mối nguy trầm trọng đối chế độ cộng sản. Trên 60 năm qua chúng đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu xóa sổ các tôn giáo lớn tại Việt Nam. Để đối phó với vấn đề nầy, bọn việt gian cộng sản đã quỷ quyệt dùng vật chất mua chuộc những kẻ tu hành còn nặng nợ trần gian, hoặc biến công an thành tu sĩ để lập những tổ chức tôn giáo quốc doanh nhà nước và đặt dưới quyền điều động của Mặt Trận Tổ Quốc. Do đó hiện giờ các tôn giáo lớn tại Việt Nam đều có hai giáo hội hoạt động song song, một bên được ưu đãi và bên kia bị cô lập, theo dõi, kiểm soát và hăm dọa.

Để đi vào chi tiết, tại sao phải có tôn giáo trong đời sống con người? Vậy xin tóm tắt qua ba lãnh vực.

Tôn giáo là nguồn gốc tình người:

Đạo nào cũng dạy con người phải biết thương yêu, đùm bọc, chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho nhau. Tình yêu không chỉ hạn chế trong phạm vi gia đình, dòng họ, bạn bè, lối xóm với nhau mà phải bao gồm giữa những con người cùng chung dòng máu, giữa dân tộc nầy sắc dân khác, kể luôn đối với kẻ thù. Xã hội dưới chế độ cộng sản mất hẳn tình thương, do đó người ta không lạ gì khi hận thù vẫn còn phủ kín trên mảnh đất quê hương. Thù hận từ trong gia đình, thôn xóm ra đến xã hội, giữa kẻ nghèo người giàu, giữa người Bắc với Nam, giữa hai chế độ mới cũ, giữa tôn giáo nầy với tôn giáo kia. Hơn nữa tình trạng vô tôn giáo đã thật sự đưa con người dưới chế độ cộng sản hiện nay đến tình trạng ‘người bóc lột người’ một cách tàn nhẫn mà loài người không bao giờ tìm thấy trên quả đất nầy! Cũng vì thiếu tình người mà hàng trăm khách qua đường đã ngoảnh mặt làm ngơ khi một em bé bị tai nạn nằm rên la suốt cả nửa ngày ngay giữa đường chính trong thành phố. Đây chính là hình ảnh rất thực chứng minh tình người đã biến mất tại Việt Nam hiện nay.

Tôn giáo là cội nguồn đạo lý:

Tôn giáo dạy con người phải biết đạo làm người, đạo đối với cha mẹ, đạo với tổ quốc (bảo vệ giang sơn), đạo với Trời Đất. Một xã hội thiếu đạo đức thì con người không còn biết trái phải và chỉ hành xử với nhau theo bản năng vật chất và nhục dục. Cũng tại Việt Nam vì thiếu đạo đức, người trở thành con thú, cha mẹ cần tiền bán con vào động điếm, vợ chồng giết nhau chỉ vì chút lợi nhỏ, hàng xóm chém nhau chẳng qua một miếng ăn. Cũng vì vắng đạo đức mà hiệu trưởng biến trường học thành động đĩ để bán dâm cho cấp trên, bọn cầm quyền đóng thùng xuất khẩu hàng triệu gái ra nước ngoài làm vợ người, cán bộ ăn cắp tiền và phẩm vật cứu trợ của nạn nhân bảo lụt, các nhà tu hành ngủ với tín đồ phật tử và lấy tiền dâng cúng để bao gái. Những tệ trạng nầy xảy ra hằng ngày dưới cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ cộng sản. Và cũng vì vắng đạo đức, nhiều khách sạn nhà nước đã biến thành ổ mại dâm để cho hàng ngàn sinh viên học sinh tại Hà nội hành nghề ! (tin ngày 23.12.2011).

Tôn giáo là căn bản xã hội:

Nếu không có tôn giáo, nghĩa là thiếu công bằng, luật nằm trong tay kẻ mạnh, như thế xã hội mất hẳn tính chất minh bạch của con người khi đối xử với nhau ngay từ hạ tầng cơ sở. Dưới, mạnh ai thì nấy cướp cạn. Trên, bóc lột đã có môn bài. Không ai sợ tội, không ai khuyên nhủ và cũng không một lực nào để ngăn cản tội ác đang bộc phát và hoành hành trong mỗi con người. Một xã hội mà trên tham lam vơ vét của người nghèo, ăn cắp tài sản quốc gia thì không thể nào ngăn cấm răn đe cấp dưới làm lành tránh dữ và giáo hóa uốn nắn họ trở về với đường ngay lẽ phải.

Tóm lại nếu một xã hội vắng tình thương và thiếu đạo đức thì sẽ trở thành một địa ngục, ở đó vật chất và quyền lực là nấc thang để phân loại con người và là vũ khí để hành hạ chém giết lẫn nhau. Chính vì vô tôn giao, việt gian cộng sản đã biến dân lành Việt Nam thành những tên lưu manh, đểu cáng, trộm cắp, móc túi theo tư tưởng và lời dạy của già dịch mang tên Hồ. Thành phần nầy có mặt đầy dẫy không những từ hạ tầng cơ sở như đường phố, bến chợ mà còn trong các cơ quan du lịch, thương mại và ngoại giao tại nội địa cũng như hải ngoại.

Để kết luận, một đám người từ rừng chui ra, chỉ biết dùng bạo lực để biến đất nước thành một xã hội vô tổ quốc, vô gia đình nhất là vô tôn giáo thì lương tâm, quả tim và đầu óc của bọn chúng hoàn toàn bị tiêu diệt bởi nhục dục và tham vọng. Chúng là những khối thịt, chỉ biết ăn thật no hưởng thật nhiều và vơ vét cho đầy túi. Như vậy đất nước Việt Nam trên nửa thế kỷ nay bị cai trị bởi đám súc vật nầy thì thế giới đâu có lạ khi xã hộiViệt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản không còn chút gì để gọi là đạo lý và tình người…

Đinh Lâm Thanh

Saturday, December 24, 2011

Cánh chung luận là gì? - L.m. Andre Đỗ Xuân Quế o.p

    Cánh chung luận là gì?
"Đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại."

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p

Cụm từ này khó hiểu vì không có trong từ điển và trong đời thường. Trong tự điển, chỉ thấy những từ như chung kết, chung cục, chứ không thấy cánh chung. Còn trong đời thường, chỉ thấy nói đến cánh chim, cánh cửa, cánh kiến, cánh nhạn v.v…, chứ không thấy nói đến cánh chung, sở dĩ như vậy vì từ cánh chung mới xuật hiện vài chục năm nay thôi, khi linh mục Nguyễn Thế Thuấn nói đến “nhỡn giới cánh chung” ở trang 560 trong bản dịch Kinh thánh của mình. Đàng khác, cánh chung là một cái gì rất xa lạ đối với đời thường của dân chúng.

Khi muốn dịch từ eschaton ƐσχαƮoν (những sự sau) trong Kinh thánh và eschatos logos ƐσχαƮoς λογος (lời về sự sau) trong thần học, nhiều người không biết dùng từ nào, nên mượn từ cánh chung của linh mục Thuấn cho tiện. Từ đó dần dần cánh chung trở thành chữ phổ thông trong sách báo công giáo.

Vậy chính ra, cánh chung là gì và cánh chung luận là thế nào? Theo nguyên ngữ Hy lạp eschaton là những sự sau và eschatos logos là lời về những sự sau. Eschatos logos trở thành eschatology trong tiếng Anh và eschatologie trong tiếng Pháp. Đây là môn học về những sự sau, gọi là tứ chung hay bốn sự sau, tức sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục trong khoa thần học công giáo mà hiện nay người ta nói cách văn vẻ là cánh chung luận.

Sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục là nội dung được bàn đến trong cánh chung luận. Đây là những tín điều người công giáo phải tuyên xưng trong các Chúa nhật và các ngày lễ trọng. Họ buộc phải tin rằng khi chết rồi, mỗi người phải ra trước tòa Chúa để bị phán xét về các việc mình làm khi còn sống. Nếu ăn ngay ờ lành thì được thưởng. Nếu ăn ở bất nhân thì bị phạt. Người lành được thưởng trên thiên đàng còn kẻ dữ bị phạt sa hỏa ngục. Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ cho thấy cảnh tượng đó đối với những người ăn ngay ở lành:

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25,34-36)

Còn đối với những kẻ bất nhân :

“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỉ và các sứ thần của nó. vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt. 25, 41-43)

Ngày cánh chung là ngày cuối cùng, ngày chu kỳ lịch sử loài người hoàn tất, ngày Chúa ngự giá mây trời mà đến trong tư thế lẫm liệt uy hùng, để phán xét người sống và kẻ chết.

Qua những lời Chúa phán trong ngày phán xét chung, những người được ân thưởng là những người làm những việc từ thiện bác ái. Những người này không phải là những người chỉ biết sống cho riêng mình mà là những người có các mối liên hệ với xã hội, với con người. Các Ki-tô hữu được thánh Phê-rô và thánh Phao-lô dạy rằng quê hương của họ ở trên trời: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20) và họ ở trần gian này như lữ khách: “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt vốn gây chiến với linh hồn”. (1 Pr 2,11)

Quê trời là đích điểm cùa những người tin Chúa. Vì thế, cánh chung phải là ngày các Ki-tô hữu nhắm tới. Vì ngày đó mà họ cố sống theo lời Chúa dạy, khi còn ở trần gian này.

Quê hương Ki-tô hữu ở trên trời và họ ở trần gian này như những lữ khách, nhưng không phải vì thế mà họ xa lạ với trần gian. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng cũng như học thuyết xã hội của Hội thánh luôn đặt Ki-tô hữu trước những bổn phận đối với trần gian theo cái nhìn của đức tin. Phải góp phần vào việc xây dựng xã hội trần gian để đem ơn cứu độ của Chúa cho xã hội đó.

Căn cứ vào nội dung môn cánh chung luận trong thần học công giáo thì không một triết thuyết hay chủ nghĩa nào có thể mang danh hiệu là cánh chung luận, vì triết thuyết hay chủ nghĩa đó không nhìn nhận Thiên Chúa là Chủ tể càn khôn và cùng đích của loài người, Đấng thưởng người lành và phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm. Vì vậy, nói rằng:

“Bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó: không còn cảnh người bóc lột người, mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn nhu cầu có bao nhiêu là cứ việc xài. Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sư hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sư nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân, Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…” (Ngưng trích bài giảng về lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ ngày 20.11.2011 đọc thấy trên mạng NVCL của ĐC Phê-rô Nguyễn Khảm).

Thì đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại.

Thuyết Mác-xít có chăng thì chỉ là một cái bánh vẽ, một sự mơ tưởng hão huyền về một tương lai tốt đẹp cho con người, một sự ru ngủ những người cả tin vào những lời đường mật của những kẻ khéo nói có tài che đậy, để lường gạt thiên hạ mà thôi. Cứ nhìn xem những gì đã xẩy ra hay còn đang xẩy ra tại những nước áp dụng chủ nghĩa Mác-xít mà Cuốn sách đen về chủ nghĩa Cộng sản, là đủ thấy.

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.


ÔNG GIÁM MỤC và CÁNH CHUNG LUẬN - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Giám mục Nguyễn Văn Khảm vốn là một nhân vật nổi tiếng về khoa ăn nói, dân nhà quê như người viết gọi là lẻo mép, còn bậc trí thức người ta kêu là hùng biện. Một nhà hùng biện làm tới giám mục giáng về vấn đề “Cánh Chung” trong đạo thì nhất định là đúng người, đúng việc rồi chứ có gì mà phải théc méc. Ấy vậy mà sau khi ngài giám mục giảng, con chiên bổn đạo nổi lên nhao nhao phản đối. Sự thể đáng sợ thật, chỉ sợ tội thôi, bởi vì Chúa dậy trong Phúc Âm rằng tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ kia mà. “Họ” ở đây là chỉ các “đấng làm thầy” (tiếng nhà đạo). Dám cãi lại lời đức cha là tội trọng, chết sa hỏa ngục chứ chẳng chơi. Thế nhưng, đọc kỹ lại đoạn Phúc Âm thì mới thấy yên tâm. Chúa khuyên người Do Thái nên nghe lời giảng dậy của các kinh sư khi họ ngồi trên tòa Moyses để giảng lời Chúa, chứ không phải Chúa bảo bổn đạo VN phải nghe lời giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm. Vì rằng, bài giảng của ngài giám mục không dính dáng đến Chúa, mà nói về Marx. Như vậy không những là lạc đề, mà còn đưa đến nhiều nghi ngờ trong con chiên bổn đạo nữa.

Ngày lễ kính Chúa Kitô Vua (Christ the King), giám mục Khảm không giảng theo nội dung của ngày lễ, mà lại lái sang vấn đề cánh chung, còn là cánh chung của Karl Marx mới chết, không lạc đề thì còn là gì nữa. Nói thế thật ra cũng chưa đúng hẳn, vì Phúc Âm ngày lễ Chúa Kitô Vua theo thánh sử Mathew có đề cập đến vấn đề Cánh Chung. Nhưng cánh chung ở đây là ngày tận thế, Chúa quang lâm ngự xuống phán xét nhân loại, người lành cũng như kẻ dữ. Cuối cùng Thánh Sử kết luận: Thế là họ (kẻ dữ) ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời. Đấy là giáo lý và là học thuyết về Cánh Chung của người công giáo.

Ít nữa trong ngày lễ này, người tông đồ của Chúa như giám mục Khảm phải giảng thuyết làm sao chứng minh cho giáo dân thấy, và để thuyết phục những người chưa tin Chúa, nhất là bọn cộng sản vô thần chung quanh ông rằng, Chúa Giêsu là một vị đế vương. Ngài xứng đáng là vua thật. Hơn nữa còn là một minh quân, một vị hoàng đế rất thương yêu dân, biết lo cho dân, nhưng vấn đề thưởng phạt của Ngài cũng rất mực công bình, không thiên vị ai bao giờ. Con người chết đi bị Ngài xét xử để được luận thưởng hoặc phạt theo những việc làm của họ khi còn tại thế. Đó là sự cánh chung của người công giáo. Cũng nên nói cho bọn cộng sản chung quanh ông hay rằng tuy Chúa là vua, nhưng chúng mày đừng có sợ. Ngài không tranh quyền đoạt vị của chúng mày đâu, bởi vì chính Ngài đã xác nhận trước mặt Tổng Trấn Philatô, đại diện của Hoàng Đế La Mã rằng, nước của Ngài không phải là quốc gia trần tục, mà là Nước Trời. Tài cán và hùng biện như giám mục Nguyễn Văn Khảm mà sao không vẽ ra được một thiên quốc hấp dẫn để chiêu hồi bọn cộng sản. Rằng, Nước Trời là một quốc gia có tự do, và cũng có kỷ cương, chứ không loạn xà ngầu giống như nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa của chúng mày, bởi vì ở đấy có một vị vua anh minh là Chúa Kitô. Ngài lấy đức mà trị dân. Người dân trong nước của Ngài lấy thương yêu bác ái để đối xử với nhau trong tình huynh đệ. Do đó Nước Tròi của Chúa mới là Thiên Đường thực, khác xa cái thiên đàng viển vông của Karl Marx nơi trần thế. Ở Nước Trời không bao giờ có chuyện ngưòi bóc lột người. Ở đó mới có công bình và công lý thật. Mọi công dân trong Nước Trời của Chúa mới sống đích thực mình vì mọi người và mọi người vì mình. Họ không phải lao động cực nhọc mà vẫn sung mãn và hạnh phúc tràn trề ……

Thiếu gì chuyện để diễn giảng về vương quyền và lòng nhân hậu của Vua Giêsu ông giám mục không nói tới, mà lại nói về vấn đề Cánh Chung của Karl Marx, thế mới là trật duộc và sinh chuyện. Cánh Chung là gì thì lời giải thích và thí dụ ông giám mục đưa dẫn chứng cũng lại sai bét luôn. Theo từ điển Thiều Chửu, Cánh có nghĩa là trọn vẹn, sau rốt. Thí dụ như: hữu chí cánh thành nghĩa là có chí sau cùng nhất định sẽ thành công. Hoặc, cứu cánh nghĩa là xét đến cùng của sự việc. Còn chữ Chung có nghĩa là hết hoặc chết. Cánh Chung là một từ kép hán nôm, các nhà dịch giả và chú giải Kinh Thánh dùng để nói về ngày tận thế, Chúa quang lâm để phán xét loài người. Tiếng Anh chữ Cánh Chung là Eschatology, là môn nghiên cứu về những sự việc sau hết (the study of the “last things”). Last Things trong ngoặc kép muốn nói là những sự việc sau cùng của cuộc đời sau khi con người nhắm mắt xuôi tay. Đây là một luận đề phổ thông trong các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Eschatology bàn về số phận sau cùng của thế giới, của loài người, và của mỗi cá nhân. Cánh Chung trong giáo lý Công Giáo bao gồm các học thuyết về sự chết, sự sống lại, thiên đàng, hỏa ngục, sự trở lại của Chúa Giêsu và việc phán xét của Ngài. Như vậy Cánh Chung luận là luận về sự việc gì xẩy ra ngay sau cái ngày tàn của vũ trụ vạn vật hay cái chết của mỗi con người, hoàn toàn không phải là đường lối giải quyết những vấn đề thực tại của xã hội trần tục. Rõ ràng, một đàng là những vấn đề sau cái chết, còn một đàng là những vấn đề của con người còn đang sống. Hai vấn đề hoàn tòan khác nhau. Giám mục Nguyễn Văn Khảm đã thuyết giảng ra ngoài vấn đề của ngày lễ, và còn giảng sai về đề tài mà ông đề cập tới. Dưới đây xin trích lại phần chính diễn giải chữ Cánh Chung trong bài thuyết giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm:

“Dĩ nhiên, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó:

- không còn cảnh người bóc lột người,

- mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn như cầu có bao nhiêu là cứ việc xài.

Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sự hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân.

Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…”

Trích đoạn ngắn trên đây có thể nói là bản copy bức tranh cảnh thiên đàng trần thế mà Karl Marx đã tưởng tượng ra. Đó là một xã hội trong đó mọi người yêu thương nhau như anh em, không ai hà hiếp bóc lột ai, mọi người tự giác làm việc đúng khả năng và hưởng cái công lao động tùy theo nhu cầu của mình. Khung cảnh thiên đường tốt đẹp mà Marx vẽ ra hấp dẫn đến độ có hàng triệu con người dám hy sinh cả cuộc đời để kiến tạo nên nó. Những con người này chết đi chẳng cầu Niết Bàn của Đức Phật, cũng không mơ tưởng Thiên Đàng của Chúa. Họ cho là họ đã mãn nguyện rồi vì, “sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi mãi trong nhân dân.” Vô thần mà, đâu còn cái gì nữa sau khi chết. Câu này nói rõ ý nghĩa “cánh chung” của người vô thần. Đấy là Cánh Chung Luận của CS theo giám mục Nguyễn Văn Khảm. Ông không bình luận, nhưng sự diễn tả của ông cho thấy ông rất ngưõng mộ luận điểm Cánh Chung của Marx. Giám mục Khảm nói: “Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai ....” Bởi vì ông giám mục giảng cho bổn đạo trong một thánh lễ, lời giảng của ông tức là lời giáo huấn, cho nên phải hiểu rằng giám mục Khảm chủ tâm dậy bổn đạo nên noi theo hàng triệu con người CS kia mà thực hiện cái cánh chung của Marx: mãi mãi để lại sự nghiệp trong nhân dân. Thế thôi, Thiên đàng là chuyện vớ vẩn chăng?

Cánh Chung của Marx tốt đẹp và hấp dẫn như thế, nhưng Marx là ai, và người đầu tiên có công lao nhất thực hiện Cánh Chung Luận của Marx là Lenin đã suy nghĩ thế nào về luận điểm này thì giám mục Nguyễn Văn Khảm lại không nói tới cho giáo dân của ông biết.

Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho rằng Marx là một người vô thần (atheist). Điều đó chỉ đúng trên sách vở. Thực ra Marx là một ngưòi hữu thần. Ông ta không tin có Thiên Chúa hay bất cứ thần linh nào, nhưng ông lại là một tín đồ ngoan đạo của giáo phái thờ Satan (Satanist cult). Linh mục Richard Wurmbrand, một tác giả nghiên cứu thâm sâu về Marx, phát giác ra rằng Marx là một đệ tử của giáo chủ Joana Southcott, tông đồ của thần Shiloh tức Satan. Ngay từ hồi còn là sinh viên, Marx đã sáng tác những vần thơ ma quái như thế này:

    The hellish vapors rise anh fill the brain,
    Till I go mad and my heart is utterly changed.
    See the sword?
    The prince of darkness
    Sold it to me.
    For me he beats the time and gives the signs.
    Ever more boldly I play the dance of death.


(Xin tạm dịch: những luồng gió địa ngục nổi lên tràn đầy cả trí óc, cho đến khi tôi bị điên loạn, và tim tôi hoàn toàn đổi khác. Có thấy không cây kiếm mà vị hoàng tử của tối tăm đã trao nó cho tôi. Nó đánh nhịp và ra dấu cho tôi. Cứ như thế tôi càng hăng tiết đùa dỡn với tử thần.)

Một câu hỏi đặt ra là, thế thì Karl Marx xướng xuất ra thuyết duy vật vô thần không phải là vô lý sao? Không đâu, lý thuyết Marx đẻ ra chỉ là để triệt hạ các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo, sau đó xây dựng một thế giới mới không còn có thần linh mà chỉ tôn thờ tiền tài, danh vọng, và dục vọng mà thôi.

Nếu như Cánh Chung Luận của Marx đáng trân quí thật như Gm Nguyễn Văn Khảm ca tụng thì người thực hiện lý thuyết của Marx là Lenin đã chẳng phải hối hận trước khi nhắm mắt lìa đời. Trên giường bệnh, Lenin đã cay đắng thố lộ tâm sự thật của lòng mình như sau: I committed a great error. My nightmare is to have the feeling that I’m lost in an ocean of blood from the imnumerable victims. It is too late to return. To save our country, Russia, we would have needed men like Francis of Assisi (*). With ten men like him, we would have save Russia

(xin tạm dịch: tôi đã phạm phải một sai lầm lớn. Cơn ác mộng của tôi là cảm thấy như mình bị rơi vào trong một đại dương toàn máu của không biết bao nhiêu là nạn nhân. Quá trễ để quay đầu trở lại rồi. Để cứu nước Nga, quê hương của chúng ta, chúng ta cần có những con người như Francis Assisi. Được 10 người như ông ta, chúng ta có thể cứu vãn được nước Nga.)

Giám mục Nguyễn Văn Khảm nói chắc như định đóng cột rằng, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận. Câu khẳng định này thiết tưởng cần phải được ngài giám mục làm sáng tỏ. Một vị gám mục tiến sĩ thần học không thể nói năng mù mờ được. Nếu hiểu chữ cánh chung trong lý thuyết của Marx như giám mục Khảm diễn giải thì vấn đề khỏi bàn tới, vì sự diễn giải của giám mục sai rồi như chúng tôi đã trình bầy ở trên. Cánh chung trong triết thuyết của Marx là mục tiêu xây dựng xã hội mà ông mơ ước đạt tới. Nhưng nếu hiểu chữ cánh chung như học thuyết công giáo dậy thì quả thật câu nói của giám mục Khảm đã trở nên hàm hồ. Khổng Giáo chẳng hạn thì Cánh Chung Luận của đạo Khổng là gì. Khổng Tử đã chẳng nói: Đạo khả đạo phi thường đạo. Và ông còn muốn cho quan điểm của mình về các vấn đề siêu hình được rõ ràng hơn, cho rằng, với quỉ thần chỉ nên kính nhi viền chi mà không nên đề cập tới. Hay như Phật Giáo thì thật sự Cánh Chung Luận của đạo Phật giải thích ra sao khi mà Đức Phật dậy rằng vũ trụ vạn vật là một chuỗi tiếp nối “sinh diệt - diệt sinh.” Con người chết đi đầu thai vào một kiếp sống khác. Đó có phải là một chung cuộc đâu?

Cứ cho rằng trong lý thuyết của Marx có bao gồm Cánh Chung Luận như giám mục Nguyễn Văn Khảm khẳng định, nhưng điều khó hiểu là học thuyết này của Marx ngày nay đã bị cả loài người vứt bỏ vì nó sai lầm và không tưởng rồi. Thế nhưng tại sao người môn đệ tông truyền của Chúa lại nhắc lại trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, vị tôn sư của mình, và còn ca tụng nó ngụ ý là khuyên tín hữu thực hành con đường Marx vạch ra. Hầu như mọi tín hữu đều băn khoăn và thắc mắc về điểm đó. Câu trả lời đã có thể tìm ra được ngay trong Phúc Âm rồi. Chúa dậy: “… Vì lòng có đầy thì miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình …” (Mt 12, 34-35). Nếu giám mục Khảm không ấp ủ Marx canh cánh bên lòng thì ông đã không rao giảng về Cánh Chung Luận của Marx trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, người thầy của các tông đồ.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

* Francis of Assisi là một vị Thánh công giáo sống vào đầu thế kỷ thứ 13. Thánh nhân sinh ra trong một gia đình thương buôn giầu có người Ý, nhưng Ngài đã từ bỏ hết của cải, sống đời khó nghèo và lo giúp đõ cho những ngưòi vần cùng và bất hạnh.



Về Bài Giảng Của Giám Mục Nguyễn Văn Khảm - Nguyễn Tiến Cảnh




Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Tôi đã tính không định viết, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy “Đã Quá Sức Rồi”, lời bố mẹ trách con cái không những đã cãi lời cha mẹ mà còn chửi thẳng vào mặt cha mẹ, thành thử tôi phải viết để nói lên ý nghĩ của tôi và có lẽ cũng của đa số bà con công giáo VN nói riêng và cả thế giới nói chung. Bởi vì vấn đề đã quá rõ ràng cả trên lý thuyết lẫn thực tế mà khắp thế giới ai cũng nhìn thấy.

Số là có người đã lợi dụng tòa giảng trong nhà thờ chánh tòa Saigon, mượn danh Phúc Âm tôn giáo để ca tụng chủ thuyết cs. Nghe xong bài giảng, tôi không ngờ vị giảng thuyết lại là một chức sắc lớn trong Giáo Hội CGVN, và có lẽ ông đang ngắm nghé một tước vị cao hơn nữa là Tổng Giám Mục Saigon hay Hanoi, rồi có thể là Hồng Y? Tôi không ngờ vị đó lại là GM Nguyễn văn Khảm.

Cho đến giờ này, có thể tất cả trong và ngoài nước, ai cũng biết GM Khảm ca tụng cs như thế nào rồi. Ông đã mượn bài Phúc Âm ngày lễ kính Chúa Giêsu Vua nói về thời cánh chung đê so sánh với cái thiên đàng địa giới của cs mà ông tổ Marx đã đề ra để mê hoặc con người. Gm Khảm đã đồng hóa đạo Công Giáo với thuyết cộng sản một cách bừa bãi.

KHÔNG PHẢI TRỪU TƯỢNG NHƯ KIỂU GIÁM MỤC KHẢM NÓI

Ngày Cánh Chung là ngày phán xét sau cùng của Chúa để xét sử, phân biệt giũa người lành và kẻ dữ. Người lành là những người trong cuộc sống ở trần gian đã ăn ngay ở lành, lấy tình yêu thương đối xử với nhau, không ăn gian nói dối, không hận thù oán ghét, không cướp của giết người và bóc lột nhau. Kẻ dữ là những kẻ vô đạo đức, có những hành động không giống người lành, nghĩa là họ chuyên môn ăn gian nói dỗi, có nói thành không, không thành có, dùng hận thù ganh ghét làm ân oán, cướp của giết người không nương tay, miễn sao được việc cho mình. Chúa sẽ thưởng phúc thiên đàng cho người ngay lành và phạt xuống địa ngục khốn khổ đời đời những kẻ gian ác. Như vậy quả là công bằng và hợp lý chẳng có gì là trừu tượng như Gm Khảm đã mập mờ phê phán.

MARX MỚI THỰC LÀ KHÔNG TƯỞNG

Ngược lại, Gm Khảm đã bạo gan so sánh ngày cánh chung của Chúa với thiên đàng địa giới của Marx. Ông ca tụng Marx là thực tế, cái thực tế chết người mà cả thế kỷ nay đã có bao nhiêu triệu con người phải chết đi mà chưa thấy một mảy may gì là thực tế, đến nỗi ngay chính địa danh tổ của cs là Nga Sô Viết, Đông Âu, những nước cs anh em đều đã trà đạp và từ bỏ nó, ngoại trừ Trung cộng và VN vẫn cố bám lấy để tiếp tục ru ngủ dân chúng hầu cướp đoạt tài sản của dân của nước, chia nhau miếng đỉnh chung bất kể nỗi khốn khổ cơ cực nghèo đói của dân lành cho đến khi nào không thể tiếp tục giữ được nữa mới chịu nhả ra..

Gm Khảm đã nhắc lại cái bánh vẽ mà Marx đã đưa ra. Ông rất khôn khéo, có tài ngụỵ biện, phủ dụ người nghe, giáo dân là triết thuyết nào, tôn giáo nào, cũng có cánh chung luận, nhưng nơi nào đưa ra được một cánh chung luận hấp dẫn, thực tế mới thuyết phục được lòng người. Rồi ông lấy ngay thí dụ của XHCN VN với chủ thuyết Marx và cho rằng nó có một cánh chung luận rất hấp dẫn và cụ thể, không phải là vô thần, một xã hội hoàn hảo trong đó:
  • Không còn cảnh người bóc lột người.
  • Mỗi người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài.
  • Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng dịa giới.
Không biết Gm Khảm được huấn luyện về Marx ở đâu mà đã trở thành Marx hơn cả Marx, cs hơn cả cs. Trước tiên ông trích lời Marx cũng sai. Nói là sai, nhưng có lẽ ông cố ý nói trại đi một tý để người nghe dễ lọt tai hơn chăng? Marx nói “Mọi người làm việc theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”, nhưng ông lại nói: “…Nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài”. Chắc quý vị nhận ra sự khác biệt giữa câu nói của Marx và lời trích của Gm Khảm. “Hưởng thu theo nhu cầu” hẳn phải khác với “Nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài”. Bao che cho cs hay đến thế là cùng. Hưởng thụ kiểu đó thì đâu còn là công bằng nhỉ? Đó là lý do tôi nói Gm Khảm ma lanh mánh khóe hơn cả cs. Còn nói không còn cảnh người bóc lột người thì thực tế cho thấy tại những nước cs, tại TQ và VN hiện nay cảnh người bóc lột người còn tàn tệ và kinh khủng hơn cả thời phong kiến thực dân nữa ai chẳng biết. Gm Khảm quả là bạo phổi thật.

Một sai lầm nữa là Gm Khảm đã cố tình so sánh bừa bãi thời cánh chung của Chúa vời thiên dàng địa giới của Marx. Sau ngày cánh chung là đời sau của con người sau khi chết, còn thiên đàng địa giới của Marx là cuộc sống trên trần thế khi cách mạng của cs, của Marx đã thàng công. Chúng ta thử chờ xem đến bao giờ mới có thiên đàng địa giới như Marx đã vẽ ra.

Gm Khảm có biết rằng để có ngày cánh chung tốt đẹp, Chúa và Marx đã dạy chúng ta thế nào không? Có lẽ ông biết rõ Chúa đã dạy những gì, nhưng ông lờ đi để chỉ ca tụng Marx với mục đích riêng tư của ông.

CĂN BẢN ĐẠO CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Chúa Giêsu giáng trần làm người phàm như chúng ta là để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, để có ngày cánh chung tốt cho mọi người. Ngài lấy tình yêu thương làm căn bản của đạo. Hai chữ TÌNH YÊU được chính Chúa thể hiện qua cái chết của ngài trên thập giá. “Yêu cho đến chết”. Một quá trình giảng huấn của Chúa Giêsu trong 30 năm trời chỉ tóm gọn lại hai chữ Yêu Thương. Tất cả moị người không phân biệt giàu nghèo sang hèn đều như nhau, là anh em một nhà, cùng một cha chung ở trên trời ( ) Anh em hãy yêu thương nhau như yêu thương chính mình vậy (Mat,22: 39). Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói quá sâu sắc và ý nghĩa về hai chữ Tình Yêu rồi tưởng Gm Khảm cũng đã biết.

THIÊN ĐÀNG ĐỊA GIỚI CỦA CS / MARX ĐẶT CĂN BẢN TRÊN BẠO ĐỘNG, HẬN THÙ, ĐẤU TRANH GIAI CẤP.

Vây mà GM Khảm lơ đi để ca tụng Cánh chung luận của Marx / thiên đàng địa giới của cs. Ai cũng biết Marx chủ trương đấu tranh giai cấp, ân oán hận thù làm căn bản, đường lối thực hành để đi tới thiên đàng địa giới không cần biết việc đó tốt hay xấu, hoàn toàn ngược lại với giáo thuyết yêu thương của Chúa. Phương Châm “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” của người cs đã bị thế giới, nhất là những nhà đạo đức và Giáo Hội CG cực lực phản đối. Cả hàng triêu triệu người chết dưới bàn tay cs từ ngày chủ thuyết cs xâm nhập và được thi hành ở Nga Sô Viết, Đông Âu và tất cả các nước cs trên thê giới, ngay cả cho đến giờ này ở TQ và VN vẫn còn tràn ngập chết chóc oán hận và tù ngục. Đọc lại những câu thơ mới đây dưới thời cs mà lòng vẫn cảm thấy rùng rợn:
    Bước đi trên hè phố
    Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ
    (Trần Dần)
Hoặc:
    Giết, giết, giết..…
    Cho đồng cỏ xanh tươi!
    (Huy Cận)
Đạo Chúa, đạo của Gm Khảm có bao giờ chủ trương “Giết, Giết...”, đấu tranh giai cấp, oán ghét hận thù như vậy đâu mà ông ca tụng những người nằm xuống để có được cái gì để lại cho hậu thế, một cánh chung, môt thiên đàng địa giới của cs. Lừa bịp. Đọc suốt 4 Phúc Âm Thư, Công Vụ Tông Đồ, Sách Khải Huyền chưa hề thấy có một chữ nào nói hoặc cổ võ cho chém giết hận thù như vậy. Trái lại Chúa còn dạy “Nếu ai tát anh má này hãy đưa má kia cho họ” hay “Thầy không biểu tha thứ bảy lần, mà là bảy mươi bày lần” (Mat.18:22). Gm Khảm lại cho rằng thiên đàng địa giới của Marx thực tế hơn cả canh chung của Chúa, “không còn cảnh người bóc lột người” thì quả là bạo gan thật. Nhìn vào VN hiện giờ thì ai bóc lột ai? Gm Khảm đã ngụy biện, dùng duy vật biện chứng để chối bỏ học thuyết công giáo, ca tụng cs!

MARX LÀ BẤT CÔNG NHẤT

Đến đây vẫn chưa đủ, Gm Khảm còn công khai nói lên toàn bộ cái mà cs đế cao thiên đàng địa giới là :
    Không còn cảnh người bóc lột người
    Mọi người làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu thì sài
    Mọi người sống chung thương yêu nhau….
Đọc thì thấy hay lắm, đẹp lắm, nhưng:
    Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào….(Kiều)
Chúng tôi nghe những điều này khi ở trong nhà tù cải tạo chỉ biết bụm miệng không dám cười ra tiếng. Người cs biết suy nghĩ, có chút đỉnh lương tâm cũng phải nói thầm trong bụng: Thằng cha này tối dạ quá, đến giờ này mà vẫn chưa sáng mắt tỉnh ngộ. Có nịnh thì cũng vừa vừa thôi chứ. Có thật không còn cảnh người bóc lột người không, khi mà xã hội VN hiện nay, cái cảnh người bóc lột người còn lộ liễu tàn ác và lan tràn hơn bao giờ hết. Cán bộ nhà nước, các ông lớn chiếm đoạt tài sản, ruộng vường của dân là hiển nhiên và công khai. Tham nhũng hối lộ là chuyện bình thường không dấu diếm. Làn sóng người từ Nam chí Bắc lũ lượt vể Saigon, Hanội khiếu kiện suốt năm này tháng nọ mà nhà nước đâu thèm giải quyết. Chiếm đoạt tài sản của tôn giáo, của giáo hội CG như tòa khâm sứ, dòng chúa cứu thế Thái Hà ở Hanội v.v… làm chốn ăn chơi, thương mại, bè phái chia chác nhau làm của riêng vẫn hiển nhiên hiện đang xẩy ra. Có thật mọi người sống với nhau yêu thương tình huynh đệ không Gm Khảm ? Chắc chắn chẳng ai công nhận có tình trạng «dễ thương» đó ở nước CHXHCN-VN hiện giờ. Máu vẫn đổ, người chết oan uổng vẫn thường xuyên xẩy ra ở VN hiện nay. Công an đánh người chết tỉnh bơ chỉ vì tội rất bình thường là phạm luật giao thông, đả thương giáo dân đốt nến đòi hỏi công lý và sự thật, tranh đấu cho tự do tôn giáo một cách ôn hòa ở Thái Hà, Đồng Chiêm, ……vẫn còn rõ ràng như vừa xẩy ra hôm nay. Bắt người bỏ tù vô cớ như cơm bữa. Gm Khảm có nhìn thấy những hiện tượng đó không ? hay chỉ ngồi trong tháp ngà nghe những ông chính ủy giảng thuyết cho nhuần nhuyễn lý thuyết cũ rích của cs không một chút thực tế. Nếu bố mẹ, anh em bà con của Gm Khảm có ai chạy trốn cs từ Bắc vào Nam năm 1954, rồi liều chết chạy ra hải ngoại tỵ nạn chính trị từ 1975 thì hãy hỏi họ tại sao họ lại chạy trốn cs, bỏ lại cái thiên đàng cs mà giám mục đang ca tụng xem họ trả lời ra sao?

Có thât là làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu không ? Hoàn toàn là xạo, bịp và không tưởng. Tại sao giám mục Khảm lại ngồi mát ăn bát vàng sung sướng trong toà giám mục ở Saigòn, muốn nói gì thì nòi, muốn ăn gì thì phán trong khi các linh mục ở xứ xa xôi hẻo lánh nơi truyền giáo như ở Kontum, Ban mê Thuật… thì sống kham khổ, cơ cực, không được nói, không được ăn, không được hành đạo theo ý mình ? Họ cũng có nhu cầu như Gm Khảm vậy, có khi còn hơn nữa vì nhu cầu Chúa đòi hỏi.

Cho rằng có như vậy đi nữa thì cũng là lỗi phép công bằng. Ngụ ngôn nén bạc mà chúng ta mới nghe trong ngày Chúa Nhật gần đây nói lên sự công bằng. Làm nhiều thì hưởng hiều, làm ìt thì hưởng ìt, không làm thì không được hưởng, có khi còn bị phạt nữa (Mat.25 : 14-30). Không thể cào bằng như kiểu cs làm cho người giàu thành nghèo, hoặc Giáo hội CG miền Bắc từ xưa vẫn kiên trì với Chúa và Giáo Hội chống lại bất công của bạo quyền vô thần cs thì phải được cào bằng với GH miền Nam để cùng cúi đầu vâng phục bạo quyền chống Chúa lừa GH như trong bài giảng của Gm Khảm giảng cho các linh mục và tu sĩ của giáo đoàn Hanội mới đây trong dịp cấm phòng hàng năm với sự đồng lõa của TGM Nguyễn văn Nhơn. Té ra quí vị lợi dụng tòa giảng, lời Chúa, việc nuôi dưỡng đời sống tâm linh của giaó si, giáo dân để ca tụng cs, lôi cuốn những người không đồng ý với mình về với cs.

KẾT LUẬN

Quá lắm rồi. Nhắc lại, tôi tính không viết nữa như đã ngồi yên từ lâu, nhưng nay cảm thấy không thể cứ thụ đông như vậy được nữa nên phải lên tiếng, mặc dù sẽ có vị cho là «chửi cha mắng chúa» thì cũng chịu. Nếu có thực như ý gán ghép của những người nào đó vì không ưa thì cũng chỉ là chửi các «cha», tức những linh mục, giám mục hay hồng y đi theo cs thôi chứ không dám đụng đến Đức Giáo Hoàng, còn «Chúa» là Thiên Chúa thì nhất quyết và tuyệt đối là không bao giờ, mà chỉ do thiên hạ đổ vạ cho thôi. Chúa và những vị hiểu lòng chúng tôi chắc không trách mà có thể còn thầm khen trong bụng và khuyến khích. Xin hết lòng cám ơn. Nhưng với bài giảng của Gm Nguyễn văn Khảm thì thực sự ông đã chửi Cha tức là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, người đã viết thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu và phê phán rất gắt gao những kẻ chủ trương chủ nghĩa thực dụng, những kẻ đầy tớ của Chúa là những con chó câm không biết sủa khi sói lang đến ăn thịt đoàn chiên của mình, nhưng ngược lại, lại đồng thanh cùng với tiếng sủa của sói, sủa inh ỏi để ca tụng rước sói vào nhà. Mắng Chúa phải chăng là chối Chúa, vì vô hình chung Gm Khảm đã đồng ý với Marx chấp nhận oán thù, đấu tranh giai cấp … trái ngược với lời Chúa truyền dạy là «Hãy Yêu Thương Nhau Như Anh Em», ca tụng kẻ chủ trương Tam Vô: Vô gia đình, vô tổ quốc và nhất là Vô Tôn Giáo. Cs rõ ràng chủ trương, không chấp nhận có tôn giáo, không có Chúa là đấng linh thiêng, không có linh hồn. Vậy mà Gm Khảm dám công khai bào chữa, vỗ vào mặt Chúa nói cs không vô thần. Đó chẳng phải là mắng Chúa hay sao.

Không biết phải nói Nguyễn văn Khảm là giám mục của Chúa hay của cộng sản ?

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
Dec 12, 2011


Wednesday, December 21, 2011

Another Dictator is Dead


North Korean Dictator Kim Jong Il