Friday, December 11, 2009

Người Việt Lại Ra Đi Tỵ Nạn - Lê Văn Minh

    Người Việt Lại Ra Đi Tỵ Nạn
    Còn cộng sản, còn di tản, còn tỵ nạn
LTS. Từ hơn một thập niên qua, Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển âm thầm can thiệp cho nhiều trường hợp tị nạn ở Việt Nam hoặc ở các quốc gia láng giềng. Trong thời gian gần đây, do sự leo thang đàn áp ở Việt Nam số người đi tị nạn gia tăng vượt bực. Nhằm đáp ứng, UBCVNB đang phối hợp với một số tổ chức quốc tế để vận động về chính sách và gởi phái đoàn luật sư đến một số quốc gia nhằm can thiệp về pháp lý. UBCNVB đang rất cần sự hỗ trợ tài chánh của đồng bào ở khắp nơi cho nỗ lực bảo vệ người tị nạn này. Dưới đây là tâm tình và lời kêu gọi của một người Công giáo, nạn nhân của sự đàn áp tôn giáo, từng được can thiệp thành công qua chương trình Priority 1 của Hoa Kỳ. Tác giả hiện định cư ở San Antonio, Texas.

Những năm cuối của thập niên 1940, Mẹ tôi đã từng nhìn tận mắt các cảnh tượng hãi hùng ghê rợn của những đồng đội bị bọn công sản tuyên án và giết hết sức man rợ như chôn sống trên mặt đất; bỏ vào bao tải, đập đầu, rồi cột dây và ném xuống sông như vứt xác một con chó.

Mẹ tôi cũng đã nghe Măt Trận Việt Minh đọc bản án tử hình dành cho chính bản thân mình và tâm trạng bồn chồn lo ấu trước ngày giờ thi hành bản án đó. Mẹ tôi tên thật là Nguyễn Thị Tươi, sinh ra và lớn lên tại làng Kim Sơn, tỉnh Định Tường. Năm nay Bà đã 90; mặc dù tuổi già sức yếu, nằm trên giường bệnh nhưng mỗi khi nghe nhắc đến hai chữ ”Việt Cộng”, Bà thường lẩm bẩm: ”việt cộng vô thần, giết lầm chứ không tha lầm”.

Ba mươi năm sau, vào những năm cuối thập niên 1970, các bạn tôi trên đường vượt biên trốn thoát chế độ cộng sản, một số bị bắt giam, có người bị tra tấn cho đến khi chết trong nhà tù; có người chết trong rừng, người khác chết trên biển. Bản thân tôi cũng suýt chết nhiều lần.

Sau hơn 40 chuyến vượt biên, trong đó có 2 lần tổ chức tự đóng ghe hành nghề đánh bắt cá, tôi mới đến được trại tỵ nạn Thái Lan sau 10 ngày lênh đênh giữa biển khơi, sóng gió bão táp. Nhưng chẳng may, Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc có hiệu lực trước ngày chúng tôi nhập cư vào đất Thái. Thế là chúng tôi phải trải qua một cuộc thanh lọc đầy rẫy những ‘trò hề”, bởi lẽ nhân viên thanh lọc của các nước sở tại không có chút kinh nghiệm gì về chế độ cộng sản. Thế rồi lần lượt những người gọi là “tự nguyện hồi hương” ra về trước với những mỹ từ ”có sự che chở của Cao Uỷ”. Khi không còn ai “tự nguyện hồi hương” nữa thì đến giai đoạn “cưỡng bách hồi hương”. Trong số tỵ nạn hồi hương từ các trại trong vùng Đông Nam Á, có một số bị cộng sản ám hại, nhưng báo chí và đài phát thanh chỉ nêu vài trường hợp điền hình; trên thực tế phần đông đều bị sự quản lý chặt chẽ của hệ thống an ninh chằng chịt trên khắp đất nước, trừ vài thành phần là con cháu của cán bộ đảng viên cộng sản gửi đi trà trộn trong dòng người tị nạn.

Là nạn nhân của chế độ thanh lọc bất công của bộ nội vụ Thái Lan và cũng là nạn nhân của Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện của Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ tôi phải tự mình quyết định “tự nguyện hồi hương” trước khi “cưỡng bách hồi hương” diễn ra, mặc dù tận đáy lòng tôi vẫn xác định rằng hệ thống chính quyền cộng sản Việt Nam chỉ thay đổi cái vỏ bên ngoài chứ bản chất “độc ác, độc đoán, độc quyền, độc tài, độc tôn” vẫn còn như cũ.

Trải qua hơn 30 năm bị đàn áp, khủng bố bằng nhiều hình thức, tôi sống sót là nhờ không biết bao nhiêu cá nhân, tổ chức từ khắp các nước trên thế giới đã thương cứu giúp tôi bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thế khác nhau. Một vài cá nhân, cơ quan thiện nguyện tôi biêt tên; đa số ẩn danh. Gấn đây nhất, hiệu quả nhất và nổi bật nhất là Ts Nguyễn Đình Thắng và BPSOS đã giải thoát tôi bằng “con đường song hành: chính sách và pháp lý”.

“Con đường song hành: chính sách và pháp lý” của BPSOS đã thành công trong chương trình ROVR, Prioriry 1, Legal Assistance for Vietnamese Asylum Seekers (LAVAS) và chương trình CAMSA (Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới ở Á Châu). Nhờ am tường hệ thống nhà nước cộng sản Việt Nam, kể cả việc nhận thức sự tồn tại các toán hành động ngoài khuôn khổ luật pháp của cơ quan an ninh Việt Nam nhằm bắt bớ, hăm dọa, giam cầm, thủ tiêu, làm băng hoại các cá nhân, tồ chức có hành động bị coi là nguy hiểm cho sự tồn tại của CSVN, Ts Nguyễn Đình Thắng và Ông Grover Joseph Rees, lúc ấy là Tham Mưu Trưởng của Dân Biểu Christopher Smith, lần đầu tiên đến thăm tôi trong một buổi tối vừa gió lại vừa mưa tại nơi tôi “tạm trú dài hạn” ở Sài Gòn; lúc đó là cuối năm 1997. Cho đến cuối năm 2005, cũng do BPSOS giới thiệu Dân Biểu liên Bang Hoa Kỳ, ông Christopher Smith sang Việt Nam gặp gỡ một số nạn nhân cộng sản, và thông báo cho tôi biêt rằng tôi đã được chính phủ HK chấp nhận cho sang HK tái định cư nhờ sư can thiêp của BPSOS và Ts Nguyễn Đình Thắng.

Trong việc giải cứu khoảng ba trăm người Việt tỵ nạn cộng sản trên đât Thái hiện nay chắc chắn còn gặp nhiều thách đố. Chúng tôi kêu gọi cá nhân, tổ chức thiện nguyện, đặc biệt là những ai đã từng có kinh nghiệm bị hành hạ, bị khủng bố, bị phân biệt đối xử bởi CSVN, giờ đây tiếp tay và rộng lòng giúp đỡ cho những đồng bào này, bởi lẽ ông bà tổ tiên minh vẫn thường dạy: “Miếng khi đói bằng gói khi no”.

“Con đường song hành: chính sách và pháp lý” nhất định phải thành công!

Lê Văn Minh
San Antonio, Texas

http://www.bpsos.org

Cờ vàng VNCH tại Tượng Đài Tri Ân & Tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam ở Melbourne, Australia bị Việt gian đốt rụi



VKTNVN, 11-12-2009, Melbourne. Gần trưa ngày 10 tháng 12 - 2009 được tin báo của thân hữu, trên đường đi làm, chạy xe ngang qua tượng đài anh phát giác lá cờ trên tượng đài đã bị đốt, cán cờ nghiêng lệch. Anh vòng xe lại, đến tận chỗ để quan sát và chụp hình bằng điện thoại cầm tay. Chiều cùng ngày, sau khi đi làm về Ông Trần Đông, Giám đốc tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam Úc Châu đã đến tận nơi quan sát. Cán cờ bằng sắt được bắt ốc thật chặt vào đế bằng thép không rỉ dày 5 ly, cán cờ bị kéo lệch một bên. Điều đó cho thấy kẻ gian đã cố tình giựt mạnh cho rách lá cờ. Vì lá cờ bằng ny-lon khá chắc, kẻ gian không kéo rách được nên đã dùng lửa đốt cháy. Ny-long cháy đen co rúm lại và bám vào cán cờ.

Tượng Đài Tri Ân & Tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại Melbourne tọa lạc trong Jensen Reserved Park, nằm ngay góc đường Farnsworth Ave và Meyers Rd, Maribyrnong, Victoria. Đó là một địa thế rất đẹp. Tượng đài hướng ra biển, bên phải là một dãy đồi, phía trước mặt là trường Đại học Victoria University, bên hông phải là Footscray Secondary School, bên trái là dòng sông chảy ra biển và trường đua ngựa. Văn võ và sông núi ứng hầu hai bên. Tượng đài hình cánh buồm trên chiếc ghe thấp lè tè dưới mặt biển là bãi cỏ xanh rì của công viên đã được khánh thành nhân kỷ niệm ngày Quốc Tế Tỵ nạn vào tháng 6-2008. Lễ khánh thành được vinh hạnh đón Ông Quyền Thủ hiến Victoria, thủ lãnh Đảng Đối lập, Ông Tổng Thư ký Quốc hội Tiểu bang, Thị trưởng Thành phố Maribyrnong cắt băng khánh thành. Ngoài ra còn có nhiều nhân vật chính trị tiểu bang và đại diện các hội đoàn đoàn thể trong Cộng đồng người Việt cùng tham dự.

Hai ngày sau khi khánh thành, nhân kỳ họp Quốc Hội, sự kiện Tượng đài Thuyền nhân được Ông Tổng Thư ký trình bày tại Quốc Hội và được Quốc hội công nhận để ghi vào Biên niên sử của Tiểu bang. Tượng Đài chính thức trở thành di sản và tài sản của Tiểu bang.

Đây là lần thứ hai lá cờ vàng tại Tượng Đài bị kẻ gian phá hoại. Lần thứ nhất xảy ra vào tháng 10 năm 2009, lúc ấy cờ bị xé. Lần thứ hai này kẻ gian đốt cờ. Kẻ gian đốt lá cờ vàng của Việt Nam Cộng Hòa không ai khác hơn là những tên tay sai nằm vùng của chế độ Cộng Sản Việt Nam. Hành động phá rối này dù nhỏ nhưng hàm chứa những ý nghĩa vô cùng to lớn mà chúng ta cần ý thức rõ và không thể bỏ qua:

1. Chúng ta đã không chấp nhận sự thống trị của những người Cộng Sản và đã chạy xa họ hàng ngàn cây số, họ vẫn cố bám theo chúng ta. Bằng tiền bạc chúng ta gửi về, CSVN nuôi dưỡng tay sai để theo dõi và phá rối Cộng đồng Việt Nam tại khắp nơi. Việc treo bất cứ lá cờ nào tại Australia là quyền tự do của cộng đồng người Úc gốc Việt, CSVN không có quyền can thiệp.

2. Năm 2005 CSVN đã áp lực chính phủ Indonesia và Malaysia triệt hạ hai bia tưởng niệm thuyền nhân tại hai quốc gia này, mặc dù hai bia tưởng niệm được xây dựng để tưởng niệm người chết trên hai hoang đảo không có người. Năm 2006 và 2007 CSVN áp lực Malaysia và Indonesia không được tổ chức tiếp đón long trọng các phái đoàn người Việt hải ngoại. Năm 2008 CSVN áp lực chính quyền tiểu bang Queensland xoá bỏ lời hứa xây dựng bia tưởng niệm thuyền nhân tại nơi này. Năm 2009 CSVN áp lực chính phủ nước Đức không cho đồng hương tại Hambourg xây dựng Tượng Đài Thuyền Nhân, cũng trong năm này CSVN áp lực Indonesia dẹp bỏ di tích trại tỵ nạn Galang. Trong vòng 4 năm qua, CSVN vẫn luôn theo đuổi chính sách thù nghịch đối với cộng đồng hải ngoại trong khi luôn miệng dụ dỗ những người non dạ bằng những thuật ngữ tuyên truyền như Việt Kiều là khúc ruột ngàn dặm, hoan nghênh Việt Kiều về nước và kêu gọi hải ngoại ra sức dồn tiền dồn của về đầu tư tại quê nhà, ...

3. Bằng sự phá hoại và khuấy rối tại nơi cư ngụ của chúng ta ở Australia, Toà Lãnh sự, Tòa Đại sứ, Bộ Ngoại Giao cùng bộ máy hành chánh kềm kẹp khổng lồ tại VN đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Australia, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Australia và có ý đồ khuấy rối sự an cư lạc nghiệp của cư dân Úc gốc Việt tại Victoria nói riêng và tại Australia nói chung.

4. CSVN tuyên truyền rằng: “lực lượng thù địch nước ngoài luôn nuôi lòng thù hận” trong khi chúng ta là những người đã cao chạy xa bay, chúng ta hoàn toàn không xâm phạm độc quyền thống trị của CSVN, sự kiện CSVN cắt cử tay sai đánh phá cộng đồng người Úc gốc Việt là một bằng chứng hùng hồn cho thấy từ sau khi hòa bình lặp lại, đã qua 35 năm, CSVN là kẻ vẫn luôn nuôi dưỡng lòng hận thù, bằng tiền của và thế lực của một quốc gia, CSVN luôn tìm cách khống chế người Việt hải ngoại để bốc lột và kềm kẹp như đã bốc lột và kềm kẹp người Việt trong nước từ 1945.

Do những sự kiện nêu trên tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân tại Úc tố cáo trước dư luận thế giới và thông cáo cùng toàn thể người Việt hải ngoại trong và ngoài nước rằng:

    1. 35 năm qua CSVN là chế độ luôn nuôi dưỡng lòng thù hận đối với người Việt hải ngoại bằng những tên gọi như “thế lực thù nghịch nước ngoài”, phân biệt đối xử đối với những gia đình có thân nhân hải ngoại, người Việt về nước phải xin phép và đóng tiền VISA trong khi người Hoa thì được tự do ra vào, không đóng tiền xuất nhập cảnh và không cần xin phép.

    2. CSVN thông qua hệ thống Tòa Lãnh sự và Tòa Đại sứ, duy trì sinh hoạt Đoàn Đảng một cách trái phép tại hải ngoại, nuôi dưỡng lực lượng tay sai một cách bí mật phá hoại sự an cư lạc nghiệp của cộng đồng hải ngoại, luôn tìm cách bóc lột và kiểm soát cộng đồng hải ngoại một cách tinh vi với âm mưu biến cộng đồng này thành lực lượng cung cấp tiền bạc cho thế lực cầm quyền qua các hoạt động từ thiện và tôn giáo do họ kiểm soát và tổ chức.

    3. BCH CĐNVTD Victoria sẽ cùng tổ chức VKTNVN chính thức thông báo sự kiện này đến Quốc hội Victoria, đến Cảnh Sát, đến Hội đồng Thành phố, đến Bộ Ngoại giao Úc, đến các cơ quan an ninh hữu trách khác và đến tất cả Cộng đồng Việt Nam trong và ngoài nước để biết và để cảnh giác những âm mưu khuấy rối khác nhắm vào cộng đồng người Việt hải ngoại do Toà Lãnh sự, Tòa Đại sứ và Bộ Ngoại Giao VN âm thầm thực hiện.

    4. BCH CĐNVTD Victoria cùng tổ chức VKTNVN sẽ hợp tác chặt chẽ với cơ quan hữu trách, bằng kỹ thuật hiện đại, chúng ta sẽ bắt được kẻ gian đền tội trước công lý và lột mặt nạ kẻ chủ mưu lớn ở phía sau.

Xướng ngôn viên Leyna Nguyễn nhắn tin khẩn!

Kính thưa quý vị,

Xướng ngôn viên Leyna Nguyễn nhắn tin khẩn!Vào ngày Thứ Năm mùng 10 tháng 11, 2009 vừa qua chúng tôi đã bất ngờ nhận được rất nhiều emails của thân hữu và khán thính giả chuyển đến một bài viết được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới toàn cầu có tựa đề là “Đừng để lòng tốt của quý vị bị LATO lợi dụng làm giầu” do người viết không ký tên gởi ra. Nội dung đề cập đến hoạt động của tổ chức LATO (Love Across The Ocean) do chúng tôi sáng lập và điều hành. Rất tiếc là hầu hết các chi tiết được tác giả nêu ra trong bài viết đều hoàn toàn không đúng với sự thật.

  • Đây là lần đầu tiên tổ chức LATO đứng ra để kêu gọi cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung theo lời yêu cầu khẩn thiết của những đồng bào cùng xứ sở với chúng tôi, chứ không phải đều quyên góp mỗi lần nạn lụt xẩy ra như bài viết. LATO là một hội bất vụ lợi có giấy phép hoạt động, có hội đồng quản trị và giám sát, đồng thời phải tuân theo luật lệ về thuế má, báo cáo sổ sách chi thu một cách rõ ràng, công khai và minh bạch. Tất cả mọi người đều có thể xem được trên website của tổ chức LATO: www.loveacrosstheocean.org

  • Việc cứu trợ, phát thực phẩm cũng như tiền bạc cho đồng bào nạn nhân bão lụt của tổ chức LATO, ngoài các tình nguyện viên của hội, còn có sự chứng kiến của đại diện nghệ sĩ tại hai ngoại cũng như đại diện các hội đoàn đã hợp tác tổ chức gây quỹ cùng với chúng tôi. Tuy nhiên tất cả mọi người đều phải tự túc về chi phí, và tuyệt đối không sử dụng đến số tiền quyên góp của đồng hương.

  • Thân phụ của chúng tôi một cựu phi công QLVNCH, là người làm việc lương thiện và đứng đắn để nuôi vợ con, ông chưa bao giờ bị bắt bớ, tù tội dù là án treo như lời người viết. Hiện nay vì con cái đều trưởng thành, cho nên cha mẹ của chúng tôi đã về hưu và dùng thời còn lại để làm việc xã hội, chứ không buôn bán ở VN hoặc có bất cứ một chiếc xe hơi nào ở VN như lời người viết.


  • - Cá nhân tôi được các đài truyền hình Hoa Kỳ tuyển dụng trong vai trò xướng ngôn viên là dựa trên khả năng, học vấn và kiến thức của tôi chứ không liên quan gì đến việc gia đình bỏ tiền ra để “mua bán chức vụ” này như lời người viết. Thật là nguy hiểm và ảnh hưởng tiêu cực đến thể diện cộng đồng nếu đài truyền hình CBS đọc được lời cáo buộc bịa đặt, vô căn cứ của một bậc trưởng thượng đối với thế hệ con cháu cùng một mầu da và chủng tộc với mình, thay vì khuyến khích và dậy dỗ!

    Là một người thuộc thế hệ trẻ, may mắn được phục vụ trong một cơ quan truyền thông lớn của Hoa Kỳ, tôi luôn nhủ lòng mình là phải cố gắng và thận trọng để không làm mất danh dự của cá nhân, cũng như của gia đình và nhất là của cộng đồng người Việt tỵ nạn. Ngoài ra tôi luôn tìm cơ hội để hoạt động gần gũi và cộng tác với các tổ chức cùng hội đoàn người Việt tại hải ngoại, tích cực tham gia vào những công tác ý nghĩa như gây quỹ xây dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, gây quỹ yểm trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ Tử Sĩ VNCH ở quê nhà, điểu khiển các chương trình diễn hành Tết Nguyên Đán hàng năm, tranh đấu và vận động cho việc định cư người tỵ nạn v..v... Tuy nhiên đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp phải những lời cáo buộc mang tính cách mạ lỵ danh dự cá nhân và gia đình cùng tổ chức thiện nguyện của chúng tôi. Vì thế tôi xin chính thức lên tiếng và khẩn cầu mời tác giả bài viết nói trên, nếu thật sự là một người đứng đắn, có tâm huyết, muốn đóng góp và xây dựng cộng đồng, cũng như có ý định loại bỏ các thành phần xấu xa trong xã hội, thì xin cho phép tôi được diện kiến để đối chất công khai về những lời cáo buộc của tác giả trên bất cứ một diễn đàn công cộng nào, và ở bất cứ nơi nào, hầu đưa ra những bằng chứng cùng chi tiết mà tác giả đã nêu ra trong bài viết. Nếu không sẽ lại chỉ là một trong những email nặc danh, có tính cách chụp mũ, bôi lọ cá nhân và phá hoại cộng đồng được phổ biến một cách bừa bãi hàng ngày trên Internet.

    Trong lúc chờ đợi, tôi xin chân thành cám ơn sự lưu tâm của quý vị và các bạn. Đồng thời nếu có thể được xin vui lòng chuyển lời nhắn tin khẩn của chúng tôi đến các thân hữu. Chúng tôi rất mong có dịp hội kiến tác giả để được nghe lời chỉ dậy và hướng dẫn từ một bậc trưởng thượng trong cộng đồng.

    Trân trọng kính chào quý vị.

    Studio City, December 11, 2009

    Leyna Nguyễn
    Xướng ngôn viên truyền hình KCAL & KCBS
    Chủ Tịch Hội Thiện Nguyện Love Across The Ocean
    (818) 655-2259
    email: leynan@yahoo.com
    ***********************
      Đừng để Lòng Tốt của Quý Vị bị LATO lợi dụng làm giàu
      Trong buổi gây quỹ bão lụt miền Trung tạiTEAPALACE
      Ngày 12 tháng 12 năm 2009

      LATO là gì? Do ai tổ chức? LATO (Loving Across The Ocean) do một gia đình tổ chức, trong đó;
      Chủ Tịch: Leyna Nguyễn.
      Phó Chủ Tịch kiêm Tổng Thư Ký: Đài Nguyễn (Ba của Leyna).
      Thủ Quỹ: Vui Nguyễn (Mẹ của Leyna).

      Nguyên nhân đưa đến sự thành lập LATO:
      Đài Vui la Ba Mẹ của Leyna Nguyen, qua Mỹ vào năm 1975, sống tại MN hành nghề bán Auto insurance.
      Vì bán insurance ma (có nghĩa là cứ 6 tháng thâu tiền auto owners, nhưng khi bị accident thì mới làm report), họ đã làm giàu một cách nhanh chóng, dùng tiền để chạy chọt mua chức xướng ngôn viên, nay Leyna kết hôn với 1 người Mỹ là director của đài CBS.
      Sau gần 21 năm làm giàu bằng cách đó, thì bị FBI điều tra, bắt với nhiều customers là nguyên cáo và nhân chứng (trong đó đa số người Việt mới qua) nên Đài bị truy tố và lãnh án tù 2 năm. Vui dùng tiền bất nghĩa bail Đài ra khỏi tù, nhưng vẫn bị 2 năm tù treo.
      Trước khi ra tòa, Đài đã nhanh chóng tẩu tán tài sản cho con cái, rồi khai bankcrupcy.
      Sau án tù này, Đài (ba của Leyna) bị bad credit, không thể làm ăn gì ở Mỹ được, nên Đài và Vui về VN làm ăn với Cộng Sản. Chiếc Xe mà Đài lái ở VN trị giá 2 tỉ.
      Trong thời gian làm ăn tại VN, Đài Vui cùng con gái là Leyna thấy mỗi lần trong nước bị bảo lụt thì Việt Kiềù ở Hải Ngoại gửi tiền về giúp, nên họ đã lập ra một cái hội mang tên "Loving Across the Ocean" - LATO..
      Từ đó hễ mỗi lần ở VN bị thiên tai bảo lụt, thì gia đình Đài, Vui, Leyna có cơ hội làm giàu dựa trên lòng hảo tâm của Việt Kiều ở Hải Ngoại..
      Bằng chứng như việc Cứ Trợ Bão Lụt miền Trung, ở trên, tin tức từ VN gởi sang:
      1. dot dau moi nha 3 den 5 goi mi an lien (hinh nhu tien cua Nha Nuoc).
      2. dot giua moi nha mot ket mi an lien giá 2 mỹ kim (cua Vui + Dai).
      3. dot vua roi moi khau 5 kg gao (hinh nhu tien cua Nha Nuoc).
      Sau trận bão lụt Miền Trung, Leyna đã đi nhiều tiểu bang để quyên tiền, tổng số tiền quyên được đã có hằng trăm ngàn dollars; số tiền ấy đi đâu hết mà làng điếu chỉ nhận được 1 két mỳ trị gíá 2 dollards , với con số nạn nhân 300 người thì mới có 600 dollars?

      Quý vị hãy cẩn thận và thông báo rộng rãi đến thân nhân, bạn hữu để tránh lòng tốt của mình bị LATO lợi dụng làm giàu.

    Tuesday, December 8, 2009

    Người thật, việc thật - Phương-Vũ Võ Tam-Anh

    Phương-Vũ Võ Tam-Anh

    Cách Paris chừng 200km về phía bắc, thành phố Lens xuất hiện với những ngọn núi than coke, xa xa trông như những Kim Tự Tháp Ai Cập nhưng lại là màu đen u ám. Đó là xứ sở của những mỏ than miền bắc nước Pháp, một vùng mà tỷ số góa phụ lên rất cao, vì đàn ông ở đây quá lam lũ nên phần nhiều chết sớm. Cách đó không xa, trên con đường hướng về thánh phố Calais, có nhiều khu rừng rậm rạm ít ai lui tới. Xa hơn chút nữa là một vùng đầm lầy ở Saint Omer, nổi tiếng là một khu du lich. Vào mùa hè, du khách đến để tìm sự tĩnh mịch hoang vu, có thể mướn những chiếc thuyền nhỏ chèo một mình trên những con lạch ngoằn ngoèo hai bên bờ lau sậy để tìm cái thú cô đơn. Nếu đi đông trên một chiếc tàu có người hướng dẫn thì du khách được yêu cầu giữ im lặng để thưởng thức trọn vẹn những tiếng động của đầm lầy, một sự hòa âm kỳ diệu của loài muôn thú hoang dã.

    Trong cái khung cảnh đó, tôi đi tìm những người Việt Nam đang bị bỏ quên.

    Dưới trời mưa lạnh của miền bắc nước Pháp mà khí hậu thường là ác nghiệt, trong khi vùng Calais đang được báo động đỏ vì bão lụt, tôi lần mò hồi lâu cũng tới được Angres, một làng nhỏ cách Lens chừng 20 km chung quanh toàn là ruộng và rừng. Dân trong làng cũng biết đâu đó đang có những người Việt Nam đang trốn chui trốn nhủi, nhưng họ tỏ ra rất dè dặt, không phải sợ cho họ mà họ sợ cho chính những người sans papier này. Cuối cùng tôi đánh bạo vào Tòa Thị Xã để hỏi thăm. May mắn thay, tôi được đón tiếp tử tế và hướng dẫn rõ ràng. Tôi gặp một nữ nhân viên tên là Laurence Louchaert, tôi phải viết ra đây để vinh danh sự sốt sắng và đầy nhiệt tình của một công chức người Pháp. Bà vẽ cho tôi cái sơ đồ để đi đến chỗ người Việt tập trung. Thấy sơ đồ quá ngoằn ngoèo tôi hơi lúng túng, Bà Louchaert hiểu ý bảo tôi: "Thôi đươc, để tôi đưa ông đi". Tôi chưa kịp vui mừng thì bà nói tiếp: "Ông cho tôi coi đôi giày". Tôi ngạc nhiên nghĩ bụng chẳng lẽ bà nghi mình là shoe terrorist hay sao mà đòi khám giày? Hôm nay tôi mang đôi giày đi rừng và đưa cho bà coi, Bà vui vẻ mỉm cười: "Đường vào đó bùn lầy và trơn trợt lắm, nếu ông mang giày khác chắc đi không nổi đâu".

    Tôi theo sau xe bà Louchaert khoản mươi cây số thì rẽ vào một con đường đất quanh co. Đến rìa một khu rừng thì bà cho mủi xe chỉa vào rừng rồi bóp ba tiếng còi ra hiệu. Một lát sau một số người hiện ra xa xa trong rừng và khi thấy chiếc xe quen thuộc của bà Louchaert, họ yên tâm tiến về phía chúng tôi. Bà Louchaert giao tôi cho mấy người này để họ dắt tôi vào trong rừng sâu, bà chào chúng tôi và lui xe ra về. Mấy người này cho tôi biết bà này là ân nhân, đã nuôi ăn họ và giấu họ ở đây.

    Lội khoản 200 mét sình lầy trơn trợt, sợ tôi té nên hai cậu thanh niên kẹp tôi hai bên, tôi đến được khu lều của những người Việt Nam đang ẩn trốn. Gọi là lều nhưng thật ra chỉ là những tấm nylon chăng ngang chăng dọc, phần nhiều để làm mái còn hai bên bỏ trống, và ngay ở giữa lều cũng là bùn lầy vì nước hai bên bắn vào. Ở giữa căn lều lớn là có một tâm ván để làm bàn, một đống lửa đang cháy, có khoảng chục người đang bu quanh để sưởi, trong đó có hai người đàn bà. Người nào cũng tỏ ra hết sức dè dặt, rụt rè và thận trọng. Tôi xin phép đươc chụp hình thì mọi người đều đồng thanh là không nên, vì vậy tôi không dám nài nỉ thêm để cho họ yên tâm. Tôi thấy họ như là những con chim bị đạn, sợ tất cả, nghi ngờ tất cả, không biết tin vào đâu, bám vào đâu. Sau khi cắt nghĩa cái lý do tôi tìm đến với họ, họ dần dần yên tâm và kể lể nhiều chuyện với tôi.

    "Trại" này được lập ra từ tháng Chín 2009. để nhận những người mới và một số người đã sống trong những trại khác từ nhiều năm nay. Ờ đây chỉ có người Việt Nam thôi, hiện có khoảng năm mươi người, con số này lên xuống bất thường, có khi lên đến cả trăm, có khi xuống còn vài người. Ở thời điểm này, "nhập" nhiều vì họ đã ra đi từ mùa hè ấm áp nay mới đến, "xuất " ít vì thời tiết xấu nên những vụ đột kích rời trại cũng rất khó khăn. Những người đến có khi tự tìm đến, có khi do bà Louchaert đem đến, những người đi thì lẳng lặng ra đi, không ai biết đi đâu và đi bằng cách nào. Mỗi đêm thường có chừng năm hoặc mười người đi bộ ra bến xe hàng cách đó chừng ba cây số để tìm cách đi qua Anh. Một số đi thoát, một số bị bắt lại thì bị giam trong những trại tù (camps de détention) ở Pháp, Hòa Lan hoặc Đức, hoặc bị trả về nước. Gần đây có một phụ nữ Việt Nam bị bắt và giam ở Hòa Lan tám tháng vừa mới được thả. Chưa có người Việt Nam nào bị đưa về nước vì họ nhất quyết liều chết để được ở lại.

    Những người này tuy sống chung với nhau trong cùng một hoàn cảnh nhưng cũng xa lạ với nhau và hình như cũng "giữ miếng" với nhau, mặc dù họ đều có chung một tâm trạng là sợ bị bắt và sợ bị đưa về lại Việt Nam.Tất cả đều không biết nói tiếng Pháp, một vài người biết bập bẹ vài tiếng Anh nên nếu có sự giao thiệp với bên ngoài, ngay cả với bà Louchaert thì cũng rất khó khăn. Một lát sau, gần như họ tin tưởng hơn nơi tôi nên câu chuyện có phần cởi mở hơn nhưng cũng không tránh được sự dè dặt rụt rè. Chỉ có cậu trẻ nhất, 19 tuổi, ít thận trọng và bạo phổi nhất nên cho tôi biết tên là Trần Mạnh Hùng đã đi từ Đồng Hới vào khoảng tháng Ba năm nay. Một phần nửa đã có gia đình để lại bên nhà, tất cả đều đi từ Việt Nam bằng đường bộ từ khoảng đầu năm đến nay. Trước mặt tôi, một "niên trưởng " 47 tuổi (nhỏ hơn tôi gần 30 tuổi !) cho biết là đã đi từ Hòa Bình cách đây năm tháng. Một thanh niên có vẽ lanh lẹ nhất đã đi từ vùng Hà Nội nhưng nhất định không cho tôi biết đích xác là ở đâu. Không có người nào đi từ miền Nam hay phía nam tỉnh Quảng Bình, tức là những người bỏ nước ra đi này đã sống dưới chế độ cộng sản từ xưa đến nay, phần lớn sinh sau năm 1975.

    Một đường dây ở Việt Nam buộc những người này phải trả từ 200 đến 300 đô la để đươc chở qua Tàu bằng xe lửa rồi từ đó họ phải tự túc. Họ tiếp tục di chuyển bằng đủ mọi phương tiện, sống bờ sống bụi bằng đủ mọi cách để qua Nga, xuyên qua các nước Đông Âu , Đức rồi cuối cùng đến Pháp mà họ cho là trạm áp chót, vì mục tiêu từ khi còn ở Việt Nam phải là Anh Quốc, thiêng đàng của tỵ nạn theo họ. Vì vậy số phận đã đưa đẩy họ tới vùng sình lầy Calais này, bờ biên giới với nước Anh. Cách đây mấy năm, Pháp phải đóng cửa trạm tiếp đón ở Sangatte ở ngay trên miệng hầm xuyên qua biển Manche, vì nhiều người tỵ nạn bất chấp hiểm nguy đã tìm cách qua Anh bằng đường hầm. Trong cuộc hành trình dài bằng phần nửa vòng trái đất, họ thường bám trên các xe vận tải hạng nặng xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ phải ép xác, có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày. Khám xét những xe vận tải đầy ắp hàng đi từ nước này qua nước khác làm cho cảnh sát biên phòng phải điên đầu vì không phải là chuyện đơn giản lúc nào cũng làm đươc. Năm ngoái, hải quan Pháp đã khám phá được mười mấy xác chết người Á Châu vì ngột ở trong xe hàng, không biết có phải là Việt Nam không. Ngày nay hải quan ở Calais và ở Douvres có một phương pháp khoa học hơn, là đo lượng khí cac-bô-nic (CO2) thải ra để biết trong xe có người hay không.

    Cuộc nói chuyện đi dần tới chỗ thân mật hơn. Một bác đã lớn tuổi cho biết là đã đi từ vùng Nghệ Tỉnh. Tôi buộc miệng pha trò: "Quê hương Bác Hồ". Ông này diềm tỉnh trả lời: "Vâng, tôi sinh ra ở quê hương Bác, nhưng không muốn chết đói ở quê hương Bác." Một người trẻ hơn, đi từ Quảng Bình, cho biết là đã bỏ lại vợ và hai đứa con nhỏ ở lai vì: "Chỉ còn một miếng ruộng nhỏ, cày cấy cho lắm cũng chỉ đủ nuôi một miệng ăn thôi, tôi phải ra đi để bớt đi một miệng". Trong khi đó, mức xuất cảng gạo ở Việt Nam đứng vào hàng nhất nhì thế giới. Tôi liên tương đến truyện "Anh phải sống" của Nhất Linh, vì trong cặp vợ chồng, một người phải chết để cho người kia sống nuôi con. Tôi hỏi anh bạn đi từ Hà Nội: "Nghe nói kinh tế trong những năm sau này phá triển lăm phải không?" Anh trả lời:"Vâng, đúng thế, bây giờ Hà Nội xây nhiều nhà cao tầng, nhiều khách sạn năm sao, nhưng nhà càng cao thì khoản cách giàu nghèo càng lớn." Nhìn hai cô gái, tuy xơ xác nhưng mặt mày còn xinh xắng, tôi đùa: "Sao không ở lại Việt Nam để lấy chồng mà qua đây làm gì cho khổ thế này?" Cô trẻ, 22 tuổi, ngồi im lặng suy tư, còn cô lớn, dộ ba mươi tuổi, có vẻ có trình độ khá, chua chát: "Ở Việt Nam có thể bị bán cho Đại Hàn, cho Đài Loan. Giữa hai cái chết, chúng em lựa cái chết ít nhục nhã hơn." Tôi hối hận vì câu nói thiếu tế nhị của tôi đã gợi trong lòng cô một nổi ray rức vô hạn.

    Những mẫu chuyện xót xa thực sự trên phải ghép lại thành một cuốn phim dài, thật dài, mới nói hết những gì trong tâm tư họ và những gì đã xảy ra ở Việt Nam sau hơn ba mươi năm hòa bình và thống nhất đất nước.

    Gặp người Việt Nam họ vừa mừng vừa sợ. Họ sợ nhất là người của Tòa Đại Sứ Việt Nam, đến điiều tra để tao rập đưa họ trở lại Việt Nam. Họ đang cho mình là kẽ thù của nhà nước, có thể bị xử lý. Họ cũng biết thường khi chính phủ Pháp trả về thì cho một ít tiền, không biết có đến tay họ không, hoặc chính phủ Pháp có thể trao đổi bằng một số tiền nào đó để bớt đi một gánh nặng xã hội. Vì vậy họ kín đáo, nghi ngờ và hình như có một thứ kỹ luật vô hình nào đó đang đè nặng lên họ.

    Mùa đông tới, khắp nước Pháp đang rần rộ bắt đầu những biện pháp cứu trợ. Từ những Resto du Coeur cho đến những Samu Social cứu trợ cấp thời, năm nào cũng đươc chuẩn bị chu đáo nhưng vẫn có nhiều thiếu sót. Lẽ tất nhiên là họ cũng lo tới cho những người Việt Nam này, không phải chỉ vì lòng nhân đạo không thôi mà còn là một nghĩa vụ cao quý của con người đối với con người.Tuy nhiên họ găp một trở ngại là những người này không dám ra khỏi rừng, vì lúc nào cũng nơm nớp sợ "ông kẹ" tòa đại sứ VC đến làm thịt. Chính vị ân nhân, bà Louchaert đã thổ lộ với tôi như vậy bằng điện thoại sau khi tôi thăm viếng. Nếu không có những ân nhân đó đem thực phẩm cứu trợ tới thì những người Việt Nam này đã biến thành những Tarzan thực sự của thế kỹ 21.

    Vì trời tối, tôi phải về vì đường xa, anh em lịch sự đưa tôi ra và chào hỏi rất nhã nhặn. Trên khuôn mặt sáng sủa của mọi người thấy rõ một ý chí cương quyết vì những quyết định của họ là có suy nghỉ chứ không phải hồ đồ nông nổi. Chỉ có một điều là trong suốt cuộc gặp gở, tôi không hề thấy được một nụ cười.

    Trên đường về, khi nghe radio nói tới hội nghị Việt kiều ở Hà Nội, tôi ray rức bởi câu hỏi là những người Việt Nam đang ở trong rừng Angres này có phải là đối tượng của Nghị Quyết 36 không, hay đối tượng của nó là mấy ông Việt kiều có lắm đô la ? Họ có còn được gọi là "khúc ruột ngàn dặm" không hay chỉ là một khúc ruột thừa phải cắt đi ?

    Paris, ngày 30 tháng Mười Một 2009
    Phương-Vũ Võ Tam-Anh

    Monday, December 7, 2009

    Vết thương đã quá hằn sâu, thật khó mà chữa lành - Đoàn Thanh Liêm

    Đoàn Thanh Liêm

    Hồi đầu mùa hè năm 2009 này, trong dịp đến thăm gia đình anh Chu là bạn đồng hương, đồng tuế hiện định cư tại miền Đông nước Mỹ, tôi được anh chuyển cho mấy trang ghi chép tay của một anh bạn khác mà cùng học chung ở trung học Hồ Ngọc Cẩn tại Xuân Trường Nam Định vào năm 1951-52. Đó là anh bạn Đặng năm nay cũng đã ngòai tuổi 75 rồi. Anh Đặng không viết gì liên quan đến bản thân mình, mà chỉ ghi lại mấy nhận xét về tình hình xã hội tại miền Bắc mà anh đã đích thân chứng kiến suốt trên 50 năm qua, kể từ sau năm 1954.

    Anh vừa là một nhân chứng, mà cũng vừa là một nạn nhân của chế độ độc tài chuyên chế toàn trị ở Việt nam. Và anh muốn dặn tôi để tùy nghi khai thác mà viết thành một bài báo như tôi vẫn thường làm từ mấy năm gần đây.

    Vì thế, sau khi tham khảo thêm với anh Chu và với một số bà con khác, vốn hay có dịp về thăm viếng quê nhà ở ngòai Bắc, tôi thấy đã có thêm dữ kiện để viết bài báo này theo gợi ý của hai anh bạn thân thiết từ nhiều năm xưa.

    Đó là lý do tại sao có bài viết này. Bài sẽ được phổ biến sau khi đã được các anh duyệt qua. Vì lẽ các anh mới chính là người có sáng kiến này và còn góp ý kiến về nội dung cho tôi là người viết. Vậy tôi chỉ là người nhận “chấp bút” với hai anh mà thôi. Bạn đọc có thể coi đây là một thứ “công trình tập thể” nhỏ bé của ba ông lão đã ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” tất cả rồi.

    1. Trước hết là hiện tượng “Nói dối thành thần”

    Cái điều tệ hại nhất ở nước ta từ ngày người cộng sản nắm chính quyền đã trên 60 năm nay, đó là sự dối trá lươn lẹo, lừa gạt khắp nơi khắp chốn. Từ trung ương chóp bu ở thủ đô Hà nội, cho tới tại địa phương thôn xóm miền quê, đâu đâu cũng thấy người ta lừa dối, thủ thế, dùng đủ mọi đòn phép thủ đọan mà đối xử với nhau. Điển hình nhất là chính ông Hồ Chí Minh đã có lần nói với cán bộ ngành công an rằng: “ Nói dối mà có lợi cho cách mạng, thì không phải là nói dối”! Cụ thể là báo Nhân dân là cơ quan nói dối, bịp bợm nhiều nhất. Nói dối mỗi ngày, nói dối quanh năm.
    Vào năm 1946 – 47, vì biết người dân không ưa chủ trương chuyên chính vô sản, nên ông Hồ đã lừa dối, giả vờ giải tán đảng cộng sản. Rồi ông tuyên bố: ”Tôi không có một cái đảng nào khác, ngòai cái đảng Việt nam”. Nhưng đến năm 1954, khi trở về lại thủ đô Hà nội được rồi, thì ông lại tuyên bố :”Đảng của ta là đảng cầm quyền”. Rõ rệt là từ ông Hồ trở xuống, bất cứ người cộng sản nào thì cũng ngang nhiên làm mọi điều gì miễn là có lợi cho uy quyền, cho thế lực của đảng, mà không bao giờ phải áy náy trong lương tâm về tính cách thất nhân, thất đức của các hành động đó. Và cứ như vậy, lâu ngày sự dối trá lừa bịp đã trở thành một nếp sống tự nhiên, là chuyện bình thường của xã hội.

    2. Tấm gương rất xấu của ông Hồ Chí Minh

    Ngay cả về đời sống riêng tư của một con người thôi, thì ông Hồ đã để lại một tấm gương rất xấu, thua xa những người dân bình thường. Theo nhiều nhân chứng đáng tin cậy, thì ông Hồ đã cưới bà vợ đầu tiên là người Trung hoa tên là Tăng Tuyết Minh vào năm 1926-27. Và hồi năm 1936-38, ông Hồ đã ăn ở với đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai như hai vợ chồng khi cùng theo học tại trường Đông phương của Đệ Tam Quốc Tế tại Moscow. Theo nhà sử học đáng tin cậy Trần Trọng Kim, thì ông Hồ còn có một người con gái với Bà Đỗ Thị Lạc vào thời ông ta ở bên Tàu trước năm 1941-42. Rồi vào năm 1955-56, ông Hồ ăn ở với cô Nông thị Xuân, người dân tộc Tày và có được một người con trai tên là Nguyễn Tất Trung được trao cho thư ký riêng là Vũ Kỳ nuôi. Cô Xuân thì để mặc cho Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hòan sát hại, cùng với mấy cô em là nhân chứng trong nội vụ. Ấy thế mà ông Hồ cứ im re, không hề lên tiếng bênh vực cho người đã là vợ và là mẹ của đứa con của mình. Ông mê chức quyền, danh tiếng, địa vị hơn là tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa cha con.
    Đã đến lúc nhân dân phải được biết rõ về cái mặt trái của chuyện “huyền thoại lãnh tụ”, vốn được bộ máy tuyên truyền khổng lồ của đảng cộng sản tô vẽ thêu dệt lên, đến độ thần thánh hóa, nhằm bịp bợm bao nhiêu thế hệ người dân Việt nam chúng ta. Thế hệ lớp người trẻ ngày nay có thừa khả năng để tìm cho ra sự thật đàng sau những dối trá, bịp bợm nham hiểm đê tiện như thế. Các em phải cùng nhau bắt tay vào công việc “giải trừ cái bệnh sùng bái lãnh tụ có tác dụng ngu dân, lạc hậu đã quá lâu như vậy”.

    Bây giờ đảng cộng sản bắt cả nước phải học tập tư tưởng và tác phong một con người hèn hạ, dối trá đốn mạt đến như vậy, thì thử hỏi luân lý đạo đức truyền thống của dân tộc chúng ta để ở đâu cả rồi? Và còn cái “Lăng Hồ chí Minh” hiện vẫn còn nằm chình ình ở giữa thành phố Hà nội, thì mỗi năm chi phí hết bao nhiêu là tiền bạc của nhân dân? Thật là một sự lãng phí vô lối về tài sản quốc gia, nhất định là không thể nào kéo dài mãi mãi được nữa. Tại nước Nga, kể từ ngày chế độ cộng sản sụp đổ, người ta đã xóa bỏ thần tượng Lenine cũng như Staline, mà không hề tiếc thương.

    3. Sự tàn bạo, độc ác và dối trá trong Cải cách ruộng đất

    Đã có nhiều sách báo và cả hình ảnh mô tả rất chi tiết về cái sự dã man độc ác, bất nhân và vô luân của chính sách tàn bạo này rồi. Nên ở đây chỉ xin ghi lại cái hậu quả tai hại khủng khiếp của chiến dịch này trong nếp sống của xã hội nông thôn miền Bắc mà thôi. Điều tệ hại nhất là chiến dịch này đã bày đặt, ép buộc người dân công khai tố cáo, mạt sát lẫn nhau, đến nỗi chính người vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha mẹ, anh chị em ruột tố cáo lẫn nhau. Mà toàn là thứ “tố điêu”, do cán bộ trong đội cải cách xui xiểm, thúc giục và ép buộc người này nêu ra những điều bệ rạc, sai trái “được cán bộ bày đặt sẵn” nhằm triệt hạ một số đối tượng do đội cải cách đã lựa chọn trước tại mỗi nơi thôn xóm, để quy họ vào “ thành phần giai cấp địa chủ”.

    Rồi vào giai đoạn “sửa sai”, thì lại có vụ “trả thù” do gia đình các nạn nhân tìm cách “ăn thua đủ” với loại người đã vu oan giá họa cho các thân nhân của họ. Điều này càng làm cho nếp sống ở nông thôn thêm ngột ngạt căng thẳng, gay cấn. Rút cục lại là chiến dịch phát động cải cách ruộng đất, và tiếp theo là chánh sách cưỡng bức “tập thể hóa nông nghiệp”, đã phá tan nếp sống an bình, thuận thảo giữa các gia đình, dòng họ ở nông thôn, mà cho đến nay, dù đã trên nửa thế kỷ trôi qua, nhân dân tại miền Bắc nước ta vẫn chưa làm sao mà phục hồi lại sinh lực và hàn gắn được cái sự đổ vỡ trầm trọng nơi xã hội nông thôn ngàn xưa của dân tộc chúng ta được.

    Nói vắn tắt lại, cái hậu quả lâu dài của tệ nạn cải cách ruộng đất và tập thể hóa nông nghiệp, và nhất là cuả sự xoá bỏ quyền tư hữu về ruộng đất, lại chính là đã phá nát tan hoang cái truyền thống hài hòa, yên ấm tại các thôn ấp, mà cha ông chúng ta đã phải dầy công trong nhiều thế hệ mới xây dựng lên được.

    4. Sự phá họai đời sống tâm linh tôn giáo

    Không còn ý niệm về Phúc đức, về sự bao dung nhân ái của bậc trượng phu quân tử nữa.
    Trong cơn say mê điên loạn của chủ trương “cách mạng triệt để” bằng các thủ đoạn sắt máu và thâm độc, đảng cộng sản đã du nhập chánh sách “tiêu diệt tôn giáo” từ Liên Xô, Trung quốc, phá hoại không biết bao nhiêu cơ sở thờ phượng của các tôn giáo như đình, chùa, miếu đền cũng như các nhà thờ. Không những vậy, mà họ còn khống chế lũng đoạn giới tu sĩ, gây phân hóa chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo tinh thần. Sự truyền bá lý thuyết duy vật cực đoan, quá khích còn làm cho lớp người nhẹ dạ mất hết quan niệm về giá trị cao đẹp của luân lý đạo đức, của tôn giáo tâm linh, khiến cho họ chẳng còn biết sợ hãi bị lương tâm dày vò cắn rứt, mỗi khi làm điều chi xằng bậy sai quấy, mà chỉ còn biết coi trọng “giá trị vật chất là trên hết!”

    Hậu quả là sinh hoạt tôn giáo đã bị bóp nghẹt, không sao phát triển nơi quần chúng nhân dân, nhất là nơi các thế hệ trẻ. Từ đó, người dân lần hồi mất hết ý niệm về lý tưởng đạo đức, về tinh thần khoan dung nhân ái của bậc trượng phu quân tử, xem nhẹ tấm lòng từ bi bác ái mà từ xa xưa vốn là rường cột trong hệ thống giá trị tinh thần của nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng là xã hội đã bị băng hoại đến cực độ về phương diện nhân nghĩa luân lý.

    Sự phá sản, xuống cấp về đạo đức lễ nghĩa như vậy còn tác hại sâu xa nặng nề đến truyền thống đạo hạnh lâu đời trong các gia đình và dòng tộc, vốn là cơ sở nền tảng để nuôi dưỡng và hun đúc tinh thần yêu nước, thương nòi cho các thế hệ con cháu của quảng đại quần chúng nhân dân.
    Nói tóm lại, đây là sự tàn phá nguy hại nhất cho cơ sở đạo đức tâm linh, mà vốn là căn bản của nền văn hóa dân tộc. Sự tàn phá này sâu rộng đến nỗi dân tộc chúng ta sẽ phải mất nhiều thế hệ sau nữa mới có thể phục hồi gây dựng lại xã hội tại quê nhà như thuở xưa được. Đây chính là cái vết thương trầm trọng, thâm độc nhất và nguy hiểm nhất, mà người cộng sản đã mù quáng và nhẫn tâm gây ra, khiến làm tê liệt sâu thẳm ngay tận đáy tâm hồn của tập thể dân tộc chúng ta.

    Để tóm lược lại, chúng tôi xin ghi thật ngắn gọn như sau : Đứng trước tình trạng đổ vỡ nặng nề như vậy của quê hương đất nước do đảng cộng sản gây ra từ trên 60 năm nay, chúng ta phải làm gì để góp phần phục hồi và tái thiết lại xứ sở? Đó là cái vấn nạn lớn lao đặt ra trước hết cho tầng lớp sĩ phu trí thức ưu tú, cho giới lãnh đạo tinh thần trong các tôn giáo, rôi đến giới chuyên gia trong các ngành nghề chuyên môn. Tất cả quý vị là “vốn quý của đất nước”, là “nguyên khí của quốc gia”. Quý vị không thể nào mà cứ khoanh tay bất động, và lẩn tránh mãi cái trách nhiệm nặng nề của mình đối với quê hương xứ sở được. Quý vị có thưà khả năng về trí tuệ chuyên môn, cũng như về lòng dũng cảm hy sinh, để có thể cùng nhau thực hiện được những công trình có ích lợi thiết thực cho toàn thể dân tộc trong lúc dầu sôi lưả bỏng lúc này.

    Chúng tôi chỉ biết trình bày trung thực và chính xác về tình trạng nguy ngập như vậy, và lên tiếng báo động với toàn thể bà con về chuyện này. Mà không hề dám có tham vọng đưa ra một giải pháp lớn lao cụ thể nào cho vấn đề trọng đại này của toàn thể quốc gia. Việc đó quả là khó khăn, phức tạp, nó vượt ra ngoài khả năng hạn hẹp của anh em chúng tôi. Vì thế, nên chúng tôi chỉ biết kêu gọi đến tinh thần dấn thân nhập cuộc của tất cả mọi con dân ưu tú người Việt nam hiện đang ở trong cũng như ở ngoài nước, đặc biệt là giới lãnh đạo tinh thần và tầng lớp sĩ phu quân tử, để cùng nhau “nối vòng tay lớn” nhằm cứu nguy đất nước khỏi cơn khủng hoảng trầm luân này.

    California, Tháng 11 Năm 2009
    Đoàn Thanh Liêm

    Saturday, December 5, 2009

    TINH THẦN TRẦN VĂN BÁ ĐÃ MỞ ĐƯỜNG CHO TUỔI TRẺ VIỆT NAM - Đinh Lâm Thanh


    Đinh Lâm Thanh

    Phải là một thanh niên phi thường với tấm lòng yêu nước nhiệt tình, Trần Văn Bá đã can đảm từ bỏ tất cả tương lai và sự nghiệp của mình để dấn thân trở lại quê hương, hoạt động chống kẻ thù ngay giữa lòng địch trong lúc cả triệu người Việt đang tìm đường vượt biên trốn chạy Cộng sản.

    Đúng vậy, sau ngày thân phụ là cựu dân biểu Trần Văn Văn bị ám sát, Trần Văn Bá đã tự túc qua Pháp tiếp tục chương trình trung học. Sau đó anh chọn khoa Chính Trị Kinh Doanh tại đại học Nanterre, nơi mà đa số giáo sư có khuynh hướng thân Cộng. Dù gặp nhiều khó khăn tinh thần giữa quan niệm chính trị thầy trò nhưng anh đã tốt nghiệp và trở thành Phụ tá Giảng viên tại đây. Năm 1972, đắc cử chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia tại Pháp, anh đã hoạt động hăng say, dốc toàn sức xây dựng một lực lượng sinh viên hùng mạnh để đương đầu với các phong trào phản chiến tại Pháp và chương trình địch vận của Hà Nội trước bối cảnh đất nước trong cơn sốt chiến tranh với nhiều áp lực từ bên ngoài và những trận chiến khốc liệt do Cộng sản đánh phá tại Miền Nam.

    Phải là một thanh niên đầy nhiệt huyết trước cảnh nước mất nhà tan, Trần Văn Bá đã xả thân đứng lên kêu gọi sinh viên chống lại chế độ Cộng sản ngay từ những ngày cuối tháng Tư năm 1975 và lãnh đạo tổng hội Sinh Viên Quốc Gia để đương đầu với thành phần côn đồ, đâm thuê chém mướn do sứ quán Hà Nội điều động, nhất là sau ngày Cộng sản Việt Nam chính thức đặt liên hệ ngoại giao với chính phủ Pháp.

    Người Việt ở Paris trong thời gian nầy đều nhớ rõ những cuộc cuộc biểu tình bỏ túi, rải truyền đơn chống Cộng cũng như những đụng độ xảy ra thường xuyên giữa hai nhóm Quốc Gia và Cộng sản, từ khu chợ Tàu Paris 13, khu vực Việt Cộng Mauber Paris 5, trên đường phố cho đến các trạm métro. Anh chị em thuộc tổng hội sinh viên Quốc Gia phối hợp với thanh niên tỵ nạn đêm ngày dán truyền đơn kể tội Cộng sản, đôi lúc phải xung đột với nhóm thanh niên sinh viên Cộng sản, Việt kiều yêu nước và đám cô hồn do sứ quán Việt Nam trả tiền để chống việc làm của anh chị em sinh viên và người tỵ nạn mới qua. Một vết son cần phải nhắc lại, thời kỳ đó, Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia thường tổ chức một cách công khai tại rạp hát Maubert những chương trình văn nghệ mà chủ đề hướng về quê hương tổ quốc, vinh danh tự do của chế độ Cộng Hòa…Tinh thần Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã được Trần Văn Bá và Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia duy trì, phát động và làm sống lại kể từ ngày đó.

    Phải là một thanh niên mang nặng tình người, Trần Văn Bá cùng Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia đã tổ chức tiếp đón, chăm sóc phục vụ cho người tỵ nạn trong những năm đầu tiên họ đặt chân đến Pháp.

    Dù trong hoàn cảnh khó khăn về tinh thần lẫn vật chất nhưng Trần Văn Bá, Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia đã tận tình giúp đở những người trốn chạy Cộng sản vừa chập chững đặt chân đến Pháp. Từ việc giúp đở phương diện hành chánh, học hành, kiếm người thân đến tổ chức các lớp học giúp người tỵ nạn sớm hội nhập vào xã hội mới. Cá nhân người viết bài nầy đã được anh Trần Văn Bá và các anh chị em trong Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia mở rộng vòng tay ân cần đón tiếp trong dịp lễ Giáng Sinh đầu tiên của đời tỵ nạn, vào năm 1979 trong khuôn viên thánh đường thành phố Issy.

    Phải là một thanh niên khí khái, bất khuất và liên sĩ, Trần Văn Bá đã từ chối việc chống án và chấp nhận chết cho lý tưởng và tổ quốc. Thật là hành động phi thường của một người tranh đấu vì tự do dân chủ, một gương sáng cho những người đang nối nghiệp hôm nay cũng như đối với thế hệ trẻ sau nầy.

    Trần Văn Bá bị tòa án Cộng sản Việt Nam tuyên án tử hình tại nhà Quốc Hội cũ ở đường Tự Do ngày 14.12.1984 cùng với các đồng chí. Anh đã thẳng thắn từ chối việc chống án hoặc xin ân xá mà chấp nhận một cái chết thật oai hùng, thật xứng đáng của một thanh niên Miền Nam. Anh chiến đấu vì dân tộc, vì quê hương tổ quốc và đã chết cho dân tộc, cho quê hương tổ quốc. Cộng sản xử bắn Anh trong khám Chí Hòa ngày 08.01.1985 cùng với hai đồng chí Hồ Thái Bạch và Lê Quốc Quân, sự hy sinh của anh đã trở thành tấm gương sáng chẳng những cho toàn thể nhân loại mà còn cho những ai đang tiếp nối con đường giải phóng dân tộc.

    Phải là một thanh niên can đảm, không hèn nhác sợ sệt trước bạo quyền Cộng sản. Khi bị bắt tại Việt Nam, Trần Văn Bá không bào chữa chạy tội, không van xin, không cam kết hứa hẹn, không phản bội lý tưởng, phản bội đồng đội và tổ quốc mà chấp ra tòa lãnh án tử hình.

    Phải ghi vào lịch sử tranh đấu về tinh thần yêu nước và hành động phi thường của anh hùng Trần Văn Bá để tất cả cùng suy gẫm. Chúng tôi muốn nhắc nhở những người, những tổ chức có mưu đồ bất chính, trở về Việt Nam thăm gia đình hoặc đầu cơ chính trị để ‘được’ bị bắt ! Trước mặt kẻ thù thì cúi đầu qụy lụy, chối cãi tội lỗi và ăn năn sám hối nhưng lại cam kết những điều kiện ngầm. Khi được Cộng sản trả tự do, trở về gia đình họ không nhìn thấy vết chàm trên trán mà bắt đầu một chương trình quảng cáo đánh bóng cá nhân, đoàn thể…

    Nhân ngày giỗ thứ 23 Anh Hùng Trần Văn Bá, chúng tôi xin gởi một vài ý tưởng thô sơ đến :

    * Các bạn trẻ ở hải ngoại:

    Chúng tôi không dám mơ ước các bạn sẽ lên đường dấn thân theo gương anh hùng Trần Văn Bá mà chỉ cầu xin một điều nhỏ: Các bạn hãy hướng về quê hương, tổ quốc cũng như đồng bào ruột thịt đang đau khổ dưới ách thống trị của đảng Cộng sản. Với một tinh thần yêu nước thương quê hương, với một bầu nhiệt huyết sôi sục trước quân thù, các bạn trẻ là động lực chính làm nên lịch sử. Xin hãy tập trung dưới một màu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với chúng tôi để đẩy mạnh việc tranh đấu của chúng ta chóng đến ngày thành tựu. Đã là người tỵ nạn, chạy trốn chế độ độc tài Cộng sản thì không thể chấp nhận lá cờ máu Đỏ Sao Vàng, vì đây chính là cờ của đảng Cộng sản. ‘Đỏ Sao Vàng’ không phải biểu tượng của nước Việt Nam thân yêu của chúng ta mà là cờ của một tập đoàn Cộng sản độc tài khát máu, của chiến tranh chết chóc, của nô lệ ngoại bang Tàu Cộng.

    Cờ Máu là một biểu tượng nô lệ bằng ngôi sao thứ năm trên cờ Trung Cộng. Tàu Cộng vừa thêm một ngôi sao trên cờ máu của chúng, (5 sao vàng nhỏ vây quanh hầu 1 sao vàng lớn) có nghĩa là Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận trở thành tên nô lệ thứ năm nhưng vẫn bày trò mập mờ ra lệnh cho du sinh dùng cờ Máu biểu tình chống Tàu Cộng ! Đây là trò bịp cố hữu hay một sai lầm trầm trọng khi Cộng sản Việt nam ra lệnh cho du sinh cầm cờ ‘thuộc địa nô lệ’ đến các sứ quán Trung Cộng chống lại ‘mẫu quốc đồng chí’ của mình !

    Kể từ giờ phút nầy dân tộc Việt Nam, tổ quốc Việt Nam chỉ còn độc nhất Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, vì Đỏ Sao Vàng của đảng Cộng sản đã trở thành cờ thuộc địa thứ 5 của Tàu Cộng.

    Xin hãy suy nghĩ, các bạn là con cháu của một nước Việt Nam oai hùng, các bạn mang giòng máu bất khuất của tiền nhân đã anh dũng chống ngoại xâm phương Bắc trong hàng chục thế kỷ. Tại sao ngày nay các bạn lại cam tâm chấp nhận cúi đầu dưới cờ máu Đỏ Sao Vàng để trở thành nô lệ của Trung Cộng thêm một lần nữa ?

    Các bạn thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba nghĩa là các bạn theo gia đình chạy trốn Cộng sản lúc còn bé, hoặc được chào đời và trưởng thành ở hải ngoại, các bạn không biết hoặc chưa biết nhiều về Cộng sản. Các bạn dễ bị dụ dỗ và mua chuộc bằng những hình thức kiều vận tinh vi dưới nhiều khía cạnh nhằm mục đích khơi động tinh thần yêu nước, lý tưởng tuổi trẻ và lòng nhiệt thành để lôi kéo các bạn đi vào con đường phục vụ chế độ độc tài độc đảng của chúng. Trái tim các bạn đầy nhiệt huyết, tình yêu các bạn bao la và chất xám các bạn phi thường thì hãy cùng thế hệ chúng tôi góp công góp sức tranh đấu cho Đất Nước, cho Tự Do Dân Chủ, cho Ấm No Hạnh Phúc của tám chục triệu dân Việt Nam đang đau khổ dưới bạo quyền Cộng sản. Đây chính là một hình thức đền ơn các bậc sinh thành đã hy sinh suốt cuộc đời để các bạn thành công ngày nay. Các danh vị tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư hoặc của cải tài sản mà các bạn có được ngày hôm nay là chính do trí thông minh và sự hiếu học của các bạn tạo thành. Nhưng xin đừng quên một điều quan trọng, đó cũng là mồ hôi, nước mắt của cha mẹ phải thức khuya dậy sớm bỏ báo, lượm lon, quét chợ, khiêng hàng, cắt cỏ, làm việc hai ba job trong những ngày đầu vừa đặt chân đến vùng đất tự do để lo cho các bạn ăn học. Nói xa hơn nữa cũng phải tính đến xương máu của những người đã nằm xuống trong cuộc chiến cũng như chìm sâu dưới biển cả. Chính những hình ảnh nầy đã đánh thức lương tâm nhân loại và thúc đẩy khối tự do mở rộng vòng tay để các bạn có con đường sống, học hành và thành công. Uống nước phải nhớ nguồn, đừng nghe theo những lời đường mật của Cộng sản để phản bội lại cha ông và những người đã nằm xuống để cho các bạn có cơ hội đứng dậy ! Vậy hãy tiếp tay với chúng tôi, tẩy chay cờ Đỏ Sao Vàng, xuống đường hỏi tội đảng Cộng sản bán nước hại dân.

    * Các bạn trẻ tại quốc nội:

    Với phương tiện và kỹ thuật truyền thông hiện đại, Cộng sản Việt Nam không thể bưng bít tin tức và hình ảnh trên thế giới về các vấn đề nhân quyền, chính trị, kinh tế liên quan đến Việt Nam. Sau biến cố Hoàng Sa Trường Sa, gần như toàn dân Việt Nam đã sáng mắt sau hàng chục năm bị nhà cầm quyền Cộng sản bưng bít, lừa gạt, tuyên truyền và nhồi sọ bằng những hình ảnh yêu nước của Hồ Chí Minh cũng như cái bánh vẽ vĩ đại của đảng. Nay toàn dân đã tĩnh thức và can đảm đối diện trước rào kẽm, súng đạn để hỏi tội đảng Cộng sản mà trong đó, thanh niên sinh viên học sinh là thành phần tiên phong xuống đường và cũng là nòng cốt của các cuộc nổi dậy.

    Lịch sử đã chứng minh, vai trò thanh niên sinh viên học sinh chính là ngòi nổ, là tiếng súng lệnh mở đầu cho công cuộc tranh đấu và cũng chính giới trẻ sẽ kết thúc cuộc cách mạng trong vinh quang để đem hạnh phúc no ấm, tự do dân chủ cho toàn dân. Như vậy chính tay các bạn sẽ làm nên lịch sử thì hãy can đảm đứng lên theo tiếng gọi của khối óc, con tin và niềm tự hòa của tuổi trẻ Việt Nam.

    Nếu các bạn thuộc thành phần hậu duệ của Việt Nam Cộng Hòa, chào đời và trưởng thành dưới chế độ Cộng sản, chắc các bạn cũng biết tổ tiên và gia đình đã bị phân loại làm thứ dân dưới chế độ mới, bị trù dập từ hàng chục năm qua, thì nay, chính các bạn phải lãnh nhiệm vụ vai trò đầu cầu, tích cực bên cạnh các bạn trẻ của chế độ mới, các tổ chức đòi nhân quyền, dân oan, giáo oan để xuống đường đẩy cuộc cách mạng mau đến thành công.

    Đối với các bạn là con cháu của chế độ mới, được sinh ra và lớn lên trong vòng tay của cha ông, sống nhờ ân huệ của đảng và nhà nước, thì dù sao bạn phải bảo vệ những gì đảng và nhà nước đã ban bố. Tuy nhiên chúng tôi có vài điều muốn đặt ra với trái tim và lương tâm của các bạn. Các bạn là người yêu quê hương tổ quốc, các bạn có học, thông minh, các bạn đã ra xứ ngoài nhiều dịp và chắc chắn đã có lần so sánh về hai chế độ Tự do và Cộng sản. Nói một cách chính xác hơn, hình ảnh trái ngược giữa một nước Việt Nam Cộng sản với một quốc gia Tây Phương Tự Do. Các bạn có đau lòng khi thấy đất nước đã 33 năm ngưng hẳn tiếng súng, hàng triệu khối óc thông minh, hàng chục triệu bàn tay lao động trong một xứ sở được thiên nhiên ưu đãi với những đồng ruộng có bay thẳng cánh, sông nước mênh mông, đất đai màu mỡ, tôm cá đầy đồng, tài nguyên trù phú…cộng với hàng trăm tỷ đóng góp từ nước ngoài, hàng chục tỷ ngoại tệ vay mượn, nhưng đảng CS đã làm được gì cho quê hương, cho đất nước và dân tộc ? Các bạn là những người có kiến thức, biết nhận định, hãy thử làm những con tính để thấy cái dốt nát của nhóm lãnh đạo, cái vô trách nhiệm của giới cầm quyền Cộng sản và lòng tham vô đáy của tập đoàn bán nước. Theo bảng thống kê quốc tế mới đây, mức thu nhập trung bình hằng năm của người Việt Nam được quốc tế xếp vào hạng áp chót. Thật xấu hổ khi Cộng sản rêu rao rằng Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là chiếc nôi của nhân loại, đỉnh cao trí tuệ của loài người mà vẫn còn đứng sau những xứ quê mùa lạc hậu ở Phi Châu. Nhưng khi đề cập đến nhân quyền, tự do, bóc lột, đàn áp, nạn đĩ điếm, nạn buôn người, tình trạng tội phạm, tình trạng tham nhũng thì Việt Nam dẫn đầu thế giới !

    Các bạn có xấu hổ khi toàn thế giới nhìn vào những bộ mặt Việt Cộng đang ngồi trên ghế ủy viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ? Chiếm được ghế ngồi tại đây là một vinh dự cho đất nước, nhưng chúng ta không nên mừng, vì đảng Cộng sản đã tự hủy vai trò cao quý đồng thời tự bôi tro trát bùn lên bộ mặt của chúng bằng những hành động đã và đang xảy ra dưới chế độ. Từ việc cai trị độc quyền sắt máu, lấy đất cướp của dân lành, đàn áp tự do dân chủ, bắt bớ tù đày đối lập, cướp bóc tham nhũng vô độ, xuất khẩu nô lệ ồ ạt, bán gái làm vợ năm châu, tổ chức mại dâm câu khách đến hành động dâng đất hiến biển cho Tàu Cộng, thì đối với người tự do hải ngoại, đây là một mối nhục của dân tộc Việt Nam. Vậy đối với các bạn trẻ trong nước, xin hãy dùng con tim và lý trí để phán xét sự việc, chúng tôi tin chắc các bạn sẽ tìm được lối thoát một khi tình cảm, lương tâm và tự ái trong con người các bạn tĩnh giấc và vùng dậy ?

    Chúng tôi nói thật điều nầy, từ những người trong trung ương bộ chính trị đảng Cộng sản đến cha ông các bạn, cũng như chính bản thân các bạn hoàn toàn không còn tin tưởng vào sự sống còn của chế độ. Tất cả đều biết ngày tàn của đảng Cộng sản đã đến và chắc chắn các bạn đều biết, từ cán bộ trưng ương bộ chính trị xuống đến viên chức địa phương đang vội vàng tìm cách vơ vét thu góp tài sản chuyển ra ngoại quốc hầu tìm đường thoát thân. Tập đoàn lãnh đạo đảng đang tìm đường thoát thân, tìm cách chuyển tiến của đi trước, dĩ nhiên họ đã thấy trước ngày tàn của quyền lực thì tại sao các bạn lại níu kéo dài sự hiện diện của đảng Cộng sản.

    Giờ đây đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là một xác chết đã rữa nát mà hồn thì đang đi tìm thiên đường tư bản để nương tựa. Một mai đổi đời, trong lúc đám cán bộ trong bộ chính trị trung ương đảng tiếp tục cuộc đời đế vương thì chính các bạn sẽ lãnh một gia tài rách nát, nợ nần. Quê hương tổ quốc là của các bạn, tương lai lãnh đạo và xây dựng đất nước đều nằm trong tay các bạn thì tại sao ngay từ giờ phút nầy không thừa cơ hội đạp đổ cái xác chết thối nát Cộng sản để lập lại thiên đường Tự Do cho một nước Việt Nam mới ?

    Chúng tôi nghĩ rằng, tinh thần Trần Văn Bá đã kịp thời khơi dậy tinh thần yêu nước của thế hệ các bạn trẻ. Các bạn không còn cô đơn, không phải sợ sệt vì từ hải ngoại đến quốc nội sẽ có hàng trăm hàng ngàn Trần Văn Bá cam đảm xuống đường tranh đấu chống bạo quyền Cộng sản thối nát, giành lại tự do, nhân quyền, no ấm hạnh phúc cho toàn dân để chúng ta có đủ thực lực đứng lên chống Tàu Cộng, đòi lại giang sơn gấm vóc đang năm trong tay quân ngoại xâm.

    Nhân ngày giỗ thứ 23, chúng tôi chân thành cúi đầu trước vong linh anh hùng Trần Văn Bá, một người đã hy sinh đời mình cho đại cuộc, cho lý tưởng tự do và hạnh phúc của toàn dân. Anh đã chết để cho hàng triệu người được sống, và anh sẽ sống mãi trong tâm hồn của hàng chục triệu người đang khao khát tự do hạnh phúc. Đó có lẽ là niềm mơ ước mà anh hằng ấp ủ trong suốt cuộc đời tranh đấu và cũng là hành trang của một người nằm xuống vì quê hương tổ quốc.

    Cuối cùng, chúng tôi nhân cơ hội nầy, xin nghiêng mình trước tinh thần yêu nước của các bạn trẻ Việt Nam đã đồng thanh vùng dậy hỏi tội Cộng sản về việc bán đất dâng biển cho quan thầy Tàu Cộng.

    Đinh Lâm Thanh
    Paris, ngày 08.01.2008



    Chuyện tiếu lâm XHCN - Nguyễn Thanh Ty

    Nguyễn Thanh Ty

    Nước An Nam ta từ xưa đến giờ chưa có khi nào chuyện tiếu lâm trong dân gian lại được mùa nở rộ, nở toè loe toét loét, nở đại trà như nấm dại sau những cơn mưa dông tháng năm, tháng sáu Âm lịch, ở vào thời kỳ sau năm 1975, lúc đám cán ngố, cả đực lẫn cái, từ rừng sâu, núi cao kéo về thành, ăn mặc lôi thôi nhếch nhác, quần nhăn nhúm, ống xắn lên quá gối, cổ vắt khăn lau mặt cáu bẩn, áo màu cứt ngựa rộng thùng thình bỏ ra ngoài, ngồi chồm hổm co chân trên ghế, đầy hè phố, miệng nhồm nhoàm vừa hả hê gặm xoài chín, vừa “nổ” chuyện trời ơi đất hỡi, khoác lác về những “ưu việt tưởng tượng” của miền Bắc, cái gọi là thiên đường Xã hội Chủ nghĩa.

    Nếu có ai chịu khó góp nhặt, gom hết lại những chuyện cười “tức như bò đá” do các cán ngố này gây ra hàng ngày để in thành sách, chắc phải dùng tới hàng trăm xe trâu hay xe bò mới chở hết.

    Và nếu so với chuyện tiếu lâm cũ xì, cũ xịt như truyện Ba Giai Tú Xuất, Trạng Quỳnh, Lý Toét Xã Xệ hoặc gần gần đây chừng nửa thế kỷ trở lại, chuyện do ông Đặng Trần Huân sưu tầm v.v… thì “chất lượng” chuyện của đám cán ngố này vừa ngớ ngẫn vừa ngốc nghếch, buồn cười hơn bội phần.

    Bây giờ đang là giai đoạn “đổi mới” (nghĩa là đang trở lại y như cũ, thời “phồn vinh giả tạo” của Việt Nam Cộng Hòa – Mỹ Thiệu) nên những chuyện “cái nồi ngồi trên cái cốc”, “kem ba màu ăn không hết phải phơi khô để dành”, “ti vi ngoài Bắc chạy đầy đường”, “ngoài Bắc trái cà chớn to như cái thau”, “máy chém của Mỹ Diệm ở miền Nam nhà nào cũng có” … hồi mới “phỏng giái” đã “quá đát” không còn gây cười được nữa.

    Mười năm sau cái ngày toàn dân cả nước bị “phỏng giái” tức năm 1986, đảng và Nhà nước ta đành phải vẫy tay giã từ “cơ chế kinh tế bao cấp” để “hồ hỡi phấn khởi” chạy theo vết xe “bóc lột” của bọn đế quốc tư bản làm “kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cán bộ ta, từ ông chủ tịch nước đến ông chủ tịch ấp, thảy thảy đều quăng bỏ dép râu, nón cối, xắc cốt, áo bốn túi kiểu Mao, xe đạp Phượng Hoàng, xe hơi “Môtôlốpcốp” vào thùng rác và thay vào đó áo sơ mi cổ cứng ủi ngay nếp, còm lê vét tông, thắt mực khô tòng teng trước cổ, (để dành lau nước mũi) giày da Tây bóng lộn, cặp “xăm xô nai” le lói, xe hơi Mẹc xê đì” của Mỹ “hoành tráng”. Nhưng dù có thay đổi gì đi nữa cán bộ ta vẫn không cách nào giấu được cái đuôi, (thằng người có đuôi) y như con khỉ Tề Thiên Đại Thánh dù có 72 phép thần thông biến hoá ra đủ thứ hình dạng vẫn không dấu được cái đuôi khỉ phía sau đít với pháp nhãn của Phật Bà Quan Âm.

    Thời đại mới, cái ngớ ngẫn, ngờ nghệch lúc ở trên núi xuống như nuôi cá trong bồn cầu, xây chuồng heo trên lầu thượng… không còn nữa nhưng chuyện tiếu lâm của Xã hội Chủ nghĩa “đổi đời” cũng “ấp đét” theo, có “chất lượng cao”, có “quan hệ hữu cơ” ở mức độ mạnh do sự lòi ra cái đuôi ngu dốt nhưng cứ vênh mặt ta đây là “đỉnh cao trí tuệ” càng gây cho dân cười thỏa thích cũng nhiều mà bực mình chửi cũng lắm.

    Những Tiến sĩ, Phó Giáo sư lý luận gia của Viện Mác Lê và Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Hà Nội giải thích rằng đó là hiện tượng tất yếu của thời kỳ quá độ của Xã hội Chủ Nghĩa, để đi lên Chủ nghĩa tư bản. Cho nên từ trình độ nhận thức ấu trĩ của xã hội cộng sản miền Bắc ở thời đại bán khai còn săn bắn hái lượm chuyển sang xã hội tư bản, một xã hội công nghiệp hóa hiện đại, văn minh của miền Nam thì những “sự cố” xãy ra “hàng ngày ở huyện” được liệt vào kho tàng “tiếu lâm thời đại” ắt-có-và-đủ-điều-kiện-để-phải-xãy-ra là chuyện đương nhiên. Một hiện tượng rất khoa học và rất “logic”.

    Và nó cũng đeo theo nòng súng A.K, dao găm, mã tấu xồng xộc dẫm những bước chân dép râu thô bạo đi vào lịch sử văn học nước nhà bằng cái tên nghe rất rổn rảng gọi là “nền văn hóa mới Xã hội Chủ nghĩa”.

    Còn chất tiếu lâm cười đến mức độ nào như trắng, xám, đen để cười mĩm, cười mĩa, cười chua, cười mũi, cười hì, cười hà thì còn phải xem xem chuyện do cán bộ cấp nào như huyện, tỉnh hay trung ương gây ra, tạo nên. Dĩ nhiên cấp cán bộ càng cao thì chuyện tiếu lâm do họ sáng tác và trình diễn phải có chất hài hơn, giễu hay hơn và cười nôn ruột hơn.

    Bởi các quan trong Bộ Chính trị của đảng CSVN chịu qui luật “cha truyền con nối” bất khả đổi là “ấu bất học bất tri lý – nhỏ không học lớn làm chính ủy”, chức vụ tỷ lệ nghịch với sự hiểu biết. Ghế càng cao chất xám trong não càng ít. Đít ngồi lâu phình to ra phía dưới thì óc ở phía trên càng bé lại.

    Vì thế các lãnh đạo chóp bu của Bắc Bộ phủ chuyên đi tấu hài ở khắp nơi trên thế giới để kiếm “đô” thì nhất định là phải “thọc cù léc” cho khán giả cười bằng thích, cười bể bụng luôn.

    Sau đây là một số “sự kiện” còn nóng hôi hổi đã được (bị) các lãnh đạo ta biến thành “sự cố” tiếu lâm, người viết xin ghi lại vài chuyện điển hình để hải nội chư quân đọc chơi giải trí nhưng cấm có cười, vì những chuyện này đều thuộc loại “bí mật quốc gia”, khi cười hở mười cái răng tức là lộ bí mật rất nguy hại đến “an ninh quốc phòng”.

    Nhưng cũng có chuyện muốn cười một chút để an ủi cũng cười hổng nổi.

    Chuyện tiếu lâm Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nói riêng và khối cộng sản nói chung, thời lên voi nhuộm đỏ nửa địa cầu, cũng như thời xuống chó chỉ còn có 4 ngoe Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam đang ngáp ngáp chờ chết, nhiều muôn trùng, bằng con số bậc cấp của con đường vô tận đi lên thiên đường cộng sản.

    Nhân đây cũng xin lướt qua một chút chuyện tiếu lâm “Con đường lên thiên đàng cộng sản” trước khi vào “dòng chính” của các lãnh đạo ta.

    Năm 1968, Tết Mậu Thân, sau khi Boác Hù thất bại trong tham vọng đánh chiếm miền Nam, uất ức quá nên không chịu sống nữa bèn “chuyển sang từ trần”. Hồn vừa lìa khỏi xác, Boác hối hả chạy đi kiếm các bác Lê, Các, Xít, Mao để bái kiến tương ngộ. Trước đó, Boác nghe nói bọn họ đã tìm ra “thiên đàng cộng sản” và đang hưởng phước ở trển.

    Bốn mươi năm sau, thời điểm 2009, Boác Hù đang thở phì phò, hì hà hì hục bò lên các bậc cấp dẫn lên thiên đàng, đầu óc còn đang hoang mang và thắc mắc không hiểu ai đã dùng phấn vạch lên các bậc cấp, mỗi bậc một vạch để làm chi thì thấy Bác Mao hấp tấp đi xuống.

    Boác Hù mừng quá, vội đứng thẳng người lên, tay trái xuội xuống đùi, tay phải nắm lại, giơ cao ngang trán chào kính và hỏi:

    - Chào đồng chí Mao Xếnh Xáng vĩ đại! Đồng chí đã lên tới thiên đàng cộng sản chưa??
    - Chưa! Đường còn xa lắm! Ngộ đang dùng phấn đánh dấu bậc cấp để đếm xem phải đi bao nhiêu bậc mới tới thiên đàng.
    - Thế đồng chí đi ngược xuống làm chi?
    - Ngộ vừa đi vừa đánh dấu đã hơn 60 năm rồi, đã dùng hết mấy ngàn thùng phấn mà vẫn chưa thấy cổng thiên đàng, lại hết phấn. Ngộ phải xuống để lấy thêm phấn đây!
    Boác Hù nghe xong, quá thất vọng, thở hắc ra cái phì, té phịch xuống đất, chết thẳng cẳng thêm lần nữa.

    Chuyện Ông Chủ tịch Huyện Hoàng Sa

    Tháng 12 năm 2007, bọn bành trướng Bắc Kinh ngang nhiên sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào đảo Tam Sa của chúng, biến thành huyện Tam Sa, lập cơ quan hành chính, đem quân lính và dân thường lên đóng chốt, lập đồn, xây dựng nhà cửa tạo cuộc sống lâu dài, xem hai đảo đó đương nhiên là của chúng từ khuya.

    Để phản đối bọn Tàu bá quyền cướp nước, thanh niên, sinh viên học sinh, nhà văn Việt Nam, mấy trăm người xuống đường, kéo nhau đến trước Tòa Đại sứ và Tổng lãnh sự quán của Bắc kinh tại Hà Nội và Sài Gòn để biểu tình đòi lại hải đảo. Đoàn biểu tình hai nơi đều “được” công an Nhà nước ta đánh cho te tua, tơi tả, nhiều người còn bị bỏ tù vì cái tội như Nhà nước cho biết: Nào là: Biểu tình mà không làm đơn xin phép trước – Cầm đèn chạy trước ô tô, vượt mặt đảng và Nhà nước, gây khó khăn trong vấn đề ngoại giao “nhạy cảm”, làm xấu đi tình hữu nghị 16 chữ vàng giữa hai nước Việt Trung v.v… Chuyện tưởng chừng chìm trong sự nhục nhã.

    Bẵng đi hơn nửa năm, đầu tháng 5/2008, thành phố Đà Nẵng bỗng tổ chức linh đình lễ trao quyết định bổ nhiệm lần đầu tiên chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân quận, huyện trực thuộc thành phố. Người dân Đà Nẵng bật ngữa ra rất bất ngờ khi thấy ngoài số 6 ông quận, ông huyện thuộc thành phố Đà Nẵng còn có thêm một ông huyện mới là ông huyện Hoàng Sa, cai quản cái đảo Hoàng Sa mà chỉ có toàn dân Tàu cư ngụ.

    Người dân Đà Nẵng ôm bụng cười ngất khi đọc cái quyết định có đoạn nói rằng nhiệm vụ chính yếu của ông Huyện Hoàng Sa trong giai đoạn hiện nay là “thu thập chứng cứ, tài liệu lịch sử về chủ quyền của ta về Hoàng Sa”.

    Một cư dân thành phố Đà Nẵng, ông Nguyễn Vọng, kể chuyện tiếu lâm này như sau:

    “Cái ông Huyện này mới nhậm chức được có mấy bữa, chưa có tai tiếng gì so với mấy ông bạn đồng liêu kia, nhưng so với mấy ông huyện kia thì ông huyện này có vài đặc điểm có thể gọi là đặc thù mà những ông huyện kia không có được. Ông cũng có trụ sở, thậm chí còn có cả ô tô con, nhưng cái phần lãnh thổ mà ông được phân công cai quản thì chắc chắn ông chưa từng được trông thấy một lần trong đời, thậm chí cả chuyện trông thấy trên truyền hình. Có người bảo ông xui hay bị đì nên mới được (bị) trên cho đi làm cái chức trời ơi đất hỡi như vậy, không có lấy một tên dân đen nào để cai quản thì biết lấy ai ra mà hoạnh hoẹ mà hạch xách đây hở trời! Lại còn chưa biết cái huyện của mình nó rộng, dài, tròn, méo ra sao thì làm sao mà “dự án” với “quy hoạch”, thôi phen này thua là cái chắc. Có người lại bảo là ông sướng, chẳng làm gì cả mà tháng nào cũng lãnh lương đủ, nhưng nói như mấy người trên kia là chưa hiểu đầy đủ về ông rồi, không có tiền trước mắt thật đấy nhưng rồi các anh ở trên cũng sẽ chiếu cố vào nhiệm kỳ sau thôi, chỉ sợ không có sức mà ăn. Điều làm ông huyện Hoàng Sa bận tâm là chuyện này cơ. Số là trong cái quyết định có đoạn nói rằng cái nhiệm vụ chính yếu của ông huyện Hoàng Sa trong giai đoạn hiện nay là “thu thập chứng cứ, tài liệu lịch sử về chủ quyền của ta về Hoàng Sa”. Cái này mới gay đây vì người ta quá biết những cái liên quan đến tài liệu, lịch sử, chữ nghĩa đều không phải là sở trường của các anh Huyện thời nay” (Ngưng trích)

    Ông Nguyễn Vọng Đà Nẵng kể chuyện tiếu lâm mà cứ như Thánh nói, không sai trật đi đâu được. Kể từ lúc ông huyên này ngồi lên ghế chủ tịch huyện Hoàng Sa thì ngư dân của tỉnh Quảng Đà ra khơi hành nghề bị bọn tàu ô Trung Quốc đánh, giết, cướp tàu, đâm tàu bể nát, bắt giam người đòi tiền chuộc con số lên đến cả trăm vụ, nhân mạng thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Thế mà không thấy mặt mũi ông huyện đâu, kể cả tiếng nói của ông cũng chẳng nghe được lời nào. Không biết ông lặn đi đâu mất tiêu.

    Không những ông Huyện Hoàng Sa trốn mà luôn ông Chủ tịch thành phố Đà Nẵng, ông Tổng bí thư Mạnh, ông Chủ tịch nước Triết, ông thủ tướng Dũng cũng trốn biệt dạng. Không thấy một ai trong cái đảng cộng sản Việt Nam, cái Nhà nước đương quyền nói lên một lời bênh vực chứ đừng nói là có “động thái” bảo vệ cho dân.

    Chỉ tội cho ngư dân nghèo khổ Lý Sơn thân cô, thế yếu đành giơ đầu chịu báng, giơ lưng chịu đòn hành hạ tàn nhẫn, hiếp đáp dã man của bọn Tàu ô cướp biển một cách đau đớn nhục nhã mà thôi.

    Nhưng mới đây, người dân trong nước giật mình ngơ ngác không hiểu đảng ta và Nhà nước ta đang bí mật thi hành một âm mưu gì mà không chịu đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhân cơ hội Việt Nam được giữ chức Chủ tịch luân phiên mà lại có ý định đưa vũ khí cho ngư dân để họ tự vệ và đánh nhau với lực lượng hùng hậu của hải quân Tàu.

    Ngư dân Quảng Đà mới nghe nói vội vừa xua tay, lắc đầu ngoày ngoạy, vừa mếu máo:

    - Đảng và Nhà nước các ông có quân đội, công an rần rần, rộ rộ súng ống, dùi cui trong tay mà không dám ra mặt đánh nhau với bọn Tàu thì thôi, chớ sao lại đẩy chúng tôi vào chổ chết như thế. Chúng tôi tay không thì còn có cơ may chúng nó tha chết cho, chứ có cái súng trong ghe lại là cái cớ chúng giết cho lẹ. Các ông khéo nói giễu thì thôi.

    Chuyện ông Đào Duy Quát

    Quát vô tài bất tướng, ngày ngày theo bọn du thủ, du thực ăn chơi đàng điếm nhưng lại có bố là Đào Duy Tùng, Ủy viên Trung ương đảng đỡ đầu nên lọt vào cơ quan đầu nậu của đảng và cứ thế tà tà leo cao, chui sâu tót lên đến chức vụ Viện phó Viện nghiên cứu Mác Lê và Tư tưởng Hồ chí Minh. Vì thành tích đồi trụy, sa đọa trong lối ăn chơi nên bị mất chức. Tưởng đâu là phải về vườn “học cày, chăn trâu” trở lại như thuở khố rách áo ôm, ngờ đâu bố Tùng lại đỡ thằng con quí tử lên chức khác ngon ăn hơn: Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương kiêm luôn chức Tổng biên tập báo điện tử của đảng. Quát ngồi ở vị trí này suốt 12 năm mà không biết một chút gì về cái gọi là Văn hóa hay Tư tưởng sất. Ngay cả việc điều hành tờ báo điện tử cũng ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, chẳng hề biết trên báo đăng cái gì, suốt ngày chỉ la cà ở mấy chổ ăn chơi trụy lạc, dâm ô. Ông Vũ minh Ngọc, một cán bộ, đảng viên lão thành ở Hà Nội nhận xét: “Nếu để cho tên Quát này ngồi ở ghế Tư tưởng Văn hóa thì chẳng mấy chốc cái đất nước này trở thành nhà thổ”.

    Mới đây, trên báo điện tử do Quát làm Tổng biên tập cho đăng một bài báo tường thuật hải quân Trung Quốc tập trận trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được dịch nguyên con từ báo Tàu, xem như gián tiếp khẳng định hai đảo này là thuộc quyền của Tàu. Quát bị dư luận trong nước lên tiếng chống đối dữ dội, kết án là phản bội, phản quốc, tay sai của Tàu. Nhưng với cái thói ngu dốt của cường quyền, Quát vẫn cứ phớt lờ dư luận và trả lời xấc xược với báo chí rằng: “Chỉ là lỗi kỹ thuật thôi! Chả có gì! Nhá!”.

    Cuối cùng, bị búa rìu dư luận càng lúc càng dữ dội, đảng ta đành phải đem Quát ra, giơ cao đánh khẻ, phạt vạ 30 triệu đồng tiền Hồ để gọi là xử lý việc làm sai trái. Đối với bản án đầu voi đuội chuột này, Quát nhe răng ra cười hì hì vì vẫn được tiếp tục giữ y chức cũ. Vã lại, tiền phạt do đảng trả tức là tiền đóng thuế của dân chứ chẳng phải tiền ông, tiền cha gì của Quát đưa ra mà xót. Và số tiền phạt 30 triệu chưa bằng Quát đi chơi gái một bữa, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ.

    Mấy hôm sau, Quát lại áo mão cân đai, thay mặt đảng và Nhà nước long trọng trong vai tuồng Trưởng ban Tổ chức lên sân khấu phát giải thưởng cho cuộc thi viết về Biển-Đảo.

    Câu chuyện tiếu lâm trên làm cho người dân cười gần chết. Nhưng họ cười vì cái chế độ Xã hội Chủ nghĩa phường tuồng, giễu hề trên sân khấu đời nhiều hơn chứ chẳng phải vì cái án phạt ấm ớ hội tề có tính cách Ngao, Sò, Ốc, Hến giá trị chưa bằng tờ giấy dùng ở nhà xí.

    Chuyện ông Tổng trấn Hà thành Phạm Quang Nghị

    Từ khi leo lên được chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư thành ủy Hà Nội, Phạm Quang Nghị luôn mồm lầm bầm, lẩm bẩm chửi rũa tên Minh râu tàn mạt. Hắn ta chửi Minh râu là vì lão già này rất khéo đóng kịch. Lão đã làm một cuộc cào bằng long trời lỡ đất khiến hàng trăm ngàn con người bị chết oan, chết tức tửi, đau đớn. Lão đưa đất nước đi đến chỗ tan hoang, nghèo đói, thụt lùi trở về thời lạc hậu gần như ăn lông ở lỗ. Vậy mà cho đến nay, lão vẫn cứ được xưng tụng như bậc thần thánh, được đặt tượng ở chùa chiền, ở khắp các trụ sở ủy ban để khói hương nghi ngút, hoa quả nhang đèn cúng lạy ngày đêm.

    Nhưng cái mà quan Tổng trấn Phạm Quang Nghị ấm ức nhất là phải luôn xưng “đày tớ” mỗi khi làm việc với dân. Giả dối đến thế là cùng! Quan phải là phụ mẫu của dân chứ! Đúng đứt đuôi con nòng nọc đi rồi! Sao lại phải cứ luôn mồm hô khẩu hiệu “cán bộ là đày tớ của dân”? Thế là nghĩa lý chó gì? Phải làm một cú cải cách chính danh mới được. Ông Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư thành ủy Hà Nội hạ quyết tâm!

    Dịp may, thời cơ đã đến!

    Cuối tháng 10 đầu tháng 11, cả Hà Nội chìm sâu trong biển nước với cây mưa lịch sử kéo dài dầm dề ba ngày đêm. Sinh hoạt thành phố hoàn toàn tê liệt. Hàng trăm xe máy, xe hơi, xe tải, xe buýt chết máy nằm ngổn ngang. Không ai mò ra đâu là lòng lề đường. Người dân không điện, không dầu, không thuốc men, không nước sạch để uống, không cơm gạo dự phòng để ăn nhưng cùng nhau cố kết bè để di chuyển, chạy lũ tìm chổ cao an toàn cho người già, trẻ em.

    Trong lúc đó chính quyền Hà Nội khoanh tay im ắng. Các ban ngành, các lực lượng cảnh sát, an ninh,… đều mất tăm, biệt dạng. Không một bản hướng dẫn tránh lũ. Không một lệnh điều động lực lượng cứu hộ. Không một lời kêu gọi. Không một tiếng hỗ trợ. Tuyệt nhiên không.

    Vậy lãnh đạo đi đâu hết cả rồi? Hóa ra, ngay thời điểm người dân khốn đốn, vật vã giữa biển nước để kiếm thân nhân hay thoát thân thì lãnh đạo thành phố đang bận họp tổng kết chiến dịch “bình định giáo dân” và gấp rút xây công viên ở Thái Hà và Toà Khâm sứ.

    Nước vừa rút xuống mức an toàn, Phạm Quang Nghị ngồi ô tô vi hành đường phố thấy dân chúng nhếch nhác, cảnh quang hoang tàn, bừa bộn cây ngã, cột xiêu bèn than phiền với ViệtNamNet rằng: “Nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm”. Nhưng quan Tổng trấn Hà thành cũng “hồ hỡi phấn khởi” rút ra được kinh nghiệm quí báu, ngài tuyên bố lần nữa trong bữa họp tổng kết: “Trận mưa lụt là cuộc tổng diễn tập lớn cho tương lai.”

    Trước những lời lẽ vô trách nhiệm và tàn nhẫn như trên chỉ có thể xuất phát từ cửa miệng của một kẻ không có trái tim (trái tim bị chó ăn) nhưng nó lại do một quan lớn trong cái đảng luôn vỗ ngực xưng danh “vì dân, cho dân, phục vụ dân” mửa ra, nhân dân cả nước đã phản ứng mãnh liệt bằng những lời nguyền rũa thậm tệ và bắt phải xin lỗi ngay.

    Ngày 5/11/2008, Phạm Quang Nghị đành phải nói trên ViệtNamNet điện tử: “Tôi thực sự lấy làm tiếc và muốn chân thành xin lỗi bạn đọc, xin lỗi mọi người về những lời gây nên bức xúc và bị phê phán.”

    Buộc lòng phải nói như vậy, nhưng trong thâm tâm Phạm Quang Nghị đã rất hả hê vì trút được lên đầu dân chúng Hà Nội cái ấm ức bấy lâu nay nặng như đá tảng trong bụng, cứ phải đóng kịch, sống giả dối theo gương lão Minh râu.

    Phạm Quang Nghị tuy bị dân phê phán nặng nề (Chó đâu từng đẻ ra quan! Dân đó chứ! Thế mà sao giờ này vẫn còn cái văn hóa đấu tố của hạng đầy tớ chỉ mặt chủ nhân mà te tái mắng mỏ thế này thế khác? Hay vẫn còn đó cái văn hóa nô lệ trên dưới, xin/cho?… Đinh tấn Lực) nhưng vẫn sướng khoái tỉ, hài lòng và chửi thầm trong bụng: “Bọn dân đen chúng mày vẫn còn mê muội lắm. Tao nói thật lòng mà chúng mày không chấp nhận sự thật, lại đi ca ngợi, tôn thờ những điều giả trá của lão Minh râu suốt đời chuyên đóng kịch, đạo đức giả, luôn dùng nước mắt cá sấu và khẩu hiệu để lường gạt chúng mày. Vậy thì chúng mày cứ ráng mà sống trong “thiên đường mù” này vài ba mươi năm nữa nhá!”

    Nhưng không phải người dân nào cũng đều mê muội như quan Tổng trấn Hà thành nghĩ theo cái não trạng tiến sĩ giấy bé hạt tiêu của mình. Ít ra, cũng có một cư dân Hà Nội, ông Hoàng Cúc, nhìn thấy rõ ruột gan của quan, đã hạ bút: “Hình như trong một lúc tỉnh táo hiếm hoi, ông Phạm Quang Nghị đã chợt nhớ tới vở tuồng cũ của vị cha già, nên diễn lại tí chút. Riêng cái món nước mắt sướt mướt dành cho trên hai chục mạng chết đuối giữa thủ đô thì ông Nghị chưa diễn nổi. Hoặc giả số người thiệt mạng còn ít quá, chưa đủ mức để ông diễn lại nguyên vẹn vở tuồng của vị cha già. Dù sao, có lẽ ông sẽ còn phải học tập dài dài tư tưởng và đạo đức của lãnh tụ nọ, may ra mới có ngày chạm tay vào cái dép râu của người mà đám thanh niên gọi là Minh râu.”

    Chuyện như thế, hải nội chư quân có cười nổi không?

    Chuyện ông Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu suốt một đời vì đảng, vì nước noi gương đạo đức của bác Hồ giữ mình “công minh liêm chính”, tích cực chống tham nhũng. Mỗi dịp lễ lạc, kẻ cầu cạnh đem hối lộ cho ngài 5 – 10 ngàn đô xanh, ngài nhất định không nhận, sai người đem trả lại. Nài nĩ lắm, ngài mới lấy nhưng kèm theo lời trách mắng. Khi về nghĩ hưu, sống đời sống thanh đạm, rau muối qua ngày. Nhưng để có rau sạch để ăn, ngài tự tay trồng lấy. Vườn rau trên lầu trị giá 20 ngàn đô. Trang trí bàn thờ sống của ngài bằng cặp ngà voi giá trị sơ sơ 50 ngàn đô. Trống đồng, đồ bảo vật của quốc gia, không dám để ở Viện bảo tàng sợ trộm, ngài tình nguyện đem về nhà để ngày đêm canh giữ. Vân vân và vân vân. Nhưng tài sản đơn sơ của nhà ngài so với nhà của Lê Đức Anh, nghe nói còn thua xa tới mười lần.

    Khi ngài thất chức, người dân Hà thành kháo nhau: ”ông Phiêu ra đi thì kể cũng đáng tiếc lắm ! Tiếc vì sẽ mất đi một nguồn giải trí to lớn. Bởi sân khấu chính trị ở đây thường là quá tẻ nhạt. Cần có tiếng cười cho đời lên hương chứ !…” vì lúc đương quyền ngài được người dân ưa thích bởi những lời tuyên bố rất hề, rất tếu. Chẳng hạn như cảnh ngài thăm đồng bào đang khốn khổ trong vùng lũ lụt, rồi hình như ông nhập bà nhập, bỗng phát đùa với các trẻ em bằng một câu cà chớn: “Thích hè !… Tha hồ bơi lội, các cháu có vui không ?” nghe lảng nhách! Hoặc Tết Trung Thu, ngài vừa ăn nhồm nhoàm một chiếc bánh lớn vừa nói: “Tôi phá cỗ cùng các cháu có mặt ở đây và với cả các cháu không có mặt ở đây nữa”. Nghe thật là vô duyên, ngớ ngẩn. Hề bóng Hoài Linh chắc phải lạy mà chào thua. Nhưng câu nói để đời của ngài được in thành sách, âm thanh, hình ảnh vẫn còn lưu lại trong đài phát thanh, đài truyền hình Hà Nội, để nhân viên ở đây mỗi lúc thấy buồn thì giở ra coi lại cho đời bớt … chó.

    Số là trong bài phát biểu về công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, ngài Phiêu nói: “Trong thế kỷ 20, nét nổi bật là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại đã sinh ra giai cấp vô sản…” Giời ạ! Giai cấp vô sản đã có từ đời ông Bành tổ chứ có phải do hay nhờ cái cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại duy vật biện chứng khỉ tiến hóa lên làm người đâu.

    Thế là 120.000 cuốn sách có in bài phát biểu ấy của ngài đã bị hủy bỏ để khỏi lộ cái dốt của ông Tổng Phiêu, “đỉnh cao trí tệ của đảng”. Đáng tiếc! Đáng tiếc!

    Chuyện ông Tổng bí thư Phan văn Khải sang Mỹ, co ro cúm rúm trước Huê Kỳ Đại vương, nói không ra hơi, phải rút tờ giấy to bằng bàn tay trong túi áo ra, dán mắt vào đó, nhưng đọc được mỗi một câu đã được Bộ Chính trị viết sẵn: “Xin chúc sức khoẻ Ngài” rồi tịt. Sau đó ông Tổng bí Khải cùng tùy tùng kéo sang tiểu bang “Mả Cha Chú Chệt” (Massachusetts) để được chính tay mình sờ vào chiếc giầy của bức tượng ông John Harvard, người lập ra trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ, ngồi uy nghi trước khuôn viên trường. Hình ảnh này được giới truyền thông thế giới đặt chết cái tên “Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đang ôm chân đế quốc Mỹ” được chiếu đi, chiếu lại trên truyền hình để diễn thành những tiểu phẩm hài giúp vui khán giả. Vân vân và vân vân.
    Thành tích diễu hề của các quan chóp bu trong đảng và Nhà nước ta như Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Bộ Trưởng Công an Lê Hồng Anh, ông Tô Huy Rứa Ủy viên BCT kiêm Bí thư TW đảng v.v… nếu theo thứ tự kê ra đây chắc phải tốn vài trăm trang giấy nữa.

    Nhưng xét “quá trình” những “sự kiện” xảy ra bị sự ngu dốt, ngớ ngẩn biến thành “sự cố” lố bịch của đám lãnh đạo trong Bắc Bộ phủ thì mấy quan trên phải lấy nón cối bái mà chào thua Ngài Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.

    Vậy xin kể vài chuyện về ngài Minh Triết đi ra nước ngoài “tấu hài” để làm cái kết của bài viết này thử xem quí chư vị có cười nổi không.

    Chỉ nội cái tên Minh Triết có nghĩa là thông minh, trí tuệ, người hiền… cũng đã rất mĩa mai, trái ngược với cái khuôn mặt rất “Hai Lúa” của ngài rồi. Mấy ngài “nông dân vô sản” khi đi làm “cách mạng” đều có cái tên nghe rất “ấn tượng và hoành tráng” không biết có đúng là do cha mẹ đặt cho lúc mới sinh ra hay là tự mình bắt chước “nổ” theo cách của “cha già dân tộc” tự đặt cho mình vô số tên rất kêu, nghe như tiếng chuông chùa Hàn San gióng lên lúc nửa đêm như: Chí Minh, Ái Quốc, Dân Tiên. Có lẽ muốn cho giống Tàu chệt chăng?

    Những cái tên Đức Thắng, Đức Anh, Trường Chinh, Nguyên Giáp, Khả Phiêu, Đức Mạnh, Tấn Dũng xướng lên cũng nghe kêu boong boong như tiếng Đại hồng chung của Việt Nam Đại Quốc tự ở Bình Dương nhưng thực tế thì con người hoàn toàn ngược lại từ hành vi, ngôn ngữ đến đạo đức, phẩm hạnh, nhân cách ... Anh hoa không thấy phát tiết ra ngoài một chút nào đẹp đẻ coi cho được mắt mà làm toàn những chuyện quỷ khốc, thần kinh, trời không dung, đất không tha. Ở trong nước thì hung hăng con bọ xít, thẳng tay dùi cui, súng đạn đàn áp nhân dân. Ra ngoài thì khiếp nhược, hèn nhát với ngoại bang. Thậm chí còn mãi quốc cầu vinh, dâng cả giang sơn đất nước để xin được bảo kê chiếc ngai vàng.

    Trở lại chuyện ngài “Hai Lúa Minh Triết”.

    Ngày 27 tháng 8 năm 2007, Nguyễn Minh Triết đến công tác tại Tổng cục Chính trị quân đội. Triết nói: “Khẳng định trước sau như một là chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngã nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát, cho nên phải củng cố công tác chính trị tư tưởng, củng cố vai trò của đảng…”

    Điều 4 Hiến pháp là lá bùa hộ mạng mà đảng cộng sản Việt Nam tự mình vẻ ra cho mình đeo. Dù bỏ hay không bỏ nó cũng giống như bản Hiến pháp của nước Cộng Hoà Xã nghĩa Việt Nam, có đủ cả 36 món ăn chơi, có cả “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” nhưng thực chất nó chỉ là mớ giấy lộn bôi lên đó màu sắc loè loẹt hoa hoè, hoa sói cho thế giới coi chơi chứ nó không có giá trị gì đối với đám dân đen 80 triệu người đang quằn quại dưới ách thống trị độc tài của đảng.

    Bạo lực và khủng bố mới là thực chất cầm quyền của đảng. Nhà nước chỉ là công cụ.

    Đảng trên tất cả. Mừng Đảng trước, mừng xuân sau. Trung với đảng trước, hiếu với dân sau. Vậy Triết nhai lại Điều 4 giống như bò nhai lại cỏ để làm gì để làm trò cười?

    Bỏ Điều 4 là tự sát. Đó là chân lý, là sự thật trần trụi đang làm đảng ta lo sợ ngày đêm.

    Dù có bỏ hay không bỏ Điều 4 sớm muộn gì cuộc đời đảng ta cũng sẽ cáo chung như Liên Xô tổ quốc thành đồng vĩ đại và khối Đông Âu mà thôi. Triết hớ hênh mồm miệng, nói lộ ra sự thật mà Bộ Chính trị đang tìm mọi cách để giấu kín và lo sốt vó không biết sẽ xãy ra lúc nào? Và nỗi sợ nhất là liệu lúc đó mình có còn cái chổ để đội nón cối nữa không?

    Cái gương Ceaucescu, Honecker, Saddam Hussein còn đang sờ sờ trước mắt.

    Ối thôi! Chỉ mới thoáng nghĩ đến mà đã tháo mồ hôi, lạnh cẳng rồi!

    Sau ngày cái miệng Triết ăn mắm ăn muối nói ra điềm gỡ đó, dân đen khốn khổ lại được dịp xả xú báp uất ức, kháo chuyện với nhau, cười thỏa thích rằng Bộ Chính trị giận điên người, gọi Triết đến Bắc Bộ phủ “góp ý phê và tự phê” một trận cháy xém lông mày và đòi truất phế luôn cái chức Chủ tịch nước bù nhìn đó. Triết van nài, lạy như tế sao rằng là do “thần khẩu hại xác phàm”, chớ lòng thì luôn trung thành với đảng. (Nói láo chết liền!). Và xin thề với Bộ Chính trị là từ nay xin chừa. Giống như cảnh nàng Kiều mắc mưu Tú Bà và Sở Khanh bỏ trốn khỏi lầu xanh rồi bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn, buộc phải tiếp khách đã cất tiếng van xin: “Thân lươn bao quản lấm đầu – Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!”. Còn Hai Lúa Minh Triết thì ca cẩm bài ca con cá: “Thân lươn bao quản lấm đầu – Cái miệng bậy bạ về sau xin chừa!”

    Một trường hợp khác, Triết vẫn chứng nào tật ấy, vẫn cứ nói nhăng nói cuội như cũ. Sách có câu “Giang sơn dễ đổi bản chất khó thay” thật đúng với con người miệt vườn Hai Lúa Minh Triết.
    Năm 2007,Triết dẫn đám Cái bang gồm bầu đoàn thê tử với bộ hạ, thương gia trong nước đông đến vài trăm mạng sang đại quốc Huê Kỳ trình diễn màn hát xẩm để chiêu dụ đám tư bản Mỹ móc hầu bao, đổ đô la vào Việt Nam “hợp tác đầu tư”.

    Chuyến đi thật bẽ bàng vì không được Tổng thống Mỹ tiếp đón theo nghi lễ quốc khách. Phần khác lại bị cả ngàn người Việt tị nạn “dàn chào” với rừng cờ vàng và nhiều biểu ngữ, bích chương tố cáo chế độ CS độc tài, bán nước. Nhiều pa nô “đẹp mặt chế độ” như hình ảnh LM Nguyễn văn Lý bị công an bịt miệng tại phiên tòa Huế, hình Hòa thượng Thích Quảng Độ, LS Lê thị Công Nhân, LS Nguyễn văn Đài bị giam cầm người biểu tình giơ cao dọc hai bên đường đoàn xe của Triết và đoàn tùy tùng. Cảnh sát Mỹ phải bảo vệ phái đoàn đi vào Tòa Bạch Ốc bằng cửa hậu mới tránh né được sự bao vây “dàn chào thăm hỏi nồng nhiệt” của “khúc ruột ngàn dặm”.

    Ngày 23/6 Triết không dám về thủ đô tỵ nạn của người Việt Nam, mà phải chọn khách sạn St Regis Monarch Beach Resort ở Dana Point là một thành phố nhỏ với chừng 35 ngàn dân, cách xa Little Saigon độ nửa giờ lái xe về phía San Diego, chiêu đãi khoảng 800 doanh gia Mỹ chánh gốc và Mỹ gốc Việt để làm “mát cơ tin” chào mời họ về Việt Nam làm ăn.

    Phía bên ngoài khách sạn có chừng 3000 người Việt tỵ nạn từ các thành phố lân cận đổ về với một trời cờ vàng ba sọc đỏ để tận tình “dàn chào” ông chủ tịch. Hệ thống truyền thông quốc tế và Việt Nam cũng có mặt rất đông để đưa tin.

    Dịp này còn có thêm anh Phó râu kẽm, mắt ốc nhồi của nền đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa đi theo sau đít để quợi quợi phụ họa khi Triết biểu diễn màn mãi võ sơn đông, bán thuốc cao đơn hoàn tán xuyên tâm liên trị bá bệnh do Chủ nghĩa Xã hội bào chế.

    Nghe hai anh hề “tấu hài” kẻ tung người hứng theo kiểu cương ẩu, không có bài bản biên soạn trước nên trật chìa bậy bạ làm mấy ngàn khán giả đứng dàn chào bên ngoài vừa cười ngặt nghẽo vừa xấu hổ đỏ mặt.

    Cười là cười cái cách nói của ông chủ tịch nước giống y chang anh Hai Lúa miệt vườn, chiêu dụ tư bản Mỹ rằng Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa chúng tôi có nhiều gái đẹp lắm, quí ngài nên mau mau đổ tiền vô đầu tư để hưởng thụ kẻo trễ. Còn xấu hổ là bởi anh Phó râu kẽm nói vuốt đuôi, nâng bi anh Hai Lúa vừa trơ trẽn tệ hại vừa hèn mạt quá sức tưởng tượng.

    Sau chuyến “hành hương khất thực” không mấy thành không, tưởng chừng trưởng lão Cái bang Minh Triết xách bị rách trở về, ai dè nhờ mấy lời quảng cáo bậy bạ “Việt Nam có gái đẹp” lại trúng tâm bệnh Tề Tuyên của mấy anh tư bản mũi lõ nên số vốn đầu tư của Huê Kỳ sau đó gia tẳng bất ngờ, từ vị trí thứ 8 đã nhảy vọt lên đứng hàng thứ 2 ở Việt Nam.

    Nhờ vậy, cái ghế Chủ tịch nước của anh Minh Triết sắp lung lay mấy tháng trước đó lại được gia cố thêm mấy con bù loong thép “Made in USA” “đảm bảo” ngồi cho hết nhiệm kỳ.

    Chuyện diễu hài ở Dana Point chưa kịp đi vào quên lãng thì chiều 25/09/2009, trong lúc chờ phát biểu trong khóa họp thường niên 64 Đại hội đồng Liên hiệp Quốc tại NewYork thì phóng viên AP, Mary Altaffer, không biết có ý chơi xỏ ngài Chủ tịch Triết hay không, đã dàn dựng ngài ngồi trên cái ghế đẩu trong tư thế ngay đơ cán cuốc, hai bàn tay đặt ngay ngắn trên đùi, mặt trông rất quỷnh, tại chân cầu thang hội trường, một vị trí rất xúc phạm đối với một vị nguyên thủ quốc gia, giống như một người đang ngồi chờ hớt tóc ở lề đường của mấy bác hớt tóc dạo, để chụp hình.

    Bức ảnh của phóng viên AP Mary Altaffer đã gây sự chú ý rộng rãi và bình luận hài hước của giới truyền thông quốc tế. Riêng người Việt hải ngoại cảm thấy quá thương hại cho ông chủ tịch nước Việt Nam Xã nghĩa khi nhìn bức ảnh này.

    Vẫn chưa hết, ngày 27 tháng 9 năm 2009, khi qua thăm Cuba, một nước nghèo và lạc hậu không thua gì Việt Nam, Ngài Nguyễn Minh Triết đã bằng lời của ”vợ thằng Đậu”, tuyên bố với báo chí ngay ở phi trường Havana rằng «Có người ví von, Việt Nam – Cuba như là Trời Đất sinh ra, một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ. Việt Nam gác thì Cuba nghỉ». Lời tuyên bố «hoành tráng và ấn tượng» này đã làm chấn động giới cải lương chuyên nghề “tấu hài”. Những chuyên viên giễu hề của các trung tâm băng nhạc sống bằng nghề làm hề, chọc cười thiên hạ đều phải chào thua. Cỡ Bảo Quốc, Hoài Linh, Vân Sơn, chỉ đáng xách dép. Còn Nguyễn Ngọc Ngạn chắc phải giải nghệ để đến bái sư Triết để xin làm đệ tử học thêm ngón nghề.


    Chỉ có mấy mươi giây mà anh Hai Lúa Triết đã làm cho khán giả vỗ tay và cười muốn tắt thở. Nhất là cách giơ tay, ngoãnh mặt, chỉ bên này để diễn tả cảnh một anh ở phía đông, giơ tay bên kia để chỉ một anh ở phía tây và đặc biệt là nét mặt cứ ngơ ngơ ra như ngỗng ỉa, một bí quyết gây cười đặc thù của Triết, cộng thêm cách nói ngắc nga, ngắc ngứ như bị táo bón đang rặn. Mấy anh Cuba, qua lời phiên dịch, chắc không hiểu được hết cái tiếu lâm trong lời phát biểu. Những âm gác, âm cu, âm nghỉ, người Việt Nam đều nghĩ ngay đến câu tục ngữ “Trên đời có 4 cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”. Nhưng có lẽ họ nhìn nét rất hề trên mặt của ông Chủ tịch nước Xã nghĩa Việt Nam lúc đó mà ôm bụng cười ngất.

    Một ông bạn già hàng xóm, khi xem xong đoạn phim ngắn 36 giây trên Youtube quay lại cảnh Triết diễu hài ở Cuba bèn kể cho nghe một chuyện tiếu lâm tương tự:

    - Ngày xưa có một anh chàng ăn nói rất vô duyên. Hễ cứ mở miệng ra là bị người ta cười chế diễu có khi còn bị chửi. Vợ anh ta lấy làm xấu hổ lắm. Vì thế mỗi khi đi dự đám, tiệc trong xóm, làng người vợ đều phải canh chừng anh chồng, dặn chỉ ngồi ăn uống chứ không được lên tiếng góp chuyện để khỏi bị chê cười. Một lần, nhà hàng xóm có giỗ, hai vợ chồng được mời. Hôm đó khách khứa rất đông. Sau vài ly đế, ai nấy đều cười nói vui vẻ. Anh chồng vô duyên cứ ngứa ngáy miệng muốn góp chuyện nhưng bà vợ biết ý, tay cứ cấu vào đùi chồng để ngăn. Gần tan tiệc, hai vợ chồng xin phép gia chủ về trước. Lúc đứng lên từ giã, anh chồng vụt miệng nói, vợ ngăn không kịp:

    - Sáng giờ tui chỉ có ăn chớ không có nói gì hết trơn, hết trọi nhen! Lát nữa nếu có ai bị trúng thực hay trúng gió chết là không phải lỗi tại tui đó nghe!
    Kể xong, ông kết luận một câu rất “tuồng”, chắc là thuổng từ “phim bộ nhiều tập”:
    - Nếu ông Triết cũng như anh chồng hay nói này hổng mở miệng thì đâu có ai biểu là mấy ổng câm há!
    Chuyện tiếu lâm của mấy cha nội trong Bắc Bộ phủ, chỉ có nước khóc thét lên đau xót cho đất nước phải chịu ách nạn điêu linh dưới bàn tay của lũ đần chớ thiệt tình là cười hổng nổi.


    Nguyễn Thanh Ty
      Khi Nguyễn Minh Triết kể chuyện tiếu lâm XHCN
    “Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có kinh nghiệm trong quản lý. Là ở nước người ta đó, thì muốn tiêu cực muốn tham nhũng cũng khó vì cái hệ thống luật phát nó chặt chẽ. Còn ở Việt Nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham,... Cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút, (bà con bắt đầu cười, làm Triết cao hứng lên). Mượn thì hổng thấy ai đòi hết (và một tràng vỗ tay cười ồ,... nên càng kích thích riết lên tông) thấy hông,... thì em mượn thêm. Chứ hổng phải người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới đâu,... Nói một hồi thì thấy người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới, hông phải dzậy. Cho nên tôi đề nghị quý vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này rồi nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng nghĩ rằng sao trong nước mình tiêu cực quá. Mà hồi xưa mấy ổng quánh giặc sao giỏi thế mà bây giờ mấy ổng tiêu cực thế (rồi cười khề khà,...). Đây là quy luật muôn đời (một tràng vỗ tay cười to). Con người ta trong mỗi người ai cũng có hỉ nộ ái ố hết trơn…. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra. Trên thế giới này ít có nơi nào có cái đó lắm á,...”.