Thursday, July 30, 2009

55 năm trôi qua từ ngày ký Hiệp Định Genève 20-07-1954/2009 - Nguyễn Hồng Dũng Ph.D


Nguyễn Hồng Dũng Ph.D

Tôi sinh sau ngày Hiệp định Genève 1954 nên không là chứng nhân lịch sử để có thể viết ra những gì mắt thấy tai nghe như độ Bảy lăm khi thủ đô Sài gòn thất thủ. Dù vậy cũng không có nghĩa là “vô tri bất mộ” để nghe những gì mà nhà đương quyền ra sức tuyên truyền, tô son cho cuộc chiến thần thánh chẳng linh thiêng chút nào. Nỗi niềm đó đã thúc tôi tìm đọc nhiều tư liệu về hồi ký, sử liệu, phóng sự cũng như tạp ghi của những người một thời là chứng nhân hay ít ra cũng cầm súng tham gia trận địa Điện Biên Phủ ngày Bảy tháng Năm năm ấy. Sự hiếu kỳ để biết cái thật trong nét nhìn chính kiến về một biến cố lớn nhất, đau buồn nhất và cũng đáng lên án nhất trong lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam, có thể đó là lý do u uẩn trong tâm tư để chảy thành dòng chữ hầu chia sẻ quan điểm trong bối cảnh sau hơn nửa thế kỷ đi qua mà chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn là sự lừa bịp kinh hoàng đối với tuổi trẻ Việt Nam.

Huyền thoại về tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Minh chỉ huy cuộc tấn công cứ điểm Điện Biên Phủ như phần lớn sử sách viết sau năm Bảy lăm hoàn toàn mâu thuẩn với rất nhiều sử gia Trung Quốc, Anh, Pháp, Hoa Kỳ và cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam vì rằng, thắng lợi trận địa này là nhờ Liên Sô tích cực tài trợ súng ống, đạn dược và các tướng của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gồm tướng Vi Quốc Thanh, tướng Mai Gia Sinh, tướng Trần Canh và tướng Lã Quí Ba trực tiếp điều động quân lính hổn hợp Việt Minh và Trung Cộng, dĩ nhiên sự hiện diện của tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó trong vai trò tham mưu trưởng bộ đội Việt Minh gián tiếp hợp tác với Trung Cộng để chiến đấu, và chiến thắng trận địa Điện Biên Phủ nơi lính lê dương đồn trú dẫn đến nội tình nước Pháp chia rẽ khá sâu; nguyên nhân này khiến thủ tướng Joseph Laniel từ chức dọn đường cho nội các Mendes France thuộc đảng Xã Hội Cấp Tiến thay thế với chủ trương rút lui khỏi Đông Dương càng sớm càng tốt.

Tình hình Đông Nam Á bấy giờ là mục tiêu nhuộm đỏ từ điện Cẩm Linh qua đàn em Cộng sản Trung quốc đang mặn nồng tình đồng chí vô sản quốc tế, vì vậy ông Hồ Chí Minh được hai nước đàn anh nổ lực ủng hộ bằng mọi giá để hoàn thành sứ mạng quốc tế quan trọng này, vì thế tình hình bất ổn trong lòng đất nước giữa một bên là cực tả Việt Minh và bên còn lại có khuynh hướng dân tộc tự tồn đã manh nha ý thức trái ngược. Hơn nữa vai trò thực dân Pháp hiện hữu trên lãnh thổ đã giúp cho Việt Minh chỉa mũi dùi kháng chiến chống Pháp khá thuyết phục nhân tâm, dễ che dấu nhiệm vụ quốc tế hóa Cộng Sản Đông Dương nên cán cân “yêu nuớc” nghiêng hẳn về Việt Minh, thúc đẩy hàng triệu thanh niên tham gia kháng chiến với tấm lòng chống ngoại xâm nồng nàn chứ không có ý niệm gì về chủ thuyết Cộng Sản ẩn núp phía sau Đảng Lao Động Việt Nam. Từ ngày 19/8/1945 Cộng Sản cướp chính quyền tại Hà Nội khiến Hoàng đế Bảo Đại thoái vị để hoan hỷ làm dân một nước độc lập. Tinh thần yêu nước khá cao từ mọi tầng lớp vì ai cũng mong nước nhà khỏi ách ngoại xâm. Chính phủ đoàn kết ra đời nhưng ông Hồ Chí Minh tìm cách sát hại những ai không theo chủ nghĩa Cộng Sản khiến Bảo Đại chạy qua Hồng Kông, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam của Việt Nam Quốc Dân Đảng sang Nam Kinh, Nguyễn Hải Thần sang Quảng Tây, Tạ Thu Thâu bị giết và Chính Phủ Liên Hiệp tan rã.

Cao trào đòi độc lập từ các nước thuộc địa Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã khiến cho các chính phủ thực dân đổi chính sách thuộc địa ra chính sách hợp tác và trao trả độc lập cho nhiều quốc gia Á, Phi. Năm 1949 Bảo Đại sang Paris thương thuyết với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol yêu cầu trao trả độc lập cho Việt Nam.

Ngày 08/03/1949, thỏa ước Elysée được ký kết giữa Bảo Đại và Vincent Auriol, theo đó Việt Nam được độc lập và nằm trong Liên Hiệp Pháp, đến ngày 02/07/1949 Bảo Đại về nước thành lập Chính Phủ Quốc Gia.

Giả thuyết nếu không có trường kỳ kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ xảy ra thì Việt Nam cũng đã được trao trả độc lập bởi chính sách nêu trên mà máu xương của lính Trung Cộng và Việt Nam không đổ ra quá nhiều. Trên thực tế xác lính Trung Cộng chồng chất cho trận địa Điện Biên Phủ đã được nhà nước Cộng Sản Việt Nam chi trả và bồi thường bằng lãnh thổ, lãnh hải đến ngày hôm nay vẫn chưa dứt nợ!.

Để đạt đến hội nghị chấm dứt chiến tranh Đông Dương, Pháp là quốc gia lâm chiến vì muốn rút quân nên mời Anh, Hoa Kỳ và Liên Sô tham dự. Trung Cộng bấy giờ chưa nắm ghế chính thức của Liên Hiệp Quốc nên chỉ là quan sát viên, nhưng sau nhiều lần nài nỉ từ ông Viacheslav Molotov, trưởng đoàn Cộng Sản Liên Sô, ba nước Anh do Anthony Eden làm trưởng đoàn, Hoa Kỳ do Bedell Smith làm trưởng đoàn và Pháp do ông Georges Bidault trưởng đoàn mới đồng ý để Trung Cộng tham gia hội nghị do Chu Ân Lai dẫn đầu tới Genève ngày 26 tháng 4 năm 1954 đặng bàn thảo về Đông Dương. Cũng trong hội nghị này các phe lâm chiến được đề nghị mời tham dự nên phiên họp sau đó một tuần, ngày Hai tháng Năm có mặt các phái đoàn Cam Bốt do Tep Than trưởng đoàn, Lào do Phumi Sananikone trưởng đoàn, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Phạm văn Đồng trưởng đoàn và chính phủ Quốc Gia Việt Nam do ông Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn.

Pháp và Việt Minh ký Hiệp định Geneva
Cuộc họp chưa ngã ngũ thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc, bắt buộc hòa đàm tái nhóm với sự thỏa thuận ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Phạm Văn Đồng là Phó Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm trưởng đoàn đề nghị chia đôi đất nước ở vĩ tuyến mười ba; Hoa Kỳ và Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại làm Quốc trưởng kịch liệt phản đối. Liên Sô, Trung Cộng, Anh và Pháp tán thành ý kiến chia đôi khiến cho toàn dân tại Sài Gòn phẩn nộ bùng phát cuộc biểu tình rầm rộ ngày 26/5/1954 chống lại hành động ngông cuồng của Việt Cộng đang tâm chia cắt Việt Nam.

Mãi đến ngày 20 tháng 7 năm 1954 thì hiệp ước đình chiến soạn thảo xong được gọi là Hiệp Định Genève ký kết bởi Thiếu tướng Henri Delteil, thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và ông Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng năm chữ ký của phái đoàn Anh (Anthony Eden), Liên Sô (Viacheslav Molotov), Trung Cộng (Chu Ân Lai), Cam bốt (Tep Than) và Lào (Phumi Sananikone). Riêng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bác sĩ Trần Văn Đỗ trưởng đoàn và Hoa Kỳ do ông Bedell Smith dẫn đoàn không chấp nhận chia đôi đất nước nên từ chối đặt bút ký tên.

Nội dung Hiệp định đình chiến Việt Nam có 6 chương và 47 điều khoảng áp đặt vài điểm quan trọng như sau: Chia đôi hai miền Nam Bắc lấy làng Bohushu sát biên giới Lào Việt đến cửa sông Bến Hải tại tỉnh Quảng Trị làm ranh giới, Quốc Gia Việt Nam phía nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía bắc, hiệu lực thực thi từ ngày 14-08-1954 quy định hai bên rút quân trong vòng 300 ngày. Riêng về việc thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thì bản thông cáo chung ghi nhận cuộc tổng tuyển cử sẽ được nghiên cứu tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của ủy ban quốc tế do những quốc gia ký tên phía trên đảm trách. Rõ ràng điều này đã tố cáo sự bất công, thiên vị của những kẻ đặt bút ký kết mà không thèm đếm xỉa đến nguyện vọng thật sự của nhân dân miền Nam nói riêng và toàn dân tộc Việt nam nói chung vì hai lẽ: thứ nhất là sự việc tự ý chia đôi đất tổ, chủ mưu từ phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Liên Sô, Trung Cộng theo kế hoạch nhuộm đỏ từng phần kiểu tằm ăn dâu cùng thỏa hiệp với Pháp. Thứ hai là cuộc tổng tuyển cử nếu xảy ra năm 1956 chỉ như cách hợp thức hóa toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong ý đồ dâng nạp chủ quyền cho Cộng Sản quốc tế vì phía Quốc Gia Việt Nam chưa đủ thời gian hình thành cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương. Trong các quốc gia liên hệ thì khỏi bàn đến Liên Sô và Trung Cộng, riêng Pháp như đã nói trên rất muốn rút khỏi Đông Dương bởi chủ trương của phái Xã Hội Cấp Tiến còn Anh Quốc thì chỉ tham dự lấy lệ vì vai trò tứ cường trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, riêng Hoa Kỳ đã thấy được điều bất lợi nghiêng về chính quyền phôi thai tại miền Nam, nên dễ bị ông Hồ Chí Minh tóm thâu nhuộm đỏ.

Sở dĩ chúng ta khẳng định sự liên hệ bất khả phân giữa Trung Cộng và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà không sợ sai lầm là vì bằng chứng cụ thể bởi Đảng Lao Động tức là đảng Cộng Sản chủ trương đưa Việt Nam trở lại làm chư hầu cho Trung Cộng qua tờ truyền đơn rãi khắp nơi vào năm 1951. Nhật báo Tiếng Dội số 462 năm thứ 3, đề ngày Thứ Sáu 24 August 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy (Thiếu) năm Tân Mão do Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc đảm trách, Tòa soạn tại 216 Đường Gia Long Saigon, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký tên như sau:
    ”Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ VII
    Tổng thư ký Đảng Lao Động Việt Nam,
    Số 284/LĐ

    Hỡi đồng bào thân mến!

    Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!
    Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế ?

    Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.

    Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế – có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không?
    Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
    Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Ðế quốc phương Tây đem qua xứ ta!

    Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu.
    Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa hoc, phát minh v.v…

    Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!

    Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.

    Trường Chinh, Tổng thư ký đảng Lao Ðộng” (*)
Từ mối lo này mà chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa kỳ phản đối không ký vào vì theo ý kiến Quốc trưởng Bảo Đại thì Việt Minh sẽ cứ tiếp tục chiến tranh, một cuộc chiến mới sẽ tàn phá toàn quốc …với hy vọng hão huyền đặt một ý thức hệ không hợp với cá tính người Việt Nam (**), còn Ủy ban Quốc Gia An Ninh Hoa Kỳ nhận xét vào ngày 12-08-54 rằng “Thỏa hiệp Genève là một thất bại đã chấp nhận một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa Cộng Sản và có thể đưa đến sự mất toàn thể Đông Nam Á Châu” (***)

Sinh viên Sài gòn biểu tình phản đối Hiệp định Geneva, treo cổ hình nộm De Gaulle và Hồ Chí Minh
Hậu quả tệ hại cho một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến lại bị rơi vào tình huống nô lệ từ ý thức đến hành động khởi đi từ tâm thức phe nhóm, đảng phái hơn quyền lợi quốc gia dân tộc. Hãy bỏ tất cả những định kiến về Quốc-Cộng mà hãy nhìn ở góc độ dân tộc thì sau năm 1954 với hai miền Nam Bắc, những người sinh sau Hiệp Định có thể tìm ra những chứng tích cụ thể qua nhiều tư liệu trung thực:

1. Phía Quốc Gia Việt Nam mà sau này trở thành Việt Nam Cộng Hòa chưa có bằng cớ nào chứng tỏ đem Việt Nam dâng hiến hoặc sang nhượng cho bất cứ một quốc gia ngoại bang dù từng là đồng minh với Hoa Kỳ, Úc, Canada… dù vậy họ không hề tuân thủ ý kiến của ngoại nhân làm tổn thương dân tộc. Chưa có một tội danh nào gọi là bán nước cầu vinh gán cho phía chính phủ miền Nam kể cả cảng Cam Ranh, Chu Lai, Long Bình là những nơi cho Hoa Kỳ thuê mướn, khi Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam thì nơi ấy trở lại chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa từ 1973-1975. Đảo Hoàng Sa là đất của nam Việt Nam bị Trung Cộng xâm lăng năm 1974, Hải quân Việt Nam chống đỡ và nhiều chiến sĩ hy sinh, cuối cùng bị mất vì thua chứ không phải dâng tặng cho ngoại bang. Ngày 30/4/1975 miền Nam sụp đổ vì thiếu đạn dược, quân vụ dẫn đến việc cựu Đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống vi hiến tuyên bố đầu hàng.

2. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã có nhiều bằng chứng thể hiện ước mơ của Đảng Cộng Sản đưa Việt Nam trở thành một chư hầu cho khối Cộng Sản Quốc Tế theo tờ truyền đơn kêu gọi dân Việt Nam làm chư hầu Trung Cộng nêu trên. Hành động bán nước được thể hiện từ năm 1958 do ông Phạm văn Đồng ký công hàm chấp nhận Hoàng Sa và Trường Sa KHÔNG phải là của Việt Nam. Hành động này tái diễn vào năm 1999 khi ký kết hiệp định biên giới Trung Việt để hợp thức hóa Trung Cộng chiếm đóng biên giới phía Bắc và vùng biển vịnh Bắc bộ. Cũng từ năm này thì thác Bản Giốc và Ải Nam Quan KHÔNG còn thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra, chỉ vì muốn thực hiện cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng mọi giá mà biết bao tang thương, sầu khổ gieo rắc cho cả hai miền. Bao vong linh oan khiên tức tưởi chết trong phong trào giảm tô, bài phong, cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, xét lại, chống đảng, tết Mậu Thân, pháo Cai Lậy, chiến tranh ở Lào, ở Cam bốt, dựng lên mặt trận giải phóng miền Nam, chiếm cứ Sài Gòn, tập trung quân cán chính miền Nam lao động khổ sai, đánh tư sản, ép buộc di dân kinh tế mới để rồi hàng triệu người liều mình bỏ nước vượt biên, vượt biển tìm tự do bị chết vẫn chưa siêu thoát.

Chưa hết, ngày nay còn biết bao nổi nhục nhằn mà con dân Việt Nam phải gánh chịu như sự oan ức của ngư dân Việt bị Trung Cộng hành hung, sát hại ở biển đông; Trường Sa và Hoàng Sa thành Tam Sa ô nhục, Bauxite Tây nguyên bị lợi dụng khai thác để hợp thức số dân Trung Cộng tràn vào Việt Nam như Tây Tạng, Tân Cương. Hối lộ, mại dâm, bán tuổi trẻ thanh xuân ra ngoại quốc, hạ nhân phẩm phụ nữ thua xa thời thực dân phong kiến khi hàng trăm gái trinh cởi truồng cho vài đứa ngoại lai lựa vợ, làm hầu. Văn hóa Việt bỗng chốc sượng sùng, đạo đức luân thường chỉ như bọt nước, thần tượng cá nhân, tôn sùng lãnh tụ và lừa lọc, dối trá để sống dưới vòm trời Chủ Nghĩa Xã Hội thơm tho!

Giờ đây sau 55 năm trôi qua chúng ta được gì và mất gì thì tự trong tâm mỗi người nhận biết, có điều người dân ở hai phía Bắc Nam chưa từng được quyết định vận mạng tương lai chính trị cho mình, sau bao lần can qua hoàn toàn do các thế lực ngoại bang mượn tay định đoạt, Pháp và Việt Minh đẻ ra Hiệp định Genève chia đôi đất nước hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng chân chính của người Việt Nam. Đối với chúng ta thì 55 năm vừa tròn một kiếp nhân sinh nhưng lịch sử dân tộc lại là mốc thời gian trường cửu. Hậu thế sẽ học được gì qua những hành động mang tính cách cục bộ, phe nhóm khiến đất trời nghiêng ngữa tái tê. Bánh xe lịch sử cứ quay đều nhưng mong rằng mai sau đừng ai theo vết cũ; chia sẻ điều này với hy vọng sự bừng tỉnh lớp thế hệ tương lai nhìn đúng hướng lịch sử để thể hiện đứng đắn tình tự dân tộc, góp phần xây dựng lại những gì đổ nát và tìm cách tự quyết định tương lai vận mạng của đất nước, đồng thời chống lại âm mưu bành trướng của bá quyền Bắc kinh. Nguyện xin hồn thiêng sông núi phù hộ cho chúng ta, lớp người sinh sau cuộc chiến luôn tỉnh thức rằng, chỉ có người Việt chân chính mới yêu thương và bảo vệ đất nước mình mà thôi, đừng ỷ lại hay trông chờ ngoại bang ra tay cứu rỗi.

Nguyễn Hồng Dũng
20/07/2009,
Kỷ niệm 30 năm ngày quốc tế cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam và 55 năm Hiệp định Geneve chia đôi đất nước.

Tài liệu tham khảo:
- U.S. Congress, Senate, Committee on Foreign Relations, 90th Congress, 1st Session, Background Information Relating to Southeast Asia and Vietnam (3d Revised Edition) (Washington, DC: U.S. Government Printing Office, July 1967), pp. 50-62
- Negotiations and Vietnam: A Case Study of the 1954 Geneva Conference by Melvin Gurtov.
- Việt Sử Khảo Luận: Hoàng Cơ Nghị
- Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp.
- 1945-1964: Việc Từng Ngày. Hai Mươi Măm Qua: Đoàn Thêm.
-Vietnam War – Ngo Dinh Diem on Geneva Agreement of 1954
- (*) Nhật báo Tiếng Dội 1951, Thư Viện tiếng Việt, British Museum, London.
- (**) Le Dragon D’Annam Bảo Đại, trang dịch của tác giả từ version English: The Dragon of VN
- (***) Hồ sơ Mật Pentagon, USA 1950s.



Hà Nội dâng Trường Sa, Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh

    Hà Nội dâng Trường Sa, Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua 2 hồ sơ vừa nộp Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ!
Ls. Nguyễn Thành
Justice & Peace Group for Hoang Sa & Truong Sa of Vietnam

Việt Nam đã tới bờ vực thẳm, Quốc Nội và Hải Ngoại có thể làm gì trước khi quá muộn?

I. Nhận Định

1. Để có một nhận định chính xác về hai hồ sơ Hà Nội nộp tại Uỷ Ban Phân Ranh Thểm Lục Địa LHQ vào hai ngày 6 và 7/5/2009, trước hết cần lưu ý các chi tiết sau đây:

a. Ngày13/5/2009 là ngày chót nộp hồ sơ xin mở rộng Thềm Lục Điạ tối đa 350 hải lý tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa, không phải là ngày xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý vốn là quyền đương nhiên của các nước ven biển.

Đến hạn kỳ chót 13/05/2009, có 50 hồ sơ nộp tại Ủy Ban, trong đó có 2 hồ sơ của Hà Nội, 1 nộp chung với Mã Lai ngày 06/05/2009 và 1 đứng tên một mình ngày 07/05/2009. Bắc Kinh không nộp hồ sơ và chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm phản đối hồ sơ VN nộp với Mã Lai.

Đến ngày 01/06/2009, Uỷ Ban đã giải quyết được 8 hồ sơ [về các vấn đề đơn giản], 42 hồ sơ còn lại trong đó có hai hồ sơ của Hà Nội sẽ được đưa ra Đại Hội Đồng Uỷ Ban nhóm họp từ 10/8 đến 11/9/2009. [1]

Đại Hội Đồng Uỷ Ban họp ở trụ sở LHQ, New York, sắp tới là kỳ họp thứ 24 của Ủy Ban. Điều đáng lưu ý là trước khi Uỷ Ban họp, 159 nước hội viên Luật Biển LHQ cũng đã họp tại trụ sở LHQ này từ 22 đến 26/06/2009 để thông qua chương trình họp sắp tới của Uỷ Ban.

Kỳ họp sắp tới của Ủy Ban chưa chắc đã giải quyết hết 43 hồ sơ, vì đơn của Russia nộp từ 20/10/2001 mà ngày 01/06/2009 vừa qua mới được giải quyết. Hy vọng người Việt hải ngoại sẽ còn có thời gian để tìm cách bảo toàn lãnh thổ và lãnh hải của VN.

b. Luật Biển LHQ qui định các nước ven biển được hưởng Vùng Đặc Quyền Kinh Tế [2] 200 hải lý để đánh cá, khai thác mỏ và dầu khí. Đây là chủ quyền tuyệt đối và đương nhiên, không cần thiết phải đăng ký. Nếu xảy ra tranh chấp ở vùng này thì có thể nhờ Toà Án Quốc Tế Hamburg chuyên về luật biển hay Toà Án Quốc Tế La Hague phân xử hoặc đưa ra trước Hội Đồng Bảo An LHQ nếu có xâm lăng. [3]

Hà Nội ký kết Luật Biển LHQ ngày 10/12/1982 và phê chuẩn ngày 25/07/1994, tức rất sớm tất phải biết rõ như trên. Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý, bắn giết ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng này và xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền để phân xử, trừ khi đã ngầm dâng cho Bắc Kinh những vùng Trung Cộng lộng hành này.

Ngoài ra, trước khi đi vào nội dung hai hồ sơ của Hà Nội [ở phần II và III dưới đây], cần phải biết một số điều căn bản của Luật Biển LHQ, một số chi tiết cần thiết về Hoàng Sa -Trường Sa và nhất là hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 mà Hà Nội dấu kín chi tiết suốt bao năm qua và nay mưu toan “công khai hoá” hay “hợp pháp hoá” qua hai hồ sơ vừa nộp LHQ.

2. Luật Biển LHQ ra đời ngày 10/12/1982 ở Jamaica và có hiệu lực ngày 16/11/1994 sau khi hội đủ 60 nước phê chuẩn theo qui định. Luật Biển LHQ rất phức tạp, ngoài 320 điều khoản, 9 phụ bản, còn có những thoả thuận riêng. Vấn đề nào Luật Biển LHQ không qui định thì giải quyết theo tập tục và qui tắc tổng quát của Luật Pháp Quốc Tế. Đến nay đã có 158 nước phê chuẩn Luật Biển LHQ. Hoa Kỳ tuy chưa phê chuẩn nhưng tuyên bố tôn trọng Luật Biển LHQ.

Điều 8 quy định:
    a. Đường căn-bản [baseline] là lằn nước thuỷ triều xuống thấp nhất tại các nước ven biển

    b. Nội-hải [historic water] là vùng biển bên trong đường căn-bản

    c. Lãnh-hải [territorial sea] là vùng biển ngoài đường căn-bản, xưa là 3 hải lý và nay 12 hải lý

    d. Hải-phận [contiguous sea] là vùng biển 12 hải lý bên ngoài lãnh-hải

    e. Vùng đặc quyền kinh tế [exclusive economic zone] 200 hải lý, từ đường căn-bản ra khơi

    f. Thềm lục điạ [continental shelf] rộng 200 hải lý, tính từ đường căn-bản ra biển, có thể mở rộng đến 350 hải lý và gọi là Thềm Lục Địa mở rộng [extended continental shelf]. [4]
Ngày 13/05/1999, LHQ ra quyết định các nước ven biển có thời hạn 10 năm để đăng ký Thềm Lục Địa mở rộng 350 hải lý, hồ sơ phải nộp tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Điạ kèm với bản đồ kỹ thuật chi tiết và hạn chót là ngày 13/05/2009.

3. Biển Đông [hay South China Sea] rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông và Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1/3 Biển Đông. VN nằm sát bên Biển Đông và biển VN chiếm phần lớn Biển Đông. Bờ biển VN dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N.

Vì bờ biển VN rất dài [so với diện tích đất liền] nên riêng Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý VN đã có một diện tích gần gấp 2 diện tích 329,600 km2 đất liền. Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng ra 350 hải lý thì hải phận VN rộng gấp 4 lần đất liền và bao gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa vì khi đó hai quần đảo này sẽ nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa “mở rộng” 350 hải lý của VN và lãnh thổ và hải phận VN sẽ rộng tới 1, 329,560 km2.

Nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, còn hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rất rõ như thế nên khi xác nhận Thềm Lục Điạ VN 200 hải lý và không xin mở rộng ra 350 hải lý là phải có ý đồ hay đúng ra là đã đến lúc Bắc Kinh tăng tốc chiếm VN và buộc Hà Nội phải công khai hóa những gì hai đảng CSVN và CSTH đã thoả thuận ngầm trong đó có hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt ngày 25/12/2000.

II. Hà Nội mưu toan dâng Trường Sa cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp chung với Mã Lai ngày 06/05/2009

Bản đồ trong hồ sơ 6/5/2009, đường ranh 200 hải
lý màu đỏ của VN [trái] cố né đụng chạm tới Trường Sa
1. Như đã nói ở trên, ngày 13/05/2009 là hạn kỳ chót nộp hồ sơ về Thềm Lục Địa mở rộng 350 hải lý theo qui định ngày 13/05/1999 của LHQ, không phải để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý vì Vùng 200 hải lý này là đương nhiên và không nhất thiết phải đăng ký.

Để bảo vệ chủ quyền lãnh hải VN mà Hà Nội đã bỏ phí 10 năm, lẽ ra vào thời hạn chót này Hà Nội phải xin mở rộng Thềm Lục Điạ VN ra 350 hải lý vì VN có đủ điều kiện theo Luật Biển

LHQ để được hưởng như vậy. Thế nhưng Hà Nội không xin mở rộng Thềm Lục địa VN mà chỉ xác nhận 200 hải lý và bản đồ kèm theo hồ sơ thì gạt gần hết nhóm đảo Trường Sa ra ngoài.

2. Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10/12/1982 và phê chuẩn ngày 07/06/1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển LHQ. Trung Cộng tự ban hành Luật Biển 1992 riêng, sau đó công bố bản đồ lưỡi bò hay chữ U chiếm 80% Biển Đông bất chấp các qui định của Luật Biển LHQ.

Bản đồ lưỡi bò hay chữ U lấn sát bờ biển VN, có nơi [Quảng Ngãi] tới 40 hải lý và chạy dài xuống tận đảo Natuma, Nam Dương, tức cách xa lục địa Trung-quốc khoảng 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển LHQ qui định Thềm Lục Địa mở rộng không được vượt qúa 350 hải lý.

Đến ngày chót 13/05/2009, Trung Cộng vẫn không nộp hồ sơ xác định chủ quyền Vùng Đặc Quyền Kinh Tế hay Thềm Lục Địa “mở rộng” của Trung Cộng ở phía Nam Biển Đông tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa là Ủy Ban có thẩm quyền tiếp nhận và cứu xét hồ sơ. [5]

Trung Cộng chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8/5/2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN và Mã Lai. Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò mà Trung Cộng biết rằng Uỷ Ban và Đại Hội Đồng Phân Ranh Thềm Lục Địa sẽ không thể nào chấp thuận được vì nó không theo một qui tắc nào của Luật Biển LHQ cả.

3. Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa không có quyền phân định ranh giới. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhau. Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước thì Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước. Đây chính là trường hợp hồ sơ 6/5/2009 của VN-Mã Lai bị Trung Cộng phản đối.

Điều cần thận trọng lưu ý ở đây là đường ranh giới 200 hải lý của Mã Lai mới thực sự lấn chiếm nhiều đảo của Trường Sa. Nên Trung Cộng phản đối hồ sơ 06/05/2009 là nhắm vào Mã Lai hơn là VN vì đường ranh 200 hải lý VN không ảnh hưởng bao nhiêu đến Trường Sa nếu không muốn nói là không ảnh hưởng gì đến nhóm đảo này vì hầu hết các đảo của Trường Sa đều nằm ngoài ranh giới 200 hải lý của VN. Trung Cộng phản đối ồn ào là để che đậy âm mưu “công khai hoá” và “hợp pháp hoá” hiệp ước 25/12/2000 trong đó Hà Nội đã lén lút dâng cho Bắc Kinh 20 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt và nay dâng Hoàng Sa qua hồ sơ ngày 07/05/2009.

Nới Khác đi, hồ sơ 06/05/2009 chỉ là “diện” và hồ sơ 07/05/2009 liên quan tới Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa mới là “điểm” và nhằm mục đích công khai hoá và hợp pháp hóa những gì đã dấu kín nhiều năm từ khi ký hiệp ước về Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 đến nay.

4. Dẫu sao thì vấn đề chưa hẳn sẽ kết thúc ở đây. Các nước liên hệ vẫn còn quyền đưa vấn đề tranh chấp ra trước Toà Án Quốc Tế Hamburg chuyên về biển hay Toà Án Quốc Tế La Hague.

Đưa ra Toà Án Quốc Tế La Hague [1945] thì cũng như không hay chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Toà này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Toà cho dù chính họ nhờ Toà phân xử. Trái lại, phán quyết của Toà Án Quốc Tế chuyên về Luật Biển ở Hamburg thì có gía trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành.

Vấn đề là liệu Hà Nội có dám tiến tới hay không? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH. Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy. Với Mã Lai thì Bắc Kinh không dễ gì bắt nạt nên có ra trước Toà Án Quốc Tế do Mã Lai thì VN sẽ có cơ hội để chứng minh trước quốc tế Trường Sa Hoàng Sa là của VN về mọi phương diện. Nhưng Trung Cộng vẫn thừa khả năng và mưu kế để xin tách vấn đề với Mã Lai ra, còn lại VN thì chấp thuận hay không Trung Cộng cũng đã và sẽ chiếm trọn Trường Sa.

III. Hà Nội công khai hoá hay hợp pháp hoá hiệp ước về Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 và dâng Hoàng Sa cho Bắc Kinh qua hồ sơ ngày 07/05/2009 [6]

Bản đồ lưỡi bò của Trung Cộng chiếm trọn
Hoàng Sa - Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt
1. Ngày 07/05/2009, Hà Nội trình Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức liên quan đến Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa. Tuy lời mở đầu hồ sơ này có nói Hoàng Sa và Trường Sa là của VN và cũng nói tới việc mở rộng Thềm Lục Điạ VN ra ngoài đường ranh 200 hải lý của VN. Nhưng đến phần chính văn bản, tức phần xác định chủ quyền VN đối với Hoàng Sa hiện do Trung Cộng chiếm giữ bằng võ lực, vi phạm cả Luật Biển LHQ lẫn Hiến Chương LHQ, thì Hà Nội không nói gì tới Hoàng Sa nữa và bản đồ kèm theo hồ sơ thì rõ ràng là Hà Nội cố ý gạt Hoàng Sa ra ngoài đường ranh 200 hải lý của VN.

- Đường ranh giới 200 hải lý của VN màu đỏ [trong bản đồ của hồ sơ 07/05/2009 trên đây] đi từ vĩ độ 10 N lên phía Bắc, khi gặp quần đảo Hoàng Sa ở vĩ độ 15 N thì đột ngột ngừng lại.

Đường vẽ trong bản đồ trên cũng không đúng. Hà Nội cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên quá vĩ độ 16 N, trong lúc hồ sơ của Hà Nội ghi rõ là đường ranh này dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể tới vĩ độ 16 N được. Đường ranh 200 hải lý của VN dừng lại khi gặp Hoàng Sa và cố ý gạt Hoàng Sa ra ngoài Thềm Lục Địa 200 hải lý VN không ngoài lý do đảng CSVN đã thoả thuận ngầm với đảng CSTH rồi.

- Vùng biển ngoài 200 hải lý Hà Nội xin mở rộng ra ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 07/05/2009 mang hình tam giác ngược, đỉnh rất nhọn ở phía dưới và nằm ở vĩ độ 10 N 798, cạnh đáy hơi nghiêng nằm chếch ngang phía trên, cạnh phía Đông có đỉnh ở vĩ độ 15 N 067, và cạnh phía Tây với đỉnh ở vĩ độ khoảng 15 N 200.

Điều đáng lưu ý là đỉnh hình tam giác ngược này nằm ở vĩ độ 10 N 798, cách rất xa quần đảo Trường Sa như cố ý tránh đụng tới nhóm đảo Trường Sa. Cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên khi chớm đụng nhóm đảo Hoàng Sa là dừng lại ở vĩ độ 15 N, trong khi nhóm đảo Hoàng sa chỉ nằm từ vĩ độ 15 N này lên hết vĩ độ 17 N, tức cố ý để Hoàng Sa và Trường Sa ra ngoài vùng biển hình tam giác ngược mà Hà Nội nói là xin mở rộng cho VN.

Nói một cách cụ thể thì vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý hình tam giác ngược chỉ là một vùng nước biển, dưới cố ý tránh đụng Trường Sa, trên cố né chạm Hoàng Sa, tức chẳng ảnh hưởng gì tới phần chính của hai quần đảo này hay có đụng chạm đôi chút đến quần đảo Trường Sa thì cũng chỉ là một vài đụn hay đá không có giá trị gì.

Bản đồ trong hồ sơ Mật của Hà Nội về hiệp-ước phân định lại Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 với khoảng cách quá vượt trội dành cho đảo Hải Nam/TH đã làm VN mất 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt
Tóm lại, tuy lời mở đầu hồ sơ 07/05/2009 có nói Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền của VN nhưng phần chính hồ sơ thì lờ đi và đường ranh giới 200 hải lý thì gạt Hoàng Sa ra ngoài Thềm Lục Điạ VN 200 hải lý với mưu toan mặc nhiên xác định Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt đã được giải quyết qua hiệp ước về phân định lại Vịnh Bắc Việt ngày 25/12/2000.

2. Hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 giữa Hà Nội và Bắc Kinh được Quốc Hội Việt Cộng thông qua sau đó và nhưng đến nay vẫn dấu kín chi tiết dù dư luận đã ầm ĩ việc CSVN đã dâng CSTH ít nhất 11ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước này.

Khi một bản đồ trong một hồ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì mọi người mới hay Việt Cộng đã hiến cho Trung Cộng tới 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, chứ không phải 11 ngàn km2!

Đành rằng Vịnh Bắc Việt nhỏ hẹp chứ không rộng lớn như những vùng biển chạy ra đại dương nên không có Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý hay Thềm Lục Điạ “mở rộng” 350 hải lý. Nhưng nhìn vào bản đồ phân chia lại Vịnh Bắc Việt trong hồ sơ mật [trên đây] của Hà Nội thì ai cũng thấy sự bất bình đẳng của hiệp ước 25/12/2000, VN đã thua thiệt vô cùng.

Trừ điểm mốc số 1 ở vĩ đô 21 N, tức cửa sông Bắc Luân hay ranh giới Móng Cái/Quảng Đông, các điểm mốc từ số 2 đến 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN; như điểm 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách Hải Nam TH tới 73 hải lý, tức không chia đôi theo đường trung tuyến như qui định của Luật Biển LHQ mà phía TH vượt trội VN tới 29 hải lý. Thực tế, Hà Nội đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch cửa sông Hồng VN, nơi có tiềm năng dầu khí.

3. Trước dư luận đảng CSVN lén lút bán nước ngày càng dữ dội từ trong nước đến hải ngoại, ngày 28/1/2002 Hà Nội lên tiếng thanh minh thì càng lộ ra rõ ràng hơn, chẳng những Đảng CSVN đã dâng phần lớn Vịnh Bắc Việt mà còn dối gạt và lừa bịp cả về Luật Biển LHQ 1982. [7]

Thật ra thì cả Việt Cộng lẫn Trung Cộng đều không có một lý do gì để phân định lại lãnh hải

trong Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16/6/1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] là Constans và Hoàng thân K’ing đại diện Thanh triều [đô hộ TH] vẫn còn nguyên hiệu lực và phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết.

Chính Hà Nội trong nhiều thập niên qua cũng quan niệm như vậy. Ngày 12/11/1982, Hà Nội đã từng công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước Constans 16/6/1887, tức 63% diện tích vùng Vịnh Bắc Việt thuộc về VN. Nhưng Trung Cộng không chịu, buộc Việt Cộng phải phân định lại hải phận vùng này và đảng CSVN đã cúi đầu khuất phục và lén lút đi từ nhượng bộ này sang nhượng bộ khác trong suốt nhiều năm.

Hình tam giác ngược trích ở bản đồ kế bên Bản đồ trong hồ sơ 7/5/2009 của Hà Nội - Hình tam giác ngược đỉnh ở phía dưới, cạnh đáy nằm ngang nghiêng ở trên vĩ độ 15 N

Hậu qủa của hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25/12/2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ theo hiệp ước Constans xuống còn 53%. Nhưng thực tế còn bi đát hơn nữa: Trung Hoa chiếm tới 55% và VN 45% là tối đa, tức đảng CSVN đã làm mất khoảng 20 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Cộng qua việc phân định lại Vịnh Bắc Việt.

Tóm lại, hồ sơ ngày 07/05/2009 liên quan đến phía Bắc Biển Đông và đường ranh 200 hải lý của VN tới vĩ độ 15 N gặp Hoàng Sa thì dừng lại chỉ nhằm mục đích công khai hóa và hợp pháp hoá hiệp ước lén lút 25/12/2000 về Vịnh Bắc Việt và dâng Hoàng Sa cho Trung Cộng. Cả hai hồ sơ của Hà Nội đều né đụng chạm đến Trường Sa và Hoàng Sa và vùng tam giác xin mở rộng ngoài 200 hải lý chỉ là một vùng nước biển, chẳng ảnh hưởng gì tới phần chính của hai quần đảo này. Đảng CSVN đã giả danh xin mở rộng Thềm Lục Địa VN để mưu toan dâng Biển Đông và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho đảng CSTH qua hai hồ sơ nộp LHQ ngày 6 và 07/05/2009.

IV. Đôi Dòng Kết Luận

Với sự tiếp tay đắc lực của đảng CSVN, Bắc Kinh đang từng bước chiếm VN mà không cần phải động binh vừa hao người tốn của lại bị thế giới xúm vào lên án. Sau việc cho nhập cảnh không cần chiếu khán, đảng CSVN đã rước Trung Cộng vào ngồi ngay trên mái nhà VN giả danh khai thác bauxite bất chấp sự phản đối quyết liệt của người dân. Nay, lợi dụng việc xin mở rộng Thềm Lục Địa, đảng CSVN mưu toan dâng Trường Sa, Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt tức “nền nhà” VN cho Bắc Kinh qua hai hồ sơ nộp LHQ ngày 6 và 07/05/2009.

Tình thế đã vô cùng nguy ngập! Đất nước đã đến bờ vực thẳm! Bắc Kinh đang chiếm VN bằng “diễn tiến hoà bình” với sự đồng loã công khai của Hà Nội và với đà này thì VN sẽ lâm vào tình trạng Tân Cương và Tây Tạng một ngày không xa. Xin chớ nghĩ rằng VN từng bị ngàn năm Bắc-thuộc mà vẫn vùng lên giáng cho quân xâm lược những đòn chí tử vì kẻ thù ngày nay thâm độc và tàn ác gấp ngàn lần; nhìn gương Tây Tạng và Tân Cương thì rõ. Và cũng đừng ngây thơ mà trông chờ, tin tưởng vào bất cứ ai vì chén đắng 30/4/1975 còn nguyên trước mặt.

Ngoại xâm đang ngang nhiên cấu kết với nội xâm và đang tăng tốc để thực hiện những bước cuối cùng chiếm trọn VN. Nếu đồng bào quốc nội không mau tỉnh giấc để nhận ra tình huống vô cùng nguy hiểm của chính mình, người thân và dân tộc mà can đảm nhất loạt đứng lên thì rồi đây sẽ rơi vào số phận đáng thương người Tây Tạng và Tân Cương! Nếu đồng hương hải ngoại không gạt bỏ tị hiềm phe phái, vô tình hay cố ý lôi kéo mọi người vào những việc làm trình diễn hay chưa cần thiết và ngoảnh mặt làm ngơ trước tình thế cực kỳ mong manh của đất nước và dân tộc hiện nay thì sẽ phải trả giá với lương tâm và với lịch sử một ngày không xa!

LS Nguyễn Thành

Florida - 10//2009 - Viết cho 20/07 ngày Việt Cộng toa rập với Trung Cộng cắt đôi Đất Mẹ 55 năm xưa!

Tài liệu tham khảo chính:

- United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982

- Joint Submission by Malaysia & Vietnam - in the Southern part of the South China Sea

- Viet Nam – in North Area

- Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với HS-TS, 2007; Vịnh Bắc Việt: Địa Lý & Chủ Quyền Hải Phận, 2004

- Trần Bình Nam. Quanh vấn đề VN đăng ký “Thềm Lục Địa Ngoại Biên”, Việt Báo Online, 26/05/2009

- Nguyễn Thành, Đưa Việt Cộng ra trước LHQ, Toà Án các Quốc Gia và Toà Án Hình Sự Quốc Tế 2002, tạp chí Tiếng Vang, Sacramento, Hoa Kỳ, số tháng 5 và tháng 6/2002.

Chú thích:

[1] 8 hồ sơ của Russia; Brazil; Australia; Ireland; New Zealand; hồ sơ chung của France, Ireland, Spain, United Kingdo; Norway và Mexico. Không thấy hồ sơ của cựu TT Nguyễn Bá Cẩn trong số 50 hồ sơ này.

[2] Nguyên văn điều 76 Luật Biển LHQ: “An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zone. A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration, and any pollution of those resources. Hpwever, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial sea.”

[3] Toà Án Quốc Tế chuyên về Luật Biển [International Tribunal for the Law of the Sea = ITLOS] do Luật

Biển LHQ 1982 thiết lập, hoạt động từ năm 1996, trụ sở ở Hamburg, Đức, có quyền xét xử tranh chấp giữa các hội viên của Luật Biển LHQ và độc lập với LHQ hơn là Toà Án Quốc Tế La Hague.

Toà Án Quốc Tế [International Court of Justice=ICJ] La Hague, Hoà Lan thiết lập năm 1945 bởi LHQ. Đến nay, đã 54 năm nhưng Toà này chỉ xét xử 144 vụ vì quá lệ thuộc vào LHQ và nhất là “bất lực.”

[4] Nguyên văn điều 77 Luật Biển: “The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath.

[5] LS Nguyễn Hữu Thống [trong bài “Đại Hán tên đường suy thoái” trên Việtvùngvịnh ngày 26/5/2009] đã viết: “Sau những tính toán và do dự, vào ngày chót, Trung Cộng đã đệ đơn thỉnh nguyện tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ.”

Thật ra, đến ngày chót 13/05/2009 Trung Cộng vẫn không đệ đơn thỉnh nguyện [Submission] tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa mà chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm 08/05/2009 đến Tổng thư ký LHQ để ông này hối thúc Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa không cứu xét hồ sơ của VN và Mã Lai mà thôi.

Và ngày 11/05/2009 Trung Cộng chỉ thông báo [Information] cho Uỷ Ban về vấn đề Thềm Lục Địa ngoài 200 hải lý của Trung Cộng nhưng ở phiá Đông Biển Đông [East China Sea] và liên quan tới Nhật chứ không phải Đơn Thỉnh Nguyện nộp tại Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa ở phía Nam Biển Đông [South China Sea] và liên quan tới VN - Mã Lai; hai vụ khác nhau, một xảy ra ở phía Đông và một xảy ra ở phía Nam China Sea.

[6] Hà Nội gọi hiệp ước 25/12/2000 là “Hiệp định phân định vịnh Bắc-Bộ” nhưng học gỉa Vũ Hữu San gọi là Vịnh Bắc Việt vì nó không chỉ bao gồm Bắc-Bộ mà ảnh hưởng xuống tận Quảng Ngãi, Trung-phần VN.

[7] Lê Công Phụng [Thứ-trưởng Ngoại-giao, Trưởng đoàn đàm phán, kiến trúc sư hiệp ước Vịnh Bắc Việt 25/12/2000, hiện là Đại sứ Việt Cộng tại Hoa Kỳ] ngày 28/01/2002 lên tiếng thanh minh càng lòi ra âm mưu bán nước của đảng CSVN và sự dối gạt về cả Luật Biển LHQ của chính Lê Công Phụng.

Theo Phụng thì chính TBT Đỗ Mười và TBT Lê Khả Phiêu từ 1993 và 1997 đã sang tận Bắc Kinh “thỏa thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với Giang Trạch Dân, Tổng Bí Thư đảng CSTH.

Phụng còn khoe trong lúc đàm phán đã “căn cứ vào các qui định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán!” Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng và dưới đây là vài dẫn chứng.

a. Phụng đã không đòi áp dụng quy chế đảo cho Bạch Long Vĩ của VN; trái lại quá ưu đãi đảo Hải Nam,Trung Quốc. Đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý trong lúc cách đảo Hải Nam 55 hải lý,

b. Điều 15 Luật Biển LHQ qui định nếu hai nước không thoả thuận được với nhau thì phân chia hải phận theo đường trung tuyến [median line]; đường này phải chạy giửa và cùng khoảng cách với hai đường bờ biển [baseline] hay hai đảo của hai nước. Phụng đã chấp thuận tất cả các khoảng cách không đều nhau, khoảng cách lại tính từ đảo Hải Nam đến bờ biển VN, thay vì tới đảo Bạch Long Vĩ.

c. Toà Án Quốc Tế, trong Án Lệ Lybia vs Malta [1985], đã phán quyết hải đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với lục địa được và không cho đảo Malta có hải phận bằng nước Lybia. Phụng đảo ngược Án Lệ này khi coi đảo Hải Nam hơn hẳn lục địa VN

d. Luật Biển LHQ và Án Lệ đưa ra một số tiêu chuẩn nhằm ưu tiên cho các nước ven biển, thí dụ như:

- Địa hình đáy biển chạy dài thoai thoải ra khơi [như trường hợp VN]

- Dân chúng sống tại duyên hải đông hơn [vùng Vịnh BV gần 30 triệu người, HN không quá 6 triệu]

- Bờ biển dài hơn hay nhiều đảo hơn [chiều dài bờ biển Vịnh BV dài hơn đảo HN; VN có tới 1,300 đảo]

Phụng không hề đòi áp dụng các tiêu chuẩn trên cho VN khi đàm phán và còn quá ưu đãi đảo Hải Nam của Trung Quốc nên chỉ riêng vùng đảo này thôi Phụng đã dâng cho Trung Cộng 20 km2 vùng Vịnh Bắc Việt nhưng đến nay Phụng vẫn tiếp tục dối gạt.


Cọc mốc của Trung Quốc cắm trên lãnh hải Việt Nam (sát Côn Đảo)

Source: http://phanchautrinhdanang.com/DATNUOCTA/CocmocTQsatConDao.htm

Một thân hữu từ Côn Đảo đem về cho tôi một hiện vật rất liên quan và có ý nghĩa. Đó là một trong số rất nhiều cột mốc của Trung Quốc sản xuất hàng loạt, cắm quanh Côn Đảo, nhằm khẳng định Côn Đảo là thuộc về Trung Quốc, thế đấy !
    Tôi gửi đến các độc giả ảnh chụp chi tiết cột mốc này. (HSP)
Cọc mốc cao 50 cm đúc bằng nhựa cứng chuyên dụng
4 chữ THỔ ĐỊA GIỚI TIÊU (Cột mốc địa giới) khắc ở mặt trước và mặt sau của cọc
Mặt trên của cọc mốc cũng khắc chìm 4 chữ THỔ ĐỊA GIỚI TIÊU

Cảm phục tấm lòng của người Việt tỵ nạn với bà quả phụ Thiếu Tá Việt Nam Cộng Hòa Đặng Hồng Sơn

Mồ Hoang Núi Lạnh

Chuyện của bà Quả phụ Đặng Hồng Sơn bốc mộ chồng bỏ mình trong trại tù cải-tạo.
Thứ Năm 30/07/09 của đài SBS Úc Châu.




Vai Trò Của Cộng Sản Trung Cộng Trong Chiến Tranh 1946-1954 Ở Việt Nam - Trần Gia Phụng


1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ


Sau thế chiến thứ hai, Việt Minh (VM), mặt trận của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp chính quyền và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945. Ngày 11-9-1945, trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội đưa ra quyết định chủ trương độc quyền cai trị đất nước.(Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143. Về sau, Cộng sản Việt Nam thực hiện điều nầy qua điều 4 hiến pháp năm 1992.)

Thực hiện chủ trương nầy, về đối nội, VM tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc. Về đối ngoại VM nhượng bộ các lực lượng nước ngoài để rảnh tay đối phó với các tổ chức đối kháng trong nước, nhằm duy trì việc độc quyền chính trị.

Khi Pháp gởi lực lượng theo quân Anh tái chiếm miền Nam, rồi tiến ra Bắc nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng, VM liên tục nhượng bộ. Hồ Chí Minh ký kết với đại diện Pháp liên tiếp hai hiệp ước (hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946), sẵn sàng đón tiếp quân Pháp đến Bắc Kỳ, để cho Pháp tái tục những hoạt động kinh tế, văn hóa, giao thông trên toàn quốc…, trái với lời thề chống Pháp khi Hồ Chí Minh trình diện chính phủ ngày 2-9-1945.

Thấy VM yếu kém, ngày 18-12-1946, Pháp tiếp tục uy hiếp, buộc VM phải giao quyền kiểm soát an ninh Hà Nội cho Pháp. Nếu Pháp kiểm soát an ninh Hà Nội, thì sinh mệnh ban lãnh đạo VM và đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay Pháp. Thay vì hỏi ý kiến quốc hội (cơ quan có quyền tuyên chiến), Hồ Chí Minh họp trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội) trong hai ngày 18 và 19-12-1946. Hội nghị nầy quyết định bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946.( Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.) Đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp nhắm tạo điều kiện để ban lãnh đạo VM và đảng CSĐD có lý do chính đáng nhằm thoát thân khỏi Hà Nội. Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thế là chiến tranh không tuyên chiến xảy ra từ 1946 đến 1954.

Chiến tranh 1946-1954 có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất 1946-1949 và giai đoạn thứ hai 1950-1954. Trong giai đoạn thứ nhất (1946-1949), Việt Minh cộng sản (VMCS) rất yếu kém, phải rút lên rừng núi hay vào bưng biền để trốn tránh và chỉ sử dụng du kích chiến nhằm làm tiêu hao lực lượng Pháp. Trong chiến tranh, VM tiếp tục truy diệt những thành phần chính trị theo chủ nghĩa dân tộc. Vì bản năng sinh tồn, giới nầy tập hợp chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, tạm thời liên kết với Pháp để chống VM.

Năm 1949 xảy ra hai biến cố quan trọng. Thứ nhất tổng thống Pháp ký với cựu hoàng Bảo Đại hiệp định Élysée (8-3-1949), đưa đến sự thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) do Bảo Đại làm quốc trưởng. Thứ hai, tại Trung Quốc, đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ) thành công. Chủ tịch đảng CSTQ là Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng Hoa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) ngày 1-10-1949.

Cả hai biến cố nầy đều ảnh hưởng đến chiến tranh Việt Nam và làm thay đổi tính chất cuộc chiến. Sự thành lập QGVN khiến trên đất nước Việt Nam có hai chính thể đối nghịch nhau: Chính thể QGVN tự do dân chủ, vừa tranh đấu với Pháp để xây dựng độc lập hoàn toàn, vừa nhờ sự giúp đỡ của Pháp để chống lại VM cộng sản, và chính thể VNDCCH theo chủ nghĩa cộng sản. Pháp ở vị trí một đế quốc xâm lăng, nay trở thành đồng minh của QGVN.

Do sự sắp đặt giữa VMCS và CSTQ, VNDCCH thừa nhận CHNDTH ngày 15-1-1950. Đáp lại, CHNDTH thừa nhận VNDCCH ngày 18-1-1950 và sau đó, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Trước tình hình nầy, Hoa Kỳ lo ngại sự bành trướng của cộng sản, liền thừa nhận chính phủ QGVN do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng ngày 4-2-1950, lôi kéo theo chính phủ Anh thừa nhận ngày 7-2-1950, và sau đó là các nước đồng minh của Hoa Kỳ.

Như thế, năm 1950 đánh dấu khúc quanh của chiến tranh, mở đầu giai đoạn thứ hai của cuộc chiến. Việt Minh dựa vào viện trợ của Cộng sản quốc tế, chủ yếu là viện trợ của CSTQ, phản công chống Pháp, quyết tâm tiêu diệt QGVN. Quốc Gia Việt Nam, ngòai đồng minh là Pháp, còn nhờ sự viện trợ của Hoa Kỳ chống lại VMCS. Từ năm 1950, cuộc chiến không còn ý nghĩa kháng chiến chống Pháp, và biến thành chiến tranh ý thức hệ quốc cộng trên đất nước Việt Nam.

2. HỒ CHÍ MINH CẦU VIỆN

Từ năm 1950, CSTQ đóng vai trò càng ngày càng quan trọng trong chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ việc Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc và Liên Xô.

Ngày 1-10-1949, Mao Trạch Đông (Mao Zedong) tuyên bố thành lập CHNDTH. Cuối năm đó, Hồ Chí Minh cử hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin viện trợ. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina, 2000, tt. 13, 15.) Lúc đó, Mao Trạch Đông cùng Châu Ân Lai (Zhou Enlai) đã qua Moscow từ 16-12-1949 để thương thuyết với Stalin.

Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), xử lý công việc bộ Chính trị đảng CSTQ, cử La Quý Ba (Luo Guibo), uỷ viên trung ương đảng CSTQ làm đại diện đảng CSTQ bên cạnh đảng CS Đông Dương (CSĐD).(Qiang Zhai, sđd. tr.15.) Ngay trong tháng 1-1950, La Quý Ba rời Bắc Kinh qua Việt Nam.(La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, đăng trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, do Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính (tài liệu lưu hành nội bộ), tr. 2.)

Theo các tài liệu của CSTQ, chế độ CHNDTH mới thành lập ngày 1-10-1949, đang khó khăn, chưa được các nước Tây phương thừa nhận, nhưng vì tinh thần và nghĩa vụ quốc tế vô sản, CHNDTH đã hào phóng viện trợ vô tư không điều kiện cho VNDCCH.(La Quý Ba, sđd. tr. 4.)

Sự thật đúng là lúc đó các nước Tây phương chưa thừa nhận CHNDTH, nhưng CHNDTH lại sẵn sàng thừa nhận và giúp đỡ VNDCCH vì hai chủ đích riêng của CHNDTH: 1) Lúc đó, đảng CSTQ chưa ổn định tình hình lục địa Trung Hoa. Đảng CSTQ lo ngại Tưởng Giới Thạch nhờ các nước tư bản, nhất là Hoa Kỳ và Pháp, giúp đỡ để lực lượng Quốc Dân Đảng quay trở lại tấn công CSTQ. Vì vậy, CSTQ nhận VMCS làm đồng minh, giúp đỡ VMCS để VMCS giữ gìn an ninh vùng biên giới Hoa Việt, làm vùng trái độn an toàn cho Trung Quốc. Mao Trạch Đông công khai xác nhận việc nầy trong một cuộc họp của trung ương đảng CSTQ tháng 11-1950.(La Quý Ba, sđd. tr. 7) 2) Về tương lai, CSTQ dự tính có thể sử dụng VNDCCH để tìm đường xuống Đông Nam Á.

Sau phái đoàn Lý Bích Sơn và Lưu Đức Thủy, đích thân Hồ Chí Minh bí mật qua Bắc Kinh cầu viện ngày 30-1-1950. Lúc đó Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai vẫn còn ở Liên Xô. Lưu Thiếu Kỳ hứa sẽ đáp ứng những lời cầu viện của Hồ Chí Minh và sắp đặt cho Hồ Chí Minh qua Liên Xô cầu viện tiếp.

Trong các cuộc tiếp xúc với Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai, lãnh tụ Liên Xô là Joseph Stalin nhiều lần lập lại ý kiến rằng công việc viện trợ cho VNDCCH là công việc chủ yếu do CSTQ gánh vác. Chắc chắn Lưu Thiếu Kỳ ở Bắc Kinh đã được biết quyết định nầy của Stalin do phái đoàn Mao Trạch Đông thông báo, nhưng Lưu Thiếu Kỳ vẫn sắp đặt cho Hồ Chí Minh qua Moscow, có thể nhằm cho Hồ Chí Minh tận mặt gặp Stalin để tận tai nghe ý kiến của Stalin.

Hồ Chí Minh đến Moscow tối 6-2-1950. Bộ chính trị đảng CSLX mở tiệc chào mừng Hồ Chí Minh nhưng Stalin không đến dự. Sau đó, Stalin chỉ tiếp Hồ Chí Minh tại văn phòng làm việc, với sự có mặt của Malenkow, Molotow, Bulganin và Vương Gia Tường, đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô. Như đã từng nói chuyện với Mao Trạch Đông, Stalin nói thẳng với Hồ Chí Minh: “Chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn… Trung Quốc ở sát Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam hơn chúng tôi, kinh nghiệm đấu tranh của Trung Quốc càng có tác dụng làm gương đối với Việt Nam, giúp các đồng chí sẽ thuận tiện hơn.” (Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, trong sách Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tr. 20.)

Ngày 14-2-1950, Joseph Stalin và Mao Trạch Đông ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh và hỗ tương Trung-Xô (Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance and mutual Assistance) gồm 6 điều khoản và hiệu lực trong 30 năm. Ngày 16-2-1950, trong buổi tiệc chiêu đãi phái đoàn Trung Quốc trước khi Mao Trạch Đông về nước, nhân lúc Stalin vui chuyện, “Hồ Chí Minh lại nói: “Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước. Stalin nói: “Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi giải thích như thế nào? Hồ Chí Minh nói: “Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?” Stalin cười lớn: “Đó là sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh.” Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười vang.”.(Trương Quảng Hoa, sđd. tr. 21.)

Ngày 17-2-1950, Hồ Chí Minh cùng Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai rời Moscow trở về Bắc Kinh bằng xe hỏa. Trong cuộc hành trình nầy, một hôm Hồ Chí Minh “đi đến toa xe của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh nói ngay bằng tiếng Trung Quốc: “Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.”( Trương Quảng Hoa, sđd. tr. 22.)

Về tới Bắc Kinh, hai bên ký kết một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa CHNDTH và VNDCCH, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ (ám chỉ Quốc Dân Đảng Trung Hoa và biệt kích Pháp).(Bernard Fall, Le Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.) Hiệp ước nầy cho thấy việc CSTQ quyết định viện trợ cho VNDCCH rõ ràng không phải vì tinh thần và nghĩa vụ quốc tế cộng sản mà vì quyền lợi thiết thực của CSTQ là bảo vệ an ninh vùng biên giới phía nam.

Không kể lần đi cầu viện thứ nhất, cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1954, Hồ Chí Minh còn qua Bắc Kinh ba lần và qua Moscow hai lần để cầu viện trong các năm 1951, 1952, 1954. Trong bản tin ngày 14-5-2009, đài BBC đã tường thuật một bài báo mới đăng trên báo Pravda (Nga), nhắc lại rằng các xe vận tải Molotov và súng phòng không của Liên Xô đã góp công rất lớn đến chiến thắng Điện Biên Phủ. (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam.) Trong lịch sử Việt Nam, không có nguyên thủ quốc gia (trước đây là vua) Việt Nam nào, kể cả Lê Chiêu Thống (Chỉ có mẹ vua ra đi mà thôi), qua Trung Hoa trực tiếp cầu viện như Hồ Chí Minh,


3. CÁC PHÁI ĐOÀN CỐ VẤN

Ngoài cố vấn chính trị là La Quý Ba đã có mặt tại Việt Nam từ tháng 1-1950, về quân sự CSTQ gởi sang VN một cố vấn đặc biệt và một phái đoàn cố vấn đông đảo để giúp bộ đội VM.

(hình bên: Trần Canh, thứ ba từ bên trái, Hồ Chí Minh Viên và bộ tham mưu) cố vấn đặc biệt là đại tướng Trần Canh (Chen Geng), uỷ viên dự khuyết ban chấp hành trung ương đảng CSTQ, tư lệnh quân khu Vân Nam, chính uỷ binh đoàn số 4, chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vân Nam. Hồ Chí Minh đã xin đích danh với Mao Trạch Đông gởi Trần Canh sang làm cố vấn cho trung ương đảng CSĐD. Trần Canh rời Côn Minh đi Việt Nam ngày 7-7-1950.

Trần Canh vào địa phận Việt Nam từ 20-7-1950, nghiên cứu tình hình tại chỗ và gởi về Bắc Kinh một báo cáo, đại ý như sau: 1) VM cần vận dụng thêm phụ nữ vào công việc chiến đấu. [Từ sau ý kiến của Trần Canh, xuất hiện nữ dân công VM trên chiến trường.] 2) Những sĩ quan cấp tiểu đoàn của VM thiếu kinh nghiệm chiến trường, nên cần phải tổ chức tiến đánh những đồn bót nhỏ, để tăng kinh nghiệm và tạo chiến công nhằm gây niềm tin nơi quân sĩ. 3) Thực hiện chiến thuật công đồng đả viện (tấn công cứ điểm, chận đánh viện binh) bằng cách tấn công các đồn nhỏ để quân Pháp đưa quân đi cứu viện, rồi phục binh tấn công viện quân củ Pháp. Nếu làm như thế, VM có thể chiếm được Cao Bằng và sẽ làm thay đổi tình hình biên giới.

Trần Canh gặp Hồ Chí Minh lần đầu ngày 28-7-1950 tại chiến khu Dương Sơn, tỉnh Thái Nguyên. Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý với kế hoạch Trần Canh.

Trong khi đó vào cuối tháng 7-1950, bộ tư lệnh cố vấn quân sự Trung Quốc (BTLCVQSTQ) chính thức được thành lập, lúc đầu gồm 281 người, trong đó có 79 cố vấn, 202 tùy viên, do tướng Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) làm tư lệnh với hai phụ tá là Mai Gia Sinh (Mei Jiasheng) và Đặng Dật Phàm (Deng Yifan). Vi Quốc Thanh và BTLCVQSTQ có mặt ở bộ chỉ huy bộ đội VM tại Quảng Nguyên (Cao Bằng) ngày 12-8-1950, rồi được phân phối đi các đại đơn vị VM.

Từ đây, kế hoạch, chiến thuật, chiến lược tấn công của VM đều do quân uỷ đảng CSTQ ở Bắc Kinh nghiên cứu, duyệt xét, đưa qua cho BTLCVQSTQ, rồi bộ tư lệnh nầy chuyển lại cho giới lãnh đạo VM thi hành.

4. TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ QUÂN SỰ VÀ KINH TẾ

Sau khi đi cầu viện, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam cuối tháng 2-1950. Tháng 4-1950 Hồ Chí Minh gởi qua Bắc Kinh một danh mục xin viện trợ và đề nghị CSTQ lập một một trường võ bị ở Trung Quốc để huấn luyện cho bộ đội VM, xin Trung Quốc gởi cố vấn sang Việt Nam và giúp thêm quân nhu, quân cụ, súng ống. (Qiang Zhai, sđd. tr. 18.)

Từ tháng 4 đến tháng 9-1950, CSTQ đã gởi qua cho VM 14,000 súng lục và súng trường, 1,700 súng liên thanh và súng không giựt, 150 súng cối, 60 đại pháo, 300 ba-dô-ka (bazooka), cùng trang thiết bị quân sự, thuốc men, dụng cụ truyền tin, áo quần và 2,800 tấn thực phẩm. (Qiang Zhai, sđd. sđd. tr. 20.)

Chiến dịch biên giới của VM: Chiến thắng quan trọng đầu tiên của VM trong thời kỳ nầy là trận Đồng Khê (từ 16 đến 18-9-1950) và cuộc phục kích vào đầu tháng 10-1950 bắt 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai trung tá Pháp, hoàn toàn do Trần Canh chỉ huy.

Sau chiến thắng nầy, VM kiểm soát một vùng rộng lớn giữa biên giới Việt Hoa, làm trái độn an toàn cho CHNDTH. Đảng CSTQ yên tâm về biên giới phía nam, liền rút Trần Canh về nước.

Sau khi Trần Canh ra đi, Võ Nguyên Giáp và ban lãnh đạo VM đưa quân tấn công các tỉnh thuộc vùng châu thổ Hồng Hà. Những trận đánh ở vùng đồng bằng của Võ Nguyên Giáp thất bại thê thảm ở Vĩnh Yên (01-1951), Phả Lại, Uông Bí (03-1951), Hà Nam và Ninh Bình (tháng 05 và 06-1951).

Các chiến dịch Tây bắc của VM: Không biết các trận đánh ở vùng đồng bằng là kế hoạch của Võ Nguyên Giáp hay của các cố vấn quân sự Trung Quốc, nhưng khi về Bắc Kinh báo cáo và dưỡng bệnh vào tháng 7-1951, Vi Quốc Thanh đổ lỗi rằng VM quá nôn nóng tiến đánh những căn cứ của Pháp ở đồng bằng, gần hậu phương của địch, nên VM khó thành công. Vi Quốc Thanh đề nghị VM tái cấu trúc bộ chỉ huy, tái huấn luyện quân đội, mở phong trào chỉnh huấn để huấn luyện chính trị, đồng thời thanh lọc hàng ngũ quân đội.

Trong lúc Vi Quốc Thanh vắng mặt, La Quý Ba tạm thay đứng đầu BTLCVQSTQ. Ngày 16-2-1952, BTLCVQSTQ gởi báo cáo về Bắc Kinh, đề nghị mở chiến dịch Tây bắc, vì lực lượng phòng thủ của Pháp ở đây yếu kém, và chiếm vùng Tây bắc sẽ củng cố chiến khu Việt Bắc, đồng thời có thể mở đường sang Lào.

Chẳng những chấp thuận kế hoạch của BTLCVQSTQ, Mao Trạch Đông bắt đầu nghĩ đến chiến lược bành trướng xuống phía nam qua đường Lào: chiếm Tây bắc Việt Nam, chiếm Thượng Lào, xuống Hạ Lào, xâm nhập Cambodia. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, sách Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tr. 51.)

Sau đó, trong một lần chỉ thị trực tiếp cho Vi Quốc Thanh tại Bắc Kinh vào tháng 10-1953, Mao Trạch Đông còn khai triển cả một chiến lược dài hạn: Một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh chiếm Lai Châu, chiếm toàn bộ vùng Tây bắc, chuyển qua Thượng Lào, rồi xuống Trung và Hạ Lào. Hai là cương quyết khai thông con đường Nam tiến [đường núi Trường Sơn]; đó là con đường huyết mạch; đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn để hoàn thành. Ba là điều động cán bộ, quân đội các liên khu 3, 4 làm công tác mở vùng; đánh được nơi nào thì củng cố nơí ấy. Mao Trạch Đông tóm gọn kế hoạch nầy trong 12 chữ: “Hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ”. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, sách Hồi ký những người trong cuộc…, sđd. tr. 68.)

Phía VM, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Lao Động đã theo cố vấn Trung Quốc, chuyển hướng tấn công, mở các chiến dịch đánh vùng tây bắc Bắc Việt, rồi đánh qua Lào năm 1953. Cuối cùng hai bên đụng độ ở Điện Biên Phủ vào đầu 1954. Trận Điện Biên Phủ (ĐBP) kết thúc ngày 7-5-1954, nghiêng thắng lợi về phía VM.

Trận Điện Biên Phủ: Theo các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc tiết lộ trong sách Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam chống Pháp, do Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 2002, thì trận ĐBP hoàn toàn do các cố vấn quân sự Trung Quốc chỉ huy từ đầu đến cuối. Chẳng những Trung Quốc viện trợ vũ khí, quân nhu, chiến lược, kế hoạch, mà viện trợ luôn cả những người đào giao thông hào là những người đã tham dự các trận đánh ở Triều Tiên trước đó.

Qua sách hồi ký nầy, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp chỉ là những đốc công trên chiến trường, “Những con người tiêu máu của dân / Như tiêu giấy bạc giả!”(thơ Phùng Quán). Chiến thuật biển người sở trường của các tướng lãnh Trung Quốc được áp dụng triệt để, nên dầu thắng trận, VM mất trong trận nầy khoảng gần 25,000 người, bị thương khoảng 15,000 người trong khi liên quân Liên Hiệp Pháp thua trận, nhưng chết dưới 2,500 người, bị thương khoảng 5,200 người.

Cần chú ý là trước khi VM tiến hành những chiến dịch lớn, Hồ Chí Minh luôn luôn tham khảo ý kiến rất chi tiết với các nhà lãnh đạo đảng CSTQ. Thậm chí, trước khi mở chiến dịch Tây bắc, Hồ Chí Minh đã đến tận Bắc Kinh tháng 9-1952, rồi tiếp tục qua Liên Xô để thảo luận và cầu viện với Stalin. (Qiang Zhai, sđd. tt. 37-38.) Trong chiến dịch Điện Biên Phủ cũng thế. Hồ Chí Minh qua Trung Quốc cuối tháng 3-1954. Từ Bắc Kinh, Hồ Chí Minh theo Châu Ân Lai qua Moscow ngày 1-4-1954, nói là để bàn về công việc ngoại giao và hội nghị Genève. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngọa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève], Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, nhan đề tiếng Việt là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 5: “Dốc sức lên kế hoạch”. (Nguồn: diendan@diendan.org.) Ngày 12-4-1954, Hồ Chí Minh mới trở lui Bắc Kinh, rồi về Việt Nam. Chắc chắn chuyến đi nầy nhằm thảo luận trận chiến ĐBP và vận động tăng cường viện trợ võ khí cho VM để tấn công.

Trong công cuộc viện trợ quân sự của CSTQ cho VM trước năm 1954, cần chú ý đến kế hoạch 12 chữ của Mao Trạch Đông. Chẳng những VM triệt để thực hiện kế hoạch nầy trong chiến tranh trước năm 1954, mà Cộng sản Việt Nam còn dùng con đường Trường Sơn trong việc xâm lăng miền Nam sau năm 1954. Ngày nay, Trung Quốc tiếp tục kế hoạch nầy, lấy cớ khai thác bauxite để lấn chiếm Cao nguyên Nam Trung Phần, nhằm khống chế Việt Nam và Đông Nam Á.

Viện trợ kinh tế: Về kinh tế, các nhà nghiên cứu Tây phương thường cho rằng trong suốt cuộc chiến 1946-1954, VMCS đã thực hiện kinh tế chỉ huy, tập thể và tự túc. (Pierre Brocheux, “L’économie de la résistance vietnamienne, 1945-1954”, đăng trong Les Cahiers de L’institut d’histoire du temps présent, No. 34, Paris: Juin 1996, tr. 77.) Ý kiến nầy có thể bắt nguồn từ sự quan sát bên ngoài những sinh hoạt kinh tế trong các vùng do VM chiếm đóng, vì đời sống dân chúng khó khăn, ít tiêu xài, chỉ dùng hàng hóa nội địa. Trên lý thuyết, bất cứ nền kinh tế cộng sản nào cũng đều do nhà nước chỉ huy và có tính cách tập thể. Tuy nhiên, dân chúng phải tự túc, nhưng nhà cầm quyền VM không tự túc trong thời gian chiến tranh.

Ngay từ đầu, Lưu Thiếu Kỳ đã nói với cố vấn chính trị La Quý Ba vào năm 1950: “Nhu cầu cấp thiết của Việt Nam hiện nay là giải quyết vấn đề tài chính kinh tế, công tác ngân hàng, công tác lương thực…”(La Quý Ba, bài đd., sđd. tr. 5.)

Chẳng những gởi người sang làm công tác cố vấn mà CSTQ còn gởi lương thực, hàng hóa để tiếp tế cho VM. Số lượng gạo, thực phẩm từ Trung Quốc chuyển sang cho VM có thể tính như sau: 120 tấn (năm 1950), 776 tấn (năm 1951), 610 tấn (năm 1952), 1,516 tấn (1953), 1, 772 tấn (năm 1954).(Một nhóm tác giả, Bách khoa tri thức quốc phòng toàn dân, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003, tr. 638.)

5. TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ CHÍNH TRỊ

Cố vấn chính trị La Quý Ba có mặt ở Việt Nam từ năm 1950 cho đến khi chiến tranh kết thúc. La Quý Ba đã giúp VM tổ chức những phong trào chính trị quan trọng trong suốt cuộc chiến. Đầu tiên phải kể đến cách tổ chức quân đội.

Ngay từ khi mới thành lập năm 1946, bộ tổng chỉ huy quân đội VM tổ chức hệ thống chính uỷ trong các đơn vị. Viên chính uỷ nắm toàn quyền quyết định trong tất cả các đơn vị quân sự, khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng CS trong quân đội. Nguồn gốc của chức chính uỷ từ tổ chức hồng quân Liên Xô. Mao Trạch Đông phỏng theo. Nguyên vào tháng 10-1927, Mao Trạch Đông nổi dậy ở Hồ Nam, nhưng thất bại phải bỏ chạy qua Giang Tây. Tại đây, ông cải tổ quân đội và lập ra chức chính uỷ để huấn luyện và nắm vững tinh thần binh sĩ. Việt Minh theo đúng cách tổ chức của Mao Trạch Đông nên trong hệ thống quân giai VM, bên cạnh đơn vị trưởng luôn luôn có chính uỷ đi kèm, nắm toàn quyền trong đơn vị.

Từ năm 1949, khi đảng CSTQ bắt đầu thắng thế ở Trung Quốc, VM đẩy mạnh những phong trào chính trị theo kiểu CSTQ, mở đầu bằng phong trào “rèn cán chỉnh quân”, từ giữa năm 1949. (Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tr. 855.) “Rèn cán chỉnh quân” là rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội, nhưng phong trào nầy không mấy thành công và được thay thế bằng phong trào chỉnh huấn năm 1950.(Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, California: Xuân thu tái bản, 1989, tt. 205, 421.(Trích: Qiang Zhai, sđd. tr. 39.)

Theo mô thức CSTQ, VM mở phong trào chỉnh huấn vừa để thanh lọc hàng ngũ đảng viên, cán bộ, sĩ quan, loại bỏ những thành phần trí thức tiểu tư sản dầu những người nầy đã lên đường tham gia kháng chiến ngay từ buổi đầu. Đồng thời, chỉnh huấn còn để củng cố tư tưởng chuyên chính vô sản, hướng dẫn cán bộ tự giác, tự nguyện, tin tưởng tuyệt đối ở chủ trương chính sách của đảng CSĐD.

Song song với phong trào chỉnh huấn là cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ), bắt đầu với sắc lệnh số 78/SL ngày 14-7-1949 thành lập Hội đồng giảm tô, rồi thông tư liên bộ số 33/ NVI ngày 21-8-1949 đưa ra nguyên tắc phân chia ruộng đất tịch thu được của Pháp và “Việt gian” là những người bị VM kết tội thân Pháp hay tay sai cho Pháp.

Để giúp VM thực hiện CCRĐ, Trung Quốc tổ chức khóa huấn luyện chủ nghĩa Mác-Lênin tại Bắc Kinh năm 1951, chính là để học tập phương thức CCRĐ theo đường lối “thổ cải” (cải cách ruộng đất) của Trung Quốc. Sau khóa học tập nầy, phái đoàn Việt Nam trở về liền tổ chức những thí điểm CCRĐ ở Việt Bắc và ở Thanh Hóa, nhưng không thành công. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, California: Nxb. Văn Nghệ [tái bản], 1995, tr. 164.) Vì vậy, VM chấn chỉnh tổ chức, chuẩn bị bài bản kỹ lưỡng hơn để tiếp tục CCRĐ từ năm 1953.

Tháng 1-1953, đại hội trung ương đảng CS, lúc nầy lấy tên là đảng Lao Động, quyết định phát động lại cuộc CCRĐ, với sự giúp đỡ mạnh mẽ của CSTQ. Lúc đó, bộ Tư lệnh cố vấn quân sự TQ lập thêm một ban mới là “Ban CCRĐ và củng cố đảng” do Zhang Dequn cầm đầu. Đảng CSTQ liền gởi thêm 42 chuyên viên CCRĐ để tăng cường công việc CCRĐ ở Việt Nam.

Từ đây, cuộc CCRĐ hoàn toàn theo đường lối CSTQ. Các chuyên viên CSTQ đã hướng dẫn kinh nghiệm thổ cải Trung Quốc, phân loại nông dân, thành lập nông hội, đưa nông dân nghèo vào trong Uỷ ban hành chánh và thi hành kế hoạch tam cùng (three together system) là cùng ăn, cùng ở, cùng làm để lấy lòng dân và thăm dò tin tức. Sau tam cùng, đến bắt rễ, xâu chuỗi, phân chia thành phần địa chủ theo nguyên tắc của Trung Quốc là trong một xã có bao nhiêu bần nông thì có bấy nhiêu địa chủ.

Để tuyên truyền, các cố vấn CSTQ cho chiếu bộ phim “Bạch mao nữ” (The White-Hair Girl) kể về cuộc sống đau khổ của một cô gái nghèo trong tay viên địa chủ ác độc nhằm kích động cán bộ. Quan trọng nhất là sắc lệnh CCRĐ ngày 4-12-1953 cấm đoán mọi sự phản kháng cuộc CCRĐ (điều 35) và quy định việc thiết lập tòa án nhân dân đặc biệt để xét xử những thành phần chống lại cuộc CCRĐ (điều 36). Các phương pháp đấu tố (đấu tranh tố cáo) như đấu lý, đấu lực, đấu pháp và đấu ảnh cùng các tòa án nhân dân cũng được thực hiện theo bài bản CSTQ. Cuộc CCRĐ đang tiến hành thì xảy ra trận Điện Biên Phủ và hội nghị Genève.

Đấu lý là đưa ra những bằng chứng (có thực hay bịa đặt) để tố cáo nạn nhân. Đấu lực là dùng sức mạnh tra khảo, trấn áp buộc nạn nhân phải nhận tội. Đấu pháp là đưa nạn nhân ra trước tòa án nhân dân, không có pháp luật mà chỉ do ban CCRĐ quyết định. Đấu ảnh trong trường hợp nạn nhân đã chết, đem hình ảnh hay một vật tượng trưng của nạn nhân ra đấu tố. (Vụ đấu ảnh nổi tiếng là vụ đấu tố Phan Bội Châu ở Nghệ An.)

Hội nghị Genève về Đông Dương khai diễn ngày 8-5-1954, một ngày sau khi liên quân Liên Hiệp Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ. Do thắng lợi trên chiến trường, phái đoàn VM tham dự hội nghị Genève do Phạm Văn Đồng tỏ rất rất cứng rắn, đưa ra nhiều đòi hỏi lớn lao, ngoài chủ trương của cả Trung Quốc lẫn Liên Xô. Trong lúc hội nghị tạm nghỉ họp vào cuối tháng 6-1954, Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc, trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Genève, trở về nước, và mời hay đúng hơn là gọi Hồ Chí Minh sang họp tại Liễu Châu (Liuzhou) ở Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi).

Trong cuộc họp ba ngày tại Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, Châu Ân Lai thuyết phục hay đúng hơn ra lệnh Hồ Chí Minh và chính phủ VM phải theo chủ trương của CSTQ, chấp nhận chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, giải quyết riêng biệt chuyện Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao. Thế là Hồ Chí Minh phải nghe theo, và chỉ thị ngay cho Phạm Văn Đồng sau khi nghỉ họp vào tối 5-7-1954. Chỉ thị nầy thường được gọi là chỉ thị 5/7 trong hồ sơ ngoại giao của CSVN. (Tiền Giang, sđd. chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”.)

Ngang đây, có thể nói, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD, rồi đảng Lao Động, hầu như lệ thuộc hẳn vào chủ trương chính trị của Liên Xô và nhất là của Trung Quốc. Trong Đại hội 2 của đảng CS vào tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, Hồ Chí Minh đã đặt tên mới cho đảng CSĐD là đảng Lao Động (LĐ), là tên do Stalin đặt. (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 149-150.)

Trong dịp nầy, Hồ Chí Minh phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin.Về tổ chức, đảng Lao Động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung, Về kỷ luật, đảng Lao Động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 174.) Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với Hồ Chí Minh rằng: “Có đồng chí còn nói: hay là ta viết “tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Hồ Chí Minh trả lời: “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin.” (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 151.) Cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh nhiều lần tuyên bố: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được.” (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, California: Nxb. Tuổi Xanh, 2001, tr. 63.) Một lần khác, có người đã hỏi Hồ Chí Minh vì sao ông không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Đông viết rồi. (Oliver Todd, “Huyền thoại Hồ Chí Minh”, Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 277.)

KẾT LUẬN

Vào năm 1946, VM rất yếu kém, nhưng ở thế chẳng đặng đừng phải phát động cuộc chiến tối 19-12. Việt Minh rút lui vào các chiến khu trên rừng núi hay trong bưng biền. Lực lượng Pháp dần dần mở rộng vùng kiểm soát, VM càng ngày càng nao núng. Việt Minh đang trên đà suy sụp và có thể bị tiêu diệt.

Khi CSTQ thành công ở lục địa năm 1949, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc cầu viện và nhờ Trung Quốc mở đường, Hồ Chí Minh tiếp tục qua Liên Xô cầu viện. Liên Xô thỏa thuận để cho đảng CSTQ viện trợ cho VM. Viện trợ của Trung Quốc đã cứu sống VM và đảng CSĐD.

Trung Quốc viện trợ cho VM về mọi mặt, võ khí, quân nhu, quân dụng, chiến lược, chiến thuật, chính trị, kinh tế, thực phẩm… Trung Quốc trở thành hậu phương lớn cho VM trốn tránh, dưỡng quân, huấn luyện sĩ quan và bộ đội. Trung Quốc tạo thành một hành lang để VM có thể liên lạc ngoại giao và nhận viện trợ thêm từ các nước ở xa bên ngoài, như Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước không liên kết… Cuối cùng, có thể nói chính Trung Quốc đã thắng cuộc chiến năm 1954 chứ không phải VMCS. Đồng thời, nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc dầu là một nước chậm tiến, lạc hậu, chưa được vào Liên Hiệp Quốc, nghiễm nhiên được ngồi ngang hàng với các cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ Liên Xô tại hội nghị Gèneve (1954).

Trong khi đó, cái giá phải trả cho việc Trung Quốc viện trợ cho VM là vô giá. Giới lãnh đạo bá quyền CSTQ nói rằng viện trợ không hoàn lại, nhưng trên thế giới nầy làm gì có chuyện cho không, biếu không? Phản bội tổ quốc, rước voi về giày mồ, Hồ Chí Minh, mặt trận VM, đảng CSĐD ăn cám trả vàng. Chỉ khổ một nỗi là người trực tiếp trả vàng lại là dân tộc Việt Nam.

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.


Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm toàn bộ những tội lỗi do chính Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gây ra, từ việc Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, ký văn thư ngày 14-09-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, cho đến chiến tranh biên giới năm 1979, hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển vào các năm 1999 và 2000, và ngày nay vụ Trung Quốc khai thác bauxite ở Cao nguyên Nam Trung Phần.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 21-03-2009)

Đức Huỳnh Phú Sổ Và Công Cuộc Vân Động Tự Do Cho Việt Nam - Trần Gia Phụng


(Trình bày tại Toronto trong Đại lễ Kỷ niệm 70 năm Ngày Khai sáng Nền Đạo Phật Giáo Hòa Hảo)

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Theo hòa ước Giáp Tuất (15-03-1874), toàn thể sáu tỉnh Nam Kỳ bị nhượng cho Pháp. Từ đây Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, nghĩa là Pháp trực tiếp cai trị Nam Kỳ, chứ Nam Kỳ không còn thuộc quyền triều đình Việt Nam

Mười năm sau, tức vào năm 1884, Pháp bảo hộ toàn cõi Việt Nam, nghĩa là khác với Nam Kỳ, Bắc và Trung Kỳ vẫn do triều đình Việt Nam cai trị, nhưng dưới sự điều khiển của người Pháp. Dân chúng Việt Nam ở khắp nước liên tục nổi lên chống Pháp. Tuy nhiên, tất cả đều thất bại trước sức mạnh quân sự của Pháp.

Tuy nhiên, tình hình thay đổi khi thế chiến thứ hai xảy ra vào tháng 9-1939. Tại Âu Châu, Pháp bị Đức xâm lăng. Tại Á Châu, đồng minh của Đức là Nhật Bản, bắt đầu tiến quân vào Đông Dương từ năm 1940 để xuống Đông Nam Á.

Nhật Bản vẫn để Pháp cai trị Đông Dương, và dùng nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương nhằm phục vụ những quyền lợi Nhật Bản, nhất là phục vụ nhu cầu lương thực cho quân đội viễn chinh Nhật Bản. Khi Nhật Bản tấn công Hoa Kỳ tại Trân Châu cảng ngày 7-12-1941, Hoa Kỳ liền tuyên chiến với Nhật Bản và Đức, đứng trong khối Đồng minh. Nhờ thế khối Đồng minh càng ngày càng thắng thế.

Đức đầu hàng Đồng minh ngày 07-05-1945. Điều nầy làm cho quân Nhật ở Đông Dương lo ngại. Nguyên từ khi Nhật đến Đông Dương, chính phủ Pháp tại Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Pétain là chính phủ bị Đức khống chế. Nay Đức đầu hàng, chính phủ Pétain sụp đổ. Chính phủ lâm thời Pháp do De Gaulle lãnh đạo. Vì vậy quân Nhật ở Đông Dương lo sợ chính phủ Đông Dương vâng lệnh De Gaulle bất ngờ phản công Nhật. Nhật tổ chức cuộc hành quân Meigo ngày 09-03-1945, lật đổ chính phủ Pháp tại Đông Dương, trao trả độc lập cho Việt Nam. Vua Bảo Đại uỷ cho Trần Trọng Kim thành lập chính phủ

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, Nhật cũng thất trận, đầu hàng Đồng minh ngày 14-08-1945. Lúc đó, tại Đông Dương, tình hình rất lộn xộn;
    1. Thứ nhất, quân đội Nhật buông súng.
    2. Thứ hai, các đảng phái chính trị nổi lên tranh đấu giành độc lập.
    3. Thứ ba, đảng Cộng Sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh nhanh tay cướp chính quyền ở Hà Nội và ở Sài Gòn.
    4. Thứ tư, vua Bảo Đại thoái vị ở Huế, chính phủ TrầnTrọng Kim sụp đổ. 5) Pháp đưa quân trở lại Đông Dương.
Chính trong hoàn cảnh xáo trộn đó, Đức Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) và dấn thân hoạt động chính trị.

II. CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG TỰ DO DÂN CHỦ

Đức giáo chủ Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 25 tháng 11 năm kỷ mùi (15-01-1920), là con trai đầu của ông Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm, một gia đình nông dân trung lưu. Ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão (04-07-1939), Đức thầy Huỳnh Phú Sổ thành lập tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), một tông phái Phật giáo mới là Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH).

Từ khi khai đạo, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ vừa thuyết pháp, vừa sáng tác nhiều kệ giảng, dựa trên giáo lý nhà Phật, khuyên người gắng sức tu hành để thoát qua những tai ương do thời cuộc đưa đến. Những kệ giảng của Đức thầy thuần túy bằng tiếng Việt, rất giản dị, lại có vần điệu, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ và dễ lập lại hằng ngày trong cuộc sống, nên rất dễ phổ biến.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của PGHH, người Pháp rất lo ngại. Ngày 18- 05-1940, tức khoảng một năm sau ngày khai đạo, Pháp giải Đức thầy Huỳnh Phú Sổ từ làng Hòa Hảo về Châu Đốc để điều tra. Sau đó, Pháp đưa Ngài về Sa Đéc, rồi về làng Nhơn Nghĩa, rạch Xà No, tỉnh Cần Thơ, quản thúc từ ngày 23-05-1940. Nhiều tín đồ PGHH được tin, liền tìm đến thăm.

Vì vậy, sau ba tháng ở Cần Thơ, người Pháp đưa Đức thầy Huỳnh Phú Sổ lên Sài Gòn, an trí tại nhà thương điên Chợ Quán. Ngày 05-06-1941, người Pháp lại dời Huỳnh giáo chủ về Bạc Liêu. Do sự can thiệp của quân đội Nhật, Huỳnh giáo chủ được thả và được đưa về sống ở Sài Gòn từ tháng 10-1942.

Do hoàn cảnh chính trị và đời sống, từ đó (năm 1942), Đức thầy Huỳnh Phú Sổ bắt đầu tiếp xúc với các nhân vật chính trị Nam phần, và bắt đầu dấn thân vào con đường họat động chính trị. Huỳnh Giáo chủ là một nhà yêu nước đã hết lòng tranh đấu cho nền độc lập dân tộc.

Năm 1944, Đức thầy thành lập Bảo An Đoàn PGHH tại một số tỉnh miền Tây. Vào năm 1945, Huỳnh giáo chủ lập Việt Nam Vận Động Hội để tranh đấu đòi độc lập và thống nhất cho xứ sở.

Từ đây, có thể nói Đức thầy Huỳnh Phú Sổ tham gia tích cực vào cuộc vận động cho nền tự do dân chủ của đất nước. Khuynh hướng nầy được Đức thầy bày tỏ trong bốn câu đầu bài “Quyết rứt cà sa”, thơ thất ngôn liên hoàn, sáng tác năm 1946 như sau:
    “Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau,
    Quyết rứt cà sa khoác chiến bào,
    Đuổi bọn xâm lăng, gìn đất nước,
    Ngọn cờ độc lập phất phơ cao…”
    (Thơ Huỳnh Giáo chủ)
Khi dấn thân hoạt động chính trị trong thời đại loạn, hai chủ trương chính trị rõ nét nhất của Đức Huỳnh Giáo chủ là ĐOÀN KẾT và DÂN CHỦ.

Khi được tin vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) tuyên bố độc lập ngày 11-03-1945, Huỳnh giáo chủ đã ra huấn lệnh ngày 15-03-1945 (mồng 2 tháng 2 năm ất dậu) cho tín đồ như sau: “Đạo Phật là đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ; tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi. Vậy hãy coi toàn dân như anh em một nhà, mong họ liên kết với chúng ta để kiến thiết lại quê hương cùng nền Đạo nghĩa …” (Ban Trị sự Trung ương Hải ngoại, Sấm giảng thi văn toàn bộ của Đức Huỳnh giáo chủ, 2004, tr. 481.)

Chẳng những ra lệnh cho tín đồ, Đức Huỳnh giáo chủ còn đưa ra lời kêu gọi tinh thần đoàn kết đến toàn thể đồng bào Việt Nam như sau: “Vậy tôi xin khuyên tất cả đồng bào muốn tỏ ra xứng đáng với một người dân một nước tự do thì chúng ta hãy nên đoàn kết chặt chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối thù hiềm ganh ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt …” (Ban Trị sự Trung ương Hải ngoại, sđd. tr. 490.)

Do chủ trương đoàn kết, trong Tuyên ngôn ngày 21-9-1946 thành lập Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội, Đức Huỳnh Giáo chủ viết: “Đặc điểm của Việt Nam Dân Xã Đảng là, trong giai đoạn hiện tại, không chủ trương giai cấp đấu tranh giữa dân tộc Việt Nam vì lẽ ở xã hội Việt Nam hiện thời, trên 80 năm bị trị, chỉ có một giai cấp bị “tư bản thực dân” bóc lột.” (Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo Hải ngọai, sđd. tt. 533-534.)

Chủ trương chính trị lớn thứ hai của Huỳnh Giáo chủ là vận động thiết lập chế độ dân chủ cho Việt Nam sau thế chiến thứ hai. Trong tuyên ngôn của Dân Xã Đảng, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ nhấn mạnh: “Việt Nam Dân Xã Đảng là một đảng dân chủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: “chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân”. Đảng Dân Xã chủ trương “toàn dân chánh trị, thế tất đảng [Dâ n Xã ] chống độc tài bất cứ hình thức nào.(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo Hải ngọai, sđd. tr. 533.)

Đồng thời với bản Tuyên ngôn, chương trình hành động của Dân Xã Đảng do Đức Huỳnh Giáo chủ đưa ra, nhấn mạnh thêm một lần nữa đến việc bảo đảm tự do dân chủ cho toàn dân, và chống bất cứ hình thức độc tài nào. Chủ trương của Đức Huỳnh Giáo chủ rõ ràng đi ngược với chủ trương đảng trị độc tài của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD).

Vì lòng yêu nước, vì tinh thần đoàn kết, vì tôn trọng dân chủ, tôn trọng tất cả các đoàn thể khác, kể cả mặt trận Việt Minh (VM) và đảng CSĐD, Huỳnh Giáo chủ luôn luôn sát cánh với các đoàn thể khác để tranh đấu giành độc lập và tự do cho dân tộc. Ngài nhiều lần bị VM cộng sản ám hại.

Lần đầu, VM tung người bao vây để bắt Đức Huỳnh Phú Sổ tại văn phòng ở Sài Gòn ngày 09-09-1945, nhưng Ngài thoát được. Việt Minh ra lệnh tìm bắt giết những nhân vật quan trọng của PGHH. [Như Huỳnh Thạnh Mậu (em ruột Đức thầy Huỳnh Phú Sổ), Nguyễn Xuân Thiếp, Trần Ngọc Hoành tại Cần Thơ; Chung Bá Khánh, Đỗ Thiều, Võ Văn Thời tại Trà Vinh, Vĩnh Bình.]

Dầu vậy, Đức giáo chủ vẫn sẵn sàng thương thuyết với VM để duy trì sự đoàn kết trong nội bộ người Việt, nhằm tạo tổng lực dân tộc chống các thế lực ngoại xâm. Khi xảy ra sự xô xát giữa lực lượng PGHH và VM tại Sa-Đéc, ngày 16-4-1947, VM mời Đức Huỳnh Giáo chủ đến họp để giải quyết. Nhân cơ hội đó, VM tấn công và đưa Huỳnh Giáo chủ đi mất tích.

KẾT LUẬN

Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là một tu sĩ Phật giáo, đã có công khai sáng tông phái PGHH. Bên cạnh đó, Ngài còn là một nhà hoạt động chính trị. Sự nghiệp chính trị của Ngài đang còn dang dở, chưa hoàn tất, nhưng đã để lại cho chúng ta những bài học quý giá thật đáng nhớ.

Bài học thứ nhất là tình yêu nước vô bờ bến của Huỳnh Giáo chủ, luôn luôn đặt quyền lợi tổ quốc lên trên hết, trên hẳn quyền lợi cá nhân, quyền lợi của tổ chức, hay quyền lợi của đảng phái.
    “Ta có tình yêu rất mặn nồng,
    Yêu đời, yêu lẫn cả non sông …”
Huỳnh Giáo chủ hoạt động không mệt mỏi, không đòi hỏi một địa vị hay quyền lợi nào cho cá nhân hay cho tổ chức PGHH.

Bài học thứ hai là tinh thần đoàn kết. Bài học đoàn kết của Huỳnh Giáo cho chúng ta hai kinh nghiệm cùng một lúc. Kinh nghiệm thứ nhất là muốn tranh đấu có kết quả, thì phải đoàn kết nhằm tạo sức mạnh tổng lực của dân tộc. Kinh nghiệm thứ hai, là Đức Huỳnh Phú Sổ đã hết sức rộng rãi, vận động đoàn kết tất cả các đoàn thể chính trị, kể cả đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), nhưng người cộng sản vẫn âm mưu tấn công Ngài. (Đã trình bày ở trên.) Chẳng những tấn công một tu sĩ như Huỳnh Cháo chủ, CSVN luôn luôn tìm cách tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, không chấp nhận cộng sản.

Việc CSVN không ngừng tấn công Huỳnh Giáo chủ là một kinh nghiệm cho thấy rõ là DỨT KHOÁT KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ ĐOÀN KẾT VỚI CỘNG SẢN; KHÔNG BAO GIỜ HÒA GIẢI HÒA HỢP VỚI CỘNG SẢN. ĐOÀN KẾT, HÒA GIẢI HÒA HỢP VỚI CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT.

Bài học thứ ba là tinh thần dân chủ của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ. Chúng ta hiện đang sống trong thế kỷ 21. Có thể nói thế kỷ 21 là thế kỷ của trào lưu dân chủ trên thế giới. Tuy nhiên nước Việt Nam chúng ta hiện nay vẫn còn chìm ngập trong chế độ độc tài toàn trị, không có bất cứ một thứ tự do nào, không có tự do bầu cử và ứng cử, không có tự do báo chí, không có tự do tôn giáo… Người Việt Nam ở trong nước hiện nay như ở trong một nhà tù lớn, chỉ được tự do nghèo đói, tự do đĩ điếm, còn cán bộ cộng sản thì tự do tham nhũng.

Vì vậy, bài học dân chủ hiện rất cần thiết với Việt Nam hiện nay. Phải có tự do dân chủ cho toàn dân thì toàn dân mới đóng góp xây dựng đất nước. Như thế, câu viết của Huỳnh Giáo chủ trong tuyên ngôn thành lập Dân Xã Đảng vẫn còn nguyên giá trị với dân tộc Việt Nam: “… Toàn dân chánh trị, thế tất đảng [Dân Xã ] chống độc tài bất cứ hình thức nào.”

Để tiếp tục thực hiện tuyên ngôn của Huỳnh Giáo chủ, chống lại chế độ độc tài bất cứ hình thức nào, vận động tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam, tốt nhất hiện nay là NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI CHÚNG TA HÃY YỂM TRỢ CÁC PHONG TRÀO DÂN CHỦ QUỐC NỘI BẰNG TẤT CẢ CÁC PHƯƠNG TIỆN, ĐỂ ĐỒNG BÀO QUỐC NỘI ĐỨNG LÊN GIẢI TRỪ CHẾ ĐỘ BẠO QUYỀN CỘNG SẢN TRONG NƯỚC. Đó là con đường duy nhất để mở cửa cho sự phát triển đất nước.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 07-06-2009)