Saturday, December 12, 2009

Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa 1972


Tội Ác
của tập đoàn việt gian buôn dân bán nước đảng csVN

Hình Ảnh Đại Lộ Kinh Hoàng
Quảng Trị 1972

















Ngày 24/7/1972 Nhảy Dù vào giải tỏa thị trấn Quảng Trị








Miếu tưởng niệm vong hồn những nạn nhân bị VC thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng được lập nên ngay sau khi thị trấn Quảng Trị được giải vây bời QLVNCH

**********

‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ trước khi được công binh của Việt Nam Cộng Hoà mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở một lố đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phía Quảng Trị̣, cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ.
(Ảnh NgyThanh, chụp ngày 1 tháng 7, 1972)
    Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
    Hốt Xác Đồng Bào Tử Nạn trên "Đại Lộ Kinh Hoàng"
Source: http://take2tango.com/~/n3ws/626b8640-f725-40a7-91e6-83803b4e40df/13-12-2009/4-bai-viet-di-giua-nhung-xac-nguoi-8844.aspx

Lời giới thiệu: Loạt bài bên dưới do ba người -- nhà văn Giao Chỉ, ký giả và phóng viên nhiếp ảnh NgyThanh, và cá nhân tôi, Trùng Dương -- viết từ ba góc nhìn về ba thời điểm khác nhau, song cùng một chủ đề:

“Đại Lộ Kinh Hoàng”, nơi gần 2.000 con người chạy loạn đã bị Cộng quân pháo kích chết thê thảm, không bút nào tả siết được, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi Cộng quân từ phiá bắc tràn qua sông Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị, trắng trợn vi phạm Hiệp Định Ngừng Chiến Genève 1954.

Nhân chứng sống, cựu Trung sĩ Phan Văn Châu, người đã sống và chứng kiến tận mắt cảnh đồng bào bị pháo kích Cộng sản tàn sát trên cái mà phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần, NgyThanh, đã đặt tên là "Đại Lộ Kinh Hoàng" sau khi anh và đồng nghiệp Đoàn Kế Tường là hai người đầu tiên đật chân lên đọan đường này hai tháng sau cuộc tàn sát, và Chương trình hốt xác đồng bào tử nạn trên ĐLKH do nhật báo Sóng Thần phát động-- (Trùng Dương).
---------------
    Nhân chứng qua đêm
(Giao Chỉ)

Khi đi tìm nhân chứng của một chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên Quốc Lộ số 1.

Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan Nhật Nam đã viết “Mùa hè đỏ lửa”. Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền vào tên tuổi Phan Nhật Nam.

Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy” của đại tá pháo binh “quân đội nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành “Ðại Lộ Kinh Hoàng”.

Chúng tôi vẫn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 1972. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.

Anh phóng viên của bộ thông tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên Washington, D.C. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên Quốc Lộ 1 qua lối này. Năm 2005 tôi có nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên “Ðại lộ Kinh Hoàng” thật hay. Câu chuyện dừng tại đó.

Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê Huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của Trung tá Vũ là họa sĩ Hương, Alaska, có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn. Nhưng ông Vũ nay không còn nữa.

Ðại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 1972 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu. Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại một đêm giữa các xác chết.” Sau cùng nhờ ông Hà Mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu, năm nay 68 tuổi, quả thực là một người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 1972 và trận 1975.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh: nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.

Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng một đứa cháu, dẫn vợ có bầu với ba đứa con nhỏ, năm một, 6, 7, và 8 tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước một đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo một chiếc xe gỗ hai bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy, chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng một ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được một lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.

Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ.

Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại một cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị.

Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ mang bầu đã dẫn ba đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt một ngày một đêm về đến Mỹ Chánh, rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm ba ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và đã có gia đình, hiện cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 1972 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. “Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu,” ông Châu nói. “Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút.” Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên s áu con. Bà thứ hai ba con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả ba cháu sang đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có một cháu, năm nay cháu 24 tuổi rồi. Bà sau này có một con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không? “Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời,” ông Châu nói, “Cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ bấy giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác? Rồi chôn ở đâu? Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.”

“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động,” ông Châu nói. “Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Ðứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.”

“Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “Quê ở Nhan Biều, bờ bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại Quân đoàn I . Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA. Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau ba vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác, đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có một ngày một đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”

Ðó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng.

“Ông có biết ai đặt tên Ðại Lộ Kinh Hoàng.” “ Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”

Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra ai là người đặt tên …
(Giao Chi)
----------------------------
    "Đại Lộ Kinh Hoàng"
(NgyThanh)

Năm ấy tôi 23 tuổi, mặc đồ lính mới được một năm, chịu trách nhiệm phòng nhiếp ảnh của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị, KBC 3463, đóng tại bờ biển Thanh Bình, Đà Nẵng. Với số tuổi oắt con của thời chiến sau khi vừa rời quân trường chỉ một năm, tôi còn ngu ngốc lắm, lại ham vui, và hiếu thắng, ngày nào không ra mặt trận để chiều về làm bản tin hành quân, là một hổ thẹn với tất cả đạo quân phóng viên nằm tại Huế, một thành phố lỏng lẻo vì phần lớn thường dân và vợ con lính đã chạy vào Đà Nẵng, sau kinh nghiệm “di tản chiến thuật” khỏi Quảng Trị Đông Hà.

Bấy giờ, phía Nhảy Dù vẫn giữ cánh trái giữa Quốc Lộ 1 trải dài lên phía Động Ông Đô và căn cứ Barbara, đánh cuốn chiếu ra từ sông Mỹ Chánh. Thủy Quân Lục Chiến cặp sườn QL1 bên trái giăng hàng ngang theo sông Mỹ Chánh ra tới các làng Mỹ Thủy, Gia Đẳng ở trên bờ biển, cùng nhắm hướng tây bắc.

Hôm 1-7-1972 , đám phóng viên chiến trường "ăn cơm tháng ở quán ăn trước khách sạn Hương Giang Huế" không đi tập trung như mọi ngày, mà tản mác theo các đơn vị Nhảy Dù và TQLC bố phòng hơn là theo các mũi dùi tấn công chính trên đường đánh về Quảng Trị. Cái ngày rất dễ nhớ vì vừa chẵn 2 tháng sau khi ông anh họ tôi ném trái CBU-55 xuống cầu Đông Hà để diệt sống đoàn xe tăng T-54 đang qua cầu để tấn công phía sau lưng của quân Việt Nam Cộng Hoà đang "di tản chiến thuật", bỏ ngỏ phần đất tỉnh Quảng Trị, và tái bố trí ở bờ sông Mỹ Chánh. Hôm ấy tôi đi chung với Đoàn Kế Tường, cả hai chúng tôi là phóng viên chiến trường của báo Sóng Thần. Bên cạnh tình bạn, Đoàn Kế Tường là người Quảng Trị, anh cũng là quân nhân của một đơn vị pháo binh Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nên rành rẻ đường đi nước bước trong thành phố, nếu chúng tôi có may mắn lọt vào được thành phố tái chiếm trong tư cách là phóng viên đầu tiên -- nhưng chuyện ấy sau mới xẩy ra trên đường Lê Huấn.

Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng và không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến: những mũi dùi tấn công của Nhảy Dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên quá sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có hai cầu. Cầu xe hơi trên QL1 bị phá sập, hoàn toàn không qua được. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gảy gục đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V, khu đất đầu cầu do quân VNCH trấn giữ trước đó đã được cài nhiều mìn chống chiến xa.

Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẩn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gẫy qua bên bờ bắc, len lách giữa đám mìn chống chiến xa, để quay trở lại QL1.

Trước mắt chúng tôi, ngay trên bề mặt QL1, là xác xe chiếc ngược chiếc ngang, phần lớn giở mui không biết vì lý do gì. Trong nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông, chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở và thấy xác thương binh chết nằm chết ngồi trong đó, mùi tử khí đã dịu thành mùi thối, thay vì mùi tanh nồng của xác người như khi mới chết ít hơn hai tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát hai bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía đông là khu vực có thể có người tiếp cứu mình, trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát nầy chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân và xác thường dân, cảnh sát. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bị bắn chết khi đaang chạy tới để thoát hiểm và bị bắn từ sau lưng.

Vì không có xe cộ lưu thông, hai chúng tôi luẩn quẩn dọc đoạn đường xác người nầy trong vòng khoảng non cây số. Chúng tôi đã chụp (bằng phim) rất nhiều ảnh của đoạn quốc lộ nầy, khi công binh VNCH chưa bắc cầu dã chiến qua sông Bến Đá, nên hình chúng tôi chụp còn nguyên vẹn bãi chiến trường. Tấm ảnh duy nhất còn lại hiện được lưu giữ tại http://www.pbase.com/ngythanh/image/78971287

Vào xế trưa, công binh bắc xong cầu, và mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở một lối đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phía Quảng Trị, cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ về. Do đó, ngoài hình ảnh của chúng tôi, những hình chụp sau khi xe ủi qua, đã không còn cảnh nguyên thủy của nét kinh hoàng.

Buổi tối về tới Huế, như mọi khi, tôi gọi cho anh Đỗ Quý Toàn bên Phú Nhuận để nhờ anh ghi lại tin tức về hoạt động của chúng tôi trong ngày, để sau đó anh ấy chuyển cho anh Đỗ Ngọc Yến, là người ngồi cạnh anh Uyên Thao, tổng thư ký tòa soạn. và các anh Trương Cam Vĩnh, Đường Thiên Lý để làm tin và chọn tin. Anh Yến vẫn chuyển tin của chúng tôi tới anh UT như thế mỗi ngày. "Đại Lộ Kinh Hoàng" là cái tên tôi chọn làm đề tựa bài viết ngày hôm ấy. Chọn "Đại Lộ Kinh Hoàng" thật ra cũng chỉ do một phút ngẩu hứng thôi, như một vế cho câu đối "Con Phố Buồn Thiu" (La rue sans joie) mà Bernard Falls đặt cho hương lộ 555 chạy dọc bờ biển Quảng Trị, cách đó vài cây số, trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương Lần thứ nhất, 1946-54.

Vài tuần sau, chị chủ nhiệm Trùng Dương và anh chị em Sóng Thần tổ chức chiến dịch thu lượm xác người trên "Đại Lộ Kinh Hoàng". Tòa báo bỏ chi phí ra làm việc nầy.

Đích thân chủ nhiệm từ Saigon ra ăn chay nằm đất với chúng tôi, hàng ngày kết hợp với anh Nguyễn Kinh Châu, trưởng văn phòng đại diện Sóng Thần Huế, và các thân hữu, chúng tôi liên tục tới hiện trường thu nhặt xác chết gói vào từng bao nylon, trước khi bỏ vào quan tài bằng gỗ thô sơ, mai táng ở một khu đất xin được ở phía đông của QL1, ở làng Mỹ Chánh. Khi làm việc nầy, chúng tôi không treo băng dựng bảng để khoe công. Tấm bảng thật lớn cắm ở đầu cầu bên trái sau khi qua khỏi cầu Bến Đá (trước ngày mất nước) là do lệnh của Tổng thống Thiệu. Bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng" là chữ của tôi, nhưng bên dưới tấm bảng ghi là "Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu".

Những chuyện vụn vặt quanh cái tên ĐLKH đã cũ quá rồi, tôi không nhớ hết. Anh Uyên Thao còn sống. Anh Đỗ Quý Toàn còn sống. Ký giả Anh Điển còn sống. Chị Trùng Dương còn sống. Đoàn Kế Tường còn sống (đang làm báo Công An TP HCM). Tôi quý anh [Giao Chỉ, trong nhóm thực hiện phim tài liệu Quảng Trị] nên ghi lại một ít chi tiết để anh đọc chơi, nhưng nếu có ai muốn nhận bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng" là của họ, thì cứ giao cho họ, anh ạ. Mất nước, nhưng chúng ta còn nhiều việc phải làm hơn là tranh nhau cái chức vị "tác giả" của bốn chữ sáo rổng ấy.

Houston, Tháng 9, 2009
Ngy Thanh

--------------------------------
    Hốt xác đồng bào
Trùng Dương

Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa với trụ sở đặt tại San Jose, California, qua nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc, vừa chuyển đến chúng tôi lời mời tham dự vào việc thực hiện cuốn phim tài liệu về trận phản công tái chiếm Quảng Trị của quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Hè 1972. Đây là một trong một loạt phim tài liệu nhằm viết lại lịch sử 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa trong đó, theo Viện BTTN&VNCH, loạt phim Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa gồm bốn DVD, tổng cộng 8 giờ, được coi là “sản phẩm tiêu biểu".

Ông Lộc cho biết Viện BTTN&VNCH hiện đang xúc tiến thực hiện một bộ phim tài liệu về trận Quảng Trị 1972, còn gọi là "Mùa Hè Đỏ Lửa", khi Bắc quân đem quân và chiến xa tràn qua Vùng Phi Quân Sự tại vĩ tuyến 17, trắng trợn vi phạm Hiệp Định Geneve 1954, xâm chiếm Quảng Trị vào tháng 3-1972, song bị quân đội VNCH đẩy lui sáu tháng sau đó.

"Trong chiến tranh VN có ba trận đánh quy mô cần quan tâm. Đó là trận Mậu Thân, Hoa Kỳ gọi là Tet Offensive 1968. Trận thứ hai là trận Quảng Trị 1972, Hoa Kỳ gọi là Easter Offensive. Trận thứ ba là 30-4-1975," Ông Lộc cho biết trong lá thư gửi tới thân hữu. "Lịch sử chiến tranh Việt Nam cần có một phim tài liệu về Quảng Trị. Ðây sẽ là phim đầu tiên."

Được biết cuốn phim tài liệu về Quảng Trị sẽ gồm hai đĩa. Ðĩa thứ nhất dành cho thời gian từ ngày lui binh sau khi thất thủ Đông Hà - Quảng Trị từ cuối tháng 3 đến đầu ngày 1-5-1972; và đĩa thứ hai dành cho thời gian phản công từ tháng 5 đến tháng 9-1972. Bộ phim Quảng Trị là một phần của chương trình sản xuất các tài liệu song ngữ của Viện BTTN&VNCH để phổ biến khắp thế giới và dành cho thế hệ tương lai.

Chúng tôi được ông Vũ Văn Lộc mời đóng góp vì những bài báo của các phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần tường thuật tại chỗ về Mùa Hè Đỏ Lửa, mà một trong những tác giả của những bài tường thuật bấy giờ hiện có mặt tại Hoa Kỳ, là NgyThanh, có thể đóng góp cho dự án phim tài liệu với tư cách một nhân chứng.

Nhật Báo Sóng Thần, do tôi làm chủ nhiệm và chủ bút, cố nhà văn nhà báo Chu Tử làm chủ biên và ký giả Uyên Thao, hiện định cư tại Virginia, làm tổng thư ký, ngoài phần vụ thông tin, đã có những đóng góp ngoài nghề nghiệp mà chúng tôi, vì tính chất nhân đạo của những việc này, ít khi đề cập tới.

Trước hết, về mặt thông tin: Khi chiến trận bùng nổ, văn phòng đại diện Sóng Thần Quảng Trị do anh Nguyễn Quý coi sóc phải di tản vào Huế, sáp nhập với văn phòng đại diện Sóng Thần Huế do anh Nguyễn Kinh Châu điều hành, cộng với NgyThanh đặc phái viên Sóng Thần Quân Khu I từ Đà Nẵng ra tăng cường. Kết quả là nhờ số nhân sự đông đảo của văn phòng ba tỉnh nhập lại, chúng tôi may mắn có đủ lực lượng để bao sân nhiều lãnh vực. Đặc biệt là nhờ văn phòng trưởng Nguyễn Kinh Châu, vốn là một "thổ công" địa phương, có nhiều móc nối quen biết từ cấp tỉnh trưởng trở xuống; Đoàn Kế Tường, quân nhân đồng thời cộng tác với văn phòng Sóng Thần Quảng Trị, vì “đánh mất” Quảng Trị nên ngày nào cũng bám theo các mũi dùi tái chiếm với lời thề sẽ là nhà báo đầu tiên đặt chân trở lại thành phố thân yêu; Trần Tường Trình theo chân Sư Đoàn 1 kiên cường trấn thủ Bastone, Birmingham và Tà Rầu ở cạnh sườn phía tây; và Ngy Thanh, phóng viên và cũng là một nhiếp ảnh viên xông xáo, ra bám trụ tại Huế để hằng ngày theo các mũi tiền quân của QLVNCH săn tin. Trong khi nhiều ký giả trong nước cũng như ngoại quốc, lúc ấy vì bất ngờ, chưa kịp trở tay, thì Sóng Thần đã có tin cập nhật hàng ngày do các đặc phái viên “nằm vùng” của các văn phòng này gửi về. Do đấy, báo Sóng Thần có số bán lớn nhất trong thời kỳ này.

Song có lẽ một trong những điều đáng nói hơn cả, và cũng ít người biết tới, là chương trình hốt xác của ngót 2.000 đồng bào thiệt mạng vì pháo kích lẫn bom bay đạn lạc trên đoạn Quốc lộ 1 từ cầu Bến Đá tới cầu Trường Phước – đoạn đường máu mà NgyThanh trong bài tường thuật qua điện thoại tối 1-7-1972 đã gọi bằng tên "Đại Lộ Kinh Hoàng", và bốn chữ đó trở thành tên của đoạn quốc lộ của Tử Thần này.

Ngay sau bài tường thuật tại chỗ và những hình ảnh do NgyThanh chụp cảnh máu đổ thịt rơi của các nạn nhân, anh chị em Sóng Thần chúng tôi ở mỗi nơi không hẹn mà gặp trong tâm tư dằn vặt về vô số xác chết phơi nắng dầm mưa trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Hồi ấy Nhật Báo Sóng Thần đang thực hiện chương trình "Sống Một Mái Nhà" và tòa soạn ủy thác việc trông coi cho Vũ Ngọc Long, một sinh viên trẻ tới với nhóm ST từ khi còn phôi thai. Hàng tuần hay tháng, tôi không còn nhớ rõ, Long đều đặn dẫn một số sinh viên học sinh tình nguyện đi xây lại nhà cho một gia đình nghèo ở quanh thành phố Saigon. Khi chúng tôi ngồi lại bàn với nhau về việc phải làm một cái gì cho các nạn nhân chiến cuộc này, ký giả Đường Thiên Lý đề nghị quyên tiền để giúp hốt xác nạn nhân và đặt tên cho chương trình này là "Thác Một Nấm Mồ", có lẽ là cho có được tính liên tục với chương trình do Long trông coi. Trong khí đó ngoài miền Trung, không hẹn mà Nguyễn Kinh Châu cũng bàn bạc với cố bác sĩ Phạm Văn Lương, người trông coi văn phòng Sóng Thần Đà Nẵng. Hai anh đồng ý nhân danh tập thể Sóng Thần để tiến hành thu nhặt xác, và anh Lương gọi vào Saigon đúng lúc chúng tôi cũng vừa bàn xong, và định gọi ra xin quyết định của các văn phòng địa phương.

Máu chảy ruột mềm, đáp ứng của độc giả đối với lời kêu gọi đóng góp của Sóng Thần cho chương trình "Thác Một Nấm Mồ" vừa mau mắn vừa đông đảo, cho thấy tính nhân bản và tình thương rất cao của người Việt miền Nam đối với các đồng bào ruột thịt miền Trung thiếu may mắn chết mà chưa yên, thân xác còn phơi nắng dầm sương ròng rã đã nhiều tháng trời, khiến không ai là không khỏi đau xót. Tôi được anh chị em trong nhóm chủ trương tờ báo đề cử đem gói tiền đầu tiên góp được ra Huế trao anh Nguyễn Kinh Châu để xúc tiến chương trình hốt xác.

Tôi không bao giờ quên được một tuần lễ ở Huế dạo ấy. Hồi ấy, tôi không nhớ đích xác tháng nào, quân Cộng hoà đã lấy lại được phần đất phía dưới Quảng Trị, nơi có đoạn đường có hỗn danh là Đại Lộ Kinh Hoàng, song chưa mở ra cho dân chúng vào vì chiến cuộc vẫn còn diễn ra, với đạn pháo tầm xa 130 ly của quân Cộng sản vẫn thỉnh thoảng rót xuống vùng này từ trên dãy Trường Sơn. Và hễ mỗi lần có pháo kích từ núi xuống là sau đó không bao lâu ta có thể nghe tiếng rung chuyển trời đất của máy bay bỏ bom B-52 dội bom phản kích.

Qua sự dàn xếp của anh Nguyễn Kinh Châu, chúng tôi – gồm anh Châu, NgyThanh, tôi, và cả chị Châu cũng không bỏ lỡ dịp xin đi theo trong một, hai chuyến đầu – vào được khúc đường này, mướn đem theo mấy người phu chuyên nghiệp cải táng. Đối với các ông thợ này – tôi để ý thường họ đem theo vài chai rượu đế, vừa để uống vừa để khử trùng – hốt xác không phải là việc xa lạ: Họ đã trở thành các tay chuyên nghề sau khi phía Cộng Sản chôn sống quá nhiều người trong vụ Tết Mậu Thân 1968 để họ thực hành việc hốt xác của nhiều ngàn người bị chôn trong những hố tập thể.

Ngày đầu nhặt xác dọc hai bên Đại Lộ Kinh Hoàng, tôi như đi trong một cơn mộng dữ, không uống rượu mà như say, bước đi mà chân như không chạm đất, giữa một bầu không khí đầy mùi tử khí trong một khung cảnh với nhiều chiếc xe, kể cả chiến xa, cháy rụi nằm ngang dọc đó đây, áo quần đồ đạc vương vãi bên những xác người đã rữa nát nằm chết đủ kiểu la liệt, trong đó có nhiều đàn bà và trẻ con.

Trong khi NgyThanh bấm máy không ngừng, tôi đi quan sát những xác người. Một trong những hình ảnh tôi nhớ nhất, tới tận bây giờ, là cảnh một người mặc đồ lính đã rách nát, nằm xoãi hai chân hai tay, đầu gối trên một khúc cây gẫy, khuôn mặt gần như chỉ còn xương với tí thịt rữa còn vương dính lại, hai hốc mắt là hai cái lỗ đen ngước lên như chất vấn trời cao. Tự dưng tôi nghĩ anh ta đã chỉ bị thương, chưa chết, đã cố lết tới đây nằm vật ra, mặt ngửa lên trời, và chết dần. Tôi tự hỏi anh đã nghĩ gì trước khi trút hơi thở cuối cùng. Mẹ cha, anh chị em, vợ con hay người tình ở đâu? Lớn lên trong chiến tranh và sống phần lớn ở Sàigòn, thỉnh thoảng có thấy người ta chết vì súng đạn, vì pháo kích, nhưng đây là lần đầu tôi thấy nhiều người chết như vậy, và chết đủ kiểu. Tôi có mô tả những cảnh này trong bài phóng sự đăng làm nhiều kỳ trên báo Sóng Thần, như một báo cáo lại với những nhà hảo tâm đã mau mắn đóng góp tiền bạc để chúng tôi thực hiện công tác nhân đạo này.

Những ngày kế đó chúng tôi hàng ngày, sau khi ăn sáng rất thanh đạm, chất nhau lên một cái xe cam-nhông nhà binh do anh Châu điều đình mượn được, cùng với mấy người thợ bốc xác, trở lại Đại Lộ Kinh Hoàng. Có lúc tôi ngồi xem mấy người thợ bốc xác làm việc, vừa nghe họ kể chuyện hồi hốt xác nạn nhân Tết Mậu Thân, như thể những gì đang diễn ra chưa đủ kinh hoàng bằng. Nào là có linh hồn nọ, linh hồn kia về than còn thiếu bàn tay, khúc xương, cái sọ, vv. Thỉnh thoảng có ông thợ ngưng tay lôi chai rượu đế ra nốc một ngụm. Vì họ làm việc bằng tay trần, không có bao tay, nên ruợu cũng còn được dùng để mấy ông thợ rửa tay trước khi ăn trưa.

Những gì có thể giúp để nhận diện xác chết, như thẻ căn cước, hay một món đồ đặc biệt nào đó tìm thấy gần xác đều được anh Châu ghi lại trong sổ tay, bên cạnh số của xác đã được ghi trên bọc plastic đựng xác. Tôi xem và ghi chép. Khi nào mỏi mệt, tôi ra đứng ngoài lộ nhìn lên rặng núi Trường Sơn, nhớ lại những mẩu chuyện nhà văn hồi chánh Xuân Vũ kể trong Đường Đi Không Đến, tự hỏi sao con người ta ở đâu không chịu ở yên đấy để xây dựng xã hội, phát triển kinh tế, vun sới đời sống và con người, như các nước khác trong vùng Đông Nam Á này? Sao gây ra chiến tranh? để chi? được chi? Rồi tôi ngóng về phía bắc lắng nghe tiếng súng vẳng lại từ phía Quảng Trị, nơi quân Cộng Hòa đang đánh chiếm lại từng thước đất đã bị Cộng quân chiếm đóng, và thầm cầu nguyện cho những người lính Cộng hoà.

Có lần, chúng tôi đang làm việc thì nghe mấy người lính Cộng Hòa gọi nhau ơi ới, và vẫy gọi cả chúng tôi. Anh Châu ra lệnh cho mọi người ngưng tay chạy tìm chỗ ẩn náu vì pháo kích từ trên Trường Sơn bắt đầu rót xuống quanh chỗ chúng tôi. Ai đó kéo tôi xuống một hố bom bảo bám chặt vào thành hố bằng cát, đã hẳn là dù vậy vẫn thấy mình từ từ tuột xuống vì cát rời. Tôi đang thắc mắc sao không xuống hẳn lòng hố cho chắc ăn thì có người chỉ cho tôi thấy một trái bom bi chưa nổ ở dưới lòng hố.

Mỗi chuyến xe chúng tôi chở xác về xếp trong ngôi trường của thị trấn Mỹ Chánh, nhiều người có thân nhân trong đám nạn nhân trên Đại Lộ Kinh Hoàng chờ chực sẵn ở đó xúm lại tíu tít hỏi thăm, mặt ai cũng bơ phờ, thất thần, thấy thương tâm hơn cả người đã chết nay không còn gì để phải vương vấn nữa. Trong một cuộc điện đàm gần đây với NgyThanh, anh Châu cho biết con số đích xác của những xác người đã được hốt về từ Đại Lộ Kinh Hoàng năm ấy: 1.841 xác. Một ngàn tám trăm bốn mươi mốt xác người, anh nói không một giây do dự hồi tưởng, như thể con số ấy đã được ghi tạc trên phiến đá của ký ức anh từ 37 năm qua chỉ chờ dịp bật ra khi được hỏi tới! Những xác người bất hạnh này đã được ch ôn tại một khu đất sau lưng trường tiểu học Phong Nguyên ở Mỹ Chánh, được biết tới với tên Nghĩa trang Đồng bào Chiến nạn Quảng Trị.

Cứ vậy mà một tuần trôi qua đến ngày tôi phải về lại Saigòn, trước sự bịn rịn của anh chị Châu. Tôi mất ngủ nhiều ngày sau đó, vì sợ thì ít mà vì những gì đã thấy đã khiến tôi như tê dại hẳn đi – cảm giác tê dại mà tôi lại được biết tới vào ba năm sau đó, ngày 30 tháng 4, năm 1975 ...

Vì nhận thấy đây là một sinh hoạt có tính cách nhân đạo, nếu đưa vào phim có thể làm loãng đi chủ đề của phim, đó là về cuộc chiến đấu dũng cảm của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà nhằm tái chiếm lại Quảng Trị, nên chị em chúng tôi bàn nhau viết bài này để ghi lại một sinh hoạt mà nếu không ghi lại cho các thế hệ tới thì sẽ bị mai một đi, cùng với bao nhiêu câu chuyện khác của một thời Việt Nam Cộng Hoà nhân bản, đầy tình người, dù những hạn chế không tránh được của một chế độ vừa lo phát triển vừa phải lo chống lại tham vọng của những người quyết tâm áp đặt chủ nghĩa Cộng sản phi nhân lên phần đất tự do cuối cùng của Việt Nam.

Bài này cũng xin được coi là thêm một lần nữa, tri ơn những vị hảo tâm đã đóng góp để chương trình "Thác Một Nấm Mồ" được hình thành cách đây đã gần 40 năm. Đồng thời như một nén hương tưởng niệm những người đã bỏ mạng trên Đại Lộ Kinh Hoàng, xác phơi nắng mưa tới hơn hai tháng trời trước khi chúng tôi xin được phép vào tới nơi để làm cái việc hốt xác.

Oregon, Tháng 9, 2009).
Trùng Dương
-----------------------------

Bảy tháng giữa xác người

(NgyThanh ghi lại, các chi tiết dựa theo buổi nói chuyện qua điện thoại với Nguyễn Kinh Châu từ quận Bình Thạnh, Saigon vào tháng 10-2009)

Ba mươi bảy năm sau khi cùng nhau cầm bao nylon lom khom lội vào vùng chiến sự để thu nhặt xác đồng bào bị thảm sát bởi đạn của Sư Đoàn Pháo Bông Lau mà cứ như lén lút vào kho tội ác của Cộng sản để đánh cắp, câu đầu tiên anh Nguyễn Kinh Châu nhắc đi nhắc lại với tôi (như cứ sợ chính mình cũng sai sót) là tên đầy đủ của nghĩa trang mà nhật báo ST đã mai táng 1,841 xác, “Ngĩa Trang Đồng Bào Chiến Nạn Quảng Trị̣ do nhật báo Sóng Thần và thân hữu phụng lập”.

Một lần đi hốt xác đồng bào bị Việt Cộng chôn sống trong tết Mậu Thân ở Huế, và lần thứ nhì hốt xác đồng bào bị Việt Cộng tàn sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị, những hình ảnh ghê rợn đã khắc chạm thật sâu vào ký ức anh Châu, như một thứ đền tưởng niệm Cánh Đồng Chết của nạn nhân Pol Pot ở Cam-Pu-Chea – “trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Trả lời câu hỏi của tôi, anh Nguyễn Kinh Châu nhắc lại con số 1,841 xác nạn nhân một cách dễ dàng như không cần khui một gói thuốc lá để biết trong đó có 20 điếu. Tôi hỏi tiếp, làm sao anh nhớ được chính xác như thế, anh tâm sự, “Làm sao không, có ngày nào là áo quần không thấm mùi hôi của xác chết, có xác nào không là xác đồng bào, anh em?”

Khi mới bắt tay vào việc, chính quyền và quân đội chưa cho phép thường dân qua sông Mỹ Chánh vì vấn đề an ninh (sợ Việt Cộng trà trộn để hoạt động) và vì vấn đề an toàn (sợ đạn pháo binh Việt Cộng bắn trúng làm chết nhóm người đi lượm xác đồng loại). Vấn đề mang một nhóm thường dân vượt qua phòng tuyến quân sự Mỹ Chánh để tìm và thu nhặt xác là chuyện chưa từng xảy ra trước đây trong chiến tranh Đông Dương. Mặt khác, anh em báo ST ngại một khi đăng lời kêu gọi xin độc giả tiếp tay đóng góp, tiền tới tay rồi mà lỡ xác đồng bào lấy về không được sẽ bị mang tiếng lừa phỉnh, nên anh Châu hội ý với anh em phóng viên ST đang có mặt tại Huế, rồi vào Đà Nẵng bàn thêm với bác sĩ Phạm Văn Lương. Kết quả: chúng tôi quyết định thử nghiệm trước bằng cách tự lực. Anh Châu đã mang chiếc xe gắn máy Honda 68 tới xin cầm cho một thân hữu là anh Huỳnh Văn Phúc, chủ tiệm vàng Phúc Ân kiêm tổng thư ký Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên, lấy 50 ngàn đồng để làm vốn liếng khởi công. Ngạc nhiên thấy anh Châu cầm xe, anh Phúc hỏi dồn, nên đã biết sự thật là anh Châu cần tiền để trao cho thầy Thích Đức Tâm ở chùa Pháp Hải bên cồn Hến đóng quan tài để ra Quảng Trị lượm xác đồng bào bị pháo chết. Biết việc chúng tôi làm như thế, anh Phúc bảo anh Châu cứ mang xe về, và cho anh chị em ST mượn 50 ngàn tiền mặt, một số tiền không nhỏ lúc bấy giờ, để khởi công. Bên cạnh đó, anh em ST vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 tiếp xúc với Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Chỉ huy trưởng, thiếu tá Nguyễn văn Cơ đã cho nhóm Sóng Thần 200 bao nylon loại dùng để tẩm liệm quân nhân tử trận. Ngoài ra, nhóm mượn được một xe GMC của Tiểu Khu Thừa Thiên làm phương tiện vận chuyển đoàn hốt xác và xác hốt được. Về sau khi số xác lượm được tăng lên tới con số gần hai ngàn, anh Cơ vẫn cung cấp đầy đủ để gói ghém tử thi đồng bào, đồng thời phía Tiểu Khu Thừa Thiên tăng cường cho mượn thêm một xe GMC nữa, và phía Tiểu Khu Quảng Trị cho mượn 2 GMC khác, để di chuyển xác chết.

Sóng Thần đã tiến hành hốt xác tất cả 3 đợt. Khi chị chủ nhiệm Trùng Dương từ tòa soạn ra tham dự để ăn đạn pháo kích là đợt một. Đợt nầy đoàn hốt xác có 4 tổ, mỗi tổ 4 người, thu được trên 800 xác. Về sau đoàn hốt xác tăng lên thành 7 tổ. Sợ mùa mưa tới xác đồng bào bị vữa và trôi hết phần thịt, chúng tôi đã tăng gấp đôi số nhân công để rút ngắn thời gian.

Khởi đầu, thầy Đức Tâm thuê đóng và giao cho đoàn 20 quan tài để mang theo, xem thử đủ thiếu thế nào. Lên đường, anh em ST chúng tôi chỉ dám cầu mong lượm được tới 20 xác như mong muốn của thầy Đức Tâm, vì khu vực giữa hai cầu Bến Đá và Trường Phước là đụn cát trắng không nhà cửa cây cối, hễ thấy bóng người di chuyển là tiền sát viên Việt Cộng gọi pháo tầm xa từ Trường Sơn bắn xuống. Kết quả của ngày đầu thật bất ngờ với con số 96 xác. 20 xác đầu tiên được xếp vào quan tài, phần xác còn lại gói tạm vào bao nylon mang về đặt trong các phòng học của trường Mỹ Chánh.

Dạo 1968, anh Nguyễn Kinh Châu là ký giả đã theo chân đoàn người đi khai quật các hố chôn tập thể và đã có loạt hình chạy 8 cột bề ngang trên báo Hòa Bình tường thuật tội ác rùng rợn nầy. Cũng nhờ quen biết cũ từ 4 năm về trước, lần nầy đề xuất việc đi lượm xác, anh Châu đã quay lại Phú Thứ để tìm gặp và thuyết phục các người chuyên về di dời xác chết bốn năm trước, sau Tết Mậu Thân, để họ bằg lòng tham gia công việc nghĩa tử dưới làn đạn pháo của Sư Đoàn Pháo Bông Lau. Đúng là Việt Cộng đã dành cho những người nầy những việc làm có một không hai trong lịch sử tội ác chiến tranh. Nhưng vì lãnh thổ Quảng Trị vẫn còn giao tranh và bom đạn, nên những người phu chỉ bằng lòng nhận lời với chi phí 1.600 đồng mỗi ngày, so với giá thuê mướn làm công nhật ở thành phố Huế lúc bấy giờ là 100 đồng/ngày, và giá vàng 1.600 đồng một chỉ. Sở dĩ giá cả cao như thế mà nhóm ST phải chấp nhận vì khu vực “Đại Lộ Kinh Hoàng” vẫn còn rất kinh hoàng, phu hốt xác ra đó để thu lượm xác không những phải làm việc giữa điều kiện mất vệ sinh giữa những xác chết, mà còn phải đưa lưng đội đạn pháo từ Trường Sơn bắn xuống. Những tay làm báo chúng tôi vì nghiệp dĩ của mình mà lăn lưng ra chốn tên bay đạn lạc, nhưng người dân họ có lý của họ, nhất là khi phải đổi bát máu lấy bát cơm để nuôi thân và nuôi gia đình. Khi tới bãi xác người, những phu lượm xác nầy mỗi người đều mang theo một lọ mắm ruốc. Họ đã lấy ngón tay chấm mắm ruốc bôi lên mũi, dùng mùi thối của mắm để mong át đi mùi thối của xác chết, và cũng để đánh lừa khứu giác của mình.

Sau những ngày đầu vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đoàn hốt xác buổi tối về hay tập trung ở nhà từ đường của chị Tôn Nữ Mộng Nhiên ở số 100 đường thuận An, là nơi “đóng đô” của đám phóng viên ST trẻ Trần Tường Trình, Đoàn Kế Tường và NgyThanh. Nghe đám nhà báo bàn bạc chuyện lượm xác, ban đầu hai cô chủ nhà là chị Mộng Nhiên và chị Lẫm góp ý. Từ từ bén chuyện, hai cô tình nguyện tham dự trò chơi với đạn pháo kích. Thế là đoàn hốt xác có thêm hai khuôn mặt hoàng phái, đảm nhiệm việc ghi chép sổ sách và ghi số mỗi xác, cùng những giấy tờ hay di vật gì chúng tôi lấy được trên thi thể của họ̣. Những vật dụng và tư trang cá nhân ấy được cho vào bao nylon có ghi số trùng với số của quan tài, để về sau trả lại cho thân nhân người quá cố.

Công tác hốt xác kéo dài ròng rã tới bảy tháng mới hoàn tất.

Sau khi thu nhặt hết xác trên hai bãi cát dọc hai bên đoạn quốc lộ̣ mang tên “Đại Lộ Kinh Hoàng” và mai táng xong, anh em ST còn giữ lại nửa triệu, tức một phầ sáu tổng số tiền lạc quyên được từ đọc giả hảo tâm, chúng tôi đã dùng số tiền nầy dựng một bức tượng Đức Địa Tạng rất lớn ngay chỗ có nhiều xác chết nhất, lập một đền thờ oan hồn, và tổ chức một lễ cúng do anh Lý Đại Nguyên từ Saigon đại diện tòa soạn ra chủ tọa. Đền thờ này vẫn còn cho đến ngày nay.

Lời cuối:

Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của một đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa một chiến trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở Đại Lộ Kinh Hoàng vẫn là một hình ảnh đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được.

Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của một nhân chứng đích thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Nguyễn Việt Hải, chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của Quân đội Nhân dân của nước Cộng hòa Sã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tác phẩm “Mùa hè cháy”, xuất bản năm 2005, tác giả đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122, pháo 130 và pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên Quốc lộ 1 vào đám ngụy quân trên đường bỏ chạy.

Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn.

Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.

Ðịnh mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói sữa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước.

Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây …

Giao Chỉ, San Jose

Viết, Từ Một Bài Việt Của Sơn Tùng - Thụy Vi

Trước khi đọc ý kiến của tác giả Thụy Vi, xin mời đọc bài viết của nhà văn Sơn Tùng bên dưới

Thụy Vi


Thụy Vi
Cơn cảm cúm và cú té nứt đốt xương sườn hôm tuần rồi không đốn gục được tôi, nhưng những bài viết mới đây của ông Sơn Tùng đã khiến tôi thất vọng đến u uẩn, vì thế mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tôi dường như ơ thờ với những huyên áo đoàn tụ, ý nghĩa, đầm ấm của mọi người chung quanh.

Thật ra, những bài viết na ná loại ông Sơn Tùng vừa viết, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy xuất hiện đó đây trên các trang báo online của mấy tay “cảm tình với Cộng”. Nhất là mấy tuần nay, rôm rả trên diễn đàn những bài viết của Trần Kiêm Đoàn. Nổi cộm là bài viết “Nỗi vui bình an của … Nguyễn Hữu Liêm” sau khi ông này đi phó hội “Còi Hụ“ ở Việt Nam về! Những người này, viết những loại bài này, thì có gì để tôi ngạc nhiên. Bởi, giữa tôi và họ – từ lâu – đã có lằn ranh rạch ròi.

Riêng với ông Sơn Tùng thì khác!! Bấy lâu nay, ông là một trong những cây viết mà tôi hết sức kính trọng. Tôi hầu như đọc hết những bài viết của ông trên những tờ báo Thế Giới Ngày Nay đến Làng Văn, Thế Giới Mới. Trong những bài viết đó, tuy có không ít những bài viết với những lý luận khô khan, nhưng bài viết nào, ông cũng cho người ta thấy ông là một cây bút tư cách Lương Tâm Công Chính của một người chống Cộng. Những chữ viết của ông nhọn, sắc – là những mũi tên phóng trúng đích vào những thằng CS. Bay vút vào tâm điểm của sự giả trá. Phá nát sự cầu an ích kỷ, đốn hèn của những người đã quên rồi, tại sao ngày trước họ đã kinh hoàng tuôn ra biển lớn, liều chết để có mặt trên đất nước Tự Do này … Và, tôi cảm thấy hãnh diện, thật hãnh diện, vì Cộng Đồng chúng ta còn có những cây bút chói lọi như ông Sơn Tùng.

Chuyện xảy ra, là từ mấy tháng nay, khởi đầu, ông Hồng Phúc đã đơn thân độc mã gióng lên tiếng chuông báo động về những quan hệ nhập nhằng của những vị có trách nhiệm trong đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại với một viên chức VC trong Toà Đại Sứ! Sự quan hệ này, với những bằng chứng rõ ràng như vậy, thì dù bất cứ ai có khéo léo có biện luận thế nào, thì cũng không thể nào khiến người nghe không đặt một dấu hỏi [?] Tuy nhiên, nếu các vị – những người đã [vô tình / cố tình] gây ra sự quan hệ không nên có đó, nếu còn một tư cách Tử Tế tối thiểu, một Lương Tâm Công Chính tối thiểu của một con người tỵ nạn CS, thì mọi chuyện đã giải quyết ổn thỏa với sự bao dung của mọi người … [Riêng tôi, có thể tôi sẽ quên lỗi cũ, nhưng tôi càng hết sức đề phòng, vì trong thâm tâm của mọi người cũng như của tôi đều hiểu rằng những người Việt tỵ nạn chúng ta bây giờ là “khúc ruột ngàn dậm” mà nhà nước Việt Cộng đã có sẵn kế hoạch chiêu dụ làm thân với một hậu ý vô cùng hiểm độc …]

Câu chuyện của đài Việt Nam Hải Ngoại đã lan truyền khắp nơi một cách chánh đáng. Tôi là một trong nhiều người im lặng theo dõi, và trong lòng thầm phục tư cách Can Đảm của bà Hoàng Lan Chi, của ông Hồng Phúc, ông Đỗ Văn Phúc và vài thành viên khác … Giữa lúc tranh tối, tranh sáng, tôi biết làm gì hơn là thầm mong những cây bút trong Cộng Đồng sẽ dõng dạt một cách lẫm liệt như nhà văn người Nga, ông Alexandre Solzenitsym:

“Khi thằng Cộng Sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo, nếu ta không can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo, nếu ta không can đảm bỏ đi, ta phải ngồi lại, ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác”

Tôi chờ đợi, hân hoan chờ đợi, chờ đợi … những ngòi bút lẫm liệt như … bác Hoàng Hải Thủy, Tưởng Năng Tiến, Chu Tất Tiến, Phạm Ngũ Yên, Sơn Tùng … và vô số bạn bè của tôi gióng lên tiếng nói Nhân Cách Can Đảm, không để Tình, Lý, Quốc, Cộng nhập nhằng một cách hồ đồ. Gióng tiếng nói Nhân Cách Can Đảm như gieo một chút lửa sưởi ấm niềm tin trong sáng trong cuộc tranh đấu không mệt mỏi của chúng ta…

Bài viết mới nhất của ông Sơn Tùng khiến tôi bất ngờ như nhận lại lá thư bị trả ngược. Tôi thật tình ngẩn ngơ. Buồn, Không phải tôi mong đợi gì bài viết của ông như một phán quan quyết định câu chuyện của đài VNHN càng ngày càng rối rắm, lẫn lộn thiệt giả như mớ bòng bong một cách cố ý này sẽ chấm dứt. Tôi thất vọng vì một tư cách mà tôi ngưỡng vọng bấy lâu, bây giờ, sao lại có thể viết xuống những dòng chữ quá tầm thường, ví von một cách tắc trách và gây ra những thương tổn cho anh em mình đến vậy!?

Trong giai đoạn này, mỗi chúng ta, có lẽ ai cũng buồn khi mất đi một người anh, một người bạn, một người lính. Nhưng tôi tin rằng khi mình tự đánh mất mình, thì điều ấy mới thật não nề.

Thụy Vi

[Hầm Nắng, đầu tháng cuối năm 2009]
Tôi cố ý gửi kèm tấm ảnh, vì không muốn mọi người nghĩ đây là bài viết ảo

________________________________
    Công lý ném đá và “Nhân danh chống Cộng”
Sơn Tùng

Vài tháng trước đây, cuốn phim “The Stoning of Soraya M.” (Cuộc Ném Đá Soraya M.) được trình chiếu tại một số rạp ở Mỹ đã nhắc khán giả một thứ “công lý” cực kỳ man rợ thời trung cổ vẫn còn hiện hữu trong thế giới được gọi là văn minh của Thế kỷ 20, 21.

Một cảnh trong phim The Stoning of Soraya M.
Công lý ném đá và “Nhân danh chống Cộng”Phim lấy bối cảnh nước Iran không bao lâu sau khi triều đại Shah bị lật đổ, dựa theo câu chuyện của Freidoune (Jim Caviezel đóng), một nhà báo người Iran gốc Pháp. Trong một chuyến đi săn tin, anh ta bị hư xe giữa đường gần một ngôi làng ở Iran, và trong khi chờ chiếc xe được sửa chữa, anh đi lang thang để giết thì giờ và gặp một người dân địa phương, tên Zahra (Shohred Aghdashloo đóng), kể cho anh một câu chuyện xảy ra tại đây mà anh cần phải nói với thế giới bên ngoài.

Câu chuyện này là một cuộc ném đá, một vụ giết người cực kỳ dã man mà nạn nhân là một phụ nữ vô tội bị dân làng kết án ngoại tình. Soraya M. (do Mozhan Marno đóng) bị chồng, Ali (Navid Negahban), hành hạ vì không có tiền chu cấp cho anh ta để làm thủ tục ly dị như anh ta đòi hỏi để lấy một cô gái vị thành niên mà anh ta quyết định sẽ thay thế Soraya. Ali nhẫn tâm vu cáo vợ ngoại tình và xúi giục các bô lão trong làng chống lại Soraya để sắp đặt một cuộc xử tử bằng cách ném đá.

Diễn tiến của cuộc ném đá trên màn ảnh kéo dài 15 phút mà những khán giả gan lì nhất cũng khó mà tránh khỏi rùng mình, quặn thắt bao tử, nôn ọe, hay phải nhắm mắt lại trước cảnh tàn bạo diễn ra không xa lắm với một cuộc ném đá trong đời thật ở bên ngoài. Nạn nhân bị chôn sống trong một chiếc hố đổ cát tới nửa người và bị những kẻ đứng bao quanh trên bờ ném bằng những hòn đá sắc cạnh cho đến lúc chết. Sau vài phút, chiếc đầu nạn nhân nát bấy những vết thương, máu tuôn xối xả như chảy ra từ những vòi nước, hai mắt mở trừng trừng, hàm răng siết chặt như để chống lại sự đau đớn.

Đó là cái chết cực kỳ thương tâm của một con người vô tội vì sự tàn bạo của những đồng loại không còn cả tim lẫn óc. Họ bị sách động và sai khiến bởi những kẻ nhân danh “công lý”, “công đạo” của Thượng đế.

Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng đang có những người nhân danh một thứ “công đạo” được gọi là “chống cộng” để hô hào ném đá những người vô tội. Đây là một khẩu hiệu rất khích động, rất nhạy lửa, rất linh thiêng, mỗi khi hô lên là có hàng trăm, hàng ngàn người đứng lên. Vì vậy, khẩu hiệu ấy đã bị một số người lạm dụng, hay lợi dụng.

Trước 30.4.1975, tại miền Nam Việt Nam chỉ có một chính phủ lãnh đạo công cuộc chống cộng. Trong cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay, có nhiều người tự cho mình có độc quyền chống cộng. Có một đảng phái, có một tờ báo, một cái đài truyền thanh hay truyền hình, hay có một cái “blog” trên Internet, là người ta có thể độc quyền chống cộng, nếu muốn. Một cá nhân cũng có thể cho mình được độc quyền “chống cộng”, nếu có một cái computer và một địa chỉ e-mail và biết viết vài câu chữ Việt, không cần đúng chính tả, để chửi bới những ai không chống cộng giống họ. Có khi động cơ đánh phá không liên quan gì đến “chống cộng”.

Cạnh tranh nghề nghiệp với nhau, khi bị thua sút liền tung tin đồn đối thủ giao du mật thiết với Việt Cộng hay làm ăn với Việt Cộng để ám hại.

Muốn có một chức vụ trong cộng đồng, hay trong một hội đoàn, có thể hạ đối phương bằng cách chụp nón cối cho người ấy.

Làm công cho chủ, bị đuổi vì phạm lỗi, bèn vu cáo chủ là Việt Cộng nằm vùng để trả thù.

Hùn hạp làm ăn với nhau, lủng củng nội bộ, sau khi chia tay, có thể tố lẫn nhau là Việt Cộng nhằm triệt hạ nhau.

Muốn có quan hệ bất chính với vợ người ta không được, bèn hô lên người ta liên hệ mật thiết với Việt Cộng để rửa hận.

Cư trú bất hợp pháp, sợ bị trục xuất về Việt Nam, liền hung hăng tố cộng để mong được ở lại nước Mỹ.

Có những người nhân danh chống cộng chửi bới trùm lấp thấp kém chỉ vì cái tôi quá lớn không đi đôi với cái tài.

Có kẻ chuyên chụp nón cối theo lệnh thủ trưởng để triệt hạ uy tín những người chống cộng thực sự và gây xào xáo trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Có những người chỉ vì ganh ghét, đố kỵ lẫn nhau, cũng nhân danh “chống cộng” để đội nón cối cho nhau.

Mỗi khi có người nhân danh “chống cộng” để buộc tội người khác, không nhiều thì ít cũng có một số người hưởng ứng, dù đúng hay sai, giống như những người tham gia “Cuộc ném đá Soraya M.”
Câu chuyện liên quan đến Đài Việt Nam Hải Ngoại (VNHN) mới đây ở Vùng Hoa Thịnh Đốn là một thí dụ. Đài phát thanh này được thành lập từ 12 năm nay và đã không ngừng mở rộng tiếng nói tới nhiều nơi, và có thể nghe trên Internet ở khắp nơi, kể cả tại Việt Nam. Đài cũng có những cộng tác viên ở nhiều nơi, gồm cả Nhật Bản và Âu Châu, mà sự làm việc, cũng như những nhân viên ở đài, dựa trên thiện chí hơn là quyền lợi vật chất, vì mục đích của đài là phục vụ cộng đồng người Việt hải ngoại và yểm trợ cho công cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam.

Có lẽ cũng trong tinh thần ấy, những năm gần đây, Ông Hồng Phúc từ Wichita, Kansas, đã cộng tác với đài, lúc đầu chỉ phụ trách một chương trình phỏng vấn mỗi chiều Chủ Nhật, sau trở thành Giám đốc Chương trình của đài.

Giữa tháng 6.2009, Ông Hồng Phúc ngưng cộng tác với Đài VNHN mà không nói rõ lý do. Ba tháng sau, ngày 6 tháng 9, Ông Hồng Phúc phổ biến một bức thư cho biết lý do ông ta rời Đài VNHN là vì đài này có “quan hệ mật thiết với tòa đại sứ Việt Cộng tại Washington” cùng với những lý do nội bộ khác liên quan đến tiền bạc và quyền hạn.

Sau khi bức thư này được phổ biến, tức thì có một số người ở xa lên tiếng kết tôi Đài VNHN, dù chưa rõ sự thật ra sao, trong lúc tại Vùng Hoa Thịnh Đốn, từ báo chí đến Tổ chức Cộng Đồng và các hội đoàn, cũng như những người có uy tín đều im lặng tìm hiểu sự thật.

Trong phiên họp hàng tháng ngày 1.11.2009, Liên Hội Cựu chiến Sĩ VNCH Vùng Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận đã thảo luận về chuyện Đài VNHN và quyết định sẽ tiếp tục hỗ trợ đài trong sự tôn trọng tuyệt đối lằn ranh quốc cộng và sẽ tiếp xúc với Ban Giám Đốc đài để làm sáng tỏ sự cáo buộc có “quan hệ mật thiết với cộng sản”.

Ngày 5.11.2009, Tổ chức Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington D.C., Maryland & Virginia công bố Bản Lên Tiếng 5 điểm, trong đó một mặt không chấp nhận những cuộc tiếp xúc với cán bộ CSVN, mặt khác cũng xác nhận rằng Hệ Thống Truyền Thông VNHN (tức Đài VNHN) chưa phát một chương trình hay tiết mục nào làm lợi cho CSVN và gây nguy hại cho công cuộc đấu tranh của người Việt quốc gia, đồng thời xác nhận sự đóng góp của đài cho mọi sinh hoạt đấu tranh của người Việt trong Vùng HTĐ cũng như trên khắp thế giới. Cuối cùng, Bản Lên Tiếng “kêu gọi đồng hương và các hội đoàn đề cao cảnh giác trước các âm mưu thừa nước đục thả câu, đánh phá cùng xúi giục các hội đoàn và cá nhân trong cộng đồng người Việt quốc gia nhằm triệt hạ uy tín và làm sụp đổ các cơ quan truyền thông là nơi có những tiếng nói chống cộng hữu hiệu …”

Về phần Đài VNHN, cũng đã có những chỉnh đốn nội bộ và buổi liên hoan kỷ niệm 12 năm thành lập đài (21.11.2009) đã chứng tỏ đài vẫn được sự hậu thuẫn mạnh của đồng hương và chứng tỏ sự đoàn kết của nhân viên cùng các cộng sự viên khắp nơi, với khoảng 700 người ngồi chật hội trường và đông đủ những người cộng tác tại chỗ cũng như từ xa về, trong đó có những tên tuổi như Đỗ Thông Minh, Nguyễn Đình Toàn, Tạ Cự Hải, Nguyễn Đăng Tuấn, Trần Quán Niệm, Ngô Thị Hiền, Nguyễn Ngọc Bích, Đinh Văn Long, Nguyễn Tường Thược, và nhiều nữa …

MC chính của buổi liên hoan là Nhạc sĩ Nam Lộc từ Cali sang. Nổi bật trên sân khấu hội trường là một lá cờ vàng ba sọc đỏ lớn chưa từng thấy. Tiếng vỗ tay vang dội liên tiếp nổi lên mỗi khi những người trong Ban Giám đốc nói lên lập trường chống cộng của đài.

Sự đánh phá từ xa của vài người đã không gây một ảnh hưởng nào đáng kể trong Vùng Hoa Thịnh Đốn. Điều đó cũng dễ hiểu vì các tổ chức, hội đoàn cũng như cộng đồng Vùng Hoa Thịnh Đốn không muốn và không cần những người ở phương xa chống cộng giùm hay chỉ bảo cho họ cách chống cộng, vì họ biết rõ chuyện tại Vùng Hoa Thịnh Đốn hơn là những người ở nơi khác.

Cuộc “ném đá” Đài VNHN từ xa đã thất bại vì không có chính nghĩa. Sự “nhân danh chống cộng” chỉ là lạm dụng.

Phần còn lại là chuyện của Đài VNHN, một công ty tư hoạt động theo luật pháp Hoa Kỳ, sẽ chỉnh đốn cách nào để tránh những khuyết điểm trong quá khứ và tiếp tục mục tiêu phục vụ cộng đồng người Mỹ gốc Việt, đồng thời yểm trợ cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam.

Sơn Tùng


Nghệ Thuật Và Cuộc Đời Trong "Công lý ném đá..." - Đinh Cự Danh

Đinh Cự Danh

Chưa đầy một tháng, ông Sơn Tùng cựu chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại viết 3 bài đại cà sa để bênh vực ban giám đốc Đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngoại (ĐPTVNHN) giao du thân mật với Cộng Sản. Hai bài đầu "Từ Tiếng Súng Trần Văn Bé Tư ..." và "Phỏng vấn Ban Giám Đốc ĐPTVNHN ..." đã được dư luận, qua Internet, phê phán một cách gay gắt. Ông Sơn Tùng gọi dư luận công kích ĐPTVNHN như là một hình thức ném đá mà ông đã từng gọi trước đây: "ném đá dễ". Có lẽ vì dễ cho nên người ta cứ ném đá, nghĩ như vậy, ông bèn viết thêm bài "Công lý ném đá ..." để may ra chấm dứt được dư luận "ném đá" vào đầu bọn người giao du với CS.

"Công lý ném đá ...", ông Sơn Tùng tả lại cái chết của bà Soraya M trong cuốn phim Stoning of Soraya M: Bà Soraya M bị chồng phụ, vu khống bà ngoại tình, kết cuộc bà bị ném đá chết một cách thê thảm, oan ức, cực kỳ thương tâm. Ông Sơn Tùng muốn đem cái đau thương trong phim ảnh đồng hóa với đau thương của cuộc đời: Đau thương của bà Soraya M bị ném đá cũng là "đau thương" của bọn theo địch bị dư luận "ném đá"!

Ném đá là công lý - Là luật pháp - Luật pháp của Trung Đông xử đàn bà ngoại tình. Luật pháp khác biệt tùy địa dư, tùy chủng tộc, dĩ nhiên tùy theo nền văn hóa của chủng tộc đó và thay đổi theo thời gian từ tiền sử cho tới ngày nay - Thế kỷ 21. Hình phạt ném đá ở Trung Đông, nay không còn nữa, đã đổi sang treo cổ, chém, hoặc bắn. Tại Trung Đông xưa, đàn bà ngoại tình, có chứng cớ quả tang thì bị ném đá chết là hợp với luật pháp, là hợp với công lý. Đó là cái chết rất ưng, không oan ức gì cả.

Nghệ thuật, đặc biệt thi ca, phim ảnh, và kịch nghệ luôn luôn phải dựa vào sự thật cuộc đời, phản ảnh cuộc đời kèm theo tính sáng tạo của tác giả. Nghệ thuật được tồn tại luôn luôn chứa đựng những nghịch cảnh đau thương của cuộc đời. Bởi vậy Tây có câu: "Les plus désespérés sont les chants les plus beaux". Việt Nam ta, Khái Hưng dịch: "Những câu bất hủ trên đời là câu tuyệt mệnh với lời thương tâm". Tàu, Hàn Dzũ bảo: "Cùng như hậu công: cùng khốn lắm mới có tác phẩm hay". Đại khái là như vậy, lưu hậu là nhờ tả cái đau khổ cái cùng khốn cả. Tỳ Bà Hành, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán, và Kiều tồn tại là nhờ cùng khốn mà ra cả. Và, cuốn phim Stoning of Soraya M tồn tại nổi danh mà ông Sơn Tùng viện dẫn cũng là tả cảnh cùng sầu oan ức của bà Soraya M. Bà Soraya M oan ức, chết thê thảm thật là đắng cay. Vậy bọn trong ĐPTVNHN bị "ném đá" có oan ức, đắng cay như bà Soraya M không? Nhất định là không! Vì bọn họ không bị vu oan! Bọn họ đã công khai nhận có liên lạc với VC. Sự liên lạc có chủ tâm: để giáo dục, để chiêu hồi, để tìm tin tức, v.v.. Không phải như lời khai của Lưu Lệ Ngọc qua cuộc phỏng vấn cũng chủ tâm của ông Sơn Tùng nhằm ghỡ tội cho BGĐ ĐPTVNHN: Lưu Lệ Ngọc và Dương Văn Hiệp gặp tên Nguyễn Sĩ Tuệ 3 lần đều "bất ngờ", tòa đại sứ VC biết địa chỉ E-mail của Dương Văn Hiệp cũng "bất ngờ", mời Dương Văn Hiệp tham dự lễ Quốc Khánh VC cũng "bất ngờ". Nhiều "bất ngờ" quá nên không cần ngờ gì nữa. Đồng bào tỵ nạn "ném đá" vào mặt bọn theo địch là phải lắm, có gì là oan ức cay đắng cho Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp, và Lưu Lệ Ngọc đâu mà ông Sơn Tùng cứ tốn giấy mực, trương gân cổ cãi giùm cho bọn phản bội lý tưởng của cộng đồng tỵ nạn - Lý tưởng chống cộng để đất nước không bị cắt xén bán cho Tàu, dân tộc được trường tồn, và nhân dân được tự do. Ông Sơn Tùng làm trạng sư quá dở và không đúng luật, tại sao lại bào chữa cho tội phạm khi tội phạm đã nhận tội. Ông chỉ có thể xin toà và bồi thẩm đoàn giảm khinh cho tội phạm với lý do bọn chúng là "vị thành niên", là "cừu non chưa có lông", là một bọn "retarded" bị bệnh "thần kinh" có hội chứng điên vì tiền (Money crazy), v.v.. Rõ ràng lắm rồi, không thể đồng hóa cái oan của bà Soraya M với cái ưng của bọn GĐ ĐPTVNHN. Bà Soraya M trong nghệ thuật phim ảnh đau đớn đắng cay lắm. Bọn GĐ ĐPTVNHN không có gì để phải đắng cay, nếu có đắng cay là vì âm mưu bị bại lộ không thực hiện được mưu toan phản bội dân tộc.

Thực sự cái đau thương trong nghệ thuật phim ảnh mà Sơn Tùng so sánh bằng cái đau thương của cuộc đời - Của bọn GĐ ĐPTVNHN là sai, không cân xứng, một bên đau, một bên không đau. Nghệ thuật đau hơn cuộc đời là như vậy! Nghệ thuật đắng cay hơn cuộc đời là như vậy!

Thế! Có khi nào cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật không? Có lắm chứ, để tôi kể:

-Theo tài liệu để lại, khoảng năm 1956-1957, ở Hà Nội, có hai anh chị yêu nhau thắm thiết, một người có đảng, một người không. Vì lẽ đó, đảng không cho hai anh chị lấy nhau. Hai anh chị buồn, ôm nhau tự tử. Câu chuyện này đồn um lên ở Hà Nội - Thăng Long thuở xưa - Trầm Long hôm nay, Lê Đạt, một kiện tướng trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, dựa vào truyện phim Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài làm một bài thơ "Nhân câu chuyện những người tự tử". Bài thơ dài, tuyệt diệu, có nhiều câu đứt ruột:

"Khi Lương Sơn Bá tương tư trên giường bệnh
Ngày một võ vàng
Ôm bóng người yêu mà chết
Khi Chúc Anh Đài xăm xăm vào huyệt
Theo nhau cho trọn lời nguyền
Cả rạp lặng yên
Những chiếc khăn đầm đìa nước mắt
Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật!"

Thật là sự thật cuộc đời ở đây đắng cay hơn nghệ thuật: Hai anh chị sinh viên chết oan chết ức, chôn hai huyệt, xương tan thịt nát; còn Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài nằm chung một huyệt và hóa thành đôi bướm liền cánh nhởn nhơ trước những bông hoa Lan hoa Huệ, Hải Đường, Trà Mi, và biết bao nhiêu hoa Hồng tuyệt sắc. Chết như vậy cũng đẹp chán, tuy không được thưởng thức cái sinh thú của loài người nhưng còn hưởng được sinh thú của loài bướm đẹp cũng được rồi.

Câu chuyện hai người tự tử và nghệ thuật phim ảnh Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài là câu chuyện cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật xảy ra ở Hà Nội 53 năm về trước, hơn nửa thế kỷ rồi.

Sau 53 năm, hơn nửa thế kỷ, nay, tại vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn - Thủ đô của Hoa Kỳ - Một nước dân chủ nhất thế giới, pháp trị nhất thế giới, không ai có quyền bắt nạt ai, vu khống ai ... thế mà cũng có câu chuyện "cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật" xảy ra trong cộng đồng Việt Nam tỵ nạn CS - Một cộng đồng mang nhiều truyền thống chia rẽ theo cái kiểu "nửa xuống biển nửa lên nguồn" của Âu Lạc. Câu chuyện đó là câu chuyện cuộc đời: ông Lê Hồng Phúc tố giác ĐPTVNHN thân Cộng Sản, được chuyên chở bởi ông Sơn Tùng trong bài "Công lý ném đá ...". Lại phải nhắc lại nghệ thuật phim ảnh "ném đá bà Soraya M", lần này khác, để tìm ra "cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật":

Ông Lê Hồng Phúc cộng tác với ĐPTVNHN, thấy ĐPTVNHN giao du thân mật với CS, sau một thời gian tìm hiểu chắc chắn, ông từ bỏ cộng tác và tố giác ĐPTVNHN thân cộng.... Thế là ĐPTVNHN "ném đá" ông, đá "phản bội", đá "đời tư", đủ thứ "đá", được Nguyễn Tường Thược, Đinh Quang Trung, và Hùng Hiệp Ngọc ném ông túi bụi. Ông Lê Hồng Phúc cứ im lặng không nói gì; nghe đâu có người hỏi ông làm gì? Ông trả lời: "làm thinh".

Để phân rõ chính tà, ai phản bội ai?

Lê Hồng Phúc và nhân viên ĐPTVNHN đều là người tỵ nạn CS. Nay ĐPTVNHN thân cộng tức phản lại lập trường chống cộng của người tỵ nạn - Phản lại lập trường Lê Hồng Phúc. Lê Hồng Phúc tố giác và phản công ĐPTVNHN như là phản công kẻ thù dân tộc, kẻ phản bội dân tộc, phản bội lập trường chống cộng của người tỵ nạn. ĐPTVNHN mới thực sự là kẻ phản bội - Bội ân bội nghĩa với dân tộc Việt Nam, với đồng bào tỵ nạn CS đã từng đóng góp tiền góp bạc cho chúng.

Bọn ĐPTVNHN "ném đá" "phản bội" phủ đầu ông Lê Hồng Phúc nhằm mục đích che giấu tội của chúng. Đã có người nói bọn chúng là một bọn vừa đánh trống vừa ăn cướp. Thế mà ông Sơn Tùng, cầm bút chống cộng trước đây, hăng hái trở cán bút làm đùi, đánh trống hùa với chúng, đôi khi xen lẫn tiếng kèn lạc điệu của Đỗ Hồng Anh với nhịp phách của Đoàn Hữu Định có Nguyễn Tường Thược và Tuyết Mai phụ xướng. Ngoài đánh trống, ông Sơn Tùng còn ném từng nạm đá vào Lê Hồng Phúc, loại đá mà ông dùng toàn là đá dơ bẩn: đá "tranh địa vị", đá "đòi tăng tiền", đá "bị đuổi", thậm chí đá "muốn quan hệ bất chính với vợ người ...", độc địa nhất là đá "hỏi thủ trưởng" [xem bài công lý ném đá …]. Ghê quá, theo cái kiểu bỏ bã rượu vào nhà người. Nhiều loại đá như vậy, chúng ta có cảm tưởng ông Sơn Tùng đã thạo thằn ... cách đấu tố của VC. Ghê quá là ghê. "Ném đá" chưa đủ, khua trống chưa đủ, có khi ông Sơn Tùng lại trở ngọn bút làm dáo nhọn, một mình một ngựa, vai mang bị đá, một tay bốc đá, một tay cầm dáo, xung tả, đột hữu, đâm thẳng, ném thẳng vào Lê Hồng Phúc, người bạn lâu năm của ông. Lê Hồng Phúc làm gì? Làm thinh.

Đó, cuộc đời là thế đó! Lê Hồng Phúc tố cáo kẻ gian tà, Lê Hồng Phúc là người có công lớn đối với trận tuyến của người quốc gia; bọn gian tà có tội lớn đối với quốc gia dân tộc. Lê Hồng Phúc vô tội mà bị kẻ có tội "ném đá", Lê Hồng Phúc có công mà bị kẻ có tội "ném đá". Thử so với bà Soraya M thì Lê Hồng Phúc may không chết chứ cái đau tinh thần thì đau lắm lắm!

Bà Soraya M vô tội, bị vu khống, một bọn vô tội bị xúi giục ném đá bà chết đau thương. Bọn vô tội ném đá kẻ vô tội (tợ như đám dân vô tội bị xúi giục giết kẻ vô tội trong chế độ CS vậy).

Ông Lê Hồng Phúc đã không có tội lại còn có công lớn tố giác tội phạm, bị tội phạm ném đá mà còn được Sơn Tùng ném thêm. Kẻ có tội ném đá người có công; bạn ném đá bạn; Lê Hồng Phúc đau lắm chứ! Đau tảng thần luôn, đau hơn bà Soraya M nhiều. Đắng cay hơn bà Soraya M nhiều. "Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật" là như vậy.

Đắng cay quá! Nhớ tới Tú Xương thi hỏng: "Thi không ăn ớt thế mà cay". Lê Hồng Phúc bèn xuất khẩu: "Đời không tương ớt thế mà cay." Cay thật đấy, thế mà may cho ông, thức giả khắp nơi thương cảm ông, biết rõ bọn người phản bội, qua Internet, đã quăng từng tảng đá vào mặt bọn chúng - Bọn thân cộng - Bọn phản bội dân tộc. Bọn chúng đau quá, đặc biệt ông Sơn Tùng trở tay không kịp bèn gào lên: "Internet là bãi rác". "Bãi rác" mà Sơn Tùng đã dùng đá "Nhân danh" ném vào thức giả chống cộng đích thực. Trổ hết công lao hãn mã vẫn bị thất bại, không sao chống nổi đa số có chính nghĩa, Sơn Tùng trở nên cô đơn, mệt mỏi, và bị điếm nhục mặc dầu ông được bọn người phản bội bồi dưỡng và thoa bóp cho ông.

Đó, thức giả khắp nơi có phản ứng rất tích cực trong việc chống bọn phản bội dân tộc. Thức giả vùng Hoa Thịnh Đốn thì sao? Vẫn im hơi lặng tiếng.

Nhớ tới chuyện một vị tướng chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Thủ Đức, bị tiếng tham nhũng. Trước tập hợp sĩ quan, ông tuyên bố: "Tôi ăn tiền của Sinh Viên Sĩ Quan thì có trời biết". Một SVSQ dẫn sách luận ngữ, nói nhỏ: "Thiên hà ngôn tai: Trời biết mà trời không nói". Mấy anh bạn gần anh ta đều cười. Có lẽ thức giả vùng Hoa Thịnh Đốn cũng "Thiên hà ngôn tai".

Đinh Cự Danh

TB: Trước khi viết bài này, lấy tư cách độc giả tạp chí Thế Giới Ngày Nay, tôi phôn hỏi ông Lê Hồng Long, xin tóm lược:

- Thưa ông LHL, tôi là độc giả quý báo TGNN muốn được biết tại sao không còn tên Sơn Tùng chủ bút và bài của Sơn Tùng ?
- Dạ, thưa ông cho biết quí danh?
- Danh gì cũng đuợc, tôi tên Danh.
- Thưa ông Danh, ông Sơn Tùng tự ý xin rút khỏi tên ông ta ra khỏi chức chủ bút.
- Vì sao?
- Vì ông Sơn Tùng không muốn tôi dùng tờ báo TGNN tố cáo bọn thân cộng. Ông ấy bảo rằng ông không muốn dính vào vũng bùn đó. Tôi đồng ý để ông rút ra và còn cắt hẳn những bài của ông nữa.
- Té ra là thế.
- Tôi sẽ đem tất cả thư từ trao đổi giữa tôi và ông Sơn Tùng về việc ấy lên TGNN số 207.
- Cám ơn ông LHL.
- Xin chào.
=========================================================
Lời bàn Mao Tôn Cương

Đọc hết bài, tôi rất tâm phục. Nhưng trời ơi, tôi khoái nhất là câu này:

Trích: “Nhiều loại đá như vậy, chúng ta có cảm tưởng ông Sơn Tùng đã thạo thằn ... cách đấu tố của VC. Ghê quá là ghê.” Hết trích

Tôi nhớ đã dịch cho ông Sơn Tùng bài viết : “Một nửa sự thật không phải là sự thật”, trong đó, ông tả cảnh bà mẹ của ông bị Việt Minh nhốt trong chiếc cũi, đem bỏ đói và chết trên miền Thương Du. Từ đó, tôi cảm thong với ông, và tưởng ông cũng là một người triệt để chống Cộng !!!

Nào ngờ!

Ông ST đã học cách đấu tố và vu vạ của VC nay đem ra áp dụng với người Quốc gia.

Đúng như ông BDL viết: “Mua danh ba ngàn bài, bán danh chỉ cần ba bài.”

Đúng ba bài sau vụ đài VNHN, ông Sơn Tùng đã bán hết liêm sỉ và tư cách chống cộng của ông.

Thương thay!,


Friday, December 11, 2009

LATO là gì? Do ai tổ chức? Đừng để Lòng Tốt của Quý Vị bị LATO lợi dụng làm giàu

    Đêm Đông Hà Quảng Trị tại Arlington,
    Một mong mỏi sau 30 năm xa xứ đơn thuần chỉ là một đêm giải trí cuối tuần!!!
Đỗ Văn Phúc

Khoảng 700 người đã tham dự Đêm Đông Hà Quảng Trị tổ chức vào tối thứ bảy 27 tháng 8, 2005, tại nhà hàng Thanh Thanh, thành phố Arlington, Texas. Con số đã vượt quá xa sự dự trù của ban tổ chức. Có trên dưới 150 người từ các thành phố, tiểu bang khác mà xa nhất là miền đông bắc (Philadelphia, Massachusetts, New York, Georgia ...), miền viễn tây (California, Washington …). Tình quê hương ấp ủ sau hàng chục năm trời đã là động lực để các gia đình vượt hàng ngàn dặm kéo nhau về tham dự một đêm hội ngộ; mong mỏi gặp lại những bạn bè thân thích, tìm lại chút hơi hướm quê hương qua những bài hát, tiếng đàn và những câu chuyện trao đổi.

Thật là một đêm vui tuyệt diệu và thành công về phương diện tổ chức và tài chánh. Tiền thu được qua sự tham dự và quyên góp để gửi về quê nhà xây dựng ngôi chùa chắc chắn phải lên đến con số hàng chục ngàn. Ca sĩ Như Quỳnh, Nini, Vina Uyển Mi, Bảo Việt Nhật Tuấn, vốn từ những gia đình Đông Hà, Quảng Trị đã sưởi ấm tấc lòng của người xa quê qua những bài ca đậm tình quê hương. Ngôi sao truyền hình Leyna Nguyễn, một vinh dự của Đông Hà trên đất Mỹ đã đảm nhiệm phần MC duyên dáng và thành thục.

Khách sẽ hoàn toàn hài lòng về một đêm vui trọn vẹn, nếu không có một vài sự kiện trầm trọng mà đã xảy ra tranh cãi kịch liệt trước cũng như sau đêm văn nghệ.

Nhận giấy mời từ ba tuần trước, xem thấy đa số người trong ban tổ chức là những anh em tỵ nạn, HO, chúng tôi không ngần ngại hồi đáp sự tham dự, cũng như vận động thêm nhiều người tại địa phương cùng đi. Những bạn bè không phải đồng hương Quảng Trị cũng vô cùng sốt sắng góp mặt để ủng hộ tài chánh và tinh thần. Những mong đêm vui này sẽ đánh dấu một sự trưởng thành của cộng đồng người Mỹ gốc Việt/Đông Hà/Quảng Trị. Những mong trong đêm vui này, sẽ có cơ hội được biết, thấy những thành đạt của các thế hệ sau ba mươi năm dài nỗ lực vươn lên từ mất mát đau thương của chiến tranh mà Quảng Trị, Đông Hà là nơi gánh chịu nặng nề nhất trong cuộc chiến Việt Nam.

Thế nhưng, những vị có thẩm quyền trong ban Tổ chức đã vô tình hay cố ý quên đi lý lịch của mình. Họ viện dẫn vì là đêm văn nghệ, nhảy đầm nên không cần có quốc kỳ, không cần chào cờ, hát quốc ca, và chẳng thèm bỏ ra một phút để tưởng nhớ đến những đồng bào, chiến sĩ mà máu xương của họ đã đổ ra trên dọc miền hoả tuyến, trên đại lộ kinh hoàng để có một ngày nay, họ được sống trong một không khí tự do, dân chủ, thành đạt về mọi mặt trên quê hương tạm dung. (Sau khi có nhiều ý kiến phản đối, ban tổ chức đã đặt hai lá cờ Việt - Mỹ hai ben sân khấu)

Không thể có một lý do nào biện giải được cho sự sai lầm nghiêm trọng trên. Ban Tổ chức cho rằng sự có mặt lá cờ vàng sẽ làm cho cuốn băng thu hình sẽ không về được Việt Nam. Làm như mục đích chính của đêm văn nghệ là để truyền bá về Việt Nam; mà nếu thực như thế, thì sự có mặt của lá cờ vàng, bài quốc ca, phút truy điệu lại càng vô cùng cần thiết. Ít nhất cũng truyền một tia hy vọng cho những ngưòi đồng hương đang khắc khoải nhân quyền, dân chủ; ít ra họ cũng không cảm thấy bị bỏ quên trong cuộc đấu tranh âm thầm đòi lại quyền sống từ tay bạo quyền Cộng sản.

Kể từ khi suy sụp kinh tế trầm trọng, bạo quyền Cộng sản đã nhờ đến hàng tỷ đô la từ cộng đồng người Việt hải ngoại, nhất là từ Hoa Kỳ. Đô la là thứ vũ khí hiệu nghiệm nhất để sai khiến cộng sản. Khi cho nhà cầm quyền Cộng sản vay tiền, các tổ chức, ngân hàng quốc tế đã ràng buộc họ bằng những điều kiện cải thiện nhân quyền, pháp luật vân vân. Chỉ có cộng đồng người Việt hải ngoại là quá “rộng lượng” cho không mà không đòi hỏi điều gì từ hàng chục năm qua với một số tiền khổng lồ hàng tỷ đô la mỗi năm !!!

Không lo cuốn phim có hình ảnh lá cờ vàng không về đến Việt Nam. Chúng tôi đã chuyển về nước hàng trăm văn hoá phẩm đối với Cộng sản còn nguy hiểm hơn nhiều, mà vẫn trót lọt nhờ vào vũ khí vạn năng: đồng đô la.

Nếu ban tổ chức có ý định làm phim gửi về quê hương, thì cuộn phim không chỉ đơn thuần là những hình ảnh ăn uống với những đầu người lố nhố; cũng không phải là những bản nhạc lời ca; vì ở tận Đông Hà, Quảng Trị hay bất cứ miền quê hẻo lánh nào trên đất nước Việt Nam, người ta cũng có thể tìm nghe được Như Quỳnh qua những cuộn băng Thúy Nga, Asia. Người Đông Hà Quảng Trị muốn xem lại các khuôn mặt các thân nhân, bạn bè mình, muốn biết họ đã thành công thế nào, cuộc sống ra sao; muốn biết con cháu Động Hà Quảng trị thành đạt thế nào để họ mang thêm một niềm vinh dự. Họ sẽ rất buồn và thất vọng vì thầy những người Đông Hà Quảng Trị xa quê đã quên đi những lý tưởng của mình; phủ nhận sự hy sinh của những chiến sĩ anh hùng nơi tuyến đầu máu lửa; quên đi những cái chết thảm khốc của hàng vạn dân trong trận Mậu Thân 1968, cổ thành, mùa hè đỏ lửa năm 1972. Một sự vô ơn, vô tình, quay mặt đáng lên án.

Trong một không khí ồn ào, rộn ràng người qua kẻ lại, những người tham dự mong mỏi tìm gặp bạn bè thân quen cũ đã thất vọng. Ban tổ chức trong phần giới thiệu đã rất sơ sài về những đồng hương phương xa đến, đến những vị từng có những đóng góp tích cực về các lãnh vực văn hoá, xã hội mà đồng hương rất muốn biết rõ và tiếp xúc. Cho nên vài vị từ xa đến đã thổ lộ: ”Hoá ra bỏ mấy ngày trời, đi hàng ngàn dặm đến đây chỉ đề ăn vài món không ngon bằng ở nhà, nghe vài bản nhạc mà mình có thể thoải mái trong phòng khách nhà, vừa nghe vừa nhâm nhi cà phê mà khỏi phải nghe những lời không mấy lịch duyệt của anh MC được giới thiệu long trọng từ Cali đến!!!”

Đơn thuần, đó chỉ là một đêm văn nghệ, nhảy đầm giải trí cuối tuần mà những người tham dự có lòng sẽ rất đắn đo lần sau nếu lại được thư mời.

Đỗ Văn Phúc
Austin, Texas

Michael Do (Do Van Phuc)

webpage: www.michaelpdo. com
Vietnamese Communists must render FREEDOM, DEMOCRACY and HUMAN RIGHTS to the people before a political defeat would cost them their livelihood and even their lives.


Từ lệ thuộc đến mất nước - Trần Nhu

Lời phi lộ. - Gần chín mươi triệu dân sống trên mảnh đất hình chữ S eo hẹp, lại đang bị cắt xén dần dâng cho giặc phương Bắc ! Những kẻ nắm vận mệnh quốc gia không có tài đức, lại rất đam mê quyền lực. Đưa đến hậu quá là chúng đẩy cả dân tộc vào con đường đói nghèo cùng quẫn! Nghèo nàn về đạo đức, yếu hèn về phẩm giá con người.

Tình hình mỗi lúc thêm nghiêm trọng, đất nước đã và đang bị xâm lăng về văn hóa, về lãnh thỗ, lãnh hải.

Thiết nghĩ, không có ai quá vô tâm với đất nước mà yên lòng trước họa ngoại xâm hiện nay. Trừ bọn Mạnh, Dũng, Trọng ... Giờ là lúc mỗi công dân Việt Nam cần nhìn vào sự thật. Đó là lương tâm và trách nhiệm không thể thoái thác.

Xin đón đọc loạt bài: “Giá Của Tự Do Luôn Luôn Cao” cùng tác giả.

Từ lệ thuộc đến mất nước


Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập. Không được sinh ra từ trong lòng dân tộc, không được nuôi dưỡng trong dòng sữa mẹ Việt Nam. Nó được sinh ra từ Liên Xô, Trung Quốc: Mục tiêu của nó là phục vụ cho quyền lợi Quốc Tế Cộng Sản. Nên nó không xuất phát từ lợi ích người dân. Nó chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam và sống bám vào mồ hôi xương máu của dân tộc. Nó hoàn toàn lệ thuộc vào ngoại bang.

Ngay từ khi nó còn hoạt động trong bóng tối nó đã lệ thuộc vào Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, cho đến khi có chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo được thành lập năm 1946, rồi trong suốt hai cuộc gọi là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Nó bám chặt vào Liên Xô-Trung Quốc, cho đến nay nó càng bám chặt và phụ thuộc vào Trung Quốc trong mọi lĩnh vực kể cả quan điểm của Trung Quốc về vấn đề quốc phòng, ngoại giao nhà nước. Những chính sách này đã được công khai hóa minh bạch rành rẽ.

Trong hoàn cảnh đất nước bị nạn ngoại xâm đe dọa như hiện nay, những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không dựa vào nhân dân mà dựa vào nước ngoài để tồn tại. Lịch sử Việt Nam từ bao ngàn năm qua trong các cuộc chống xâm lăng. Việc đoàn kết toàn dân để bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc chọn nhân tài để lãnh đạo đất nước. Cả hai thành tựu ấy vẫn là năng lực cần thiết cho sự lãnh đạo chính trị của các triều đại Việt Nam.

Người Việt đã chiêm nghiệm, từ những thất bại trong các cuộc chống ngoại xâm và lớn lên từ những thất bại đó.

Người Tầu thường lợi dụng cơ hội yếu kém của giới lãnh đạo Việt Nam trong những khủng hoảng nội bộ. Có kẻ manh tâm sang cầu cạnh họ như trường hợp Kiều Công Tiễn sang cầu vua Nam Hán. Lê Chiêu Thống sang cầu nhà Thanh. Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh sang cầu Bắc Triều là lập tức họ lại giật quyền bá chủ xưa của mình ở Việt Nam.

Những khủng hoảng như vậy, khi yêu cầu về sự lãnh đạo mạnh mẽ để chống lại quân xâm lược đã trở thành một đề tài quán triệt trong lịch sử Việt Nam và các vua Việt Nam phải có tài tập hợp toàn dân tham gia kháng chiến, mới có thể thắng được giặc.

Chọn người tài để lãnh đạo đất nước. Ngay cả trong lĩnh vực tôn giáo cũng phải chọn người có tài để lãnh đạo giáo hội. Thời nhà Trần, Trúc Lâm Yên Tử có trên một ngàn vị tăng, trong số này có rất nhiều Hòa Thượng nhiều tuổi đạo, lẽ ra phải chọn trong số đó. Nhưng Ðiều Ngự Giác Hoàng không chọn được ai để truyền y bát nối nghiệp mà ngài lại chọn chú tiểu Pháp Loa, mới có 3 tuổi đạo, 23 tuổi đời! Sao lại có chuyện ngược đời như vậy? Là vì ngài muốn cho Giáo Hội phát triển mạnh, phải chọn người có tài để giao việc. Nếu giao việc cho người không làm được tốt sẽ dẫn dắt giáo hội đến chỗ suy yếu, tan rã, cho nên ngài chọn Pháp Loa là vì ngài đã phát hiện ra Pháp Loa là một kỳ tài, cũng giống như Vạn Hạnh phát hiện ra Lý Công Uẩn có thể gánh vác được việc quốc gia sau này. Phật giáo không có cái khuôn mẫu cứng nhắc, và để cho danh chính ngôn thuận, Giác Hoàng đã phải bố trí một đại lễ, mời vua Trần Anh Tông với Thượng Tế quốc phụ Thượng Tổ cùng các quan ở trên đình đến chứng minh buổi lễ này. Ðây cũng là một đặc điểm độc đáo của Phật giáo Việt Nam khác hẳn với Phật Giáo Trung Hoa, Ấn Ðộ …

Muốn cho giáo hội mạnh phải chọn người tài ba, quốc gia cũng vậy. Muốn gìn giữ được nền độc lập và phát triển phải chọn người có tài đức.

Ở đời có những công việc mà hàng triệu người không thể làm thay cho một người, nhất là công việc lãnh đạo. Trong đời sống khá hiếm. Nhất là trong lúc quốc biến, thù trong giặc ngoài, không dễ gì có một người như Ngô Quyền, Nguyễn Huệ trừ khử bọn Việt Gian dẹp giặc ngoài.

Lúc đất nước khẩn yếu như vậy, người lãnh đạo vĩ đại như vậy. Về mặt đạo, chỉ cần một vài người tiêu biểu như Khuông Việt thời Lê, Vạn Hạnh thời Lý và Trần Thái Tông mới giải quyết được việc mà hàng ngàn sư tăng thường không thể làm nổi. Chúng ta cũng có thể thấy ngay thời đại ngày nay trên 3 triệu Ðảng viên Cộng Sản VN, không có một khuôn mặt nào sáng sủa, toàn hạng mê lú. Nhưng họ lại giữ độc quyền lãnh đạo đất nước, nếu người dân Việt Nam có quyền lựa chọn, thử hỏi trong số 84 triệu dân có người dân nào lại chọn Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh lãnh đạo đất nước. Mới đây tôi xem hồi ký của tướng Giáp. Ông ta luôn nhắc tới lời dậy của Hồ Chí Minh như câu: Bác thường nói: “Muôn việc lấy đảng làm gốc” như thế nhân dân Việt Nam không được dự phần việc gì cũng do Ðảng Cộng Sản (1). Thật đại bất hạnh cho dân tộc Việt Nam là những người ngoài đảng Cộng Sản không được quyền lựa chọn, không được đóng góp ý kiến việc nước!

Việt Nam ngày nay dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, đã chứng minh về việc chính quyền cai trị đi thụt lùi, tệ hơn nữa là bọn chúng làm tay sai cho ngoại bang phản lại dân tộc.

Hiện nay những người lãnh đạo Ðảng Cộng Sản VN đang cấp tốc thực hiện khẩu hiệu chiến lược (Hợp tác toàn diện với Trung Quốc).

Ðáng lưu ý nhất là bên lề hội nghị APEC tháng 11 năm 2006 được tổ chức ở Hà Nội, trong thời gian này có ba bản tuyên bố chung:

- Bản tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc.

- Bản tuyên bố chung Việt Nam-Liên Bang Nga.

- Bản tuyên bố chung Việt Nam-Hoa Kỳ.

Hai bản tuyên bố Việt Nam-Liên Bang Nga, Việt Nam-Hoa Kỳ không có bất cứ một ràng buộc nào giữa hai nhà nước, còn bản tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc thì Việt Nam hoàn toàn bị buộc chặt vào Trung Quốc. Ðể mọi người tham khảo. Tôi để toàn văn bản Tuyên bố Việt-Trung dưới đây:

View the latest news Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc SGGP: Cập nhật ngày 17/11/2006 lúc 23:27'(GMT+7)

http://www.sggp.org.vn/apec/2006/11/71847/

1. Nhận lời mời của Tổng Bí Thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết, Tổng Bí Thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 15 đến 17 tháng 11 năm 2006.

2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu có tính chất lịch sử mà hai Đảng, hai nước đã giành được trong quá trình tìm tòi con đường phát triển Xã Hội Chủ Nghĩa phù hợp với tình hình của mỗi nước. Việt Nam đánh giá cao những thành tựu vĩ đại mà Trung Quốc đã giành được trong sự nghiệp cải cách, mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ thực hiện được mục tiêu hùng vĩ xây dựng toàn diện xã hội khá giả và đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.

Trung Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Việt Nam đã giành được trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, ủng hộ các phương châm và chính sách do Đại hội X của Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ do Đại hội X của Đảng xác định, xây dựng Việt Nam thành một nước Xã Hội Chủ Nghĩa hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng được củng cố và phát triển, nhất trí cho rằng Trung Quốc và Việt Nam có lợi ích chiến lược chung trên nhiều vấn đề quan trọng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế đang có những diễn biến sâu sắc, việc tiếp tục tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phù hợp với lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai bên thoả thuận sẽ tăng cường các chuyến thăm cấp cao, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…, mở rộng hợp tác thiết thực trong các lĩnh vực kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục…, triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt Nam- Trung Quốc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hai bên cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và mãi mãi là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

4. Hai bên đánh giá tích cực việc hai nước đã chính thức thành lập và tiến hành phiên họp đầu tiên của Uỷ ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt-Trung. Hai bên nhất trí cho rằng, sự kiện này có lợi cho việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác trong tất cả các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc, điều phối giải quyết các vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình hợp tác. Uỷ ban này sẽ phát huy tác dụng quan trọng góp phần bảo đảm quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lâu dài, ổn định, lành mạnh và bền vững.

5. Hai bên hài lòng về tiến triển đã đạt được trong lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hai bên đồng ý trên tinh thần "bổ sung ưu thế cho nhau, cùng có lợi và cùng thắng", mở rộng hơn nữa quy mô, nâng cao chất lượng và trình độ hợp tác kinh tế thương mại. Tích cực phát triển điểm tăng trưởng mới về thương mại, duy trì đà tăng trưởng nhanh chóng kim ngạch mậu dịch song phương, thực hiện mục tiêu mới là nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 15 tỷ USD vào năm 2010.

Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng Sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông…

Đẩy nhanh tiến trình xây dựng "Hai hành lang, một vành đai kinh tế", thúc đẩy vững chắc, hiệu quả các dự án hợp tác cụ thể. Tăng cường hợp tác trong các thể chế kinh tế khu vực, liên khu vực và quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc.

Trung Quốc chúc mừng Việt Nam đã gia nhập WTO và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tích cực đóng góp phần mình vào các hoạt động của tổ chức này sau khi trở thành thành viên chính thức.

Hai bên đã ký và nhất trí sẽ nhanh chóng triển khai thực hiện "Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế thương mại song phương”, đề ra phương hướng tổng thể về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước trong 5-10 năm tới, xác định các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước.

Hai bên còn ký kết Bản ghi nhớ về việc triển khai Hợp tác "hai hành lang, một vành đai kinh tế" và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác.

6. Hai bên đánh giá tích cực những tiến triển mà hai nước đã đạt được trong việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, áp dụng các biện pháp thiết thực và hiệu quả hơn, đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền, bảo đảm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới chậm nhất vào năm 2008.

Tiếp tục thực hiện tốt “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”, triển khai tốt tuần tra chung giữa hải quân hai nước, công tác điều tra liên hợp nguồn lợi cũng như kiểm tra liên hợp trong Vùng đánh cá chung, tích cực hợp tác đẩy nhanh việc thực hiện Thoả thuận khung về hợp tác dầu khí trong Vịnh Bắc bộ, tiến hành công tác thăm dò chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định, giữ gìn trật tự Sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực khác như nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển…

Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển ở khu vực này. Hai bên đồng ý nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức chung liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước, tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hoà bình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều chấp nhận được. Hai bên cùng nhau cố gắng giữ gìn ổn định tình hình biển Đông, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển để tìm ra mô hình và khu vực phù hợp.

7. Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, ủng hộ "Luật chống chia cắt đất nước”, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức. Mong muốn Trung Quốc sớm thực hiện thống nhất đất nước. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

8. Hai bên hài lòng về hợp tác giữa hai nước trong công việc quốc tế và khu vực. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ đa phương như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), EAS, ARF, Tiểu vùng sông Mê-công mở rộng…, cùng nhau làm hết sức mình vì hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai bên nhất trí cho rằng Liên hợp quốc cần góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả trong việc đối phó với những thách thức và các mối đe doạ mới, duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy sự phát triển chung của các thành viên, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.

Trung Quốc bày tỏ ủng hộ Việt Nam trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.

9. Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cảm ơn Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Đảng Cộng Sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho đoàn sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị, và trân trọng mời Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang thăm Trung Quốc vào thời gian thuận tiện. Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Ngày 17 tháng 11 năm 2006

Khi đọc bản tuyên bố này, chúng ta không thể không đặt câu hỏi:

- Thế nào là “hợp tác toàn diện?”

- Thế nào là “hợp tác cơ chế các ngành ngoại giao”?

- Thế nào là “hợp tác quốc phòng”?

- Thế nào là “hợp tác công an, an ninh..?”

- Và cái ủy ban chỉ đạo hợp tác vĩ mô thúc đẩy hợp tác toàn diện là ai?

- Chúng tôi tạm ghi lại đây những từ khuôn mẫu quan trọng trong bản tuyên bố Việt Trung để làm sáng tỏ sự thật. Ở đây cần lưu ý cách chọn lựa ngôn từ của bản tuyên bố, vì đây là một bản tuyên bố chung, một văn kiện ngoại giao lịch sử cơ bản có liên quan đến vận mệnh của toàn dân ta của Tổ Quốc Việt Nam, chứ không phải là những câu nói xã giao ngoài miệng. Nhất là một cường quốc lớn ký với một nước nhỏ họ buộc mình phải thi hành nghiêm chỉnh. Vậy mong được sự quan tâm đúng mức của mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước.

Dưới đây tôi sẽ phân tích một số điểm chủ yếu trong bản tuyên bố đó:

“Trong thời gian thăm, Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã hội đàm với Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, hội kiến với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng. Hai bên thông báo cho nhau tình hình mỗi Đảng, mỗi nước, trao đổi ý kiến sâu rộng về quan hệ giữa hai Đảng, hai nước cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm và đã đạt được nhận thức chung rộng rãi. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm lần này đã thành công tốt đẹp, chắc chắn sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục phát triển.”

Ðọc đoạn văn trên làm tôi chợt nhớ đến “Hồi Ức Và Suy Nghĩ” của thứ trưởng bộ ngoại giao Trần Quang Cơ. Có đoạn nói ông Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh đến Bắc Kinh xin gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo chi tiết về đại hội VII. Thông báo cả những ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề trọng đại trong Ðại Hội. Và cơ cấu nhân sự Ban Chấp Hành Trung Ương mới…

Như thế là việc báo cáo tình hình nội bộ đảng ai có khuynh hướng khác… cho ban lãnh đạo Trung Quốc nắm thật chặt những người lãnh đạo Ðảng Cộng Sản VN để dễ dàng điều khiển họ theo ý định của mình, còn Hồ Cẩm Ðào giả thử có nói về nội tình đảng Cộng Sản Trung Quốc, thì bọn lâu la ở xóm xã làm gì?

Ðiều 3: “Hai bên thỏa thuận sẽ tăng cường các chuyến thăm cao cấp, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng đảng, quản lý nhà nước cũng như xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Phát triển đầy đủ cơ chế hợp tác các nghành: ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh toàn diện”.

Hợp tác toàn diện, hay là “chộp giựt toàn diện”? Trong tình huống này, Nông Ðức Mạnh trở thành Bí Thư Huyện Ủy An Nam, Nguyễn Minh Triết trở thành Chủ Tịch huyện, quân đội nhân dân trở thành tự vệ huyện… Tất cả dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc Kinh khéo dùng các quan chức người bản xứ, dù bề ngoài còn ngụy trang, để tránh né sự phẫn nộ của dân chúng và dư luận quốc tế, trên thực tế nó đã thành công đến 80% biến Việt Nam thành một huyện của Trung Quốc.

Chúng ta thường phải trả một giá rất đắt để hiểu ra được một câu trong văn kiện, hay hiệp định ký với nước ngoài, thậm chí chỉ một câu tựa đề có thể hàm chứa toàn bộ nội dung trong đó. Nên bất cứ một từ ngữ nào trong hiệp định cũng quan trọng, thí dụ: Bắc Kinh dùng câu “hợp tác toàn diện Việt-Trung”. Nét chấm phá quyết định và mục tiêu cuối cùng toàn bộ bức tranh Hán hóa nằm ở đây. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam bị xóa bởi chiến lược diễn biến hòa bình của Bắc Kinh.

Bạn nghĩ xem nước Việt Nam nhỏ bé bằng một huyện của Trung Quốc, mà đi hợp tác “toàn diện” với một nước khổng lồ, thì mình bị xóa nhòa trong cái khối đại Hán rồi còn gì. Tệ hơn nữa là người Việt Nam trở thành công dân loại ba. Quả thực dân Tầu chưa thời nào được nâng lên cao như hiện nay. Người Trung Quốc đi khắp nước Việt Nam không cần chiếu khán nhập cảnh (visa), trong khi người Việt Nam không có quyền đi lại tự do trên đất nước mình, muốn đi đâu phải có thông hành (tạm trú, tạm vắng) còn người Việt Nam ở nước ngoài muốn về thăm quê hương phải có (Visa) và thường bị sách nhiễu đủ điều, mặc dù là họ mang dollars thật về nước, còn con ông trời có quyền tiêu tiền giả, không ai dám động đến.

“Hợp tác các ngành ngoại giao”, đây có lẽ là một phát minh quái đản nhất cũng không phải là mới mẻ gì, nó đã làm từ thời Hồ Chí Minh, ngành nào cũng có chuyên gia cố vấn Trung Quốc. Còn khi họp đại hội đảng thì các yếu nhân Trung Quốc sang tận nơi để chỉ đạo như Giả Khánh Lâm… rồi trước khi ông Nông Ðức Mạnh, ông Nguyễn Tấn Dũng muốn đi thăm các nước phải đến gặp Trung Nam Hải trước.

“Hợp tác quốc phòng”? Khác với Liên Minh quân sự, hợp tác là gom lại thành một mối một lực lượng quân sự duy nhất, thật là chuyện ngu xuẩn đến khó hiểu! Thảo nào quân đội Trung Cộng chiếm đất, chiếm biển, bắn giết ngư phủ Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng dưới sự lãnh đạo của đảng không động đậy - mặc!

“Hợp tác công an, an ninh” đến nông nỗi này thì hết thuốc chữa. Các cố vấn Trung Quốc dùng người Việt kềm kẹp và đàn áp người Việt. Họ biến lực lượng công an Việt Nam thành công cụ của họ. Nên sinh viên và nhân dân Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc chiếm quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa… trước tòa Ðại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội và lãnh sứ quán Trung Quốc ở Sài Gòn tháng 9 và tháng 10 vừa qua bị công an đàn áp tơi bời. Ai gây cảnh:

“Sáo thịt nồi da bao oan nghiệt!

Da vàng máu đỏ chẳng nương tình”

Thơ “Việt Nữ Hoan Châu”

Trong bản tuyên bố Việt-Trung còn nhấn mạnh: “Việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô của ủy ban chỉ đạo”.

Ủy ban nào? Ai chỉ đạo? Nếu không phải là những chuyên gia cố vấn các ngành của Trung Quốc chỉ đạo những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam và công an Việt Nam đàn áp chính đồng bào của họ. Ban cố vấn chỉ đạo không chờn vờn như bóng ma mà nó là một hệ thống chỉ huy an ninh từ tòa Ðại Sứ Quán của Trung Quốc ở Hà Nội, màng lưới của nó rất tinh vi có thể theo dõi mọi hoạt động của Ðảng Cộng Sản VN và chính phủ, điều hành kinh tế, quân sự, an ninh và hầu hết các lãnh vực khác qua tòa Ðại Sứ Quán Trung Quốc.

Giang sơn đổi chủ ngầm ngầm bi thảm này mà ít ai nhận ra nhờ vụ Hoàng Sa, Trường Sa… Một biến cố xấu nhưng nó đã có tác dụng đánh thức lý trí của tuổi trẻ, đánh thức tinh thần dân tộc. Do đó, nó chẳng những báo hiệu một đột biến mới của lịch sử cũng sắp xảy đến. Chính quyền Cộng Sản vốn suy yếu, không tìm được lối ra.

Trên cơ sở bối cảnh tổ quốc lâm nguy như vậy! Họ xuống đường để biểu thị trách nhiệm công dân và lòng yêu nước. Ðây chính là một khát vọng hết sức sôi sục mà cũng là một nỗi đau khổ hết sức trầm thống. Tuổi trẻ khắp miền đất nước muốn thể hiện giá trị cuộc sống của mình chỉ cần có cơ hội phục vụ Tổ Quốc, nhưng đã bị những người lãnh đạo Ðảng Cộng Sản VN thẳng thừng từ chối. Ðảng Cộng Sản muốn mài nhẵn đi những góc cạnh để mong duy trì quyền lực và tệ hơn nữa là họ theo lệnh của cố vấn Trung Quốc đàn áp đồng bào ruột thịt của mình.

Người xưa nói: “Biết lo cho người, thì người cũng lo cho mình”. Người có lòng nhân bảo vệ cho người khác thì cũng chính là lo cho chính mình vậy. Lo cho người khác là lo cho chính mình “lòng nhân”, “người nhân”. Tuy không phải là một tư tưởng mới mẻ gì nhưng đối với thời đại bây giờ nó là một thách thức trước mặt toàn dân. “Không ai muốn loạn” nhưng nếu không còn lựa chọn nào khác, và nếu loạn thì những người lãnh đạo Ðảng Cộng Sản VN không có chỗ an thân. Cũng nên thấy rằng hàng triệu triệu thanh niên nam nữ tuổi đôi mươi phải lãng phí một cách oan uổng! Chỉ vì cái tư tưởng lai căng, dốt nát của Hồ Chí Minh. Ðáng tiếc cho năm tháng trôi qua! Bao nhiêu thế hệ bị bưng bít và đè nén một cách tuyệt vọng trong bức màn sắt. Bởi một nhóm người thao túng quyền lực kéo dài 7 thập niên lúc nào dân chúng trong nước cũng sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, không sao thoát ra khỏi và vươn lên được. Uy quyền đảng nắm trọn, mặc tình chúng tác oai, tác quái, cướp của, bỏ tù. Khắp miền đất nước kêu than, ai đứng ra bênh vực đều bị hãm hại. Bởi một chính quyền trị dân, lấy bán nước làm vinh. Bình thiên hạ lấy tàn sát, giết chóc, bỏ tù làm thước đo đạo đức để tiến thân. Việc này được bày ra trước mắt toàn dân là giữa lúc Trung Quốc ngang nhiên công khai chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì những người đứng đầu chế độ hiện nay không ai lên tiếng. Ngược lại họ lại đứng ra tổ chức lễ trao huân chương cao nhất cho hai nhân vật đã từng dâng lãnh thổ, lãnh hải của Tổ Quốc cho giặc là cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu và chủ tịch nước Trần Ðức Lương không những thế họ còn mời Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh là hai tên tay sai đầu sỏ thân tín của Bắc Kinh đến tham dự.

Thù trong giặc ngoài như vậy! Ðất nước khẩn yếu đến như vậy, người lãnh đạo nhu nhược hèn yếu đến như vậy!

Trong tình thế hiện tại, người Việt Nam chỉ có hai lựa chọn một làm công dân một nước độc lập, hoặc trở thành tên nô lệ cho người Tầu. Không ai là “người ngoại cuộc” kể cả các tôn giáo, các nhà tu hành đã là người Việt Nam đều phải đối diện trước cơn quốc biến này. Nếu bỏ qua, chúng ta thực khó mà gánh vác lỗi lầm quá lớn để con cháu muôn đời sẽ ân hận!

Giá trả cho độc lập tự do rất cao. Nhưng cho dù ngày mai tận thế, đêm nay ta vẫn gieo trồng sen thơm sạch. Sống thêm một năm có ý nghĩa một năm, sống thêm một ngày có lợi ích một ngày. Còn sống cuộc đời nô lệ mất tự do có ích gì?

Chúng tôi tuy không có năng lực gì, nhưng ít ra cũng có tấm lòng. Nguyện đem tấm lòng này góp đuốc cho quê hương. Mừng là đã thấy xuất hiện những khuôn mặt rạng rỡ như ánh trăng rằm xua tan bóng tối sợ hãi trong tâm cảm dân chúng. Họ là những thanh niên đầy nhiệt huyết và trách nhiệm, những cặp mắt kiên định đầy nghị lực của các thanh niên trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ở Hà Nội và Sài Gòn tháng 11 vừa qua.

Cao quý thay về hành động lựa chọn: Tổ Quốc kêu gọi các bạn tiếp tục tiến lên! Tiếp tục tiến lên hàng đầu! Xuống đường, tiếp tục xuống đường tràn vào Ba Ðình! Chỉ có thế mới giành được độc lập tự do. Chúng ta tin tưởng là chính nghĩa sẽ thắng gian tà, niềm tin thắng bạo lực. Tiền nhân ta từ ngàn xưa đã để lại thông điệp: “Ðại nghĩa thắng hung tàn” (Nguyễn Trãi), “Vạn cổ thử giang san” (Lý Thường Kiệt) Giang sơn vạn cổ ta gìn giữ, non nước ấy ngàn thu!

Các bạn hãy tự hào với niềm tin vô tư trong trắng. Từ thời điểm cột mốc này.

Tình hình đất nước Việt Nam đang bước vào thời kỳ cực kỳ nghiêm trọng: Các bạn phải làm gì để trả ơn cho tiền nhân, cội nguồn của chúng ta. Trả ơn cho đất nước đã cưu mang chúng ta. Cơm ta đang ăn đây, nước ta uống đây là của ai? Nếu không xác định được cội nguồn và cuộc sống chúng ta đang sống là ta đã phản bội lại tiền nhân, phản bội lại chính ta!

Trần Nhu

Biểu tình cho Nhân Quyền và phản đối chuyến đi của Nguyễn Tấn Dũng đến Hòa Lan ngày 16/12/09


Thông báo về thời gian và địa điểm biểu tình
    Kính thưa quý vị,
Theo thư mời ngày 30/11/09, CĐVNTNCS/HL sẽ tổ chức biểu tình cho Nhân Quyền và phản đối chuyến đi của T/tướng NTD đến HL ngày 16/12/09.

Tuy nhiên tin từ cơ quan thẩm quyền HL cho biết NTD giờ phút chót đã thay đổi chương trình không đến HL như trước đây đã dự định. CĐVNTNCS/HL khẳng định, dù NTD có đến HL hay không, cuộc biểu tình cho Nhân Quyền vào ngày 16/12/09 vẫn tiến hành, không có gì thay đổi.
    - Địa điểm: Toà Đại sứ VC
    Nassauplein 12, 2585 ED Den Haag

    - Thời gian: Ngày 16/12/2009
    Từ 13.00 đến 15.00 giờ
Vậy xin thông báo và tha thiết kêu gọi đồng hương tích cực tham gia cuộc biểu tình vào ngày giờ và địa điểm nói trên.

Hoàn cảnh có khác, nhưng tinh thần và ý chí của đồng hương chắc chắn không thay đổi.

Sự hiện diện của quý vị, hơn lúc nào hết là biểu hiện cụ thể cho công cuộc đấu tranh vì tự do, công lý và nhân quyền cho VN.

Trân trọng,

Hoà Lan 10/12/2009

T/m BTV/CDVNTNCS/HL
C/tịch
Nguyễn Liên Hiệp