Wednesday, February 10, 2010

ĐỐI THỌAI VỚI HY. PHẠM MINH MẪN VỀ CHỦ TRƯƠNG ĐỐI THỌAI VỚI CSVN - Nguyễn Phúc Liên

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Trong THƯ CHÚC XUÂN NĂM THÁNH VÀ XUÂN CANH DẦN, Đức HY Phạm Minh Mẫn mở đầu Lá Thư như sau:

”Vào thời điểm chuẩn bị bước vào Năm Thánh 2010, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nhắn nhủ cộng đồng dân Chúa Việt Nam hãy dành thời gian Năm Thánh xây dựng ba mối tương quan căn bản của đạo làm người: - thể hiện lòng thảo kính đối với Chúa là Cha trên trời cùng ông bà tổ tiên và các tiền nhân; - phát huy tình huynh đệ hiệp nhất đối với nhau trong cộng đồng dân Chúa là anh em đồng đạo; - mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại ».

Để cắt nghĩa thêm về “mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại”, HY Mẫn viết:

“Con đường đồng hành cùng dân tộc. Vào dịp các giám mục Việt Nam đi Ad Limina cuối tháng 6 năm 2009, Đức Bênêđitô XVI có lời nhắc nhở cộng đồng dân Chúa Việt Nam: đồng hành cùng dân tộc trên con đường lịch sử của đất nước, mọi người cần quan tâm mở rộng tình huynh đệ cùng phát huy tinh thần trách nhiệm liên đới trong cộng đồng xã hội, qua con đường đối thoại và hợp tác với mọi thành phần xã hội, trên nền tảng sự thật và công ích, nhằm phục vụ cho sự sống con người cùng sự phát triển đất nước.”

Khi trả lời Phóng viên Jerome BORUSZEWSKI (Báo La Croix), ngày 24.01.2010, HY Mẫn nói:

“... tôi cố gắng đi theo con đường mới Công đồng Vatican II đã mở ra, là đối thoại và hợp tác với mọi tổ chức văn hoá và tôn giáo, kinh tế và chính trị trong cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích. Cả hai vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhắc lại con đường này cho các Giám mục Việt Nam trong những lần đi Ad Limina trong thập niên đầu của thiên niên kỷ thứ ba.”

Chúng tôi xin nêu ra những điểm sau đây và sẵng sàng đối thọai với HY Phạm Minh Mẫn:

1. Thời điểm cổ võ việc đối thọai

HY Mẫn đề cập và nhấn mạnh chủ trương ĐỐI THOẠI ở một thời điểm rất tế nhị để Giáo dân có thể hiểu rằng đây là việc công kích thái độ của Tổng Giáo Phận Hà Nội cương quyết trước việc đàn áp của CSVN đối với những vụ Tòa Khâm sứ, Xú Thái Hà, Tam Tòa và nay là Đồng Chiêm. Giáo dân và những Linh mục trong những vụ này chỉ là những nạn nhân của đàn áp bằng vũ lực. Nếu họ cứng rắn phản ứng lại, thì dó cũng là quyền tự vệ một phần nào. Khi Tổng Giáo phận Hà Nội đang phải chịu đựng đàn áp như vậy, mà Hy Mẫn chỉ lớn tiếng kêu gọi đối thọai, mà không nói cho kẻ đàn áp hãy ngưng tàn bạo, thì những lời kêu gọi này trở thành thiên vị: một đàng như công kích Tổng Giáo phận Hà Nội, một đàng như biện minh cho sự đàn áp của CSVN.

Một lời kêu gọi về những giá trị luân lý tổng quát có thể có lợi ở thời điểm này, nhưng lại hại ở thời điểm khác. Người kể chuyện có duyên là người biết đúng thời điểm để kể ra câu chuyện. Cùng một câu chuyện, nhưng kể ra ở một thời điểm khác, có thể trở thành vô duyên. Hy Mẫn thử đến bên những người đàn bà bị đánh bể đầu, vỡ mặt, máu lênh láng... để kể chuyện ĐỐI THỌAI với CSVN dùng vũ lực, xem người ta hay chính Hồng Y thấy vô duyên, thậm chí độc ác nữa.

Các Giám Mục của Tổng Giáo phận Hà Nội, khi cùng ký tên Hiệp Thông với Đồng Chiêm, không phải là những Vị không biết đối thọai để đến nỗi Hồng Y Mẫn phải la hò lên ở thời điểm này như công kích.

Vào thời điểm Cộng Hòa Miền Nam, Phong trào Ngô Bá Thành, Tôn Thất Dương Kỵ... đứng lên kêu gọi HÒA BÌNH. Chính Miền Nam đang phải chiến đấu để bảo vệ Hòa Bình cho Miền Nam, trong khi ấy Miền Bắc gửi quân vào để phá đời sống an bình của dân Miền Nam. Tại sao Phong trào Hòa Bình không kêu gọi kẻ từ Miền Bắc gây chiến, mà chỉ lớn tiếng kêu gọi Miền Nam phải ngưng đấu tranh. Hai tiếng HÒA BÌNH thật đẹp, nhưng Phong trào đã xử dụng ở thời điểm ấy như lưỡi gươm đâm vào phía Miền Nam. Họ là tay sai của Miền Bắc gây chiến.

HY Mẫn lớn tiếng kêu gọi ĐỐI THỌAI không đúng thời điểm, hay là ở hòan cảnh tế nhị lúc này, có thể bị coi là tay sai của CSVN nhằm diệt tinh thần can cường tự vệ của Giáo dân Tổng Giáo phận Hà Nội và do đó ủng hộ việc đàn áp đẫm máu của CSVN.

2. HY Mẫn hiểu sai tinh thần ĐỐI THỌAI của Công Đồng Vatican II

Chính trong THƯ CHÚC XUÂN NĂM THÁNH VÀ XUÂN CANH DẦN, Hy Mẫn đã nói rõ rệt:”... mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại.” Khi trả lời Phỏng vấn của Jerome BORUSZEWSKI, Hy Mẫn còn nhắc lại việc ĐỐI THOẠI là đối với anh em trong “cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích. “

Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với tinh thần ĐỐI THỌAI này mà Công Đồng Vatican II đã chỉ dậy. Mọi người trong cộng đồng xã hội là những ai ? Là những đồng bào nghèo khổ đang bị cướp nhà, đất; là những công nhân bị bóc lột sức lao động; là những trí thức lên tiếng xây dựng xã hội thì bị bỏ tù; là những ngư dân bị Tầu cướp bóc, giết hại mà CSVN không làm gì để bênh vực; là những tăng ni Bát Nhã bị đánh đập, đuổi khỏi cơ sở tu trì; là những Giáo dân bị đánh bể đầu khi bảo vệ Thánh Giá Chúa; là những cô gái bị bán ra nước ngòai để phục vụ tình dục; là những nữ sinh vị thành niên bị ép tình dục như vụ việc đang xẩy ra tại Hà Giang. Họ là những đồng bào gần nhất trong cộng đồng xã hội của chúng ta hiện nay.

Đối với những người này của Cộng đồng Xã hội, hãy mang cái nhìn đối thọai, thông cảm và hiệp thông đến với họ. Nền tảng của ĐỐI THỌAI là tình yêu thương. Việc đối thọai đối với đồng bào này là yêu thương họ, đến với họ để trợ lực khi họ phải chịu những bất công.

Đúng như lời Hy Mẫn đã nhắc lại tinh thần Đối Thọai của Vatican II là dành cho mọi người thuộc CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI, nhưng Hy Mẫn đã thực hiện đến mức nào ?

Trong hai câu nói mà Hy Mẫn nhắc ra trên đây, không có từ nào nhắc đến Nhà Nước, đến đảng CSVN độc tài trị dân với những bất công, đàn áp dân với vũ lực và nhà tù. Công Đồng Vatican II không khuyên ta rõ rệt là Đối Thọai với một đảng Chính trị, một Nhà Nước độc tài chỉ tìm mọi cách cai trị cộng đồng xã hội như đồ dùng vô tri không còn nhân phẩm nữa. Lời giáo huấn của Vatican II là đối thọai với mọi người thuộc Cộng đồng Xã hội, nhưng Hy Mẫn chỉ hiểu rằng đó là lời khuyên đối thọai với một đảng phái Chính trị độc tài. Việc hiểu sai lời dậy của Công Đồng Vatican II là vô tình hay đó là hữu ý xử dụng lời khuyên cao đẹp của Công Đồng trong mục đích bênh đỡ cho một đảng phái, một Nhà Nước đang làm bất công, tham nhũng và cướp bóc.

Cho dù vô tình hay hữu ý trích dẫn Giáo Huấn Công Đồng Vatican II, thì Hồng y Mẫn cũng phải xét những điểm sau đây làm điều kiện cho ĐỐI THỌAI:

Người đối thọai với mình có THIỆN CHÍ đối thọai hay không? Chúa Giêsu không bao giờ đối thọai với quân Pharisiêu giả hình vì thâm tâm của chúng chỉ mưu mô lừa người khác. Chúa mang cứu rỗi cho những ai có thiện tâm mà thôi.

Mục đích đối thọai mang đến cái gì ? Cộng đồng Xã Hội mong muốn đi tới những điều tốt hơn cho xã hội, nhưng CSVN dùng chiêu bài đối thọai như làm yên đòi hỏi thăng tiến xã hội của dân, để họ tiếp tục giữ độc quyền gây thêm tội ác cho xã hội.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 04.02.2010


Vietnam's New Money



Bài "Vietnam's new money" trên báo Foreign Policy ngày 21 tháng một năm 2010:

Một làn sóng của sự giàu sang phú quý và quyền lực đang làm thay đổi bộ mặt quốc gia xã hội chủ nghĩa này. Nhưng, trong khi những nhà hoạt động dân chủ đang bị tù đày và hệ thống quyền lực cứ tiếp tục xiết chặt, "bàn tay mạnh mẽ" của Đảng Cộng sản có thể biến những tiến bộ về kinh tế thành một thảm họa về mặt xã hội.



Ngày 16 Tháng 11 năm 2008,tại Caravelle, khách sạn sang trọng đầu tiên của thành phố Hồ Chí Minh, nơi từng là chổ cư ngụ của các nhà báo công tác thời "chiến tranh Mỹ", hai nhà doanh nghiệp mới của Việt Nam đã kết hôn Chú rể là Nguyễn Bảo Hoàng, 36 tuổi, tổng quản lý của một công ty đầu tư, IDG Ventures Việt Nam, và cô dâu của ông đã 27 tuổi, tên Nguyễn Thanh Phương, chủ tịch của một công ty đầu tư, VietCapital. Hai người đứng đầu hai công ty, họ chịu trách nhiệm kiểm soát nguồn vốn khoảng $ 150,000,000 đô la từ các khoản đầu tư tại Việt Nam.

Nhưng đám cưới này đâu phải chỉ là một câu chuyện về tiền bạc mới tại Việt Nam. Nguyễn Thanh Phương đâu phải chỉ là một chuyên viên ngân hàng đầu tư xòang xĩnh- mà cô là con gái của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Người đàn ông cô lấy làm chồng chính là một công dân Mỹ, con của một người đã chạy trốn Việt Nam năm 1975 để trốn thoát gông cùm cộng sản - bây giờ trở về cưới con gái của một trong số những tên cộng sản đó.

Cuộc hôn nhân của họ gói trọn nhiều yếu tố của một "kiểu mẫu" Việt Nam mới, bất kể một làn sóng mới của sự giàu có, Đảng Cộng sản vẫn còn chi phối cả các lãnh vực kể cả công cộng lẫn tư nhân. Nhiều doanh nghiệp "tư nhân" hoặc là của nhà nước trước đây (DNNN) hay hiện nay vẫn còn có một số quyền sở hữu nhà nước,còn phần lớn vẫn do đảng viên nắm giữ. hầu hết những người nắm giữ các chức vụ điều hành cao cấp trong các hãng tư nhân đều thuộc về các đảng viên, thân nhân hay bạn bè của họ. Các đảng viên (Cộng sản) ưu tú đang biến đổi chủ nghĩa tư bản Việt Nam thành một doanh nghiệp mang tính cách gia đình. Và nếu trong tuần này, sự kiện bốn nhà hoạt động dân chủ bị kết án về tội lật đổ chính quyền có đưa ra dấu hiệu gì chăng nữa, việc củng cố quyền lực đảng là một sự phát triển rất đáng sợ cho tương lai của Việt Nam.

Có rất nhiều thí dụ về mối quan hệ ruột thịt giữa (những người nắm) tiền bạc và quyền lực tại Việt Nam hiện nay: Một trong những người giàu có nhất của Việt Nam là Trương Gia Bình,chủ tịch của FPT, một công ty công nghệ thông tin lớn nhất ở quốc gia bản địa. Ông cũng là người duy nhất ở Việt Nam thường được gọi với thủ ngữ "cựu rể" vì ông đã từng kết hôn với con gái của Võ Nguyên Giáp - từng được coi là anh hùng trong chiến tranh, tướng lãnh quân đội đã về hưu, và cựu phó thủ tướng. Trong thập niên 1990, nếu một cơ sở làm ăn cần người liên hệ trong số các công ty có dính dáng đến quân đội, hoặc trong ngành xây dựng hoặc thông tin, thì Giáp là người họ cần phải đến gặp.

Một thí dụ khác nữa là Đinh Thị Hòa, người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp MBA của Đại học Harvard. Vào đầu thập niên 1990, khi Ngân hàng Thế giới muốn kích thích sự phát triển trong địa hạt tư nhân tại Việt Nam, quốc gia này đã được trao tặng nhiều học bổng cho những người trẻ, trong số đó có Hòa. Khi về nước, Hòa đã sử dụng kiến thức vừa tìm thấy của mình để thành lập Galaxy, một công ty tư vấn cho hầu hết các nhà hàng muốn tổ chức theo phong cách thương mại Tây phương, một rạp chiếu phim lớn ở TP Hồ Chí Minh, và một công ty sản xuất phim.

Nhìn từ nhiều khía cạnh thì đây là là một mô hình của một doanh nghiệp thành công mà trong đó tư nhân làm chủ. Nhưng Galaxy đâu phải từ đâu lù lù xuất hiện, mà nó là một trong những công ty được thành lập bởi con cháu của những đảng viên gộc. Khi Ngân hàng Thế Giới chọn Hoa để trao tặng học bổng, cha cô đang làm tới chức thứ trưởng bộ ngoại giao VN.

Câu chuyện về tự do hóa nền kinh tế của Việt Nam có thể dùng câu nói của Hồ Chí Minh về tình đoàn kết dân tộc dể diễn tả, "thành công, thành công, đại thành công." Năm 1993, theo số liệu của chính phủ VN, gần 60 phần trăm dân số sống dưới mức nghèo khổ. Đến năm 2004 con số đó đã giảm xuống còn 20 phần trăm. Coi như quốc gia này đã đáp ứng hầu hết các mục tiêu phát triển do Liên hiệp quốc đề ra gọi là Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, họ đã thoát ra khỏi cấp bậc của các nước nghèo nhất để tham gia vào nhóm của "những quốc gia với thu nhập hạng trung." Đời sống nhân dân được thăng hoa, chân trời của họ được mở rộng, và tham vọng của họ cứ thế lớn dần.

Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát của nhà nước trên sự phát triển của Việt Nam là điều trở ngại. Cuộc hôn nhân giữa đảng và quyền lợi tư nhân đang méo mó nền kinh tế để phục vụ ý muốn của một số người thay vì phục vụ cho nhiều người. Và hệ thống chủ nghĩa xã hội bè phái đang trở thành một mối đe dọa cho sự ổn định trong tương lai của Việt Nam. Việt Nam đang làm nguy hại tới số phận của nhiều con em tiêu biểu mà Ngân Hàng Thế Giới tài trợ trước đây-- khi sự thăng hoa khi trước được tiếp nối bằng một cuộc phá sản

Source: http://www.vietcatholic.net/News/Html/76728.htm
====
    Vietnam's New Money
An influx of wealth and privilege is shaking up this socialist country. But, as pro-democracy activists are jailed and the network of power tightens, the Communist Party's strong hand may be turning economic progress into a social disaster.

BY BILL HAYTON | JANUARY 21, 2010

On Nov. 16, 2008, two of Vietnam's new entrepreneurs were married in the Caravelle, Ho Chi Minh City's first luxury hotel, once home to journalists covering the "American War." The groom was 36-year-old Nguyen Bao Hoang, managing general partner of an investment firm, IDG Ventures Vietnam, and his bride was 27-year-old Nguyen Thanh Phuong, chairperson of another investment firm, VietCapital. Between them, their two companies controlled around $150 million of investments in Vietnam.

But the wedding wasn't just another story about new money in Vietnam. Nguyen Thanh Phuong isn't just an investment banker -- she's the daughter of the prime minister, Nguyen Tan Dung. The man she was marrying is an American citizen, the child of parents who fled Vietnam in 1975 to escape the communists -- now returned to wed the daughter of one of them.

Their union encapsulates many elements of the new Vietnam where, despite an influx of new wealth, the Communist Party still dominates both the public and private sectors. Many "private" businesses are either former state-owned enterprises (SOEs) or still have some state ownership, and most are still run by party members. Most of the controllers of the commanding heights of the private sector are party appointees, their family, or their friends. The Communist Party elite are turning Vietnamese capitalism into a family business. And if this week's conviction of four pro-democracy activists on subversion charges is any sign, the consolidation of party power is a very frightening development for Vietnam's future.

There are many examples of the family relationship between money and power in today's Vietnam: One of Vietnam's richest men, Truong Gia Binh, is chairman of the country's biggest indigenous IT firm, FPT. He's also the only man in Vietnam routinely referred to with the prefix "former son-in-law" because he was once married to the daughter of Vo Nguyen Giap -- war hero, retired army commander, and former deputy prime minister. During the 1990s, if a business needed contacts in the army's extensive array of companies, or in construction or communications, Giap was the man to see.

Another example is Dinh Thi Hoa, Vietnam's first Harvard University MBA graduate. In the early 1990s, when the World Bank wanted to stimulate private-sector development in Vietnam, it awarded many scholarships to young people, including Hoa. On her return, Hoa used her newfound knowledge to found a company called Galaxy that now owns a PR agency, most of the good Western-style restaurant chains in the country, a big cinema in Ho Chi Minh City, and a film production company. In many ways it's a model of private-sector success. But Galaxy didn't just spring up out of nowhere. It's one of the many firms created by the children of the party elite. When the World Bank chose Hoa for the scholarship, her father was deputy foreign minister.

The story of Vietnam's economic liberalization has been, to quote Ho Chi Minh on national unity, "success, success, great success." In 1993, according to government figures, almost 60 percent of the population lived below the poverty line. By 2004 that figure was down to 20 percent. The country has met most of its Millennium Development Goals, development targets set by the United Nations, escaping the ranks of the poorest countries to join the group of "middle-income states." People's living standards are soaring, their horizons are widening, and their ambitions are growing.

But the state's control over Vietnam's expansion is troublesome. The marriage between party and private interest is distorting the economy toward the wants of the few rather than the needs of the many. And networks of crony socialism are becoming a threat to Vietnam's future stability. Vietnam risks the fate of many of the World Bank's previous poster children -- boom followed by bust.

The biggest state corporations are setting up unaccountable funding channels to finance projects with minimal economic logic. By June 2008, 28 SOEs had spent around $1.5 billion establishing or buying controlling stakes in fund management companies, stock brokerages, commercial banks, and insurance firms. Three-quarters of Vietnam's finance companies are now owned by the biggest SOEs (those known as general corporations). Many also have bought securities companies dealing in shares. Add all this together, and several of Vietnam's biggest general corporations have the potential to become self-financing black boxes with opaque funding arrangements.

Although the days of the soft loan from a state bank are largely past, there are plenty of other ways to channel money to SOEs. The state's Vietnam Development Bank (subsidized by aid from foreign governments) and its Social Insurance Fund (expected to become the biggest investor in the country by 2015) seem to act as unaccountable slush funds for the benefit of the state sector. Clearly SOEs have a significant, if not necessarily bright, future ahead.

The Vietnamese Communist leadership wants to run the country along the lines of Gaullism in France -- where the commanding heights of the public and private sectors are coordinated by an elite trained in such institutions as the École Nationale d'Administration. Under "Vietnamese Gaullism," a behind-the-scenes elite (the party) is supposed to set the overall direction of policy and then delegate its implementation to the state (which is controlled by the party). The government then draws up the laws and uses whatever resources are available to it -- the state bureaucracy, SOEs, the private sector, foreign investors, international donors, etc. -- to see the policy executed. Behind the scenes, the party monitors, corrals, and presses the various actors to make sure that its policy is followed. That, at least, is what the party would like to have happen. The reality is usually something quite different.

With easy money around, it's not hard to bribe patrons, officials, and regulators to turn a blind eye to breaches of the law. The party members in charge of the SOE tail end up wagging the party policy dog. But this isn't the whole story. What is remarkable about Vietnam is the way, at moments of crisis, the Communist Party can discipline its errant members and bring the economy back under central control. But how much longer can it do so?

Until recently, Vietnam had shared the benefits of growth more equitably than any of its neighbors. The party's socialist orientation still meant something. But in the future, redistribution will mean taking wealth away from the party's biggest supporters. Does the party leadership have the ability to stand up to its newly rich citizens and demand they hand over part of their wealth through taxation to benefit poorer people in faraway provinces? Do the convictions this week signal that the corrupt networks of party, power, and privilege have already gotten out of control? If so, Vietnam's new money could collapse under its own weight.

Source: http://www.foreignpolicy.com/articles/2010/01/21/vietnams_new_money


Tại sao thành phần trí thức Việt Nam vẫn tiếp tục bị tù tội ? - TT Thích Viên Định

TT Thích Viên Định

PARIS, ngày 3.2.2010 (PTTPGQT) - Vụ án xử các nhà hoạt động dân chủ vừa qua gây công phẫn trong dư luận quốc nội và quốc tế, vì tính chất giả trá của phiên tòa. Nhân dịp này, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viết bài bình luận về sự kiện tại sao thành phần trí thức trong nước không được phục vụ đất nước mà lại bị bắt giam, tù tội ? Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải bài bình luận ấy sau đây:

Cuộc chiến ở Việt Nam chấm dứt đã 35 năm, vậy mà đất nước, mọi mặt, vẫn chậm tiến. Kinh tế vẫn sút kém, không theo kịp các nước trong khu vực; văn hoá, đạo đức, xã hội ngày một suy đồi; trộm cắp, cướp giật, tiếp tục gia tăng; tham nhũng, hối lộ đã trở thành quốc nạn. Bên cạnh đó, nạn ngoại xâm, thế lực thù địch Bắc phương, hàng ngàn năm nay, vẫn tiếp tục âm mưu gặm nhắm, xâm chiếm đất đai, biển đảo của tổ quốc. Trong nước, tình trạng, các thành phần tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, luật sư, bác sĩ, sinh viên, học sinh, những nguồn sinh lực của đất nước, là lực lượng nòng cốt lãnh đạo, hướng dẫn dân tộc, vẫn tiếp tục bị đánh phá, khống chế, cô lập, quản thúc, tù tội, bị gán ghép bằng nhiều tội danh.

Tại sao đất nước Việt Nam ta lại rơi vào hoàn cảnh tồi tệ như vậy ? Hay đây là tái hiện chính sách “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của chủ thuyết hận thù giai cấp, Mác-Lê nin, được áp dụng tại Miền Bắc Việt nam vào thập niên 50, trong Thế kỷ trước ? Tầng lớp trí thức là tầng lớp dẫn đầu trong mọi thăng tiến của dân tộc. Nhưng, hết người này đến người khác, hết lớp này đến lớp khác, bị đưa vào tù. Tình trạng đó, kéo dài đã trên 50 năm. Đó là lý do tại sao chiến tranh chấm dứt đã 35 năm mà đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, kém xa các nưởc trong khu vức và trên thế giới. Nếu cứ tiếp tục tình trạng như vậy, tương lai tổ quốc Việt Nam sẽ đi về đâu ?

Vừa qua, rất nhiều người trí thức, lại tiếp tục bị các toà án cho vào tù, vì bị gán ghép tội danh : “hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” Có người bị kết án lên đến 16 năm tù, và 4 năm quản thúc sau khi mãn hạn tù.

Có thật những ngưởi trí thức, doanh nhân vừa rồi đã hành động nhằm lật đổ chính quyền không ? Họ đã lập quân đội, trang bị vũ khí, hay tổ chức bạo động ? Không thấy toà án nào đề cập đến các việc này ?

Bằng những lời nói, những bài viết, để góp ý, một cách ôn hoà, với Nhà cầm quyền cộng sản, nhằm ổn định xã hội, phát triển kinh tế, làm giàu đất nước, chống ngoại xâm đang ngày đêm rình mò tìm cách thôn tính tổ quốc Việt Nam, lại bị xem là “hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân ?” Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã làm điều gì khuất lấp, nên có tư tưởng, xem những ý kiến đề nghị của người dân là hành động nhằm lật đổ ? Chỉ nói và viết, lại có thể lật đổ được chính quyền hay sao ?

Không chấp nhận hành động lật đổ, bằng bạo động, nếu có, vậy Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam muốn thăng tiến, thay đổi xã hội, bằng cách nào ? Chiến tranh đã chấm dứt 35 năm rồi, đất nước vẫn nghèo đói, các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, Nhà cầm quyền bắt người dân phải chịu đựng bao lâu nữa ?

Đảng cộng sản muốn nhân dân Việt Nam phải chấp nhận sống dưới một chính quyền độc tài, độc đảng, toàn trị, theo kiểu chế độ phong kiến ngày xưa ? Hay muốn nhân dân phải tổ chức tranh cử công bằng, theo tiêu chuẩn tự do, dân chủ, công bằng, đúng như điều lệ Hiến chương Liên Hiệp Quốc, mà Việt Nam đã ký kết tham gia ? Điều này, chưa thấy Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam công bố rõ ràng. Cũng chưa trưng cầu ý kiến toàn dân.

Một nhà nước, vừa ký kết gia nhập Liên Hiệp Quốc, nghĩa là đồng ý điều hành đất nước theo tiêu chuẩn Tự do, Dân chủ, Nhân quyền của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, lại vừa thực hiện những luật lệ, chống trái, ngay cả với Hiến Chương hiện hành của Việt Nam, cũng như chống trái với những điều luật của Công ước Quốc Tế về các Quyền Chính Trị và Dân sự của Liên Hiệp Quốc, tổ chức mà mình ký kết tham gia. Ở điểm này, đã có sự lập lờ đánh lận con đen.

Người dân chỉ đưa ra ý kiến đóng góp, một cách ôn hoà, lại bị bắt. Vậy trước năm 1988, ở Việt Nam cũng có đa đảng, đảng Xã Hội và đảng Dân chủ. Những đảng phái đối lập với Nhà cầm quyền cộng sản khi ấy, không thấy đảng viên nào bị gán tội. Có tội hay không tội là do Nhà cầm quyền độc tài tuỳ hứng quyết định ? Như vậy, người dân Việt Nam biết đâu mà hành xử cho đúng ? Nay mới rõ là hai đảng Xã hội và Dân chủ kia chỉ là các đảng bù nhìn của chế độ, và dù bù nhìn cũng bị giải tán !

Trong cuộc họp Kiểm điểm Thường kỳ toàn diện về Nhân quyền, được tổ chức theo định kỳ, vừa qua, của Liên Hiệp Quốc, có rất nhiều quốc gia đã góp ý với Việt nam, nên sửa đổi những điều luật chưa phù hợp với Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc và các Công Ước Quốc về các Quyền Dân sự và Chính Trị, chống trái cả với Hiến Chương Việt Nam hiện hành, nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam vẫn khăng khăng không chịu sửa đổi.

Người dân góp ý, chỉ để làm thăng tiến cuộc sống, thăng tiến xã hội, lại bị ghép tội “hành động lật đổ chính quyền nhân dân”. Tại sao người dân, nhất là những thành phần trí thức lại không có quyền ăn nói, không có quyền phát biểu ? Nhà cầm quyền cộng sản, chỉ muốn dân tộc Việt Nam, ngậm miệng, làm thinh, giao số phận dân tộc và vận mệnh tổ quốc Việt Nam cho một đảng chính trị độc tài, mà đảng này lại theo tư tưởng ngoại lai, vô sản, vô thần, lạc hậu của Mác-Lê Nin, rắp tâm đưa tổ quốc và dân tộc Việt Nam đi đâu tuỳ thích ?

Các nước văn minh dân chủ tiên tiến ngày nay, không những, người dân có quyền góp ý, yêu cầu, điều này, điều nọ, mà còn có quyền lập ra những đảng phái đối lập để tranh cử công bằng. Trong kinh tế, chính trị hay bất cứ ngành nghề nào khác, cần phải có sự cạnh tranh công bằng, mới tiến bộ.

Việc đàn áp, khủng bố, tù tội, những người tranh đấu, bất đồng chính kiến, chỉ thấy được sử dụng trong các Nhà cầm quyền thực dân, những kẻ xâm lăng, đô hộ. Các chính quyền dân cử, hợp pháp “của dân, do dân, vì dân” không được phép dùng các biện pháp bạo lực, tù tội, đàn áp, để khủng bố những người dân bất đồng chính kiến, cũng như các đảng phái đối lập.

Tổ quốc Việt nam ta với bốn ngàn năm văn hiến, lại không có tư tưởng nào, khả dĩ, dẫn đạo hướng đi cho dân tộc hay sao, lại phải vay mượn một chủ thuyết, tư tưởng ngoại lai, xa lạ với văn hoá dân tộc ?

Nhờ mạng thông tin tối tân, nhanh chóng hiện nay, người dân Việt Nam đã hiểu biết, có nhu cầu một cuộc sống, vừa thích hợp với văn hoá dân tộc, vừa có đầy đủ các tiêu chuẩn tự do, dân chủ, nhân quyền như các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Việc đó có gì là sai lầm, phải bị tù tội ? Không lẽ, dân tộc Việt Nam, lúc nào, cũng phải đứng bên lề của thế giới văn minh ? Dân Việt Nam không phải là con người hay sao ?

Đương nhiên, người dân Việt, với tinh thần bất khuất, không bao giờ chịu nhục nhã, cúi đầu im lặng, chấp nhận một cuộc sống mất tự do, không có nhân quyền, chỉ có miệng ăn, không có miệng nói. Nên càng ngày càng có nhiều người tiếp tục tranh đấu, và sẽ còn có nhiều người, nhất là giởi trí thức, tôn giáo, văn nghệ sĩ, bác sĩ, luật sư, sinh viên, học sinh, công nhân, nông dân, tiếp tục bị tù tội.

Đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới thoát khỏi cuộc sống không có tự do, dân chủ, nhân quyền, đầy đau khổ, tối tăm này ?

Cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa nô lệ và tự do, giữa độc tài và dân chủ vẫn tiếp tục cho đến ngày thành công.

Thích Viên Định


Văn Hóa Và Chính Trị - Lý Đại Nguyên

Lý Đại Nguyên

Với nền Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại, thì Văn Hóa vừa là nền móng, vừa là nội dung, vừa là hướng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ, luôn luôn thăng hóa của Con Người, của lịch sử Dân Tộc và Thế Giới. Vì thế, Chính Trị là sự suy tư, phán đoán, lựa chọn đường hướng, thế cách, hành xử của Con Người trong mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội, quốc gia và quốc tế và còn định hình cho các Chế Độ. Nên hiện nay được gọi là Dân Quyền, hay là Quyền của Công Dân mỗi Quốc Gia. Biểu hiện cụ thể quyền lực chính trị ra ở 3 lãnh vực: Tôn Giáo là Giáo Quyền. Cai Trị là Thế Quyền. Đại Chúng là Dân Quyền. Vậy, Văn Hóa là Thể của Chính Trị, mà Chính Trị là Dụng của Văn Hóa. Nên Con Người sống giữa thế giới vô thường nhị nguyên: “đúng, sai – thiện, ác – tốt, xấu …”, bắt buộc mỗi người phải có quyền tự do, tự chủ và trách nhiệm về sự lựa chọn chế độ xã hội chính trị của mình, để ứng xử với mọi đối tượng, mọi tình huống, sao cho hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp pháp, đúng với nhận thức nhân văn chung, không trái với đạo đức làm người của mình, không làm hại người, hư vật, để mỗi người thể hiện quyền làm người chân chính của mình trong cuộc sống cộng đồng xã hội loài người. Để chung sức xây dựng một Xã Hội Người Tự Do Dân Chủ trong đó quyền Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo của mỗi người trở thành cứu cánh của Lịch Sử Nhân Loại. Vì vây, người xưa gọi Chính Trị là Nghệ Thuật Thỏa Hiệp. Nay có thể gọi Chính Trị là Nghệ Thuật Ứng Xử.

Những người vì thiếu hiểu biết, hoặc vì bất cứ lý do nào đó, mà không thực hiện quyền làm chính trị của mình, tức là tự chối bỏ quyền tự do, tự chủ lựa chọn của mình, nhường cho kẻ khác quyết định vận mệnh của mình rồi đấy! Hay, có những người cho rằng: Chính trị là lãnh vực đầy ác hiểm, thủ đoạn, dối trá, lừa bịp, mánh khóe, quỷ quái, rình rập hại nhau, nên mình cần phải xa lánh. Lỗi lầm, sai trái đó là do người làm chính trị với tâm gian tà, trí quỷ quyệt đã làm sa đọa Chính Trị thành Tà Trị mà ra. Nên những hành vi sa đọa ấy phải gọi là Tà Trị chứ không thể cho đó là Chính Trị được nữa. Đã là chính trị thì tự nó phải là việc làm chính đáng, tốt lành, chân thật đem lại sự an lành cho Con Người, thịnh trị cho Quốc Gia, công bằng cho Xã Hội, hòa bình cho Thế Giới. Nó thuộc về toàn dân, là Nhân Quyền, là quyền lợi thiết thân, mà mọi công dân đều có bổn phận, trách nhiệm thi hành, đó là Dân Quyền được ứng cử và bầu cử những người đại diện mình vào các cơ quan công quyền quốc gia. Hoặc tham gia các chính đảng để tranh cử, để được bầu lên cầm quyền. Hay đóng góp công sức của mình cho các đoàn thể tôn giáo, ngôn luận, chính trị, nghiệp vụ mà mình theo. Gọi là các Tập Thể Xã Hội Dân Sự. Chính các tập thể xã hội công dân này mới là sức mạnh của toàn dân, của dân tộc để tự bảo vệ lấy giá trị tự do, tinh thần tự chủ, quyền lợi tư hữu của mỗi người trong chế độ Dân Chủ Tự Do. Nhằm giữ cho luật pháp nghiêm minh, chính quyền trong sạch, chính trị chân chính, xã hội công bằng, kinh tế phát triển, đất nước phú cường, thế giới hòa bình.

QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

Từ ngàn xưa, nhân loại đã thấm thía và bị trả giá quá đắt về những sai trái trong lãnh vực chính trị, nên mới nói: “Làm Thầy Thuốc mà sai thì giết chỉ một mạng người. Làm Chính Trị mà sai thì hại cả một đời, cả một nước. Làm Văn Hoá mà sai thì hại đến muôn người, muôn đời, và muôn nước”. Vì Văn Hóa có giá trị trường cửu, rộng lớn, là biểu hiện của “Chân Lý Tính”, là nội dung của Chính Trị và khắp mặt sinh hoạt quốc gia và quốc tế. Nó ăn sâu, bén rễ vào tâm thức Con Người thành lối sống, cách sống, nếp sống, khuynh hướng sống, truyền thống sống của mỗi Dân Tộc. Nên Văn Hóa mà sai thì Chính Trị sẽ tiếp tục sai, từ đời này sang đời khác, cho tới khi nào Văn Hóa tìm đúng chính đạo để hướng được tới Chân Lý, thể hiện được Chân Lý Tính ra trong khắp mặt sinh hoạt của đời sống xã hội, dân tộc và nhân loại.

Người xưa gọi đây là Đế Đạo, là Đạo của Chân Lý. Đạo mà các Tôn Giáo chân chính rao giảng và thực hiện những điều thánh thiện. Đạo mà là hướng của Văn Hóa vươn tới. Còn trong cuộc sống thực tế vô thường tương đối này thì lý tưởng của người làm chính trị và xây dựng cho thể chế của quốc gia là Vương Đạo, là Đạo của Dân Chủ rộng mở cho toàn dân nhằm thể hiện Dân Quyền. Người dân có toàn quyền tự do lựa chọn thể chế và người cầm quyền của mình. Đạo của các chế độ độc tài bạo trị, các đế quốc thống trị, các đoàn thể chính trị quá khích, tôn thờ bạo lực là Bá Đạo. tức là Đạo của Độc Tài khủng bố toàn trị. Còn các chế độ, chính quyền, đảng phái vừa độc tài, vừa tham nhũng, hại dân, hại nước, buôn dân, bán nước như chế độ Việtcộng hiện nay thì đó là Tặc Đạo, là Đạo của Kẻ Cướp. Ngoài ra các chế độ, các chính quyền, các chính đảng “ăn xổi ở thì”, gặp đâu làm đó, sai rồi sửa, sửa rồi vẫn sai, đó gọi là Mạt Đạo. Vậy “Chính Trị Đạo” gồm: Đế Đạo, Vương Đạo, Bá Đạo, Tặc Đạo. 2 đường chính là Đế Đạo và Vương Đạo, tức là Chính Đạo. 2 đường tà là Bá Đạo và Tặc Đạo, tức là Tà Đạo. Chính, Tà đều do mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi thế lực tự do, chủ động suy nghĩ, phán đoán và lựa chọn. Tất cả là ở người, do người mà chính trị trở thành tốt hay xấu.

Đã là người có trí khôn, sống giữa xã hội người thì không thể không làm chính trị, và có làm hay không cũng đều bị hệ lụy vào guồng máy chính trị cả. Khi nói tới Quyền là nói tới Quyền Lực Chính Trị. Giáo Quyền là quyền lực chính trị của Tôn Giáo. Thế Quyền là quyền lực chính trị của Chính Quyền cai trị. Dân Quyền là quyền lực chính trị của Công Dân. Nhân Quyền là quyền lực chính trị thuộc về Con Người. Đòi Nhân Quyền là đòi quyền lực chính trị của Con Người, vì Con Người, cho Con Người vậy.

Trước, nay, người đời thường lẫn lộn giữa hai lãnh vực chính quyền cai trị, với chính trị dân sự. Vẫn theo quan niệm của thời Phong Kiến, cho rằng: Chỉ có Vua, Quan cầm quyền, thực hiện chủ trương, chính sách, đường lối, thi hành luật lệ quốc gia, và những hoạt động của kẻ thống trị, hay sinh hoạt đảng phái, nhằm cướp chính quyền, mới cho đó là làm chính trị, còn dân không có quyền chính trị. Người dân trong nước là Thần Dân của Vua. Sơn Hà của Vua. Xã Tắc của Vua. Vua thay Trời trị Dân. Vua dựa vào Thần Quyền, nhân danh thần quyền để tạo ra quyền lực chính trị cho mình, cho dòng họ mình, rồi ban quyền cho quan chức để thống trị toàn dân. Dân không có quyền biết, bàn, và làm chính trị. Nhưng ở thời đại Dân Chủ Tự Do ngày nay thì, Quyền Chính Trị thuộc về Toàn Dân. Người Dân là chủ nhân ông có thẩm quyền đích thực về Quốc Gia mình. Tất cả mọi công dân đều phải làm chính trị, phải có bổn phận chính trị, phải có trách nhiệm về Sinh Mạng Chính Trị của mình và của Quốc Gia. Ý chí toàn dân tạo thành quyền lực chính trị quốc gia thể hiện qua luật pháp và chế độ. Nên phải biết suy nghĩ phán đoán để ra ứng cử, hoặc lựa chọn người đại diện mình bầu vào chính quyền. Hay quyết định gia nhập một tổ chức Tôn Giáo, Văn Hóa, Xã Hội, Nghiệp Vụ nào đó để thực hiện lý tưởng, cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, đó đều là thái độ và là hành vi chính trị cả.

Ngay các tổ chức Tôn Giáo cũng không thoát khỏi chính trị. Vì không một tôn giáo nào lại không có mục đích truyền bá giáo lý, giáo pháp của mình phổ cập tới mọi người, khắp chốn. Để đem Đạo vào Đời thì phải có Giáo Hội. Có giáo hội là phải có giáo chủ, có giáo lý, có đền thờ, có tổ chức, có tu sĩ , có giáo dân, có giáo quyền, có cơ sở, có phương tiện, có chủ trương, có đường lối, có phương pháp truyền đạo. Tức là có đối nội, đối ngoại, có làm chính trị. Chỉ khác là các tôn giáo tuy có xây dựng Giáo Quyền, mà không phải là để đoạt Thế Quyền. Giáo Hội bất cứ thuộc tôn giáo nào cũng không thể trực tiếp cầm quyền cai trị, không trùm phủ lên chính quyền, bắt Thế Quyền làm công cụ phục vụ cho Giáo Quyền như khuynh hướng Hồi Giáo toàn thống hiện nay, để đẩy nhân loại vào các cuộc thánh chiến nguy hiểm. Ngược lại Chính Quyền cũng không thể lợi dụng Giáo Quyền làm công cụ cho Thế Quyền để thỏa mãn tham vọng Đế Quốc Thống Trị của mình, như ở Trunghoa, Lamã xưa, và Cộngsản nay.

PHÂN NHIỆM CHÍNH TRỊ

Ngay từ thời loài người vừa tiến vào cuộc sống sinh hoạt cộng đồng xã hội sơ khai, thì đã hình thành 2 lãnh vực Thế Quyền và Giáo Quyền và đều dựa vào Thần Quyền, nhân danh Thần Quyền để lãnh đạo, hướng đạo toàn dân rồi. Nên trong sinh hoạt chính trị của tập thể xã hội phôi thai đó đã được phân công, phân nhiệm một cách tự nhiên là Thế Quyền nằm trong tay Tộc Trưởng hay Tù Trưởng điều khiển, hướng dẫn Bộ Tộc, hay Bộ Lạc sinh hoạt, kiếm sống. Giáo Quyền nằm trong tay các Pháp Sư hay Thầy Cả có nhiệm vụ thiêng liêng là cầu cúng thần linh, tìm cách trị bệnh cho dân. Thế Quyền giữ phần Lãnh Đạo cai trị bộ tộc. Giáo Quyền là Chỉ Đạo tinh thần cho dân. Hai lãnh vực Tinh Thần và Thực Tế này, luôn luôn có sứ mạng linh thiêng, và thiết thân là phụng sự cho người dân và xã hội thì mới làm tròn thiên chức tự nhiên của lịch sử trao cho.

Bước vào thời thành lập Quốc Gia, thì Thế Quyền hoàn toàn nằm trong tay Nhà Vua và Triều Đình Phong Kiến để lãnh đạo, điều hành Quốc Gia. Giáo Quyền thuộc về các Tôn Giáo thờ kính Thần Linh, hay tin nhận Tâm Linh để chăm sóc, hướng dẫn tinh thần và bảo vệ đạo đức cho Toàn Dân. Thế nhưng, trong quá trình lịch sử, hai thế lực Giáo Quyền và Thế Quyền vì tham vọng độc tôn, thường rơi vào cảnh cạnh tranh lấn vượt, tiếm quyền của nhau, nhằm thống trị Quốc Dân gây ra không biết bao nhiêu cảnh tàn sát, khổ lụy cho loài người. Một khi ở Quốc Gia nào đó, Thế Quyền khống chế nổi Giáo Quyền, hay ngược lại Giáo Quyền nắm được Thế Quyền thì sẽ thành Chế Độ Toàn Thống, thường biến Quốc Gia đó thành Đế Quốc xâm lăng các nước chung quanh, đây là một thảm họa lớn đối với nhân loại.

Đế Quốc Trung Hoa. Hán Võ Đế -140 – 87 trước Tây Lịch, dùng Pháp Trị của Hàn Phi, để cho Nhà Vua nắm hết mọi quyền hành quốc gia, với chủ trương “Trung Quân Ái Quốc” “Quân xử Thần tử, Thần bất tử, bất trung”. “Trung Thần bất sự nhị Quân”, biến Vua thành nhà Độc Tài Bạo Trị. Rồi tổng hợp với nền Đạo Học Nho Giáo lấy “Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân”. “Tam Cương là Quân, Sư, Phụ”. “Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, và “phương pháp Nhân Trị”của Khổng Tử làm kim chỉ nam để giáo hóa dân chúng và tuyên dương danh nghĩa Đế Quốc Đại Hán. Vì theo trật tự đẳng cấp Vua đứng trên Sư, nên Thế Quyền trùm lên Giáo Quyền, khiến ở Trunghoa Tôn Giáo đều do Triều Đình tấn phong. Giáo Quyền không thể độc lập phát triển nổi. Theo đề nghị của Đổng Trọng Thư, Võ Đế lấy Nho Giáo làm Quốc Giáo, tôn Khổng Tử làm “Vạn Thế Sư Biểu”. Từ đó tạo ra nền Chính Trị Phong Kiến Đế Quốc Đại Hán pha trộn giữa Pháp Trị với Nhân Trị dẫn tới tình trạng cá nhân độc tôn duy ý chí bạo trị. Vượt qua thời Hán, kéo dài mãi tới ngày nay. Dù Trunghoa đã trải qua 2 cuộc gọi là Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền 1911 của Tôn Dật Tiên, và cuộc Cách Mạng Cộng Sản Toàn Trị 1949, của Mao Trạch Đông, thì tinh thần Phong Kiến Bạo Trị, Đế Quốc Đại Hán ở giới cầm quyền Trunghoa ngày càng quái hóa thêm.

Đế Quốc Lamã. Trên 3 trăm năm, các Hoàng Đế Lamã tàn sát Kitô Giáo từ thuộc quốc Do Thái truyền vào Lamã. Đạo Kitô của Đức Jésus càng bị cấm đoán, đầy đọa, giết hại, càng phát triển lan tràn ra khắp Đế Quốc. Hoàngđế Constantine, muốn an dân, bình trị thiên hạ, nên năm 313 đã phải chính thức ra sắc chỉ nhìn nhận Kitô Giáo là Công Giáo của toàn Đế Quốc. Năm 314, ông triệu tập Hội Đồng Giám Mục thành lập Giáo Hội Kitô Giáo Lamã. Nhưng vị cầm đầu Giáo Hội là Giáo Hoàng phải do Hoàngđế chỉ định. Như vậy là Thế Quyền Lamã xử dụng Giáo Hội Kitô làm công cụ cho Đế Quốc. Mãi tới năm 1059, Giáo Hội mới thành lập được Hồng Y Đoàn để tự bầu lên Giáo Hoàng, từ đây Giáo Hội Kitô Giáo mới củng cố được Giáo Quyền Độc Lập. Cuộc tranh chấp quyền lực lãnh đạo giữa Giáo Quyền của Giáo Hội với Thế Quyền của Vua Chúa Âu Châu liên tục nổ ra. Thế Quyền là nhất thời, Giáo Quyền là trường cửu. Giáo Hội Kitô Lamã lan truyền ra khắp thế giới. Phong trào Thực Dân theo gót các nhà truyền giáo mà mở mang thuộc điạ…Tới năm 1962, Cộng Đồng Vaticano II, mới công bố chủ trương “Đem Đạo vào Đời”. “Tách Giáo Hội khỏi Thế Quyền”. “Các tu sĩ không được nắm chính quyền và làm chính trị đảng phái”. Tức là Giáo Hội Kitô Giáo Lamã chính thức phân nhiệm chính trị giữa Giáo Quyền và Thế Quyền.

Hiện nay trên thế giới chỉ còn Hồi Giáo là theo đuổi chủ trương Giáo Quyền Toàn Thống. Tiên tri Mohammed, học từ Do Thái Giáo và Kitô Giáo, vào thế kỷ thứ 7, Ông thành lập Đạo Hồi, tôn thờ một vị Nam thần duy nhất là Allah, đấng toàn năng tối thượng điều khiển vũ trụ, vạn hữu và loài người. Đạo Hồi có bản chất Nam tính cực đoan. Ông tự nhận là vị tiên tri lớn nhất do Thượng Đế Allah gửi đến cho thế giới. Tiên tri Mohammed có khí phách của một Đại Đế, hơn là vị Giáo Chủ nhân từ sẵn sàng nhận lấy phần hy sinh về mình. Ngược lại, Mohammed luôn luôn đòi phần thắng cho mình. Ông tuyên bố: “Thánh chiến với bất cứ ai, bất cứ quốc gia nào không theo đạo Hồi”. Bởi đó, Hồi Giáo biến thành một Đại Đế Quốc, phía Tây từ Y-pha-Nho, phía Đông tới sông Hằng Ấn Độ. Từ năm 1096 đến 1720, Hồi Giáo tiến vào trung tâm Âu Lục tạo thành cuộc Thánh Chiến với Kitô Giáo và các nước Âu Châu. Hồi Giáo bị Kitô Giáo chận ở Âuchâu, bị Ấn Độ Giáo đẩy lùi xuống Đông Nam Á rồi trụ ở 2 nước Malaysia và Indonesia. Do đó, Vua trong các nước Hồi Giáo từ xưa, nay, đều kiêm luôn chức Giáo Lãnh của Đạo Hồi.

Đến thời Dân Chủ, nhiều nước Hồi Giáo theo khuynh hướng của Thổ Nhĩ Kỳ, thành lập các chính quyền cai trị bởi chế độ thế tục. Năm 1979, Ayatollah Khomeini thực hiện cuộc cách mạng Hồi Giáo tại vương quốc Iran. Tạo lập ra một Hội Đồng Tu Sĩ Hồi Giáo Tối Cao, bao trùm lên Chính Quyền Quốc Gia, trực tiếp lãnh đạo Quốc Dân, thi hành Luật Hồi Giáo. Từ đó các phong trào Hồi Giáo Quá Khích thi nhau xuất hiện, để cổ xúy cho chế độ Hồi Giáo Toàn Thống. Nổi bật nhất là tồ chức Hồi Giáo Khủng Bố al Qaeda, do Osama bin Laden lãnh đạo. Đã áp dụng kiểu “ôm bom tự sát”của Palestine. Cướp máy bay dân sự Hoakỳ biến thành quả bom bay khổng lồ, lao thẳng vào và hủy diệt tòa nhà Tháp Đôi thành bình địa, ở khu trung tâm thương mại New York, và một phần Ngũ Giác Đài, biểu tượng cho sức mạnh quân sự vô địch của Mỹ. Cuộc Chiến Quốc Tế “Chống Khủng Bố” toàn diện, quyết liệt, khổ đau, đầy máu, nước mắt, tiền tài, do Mỹ cầm đầu nổ ra chưa thấy ngày kết thúc.

Trong tiến trình lịch sử nhân loại, thường thấy xuất hiện cảnh Tôn Giáo và Vua Chúa luôn luôn tranh chấp với nhau. Giáo Quyền lấn vượt Thế Quyền, hay ngược lại Thế Quyền khống chế Giáo Quyền, hoặc thế lực này lợi dụng thế lực kia, để thống trị nhân loại, đó là mối họa khủng khiếp nhất đối với thế giới. Trong cảnh khổ đau triền miên không lối thoát ấy, cũng như biết rõ Con Người phải sống trong kiếp sinh, già, bệnh, chết và đói nghèo, rét lạnh đe dọa thường xuyên. Thái tử Tất Đạt Đa, đã quyết định lựa chọn, bỏ vương vị quyền uy, thế tập, đi tu tìm đạo giải thoát. Như vậy ngay từ khởi thủy Đạo Phật đã tự chủ động tách Tôn Giáo khỏi Chính Quyền. Tách Giáo Quyền khỏi Thế Quyền. Ở thời ấy, giáo quyền Bà La Môn Giáo trùm lên thế quyền của Vua Chúa Ấn Độ. Bởi vậy, trong luật do chính Đức Phật lập ra mới có điều khoản: “Là quan chức và chưa chính thức từ quan, không được thọ đại giới Tỳ Kheo” Nghiã là Tăng sĩ Phật Giáo không được đảm nhận chức quyền, không được tham gia Thế Quyền Cai Trị. Cũng có nghĩa là Phật Giáo phải luôn luôn ở vị trí Giáo Quyền trong tư thế Văn Hóa đến thẳng với người dân, hướng dẫn dân trong tiến trình mỗi người tự tu “tự giác, giác tha, giác hành viên mãn”. Không lừa mị, cao áp, hù dọa; không làm công cụ cho chính quyền để thống trị dân; không tranh quyền, cướp nước, rồi ngụy biện cho đó như phương tiện truyền đạo, mà chỉ được dùng Đế Đạo, tức là Đạo của Chân Lý để hoằng dương chánh pháp thôi.

Chính vì thế, mà mỗi lần Phật Giáo bị đưa lên làm Quốc Giáo cho một Quốc Gia nào đấy, thì liền sau đó đều mang họa không nhỏ. Lần đầu là tại Ấn Độ, Đại Đế Asoka -268 đến -232 trước Tây lịch, sau khi dùng binh lực tàn sát các nước nhỏ, thống nhất Ấn Độ thành một Đế Quốc, ông khởi tâm hướng Phật, lấy Phật Giáo là Công Giáo cho toàn Đế Quốc, bỏ Bà La Môn Giáo vốn là tôn giáo phổ biến trong nhân gian tại lục địa Ấn Độ. Nhưng sau khi triều đại Asoka tàn, thì Bà La Môn Giáo quật khởi, đẩy Phật Giáo ra khỏi lục địa Ấnđộ, chạy lên phía Bắc trụ ở Nepal, xuống phía Nam thì trụ ở Tích Lan. Cho đến nay, xứ Ấn là quê hương của Đạo Phật, mà chỉ còn di tích Phật Giáo, chứ người theo Đạo Phật thì rất hiếm.

Lần thứ hai tại Việtnam. Vào đầu mùa tự chủ năm 968, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Thập Nhị Xứ Quân, lên ngôi Hoàng Đế. Đinh Tiên Hoàng Đế được nhiều Tăng Sĩ Phật Giáo có tài phò trợ, nhất là về mặt ngoại giao. Nhà Vua phong Ngài Khuông Việt là Tăng Thống. Sang Thời Tiền Lê. Phật Giáo vẫn được xem như Quốc Giáo, vì tuyệt đại đa số dân Việt thời đó đều thờ Phật. Nhưng bản chất của Đạo Phật là Đế Đạo, không thích hợp ở Triều Đình Phong Kiến. Dưới thời Lê Long Đĩnh 1005-1009, Long Đĩnh giết anh để cướp ngôi, từ đó lấy việc giết người làm trò chơi. Giới Tăng Sĩ khuyên can đều bị hại. Phật Giáo gặp đại nạn.

Thời Lý Công Uẩn 1010-1225, lập ra nhà Lý. Vị cố vấn cho vua Lý Thái Tổ là Vạn Hạnh Thiền Sư mới đem Phật Giáo về đúng vị thế của mình. Tăng Sĩ Phật Giáo trở về với toàn dân, trao Triều Đình lại cho Nho Sĩ Khổng Giáo để phò vua, giúp nước. Phân định giữa Giáo Quyền và Thế Quyền độc lập mà tương trợ nhau để phụng sự dân, nước. Thực hiện cuộc Viên Dung Tôn Giáo, triển khai nền Văn Hóa Dân Tộc Dung Hóa cả ba nguồn Đạo Học Đông Phương là Phật, Lão, Khổng. Xây dựng nền Văn Hiến Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp cá biệt với hệ thống sinh hoạt hữu vi độc tôn của Trunghoa. Tư tưởng Việtnam lấy Con Người tự chủ làm cứu cánh, lấy Dân Tộc độc lập làm chủ đạo cho mọi sinh hoạt. Nói cách khác, đó chính là lối Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn mà thời đại ngày nay đang tiến tới.

Nhưng bất hạnh cho Dân Tộc, đại họa của Toàn Dân, và cũng là mối nguy đối với Thế Giới hiện nay là Dòng Sống Văn Hóa Viên Dung Tôn giáo truyền thống của Dân Tộc và cũng là hướng vươn tới của Toàn Thế Giới, đang bị chế độ cộng sản vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo, phi nhân tính, phi dân tộc, phi văn hóa đã biến thái thành chế độ đạo tặc, độc tài, tham nhũng, ngu si, đang cố dìm toàn dân và đất nước vào vòng nô lệ Tầucộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việtnam. Khiến cho toàn vùng Á châu bị nằm trong vòng đe dọa thường trực của bọn Bành Trướng Bắc Kinh. Khiến cho Thế Giới bị đặt trong tình thế bất an thường xuyên. Việc phục hồi sức mạnh Dân Tộc, tinh thần độc lập Quốc Gia và ý thức tự do tự chủ của Toàn Dân Việtnam, nhằm Dân Chủ Hóa chế độ, đó là sinh lộ của Việtnam thoát khỏi chế độ Tặc Đạo Việtcộng và cũng tạo nổi thế Liên Minh Dân Chủ Phòng Thủ Chung đối với các nước Đông Nam Á và Thế Giới, để làm cùn nhụt khí thế Bành Trướng của Trungcộng, có như vậy Việtnam mới thực sự được tự do, độc lập, tự chủ phát triển thịnh vượng trong hoà bình, để Quốc Gia Chủ Động hội nhập tiến trình Toàn Cầu Hóa với Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại.

Lý Đại Nguyên
Xuân Canh Dần 2010


Tuesday, February 9, 2010

THÔNG ĐIỆP HÃY CÙNG ĐỨNG LÊN XUÂN CANH DẦN – 2010 của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP Saigon
——————————————————————–
Phật lịch 2553 Số 01 /VTT/XLTV


THÔNG ĐIỆP HÃY CÙNG ĐỨNG LÊN XUÂN CANH DẦN – 2010
của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ


Nam Mô Đương Lai Hoan Hỉ Từ Thị Di Lặc Tôn Phật

Kính bạch Chư Tôn Trưởng lão,
Chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni,
Cùng toàn thể Phật tử và Đồng bào các giới trong, ngoài nước,

Năm cũ qua, năm mới đến. Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, tôi xin gửi đến toàn thể chư liệt vị Trưởng lão, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, nam nữ Cư sĩ Phật tử cùng Đồng bào các giới trong và ngoài nước lời cầu chúc một năm an lành, như ý và viên thành Phật sự.

Vì nhớ tưởng mà cây trổ lộc xuân nở hoa, nên Xuân là Mùa Nhớ tưởng. Người dân Việt nhớ tưởng Ông Bà, Tổ tiên đã sinh thành ra nòi giống, quê hương ; người Phật tử nhớ tưởng đức Phật đã trải xuống cõi Diêm Phù Đề con đường giải thoát giác ngộ, đồng lúc nguyện cầu cho Đức Phật Di Lặc thị hiện giữa Mùa Xuân dân tộc, đem tứ vô lượng tâm cải hóa thế giới hận thù, tranh chấp.

Trong Mùa Nhớ tưởng, xin chư liệt vị chớ quên công đức sâu dày của Đức cố Đệ tứ Tăng thống, Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang. Vì nhờ Ngài mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn còn hiện hữu uy nghi trước thời đại Pháp nhược ma cường. Nhớ tưởng Ngài là đem hết thân tâm thực hiện lời Ngài căn dặn qua bức Thông điệp Xuân Di Lặc, Phật lịch 2544 :

« Làm con Phật là vượt khỏi địa vị phàm phu, phát bồ đề tâm mà bước vào ngôi vị Bồ Tát. Lấy tâm Đại Bi bảo bọc chúng sanh, lấy tâm Đại Từ làm lợi ích cho chúng sanh, lấy tâm Vô Ngại dẹp tan các chướng duyên và áp bức đang đè nặng nhân thế và muôn loài. Bồ đề tâm ở đâu, Bồ tát ở đó ; Bồ tát ở đâu, Phật đạo ở đó ; Phật đạo ở đâu, An lạc và Tự do ở đó. Bồ đề tâm được phát khởi, thì mọi khổ đau mới chấm dứt ; dù đó là đau khổ vì vô minh hay vì tham luyến, đau khổ của bần cùng hay đau khổ vì áp bức. Công năng này chứa sẵn trong mọi người con Phật, chỉ cần chí thành ưu tư, ước vọng an lành cho hết thảy chúng sanh là Bồ đề tâm hoạt dụng và biến hóa khôn lường ».

Trước cảnh đảo điên của thời thế làm phân hóa lòng người, thì chúng ta hãy nhớ tưởng lời Đức Đệ Tam Tăng Thống, Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu, như bức cẩm nang giải quyết sự khủng hoảng sa lầy của Tăng đoàn do ngoại nhân độc phá. Ngài dạy:

«Trong lịch sử truyền bá Phật Giáo Việt Nam cũng như thế giới, có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng cũng có lúc vẻ vang rất đáng tự hào. Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng bị lu mờ, nội bộ của Tăng bị phân hóa và thành phần của Tăng có nhiều quan điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ, phiến diện. Trái lại, lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp, biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư, những ngã chấp tầm thường, để tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ, giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp»

Đặc biệt năm nay chúng ta hướng lòng tưởng nhớ Đức cố Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Khiết, Ngài là vị Tăng thống thứ nhất thời cận và hiện đại nối tiếp giai phẩm khởi sự từ thời Đinh, lúc Việt Nam minh định chủ quyền dân tộc sau mười thế kỷ bị Bắc phương uy hiếp. Nhớ Ngài là hiến mình hiện diện trên đất nước còn thương đau hôm nay như một thực thể hòa bình. Trong bức Thông điệp Xuân Kỷ Dậu, Phật lịch 2513, Ngài nhắc nhở ân cần:

«Hòa bình chỉ có ý nghĩa đích thực khi bảo đảm được quyền tự chủ quốc gia và những quyền tự do dân chủ căn bản của dân chúng, trong sinh hoạt cộng đồng thế giới. (…) Chúng ta phải hiện diện như một thực thể tiêu biểu đích thực cho nguyện ước Hòa bình của dân tộc để nói lên tiếng nói phát xuất từ thâm tâm con người và tiềm lực dân tộc. Chúng ta không có quyền trao vận mệnh dân tộc này cho những người phi dân tộc, ngụy dân tộc, phản dân tộc. (…) Chỉ có chúng ta, những người Việt đang sống trên đe dưới búa, đang bị tước đoạt quyền sống và bị phá hoại mới có đủ tư cách để tự biện minh trong mọi quyết định vận mệnh chung cho một thể chế quốc gia dân tộc do chính chúng ta tự quyết mà thôi».

Nhân dân Việt Nam, trong đó có Phật tử, phải được sống trong an lạc và tự do để phát triển. Phát triển đời sống vật chất cũng như đời sống văn hóa và tâm linh. Vì vậy Giáo hội phải nói lên ngưỡng vọng của 85 triệu người đòi hỏi cuộc sống nhân quyền và dân chủ để phát triển. Hơn nữa, hiện nay chủ quyền dân tộc đang bị uy hiếp bằng những quyền lực cương hay quyền lực nhu của các manh tâm nước lớn. Phật tử là người hiểu thời thông biến, nên không thể nhắm mắt quay lưng trước các ý đồ mãi quốc. Nước mất thì đạo suy. Cho nên giữ nước là con đường dân tộc hai nghìn năm cứu mình, cứu người đưa quê hương thoát ly xâm lăng, nô lệ và cuồng tín.

Tâm tư của người Phật tử ngày nay là tâm tư của kẻ bị dày xéo từ một thế kỷ rưỡi qua vì những thế lực ngoại lai muốn biến Việt Nam thành chiến trường, thành thị trường, thay vì đạo trường. Tâm tư ấy biến thành cuộc vận động không ngưng nghỉ của Phật giáo suốt thế kỷ XX cho đến nay để phục vụ dân tộc, tổ quốc, nhân loại theo sứ mệnh tôn giáo, chứ không theo cương vị chính trị. Vì vậy mà thái độ của Giáo hội đối với nhà đương quyền Xã hội Chủ nghĩa là thái độ của tôn giáo đối với những chính sách sai lầm, những khuynh loát chính trị, những lạm dụng đất nước và quần chúng.

Cụ thể của chính sách sai lầm, khuynh loát chính trị, lạm dụng đất nước và quần chúng vừa được một lần nữa thấy rõ trong những ngày vừa qua. Khi Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đưa ra tòa án giả trá những phần tử ưu tú tương lai của đất nước. Những người tay không tấc sắt với tấm lòng ưu tư trước nạn ngoại xâm và đời sống không có nhân quyền dân chủ, mà Nhà nước và Đảng chẳng đoái hoài. Giáng xuống họ những bản án giam tù và quản thúc nặng nề, khiến dư luận trong và ngoài nước công phẫn, khinh miệt. Đây là bản án của Chế độ Thực dân đầu thế kỷ XX đang được tái hồi cho toàn thể dân tộc vào đầu thiên niên kỷ thứ ba.

Hiểu rõ bi kịch đang ngăn cản sự phát triển quốc gia, làm cho văn hóa suy đồi, đạo lý nghiêng ngửa như thế, chư liệt vị Trưởng lão, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, cùng đồng bào Phật tử trong và ngoài nước hãy cùng đứng lên đảm trách sự cứu khổ trừ nguy mà đức Phật trao truyền : Hễ là Chánh đạo thì tiến tới, chỉ sợ bước tới không mau ; hễ không phải Chánh đạo thì lui bước, chỉ sợ đi lui không gấp.

Nguyện cầu chư Phật mười phương gia hộ chư Liệt vị năm an lành, thành công viên mãn đại nghĩa bồ đề.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Làm tại Thanh Minh Thiền Viện,
Saigon, ngày 8.2.2010
Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


Monday, February 8, 2010

QUÂN PHỤC của QLVNCH bị đảng VỊT TIỀM thay đổi kiểu mẩu



Bộ Quân Phục QLVNCH từ Quân Phục Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Không Quân, Hải Quân, và các Sư Đoàn Bộ Binh quá đẹp và khi người lính khoác Quân Phục vào người cảm thấy rất là hãnh diện và oai hùng trong bộ Quân Phục của QLVNCH, vậy vì lý do gì đảng Việt Tân lại muốn thay đổi Quân Phục của QLVNCH

Cái gọi là “Hội HO Seattle” Tiểu bang Washington từ lâu đã được nhận diện là công cụ của băng đảng Mafia Việt Tân. Mà đảng Mafia Việt Tân cũng đã được nhận diện là “bàn tay nối dài” của Việt gian CS Hànội. Ngoài nhiệm vụ xâm nhập và đánh phá các cá nhân và tổ chức của người Việt Quốc Gia, bọn Mafia Việt Tân còn tìm cách xoá bỏ tất cả những hình ảnh, biểu tượng gì còn dính dáng tới VNCH, cũng như hướng dẫn dư luận đánh lạc mục tiêu …

Ví dụ: Không dùng chữ Ngày Quốc Hận 30-4 mà gọi là Ngày Quốc Kháng hoặc Ngày Tự Do; cố tình tổ chức Lễ Quốc Hận vào ngày 03-05 là ngày CS Hànội ăn mừng chiến thắng Sàigòn; và còn bày ra chiếc quan tài có phủ lá quốc kỳ VNCH với ngụ ý chôn vĩnh viễn VNCH; Và, thay vì hô hào lật đổ chế độ CS hoặc dẹp bỏ lăng tên Hồ tặc; chúng kêu gọi đòi bọn VC hãy trả lại tên Sàigòn ! Bởi vậy, nay chúng ta không ngạc nhiên khi thấy bọn Mafia Việt Tân lại tung ra “bộ đồng phục” QLVNCH cho các “hậu duệ HO” do chúng sáng tạo, hoặc mặc bộ quân phục của Lính Nhà Đòn rước cờ nhằm xoá bỏ hình ảnh các bộ quân phục truyền thống của QLVNCH là chuyện đương nhiên. GÓP GIÓ.

Trong buổi tiệc tất niên của hội HO Seattle/WA tại nhà hàng Jumbo/Seattle vào ngày 30 tháng 01 năm 2010 vừa qua, Chương trình của buổi tiệc có một tiết mục làm nổi bật đó là Hội HO Seattle giới thiệu đến khách dự bộ đồng phục HO.

Trước ngày tổ chức, có một vài người hỏi chúng tôi về bộ đồng phục mà HO Seattle sắp trình làng vào dịp tất niên, họ hỏi chúng tôi vì đó là những đọc giả của trang web Bia Miệng, họ hỏi cũng bởi lẽ trong nhóm chúng tôi đa số là HO, những người hỏi chúng tôi họ cũng là HO nhưng không sinh hoạt trong hội HO (qua Mỹ theo diện HO). Khi mới nghe chúng tôi hơi ngạc nhiên “đồng phục HO, lạ thật chưa bao giờ nghe nói….”. Chúng tôi hỏi lại đọc giả “anh có biết bộ đồng phục đó như thế nào không? Màu gì? Và họ có nói đến ý nghĩa của bộ đồng phục không?” đọc giả trả lời “Không biết nên mới hỏi các anh thử vì các anh có sinh hoạt trong cộng đồng …”. Chúng tôi nói “Thôi màu gì thì kệ đến ngày đó là biết, anh suy nghĩ gì khi HO có một bộ đồng phục?” “Tại sao lại phải có bộ đồng phục HO, để làm gì ? Hàm chứa gì?…” “Chúng tôi đoán cũng chẳng ra, nhưng chắc là họ có cách giải thích đến với anh em HO nói riêng và đồng hương nói chung, “chờ xem”.

Chuyện cũng đã đến, trong buổi Lễ tất niên, Hội HO Seattle đã giới thiệu đến mọi người bộ đồng phục HO màu rằn ri, trước ngực và cầu vai đều có dấu hiệu, một bên ngực là “HO Seattle” bên ngực khác ”tên tuổi”, vai bên phải là lá cờ VNCH, bên trái quân, cán,chính ”đầu thì chiếc nón “bê-rê” màu cam. Bộ đồng phục là vậy, các cháu nhỏ lẫn những HO mặc đồng phục lên trình diễn ở sân khấu trông rất oai vệ, trước mắt thực khách là một quang cảnh rất lạ mắt, lạ mắt vì một bộ đồng phục ? Quân phục? lòe loẹt hơn các binh chủng của VNCH, lạ mắt nhất là chiếc bê-rê màu cam rực rỡ … Nhưng thôi, chuyện đó thuộc thẩm mỹ, cách trang sức nổi bật là do tài của các nhà design của HO, chúng ta không bàn tới. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói đến là ý nghĩa của bộ đồng phục (quân phục?).

Quân lực VNCH có nhiều binh chủng, mỗi binh chủng đều có sắc áo riêng cho binh chủng mình, sự khác biệt đó làm cho binh chủng của mình có niềm tự hào, niềm tự hào ”màu cờ sắc áo”. Ngay cả những quân trường lớn đào tạo ra cấp chỉ huy cũng có những bộ đồng phục riêng của họ, ví dụ như trường bộ binh Thủ Đức, Đà Lạt, Hải quân, Không quân v.v... Màu quân phục người lính mang trên người của họ đó không biết bao xương máu của đồng đội ngã xuống để tô điểm cho sự kiêu hùng của binh chủng mình, bộ quân phục là những gì thân thương trong suốt quãng đời binh nghiệp của người lính. Người lính nhảy dù kiêu hãnh với chiếc nón đỏ, với bộ đồ rằn ri màu huyết, người cán bộ xây dựng nông thôn họ cũng tự hào về bộ đồ đen của họ. Dù là lớn hay nhỏ, quân sự hay bán quân sự bộ đồng phục trên người là một sự gắn bó thân thương cùng kiêu hãnh, tự hào. Máu xương đã tô điểm cho sự oai hùng của bộ quần áo trên người lính. Bộ Quốc Phòng hay Tổng Tham mưu mới có thẩm quyền quyết định về những sắc áo của một binh chủng, bộ quân phục của mỗi binh chủng không phải tự ý, tùy hứng của một đơn vị nào đó lập ra.

Các ông trong ban chấp hành H.O Seattle nghĩ gì? Muốn gì?… Khi dựng ra bộ “đồng phục H.O”? Một bộ đồng phục của quân đội (quần, áo, giày) như vậy có ý nghĩa gì? Các ông muốn xóa bỏ những bộ quân phục của QLVNCH? Những bộ đồ Nhảy dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt động Quân, Bộ Binh, Lực Lượng Đặc Biệt, Quân Trường Thủ Đức, Quân Trường Đà Lạt, Hải Quân, Không Quân. Các ông muốn quên, muốn xóa bỏ? Mỗi hội đoàn, cơ quan, đoàn thể hay công ty đều có quyền chọn cho đơn vị mình một bộ đồng phục, không ai cấm cản, nhưng bộ đồng phục đó là bộ đồ của dân sự, thật là quái đản khi một tổ chức dân sự nào đó chọn bộ đồ đồng phục cho tổ chức mình là bộ đồ nhà binh.. Phải chăng đây là một việc làm có chủ đích? Chúng tôi muốn bàn sơ qua về việc “Cố tình” hay “Vô tình”.

Ở hải ngoại có hai sự kiện cố tình thay đổi đã bị người Việt tỵ nạn phản đối mạnh mẽ:

1. Đảng Việt Tân xóa bỏ ngày Quốc hận 30/4/75 thay thế vào đó là Ngày tự Do, nhưng thất bại vì có sự phản đối của hầu hết người Việt tỵ nạn Công Sản.

2. Đảng Việt Tân muốn lấy ngày giổ Tổ Hùng Vương làm ngày Quốc khánh (bỏ đi ngày Quốc khánh của VNCH trước đây). Chuyện này VT cũng đã thất bại vì có nhiều phản đối.

Điểm thứ nhất mà VT muốn thay đổi là làm mất đi ý nghĩa chính của ngày 30/4/75, vì ngày đó là một ngày quá đau thương của đất nước do VC gây nên.

Điểm thứ hai VT muốn thay đổi với mục đích xóa dấu vết của VNCH.

Chúng ta cũng thấy bọn VC cố gắng xóa những gì của VNCH còn sót lại, ngay cả những di tích của người tỵ nạn ở các trại tỵ nạn.

Có hai trường hợp để lý giải về “BỘ ĐỒNG PHỤC H.O”

a. Đàng sau lưng của hội H.O Seattle có một tổ chức bất chính, tổ chức này xúi dục hội H.O Seattle thực hiện bộ đồ đồng phục với mục đích xóa bỏ những bộ đồ quân phục của quân lực VNCH. Những người H.O là những người thuộc Quân, Cán, Chính của VNCH đã bị tù từ 3 năm trở lên qua định cư tại Mỹ, khi H.O có bộ đồ đồng phục nhà binh mới thì những người H.O đó không còn bận màu áo ngày xưa của họ nữa khi có Lễ lộc (xin đừng nguỵ biện là chúng tôi tạo ra là “để lưu danh hậu thế” chứ không xử dụng). Không khác gì hai trường hợp mà VT đã làm nêu ở trên.

b. Có thể đây cũng là do những người trong ban chấp hành hội H.O Seattle nghĩ ra, nghĩ ra một chuyện gì đó để ”lưu danh đời sau”, xuất phát từ mặc cảm tự ty, không có khả năng hướng dẫn hội trong sinh hoạt, những người này thường thường suy nghĩ mông lung, muốn thực hiện những chuyện không tưởng hoặc là đẻ ra những sự kiện “khác người”. Họ cho sáng kiến của họ là chưa ai nghĩ tới hay thực hiện,”cao kiến” này thường có ở những người có đầu óc không lành mạnh, không có tri thức.

Nhắc lại quá khứ một chút, những người trong ban chấp hành H.O do ông Văn A Sáng là chủ tịch, ban chấp hành này cũng như ông Sáng nhiều năm về trước cũng đã “lãnh đạo” H.O nhưng không làm được gì cả, sinh hoạt tê liệt, chỉ có tên mà thôi. Bây giờ hội H.O Seattle do Văn A Sáng cầm đầu với sự cộng tác của nhóm cà-phê gồm các ông: Nguyễn Văn Lực, Trần Tươi … trong một vài năm vừa qua đã có những hoạt động đáng kể, coi như là “quá được việc”. Như tham dự diễn hành văn hóa bên xe hoa có tấm quảng cáo chợ Viet-Wah, có sự cộng tác của ông NXD, năm vừa rồi cũng vậy tổ chức diễn hành đó do Denny Diep Dang chủ xị, ông này là cựu giám đốc tổ chức Peace Tree (tổ chức này đón đại sứ VC Lê Công Phụng). Sinh hoạt nổi bật nhất của H.O là tất niên vừa qua, chúng ta nhận thấy đủ bá quan văn võ của những thành phần bất chính, những thành phần miệng thì hô ”tẩy chay VC” nhưng tay thì bắt với những thành phần liên hệ trực tiếp với VC, điển hình như ông NXD lúc nào cũng vỗ ngực xưng tên ”ta đây chống VC” nhưng lại ngồi chểm chệ trong nhà hàng Tea Palace với Huỳnh Thi, Q Nguyễn (hai nhân vật này về VN họp với VC). Hội H.O của Văn A Sáng có đông khách tham dự, chơi nổi là nhờ những thành phần bất chính nêu trên, Văn A Sáng hay ông ông già Lực đầu bạc, Trần Tươi … chẳng làm được gì cả, được sự giúp đỡ thì phải theo, được bơm thì khoái như vậy mới thỏa mãn được cái tính ”tự ty mặc cảm”. Bộ đồ đồng phục H.O phát sinh từ đó. Chắc chắn rằng ông Sáng, ông Thận không hiểu gì về sự nguy hiểm khi các ông ấy nghĩ cũng như thực hiện “làm cái gì đó để lưu danh hậu thế”.

Nếu giả dụ mộng ước các ông thành sự thật, con cháu các ông sau này chỉ nhớ đến bộ đồ các ông mà quên đi bộ đồ mà cha ông nó đã hy sinh xương máu thì chắc các ông hãnh diện lắm nhỉ? Là anh em HO với nhau, đã từng cộng tác với nhau tôi không muốn nâng quan điểm, nhưng quả thật việc làm của các ông ngu xuẩn và nguy hiểm vô cùng. Một điều nếu mọi người HO trên nước Mỹ tùy theo sáng kiến của mình tạo nên một bộ đồ đồng phục riêng thì tập thể HO chắc là nhộn nhịp màu sắc lắm hai ông nhỉ?

Muốn lưu danh hậu thế rất dễ ông Sáng ạ!, chỉ cần ông giữ vững lập trường Quốc Gia chống cộng, theo đuôi những tên ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, lưng chừng bán rẻ lương tâm là được rồi, con cháu ông và hậu thế sẽ vô cùng hãnh diện về các ông, cần gì một bộ đồ. Thái Nhật Lỉnh là tên ăn trộm, các ông đã đọc 6 trang report về TNL chưa ? Một người bị còng tay đưa vào tù về tội hình sự xứng đáng để các ông tung hô không? TNL là đàn em của Quang Nguyễn, Huỳnh Thi. Trần Trung Dũng là do TNL đẻ ra thế mà các ông hãnh diện dâng diễn đàn cho Trần T Dũng đọc diễn văn thì quần chúng nghĩ gì về tập thể HO, đồng thời lưu manh dàn dựng để xỉ nhục ông Nguyễn Minh Đường là người các ông biết quá rõ.

Người lính quân lực VNCH không được tạo ra bộ đồ đồng phục mang sắc thái quân đội nào khác ngoài những bộ đồ của các binh chủng, lực lượng thuộc VNCH trước đây. Vì những bộ đồng phục ấy là do chính phủ VNCH chỉ thị cho bộ Quốc Phòng & Tổng Tham Mưu, không thể nguỵ biện là “bây giờ đâu có chính phủ hay bộ tổng tham mưu nữa”… Ai có quyền cấm ai ... hợp pháp mà, nếu sai thì đi kiện đi ….”. Một điều mà mọi người đều công nhận là “Tinh thần của người lính VNCH chưa chết” . TỔ QUỐC- DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM mà người quân nhân mang trên đầu, trên vai, trên ngực cấm người quân nhân không được phép tạo ra một bộ đồng phục (từ đầu đến chân là quân phục). Trong tình trạng hiện tại người quân nhân QLVNCH (nói riêng) bắt buộc phải giữ gìn những gì mà ngày trước mình có, không ai có quyền xóa bỏ, lập nên cái mới. Sửa cái cũ thành cái mới không phải là hay, là giỏi (tuỳ thuộc vào mỗi vấn đề). Thật là buồn cười khi chúng ta nghe kể về sự ngu dốt của nhà cầm quyền VC, khi họ tu bổ lại lăng tẩm, di tích lịch sử, thay vì họ tu bổ thế nào để vẫn còn giữ nguyên những nét cổ xưa của di tích thì họ lại làm mới hoàn toàn (làm mất đi gía trị di tích lịch sử).

Các ông trong ban chấp hành hội H.O Seattle “sáng kiến” bộ đồ đồng phục HO để tự hào như các ông nói chăng? Bộ quân phục mà các ông đã bận trong suốt thời gian chinh chiến để gìn giữ sự Tự Do, bộ quân phục đã dính vào những người bạn, đồng đội đến hơi thở cuối cùng không đủ để các ông tự hào hay sao, mà các ông phải lập nên cái mới? Những bộ quân phục ngày trước nhiều người có quá phải không?. Các ông phải làm cho lạ, cho nổi bật, làm những gì mà không ai dám làm phải không? Bộ đồng phục H.O Seattle ra đời làm rạng danh ông chủ tịch Văn A Sáng, P.văn Thân, Nguyễn Văn Lực, Trần Tươi. Đầu óc hẹp hòi của các ông không thể nào làm thay đổi gì được cả, đừng nuôi những ảo tưởng, anh em cựu quân nhân, HO không mờ lương tri hết như một số người thù tạc với các ông, họ đã thấy được tất cả cái mưu mô đen tối trong những con người ích kỷ. Các ông chỉ là những con “Rô-Bô” cho những tay chính trị xôi thịt, cho những kẻ lương tâm bị đánh mất. Xin nhìn lại những gì các ông làm, xin nhìn cho kỹ những khuôn mặt mà các ông cộng tác, các ông nép mình v..v.. Con đường các ông đang hí hửng theo, con đường đó là sự phản bội lại đồng đội (chúng tôi có bằng chứng về sự phản bội đó).

Chúng tôi xin gởi đến các ông lời nhắn của cự chỉ huy trưởng của trường bộ binh Thủ Đức, quân trường đào tạo ra các ông. Cố đại tá Trần Đức Minh (chỉ huy trưởng cuối cùng trường bộ binh Thủ Đức). Khi còn sống ông gọi các vị làm hội trưởng Thủ Đức lên căn dặn ”Các anh làm gì thì làm, nhưng đừng đi theo VT bán đứng Hội, nếu như vậy thì nằm nhà còn hơn …”. Câu nói này trước khi chết ông cũng gọi ông Nguyễn Đình Lãng lên trăn trối.

Không thể chấp nhận những sáng kiến ”quái gở” của hội H.O Seattle, một sáng kiến đã thực hiện có tính chất phỉ báng cùng chối bỏ những bộ quân phục thuộc chính phủ VNCH. Chúng tôi kêu gọi các anh em cựu quân nhân, các anh em thuộc các lực lượng bán quân sự, các anh em H.O hãy tẩy chay bộ đồng phục H.O Seattle /WA đã trình diễn trong dịp tất niên vừa qua (30 tháng 12 năm 2010 tại nhà hàng Jumbo). Chúng tôi cũng mong mỏi sự lên tiếng của mọi người Việt tỵ nạn nhất là các cựu quân nhân khắp nơi trên thế giới.

Chúng tôi yêu cầu ban chấp hành hội H.O Seattle do ông Văn A Sáng làm chủ tịch huỷ bỏ bộ đồng phục mà các ông đã cho ra đời vừa qua.

Chúng tôi yêu cầu hội H.O Seattle làm sáng tỏ sự việc này bằng cách mở một buổi hội thảo trong cộng đồng mời các anh em cựu quân nhân, HO … để giải thích sự việc này.

Chúng tôi kêu gọi các hội đoàn, đoàn thể, tổ chức không cho những người bận bộ đồ đồng phục H.O đến tham dự bất cứ buổi Lễ nào do hội đoàn, đoàn thể tổ chức.

Nhóm chủ trương websiste Bia Miệng
** Bài sẽ cập nhật nay mai và sẽ đính kèm thêm một vài tài liệu liên quan.
** Mọi ý kiến thắc mắc hay muốn đối thoại xin liên lạc với chúng tôi qua hai số điện thoại sau đây:
-(206)355-94044 - (206)816-2924



Hiện tượng "Trăm hoa đua nở" kiện các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS: Chúng ta phải làm gì? - Nam Dao

Nam Dao

Sau khi đọc thông báo khẩn của Cộng đồng người Việt Tự do Victoria về chiến dịch vận động đóng góp "1 Đồng Cho Công Lý" của Ủy ban Pháp lý CĐNVTD-VIC và thực hiện cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-VIC liên quan đến vấn đề này, tôi chợt nhớ lại những gì đã xảy ra cho các cộng đồng người Việt tỵ nạn khác trên thế giới.

Cách đây hơn 5 năm (2004) Cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hoà Lan vì tổ chức biểu tình phản đối văn hóa vận của CSVN nên đã bị người tổ chức đêm văn nghệ khởi tố với lý do những cuộc biểu tình đó đã gây thiệt hại tài chánh cho họ. Đồng bào tại địa phương đã tổ chức những bữa ăn gây qũy, cộng với sự hỗ trợ tinh thần lẫn vật chất của đồng bào khắp thế giới, nên Ban Chấp hành mới có tiền ra tòa để rồi chiến thắng vẻ vang về mặt pháp lý. Điều quan trọng hơn hết là Cộng đồng đã bảo vệ được chính nghĩa của người Việt tỵ nạn ở Hoà Lan để cho lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn tiếp tục bay cao trong những cuộc biểu tình tại Hoà Lan nói riêng và khắp thế giới nói chung.

Tiếp theo là chuyện Hội người Việt Tỵ nạn Cộng sản tại Hamburg và vùng phụ cận cũng bị người tổ chức văn nghệ làm đơn kiện về "Bản Tuyên cáo ngày 9/11/09 của Hội NVTNCS tại Hamburg kêu gọi tẩy chay đêm văn nghệ VN By Night 24/12/09". Phiên tòa xử ngày 24/12/09 đã bắt kẻ kiện phải bồi thường chi phí tiền tòa cho phía bị cáo buộc.

Rồi một vụ kiện khác xảy ra ở Mỹ: một nữ Phật tử dưới tuổi thành niên đã vu cáo một vị sư có những hành vi "khuấy nhiễu tình dục" trong lúc cô mở tủ lạnh trong nhà bếp tại chùa. Kẻ đâm đơn kiện đã bị thua vì những bằng chứng và hình ảnh cho thấy ở thời điểm đó những vật dụng nhà bếp và tủ lạnh đã được ... gỡ sạch để tân trang nhà bếp! Nếu như bếp nhà chùa lúc đó không đem sửa chữa thì vụ kiện hẳn sẽ kéo dài và gây biết bao tổn phí kiện tụng. Điều đáng lưu tâm là dẫu rằng toà án đã tuyên xử vị sư nọ vô tội, nhưng cách đây không lâu, tôi vẫn đọc được trên một diễn đàn lá thư email của một người vẫn còn tiếp tục bôi nhọ vị tu hành.

Điều này cho thấy những người muốn phá hoại các tổ chức cộng đồng và tôn giáo của người Việt tỵ nạn CS, có sẵn một đội ngũ tuyên truyền xuyên tạc để phát tán những lời vu khống của họ. Khi niềm tin đồng bào bị lung lay bởi những chiến dịch xuyên tạc sự thật đó thì các cộng đồng chống cộng sẽ bị suy yếu. Và nếu như không có những người bạn ở Mỹ kể rõ sự tình thì hẳn nhiên những người ở xa không có thì giờ theo dõi tình hình tất phải đặt những câu hỏi trong đầu và từ đó có thể mất niềm tin nơi những người bị cáo buộc oan ức.

Qua ba vụ kiện nêu trên, chính nghĩa của Cộng đồng các nơi vẫn thắng là nhờ vào sự trưởng thành về ý thức công bằng và tinh thần đoàn kết của đồng bào tại đó, cũng như của các hội đoàn và đồng bào ở các nơi khác quyết tâm không bỏ rơi những người đang ăn cơm nhà vác ngà voi hầu bảo vệ thành trì cộng đồng ở hải ngoại. Chính nghĩa lá cờ vàng ba sọc đỏ ở những nơi đó vẫn tiếp tục ngạo nghễ bay được là nhờ hành động cụ thể hỗ trợ tài chánh cho những người bị cáo buộc có cơ hội được giải bày trước tòa.

Trông người rồi ngẫm chuyện của cộng đồng người Việt Tỵ Nạn tại Úc châu của chúng ta. Sau việc BCH Cộng đồng người Việt Tự do Victoria kêu gọi đồng bào biểu tình phản đối cuộc triển lãm Impressive Vietnam tại Crown Casino vào tháng 2/2009, mà theo CĐ đã phá vỡ ý đồ văn hoá vận của CSVN, CĐ đã khám phá ra một thành viên của CĐ đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình và đã yêu cầu đương sự ra trình bày tại một phiên họp khoáng đại của CĐ với sự hiện diện của 60 hội đoàn, đoàn thể ở Melbourne. Nhưng đương sự đã không đến mà sau đó còn kiện về tội phỉ báng ông Nguyễn Thế Phong là đương kim Chủ tịch CĐNTVTD Liên bang Úc châu, cựu chủ tịch CĐNVTD-VIC và cũng là người đã đứng mũi chịu sào tổ chức những cuộc biểu tình chống cộng suốt mấy năm qua. Không ai quên được vai trò của CĐNVTD Úc châu trong chiến thắng cờ vàng thật vẻ vang nhân dịp Đại hội Giới trẻ Công giáo Thế giới năm 2008. Không ai phủ nhận được tầm quan trọng của biến cố ấy giữa khi CSVN liên tiếp tung ra những cuộc đàn áp tôn giáo mà tất cả chúng ta đều biết đến.

Kể từ khi ông Nguyễn Thế Phong bị kiện, những truyền đơn hay những poster với nội dung nói xấu ông bỗng nhiên được phát tán hoặc dán ở những khu phố chợ Việt tại Melbourne, đồng thời những lời rỉ tai tiêu cực cũng ngày càng lan ra. Thậm chí bây giờ có một vài người nói với tôi: "Tôi không góp tiền cho quỹ Công lý vì có người nói xấu về ông Phong". Tại sao chúng ta lại nhẹ dạ nghe theo những lời đồn đại đó mà không tin tưởng vào sự công minh của nền luật pháp nước Úc? Ở một xã hội tiến bộ, chúng ta đều hiểu rõ nguyên tắc "một người được xem là vô tội cho tới khi người đó bị xử là có tội" (innocent until proven guilty). Đấy là luật pháp của xã hội văn minh nơi chúng ta đang sống và là cách hành xử của một xã hội nhân bản mà tất cả chúng ta, khi bỏ nước ra đi, vẫn hằng ao ước cho đất nước mình.

Nhưng nói như thế có nghĩa chăng là chúng ta sẽ thờ ơ, khoanh tay đứng nhìn, chờ đợi xem phán quyết của toà án là gì? Cũng không thể được, bởi vì nếu không có tiền hầu toà thì coi như CĐNVTD-VIC cùng ông Chủ tịch Nguyễn Thế Phong sẽ không thể có cơ hội tự biện minh trước tòa. Phải hiểu rõ là CĐNVTD-VIC và ông Phong bị người ta cáo buộc. Nếu không có tiền ra toà thì làm sao chứng minh được là mình không có lỗi? Không có gì oan ức cho bằng một tổ chức hay một cá nhân bị coi như là phạm lỗi chỉ vì mình không đủ phương tiện để tự bênh vực.

Và đó là lý do tại sao quỹ mà CĐNVTD-VIC lập ra mới lấy tên là "1 Đồng Cho Công Lý". Thưa phải, CÔNG LÝ. Công lý cho người bị cáo buộc. Nếu chúng ta căm phẫn khi nhìn thấy Linh mục Nguyễn Văn Lý bị công an CSVN bịt miệng trước toà án Cộng sản, thì chúng ta cũng không thể cầm lòng để cho một tổ chức cộng đồng chính danh của người Việt tỵ nạn chúng ta, cùng một người đã hết lòng phục vụ cho cộng đồng của chúng ta, bị bịt miệng bởi vì thiếu sự hỗ trợ của chúng ta. Sự đóng góp của chúng ta cho chiến dịch "1 Đồng Cho Công Lý" quan trọng là vì vậy.

Tôi thiển nghĩ, giả sử CĐ Victoria và ông Nguyễn Thế Phong không có tiền ra hầu toà mà bị hàm oan, thì lương tâm của chúng ta sẽ bị cắn rứt đến thế nào? Và ai sẽ là kẻ ngồi cười khoái trá? Xin thưa, một vài người, trong đó chắc chắn là có Cộng sản Việt Nam. Làm sao chúng ta có thể để cho điều này xảy ra? Vì vậy mà tôi tin rằng đồng bào tại Úc đã trưởng thành và sẽ hành động không thua gì đồng bào tại Hoà Lan, Hamburg hay Mỹ.

Từ mấy năm qua, đồng bào Úc châu nói riêng và cộng đồng hải ngoại nói chung không ai mà không hãnh diện về những thành quả đấu tranh mà CĐNVTD Úc châu và Victoria đã đạt được, từ chiến thắng VTV4, những biểu tình đập gãy ý đồ văn hoá vận của Nghị quyết 36, những cuộc "dàn chào" rầm rộ khiến lãnh đạo CSVN phải chui vào cửa hậu mà lánh mặt, cho đến cuộc biểu dương thật đáng tự hào nhân Đại hội Giới trẻ Thiên Chúa giáo. Chúng ta nỡ lòng nào làm ngơ khi những người đang ăn cơm nhà vác ngà voi cho chúng ta bị gặp khó khăn?

Nhìn rộng hơn ra ngoài địa bàn Victoria, hẳn chúng ta thấy rõ cuộc chiến gay go đang diễn ra khi CSVN tung ra những số tiền to lớn nhằm phá sập cộng đồng của chúng ta tại nhiều nơi. Nếu những cộng đồng đó, vì lý do nội tại hay vì bị tấn công, gặp khốn đốn thì chắc chắn tiềm năng chống cộng của người Việt sẽ bị suy yếu. Khi một nơi bị suy yếu thì sẽ kéo theo chung những nơi khác, và do đó những chuyện xảy ra ở Victoria - hay ở bất cứ nơi đâu - không chỉ là chuyện của Victoria mà phải là chuyện của tất cả chúng ta. Đã đến lúc mỗi cá nhân người Việt tỵ nạn ở hải ngoại cần tỏ rõ thái độ quyết liệt của mình.

Với dân số trên ba triệu người Việt tỵ nạn ở hải ngoại, chỉ cần mỗi người trong chúng ta sẵn sàng bỏ ra "1 Đồng Cho Công Lý" để bảo vệ thành trì cộng đồng ở khắp nơi thì không một thế lực thù địch nào có thể thắng được chúng ta.

Trong cơn hoạn nạn, hãy thương yêu mà đùm bọc lẫn nhau. Nếu chúng ta không làm chuyện này thì không ai khác sẽ làm được cho chúng ta.

Nam Dao
===


Trích cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-VIC về cuộc Vận động gây Quỹ pháp lý tại Victoria, do Nam Dao thực hiện

Về những sự kiện pháp lý chung quanh vụ kiện

Ông Nguyễn Văn Bon: Kính thưa Chị, vì lý do pháp lý, rất tiếc chúng tôi không thể có ý kiến hay đi vào chi tiết của những vụ kiện vào thời điểm này ngoài việc sơ lược là:

1. Một cá nhân trong cộng đồng đã đệ đơn kiện ông Nguyễn Thế Phong, Cựu chủ tịch CĐNVTD-VIC (nhiệm kỳ 2007-09) tại tòa Trung thẩm Victoria (County Court) với lời cáo buộc rằng ông Chủ tịch CĐNVTD-VIC đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng. Phiên tòa sẽ được xử vào tháng 3 năm 2010, thể theo luật sư cho biết phí tổn của tòa án có thể lên đến hơn $6,600 một ngày và có thể kéo dài đến 7 hoặc 10 ngày.

2. Một số cá nhân khác và cá nhân đang kiện ông Nguyễn Thế Phong tại tòa Trung thẩm cũng đệ đơn tại tòa Sơ thẩm Victoria (Magistrate Court) cáo buộc rằng Ban chấp hành CĐNVTD-VIC do ông Nguyễn Thế Phong làm chủ tịch đã tham lũng công quỹ của cộng đồng. Nội vụ đang được phân xử tại tòa Sơ thẩm với một phiên tòa vào trung tuần tháng 2 năm 2010.

Đứng trước sự việc nêu trên, Cộng Đồng chúng ta buộc phải hầu tòa và chống lại những cáo buộc mà nguyên đơn đã đưa ra. Ban chấp hành chúng tôi và Ủy ban Pháp lý vì thế đã ra thông báo thiết tha kêu gọi sự đóng góp và hỗ trợ của đồng bào tại Victoria hầu trang trải cho những luật phí to lớn này.

Chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng: Ông Nguyễn Thế Phong và Ban chấp hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội quy CĐNVTD-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của ông.

Về bối cảnh đưa đến việc ông cựu Chủ tịch Cộng đồng Victoria bị thưa tòa Trung thẩm

Ô. Bon: Thưa chị, ông Nguyễn Thế Phong, đầu năm 2009, với tư cách là Chủ tịch Ccộng đồng đã triệu tập một phiên họp đặc biệt của Cộng đồng để tường trình và yêu cầu một cá nhân có liên hệ ra tại phiên họp này để trình bày và giải đáp những thắc mắc của các hội đoàn đoàn thể và đồng bào tại Victoria về một bằng chứng cho thấy cá nhân này đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình chống CSVN của CĐNVTD-VIC. Cá nhân này đã không đến dự nhưng sau đó cáo buộc rằng ông Chủ tịch CDNVTD-VIC đã mạ lỵ và vu khống ông ta là cộng sản, là tay sai của CSVN và đánh phá cộng đồng chống Cộng. Nội vụ đã trải qua giai đoạn hòa giải nhưng không đi đến kết quả và cho đến ngày hôm nay nguyên đơn vẫn tiếp tục khởi tố và ông Nguyễn Thế Phong, hành xử trong cương vị chủ tịch của CĐNVTD-VIC, sẽ phải ra tòa Trung thẩm vào tháng 3 năm 2010 tới đây, thưa chị.

Về phiên tòa Sơ Thẩm

Ô. Bon: Cá nhân kiện ông Nguyễn Thế Phong tại tòa Trung thẩm và hai cá nhân khác cũng đồng thời nộp đơn theo hình thức dân sự (civil matter) tại tòa Sơ thẩm Victoria cáo buộc Ban chấp hành Cộng đồng người Việt Tự do đã tham lũng công quỹ và xử dụng tiền cộng đồng trái phép. Ban chấp hành chúng tôi và Cộng đồng đã chính thức ủy nhiệm cho ông Nguyễn Thế Phong đại diện cho Cộng đồng trong vụ này, vì ông là người lãnh đạo BCH-CĐ trong những khoản thời gian mà nguyên cáo cáo buộc. Nội vụ hiện còn đang tiến hành tại tòa Sơ thẩm Victoria thưa chị và Ban Chấp Hành chúng tôi đã và đang hợp tác một cách tích cực và trung thực với những gì Tòa án đòi hỏi, hầu làm sáng tỏ những lời cáo buộc của nguyên đơn.

Về cách đóng góp cho Cộng đồng trong việc này

Ô. Bon: Các hội đoàn đoàn thể và đồng hương tại Victoria muốn đóng góp vào Quỹ "$1 Cho Công Lý" này của CĐVTD-VIC có thể đóng góp qua văn phòng cộng đồng tại 214 Nicholson St, Footscray 3011 hoặc gởi trực tiếp vào trương mục của Quỹ Pháp lý Cộng đồng với chi tiết như sau:

Ngân hàng: Commonwealth Bank of Australia
Tên trương mục: VCA-VIC Uy Ban Phap Ly
Số trương mục: (063020 BSB) 10395572


Guiness World Record: Sword Swallower



Internationally renowned street performer The Space Cowboy, Chayne Hultgren,
successfully swallows 18 swords during a Guinness World Record attempt in Martin Place, Sydney,
Monday, Feb. 8, 2010. The swords' blades measured 72 centimetres long


Sunday, February 7, 2010

Mr "Cow" muốn tăng ngân sách “Quỹ Giáo Dục VN”

Westminster, California – Trong một cuộc họp báo được coi là không chính thức với một số cơ quan truyền thông Việt ngữ của Little Saigon, tổ chức tại trụ sở nhật báo Người Việt hôm Chủ Nhật, 17 tháng 1, vừa qua, DBLB Joseph Cao (Cộng Hòa-Louisiana) cho biết ông muốn tăng gấp đôi ngân sách cho Quỹ Giáo Dục Việt Nam (Vietnam Education Fund-VEF) trong thời gian tới để có thể đưa thêm sinh viên Việt Nam sang học tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông và hai đồng viện sẽ mời Tổng Thống Barack Obama tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), tổ chức tại Hà Nội, vào tháng 10 tới đây.

Đây là lần thứ nhì vị DBLB gốc Việt đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ tổ chức họp báo sau khi đi thăm Việt Nam, Cambodia, Lào và Nhật, từ ngày 3 đến 12 tháng 1.

Hôm Thứ Tư tuần trước, ông Joseph Cao có tổ chức một cuộc trả lời phỏng vấn qua điện thoại, tại văn phòng ở Washington, DC, và dành cho một số cơ quan truyền thông Việt ngữ.

Trước gần một chục cơ quan truyền thông hôm Chủ Nhật, DB Joseph Cao nói: “VEF do TNS John Kerry đưa ra, hiện nay chỉ có ngân sách $6 triệu/năm, và chỉ đào tạo sinh viên Việt Nam các ngành khoa học. Tôi muốn tăng gấp đôi ngân sách này để có thể đưa thêm sinh viên sang Mỹ học các ngành khoa học xã hội, như khoa học chính trị, xã hội học …”

“Tôi có nói chuyện với đại sứ Michael Mikhalak và ông nói TNS John Kerry cũng bắt đầu dòm ngó hướng này. Vào tuần tới, tôi dự định ngồi xuống với ông Kerry để nói chuyện tăng gấp đôi ngân sách cho VEF,” DB Joseph Cao nói tiếp.

Trong cuộc họp báo trước đó, DB Joseph Cao cũng xác nhận ông đã yêu cầu đại sứ Michael Mikhalak nới lỏng luật lệ để sinh viên Việt Nam dễ dàng có chiếu khán vào Mỹ.

Ông nói thêm: “Tôi nghĩ người dân phải có đủ kiến thức mới thay đổi đất nước. Ai cũng yêu dân, yêu nước. Và điều này không có nghĩa là ủng hộ Cộng Sản.”

“Yêu dân, yêu nước là một chuyện. Thay đổi chế độ Cộng Sản là một chuyện khác,” DB Joseph Cao nhấn mạnh.

Và ông giải thích thêm: “Khi nói ‘hợp tác’ không có nghĩa là bạn của họ (chế độ Việt Nam hiện nay). Đây chỉ là đưa lại thay đổi. Yêu dân, yêu nước là trách nhiệm.”

Về tình hình an ninh, DB Joseph Cao cho biết ông và hai đồng viện trong phái đoàn đi Việt Nam, DB Mike Honda (Dân Chủ-California) và ĐB Eni Faleomavaega (Dân Chủ-American Samoa), sẽ mời Tổng Thống Hoa Kỳ tham dự cuộc họp của ASEAN.

“Trung Quốc đang gia tăng sức mạnh quân sự tại Biển Đông. Ba chúng tôi sẽ mời Tổng Thống Obama tham dự thượng đỉnh ASEAN để có thể kềm hãm Trung Quốc. Chúng tôi trong Quốc Hội phải lên tiếng về vấn đề này để mang lại sự ổn định trong vùng,” DB Joseph Cao tuyên bố.

Trước đó, ông Joseph Cao cũng cho biết sơ qua về chuyến đi Việt Nam của ông. Trước chuyến đi, ông đã yêu cầu (1) được tiếp xúc với các thành phần bất đồng chính kiến đang bị đàn áp và (2) lên tiếng trực tiếp với chính quyền Việt Nam về những vấn đề quan tâm chung của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong đó có bản thân ông.

Ông cho biết, trước chuyến đi, văn phòng của ông đã gởi cho tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội danh sách những nhà bất đồng chính kiến mà ông muốn gặp, nhưng ông thất vọng khi phái đoàn Quốc Hội Mỹ lại thỏa thuận với Việt Nam là không gặp ai cả, ngoài những thành phần mà chính quyền Việt Nam chỉ định và sắp xếp. Đó là điều kiện để đoàn được đến Việt Nam.

“Sau khi hội ý với một số nhân sự đáng tin cậy, tôi quyết định vẫn tham gia phái đoàn vì vẫn có cơ hội thực hiện mục đích thứ hai,” DB Joseph Cao nói.

Ông Joseph Cao cho biết thêm, tại mỗi buổi họp, ông đều nêu lên các vấn đề trả tự do cho tù nhân lương tâm, ngưng ngay đàn áp tôn giáo, tôn trọng tài sản giáo hội, cải tổ luật pháp để có sự minh bạch trong kinh tế và tôn trọng tác quyền.

Về vấn đề giáo dục, DB Joseph Cao cho biết có nói chuyện với đại sứ Michael Mikhalak và được biết Việt Nam muốn Mỹ mang hệ thống giáo dục đại học vào. Hiện nay, hai đại học Harvard và Loyola đã mở chi nhánh tại Việt Nam.

“Tôi phân vân trường hợp đại học Loyola của Dòng Tên, là nơi tôi từng học và dạy. Tôi sẽ nói chuyện với đại học này vì tôi quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội. Nếu giáo dục không được sử dụng đúng sẽ rất nguy hại, giống như trường hợp Pol Pot của Cambodia, đi học ở Pháp về, nhưng lại làm hại dân, dù tôi đồng ý đưa giáo dục Mỹ vào Việt Nam,” DB Joseph Cao giải thích.

Cuộc tiếp xúc báo giới chỉ diễn ra đúng 45 phút, do nhà báo Đinh Quang Anh Thái, phụ tá chủ nhiệm nhật báo Người Việt, điều hợp, và mỗi cơ quan truyền thông chỉ được hỏi hai câu hỏi. Ngoài DB Joseph Cao, cuộc tiếp xúc còn có sự hiện diện của DBLB Ed Royce. (Đ.D.)

Source: VietHerald


Boxing kangaroo here to stay



'Boxing Kangaroo' banner is draped from a verandah at the
Australian athletes accomodation in the
Athletes Village on February 5, 2010 in Vancouver, Canada.

Lisa Millar in Vancouver and staff,
ABC February 8, 2010, 1:35 pm


boxing_kangaroo
Aussie athletes will be able to fly the boxing kangaroo flag proud after the International Olympic Committee removed a ban on it
The giant boxing kangaroo flag will continue to fly in the athletes' village in Vancouver after Australian Olympic bosses reached an agreement with the International Olympic Committee (IOC).

The flag hangs over two storeys of the apartment block where the Australians are staying.

The IOC wanted it removed but Australian Olympic Committee (AOC) president John Coates says he has reached a compromise and it can now stay in place for the duration of the Winter Olympic Games.

"But we will need to register the boxing kangaroo with the IOC as the third identification we have," he said.

While it is already an Australian Olympic trademark, the boxing kangaroo will now be registered with the IOC along with Australia's national flag and the coat of arms.

The IOC initially asked the Australian team to take down the banner because it was deemed too commercial.

Calls to ban the boxing kangaroo flag was branded as scandalous, ridiculous and infantile.

Flag's history

The boxing kangaroo became Australia's sporting symbol in 1983 when it was used in the successful America's Cup.

John Longley was part of the crew.

"It was an image that we created, to be a symbol for what we stood for, which was the red gloves," he said.

"It used to have a red eye and the puffed up chest and so forth. It was aggressive - we're taking the world on."

The AOC has since bought the trademark and now the boxing kangaroo is seen among crowds at Olympic and Commonwealth Games and other major sporting events.

Source: http://au.sports.yahoo.com/news/article/-/6775353/boxing-kangaroo-stay