Friday, July 10, 2009

Nói Láo và Nghe Nói Láo

Nhà văn Alexandre Solzenitsym
Nhà văn Alexandre Solzenitsym: “Khi thấy thằng Cộng Sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác”.

Đất nước tôi còn bất hạnh, có lẻ bởi vì số đông những người Việt Nam lưu vong trên những xứ sở tự do, sống bằng cây bút, sống với văn học nghệ thuật còn thiếu một nhân cách can đảm như ông Alexandre Solzenitsym. Một nhân cách bất chấp mọi nguy hiểm để nói lên sự thật, nói lên cái sai trái, cái độc tài, cái giảo quyệt của chế độ Cộng sản. Một nhân cách bất chấp mọi quyền lực bè phái, dám bất bình vạch trần sự thật trước dư luận về một số người lưu vong hèn hạ vô ơn cái chính thể đã nuôi dưỡng họ được sống còn cho đến ngày hôm nay. Một nhân cách biết đau xót trước những khủng bố tù đày của những người đấu tranh không mệt mỏi cho một Việt Nam tự do dân chủ và nhân quyền.

Trước năm 1975, ông Mai Thảo, một trong những nhà văn lớn trên đất nước tôi, một người suốt đời sống bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa của ông sặc mùi rượu mạnh đêm đêm phòng trà, chữ nghĩa của ông trau chuốt óng ả sống thời thượng nhảy đầm trên những xác chết của vô số người lính ngoài trận. Nửa đời còn lại, ông tiếp tục sống ngất ngưởng phong lưu tỵ nạn, chữ nghĩa của ông bây giờ nói lên khát vọng tự tôn: “Ta thấy hình ta những miếu đền. Đời ta sử chép cả nghìn chương.”

Đọc những lời thơ thần thánh hóa một cách bệnh hoạn của một nhà văn già một đời nát rượu này, tôi thấy thương cho ông. Tôi tôn trọng những gì gọi là văn học, nhưng ca tụng những dòng thơ huyễn tưởng của ông thì không. Thế mà một số người lưu vong sống bằng chữ nghĩa, họ lãng quên rồi những người Việt Nam Cộng Hòa anh hùng đã chết thật anh hùng cho đất nước. Họ dấy động chữ nghĩa tâng bốc thơ ông là những dòng trác tuyệt, ông là bậc vĩ nhân, ông là cây đại thụ, là Nguyễn Du thời đại. Tôi ngán ngẫm vô cùng, mường tượng thấy trước mắt mình đang diễn lại hoạt cảnh điếu đóm xưng tụng, tự chia nhau chiếu trên chiếu dưới, tự phong mỗi người thống lãnh mỗi cõi Thái Sơn Bắc Đẩu như ngày xưa ở văn đàn nước tôi.

Có người cho ông Trịnh Công Sơn dùng chữ dễ dàng như lấy từ trong túi áo. Vâng đúng vậy, không ai phủ nhận điều này. Chữ nghĩa của ông đẹp lắm, vì những chữ nghĩa đó được cưu mang, được thấm đẫm bởi máu, nước mắt và mồ hôi của hàng triệu người đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước để bảo vệ hai chữ Tự Do.

Sau năm 1975, ông sống hèn hơn tôi tưởng. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp xác người trôi dạt khắp biển Đông. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp những trại tập trung cải tạo. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp những thân phận tù đày khổ sai trên khắp cùng rừng núi. Mỗi ngày TCS nhâm nhi rượu Tây rượu Mỹ, TCS đem những chữ nghĩa đẹp của ông để ngất ngây say đắm ca ngợi cái xã hội ông đang sống mà mỗi ngày chung quanh TCS có hàng triệu người đói cơm thiếu mặc. TCS đem những chữ nghĩa đẹp của ông để thiết tha ca tụng cái xã hội ông đang sống mà mỗi ngày chung quanh TCS có hàng triệu người bị đòn thù bách hại.

Ông chết, bạn bè ông trong nước, người nặn tượng, kẻ vẽ tranh sùng bái ông (tôi cũng vẽ một bức, vẽ chính con người của ông: Mặt mày lơ láo, tóc tay dựng đứng. Bức vẽ này tôi gởi về địa chỉ nhà ông).

Nực cười thay, tại hải ngoại có một số cây bút mà ngày trước họ đã sợ hãi trốn chạy chế độ phi nhân phi lý phi pháp qua đây sống kiếp lưu vong. Nghe TCS chết, họ vội vã vấy động chữ nghĩa khóc ông ...!? (tôi nghe ra những lời thống thiết trơ trẽn đó có khác gì với cái trơ trẽn của Tố Hữu khóc Stalin). Nước mắt tôi không đổ cho loại người như TCS, loại người có tấm lòng chỉ để …. gió thổi bay đi. Không bao giờ.

Bao Giờ Thắng Cộng Sản?

Thắng cộng sản khi bẻ hết tay sai vi cánh. Tay sai vi cánh độc hại nhứt là miệng lưỡi của bọn xưng là trí thức thổ tả và được Mao Trạch Động chửi là “Trí thức như cục phân”

Cục phân để cộng sản xài vì:
- được rỉ tai ngọt ngào
- được đưa “danh dự” lên cao
- bị nắm thóp
- bị bắt chẹt
- bị bỏ đói
- bị cô lập
- hèn

Cho nên bọn này làm tay sai đắc lực:
- luồn lách luật pháp
- xâm nhập hàng ngũ tự do
- tung tin tầm phào
- nguỵ biện dài dòng
- xưng “bằng cấp cao”
- rùm beng lớn lối

Vì chúng biết:
- xứ Tự Do không giết người vì lời nói, lý luận
- người Tự Do có tình có nghĩa
- dân Tự Do tôn trọng bằng cấp

Vì chúng biết:
- cộng sản Giết Trọn Gói bằng cách Cắt Lưỡi kẻ lý luận
- cộng sản hạ nhục công khai những tên “trí thức tào lao”
- cộng sản bắt chẹt đủ thứ

Vì chúng biết:
- Tại xứ Tự Do thì Được Nói, kể cả Nói Bậy
- Tại xứ cộng sản thì Được Câm, bao luôn Được Điếc

Cộng sản gộc là những tên Ngu nhưng Tàn Nhẫn, Vô Luân chuyện nắm đầu những tên “trí thức thổ tả” để làm cái loa cho chúng

Cộng sản gộc là những tên Bắt bọn “trí thức thổ tả” phải Quỳ Gối và Sủa.

Cho nên muốn thắng cộng sản thì phải sẵn sàng:
- Làm câm miệng bọn “trí thức thổ tả”
- Liên Tục vạch rõ sự vô luân, tàn nhẫn, vô lương, phản bội, phản dân hại nước của cộng sản

Đừng bỏ qua Dư Luận:
- Dư Luận làm chết người, làm tan nhà, hại cửa
- Nhưng Dư Luận cũng làm tan rã cộng sản

Hãy đánh động Lương Tâm con người:
Lương Tâm Trỗi Dậy
Sức Mạnh Bừng Lên
Cộng sản tan hàng.

Nói về lằn ranh Quốc/Cộng


Không giống người Hán, người Tây (thực dân pháp), người CS (miền Bắc) và VC (miền Nam) đều là người VN. Họ nói chung ngôn ngữ, họ chia chung phong tục tập quán và văn hóa VN, điều này là trở ngại lớn nhất cho chúng ta khi phải phân loại, phân biệt người VC (VC và CS) và người VN thuần túy, người Việt quốc gia. Vì bản năng sinh tồn, VC thay đổi hình thái, màu da theo thời gian, qua nhiều thời kỳ. Họ có mặt, trà trộn, lẫn lộn trong mọi thành phần, tầng lớp dân chúng trong xã hội VN.

Đảng lấy tên là đảng CS nhưng có ai tin vào lý thuyết CS không? Dám chắc 95% là không. Chỉ có một số đảng viên kỳ cựu miền Bắc ngày xưa còn tin vào chuyện chuyên chính vô sản. Ngày hôm nay người ta đã sáng mắt lắm rồi, không có chủ nghĩa Mác-Lê nào tồn tại, không có thiên đường XHCN nào cả. Chỉ có một mớ lý tưởng ba lăng nhăng, thiển cận, hoang đường, không tưởng và nó đã lỗi thời, đã bỏ vào sọt rác từ khi người ta phát sanh ra nó. Tôi có thể tạm phân loại người đảng viên VC qua hai bản tính: Tham lam, ích kỷ và thiển cận.

Tham Lam: Cá nhân, gia đình, tổ quốc, tôn giáo. Tất cả mọi thay đổi, mâu thuẫn, xung đột cũa loài người xuất phát từ bản tính tham lam, ích kỷ cũa cá nhân. Người CS của 60 năm trước, ngày hôm nay không còn “ngây thơ”, chuyên chính vô sản nữa. Họ cũng ham muốn tiền tài, vật chất như bao nhiêu người khác. Họ ham muốn tiền tài, vật chất cho riêng cho bản thân, cho riêng người than, gia đình. Đây là bản chất tham lam, ích kỷ của cá nhân, cũa con người, rất khó cho chúng ta phân loại ra. Và do ảnh hướng của nhiều giai đoạn lịch sử trước đó VN là một quốc gia nghèo, nhược tiểu.

Thiển Cận: Mục đích chính người ta gia nhập đoàn, đảng là để mưu cầu quyền lợi kinh tế cho bản thân, cho gia đình. Cụ thể hơn là do lòng tham lam, tính ích kỷ cá nhân. Khốn nạn cho VN là xã hội VN được tổ chức và điều hành bởi một nhóm người vừa tham lam ích kỷ, vừa thiển cận. Từ đó họ đào tạo nên những đoàn viên, đảng viên, cũng suy nghĩ và lý luận khuôn rập như vậy, ảnh hhưởng bởi hệ thống xã hội, chính trị. Họ không thể tiến thân, thăng tiến bản thân nếu không dựa vào đoàn, đảng, nhà nước. Đây là những lối suy nghĩ sai lệch căn bản nhất đưa họ vào kiếp lệ thuộc, làm nô lệ, chịu cho người khác sai khiến. Dần dà họ mất đi bản năng tự chủ, tự cường, cái vốn quý nhất của con người.

Đồng tiền họ móc ngoặt, tham nhũng có được là từ tiền thuế của dân Đen mà ra, từ sức lao động cần cù dẻo dai của giới lao động VN. Họ công khai “hôi của” người lao động, dân Đen VN nhưng họ không suy nghĩ như vậy. Họ cho rằng nhờ ơn Đảng, Bác mà họ có quyền làm như vậy, nếu họ không làm thì cũng có nhiều người khác làm. Người dân VN chất phát, có thể nói là kém tổ chức, biết mà không làm gì được. Người dân không có đảng, không có công an, không có quân đội.

Do lòng tham lam ích kỷ nên người ta bất chấp mọi thủ đoạn, sự đau khổ cũa người khác miền sao họ được lợi. Nếu ai đã sống ở xã hội tự do như Mỹ, ít nhiều người ta cũng hiểu biết nền kinh tế thị trường, kinh tế tự do khai thác xoay quanh bản tánh tham lam ích kỷ cũa con người, cá nhân chúng ta. Nhưng khác với những xã hội kém văn minh, kém nhân bản, kém phát triển. Người ta không bao giờ dám công khai đưa hành động tham lam, ích kỷ, quyền lợi cá nhân đó ra trước công chúng, để làm phương tiện phục vụ cho cá nhân, đảng phái, nhà nước.

Nếu hành động thủ đoạn, gian dối như vậy làm tổn thương đến người khác thì pháp luật không bao giờ cho phép người ta làm như vậy. Cho dù người đó là một phó thường dân hay là một ông tổng thống. Đây là ý thức văn minh tổ chức.

Nhân loại phát triển vượt bật nhờ người ta biết lợi dụng long tham lam ích kỷ của con người, song song với khái niệm tổ chức, trật tự, họ không bao giờ tha thứ cho những ai vì mục đích cá nhân, riêng tư, đảng phái làm tổn thương đến người khác cho dù là chỉ làm thương hại tổn thương trên phương diện tinh thần, trên phương diện pháp lý (văn minh, tổ chức). Ở VN long tham lam ích kỷ của một số mệnh danh lãnh đạo không có phép tắc kỷ cương, luật pháp gì. Bất chấp mọi thủ đoạn, thượng đội hạ đạp người ta công khai “ăn cướp” của nhau. Mạnh được yếu thua. Người bị thiệt thòi nhiều nhất vẫn là đại đa số Dân Chúng, tầng lớp thấp cổ bé họng nhất trong xã hội, những người dân không biết thượng đội hạ đạp hay không có cơ hội làm như vậy. Họ tham lam ích kỷ nhưng họ bất chấp số phận của muôn triệu nạn nhân cũng là nguồn nhân lực, tiền tài nuôi sống chính họ. Họ ăn của dân, sống được là nhờ tiền thuế của dân chúng, họ giàu tiền lắm của là nhờ giỏi móc túi, ăn cắp vặt của dân Đen. Họ có bao giờ tự đặt câu hỏi nếu họ khai thác dân Đen vô tội vạ, cạn tàu ráo máng như vậy, đến một lúc nào đó khi họ sa cơ thất thế, ai là người chống lưng, hậu thuẫn cho họ?

Họ hành động theo bản năng, họ không có khái niệm tổ chức, họ thiển cận. Tổ chức đảng “ngu dốt”, thiển cận thì chỉ giỏi làm nô lệ để cho ngoại bang nó sai khiến, lợi dụng. Nếu người ta chỉ hành động dựa theo bản tính tham lam, ích kỷ cũng không đáng sợ bằng hành động dựa theo sự kém hiểu biết, bản tính thiển cận cố chấp. Ở đây người ta làm việc công khai, có tổ chức.

Tại sao người dân VN vẫn biết đảng VC là tham lam, độc ác, bất tài nhưng họ không phân biệt hay triệt tiêu được chúng? Đây là vấn đề nhạy cảm & có lẽ là phải mất nhiều công phu. Xin hẹn vào một dịp khác

Cộng Hoà – Cộng Sản
Cộng sản núp bóng cộng hoà
Núp bóng dân chủ
để Giết Người không gớm tay

Trên Một Trăm Triệu Người Bị Cộng Sản Giết Hại Trên Thế Thế Giới từ năm 1917 đến nay.

Cộng sản nước nào thì giết dân nước đó:
- Việt cộng giết oan Vài Triệu người Việt
- Tàu cộng giết oan Vài Chục Triệu người Tàu
- Nga cộng giết oan Vài Chục Triệu người Nga
- Miên cộng giết oan Vài Triệu người Miên
- Hàn cộng giết oan Vài Trăm Ngàn người Hàn

Cộng sản núp bóng dân để hút máu dân:
- Chóp bu Việt cộng trong trung ương đảng là tỷ phú đô la gởi con đi du học, du thủ, du thực tại các nước Cộng Hoà Tự Do và tìm cách ở lại các nước mà cộng sản “rất thù” nhưng “rất khoái”

Cộng sản chỉ muốn nắm quyền lực, không bao giờ buông dù làm sai đủ thứ:
- Chỉ khi bị chết vì tranh giành quyền lực mới buông quyền lực (tay bắt chuồn chuồn vẫn hô đảng cướp muôn năm).
- Chỉ khi bị dân đá đít mới buông quyền lực (tại Đông Âu thập niên 1990).
- Cộng sản núp bóng Tự Do để chà đạp tự do người khác và tự bạn cho mình tự do ăn cướp.
- Cộng sản núp bóng dân để cô lập, tố cáo, hà hiếp, giết hại những người tranh đấu Thực Sự cho dân tộc
- Cộng sản bắt tay tư bản để bóc lột sức lao động của người dân

Lịch sử đã ghi:
- Cộng sản Giết Oan Hàng Trăm Triệu Người Trong Thế Kỷ 20.

Tượng đài Nạn Nhân còn đó.

Tượng Đài Nạn Nhân cộng sản là Chứng Tích chứng minh hùng hồn về tội ác của cộng sản.



Mất Nước Là Phải ! - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Jackson vừa nằm xuống, dù tiếc một nhân tài bạc mệnh nhưng không có thanh niên thiếu nữ Việt Nam nào ở hải ngoại quỳ lạy than van khóc lóc người ca sĩ da đen nầy như đám trẻ con ông cháu cha dưới chế độ cộng sản Hà Nội. Nhìn lũ con nít ăn no rửng mỡ nầy làm người ta nhớ lại, dưới chế độ cộng sản, lớp tuổi ông nội thì khóc Sít-ta-lin, cha chú khóc già Hồ ! Và bây giờ đến lượt con cháu của chúng thì khóc Mai-Cồ Rắc Sơn ! Trông những bức hình chúng khóc như một lũ hát xiệc.

Thấy thật đau lòng, vì:

- Hàng trăm công nhân làm việc dưới quyền bọn Tàu cướp nước, những người thợ vô hạnh nầy bị đuổi nhà cướp cơm, bị đánh đập chết người … có ai lên tiếng thăm hỏi hay đổ vài giọt nước mắt cho phân phận người dân nghèo Việt Nam ?

- Hàng ngàn ngư dân Việt Nam bị xua đuổi ra khỏi vùng đánh cá, bị đánh đập, bị đổ máu và bỏ mình ngay trên mảnh đất thân yêu Việt Nam của mình ! Nhà nước chẳng những không dám binh vực, can thiệp mà còn giấu kín để làm vui lòng quan thầy ! Có ai than khóc cho họ không ?

- Hàng vạn bộ đội ‘lính sữa’ đã ngã gục vì đánh nhau với Tàu cộng để bảo vệ các tỉnh cực Bắc vùng đất giáp giới Trung quốc. Thành phần đáng thương nầy bị thí như một loài thú chết đâu lấp đó ! Nhà nước bưng bít giấu nhẹm, dân chúng thì chẳng ai thèm nhỏ một giọt nước mắt, báo chí không lời thăm hỏi vì mọi chuyện tiết lộ ra sẽ bị quan thầy Tàu cộng quở trách ! Giới trẻ Việt Nam có ai khóc cho những người bạn vô phước nầy không ?

- Hàng trăm ngàn giời trẻ thân yêu phải bán mồ hôi, bán thân xác để sống. Họ chấp nhận đi làm nô lệ kiếm ngày hai bữa ăn, chịu lấy chồng già nua bệnh hoạn hầu có phương tiện giúp đở gia đình hoặc phải bán thân để nuôi miệng … Những tên bóc lột Singapore, Đại Hàn, Đài Loan tha hố vắt nước, đánh đập rồi tống thành phần đáng thương nầy ra đường hoặc bán những người vợ Việt Nam từ ổ điếm nầy đến động đĩ khác … Thanh niên Việt Nam phản ứng ra sao và suy nghĩ thế nào hởi các bạn trẻ ?

Đối với tôi, không cần đề cập đến bọn ‘con ông cháu cha’ làm gì mà xin nhắc nhở các bạn trẻ Thanh Niên Việt Nam, là những người có con tim rất nhạy cảm, có trí óc biết suy nghĩ … Các bạn hãy vùng dậy và xử dụng con tim cũng như khối óc để thể hiện tình người mà âm mưu văn hóa đỏ của cộng sản đã xóa bỏ từ lâu. Các bạn có thấy đau lòng khi đất nước đang nằm dưới tay giặc Tàu ? Người dân trong nước bị bỏ quên ? Tuổi trẻ bị chà đạp mà tập đoàn cộng sản chỉ biết tham nhũng và bóc lột người dân đến tận cùng xương tủy ?

Xin nhắc rằng, tương lai Tổ Quốc Việt Nam nằm trong tay các bạn trẻ chứ không phải ‘bọn con ông cháu cha’. Một mai đổi đời, chúng nó sẽ bỏ chạy ra nước ngoài và chính các bạn là những người sẽ ôm lấy một gia tài rách nát, nợ nần chồng chất, đạo đức đảo lộn, tình người thui chột và văn hóa mất gốc !
    Vậy, hãy can đảm đứng dậy làm lại lịch sử ngay từ bây giờ.
Cầu xin Ơn Trên và Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ các bạn trẻ.

Đinh Lâm Thanh

Paris, 09.07.09

"Ngư dân VN vái lạy trước họng súng của hải quân Trung cộng"
Video source:http://mil.news.sina.com.cn/2009-07-02/0844557400.html







Thật đúng là thanh thiếu niên "xuống hàng chó ngựa" thời nay!. Nước mất chẳng khóc, khóc Mai Cồ phương xa


Hà Nội khéo dư nước mắt khóc người phương xa !!!

Ông khóc Xít-ta-lin….
Bố khóc Cáo Hồ ….
Giờ Con cháu khóc Mai Cồ Jackson !!!
Tuổi trẻ Hà nội lần đầu
Được phép rơi lệ khóc một người
Không phải là Đao phủ thủ !
Ôi Thủ đô đầy ắp tình người !
Việt Nam không phải con người, nên không ai khóc Việt Nam !
Dù Việt Nam đang bị lũ chó rừng Trung quốc
Nó vồ, nó xé, nó nhai, nó nuốt trửng,
Từ Bản Giốc, Nam Quan đến Hoàng Sa, Trường Sa,
Từ ngư dân Quảng Ngãi đến nông dân Đắc Nông, Lâm Đồng,
Hỡi ôi con cháu Cáo Hồ !!!
Nước mất chẳng khóc, khóc Mai Cồ phương xa.

Nước mất thì cười toe toét. Kẻ bá vơ không thân không thích mất thì khóc như mất của, đến như cha mẹ chết cũng chưa chắc khóc được vậy. Ôi, thanh niên, trí thức, rường cột, tương lai đất nước là như thế đó ...

Này, mấy chú bé ơi, đừng khóc nữa! Cái ông ca sĩ Mai cồ đó là "đế quốc Mỹ" đấy nhé. Ông ấy chỉ hát nhạc rock chứ không hát nhạc cách mạng đâu. Ông Mai cồ ấy lại còn chối bỏ màu da đen cao quý để đeo cái màu da trắng đế quốc nhục nhã vào mặt. Khóc ông ấy là "phản động" đấy, sai "đường lối" đấy. Để dành nước mắt mỗi năm khóc ngày hochiminh chết, lenin chết, mác chết.

Kẹt nỗi là ai cũng chỉ chết 1 ngày, mấy trự này chết tới 3, 4 ngày khác nhau, chả biết ngày nào chết thật, chết giả, cứ phải khóc hoài cũng mệt đấy. Tình cảm cao quý dành cho lãnh tụ mà cứ phải "điều chỉnh" theo đơn đặt hàng mãi cũng khổ!

Hiện nay có mốt mới là khóc cho các đồng chí tàu cộng đền tội trong trận Hoàng Sa, trận biên giới 1979, các trận Bạch Đằng, Đống Đa xa xưa nữa. Cứ để dành nước mắt đấy (nếu đủ vô liêm sỉ), đừng khóc. Phí !!!

Đây cũng là cách dậy dỗ con cháu của bác và đảng, chỉ cần tạo cho chúng nghĩ những chuyện vu vơ đừng suy nghĩ gì về hiện tình của đất nước, nếu để đám trẻ này nó sáng suốt biết được những việc làm mờ ám của đảng đang bán nước cho Tầu cộng và lũ quan quyền địa phương đang cướp nhà cướp đất của dân quê, khi bọn trẻ này nó quậy cũng phiền lắm. Âm mưu của bọn lãnh đạo đảng thâm độc lắm. Chúng không muốn cho dân biết những việc của đảng làm chừng nào tốt chừng nấy. Chúng chẳng cần dân ủng hộ đâu chỉ cần mấy trăm ngàn tên công an côn đồ trung thành với chúng sai làm gì cũng làm là đủ rồi !!!

Đây mới gọi là tàn dư của bọn chó chết cộng sản. Khi trước cha ông của chúng chửi người miền nam là "tàn dư Mỹ Nguỵ", Văn hoá đồi trụy...

Vì thế, chính những hình ảnh này đã nói lên bọn chó chết hồ chí minh và bè lũ tay sai là đãbuôn dân bán nước cầu vinh, để sinh sản ra lũ tư bản đỏ nên mới lòi ra cái đám đua đòi này. Nếu cộng sản không ngu dốt thì cả nước VN đã đứng hàng đầu của các nước ĐNA từ lâu rồi.
    Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm - Ngô Tổng Thống Muôn Năm.
    Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói:
    "Đừng nghe những gì cộng sản nói.
    Hãy nhìn những gì cộng sản làm."
Than ôi có ai nghe và suy ngẫm lời của vị lãnh đạo đệ nhị VNCH đâu !!!
    THÊM MỘT NỐT NHẠC
    Nhân xem hình các em ở Hà Nội tưởng niệm ca, nhạc sĩ Michael Jackson

    Các em khóc,
    thương một người nghệ sĩ
    Có em nào thương khóc đời tù giam?
    Các em khóc,
    thương cho một người Mỹ?
    Có em nào thương khóc cả … Việt Nam?
    Mừng các em,
    dù “con Đoàn, cháu Đảng”;
    dù “vô thần” vẫn … rung động trái tim.
    Mừng các em
    “không” cuồng say thác loạn
    Giặc vào nhà, chớ lười lĩnh nằm im!
    Nhé các em!
    Xin thêm chút tình cảm
    Hãy cùng đau với vận nước thăng trầm
    Nhé các em!
    Thương bà con, chòm xóm
    Thương dân nghèo phải bán máu nuôi con
    Thương dân oan đang trăm đòn chí tử
    Thương quê hương đang cung điệu trầm buồn,
    Không “Rock, Pop”*. Lệ bao người chan chứa
    Nhé các em! Hãy thêm lòng biết ơn
    Bao công khó của tiền nhân dựng nước
    Máu Cha Ông, sử ghi lại lòng son
    Không phải để cho cháu con bán nước.
    Ta cũng tiếc một tài năng vừa mất
    Nhưng niềm đau rất lớn vẫn: San Hà!
    Ta cũng phục người đa tài, thành đạt
    Nhưng thương nhiều vẫn duy nhất: Việt Nam!

    Ý Nga, 30.6.2009.
    * Michael Jackson là một ca sĩ được giới trẻ yêu chuộng qua cách hát và trình diễn dòng nhạc “soul, Funk, disco, rock”; anh còn được vinh danh là vua nhạc “Pop”
    KHÔNG RIÊNG TÂY NGUYÊN

    Phá ách xâm lăng: Lê Thái Tổ!
    Dẹp thù hiển hách: Trần Nhân Tông!

    Quang Trung đánh Mãn: tan hồn phách!
    Phá Tống, bình Chiêm: Lý Nhân Tông!

    Máu tô hùng sử còn không,
    Mà quên công khó Cha Ông? Tà quyền?
    Tây nguyên! Biến động Tây Nguyên!
    Dân gào tiếng thét: Chủ Quyền Việt Nam!

    Một “bầy” học dở, bở làm
    Hoàng, Trường Sa mất chẳng thèm bận tâm
    Đường Lào, Cam Bốt: mặt nam,
    Phía tây: Tàu cũng tham lam “mua” rồi!

    Bắc phương chỉ cần hở “Môi”*
    “Răng” Bác, “răng” Đảng? Ôi thôi sá gì!
    Nguy cơ mất nước? Chí nguy!
    Hồ Ba Giang, “Beauxite” đỏ: lợi chi quốc phòng?

    Lâm Đồng cho đến Dak Nông,
    Ngụy trang Hán giặc: ngoài, trong chững chàng
    Bắc, Nam, Trung: đảng quy hàng,
    Thành “Chiêu Thống Mới” rước sang kẻ thù*

    Bao sư đoàn giặc lù lù
    Nhà Tu * lên tiếng, Nhà Tù rung rinh
    Lòng dân phẫn uất, bất bình
    Hại dân, phản quốc, lộng hành Việt gian

    Vùng lên trừng trị bạo tàn!
    Thăng Long, Vạn Kiếp huy hoàng sử xưa!
    Mê Linh cờ phất, trống khua
    Diên Hồng “Quyết chiến!” Người xưa chẳng lầm!

    Bạn ơi! Xưa bày, nay làm
    Bình Than Hội Nghị đồng tâm hào hùng
    Bạch Đằng Giang đã lẫy lừng
    Ải Chi Lăng, giặc cũng từng thất kinh,

    Sông Như Nguyệt với hùng binh,
    Đống Đa khí phách quân hành! Khắc ghi!
    Bến Chương Dương vẫn uy nghi!
    Xin đừng nhu nhuợc! Cứu nguy sơn hà!

    Ngoại xâm quyết chống! Không tha!
    Thương ca cùng hát: Giữ Nhà Việt Nam!

    Ý Nga.

    - Vua Trần Nhân Tông là vị hoàng đế thứ ba của đời Trần, vừa có tài, đảm lược, vừa nhân đức. Người đã từng trải qua hai lần đại chiến với quân Mông Cổ và đã cùng với Hưng ĐạoVương Trần Quốc Tuấn, chủ tọa cuộc hội nghị tối cao về quân sự tại Bình Than với các vương hầu, để quyết định cho sự sống còn của Việt-tộc thời ấy.

    - Vua Lê Thái Tổ là người lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh đuổi quân Minh trong vòng 10 năm và thu hồi nền độc lâp vào năm 1428.

    - Đại đế Quang Trung chỉ trong vòng 7 ngày đã đánh tan gần 300 ngàn quân Mãn Thanh vào năm Ất Dậu 1789.

    - Vua Lý Nhân Tông được lịch sử ghi công đã 2 lần hiển hách: “PHÁ TỐNG, BÌNH CHIÊM”

    * Bến Chương Dương, Hàm Tử Quan, Vạn Kiếp, Thăng Long , Vân Đồn, Thiên mạc là những địa danh đã có những trận thắng lớn đánh quân Mông Cổ.

    * Ải Chi Lăng: nơi quân ta đã chém đầu hầu Nhân Bảo, tướng nhà Tống, dưới thời vua Lê Đại Hành và quân của Bình Định Vương Lê Lợi cũng đã chém đầu tên Liễu Thăng tại đây (trên ngọn đồi Mã Yên)

    * Sông Như Nguyệt: nơi Lý Thường kiệt chỉ huy, đánh chận được bước tiến ồ ạt của quân Tống, không cho tràn sang nước ta.

    * Đống Đa và Ngọc Hồi là hai nơi quân ta đánh với giặc Mãn, đã khiến Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy thoát thân.

    * Năm 1974: Tàu đã chiếm Hoàng Sa của Việt Nam

    Năm 1988: Tàu chiếm luôn Trường Sa.

    * Bộ Chính Trị CSVN, với dự án ngụy trang: Khai Thác “Beauxite’ ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Dak Nông) đã rước bọn lãnh đạo Tàu vào Nhà VN.

    * Những tù nhân chính trị và cũng là những vị chân tu đã khí khái chống lại CSVN từ bao năm qua như hòa thượng Thích Quảng Độ, linh mục Nguyễn văn Lý ...v.v…
    * Khẩu hiệu VC: “Môi hở răng lạnh”.
    ** Có biết thương khóc cho ngư dân Việt bị tàu cộng bắt không??
"Ngư dân VN vái lạy trước họng súng của hải quân Trung cộng"
Video source:http://mil.news.sina.com.cn/2009-07-02/0844557400.html



1958 - 2009







Siêu Gián Điệp “Mỹ Nhân Kế”

Source: Lượm trên NET

Tứ đại mỹ nhân của nước Tàu, Tây Thi,
Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền,
Dương Quý Phi
Đọc chuyện đời xưa để suy gẫm việc một số uỷ viên Trung Ương Đảng Việt Cộng bị TC gài độ mỹ nữ. Bị thâu hình và quay phim, để bây giờ phải riu ríu nghe lời quan thầy Bắc Kinh.

Tây Thi đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của nước Tàu, gồm Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi.

Đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân, Tây Thi là nữ gián điệp tình dục đầu tiên và nổi tiếng nhất trong lịch sử Nước Tàu, được Việt Vương Câu Tiễn đánh sang nước Ngô nhằm mê hoặc Ngô Vương Phù Sai ... Kết quả, Phù Sai mất nước, phải tự sát. Tây Thi hoàn thành sứ mệnh, vẻ vang trở về cố quốc.

Năm 494 trước Công Nguyên, nước Việt (ngày nay là Thượng Hải, Bắc Chiết Giang và Nam Giang Tô) bị nước Ngô đánh bại, phải cầu hòa. Việt Vương Câu Tiễn phải sang nước Ngô làm con tin trong 3 năm. Nhẫn nhịn chịu nhục, Việt Vương Câu Tiễn tìm mọi cách lấy lòng Ngô Vương Phù Sai.

Chuyện kể rằng một lần Ngô Vương Phù Sai bị bệnh, Việt Vương Câu Tiễn đến thăm, không ngần ngại nếm phân và nước tiểu của Ngô Vương Phù Sai. Thất kinh, Ngô Vương Phù Sai tròn mắt hỏi Việt Vương Câu Tiễn sao lại làm thế ... Việt Vương Câu Tiễn đã trả lời rằng: “Thần nếm phân và nước tiểu là có thể đoán được bệnh tình. Nếu có vị ngọt, tức là bệnh tình nặng lên. Nếu có vị đắng, tức là bệnh tình đang thuyên giảm. Phân và nước tiểu của bệ hạ có vị đắng, chắc chắn bệ hạ sắp khỏi”.

Cảm thấy kỳ quái, Ngô Vương Phù Sai muốn khảo nghiệm liền bảo một hoàng tử nếm thử phân và nước tiểu. Thấy hoàng tử nhăn mặt, Ngô Vương Phù Sai than rằng: “Thân như cha con mà cũng không bằng tình của Câu Tiễn”, từ đó càng tín nhiệm Câu Tiễn, không lâu sau thì thả Câu Tiễn về nước ...

Trở về cố quốc, bề ngoài Việt Vương Câu Tiễn giả vờ tuân phục, đều đặn triều cống, nhưng bên trong vẫn nuôi chí phục thù, trọng dụng 2 đại thần là Phạm Lãi và Văn Chủng, cùng bàn kế tiêu diệt nước Ngô, bí mật luyện tập quân đội, tích trữ quân lương, đoàn kết dân chúng. Văn Chủng còn đưa ra 9 kế sách diệt Ngô, trong đó có việc nắm chắc nhược điểm của Ngô Vương Phù Sai là hoang dâm, hiếu sắc.

Để làm việc này, Việt Vương Câu Tiễn đã phải cất công cử người tìm mỹ nữ trong cả nước. Tây Thi là người con gái đẹp nhất trong số mỹ nữ mà Việt Vương Câu Tiễn triều cống sang nước Ngô. Tương truyền, Tây Thi đẹp đến nỗi khi nàng nhăn mặt, đàn ông vẫn như bị hút hồn. Không chỉ vậy, sắc đẹp của nàng còn khiến những đàn cá nhìn thấy bóng nàng soi xuống mặt sông say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Chính tích “Tây Thi trầm ngư” bắt nguồn từ việc này.

Ở nước Ngô, Tây Thi tìm mọi cách lôi kéo Ngô Vương Phù Sai bỏ bê chính sự, hưởng lạc. Ngô Vương Phù Sai chẳng thể cưỡng lại sự quyến rũ của người đẹp, ngày đêm chỉ nghĩ tới việc làm người đẹp thỏa mãn. Những lầu, những đài liên tục được dựng lên, không chỉ ngốn mất của ngân khố bộn tiền mà còn khiến nhân dân cực khổ trăm bề.

Trung thần nước Ngô là Ngũ Tử Tư liên tục can gián, nhưng Ngô Vương Phù Sai đều bỏ ngoài tai, thậm chí còn buộc Ngũ Tử Tư phải tự sát. Trước khi chết, Ngũ Tử Tư yêu cầu được treo đầu ở cổng thành để có thể nhìn quân nước Việt tiến đánh, tiêu diệt nước Ngô như thế nào.

Lời nói của Ngũ Tử Tư quả nhiên ứng nghiệm. Năm 473 trước Công nguyên, Việt Vương Câu Tiễn xuất binh đánh nước Ngô. Ngô Vương Phù Sai thất bại, cầu hòa. Việt Vương Câu Tiễn không chấp nhận. Ngô Vương Phù Sai đành phải tự sát. Trước lúc lâm chung, Ngô Vương Phù Sai dặn những người xung quanh rằng: “Sau khi ta chết hãy lấy một tấm khăn phủ lên mặt ta bởi khi xuống dưới suối vàng, ta chẳng còn mặt mũi nào nhìn Ngũ Tử Tư nữa”.

Nước Ngô bị tiêu diệt, Tây Thi hoàn thành sứ mệnh của một nữ nhi yếm thắm đối với Tổ quốc, vẻ vang trở về nước Việt. Tuy nhiên, sau khi Tây Thi trở về nước Việt, số phận ra sao, hiện vẫn chưa có được sự thống nhất. Có người bảo Tây Thi và Phạm Lãi đã về quê sống ẩn dật. Tây Thi vốn là tình nhân của Phạm Lãi, nhưng vì nghiệp lớn cứu quốc đã hi sinh tình yêu và tuổi thanh xuân. Nước Ngô không còn, hai người có cơ hội gần nhau.

Phạm Lãi đã nói với Tây Thi rằng: “Câu Tiễn, con người này có thể chung hoạn nạn, nhưng không thể cùng hưởng sự an lạc. Khi thỏ chết, người ta cũng giết chó săn. Chúng ta không thể ngồi đó đợi nguy hiểm, chi bằng hãy cùng nhau cao chạy xa bay”. Hai người, sau đó đã lên thuyền ngao du thỏa chí thuyền quyên. Tương truyền, Phạm Lãi sau này chuyển sang làm ăn buôn bán và phát tài lớn, Tây Thi trở thành một “phu nhân” giàu có.

Cũng có người nói rằng, Tây Thi về nước Việt hôm trước, tối hôm sau đã bị Việt Vương Câu Tiễn gọi vào cung “hầu vua ngủ”. Việt Vương Câu Tiễn nói với Tây Thi rằng: “Phù Sai thỏa thê với nàng, tại sao ta lại không được nhỉ?” ...

Tây Thi, cuối cùng, vẫn là một công cụ thỏa mãn nhục dục ... Nhưng việc Tây Thi ở bên Việt Vương Câu Tiễn đã bị hoàng hậu coi là một mối họa không thể để lâu. Bà ta đã gọi Tây Thi đến, sai người dìm chết.

Vài sự kiện dẫn đến CSVN bán nước

Sau vụ CSVN bán nước cho TC, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước nầy. Bộ chính trị CSVN đã dấu nhẹm chuyện nầy và Bí Mật Đã Được Bật Mí và sau đây là những diễn biến về cuộc Bán Nước như sau:

1. Lê Khả Phiêu bị TC gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm TC năm 1988 và sanh được một bé gái. LKP không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần TC gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 01/1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu LKP không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30/12/1999.

2. Ngày 31/12/1999 phái đoàn TC cầm đầu do ông Tang Jiaxuan và tình báo TQ sang Việt Nam, họ gặp kín ông Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất.

3. Ngày 25/12/2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang TC, ông Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến thêm đất. TC nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều Cung Tầng Mỹ Nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng ông Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan .

4. Bộ Trưởng TC Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bộ Trưởng CSVN tại ThaiLand khi ông viếng thăm nước nầy. Ngày 26/07/2000. Ông Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 0647 giờ sang Thái Lan gặp Bộ Trưởng Ngoại giao TC tại khách sạn Shangri-Hotel Bangkok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi CSVN hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi Viet Nam cắt 24 ngàn Km2 vùng biển cho TQ. Ngày 28/07 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.

5. Sau 2 tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị CSVN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26/09/2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Nhìn thấy mặt Khải tỏ vẻ không hài lòng và hoan mang về vụ hiến đất (Điều nầy chứng tỏ Khải không rõ chuyện nầy). Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi. Lý Bằng ôm chặc PVK và khen đảng CSVN làm việc rất tốt và ông cho biết là đã có Nông Đức Mạnh (lúc đó là chủ tịch Quốc Hội DCSVN) đã đi đêm sang TC vào tháng 04/2000 và Lý Bằng đã gặp lại Nông Đức Mạnh, vào tháng 8 năm 2000 ở New York Hoa Kỳ. Lý Bằng cho biết Nồng Đức Mạnh phải được cử làm Tổng Bí Thư đảng CSVN sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị TC 'đòi nợ cũ'. Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với LB là sẽ xem lại sự việc ... Lý Bằng nhăn mặt bắt Khải ngồi chờ, vào gọi điện thoại, nói gì trong đó và trở lại nói là Chủ Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp GTD và cho ông Zhu Rongji hù dọa Khải nói : TC đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh ... nếu không nghe lời TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị 'chích thuốc'. Khải cuối đầu và run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nửa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc Hội CSVN. Khải không được khoản đải như một vị quốc khách vì tính tình bướng bỉnh vì không nghe lời đàn anh ...

6. Vào ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao VN Lê Công Phụng được Trần Đức Lương phái âm thầm đến TC gặp tình báo của TC là ông Hoàng Di, ông nầy là cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao TC. Ông ta nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt, (Tỉnh Móng Cái Việt Nam).. Theo bản báo cáo cho bộ chính trị CSVN, ông Lê Công Phụng Cho biết lúc đầu ông Hoàng Di vẫn khăn khăn đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt 'Beibu Bay' đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó ông Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin lại 6 % của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam. Kết Quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56 % Vịnh Bắc Việt và mất đi 16 ngàn sq Km vùng vịnh cho TC.

7. Ngày 25/12/2000, ông Trần Đức Lương rời Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình báo TC. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của nhiều người trong quốc hội. Phe thân Nga và Phe Miền Nam đã không đủ sức đấu với Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương. Bản hiến chương hiến đất cho TC được chính Giang Trạch Dân và đảng CSTQ trả cho số tiền là 2 tỉ usd được chuyển cho Việt Nam qua hình thức Đầu Tư. Đảng CSTQ chỉ thị cho đảng CSVN sẽ phải làm gì trong kỳ đại hội đảng thứ 9 vào tháng 3 năm 2001.

8. Ngày 26/12/2000 vào lúc 1400 giờ, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân (QTNN). Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16 ngàn km2 vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn đảng CSTQ về số tiền nầy. Số tiền 2 tỉ đồng nầy được Lương đem về để làm bớt sự phẩn nộ của Khải, Kiệt và những nhân vật khác trong quốc hội CSVN. Ông Lý Bằng nhắc lại chuyện TC đã bán vũ khí và hổ trợ cho đảng CSVN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên TC dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng ... Thêm lần nữa Lý Bằng chỉ gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh ! Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongj. Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ đồng sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.

9. Ngày 26/02/2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang TC để gặp ông Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn TC đã mua vùng Vịnh Bắc Việt của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỷ usd.

Thursday, July 9, 2009

Phải đập tan ý đồ “nhuộm đỏ” Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại của Việt Cộng - Đặng thiên Sơn

Đặng thiên Sơn

Khi ngồi bàn chuyện “chống cộng ” tại hải ngoại nhiều người nói rằng, ngày nay khó biết được ai thật lòng có cùng chung lý tưởng với mình. Điều này đúng chớ không sai. Và vấn đề càng trở thành nhạy cảm hơn, phức tạp hơn khi chung quanh chúng ta có quá nhiều thành phần gọi là “Người Việt hải ngoại”.

Để giải quyết từng cái khó, vấn đề ở đây là làm sao mọi người phải nhận ra được dã tâm của Việt Cộng, phải nhận ra được thành phần nào là người Việt tỵ nạn chân chính, thành phần nào là người Việt tỵ nạn cộng sản trá hình và thành phần nào là người Việt đang sống chung quanh chúng ta thuộc loại nguy hiểm cần phải cảnh giác, cần phải lưu ý tới. Nếu bình tâm giải đáp được từng gút mắc, thì chúng ta mới mong giữ được tuyến chống cộng về lâu về dài. Chớ còn lấp lững, cả nễ, lừng khừng thì tuyến phòng thủ sẽ bị Việt Cộng chọc thủng, dẫn đến thảm họa cho tiền đồ đấu tranh của dân tộc.

Hơn 30 năm qua, đến giờ phút này thì mọi người ai cũng nhìn thấy ý chí phấn đấu, lòng kiên trì chống cộng của người Việt quốc gia hải ngoại. Lẽ đương nhiên Việt Cộng trong nước cũng thấy được điều này và chúng đang tìm đủ mọi cách để tiêu diệt hàng ngũ người Việt quốc gia hải ngoại bằng mọi giá.

Nhìn chung, ai cũng nhìn thấy thành phần người Việt sinh sống tại hải ngoại gồm có:

- Những người tỵ nạn cộng sản chân chính.

- Những người làm kinh tế chớ không phải tỵ nạn cộng sản.

- Những cán bộ Việt Cộng được cài đặt nằm vùng và Việt gian đón gió trở cờ.

- Những du học sinh vừa còn đi học và sau khi tốt nghiệp chương trình học họ tìm đủ mọi cách để ở lại hải ngoại.

Người Việt tỵ nạn cộng sản chân chính, là thành phần có tư tưởng không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản. Họ luôn luôn giữ vững trong lòng căn cước tỵ nạn chính trị và lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng thân thương của đời mình. Thành phần này là Quân - Cán - Chính và một số Dân chúng miền Nam từng sống dưới chế độ tự do Việt Nam Cộng Hòa. Đây là những người có thể nói “không đội trời chung” với bọn Việt Cộng hại dân, bán nước. Họ chính là những nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của Việt Cộng mà bản thân và gia đình đã bị Việt Cộng “đả thương” làm cho sống dở chết dở từ trong cho tới ngoài, từ tư tưởng cho tới tài sản.

Những người vì lý do kinh tế, là những người không có lập trường chính trị. Thời buổi nào cũng vậy, đối với họ chỉ có tiền là trên hết. Chủ nghĩa quốc gia dân tộc, chủ nghĩa cộng sản, tự do, độc tài và cờ máu hôi tanh Việt Cộng hay cờ quốc gia không có gì khác biệt ngoài môi trường thuận lợi cho họ “hốt bạc”. Tại hải ngoại có rất nhiều hạng người này, họ vừa kiếm ăn tại Mỹ vừa đem tiền về đầu tư tại Việt Nam để kiếm thêm.

Thành phần cán bộ Việt Cộng nằm vùng là số đảng viên, cán bộ được giao phó công tác gián điệp từ lâu. Đây là số người đã được đảng và nhà nước VC cài đặt từ trước năm 1975, cho đến ngày nay bọn chúng hoạt động dưới quyền điều động của các Tòa Đại Sứ, Tòa Lãnh Sự VC. Bên cạnh bọn Việt Cộng có thẻ đảng là bọn Việt gian chó săn, chim mồi. Điển hình dễ thấy nhứt là đám người trong cái gọi là “sáu chính đảng”. Bọn người này đã từng là Quân - Cán - Chính và Dân chúng Việt Nam Cộng Hòa nhưng nay đã trở cờ làm tay sai, chạy hiệu cho Việt Cộng .

Cuối cùng là thành phần người ta tưởng rằng không đáng ngại, đang được người thân ùn ùn tìm cách đưa sang vì nghĩ rằng vô tội. Nhưng xét cho cùng, thành phần này hết sức nguy hiểm cho Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại trong chuỗi dài đấu tranh chống cộng từ bây giờ cho đến về sau. Đó là những du học sinh.

Các Du học sinh Việt Nam có phải là những người trong Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh và họ đang là đối tượng để chuẩn bị vào làm đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam hay chỉ thuần túy là những du học sinh bình thường hay không ? Điều này không quan trọng bằng họ là ai, từ đâu họ xuất hiện trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Du học sinh có nhiều loại, như loại con giòng cháu giống chính thống ba đời của “bác và đảng”, loại dây mơ, rễ má với “bác và đảng”, loại nhân dân “có công với cách mạng”. Tuyệt nhiên trong các du học sinh không có loại con, cháu của “ngụy quân, ngụy quyền”. Cho dù dưới bất cứ hình thứ nào cũng không thể phủ nhận “Du học sinh là những người được đảng Cộng Sản Việt Nam ưu đãi”. Họ được ưu đải có lý do. Lý do dễ thấy, dễ hiểu nhất vì họ đã được huấn luyện trong môi trường vừa hồng vừa chuyên ngay từ thời “thiếu nhi quàng khăn đỏ” .

Nhiều người đã vội vã nghĩ rằng đời sống xã hội, sách vở về nhân bản, về tự do, về dân chủ tại hải ngoại là liều thuốc tiên sẽ chuyển hóa tư tưởng các du học sinh. Nên không chóng thì chày thành phần này sẽ “nghiêng” về lập trường tự do, nhân vị con người. Nói một cách khác, các du học sinh sẽ ủng hộ Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại trên phương diện chống cộng, đấu tranh cho một nước Việt Nam không cộng sản. Nhưng bao giờ thì họ “chuyển hóa”. Không ai trả lời được, cũng như số người suy nghĩ như trên đã quên rằng khi lên đường du học, các du học sinh đã được đào tạo, đã được cấy sinh tử phù “Học tập và làm theo gương bác Hồ”. Hơn nữa, liều thuốc chuyển hóa không phù hợp với tâm lý của các du học sinh khi họ đang coi “bác và đảng” là thần tượng trong việc “chống Mỹ cứu nước” và là “ân nhân” của họ. Trong khi ấy, thử hỏi Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại đã giúp đỡ gì cho họ khi cha mẹ, anh em, bà con xa, gần của họ đang hưởng những đặc quyền, đặc lợi do đảng Cộng Sản Việt Nam cung cấp. Đây là giá trị thực tế các du học sinh không thể phủ nhận. Cho nên, những ai đặt vấn đề cảm hóa họ là chuyện ảo tưởng, là chuyện mộng mơ. Ngược lại, hình như nhiệm vụ các du học sinh được giao phó nếu không muốn nói là cảm hóa người Việt quốc gia nên quên dĩ vãng, quên quá khứ.

Nếu thấy rằng du học sinh là thành phần nguy hiểm trong CĐNVQGHN, thì chúng ta mới có cái nhìn đúng đắn trong đấu tranh. Với lòng bao dung, người Việt hải ngoại không thù hằn tuổi trẻ. Nhưng vì tiền đồ dân tộc trước hiểm họa xâm lăng của Tàu Cộng từ biển cho tới đất liền, chúng ta không thể dễ dãi, thờ ơ để cho kẻ thù lợi dụng tuổi trẻ. Cho nên sự sáng suốt, sự can đảm nhìn nhận sự thật để phanh phui tình cảm đúng mức là điều cần thiết. Có như vậy, thì người Việt quốc gia mới ngăn chận được ý đồ nhuộm đỏ cộng đồng người Việt hải ngoại của Việt Cộng.

Với số lượng du học sinh Việt Cộng cho đi ào ạt như hiện nay, đã cho thấy đây là một sự kiện nằm trong chiến lược khống chế CĐVNHN của Việt Cộng. Sự nguy hiểm mà mọi người cần phải quan tâm là du học sinh sống trà trộn trong nhà thân nhân, trường học, nhà hàng, chợ búa, tiệm tạp hóa, v.v… được kể là mạng lưới tai mắt của VC. Chúng ta nên nhớ rằng khi cho các cựu tù nhân chính trị ra đi VC đã bắt làm 5,7 thứ giấy cam kết, thì các du học sinh chắc chắn sẽ không tránh khỏi có những ràng buộc chặt chẻ hơn khi sinh mạng của họ nằm trong vòng kềm chế, kiểm soát, theo dõi và chỉ huy của các Tòa Đại Sứ, Toà Lãnh Sự.

Nếu cứ ngại ngùng, sợ gây ra ngộ nhận, sợ mất lòng để rồi ngậm miệng không dám nói lên những điều cần nói sẽ trở thành vô tình tiếp tay với âm mưu thâm độc của VC. Điều mà chẳng ai muốn. Cho nên nói thẳng để xây dựng, để bảo vệ tiền đồn chống cộng vững mạnh là điều cần thiết.

Chúng ta nghĩ sao, với sự kiện 10 năm gần đây cờ máu Việt Cộng xuất hiện ở những trường học từ trung học cho đến đại học nơi có du học sinh VN theo học. Chúng ta hình dung thế nào, về vai trò của các du học sinh ở những trường học này. Phải chăng đối với những du học sinh thì cờ đỏ sao vàng là biểu tượng thiêng liêng gần gủi với họ, còn cờ vàng ba sọc đỏ là một cái gì xa lạ. Nếu không muốn nói thêm, du học sinh đã được nhồi sọ “cờ vàng ba sọc đỏ là tàn dư xấu xa của Mỹ - Ngụy”!!!...

Đặng thiên Sơn (09 tháng 7/2009)

LUẬT SƯ QUỐC DOANH - Trần Việt Trình

Trần Việt Trình

Từ khi có chế độ cộng sản tại Việt Nam, từ “quốc doanh” trở nên quen thuộc và phổ biến. Quốc doanh có nghĩa là “nhà nước kinh doanh”, nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày của người dân, khi nói đến quốc doanh ai cũng có hàm ý sự chê bai, dè bỉu.

Nếu hàng hoá quốc doanh được xem là kém phẩm chất thì các đoàn thể quốc doanh không những chỉ mang đặc tính kém phẩm chất như hàng hoá mà còn không thể hiện được chức năng, thậm chí còn là bù nhìn và giả mạo. Do vậy, đối với hàng hoá quốc doanh, người dân chỉ chê bai phẩm chất, còn đối với các cá nhân hay tổ chức quốc doanh, người ta không những chỉ chê bai mà còn khinh bỉ. Chúng ta đã có “Phật giáo quốc doanh”, “Công Giáo quốc doanh”, “sư quốc doanh”, “cha quốc doanh”, “trí thức quốc doanh”, ... Nay chúng ta có thêm “luật sư quốc doanh”. Đúng vậy, sau bao nhiêu năm chuẩn bị cùng nhiều khó khăn trì trệ cũng như những đấu đá nội bộ, “Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam” đã ra đời vào ngày 11 tháng 5 vừa qua tại Hà Nội.

Việc cho hình thành Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam (LĐLSVN) chẳng qua chế độ CSVN đang lo sợ sự trưởng thành trong tư tưởng của giới luật gia cũng như sự lớn mạnh của nghành luật trong nước sẽ dẫn đến việc vuợt ra ngoài sự quản chế của đảng và nhà nước. Việc tạo dựng Liên Đoàn Luật Sư này cũng không nhằm mục đích nguỵ tạo cho thế giới một hình ảnh VN tự do, dân chủ, có luật pháp hầu mong Liên Đoàn sẽ được chấp thuận trong cộng đồng pháp lý quốc tế. Những năm gần đây, giới luật sư trong nước đã làm cho giới lãnh đạo CSVN mất ăn mất ngủ không ít. Đó là những luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Bắc Truyễn, Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ, Lê Công Định, … và sẽ còn nhiều, nhiều nữa. Đây là những luật sư trẻ, được sản sinh ra từ ngay trong lòng chế độ, được đào tạo từ mái trường XHCN và không vướng mắc gì với chiến tranh VN trước 1975. Vài luật sư trong số này may mắn được “bồi dưỡng tư tưởng” ở các trường đại học luật danh tiếng của thế giới và có cơ hội tiếp cận được với hệ thống pháp lý của các nước “tư bản” có hệ thống luật pháp chuẩn mực đi trước các nước cộng sản hàng trăm năm, đừng nói gì tới CSVN. Nhìn chung, những luật sư trẻ tuổi này là những người có kiến thức và tài năng để có thể có được cuộc sống vinh hoa phú quý trong xã hội VN dưới quyền cai trị của người CS. Tuy nhiên, tâm thức của những luật sư này lại đòi hỏi phục vụ lẽ phải và công lý. Muốn mang lại công bằng và thịnh vượng cho quê hương, những luật sư này không thể không mạnh dạn, can đảm trước cường quyền bạo lực, lên tiếng vì sự thật và bênh vực cho công lý, trực diện tấn công thẳng vào “rừng luật” đầy “luật rừng” của CSVN.

Thật ra việc thành lập một nghiệp đoàn hay một hiệp hội luật sư cũng chỉ là một chuyện bình thường, không có gì đáng nói, không có gì để bàn cãi. Nhưng, đằng này việc chuẩn bị và cho ra đời một tổ chức chuyên nghiệp và dân sự lại hoàn toàn do sự múa may và khuynh đảo của các lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN. “Đây là một tổ chức nghề nghiệp nên quá trình bầu cử phải dân chủ. Chủ tịch Liên đoàn phải do tất cả các đại biểu bỏ phiếu bầu. Thực tế lại không được như vậy”, luật sư Nguyễn Đăng Trừng Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh cũng phải bất bình lên tiếng. Thật vậy, để dọn đường cho việc thành lập LĐLSVN, nhà nước CSVN đã cài người vào Hội đồng lâm thời mà các thành viên chủ chốt đều là cán bộ “gộc” để chung cuộc thành phần ban lãnh đạo của LĐLSVN thật “đẹp như mơ”: Chủ tịch là Lê Thúc Anh (nguyên Phó Chánh án Toà Án Nhân Dân tối cao), Phó chủ tịch thường trực là Nguyễn Văn Thảo (nguyên Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp) và Phó Chủ tịch - kiêm Tổng thư ký là Đỗ Ngọc Thịnh (nguyên phó Viện Trưởng Viện Khoa Học tổ chức, Ban Tổ chức Trung Ương).

Theo như hoạch định thì trong kỳ Đại hội đại biểu luật sư lần thứ nhất diễn ra tại Hà Nội tháng 5 vừa rồi đại hội này sẽ bầu ra một ban lãnh đạo gồm Hội đồng Luật sư toàn quốc với 91 thành viên, bầu ra ban thường vụ và các vị trí chủ chốt như Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Tổng thư ký cho Liên đoàn Luật sư. Theo đó, ít nhất chức vị chủ tịch phải được bầu trực tiếp để bảo đảm tính dân chủ. Nhưng việc đó đã không xảy ra như mọi người mong đợi. Ngay từ đầu Lê Thúc Anh, nguyên là Phó Chánh Án Toà Án Nhân Dân Tối Cao đã được Bộ Tư Pháp bổ nhiệm làm chủ tịch Hội Đồng Lâm Thời Luật Sư Toàn Quốc. Luật sư Lê Công Định trước lúc bị bắt cũng đã lên tiếng nói rằng làm như vậy là vi phạm vào tính tự quản của hiệp hội luật sư. Đoàn Luật Sư Sài Gòn và Bộ Tư Pháp đã sẵn có một số va chạm liên quan đến việc thành lập Liên Đoàn Luật Sư Toàn Quốc. Sự áp đặt trắng trợn này lại gây chia rẽ mất đoàn kết và bất bình trong giới luật sư ở VN. Luật sư Trần Vũ Hải có trụ sở tại Hà Nội trả lời Thanh Quang phóng viên đài RFA vào ngày 3 tháng 5 cũng phản ứng về việc cài người này của đảng, ông tuyên bố “Giới lãnh đạo luật sư Việt Nam hiện nay, tất nhiên có vài người đáng tiếc là do ở đâu đó cơ cấu vào thì hiện nay chúng tôi cho là không thể đại diện cho giới luật sư được”. Đó là chưa nói đến tiêu chuẩn trở thành Chủ tịch Liên Đoàn Luật Sư của Lê Thúc Anh. Luật sư Lê Công Định trong bài “Ai cử, luật sư bầu?” bày tỏ không khâm phục người chưa “lăn lộn với nghề luật sư bằng bề dày kinh nghiệm và thâm niên nghề nghiệp mà đồng nghiệp nào cũng phải kính trọng”. Luật sư Nguyễn Lệnh trong bài “Thủ lãnh” và chữ “phục” phổ biến trên internet trong nước ngày 6 tháng 7 đã xa gần ngấm ngầm chỉ trích “để làm một Thủ lãnh trước hết bản thân người đó phải được các luật sư đồng nghiệp phục và sau nữa là người đó phải được các luật sư đồng nghiệp phục cả cái cách lên làm Thủ lãnh”. Cách lên làm thủ lãnh LĐLSVN của Chủ tịch Lê Thúc Anh thật chẳng đắc nhân tâm và không làm cho giới luật sư VN khẩu phục và tâm phục chút nào. Đến giờ này CSVN vẫn chuộng hồng hơn chuyên.

Thực chất luật pháp ở VN do đảng CSVN độc quyền nhào nặng ra. Ai cũng hiểu được hệ thống Tư Pháp của CSVN chẳng qua chỉ dùng để trang trí, dùng để làm đẹp chế độ, nhằm tạo cho chế độ có một hình thức bề ngoài giống các quốc gia khác không ngoài mục đích bịp bợm, còn lại thực chất nó chỉ là một đoàn múa rối.

Nguyễn Tấn Dũng trong buổi tiếp đón LĐLSVN chiều 18 tháng 6 tại Trụ sở Chính phủ do Lê Thúc Anh Chủ tịch Liên đoàn dẫn đầu đã nhấn mạnh chủ trương của đảng và Nhà nước về việc xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN. Để thực thi một nhà nước pháp quyền thì các cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp phải hoạt động tách biệt. Một nhà nước pháp quyền phải có tòa án độc lập, luật sư độc lập cũng như cơ quan hành pháp để bảo đảm không có tham nhũng. Bảo đảm không có tham nhũng là một trong những nhiệm vụ của nhà nước pháp quyền. Nếu không có sự độc lập của bộ máy tư pháp cũng như sự độc lập của luật sư, một nhà nước pháp quyền sẽ khó mà thực hiện được. Thế nhưng, ở VN chuyện đó lại không xảy ra bởi các cơ quan thi hành pháp luật như tòa án, Viện Kiểm Sát và công an đều có chi bộ đảng ủy riêng của từng bộ phận điều hành và nhận chỉ thị từ trên đưa xuống. Trong hệ thống tòa án ở VN, cả thẩm phán lẫn bản án đều do đảng chỉ định và mọi thứ đều được sắp xếp trước. Cũng trong hệ thống tòa án có tính cách nhân dân đó, cái quyền biện hộ của luật sư cũng bị khống chế. Dưới chế độ CSVN, tính độc lập của các luật sư và các đoàn luật sư không có được. Luật sư không được quyền thi thố tài năng và thi hành đúng chức năng của họ trước toà. Vì vậy, vai trò chánh án cũng chỉ là một bù nhìn, không cần thiết phải chú tâm đến những lời tranh cãi, biện hộ của luật sư hay lời tự biện của bị can. Để trừng phạt các luật sư nào dám lên tiếng vì công lý, dân chủ và nhân quyền, nhà nước không ngần ngại đóng cửa văn phòng và rút giấy phép hành nghề của họ. Đó là chưa kể đến bao nhiêu trù dập, gây khó khăn trong cuộc sống cũng như việc đi lại hằng ngày của họ.

Câu hỏi đặt ra là Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam được hình thành rồi thì liệu tổ chức này có giúp giới luật sư bảo vệ công lý đúng mức hay không? Nhất là trong bối cảnh giới cầm quyền tiếp tục gây ảnh hưởng đến các vụ xử, đặc biệt liên quan tới những nhà dân chủ, bất đồng chính kiến, hay những người dân thấp cổ bé miệng bị cưỡng chiếm đất đai. Câu trả lời là KHÔNG, ngàn lần KHÔNG, vạn lần KHÔNG. Bởi LĐLSVN là một công cụ pháp lý của đảng và nhà nước, là một đoàn múa rối không hơn không kém. Đảng CSVN đã và đang điều hành đất nước với quá nhiều sai lầm không thể khắc phục được, đã sản sinh ra một hệ thống pháp luật đầy nghịch lý. Đảng CSVN đã cố tình kìm hãm dân trí nhằm tạo ra những “sản phẩm” theo ý mình. Chỉ vì muốn củng cố địa vị độc đảng độc tôn của mình mà họ đã nhào nặn ra một thế hệ kế tiếp những “con người sản phẩm” chỉ biết cắm đầu thực hiện những chỉ thị của đảng và nhà nước, bất kể luật lệ, bất kể luật pháp.

Cộng sản vẫn thường rêu rao là ở đâu có áp bức và bất công thì ở đó sẽ có đấu tranh kia mà. Ở xã hội nào cũng vậy, có đàn áp, bất công và bạo quyền đến đâu đi chăng nữa thì cũng sẽ có người sẵn sàng đứng lên bênh vực cho công lý. Chúng ta đã có những nhà lãnh đạo tôn giáo dù đang còn sống trong nước nhưng họ không hề sợ hãi trước đàn áp và ngục tù, thà chết không chịu đứng vào hàng ngũ những kẻ “tu hành quốc doanh”. Chúng ta đã có và sẽ có thêm nhiều nữa, từ ngay trong nước, những luật sư còn có lương tâm, can đảm, không chịu khuất phục trước cường quyền bạo lực và quyết không đứng vào hàng ngũ “luật sư quốc doanh” để làm công cụ cho CSVN chà đạp pháp lý.

Trần Việt Trình
7 tháng 7, 2009


Chim Hạc Và Chó Săn - Nguyễn thanh Ty

Nguyễn thanh Ty

Truyện Đông Chu liệt quốc, hồi thứ hai mươi ba, chép: “ Vệ Ý công lên ngôi đã chín năm trời, tính rất lười biếng, chẳng thiết gì đến chính sự, chỉ thích chơi một giống chim gọi là chim hạc. Giống chim này tính ưa sạch sẽ, hình dung rất thanh nhã, tiếng kêu đã hay, dáng múa cũng khéo. Thấy Vệ Ý công thích chơi hạc, người nước Vệ đua nhau đem hạc đến tiến. Ai tiến hạc cũng được nhà vua trọng thưởng. Thành ra trong cung nuôi đầy hạc, kể hàng mấy trăm con.

Vệ Ý công lại thưởng phẩm hàm và cấp lương bổng cho hạc. Con nào đẹp thì được ăn lộc quan đại phu. Mỗi khi Vệ Ý công đi chơi đâu, lại cho mấy cổ xe lớn chở chim hạc đi dàn ở phía trước mặt, gọi là hạc tướng quân. Những người nuôi hạc đều được ăn lương. Triều đình phải thu thuế của dân thật nặng, để có đủ tiền cấp lương cho hạc.

Quan Đại phu là Thạch Kỳ vốn có tiếng là người trung thực, cùng với Ninh Tốc cầm quyền chính nước Vệ. Hai người vẫn can Vệ Ý công luôn mà Vệ Ý công không nghe.
Bắc Địch là một nước cường thịnh. Vua Bắc Địch tên là Sưu man xưa nay vẫn có ý muốn xâm phạm các nước ở Trung Quốc. Nghe tin vua Vệ ham chơi hay bỏ bê triều chính, quốc sự suy yếu nên đem quân đánh nước Vệ.

Vệ Ý công đang đi chơi với hạc, nghe báo có quân Bắc Địch đến đánh, giật mình kinh sợ, tức khắc hạ lệnh gọi quân để đi đánh giặc. Dân nước Vệ bỏ trốn cả, không ai dám ra lính.

Vệ Ý công sai quan tư đồ đi bắt. Trong một lúc bắt được hơn trăm người đem về tra hỏi:
Vì cớ gì mà các ngươi dám trốn lính?

Dân nước Vệ nói:
Chúa công dùng một giống vật cũng đủ đánh nổi quân Bắc Địch, cần gì phải dùng đến chúng tôi.

Vệ Ý công hỏi:
Vật gì mà đánh nổi quân giặc?

Dân nước Vệ nói:
Chim hạc!

Vệ Ý công hỏi:
Chim hạc thì đánh giặc thế nào được?

Dân nước Vệ nói:
Chim hạc đã không đánh giặc được thì là một loài vô dụng, nay chúa công bỏ những người hữu dụng mà nuôi những loài vô dụng, bởi thế cho nên dân chúng tôi không phục.

Vệ Ý công nói:
Nay ta đã biết tội! Ta xin theo ý dân mà đuổi hết chim hạc đi!

Thach Kỳ nói:
Xin chúa công làm ngay cho! Tôi e bây giờ đã muộn lắm rồi.

Vệ Ý công tức khắc sai người đi xua đuổi chim hạc. Bấy giờ dân mới chịu ra lính thì quân Bắc Địch đã kéo đến đất Huỳnh Trạch.

Vệ Ý công cùng quan đại tướng là Cừ Khổng đem quân đi đánh giặc. Trong khi đi đường quân sĩ đều oán Vệ Ý công, ta thán nhiều lắm. Có người làm một bài ca rằng:

“Hạc được ăn lương, dân phải cày ruộng! Hạc được ngồi xe, dân phải vác giáo! Quân giặc gớm ghê thay, quân ta chín chết một sống! Nay hạc đi đâu, để ta khổ sở!”

Vệ Ý công thấy quân sĩ hát như vậy, có ý buồn rầu. Quan đại tướng là Cừ Khổng lại quá nghiêm khắc, bởi vậy quân sĩ càng đem lòng tức giận. Quân Vệ vốn không có lòng đánh giặc nên khi bị phục binh của giặc đổ ra quá mạnh tức thì bỏ chạy cả. Vệ Ý công và Cừ Khổng bị quân giặc vây kín mấy vòng.

Cừ Khổng nói với Vệ Ý công rằng:
Bây giờ nguy cấp lắm rồi, xin bỏ cờ đại bái xuống và chúa công phải thay đổi trang phục mới có thể chạy thoát được.

Vệ Ý công thở dài mà than rằng:
Quân nước Vệ có lòng cứu ta thì lấy cờ đại bái làm dấu tích, nếu không thì bỏ cờ đại bái cũng vô ích! Thôi thì ta cũng liều một chết, để tạ lại lòng dân nước Vệ mà thôi.

Chốc sau, quân Bắc Địch kéo đến, Vệ Ý công và Cừ Khổng đều bị hại cả.
Quân Bắc Địch thừa thắng kéo vào kinh thành nước Vệ, chém giết nhân dân nhiều lắm, bao nhiêu của cải, vàng bạc thóc lúa, lấy sạch cả, lại phá hại cả thành quách rồi thu quân về nước.

An Nam dị sử thời cận kim chép:

Mùa Thu năm Ất Dậu, Hồ Chí Minh cướp ngôi nhà Nguyễn.

Hồ Chí Minh trước có tên là Nguyễn Tất Thành, con ông Nguyễn Sinh Sắc làm huyện lệnh ở tỉnh Bình Định, thường uống rượu say, lỡ tay đánh chết người nên bị triều đình bắt tội và cách chức. Quê nội của Tất Thành ở làng Kim Liên (tục gọi là làng Sen) rất nghèo khổ. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải đi làm thuê, cấy rẽ. Quần áo không có đủ mặc phải đóng khố nên làng còn có tên là Đai Khố.

Vào đời ông, dòng họ ông đa số đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê. Cũng có mấy người tham gia làm cách mạng chống Phú Lãng Sa. Mấy năm sau, cha chết, Tất Thành phải tha phương cầu thực lưu lạc sang Phú Lãng Sa rồi sang tận bên Tàu kiếm ăn qua ngày, lại nói quá lên là đi tìm đường cứu nước.

Khi trưởng thành, Tất Thành biết được ông nội mình chính là Hồ Sĩ Tạo chứ không phải là Nguyễn Sinh Nhậm. Nhậm chỉ là người đổ vỏ ốc cho Tạo vì vậy Nguyễn Tất Thành lấy lại họ Hồ đổi tên là Chí Minh.

Hoàng đế Mao Trạch Đông ở phương Bắc có dã tâm muốn nuốt xứ An Nam từ lâu, nên thu nhận họ Hồ làm đệ tử chân truyền với mục đích sau này, dạy cho học thuyết “Thế giới đại đồng”, chủ trương Chủ nghĩa Xã hội cộng sản, xóa bỏ ranh giới quốc gia. Lại ban cho lá cờ đỏ có ngôi sao vàng ở giữa để về nước An Nam hiệu lệnh đồng đảng trong mưu đồ soán nghịch. Lúc bấy giờ, đại kỳ của Giáo chủ Mao màu đỏ chỉ có một sao vàng lớn và bốn sao vàng nhỏ bao quanh, nằm ở góc trái phía trên đầu cán cờ. (Đại kỳ này Mao dùng từ năm Kỷ Sửu đến bây giờ, nay có thêm cái sao thứ năm, chắc sẽ dành cho xứ An Nam sắp thần phục làm chư hầu?)

Thừa lúc quân Nhật đầu hàng, Mao lén đưa Hồ về nước dùng thủ đoạn của Tào Tháo rất nham hiểm cướp chính quyền, buộc vua Bảo Đại phải thoái vị, nhường ngai vàng cho mình. Sau đó, Hồ bí mật ám toán hết các lãnh tụ của những đảng phái khác đã cộng tác với mình trong kháng chiến đánh đuổi giặc Phú Lãng Sa.

Vua Bảo Đại chạy vào đất Sài Côn, phía Nam, sắc phong quan Thượng Thư Bộ lại (đã từ quan từ năm Nhâm Thân) là Ngô Đình Diệm chức Thủ tướng thay mình, lập ra Nam triều để chống lại quân phản nghịch.

Ngày Mậu Dần, tháng Tân Mùi, năm Giáp Ngọ, các cường quốc có liên quan quyền lợi kinh tế, chính trị, quân sự… với nước An Nam như Phú Lãng Sa, Huê Kỳ, Anh Cát Lợi, Nga La Sát, Trung Hoa, có cả hai tiểu quốc Miên và Lèo cũng tham dự, hội nhau ở đất Giơ Neo cùng ăn thề, nói là để buộc nước Phú Lãng Sa trao trả độc lập cho nước An Nam, kỳ thật chỉ để xâu xé nước An Nam ra làm hai, lấy sông Bến Hải làm ranh giới, chia nhau quyền lợi. Nước Nga La Sát và Trung Hoa giành phía Bắc, Phú Lãng Sa và Huê Kỳ giữ phía Nam.

Trong ngày các cường quốc hạ bút ký Hiệp Định phân hai đất nước, đại diện cho miền Bắc là Phạm văn Đồng do Hồ Chí Minh cử đi đã mừng vui hớn hở vì bất ngờ đạt được thắng lợi ngoài mong muốn. Ngược lại, đại diện cho miền Nam là ông Trần văn Đỗ đã ôm mặt khóc thảm, đau buồn vì đất nước bị chia phân.

Ngày hôm sau,Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ cả miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ sự chống đối việc chia cắt đất nước.

Hai mươi năm sau, ngày Bính Ngọ, tháng Canh Thìn, năm Ất Mão, cả triệu Bắc quân của hậu duệ Hồ là Duẫn với sự giúp đở hùng hậu binh lực về khí giới và phương tiện chiến tranh của hai đại cường quốc trong Khối Cộng sản Cờ đỏ là Nga La sát và Trung Hoa cùng đám chư hầu Đông Âu, đã vượt sông Bến Hải vào cướp luôn miền Nam.

Cách đó ba năm trước, năm Nhâm Tý, Minh chủ của Liên minh Tự Do là Hoàng đế Huê Kỳ, Rít Sa - Ních Xông, một đồng minh lớn và thân thiết của miền Nam cùng hiệp lực chống quân Cờ đỏ hơn mười năm, đã tráo trở, bí mật lẻn sang Trung Quốc mật nghị với Tể Tướng Chu Ân Lai, giao miền Nam cho Trung Quốc để Trung Quốc nhường ảnh hưởng xứ Nga La Sát cho mình. Huê Kỳ và Trung Quốc bắt tay nhau trên bàn cờ quốc tế.

Sau mật ước, Huê Kỳ rút hết quân về nước và không chi viên khí giới lương thảo cho miền Nam nữa. Quân dân miền Nam đã phải chiến đấu trong đơn độc, thiếu thốn mọi phương tiện chiến đấu từ viên đạn đến gói cơm khô để ngăn chận giặc Cờ đỏ xâm lăng liên tục đánh phá và xâm nhập vào lãnh thổ miền Nam. Miền Nam vẫn can trường, bền bỉ trong một cuộc chiến không cân sức.
Ngày Bính Ngọ, tháng Canh Thìn, năm Ất Mão, giặc Cờ đỏ đem hàng trăm chiến xa, trọng pháo từ Tây nguyên tràn vào tận kinh đô Sài Côn.

Đại vương Dương văn Minh mới được truyền ngôi có ba ngày, sợ giặc hung tàn sẽ đốt phá cung điện, nhà cửa và đại sát dân lành nên phải tuyên bố trao quyền cho giặc Cờ đỏ trong êm thắm và hạ lịnh cho binh lính buông khí giới đầu hàng vô điều kiện.

Ngày hôm đó, trời sầu đất thảm, mưa như trút đổ, nhiều tướng lãnh, quan binh miền Nam đã cùng nhau tự ải tại bản doanh chứ không chịu nhục đầu hàng quân giặc.

Nhà Hồ tóm thâu giang sơn về một mối, thống nhất từ Bắc vô Nam, nhưng chỉ thống nhất được trên địa lý còn lòng dân thì không thể vì chính sách cai trị của Hồ quá tàn bạo và ác độc khiến cho dân cả nước chỉ vì ghê sợ mà đành phải cúi đầu nghe theo chớ tâm không phục.

Nhà Hồ chỉ đánh được thành, chiếm được đất chứ không chiếm được lòng dân nên vì vậy không thể nói là chiến thắng được.

Từ khi Hồ Chí Minh soán ngôi cho tới khi thống nhất đất nước, bề ngoài giả danh là một nước Cách Mạng Độc Lập Dân chủ Cộng Hòa nhưng bề trong thực chất thiết lập một triều đại phong kiến, quan liêu hơn xưa gấp bội. Một nhà nước độc đảng, độc tài, độc trị nhưng lại lệ thuộc Bắc triều. Nhất cử nhất động đều răm rắp tuân theo chỉ thị của Thiên triều.

Cách thức truyền ngôi cũng theo cách của Thiên triều, nghĩa là cha truyền con nối dưới hình thức bịp bợm, dối lừa người dân là “Đảng cử dân bầu”.

Những năm đầu mới lên ngôi, theo lệnh của Mao, Hồ cho phát động ngay chính sách “Cải cách ruộng đất” tuyên truyền là lấy ruộng của địa chủ chia cho nông dân. Dân nghèo nghe thấy thế mừng lắm, ùn ùn kéo nhau theo “Đội cải cách” của Đảng Cờ đỏ sai phái xuống nông thôn để đi đấu tố. Những người có đôi ba mẫu ruộng do ông cha để lại đều bị qui là địa chủ, bị giết chết. Người bị giết oan lến đến mấy vạn. Ruộng đất lấy được đem chia cho nông dân mỗi người mấy sào. Chưa được bao lâu, Đảng lại tóm thâu trong tay bằng hình thức “Hợp tác xã” nói dối là nông dân làm chủ, Nhà nước quản lý.

Ngày xưa thời phong kiến, nông dân còn có chút ruộng riêng tư của mình để lại cho con cháu làm của thừa tự hương hỏa. Ngày nay, dưới thời Hồ, nông dân trắng tay.

Giới nho sĩ rất bất bình về chính sách tham lam tàn bạo này của Đảng đã cùng nhau lên tiếng can ngăn, chỉ trích những sai trái của triều đình, liền bị Đảng kết tội “chống Đảng”. Tất cả nho sĩ trong nhóm “Nhân văn” có cả trăm người đều bị đày đến nơi ma thiêng nước độc, gọi là đi “cải tạo tư tưởng” mục đích là để cho chết dần, chết mòn trong đói khát và bệnh tật.

Ngoài nhóm “Nhân văn” ra, những “đồng chí” cùng trong Đảng nhưng có khuynh hướng thân với nước Nga La Sát, có tinh thần cấp tiến hơn, cũng lên tiếng khuyên can triều đình nên suy nghĩ lại chính sách cai trị thì cũng bị Đảng gán cho tội “xét lại” và xem bọn “xét lại” này còn nguy hiểm hơn bọn “Nhân văn” nhiều, nên đã ra tay dập tắt từ trong trứng nước bằng khủng bố, đàn áp rất dã man. Nhóm “xét lại” bị bắt, bị giết rất nhiều. Có một số đã phải trốn ra nước ngoài sống lưu vong suốt đời.

Từ đó nội bộ Đảng Cờ đỏ và triều đình chia thành nhiều phe cánh, đấu đá, tàn sát nhau rất ác liệt, tàn khốc để tranh quyền lực và quyền lợi.

Khi cưỡng chiếm được miền Nam, Bắc Bộ phủ cho thi hành chính sách đốt sách, cầm tù hơn trăm vạn nho sĩ và binh lính miền Nam. Cướp tài sản người dân bằng biện pháp “đánh tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp”, đổi tiền, đuổi người Hoa ra biển, đuổi người dân lên “kinh tế mới” để lấy nhà cửa chia nhau ở.

Thêm vào đó là chính sách kinh tế tập trung, ngăn sông cấm chợ, bao cấp quan liêu đã gây nên nạn tham quan ô lại lan tràn khắp nước đã làm cho dân trong nước đói khổ lầm than đến mức cùng cực. Đạo lý luân thường suy đồi, sa đọa xuống tận đáy vực thẳm.

Vì vậy, tuy đã đặt nền cai trị sắt máu hơn sáu chục năm mà chính trị trong nước vẫn chưa ổn định được. Tiếng huyên truyền bất mãn trong dân chúng vẫn cứ rỉ tai nhau những điều mà triều đình Hồ kết tội là “phản động” là “diễn tiến hòa bình” và luôn phập phồng lo sợ bị dân chúng nổi lên lật đổ. Nhiều vụ lùng xét, truy tìm để bắt những ai bị nghi là có ý đòi hỏi dân chủ, tự do nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, … xảy ra liên miên khiến tình hình trong nước luôn rối ren, hoảng loạn.

Ở chợ, môt ngày có tới ba bốn lần dân chúng bị giật mình, hoảng hốt bỏ cả hàng bán để chạy trốn, tránh nạn bắt lầm.

Người bị bắt nhốt vào tù nhiều lắm, hàng ngàn, hàng vạn tính không xuể. Nhà tù được dựng lên càng lúc càng nhiều, nhiều hơn cả trường học và bệnh xá cộng lại.

Tuy nhiên, những người đấu tranh cho tự do lại càng nổi lên nhiều hơn trước. Nhóm này bị bắt thì có nhóm khác xuất hiện thay thế để tiếp tục đấu tranh.

Lại nữa, dân oan bị cường quyền địa phương cướp đất, cướp nhà, giờ đã không còn sợ triều đình như xưa, đã hè nhau đứng lên đội đơn đi kiện, gây nên phong trào chống đối rầm rộ từ Nam tới Bắc.

Triều đình Hồ lo lắm không biết phải dùng biện pháp gì để “ổn định chính trị” trong nước. Muốn dùng bạo lực kiểu phát xít chuyên chính “uy quyền ở đầu nòng súng” thì cái gương Thiên An Môn ở Thiên triều còn sờ sờ trước mắt nên không dám. Còn kiểu “bàng môn tả đạo” như ám toán, thủ tiêu, cho đi mò tôm như “Bác Hồ” đã làm đối với các lãnh tụ đảng phái trước kia thì lại sợ con mắt của thế giới soi mói vào.

Dùng bạo lực không hiệu quả, triều đình xoay qua biện pháp ru ngủ nhân dân bằng cách tổ chức nhiều cuộc vui chơi để lôi cuốn bọn thanh niên vào vòng đam mê trụy lạc mà quên đi lòng yêu nước và ý chí đấu tranh.

Những cuộc thi sắc đẹp, hoa hậu được tổ chức từ quận, huyện lên tới tỉnh, rộng khắp cả nước. Rồi hoa hậu hoàn vũ, hoa hậu thế giới … triều đình cũng đều xin cho nước mình được đăng cai tổ chức, mặc cho sự tốn kém khổng lồ vô bổ. Người dân bị ru ngủ cứ đổ xô đi xem, quên hết những nhiễu nhương xã hội. Thực chất, đàng sau những cuộc thi hoa hậu, người mẫu đó là bọn đầu nậu tuyển lựa gái đẹp phục vụ cho các quan lại và đại gia. Nạn mại dâm được ngầm cho phép hành nghề bán công khai không cần phải có nghị quyết của Đảng. Triều đình còn tổ chức thể thao thi đua đá bóng rầm rộ từ trong nước ra đến các nước lân cận để cho thanh niên suốt ngày miệt mài cổ võ hoan hô mà quên thực tại nghèo đói lạc hậu.

Tiền thuế của dân đóng góp đã bị đem đổ vào chính sách ru ngủ này lên đến nhiều ngàn tỷ đồng mỗi năm.

Nguy hại ghê gớm hơn cả là triều đình đã cho xây dựng nhiều nhà máy bia, rượu khắp các tỉnh và bí mật tung ra nhiều loại nha phiến độc hại để đầu độc thanh thiếu niên, sinh viên, học sinh trong say sưa và nghiện ngập, khiến bọn chúng tiêu tan hết khả năng chống đối.

Nhưng dù triều đình của đảng Cờ đỏ có dùng đến chính sách bá đạo như vậy cũng không thể nào tiêu diệt hết những người có tâm huyết với tiền đồ dân tộc. Nhiều đảng cứu nước đã bí mật ra đời. Nhiều truyền đơn chống đối triều đình đã xuất hiện khắp nơi, ngày càng nhiều …

Tể tướng hoạn lợn Đỗ Mười lên chức Tổng bí thư, truyền chức lại cho Võ văn Kiệt. Kiệt vừa lên thay, hung hăng ký ngay lệnh “Tam thập Nhất” cho phép bắt giam bất cứ ai bị nghi ngờ là “khác chính kiến” với triều đình mà không cần chứng cớ. Người bị bắt giam vào ngục tối nhiều vô số, vẫn không diệt được cái gốc nổi loạn trong dân.

Kiệt lui về sau hậu trường, nhường ghế lại cho Phan văn Khải. Khải ngồi ghế mấy năm cũng bất lực, tình hình ngày càng thêm bất ổn. Khải đề cử tay chân thân tín của mình là Dũng tự Ba Dũng lên thay.

Dũng mồ côi cha, ngày xưa còn nhỏ đã nổi tiếng hung ác, không chịu học hành, suốt ngày dắt chó chạy vô núi săn bắt thú nhỏ để ăn thịt rồi theo bọn lưu manh côn đồ đang có án tội đi trốn, để làm liên lạc tin tức trong chuyện bất lương, cướp của giết người.

Sau ngày giặc Cờ đỏ gồm thâu cả nước, Ba Dũng bỗng nhiên thành người hiền tài của triều đình. Chỉ có mấy năm mà từ một trung sĩ y tá trở thành một trung tá y sĩ rồi chẳng mấy chốc đã trở thành Tể tướng của một nước. Có người hiểu rõ căn nguyên bảo rằng đó là hột giống của tướng Chí Thanh đánh rơi trong lúc làm nhiệm vụ tuyển và đưa “đồng nữ” ra Bắc phục vụ hộ lý cho“Bác”. Trên đường vượt Trường Sơn lâu ngày, tướng Chí Thanh đã “hộ lý” trước “Bác” nên đã có những giọt máu rơi vãi dọc đường. Ngoài Ba Dũng ra còn có Chí Vịnh cũng là em cùng cha khác mẹ. Chí Vịnh cũng được “ơn trên” ưu tiên đặc cách vào chức vụ trọng yếu của triều đình nắm giữ ngành Đô sát, có quyền sinh sát trong tay. Cả hai anh em đều kề cận với con “Bác” là họ Nông ở trên tột đỉnh triều đình. Trứng rồng lại nở ra rồng. Con vua dù rơi rớt ở dưới cống vẫn cứ là vua.

Vừa nắm quyền tể tướng, Ba Dũng lập tức đem kinh nghiệm thuở nhỏ thường chơi với chó biết rõ đặc tính và công dụng của chó đem áp dụng vào cách trị dân bèn cho họp nội các lại phán rằng:

- Đám dân đen ngoan cố phản động cũng giống như là loại thỏ, chồn, mang, mển yếu đuối và hèn luôn nhát gan sợ chết mà thôi. Muốn tìm bắt, tiêu diệt tận hang ổ của chúng, không gì hơn là dùng chó để săn đuổi.

Phán xong, Dũng ra chỉ thị cho bộ hạ tuyển chọn người có khả năng huấn luyên chó để thành lập Bộ Chó. (Nói dễ nghe một chút là Bộ Khuyển) Rất đông đảo người và chó được tuyển dụng. Bộ Khuyển được ưu đãi đặc biệt về quyền lợi còn hơn cả Bộ Nhân mấy bậc.

Nhắc lại, ngay từ đầu lúc thành lập triều đình An Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chế độ “chuyên chính vô sản” này cũng đã dùng chó săn trong việc lùng bắt giới nho sĩ và những kẻ đi “chệch hướng” với đảng rồi, nhưng chỉ kín đáo trong bóng tối thôi.

Từ đó, trong dân chúng ai có chó tốt, chó hung dữ, chó săn, chó đánh mùi, chó ngao, cả chó lác, chó má cũng đều đem cung hiến để lãnh thưởng. Có cả người không có chó cũng tình nguyện làm chó săn để phục vụ triều đình nữa.

Chó được phân chia ra làm nhiều loại, đặt tên y như người như: Chó Giao thông, Chó Cơ động, Chó Phòng cháy, Chó an ninh … Mỗi thứ chó mặc sắc phục khác nhau. Có chó mặc áo vàng, có chó mặc áo xanh …và có loại chó không mặc sắc phục để lẫn lộn trong dân để đánh hơi cho dễ. Mỗi loại tùy chức năng khác nhau để ban bỗng lộc và công việc.

Ví dụ như:

Chó có tiếng sủa bậy, sủa lâu không khản tiếng, khàn hơi, cho điều sang ngành truyền thông để làm báo và truyền hình. Ưu tiên cung ứng đầy đủ cho báo Hà Nội Mới, báo Công An Nhân dân, Công An thành phố và đài tuyền hình VTV1.

Chó có khả năng đánh hơi từ xa được cho vào Bộ Thông tin Tuyên truyền giúp hai ông Ngưu Doãn sục sạo kẻ phản động trong “Lưới nhện toàn cầu”.

Chó có tài ngồi dai suốt ngày không mỏi mệt, không lơ là chểnh mảng công vụ thì cho ngồi canh gác trước cửa các nhà dân chủ, bất đồng chính kiến.

Chó chuyên cắn trộm thì cho đi rông ngoài đường, “đón lỏng” đám người “hay có ý kiến ý cò” với triều đình để đớp vài phát vào mông cho chừa cái tật lắm mồm.

Chó có tài sủa hùa thì cho đi theo các quan lớn trong triều, mỗi bầy dăm con, để sủa hùa theo lời quan mỗi khi phán ra cho có khí thế.

Chó săn loại bẹc giê chuyên chăn cừu trên đồng cỏ thì dành cho nghiệp vụ chống biểu tình, trợ lực Nhân Khuyển trong việc đàn áp đám văn nghệ sĩ và sinh viên học sinh xuống đường.

Chó ngao là loài thính mũi đặc biệt được ngầm phái đi sâu, luồn xa vào quần chúng để ngửi ra bọn “diễn tiến hòa bình” và “hòa hợp hòa giải dân tộc”.

Còn các thứ chó má, chó lác, chó ghẻ được xếp chung vào hạng thứ bét là loài cẩu trệ thì cho đi ngậm phân tươi có trộn dầu nhớt, mắm tôm, đêm đêm đem bỏ trước cửa nhà những người tranh đấu bằng ngòi viết. Vân vân và vân vân.

Kể từ khi Tể tướng Dũng cho thành lập Bộ Khuyển và đích thân chỉ huy, thì đám quân chó cậy có chủ lớn bao che đã làm lắm điều lộng hành, ngang ngược. Chúng muốn cắn, muốn xé ai đều tùy tiện. Có lúc cắn chết cả người. Dân chúng bị chúng ức hiếp cắn càn, lắm khi đang ngồi ăn trong nhà cũng bị chúng xông vào cướp lấy thức ăn … có đưa đơn khiếu kiện nhưng đều vô ích. Chủ của chúng luôn bênh chúng và vất đơn vào giỏ rác.

Người dân vừa bị chó quấy nhiễu lại vừa đóng thuế nặng cho triều đình có đủ tiền để nuôi chúng cho béo nên lòng oán hận ngút trời.

Nhưng oán hận nhiều nhất vẫn là binh lính. Khi chinh chiến thì lính chịu khổ, chịu chết, chó vẫn ung dung ở đàng sau an lành. Trận chiến ở biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Bắc kinh, lính chết cả vạn, chó vẫn không sướt da một con. Trận chiến “vì quốc tế vô sản” ở Cam Bố Điạ, lính lại chết hơn vạn nữa, chó vẫn không rụng một cọng lông. Nhưng chó vẫn cứ được biệt đãi vì chó bảo vệ được ngai vàng của triều đình.

Quân bành trướng Bắc kinh vẫn luôn luôn thèm muốn giang sơn nước An Nam nên nhiều lấn tìm cách xâm lấn bờ cõi.

Trong trận chiến biên giới năm Kỷ Mùi và trận hải chiến Hoàng Sa năm Mậu Thìn binh lính vì phẫn hận triều đình đối xử tệ bạc với mình, chỉ chăm lo cho chó nên không có lòng đánh giặc khi thấy giặc vừa tràn tới đã bỏ chạy. Hai lần thua to vua tôi đều run sợ.

Triều đình Hồ muốn giữ vững ngai vàng muôn năm nên xin dâng đất cầu hòa, đã phải cắt đất biên giới từ ải Nam Quan cho đến thác Bản Giốc, ngoài biển thì hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dâng cho Tàu để tránh khỏi bị hỏi tội.

Được đàng chân lân đàng đầu, Bắc kinh nhận thấy triều đình An Nam toàn là bọn hèn nhát, ngu dốt lại quá tham lam chỉ lo vơ vét tài sản và sẵn sàng “bán nước cầu vinh” nên muốn xâm lấn thêm bờ cõi. Bọn chúng cho phát họa một trận chiến qui mô đầy đủ chi tiết hải lục không quân và bộ binh sẽ tấn công An Nam bất ngờ để dạy “bài học thứ hai” nếu An Nam tráo trở, không trung thành với Đại Hán, với khẩu hiệu “một trận chiến là yên” rồi thông báo rộng rãi trên hệ thống truyền thông toàn cầu.

Triều đình Bắc Bộ phủ được tin giật mình kinh sợ lập tức ra lịnh bắt lính để chuẩn bị đi đánh giặc. Dân nước An Nam bỏ trốn, không ai chịu ra lính.

Tể tướng Dũng sai quan phụ trách Bộ Khuyển đi bắt. Trong một lúc bắt được hơn trăm người đem về tra hỏi:
- Vì cớ gì mà các ngươi trốn lính?

Dân đáp:
- Ngài Tể tướng chỉ cần dùng một giống vật cũng đủ đánh nổi quân bành trướng, cần gì dùng đến lũ chúng tôi.
- Vật gì mà đánh nổi được quân giặc?
- Chó săn!
- Chó săn thì đánh giặc thế nào được?
- Chó săn đã không đánh giặc được là loài vô dụng, nay Tể tướng bỏ người hữu dụng mà nuôi dưỡng loài vô dụng, bởi thế dân chúng tôi không phục. Tể tướng có thể bỏ tù chúng tôi chứ chúng tôi nhất định không ra lính.

Tể tướng Dũng bí quá, cùng triều đình họp nhau thương nghị. Hoàng đế Nông Đức Mạnh vốn là con rơi của Hồ Chí Minh, rất ngu si và bạc nhược nhưng lại hám quyền, ngồi làm vì trong tám năm mà nói được mỗi một câu “Bỏ điều bốn là tự sát”, chỉ biết run sợ chứ không nghĩ ra được kế sách nào. Tả vương Nguyễn Minh Triết lại càng tệ hại hơn nữa, vừa ngu vừa bần, khi chu du sang nước Huê Kỳ để chiêu dụ bọn tư bản đổ tiền sang An Nam làm ăn lại mở miệng khoe con gái nước mình vừa rẻ vừa ngon, làm cho dân An Nam tị nạn ở đó xấu hổ, nhục nhã tím cả mặt, ngồi thừ mặt ra hồi lâu mới nói “các đồng chí muốn sao thì tui nhất trí làm vậy”.

Ba Dũng tuy là dân du kích, ít học nhưng tính tình nóng nảy, bộc trực, thấy hai thằng “ngợm” đến giờ phút lâm nguy, thập tử nhất sinh như vậy mà không làm được cái đếch gì bèn nổi giận, sẵn giọng to tiếng:

- Lâu này bọn Tàu khựa vẫn lăm le đòi đất Tây nguyên, nay trước tình hình nguy ngập lửa cháy đến trôn rồi, tui muốn dâng cho chúng bốn tỉnh Tây nguyên là yên bốn cõi, các đồng chí có “quyết” không?

Hai Ngài Mạnh và Triết như đang chết đuối giữa dòng, nghe Ba Dũng đưa ra “sáng kế” cứu tinh như vậy cả hai mừng quá lật đật đưa cả hai tay lên trời miệng hô to:

Quyết! Tui quyết! Thủ Dũng muôn năm! Đồng chí Dũng muôn năm!

Ngày Kỷ Hợi, tháng Canh Tuất, năm Đinh Hợi, Thủ Dũng ký Quyết định số 167 dâng bốn tỉnh Tây nguyên cho Trung Quốc nói thác ra là hai nước Việt –Trung hợp tác khai thác nhôm và tuyên bố rằng đó là “chủ trương lớn của đảng và Nhà nước”.

Cựu đại thần là tướng Giáp đã 99 tuổi, gần đất xa trời, nghe tin vội vàng dâng sớ can ngăn, phân tích rằng đó là vị trí chiến lược tối quan trọng, Tàu chiếm được hành lang Tây nguyên thì coi như là đã chiếm được nước An Nam rồi. Thêm mười nhà khoa học, bác học, học sĩ đều dâng sớ kể rõ mọi sự nguy hại về lâu dài của môi trường sinh thái, dân cư, văn hóa … dưới hạ nguồn sông Cửu Long sẽ bị hủy diệt vì chất độc do khai thác quặng mỏ Bô xít sinh ra, lợi bất cập hại.

Tất cả những bản điều trần can ngăn đó đều bị triều đình Hồ bỏ ngoài tai vì nó có đúng mấy đi nữa cũng không giúp ích trong việc giữ được ngai báu cho mình. Thà mất nước còn hơn mất đảng.
Trung Quốc lấy được Tây Nguyên mà không tốn một giọt máu, một mũi tên, viên đạn, lấy làm mừng rỡ, cho đó thắng lợi lớn nhất từ xưa đến nay bèn đặt tiệc lớn ăn mừng, mời toàn bộ các quan An Nam đến để khao thưởng.

Bộ ba Nông, Triết, Dũng cùng khúm núm trước bệ rồng tung hô vạn tuế Thiên triều, xong đọc lời chúc mừng Đại Hán đã thành công trong việc mở mang bờ cõi.

Hoàng đế Hồ Cẩm Đào mặt rồng hớn hở, rất đẹp dạ, hài lòng, đích thân ban cho “tứ hảo”: láng giềng tốt - bạn bè tốt - đồng chí tốt - đối tác tốt.Vua tôi Bắc Bộ phủ cùng bái lậy tạ ơn rồi cùng nhau trống rung cờ phất, tấu nhạc inh ỏi, cung thỉnh “bảng hạnh kiểm” về nước. Đoạn ra lệnh cho nhân dân tổ chức ăn mừng thắng lợi, nhà nhà phải treo cờ và đốt trầm hương thơm để tỏ lòng tôn kính biết ơn Thiên triều. Lại thêm: Ai trái lệnh hoặc phát ngôn bừa bãi sẽ bị nghiêm trị theo luật hình.

Trung Quốc ngay sau đó đã hối hả đem nhân công hơn sáu vạn vào đất Tây Nguyên lập thành làng xóm để ở và tàn phá hết tất cả rừng cà phê và trà của dân An Nam để khai thác quặng bô xít.
Kể từ đó, nước An Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc hoàn toàn.

Nền an ninh quốc gia luôn bị đe dọa bởi quân bành trướng Bắc kinh. Phía Bắc giáp biên giới, quân Tàu rãi dài suốt bảy tỉnh, tất cả cao điểm đều bị quân Tàu chiếm đóng. Ngoài biển Đông, trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, cờ Trung Quốc bay phấp phới trên các công sự chiến đấu được xây cất kiên cố, tàu chiến Trung Quốc thường trực tuần tra. Trên Tây nguyên, quân Trung Quốc giả dạng thường dân đi khai thác mỏ. Chỉ cần có lệnh tác chiến là sáu vạn dân công sẽ trở thành sáu vạn binh lính thiện chiến.

An Nam ở vào thế ba gọng kìm vây hãm như vậy chỉ sớm muộn đưa tay chịu trói.
Lá đại kỳ đỏ của Trung Quốc vừa mới thêm một ngôi sao vàng nhỏ nữa bao quanh ngôi sao lớn. Ngôi sao nhỏ đó sẽ tượng trưng cho một chư hầu mới đang thần phục. Tuy Trung Quốc Đại Hán không nói rõ chư hầu đó là nước nào, nhưng dân An Nam đều đau đớn nhục nhã, ngậm đắng nuốt cay, hiểu được rằng nước An Nam lại một lần nữa bị con cháu họ Hồ Quí Ly thứ hai “mãi quốc cầu vinh”, cam tâm quì gối, cúi đầu làm nộ lệ cho ngoại bang.

An Nam lại bị Bắc thuộc một lần nữa, lần thứ năm. Sinh linh An Nam lại đồ thán.

Từ đó những tổ chức phục quốc trong và ngoài nước của người An Nam yêu nước lại nổi lên khắp nơi để đánh đuổi quân ngoại xâm.

Nước An Nam lại bắt đầu trường kỳ kháng chiến gian khổ của trăm năm trước.

Người đời nay đọc đến đoạn này vừa cảm thán cho dân tộc điêu linh vừa căm tức cho lũ Việt gian cõng rắn cắn gà nhà, trợn mắt, bậm môi, nghiến răng bình rằng:

Vệ Ý công nước Vệ vì mê chơi chim hạc đến nỗi giang sơn bị quân Bắc Địch xâm lăng giày xéo nhưng giờ phút chót cũng còn biết lắng nghe lời dân mà tỉnh ngộ, đuổi hết chim hạc đi, rồi đem thân mình ra trận liều chết với quân giặc để tạ tội với muôn dân. Hành động và nhân cách của Vệ Ý công vẫn đáng được cho người đời sau ngưỡng mộ.

So với bọn vua quan triều đình họ Hồ nước An Nam lúc nắm quyền bính chỉ biết hà hiếp dân, tham lam vơ vét của cải cho đầy túi tham, lúc giặc vây ba bề, bốn phía đã không chịu nghe lời của dân mà lại ôm chặt lấy bầy chó săn cốt chỉ để bảo vệ ngai vàng, cuối cùng đám chó săn cũng không giúp được gì đành phải đem đất nước dâng cho giặc để cầu an bản thân thì nhân cách bọn chúng thua xa Vệ Ý công lắm lắm. Bọn phản quốc này đáng tội chém ngang lưng cả chín họ và ghi vào sử sách để cho người đời phỉ nhổ muôn đời.

Nguyễn Thanh Ty