Saturday, July 4, 2009

Chuột Cộng Sản - Vũ Minh Tâm

Vũ Minh Tâm

Thế giới hiện nay đang phải đối mặt với một nạn dịch vô cùng khủng khiếp, đó là dịch Cúm A H1N1. Đây là một loại Virus cúm có nguồn gốc từ loài heo, nên còn được gọi là Cúm Heo. Loại Virus này có khả năng phát tán một cách kinh khủng, và sức phá huỷ của nó đối với tế bào con người là vô cùng khốc liệt. Nếu loại dịch cúm này bùng phát trên toàn thế giới thì nó sẽ cướp đi ít nhất là vài triệu sinh mạng chứ không phải ít. Tuy nhiên, có một điều khiến nhân loại bớt đi được một phần sự hoang mang và lo lắng đối với loại Virus này, đó là việc người ta đã nhận diện được nó và đã chế ra được các thứ thuốc kháng sinh để phòng ngừa cũng như để tiêu diệt chúng.


Ơ Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y Tế, thì người ta mới chỉ phát hiện ra có trên tám chục trường hợp dương tính với Cúm A H1N1 mà thôi. Con số trên tám chục trường hợp này dĩ nhiên là có gây lo lắng nhưng ở mức độ chưa đến nỗi nào.

Cách đây không lâu, báo chí Việt nam đã gây xôn xao dư luận về việc Hải Quan Việt Nam đã dễ dàng cho nhập khẩu một loại Chuột cảnh mà chưa tìm hiểu kỹ về sinh hoạt, về khả năng mang mầm bệnh cũng như về khả năng phá hoại của chúng. Biết đâu việc nhập khẩu loài động vật gậm nhấm này lại mang đến cho nhà nông Việt Nam một đại hoạ giống như khi người ta nhập khẩu Ốc Bươu Vàng hay nhập khẩu cây Mai Dương cách đây một ít năm thì sao?

Có lẽ người Việt Nam đã quá dễ dãi hay đã quá ngây thơ khi cho nhập khẩu vào nước mình một loạt những giống vật nuôi cây trồng chẳng những chẳng mang lại lợi ích gì cho quốc gia, mà còn gây tai hoạ cho đất nước nữa là đàng khác.

Và cũng có lẽ vì sự dễ dãi và ngây thơ như vậy, nên cách nay khoảng tám chục năm, người ta đã cho nhập khẩu vào Việt Nam một loài động vật gậm nhấm mà thoạt nhìn người ta tưởng đâu là chuột cảnh, nhưng qua một thời gian chứng nghiệm người ta mới phát giác ra rằng, đó là một loài gậm nhấm vô cùng nguy hiểm. Và loài động vật gậm nhấm nguy hiểm đó không phải là cái gì khác mà là chính chủ nghĩa cộng sản.

Sở dĩ gọi cộng sản là một loài động vật gậm nhấm là bởi vì cách thức sinh hoạt và khả năng phá hoại cũng như khả năng mang mầm bệnh của chúng giống hệt như loài chuột vậy.

Để có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa và tiêu diệt được Virus Cúm A H1N1 thì trước tiên người ta phải nhận diện được chúng và phải chế ra được các thứ thuốc nhằm tiêu diệt chúng. Cũng vậy, để có khả năng ngăn chặn và tiêu diệt được một loại động vật nguy hiểm như loài chuột chẳng hạn, thì trước tiên người ta cũng phải nhận diện được chúng cũng như phải tìm ra được các phương thức để tiêu diệt chúng.

NHẬN DIỆN CHUỘT CỘNG SẢN:

Chuột, trước tiên là một loại động vật thuộc họ gậm nhấm. Đặc trưng của loài động vật này là có các răng cửa rất sắc và cứng, dùng để gặm nhấm gỗ, thức ăn, cắn kẻ thù, ăn và tàn phá các kho dự trữ lương thực của loài người, phá hoại cây trồng, đặc biệt là cây trồng của nhà nông; là nguồn gốc đưa đến việc lan truyền các dịch bệnh; thường sống ở những khu ẩm ướt, rác rưởi, sình lầy, cống rãnh, tối tăm. ..; và thường đi ăn và cắn phá vào ban đêm nhằm lúc con người đã đi ngủ.

Trong số 2.277 loài động vật gặm nhấm (theo cuốn Mammal Species of the World), thì loài chuột là loài phổ biến nhất, ta có thể bắt gặp chuùng ở bất cứ nơi ñaâu trên thế giới; là loài gặm nhấm con người ghét nhất, đến nỗi gặp đâu là người ta đánh đấy hoặc đuổi như đuổi tà. Nói về Chuột thì cũng có nhiều loại, chẳng hạn như: chuột nhắt, chuột chù, chuột chũi, chuột cống, chuột đồng, chuột nhảy, chuột lang, chuột hôi v.v. Và vì là loài gặm nhấm, nên chúng cũng có các đặc tính như: ăn tàn phá hoại, là nguồn gốc lây truyền dịch bệnh và thường hoạt động, cắn phá vào ban đêm.

Ở Việt Nam, từ khi bên Trung Quốc ban hành chính sách thâm độc “mua mèo”, đã xuất hiện “nạn chuột” hay còn được gọi là “giặc chuột”, gây ra bao nhiêu đại họa cho con người. Chuột một mình “một sân” mặc sức tung hoành phá hoại vì chẳng còn chú mèo/địch thủ nào mà sợ.

Tóm lại, khi nói tới chuột, người ta thường nghĩ tới một loài động vật gậm nhấm thật đáng gét, cần phải diệt trừ bao nhiêu có thể.

Tuy nhiên, ở Việt Nam cách đây gần 80 năm, người ta đã ngây thơ rước về một loại chuột mà thoạt nhìn người ta tưởng đâu đó là chuột cảnh, nhưng khi chứng nghiệm rồi thì người ta mới biết đó là một loài chuột “quái thai dị dạng” mặt người dạ quỷ, có sức ăn tàn, phá hoại ghê gớm chưa từng thấy; đặc biệt khi không còn “mèo”, loài chuột này một mình một địa vực thoải mái đục phá không còn sợ ai; phá hoại cả đêm lẫn ngày; phá hoại một cách ngang nhiên, trắng trợn, đó là lũ chuột CS/giặc CS.

Như đã nói ở trên, sở dĩ gọi CS là lũ chuột là vì chúng cũng có những đặc tính giống hệt nhứ các đặc tính của loài chuột vậy, tức là cũng sống chui rúc nơi những khu vực tối tăm, ẩm thấp, hôi thối; là nguồn lây lan dịch bệnh; và ăn tàn phá hoại chưa từng thấy ở loài gặm nhấm nào.

Chui rúc

Cũng giống như các loài chuột khác, chủ nghĩa CS khi vào Việt Nam, nó không thể sống đàng hoàng quang minh chính đại giữa thanh thiên bạch nhật, mà phải sống sống chui lủi, thoắt ẩn, thoắt hiện. Rừng rú, đầm lầy, cống rãnh, nhà vệ sinh công cộng v.v. là những nơi mà CS thường trú ngụ và ẩn nấp. Đêm về, CS bổ ra đường đi cắn phá, chiêu này chúng gọi là “đánh du kích”, chiến lược “cài răng lược”, hoặc đôi khi chúng “cắn quái” chúng gọi là “cảm tử quân”, trượt chân bị tai nạn chúng gọi là “lấy thân mình chèn bánh pháo” hoặc “lấy thân mình lấp lỗ châu mai”…

Đó là chuyện cách đây 34 năm rồi. Còn hiện nay, mặc dù dưới ánh sáng văn minh của nhân loại, nhưng bản chất chui lủi, rúc rỉa của CS vẫn không hề thay đổi, có chăng chỉ là thay đổi về hình thức để phù hợp với cách thức chui rúc kiểu mới mà thôi. Chúng chui rúc ngụy trang dưới bình phong “độc lập dân tộc”; dưới lớp vỏ dân chủ “của dân, do dân và vì dân”; “núp bóng cái chân, cái thiện, cái chính trực để tung hoành một cách hợp pháp như một lối sống đương nhiên mà ai cũng phải chịu đựng”(GS Nguyễn Huệ Chi); dưới các lớp rừng luật pháp tự chúng “trồng” ra; dưới các lớp bằng cấp, học vị “giấy”, “tiến sĩ giấy”, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, “ông thánh” mà chúng tự phong cho nhau; trong những bộ com-lê, xe hơi, chuyên cơ, biệt thự/khu nghỉ mát sang trọng; dưới lớp vỏ “những kẻ đạo mạo, ăn mặc vào loại tươm tất, nhiều kẻ không thiếu những từ văn hoa khi nói với người khác, chúng luôn luôn cho mọi người cảm giác đang cống hiến sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp… Chúng toàn chén những thứ thơm tho, béo bổ, quý hiếm... thuộc hàng cao lương mỹ vị…” (Ta Duy Anh)(1). Chúng núp dưới những kế hoạch/dự án quy hoạch, mở rộng, đập cũ, xây mới v.v. để đục rỗng xương tủy của dân tộc. Chúng còn núp dưới bóng ô lọng của nhau, che chắn cho nhau đục khoét phá hoại. Nguy hiểm nhất là chúng núp dưới bóng “anh hai” Tàu cộng để tồn tại. Chúng tìm cách hiến đất hiến biển hiến đảo, hiến Tây Nguyên và tiến tới hiến cả đất nước này, dân tộc này cho lũ “anh hai”/chuột cống có cùng nòi giống giống như chúng, cốt sao lũ “anh hai” này chấp nhận làm “quan thầy” cho chúng để chúng có thể “tựa đầu” vào “anh hai” mà tồn tại và mặc sức ăn tàn phá hoại.

Bản chất chui rúc này của lũ CS sẽ không bao giờ thay đổi! Hơn nữa chúng cũng không bao giờ muốn thay đổi, vì khi thay đổi, bản chất xấu xa, đê tiện, ác quỷ… của chúng sẽ lộ nguyên hình, chúng sẽ không thể lừa dối được ai nữa và như vậy chúng chỉ còn con đường chết hoặc “tự sát”(2). Bao lâu chúng còn chui rúc được, bấy lâu CS còn có thể tồn tại.

Nguồn lây lan dịch bệnh

Bên cạnh đặc điểm và “tài” sống chui rúc nói trên, CS còn là nguồn lây lan của các loại dịch bệnh, mà toàn những loại dịch bệnh kinh khủng. Hơn nữa, mỗi một con chuột CS lại chính là một con “virus” có hình người. Vì thế, thật khốn cho dân tộc nào gặp phải dịch bệnh từ lũ chuột CS, như Việt Nam chẳng hạn!

Ngay từ khi loài chuột này xuất hiện ở Việt Nam, nó đã mang đến cho dân tộc Việt Nam một đại dịch có sức tàn phá nặng nề, cướp đi hàng triệu sinh mạng của người dân. Dân tộc Việt Nam từ lúc hình thành đến nay chưa bao giờ gặp phải một đại dịch lớn, hung ác và có sức hủy diệt như vậy. Dịch bệnh này có tên là Mác-Lê, có người còn gọi là “tà dịch/ôn dịch CS”.

Tà dịch này, nhờ lũ chuột CS, nó lây lan một cách khủng khiếp ở Việt Nam. Có những “đợt” dịch lên đỉnh điểm, điển hình là vào năm 1954-1956. Đợt dịch này có tên là “Cải cách ruộng đất” đã cướp đi hàng trăm ngàn sinh mạng vô tội (Cộng sản tổ chức những cuộc đấu tố kéo dài từ năm 1954 đến năm 1956 mà thành phần bị đấu tố là: "Tri, Phú, Địa, Hào, tôn giáo lưu manh" trong hai năm đấu tố Cộng sản đã giết 700.000 người dân vô tội)(3). Tiếp theo đợt dịch này, một đợt dịch điển hình khác, kéo dài hơn ¼ thế kỷ, mãi tận đến ngày “quốc nhục” 30/04/1975 mới tạm lắng xuống. Đợt dịch này có tên là “nồi da nấu thịt” (cũng có người gọi đợt dịch này là “nội chiến”). Đợt dịch bệnh này đã cướp đi hằng triệu sinh mạng của người dân từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa đến vùng núi, nông thôn hẻo lánh. Bầu khí tang tóc, đau thương tràn ngaäp khắp cõi Việt Nam; đâu đâu cũng gặp những cảnh mẹ mất con, con mất cha, vợ mất chồng, em mất anh… Thật thê lương!

Tà dịch CS ở VN đã cướp đi 1.670.000 (4) mạng người, chưa kể đến hàng triệu con người khác ñaõ trở nên thương tật suốt đời cộng với những di chứng không thể khắc phục được để lại cho các thế hệ sau, và hằng hà sa số người dân “rơi” vào cảnh tù đày một cách vô cớ, không hề có xét xử, điều tra.

Tà dịch này gây khủng khiếp đến nỗi mà sử gia Rudolph J. Rummel đã phải thốt lên trong sách "Death by Government" rằng: “Tội ác CS đã gây ra những con số chết chóc khủng khiếp cho chính dân chúng của họ, có lẽ chỉ có ác thú mới làm được”. Đúng vậy, chỉ có cụm từ “ác thú” mới có thể diễn tả được nổi bản chất độc ác của cs khi chúng gây ra những sự chết chóc cho dân lành !

Mặc dù trung tâm “ổ dịch”, nguồn gốc của sự phát sinh và lây lan đã bị nhân loại tiêu diệt cách đây 20 năm rồi (thế giới giờ đây chỉ còn một việc là chữa lành những vết thương do đại dịch này gây ra mà thôi), nhưng loại dịch bệnh này laïi vẫn còn đang hoành hành một cách mạnh mẽ ở Việt Nam; những xú khí, tà khí của tà dịch này vẫn đang trào ra ở dải đất hình S của 87 triệu người Việt này.

Một trong những lý do làm cho loaïi dịch bệnh này vẫn còn tồn tại dai dẳng ở Việt Nam maõi cho đến nay, đó là vì loài dịch bệnh này gồm những con virus/con chuột có hình người và có cách biến hóa khôn lường. Hãy lắng nghe một con chuột/virus CS nói với đồng bọn rằng “… phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết…phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả… và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ” (Nguyễn Tâm Bảo) (5). Mặc dù thay da đổi thịt, nhưng bản chất phá hoại, nguy hiểm của những con virus/lũ chuột này không hề thay đổi. Nhưng tôi nhận xét rằng: “Khi không còn sự hậu thuẫn của thành trì Xã Hội Chủ Nghĩa, con thú dữ đã bị bẻ nanh vuốt, con Kỳ Nhông đã phải đổi mầu để tồn tại và thích nghi với môi trường mới, nhưng bản chất của nó vẫn không thay đổi” (Vương Định) (6).

Như vậy, nhờ biết cách biến hóa, thay da đổi thịt khôn lường, mọc đuôi, thêm cánh, loại virus của dịch bệnh này càng có thể sống dai hơn, khôn ranh hơn. Sự thay đổi này kéo theo sự thay đổi về tên gọi của loại dịch bệnh này. Trước đây nó được gọi là “Mac-Lê”, sau này nó mọc thêm đuôi, thêm cánh trở thành cái tên quái thai, dị dạng, hổ lốn đúng như chính bản chất của nó, là “Mác-Lê-Mao-tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Mặc dù ôn dịch CS hiện nay không gây chết người ngay lập tức, nhưng nó đang làm tê liệt con người; làm cho con người mất sức phản kháng, đấu tranh; truyền nọc độc cho con người bằng hình thức giáo dục, tuyên truyền “nhồi sọ” một chiều; độc đoán, khống chế con người, làm cho con người mất ý thức hoặc mơ hồ về quyền làm người của chính mình. Cứ như vậy, loại ôn dịch CS vẫn còn tiếp tục kéo dài maõi, vaø CS vẫn còn sống nhăn ra ñaáy, cöù tieáp tuïc phaù hoaïi maõi.

Phá hoại

Chuột là một loại động vật có khả năng sinh sản ở mức khủng khiếp. Nếu không bị tiêu diệt thì chỉ cần một thời gian ngắn thôi, từ một cặp chuột bố mẹ có thể sản sinh ra hàng triệu con chuột. Chính sự sinh sôi nảy nở với mức kinh khủng như vậy mà sự phá hại của chúng trở nên nguy hiểm hơn bất cứ mọi loài động vật nào. Với chuột CS thì từ khi được nhập khẩu vào Việt Nam tới nay, nó đã sinh sôi nảy nở được tới gần 4 triệu con với đủ các loại: chuột nhắt, chuột chù, chuột chũi, chuột cống, chuột đồng, chuột nhảy, chuột lang, chuột hôi…; chuột ông chuột bà, chuột cha chuột con, chuột cháu chuột chắt v.v., và mặc sức phá hoại. Đặc biệt, như đã nói ở trên, khi lũ chuột này không còn “mèo” trong địa hạt của chúng (khi chúng đã cướp được quyền lực với lực lượng quân đội, cảnh sát hùng hậu), chúng không còn đối thủ nào nữa, không còn sợ ai nữa, một mình một sân, thì chúng mặc sức ra tay vơ vét của cải, phá hoại dân tộc, đất nước, đưa dân tộc đi từ thảm họa này đến thảm họa khác.

- Phá hoại nền đạo đức

Nói đến sự phá hoại của lũ CS ở Việt Nam thì đầu tiên phải kể đến sự phá hoại của nó về nền đạo đức xã hội. Loài chuột thông thường thì không thể cắn phá những cái gì phi vật chất, phi vật thể, ấy vậy mà lũ chuột CS lại có thể phá hoại được những điều đó như tôn giáo, đạo đức, văn hóa…. Đây cũng chính là điều nguy hiểm nhất của lũ chuột CS.

Ngay từ ban đầu khi vào Việt Nam, lũ chuột CS đã tìm đủ mọi cách, mọi thủ đoạn để triệt tiêu những gì được coi là chuẩn mực đạo đức, truyền thống dân tộc, văn hóa kết tinh từ ngàn đời, đặc biệt là các tôn giáo để nó gieo rắc và thay thế bằng một thói “đạo đức” mới mà chúng gọi bằng một cái tên nghe coù veû raát mỹ miều là “đạo đức cách mạng” - đạo đức của kẻ cướp! và một thứ ý thức hệ - tôn giáo tôn thờ bạo lực trong đó giáo chủ của chúng là những kẻ giết người, khát máu, thèm khát quyền lực, hòng nô dịch con người về mặt tư tưởng. Thậm chí khi cướp được chính quyền, chúng còn ngông cuồng bắt cả thần, thánh phải nghe theo nó: “… Khi đã thâu tóm được quyền bính, bắt tất thảy mọi người mọi tầng lớp xã hội phải qui phục Đảng. Chưa vừa lòng, họ đang toan tính bắt cả thần Phật, thánh chúa phải trong vòng cương tỏa của kẻ độc tài...” (Vương Định).

Lũ chuột CS hiểu hơn ai hết rằng muốn phá bỏ được truyền thống đạo đức, văn hóa, thì phải phá bỏ được tôn giáo vì tôn giáo là sự kết tinh của dân tộc, gồm cả những giá trị văn hóa và đạo đức, trong đó đạo đức được đặt lên hàng đầu ở bất kỳ tôn giáo nào. “Tôn giáo là nền tảng tư tưởng cho một xã hội đi theo hướng phát triển có tính tích cực, tôn giáo đem lại cho xã hội sự yên lành hạnh phúc và những giá trị về đạo đức, hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mĩ. Thượng tôn đạo lý chính nghĩa…tôn giáo là tài sản vô giá của xã hội, của dân tộc…” (Như Hà) (7). Cho nên 70 năm qua, lũ chuột CS ở Việt Nam đã ra sức cắn phá điên cuồng tôn giáo bằng mọi hình thức và thủ đoạn. Hậu quả là làm cho xã hội Việt Nam có một lỗ hổng lớn về tôn giáo, đạo lý, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con người trong xã hội mất phương hướng, không biết đâu là chuẩn mực đạo đức, đạo đức bị xuống cấp trầm trọng, mạnh ai nấy sống; con người chà đạp, dối trá, chém giết nhau mà sống; con người tôn thờ bạo lực, đồng tiền, sống thác loạn, “khiến hiện nay VN như là một vùng đất chết, đen tối đầy tệ nạn, đạo đức nhân bản đã mất hết, cái dư âm của “cải cách ruộng đất”, hệ thống “công an trị” đã khiến hiện nay, từ gia đình ra đến xã hội, tất cả chỉ là nhòm ngó lẫn nhau, sẳn sàng tố cáo chà đạp lên nhau, tham nhũng để sinh tồn, thậm chí đụng đâu lừa đó kể cả người thân họ hàng hay bạn bè. ..” (Nhất Thanh) (8). Trên các trang báo ngày nào cũng có những tin như: mẹ ném con xuống sông, bố giết con, ông giết cháu, con giết bố giết mẹ, giết người cướp của, tống tiền, hiếp dâm, mại dâm, hút chích, cờ bạc ... Đặc biệt tình trạng nạo phá thai ở Việt Nam hiện nay đang ở mức báo động cao nhất, nhất là ở lứa tuổi vị thành niên: “… mỗi năm toàn quốc có 1,2 - 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó 20% ở lứa tuổi VTN, và là một trong ba nước có tỉ lệ phá thai cao nhất thế giới” (9).

Sự tha hóa đạo đức đã trở nên nghiêm trọng đến mức mà GS Nguyễn Huệ Chi đã phải thốt lên rằng: “…người ta đã quá quen với kiểu hành xử dung dưỡng cho cái ác, cái tham, cái dối trá, cái bợ đỡ, cái hèn hạ…sự khủng hoảng đạo đức trong xã hội chúng ta đã vượt khỏi cái ngưỡng mà như một quy ước vô ngôn, mọi xã hội văn minh không bao giờ cho phép vượt. Hãy cứ nhìn vào nhiều ngõ ngách của đời sống, bất cứ vùng miền nào cũng diễn ra như cơm bữa những chuyện nhức nhối mà lý trí thông thường không thể giải thích, đôi khi có cả những chuyện tưởng chừng đã chạm đến bản năng sinh tồn nó phân biệt con vật với con người” (10).

Không một dân tộc nào, một quốc gia nào có thể đứng vững và phát triển được khi đạo đức bị suy đồi, luân lý bị chối bỏ, niềm tin bị chà đạp và bị thay vào đó bằng sự vô luân, vô thần, gian dối, bạo lực; chân lý thuộc về kẻ mạnh, kẻ ác, kẻ man rợ. Một xã hội như thế là một xã hội đã chết và đang thối rữa, một xã hội như thế là một địa ngục kinh hoàng. Lũ CS đã đầu độc dân tộc này bao lâu thì cũng cần phải mất ngần ấy thời gian để tẩy rửa và khắc phục nó.

- Phá hoại văn hóa và lịch sử

Một trong những thủ đoạn để đánh phá tôn giáo của lũ CS là chúng đập phá, cướp bóc tài sản của nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo, “... tượng Phật Bồ Tát bị đập phá, chùa lấy làm kho chứa lúa, chứa phân, làm chuồng heo, hoặc cày ủi lấy đất canh tác, các trung tâm văn hóa của giáo hội thì bị tịch thu…” (Huynh Trưởng GĐPT Hồ Tấn Anh). Kết quả là một loạt các nơi thừa tự/di tích văn hóa lịch sử của tiền nhân để lại đã bị lũ CS phá hoại.

Khi mở cửa ra bên ngoài với các dân tộc tiên tiến, dưới ánh sáng văn minh, tưởng rằng lũ CS sẽ biết từ bỏ bản chất phá hoại của mình, ngờ đâu lũ chuột vẫn là lũ chuột, lũ CS vẫn là lũ CS, chúng phá hoại với những thủ đoạn và mánh khóe mới, tinh vi hơn.

Dưới chiêu bài trùng tu các di tích văn hóa, chúng lập các dự án to, dự án nhỏ để tìm kiếm vàng bạc châu báu vì chúng nghĩ rằng ở dưới các di tích này được chôn nhiều vàng bạc châu báu và nhờ có dự án chúng có cớ đển ăn chia, tham ô, đục khoét. Có người xót xa nhận xét: “Chỉ vì đập đi xây lại được nhiều tiền, kiếm được nhiều tiền, nhiều người nhẫn tâm đập đi cái văn hóa Việt hàng trăm năm. Chua chát và đau xót khi nhìn thấy những nét cổ kính còn sót lại sau hai cuộc chiến tranh giờ lại bị những kẻ hám tiền và ngu dốt đập nốt” (11). Ngay cả những nơi được gọi là thánh thiêng nhất, ẩn khuất nơi rừng thiêng như “nơi vua Trần Nhân Tông vĩ đại đã tu, đã ngồi thiền và viên tịch như am NNgọa Vân, chỗ nào cũng bị cạy bới, đào phá. Họ bới xá lỵ tìm vàng bạc, tìm chum choé cổ. Đập bia, móc từng mảng tường, đào cả nền móng những cái am mà Phật hoàng từng thiền (am Thiên Sơn Tử, Am Thiền Định). Ngựa đá cũng bị đập tan tành. Các mộ tháp bị khoét sâu như hầm lò, đường ngang ngõ tắt dưới lòng đất hun hút như ... địa đạo. Tấm bia nổi tiếng do chúa Trịnh Căn cho dựng để kỷ niệm việc ông đưa các bậc vương hầu, công chúa lên chiêm bái nơi Phật hoàng viên tịch cũng bị đập phá thành hàng chục mảnh. Cả vườn mộ tháp bên rừng thông trước am, cách đây chục năm vẫn uy nghi một góc trời, giờ bị đào bới đổ hoàn toàn”(12). Cảnh đập phá các di tích đang diễn ra phổ biến ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam này. Thậm chí bất cứ di tích lịch sử nào cũng có thể bị đập phá, ngay cả “đền thờ Lý Chiêu Hoàng, người ta đang tâm đập phá tháo dỡ để "làm lại" thì kinh hoàng quá!” (13). Có những di tích lịch sử văn hóa chúng không đập phá ngay được, thì chúng lại làm cho biến dạng hay lấn chiếm. Ngay cả “đến tháp Hòa Phong và Tháp Bút ở bên cạnh Hồ Gươm cũng bị vạch khắc lên hàng trăm dòng chữ bẩn thỉu, hoặc như chùa Hàm Long bị lấn chiếm vô tội vạ mà chẳng một ai đoái hoài” (14).

Ai cũng có thể nhận thức được rằng các di tích/di sản văn hóa của tiền nhân để lại bản thân nó đã là một kho báu, tài sản vô giá. Tiền nhân không chỉ để lại cho một hoặc hai thế hệ, một hoặc hai triều đại, mà các ngài để lại cho muôn thế hệ con cháu. Đáng tiếc lũ CS đã phá hoại gần hết và vẫn tiếp tục phá hoại. Con cháu sẽ lấy gì để mà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn minh của dân tộc mình; thế hệ mai sau seõ lấy gì để tự hào về truyền thống lịch sử văn hóa bốn ngàn năm văn hiến, văn vật? Nếu chúng ta không lên tiếng, không có hành động ngăn chặn sự phá hoại của lũ CS, chúng ta sẽ thưa gì đây với liệt tổ liệt tông, chúng ta sẽ phải ăn nói như thế nào với thế hệ con cháu tương lai!?

- Phá hoại tài nguyên môi trường

Bên cạnh sự phá hoại các tài sản có tính văn hóa lịch sử của cha ông, lũ CS còn ăn tàn phá hoại tài nguyên mà cha ông đã mất bao xương máu để bảo vệ và duy trì nó.

Từ Bắc chí Nam, từ biển cả hải đảo xa xôi đến tây nguyên rừng núi, không một nơi nào lũ CS không đào bới lên. Có những nguồn tài nguyên tự bản thân chúng, chúng không thể đào bới được do ngu dốt, nhưng chúng cũng không tha, chuùng ñaõ đưa những lũ CS ở phương khác tôùi ñeå giúp chúng đào bới roài cùng ăn chia. (Điển hình gần đây nhất là chúng “rước” lũ CS Trung cộng vào đào bới bauxite ở Tây Nguyên) (15). Dẫn đến không những nguồn tài nguyên bị phá hoại, môi trường bị tàn phá, mà còn dẫn đến nguy cơ mất nước, tan nhà.

Còn nguồn tài nguyên nào nữa mà lũ CS không phá hoại!? Hậu quả của sự phá hoại của lũ CS này làm cho nguồn tài nguyên bị kiệt quệ. Còn đâu những rừng vàng biển bạc! Giờ chỉ còn những cánh rừng xơ xác với đồi trọc núi trơ là nguồn hiểm họa, tai ương, lũ lụt, hạn hán cho con người. Những dòng sông chết, biển chết mỗi ngày thêm dài, thêm rộng. Sự thật này đang hiển hiện và tác động đến từng hơi thở, thớ thịt của mỗi người dân đang sống trên mảnh đất hình chữ S này.

- Phá hoại nền kinh tế

Bên cạnh việc phá hoại tài nguyên môi trường, lũ CS còn phá hoại đất nước, dân tộc bằng việc đập nát cơ cấu kinh tế xã hội vốn đang phát triển theo hướng văn minh và quy luật lịch sử chung của nhân loại, đưa dân tộc trở về thời kỳ nguyên thủy lông lá.

Khi lũ CS đã cướp được chính quyền ở VN, chúng thực hiện chính sách bần cùng hóa và ngu dân để chúng dễ bề thống trị, bằng cách tiến hành phá hoại kinh tế xã hội và tiêu diệt trí thức có hệ thống. Điển hình là ở miền Bắc chúng tiến hành thực hiện chính sách đấu tố địa chủ với khẩu hiệu: “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc”. Thủ đoạn này của lũ CS không chỉ làm cho hàng trăm ngàn người chết oan, mà tạo ra một xã hội hỗn loạn, những người có khả năng làm ra của cải vật chất cho xã hội thì bị tận diệt, bị tước đoạt phương tiện sản xuất. Tiếp theo, lũ CS “lùa” cả dân tộc VN vào cái được gọi là “hợp tác xã” với mô hình “kinh tế tập thể”, “bao cấp” để chúng dễ bề thao túng, kiểm soát và thống trị. Kết quả của chính sách này laø đem cả dân tộc xuống vực thẳm của đói nghèo và tụt hậu. Còn ở miền Nam, sau khi cướp được, chúng tiến hành các cuộc thanh trừng và “tẩy não” tầng lớp tư sản, dẫn đến một loạt caùc nhà máy, cơ sở sản xuất bị đóng cửa, máy móc sản xuất trở thành những đống sắt vụn; thay vào đó, một loạt các nhà tù, trại cải tạo mọc lên. Những người biết làm ra của cải vật chất, biết làm kinh tế bị giết hại, tù đày, bị đưa đi “tẩy não” hoặc phải chạy trốn ra nước ngoài. Đến nay người đời vẫn còn ngâm những câu thơ như:

“Tất cả là tại vua Hùng!
Sinh ra một lũ vừa khùng vừa điên
Đứa khôn thì đi vượt biên
Những thằng ở lại toàn điên với khùng!”

Đến nay, tình trạng này vẫn còn tiếp tục diễn ra, nhưng ở một dạng thức mới. Nhiều người chạy trốn CS dưới hình thức du học, tu nghiệp ở nước ngoài và khi học xong thì tìm đủ mọi cách ở lại nước đó. Hiện tượng này hiện nay được gọi là “chảy máu chất xám”, và tình trạng chảy máu chất xám càng ngày càng nghiêm trọng.

Lũ CS ở VN chỉ biết giỏi dùng bạo lực, lừa đảo và phá hoại thôi, còn chuyện làm ăn kinh tế thì chúng không hề biết gì. Chúng phá hoại cơ cấu kinh tế cũ nhưng khi phá xong chúng không biết phải làm gì tiếp theo, nên chúng dùng cả dân tộc vào làm vật thí nghiệm, đưa dân tộc từ tai họa này đến tai họa khác và chúng rập khuôn một cách mù quáng các chính sách chết người của lũ cs ñaøn anh.

Tưởng rằng khi cái học thuyết khốn nạn chúng đang tôn thờ vaø theo đuổi bị nhân loại bỏ vào sọt rác lịch sử cách đây 20 năm rồi, thì chúng sẽ mở mắt ra trở về với con đường sáng; bắt tay, giao lưu và hội nhập với thế giới văn minh, tiến bộ, chúng sẽ “buông tha” cho dân tộc, nhưng ngờ đâu lũ CS ở VN vẫn không buông tha cho dân tộc VN, vẫn “kiên trì con đường XHCN” (16) với mô hình kinh tế quái thai dị dạng “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, giống như kiểu đi xe honda “vừa tăng ga, vừa đạp thắng”, như vậy chỉ làm cho động cơ mau hỏng mà thôi. Sở dĩ nền kinh tế quái thai dị dạng không giống ai này vẫn còn thoi thóp sống như ngày này là do chúng vẫn còn được nuôi bởi ba nguồn tài chính khổng lồ đó là: tiền bán tài nguyên, tiền viện trợ/vay vốn từ các nước văn minh và nguồn kiều hối khổng lồ (17). Chỉ cần cắt một trong ba nguồn tài chính vừa nói trên thì nền kinh tế quái thai này sẽ tắc tử ngay lập tức (vừa qua chỉ cần một nhà tài trợ Nhật Bản bất ngờ tuyên bố tạm dừng viện trợ ODA cho đến khi nào Việt Nam có biện pháp hữu hiệu giảm trừ tệ nạn tham nhũng đã làm cho lũ CS ở Việt Nam hoảng sợ và bối rối. Một loạt các “ông to bà lớn” lần lượt sang Nhật Bản cúc cung “van xin”, hứa hẹn, cam kết này nọ…, hòng để được Nhật Bản nối lại viện trợ. “Vào lúc 17h30 chiều 23.2 tại Thủ đô Tokyo, sau cuộc hội đàm với Bộ trưởng Bộ KHĐT Việt Nam Võ Hồng Phúc, Ngoại trưởng Nhật Bản Nakasone đã chính thức tuyên bố việc Chính phủ Nhật Bản đã quyết định nối lại viện trợ ODA cho Chính phủ Việt Nam” (18). Lũ CS ở VN đón nhận sự kiện này như là một tin thắng trận, một đại tin mừng!)

Hậu quả của sự cố chấp và mù lòa của lũ CS áp đặt lên dân tộc Việt Nam nói trên là: mặc dù nhân loại đã bước vào năm thứ 10 của ngàn năm thứ III rồi, mà dân tộc Việt Nam vẫn tụt hậu, nghèo đói và loay hoay trong cái bị rách vá chằng chịt của lũ CS. Không cần so sánh đâu xa, chỉ cần so sánh với các dân tộc xung quanh thôi, ngöôøi ta thaáy họ đã bỏ xa dân tộc Việt Nam hàng thế kỷ (19).

- Phá hoại tương lai bằng nguồn vốn đi vay

Hơn nửa thế kỷ qua lũ CS đã phá hoại, đục khoét tận xương tủy đất nước, nhân dân; làm cho đất nước trở nên nghèo nàn, lạc hậu vào bậc nhất thế giới. Sự nghèo đói này đã khiến cho thế giới văn minh cảm thấy “thương hại” cho con dân đất Việt, họ đã giúp đỡ bằng cách cho vay những khoản vay ưu đãi: ODA.

Nguồn vốn này đáng lẽ phải được tận dụng tối đa phể xây dựng và phát triển đất nước và con người, nhưng đáng tiếc, với bản chất phá hoại, lũ CS nào không “tha”, không trừ bất cứ một miếng mồi nào, đặc biệt là những miếng mồi ngon, nóng hổi, dễ xơi như nguồn vốn ODA từ các nước tư bản. Chúng tìm cách ăn chia, xâu xé, đục khoét và chiếm đoạt nguồn vốn này dưới mọi hình thức. Bản thân một tên CS, Tào Hữu Phùng (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và ngân sách của Quốc hội) cũng phải thốt lên rằng: "Điều tôi cảm thấy đau xót nhất hiện nay là người ta xem vốn vay ODA như "của chùa"" (20).

Lũ CS đang đục khoét nguồn vốn ODA là đang đưa dân tộc Việt Nam vào con đường nợ nần, đang chồng chất gánh nặng nợ nần lên vai các thế hệ tương lai. Vốn ODA không phải là vốn cho không, vốn từ thiện, mà là vốn vay. Mà đã vay thì phải trả, và phải trả cả gốc lẫn ngọn. Chính lũ CS cũng ý thức rất rõ về điều này: “trong khi đó chúng ta nên nhớ rằng đây là vốn vay ưu đãi, trong 5-10 năm nữa chúng ta sẽ phải lấy vốn ngân sách ra để trả và lúc đó nếu chúng ta không quản lý tốt điều này thì con, cháu chúng ta sẽ phải è lưng trả nợ” (Tào Hữu Phùng). Vào năm 2003 dân tộc Việt Nam đã nợ nước ngoài hơn 15 tỷ USD, đến năm 2005 con số nợ tăng lên 20 tỷ USD tương đương 40% tổng thu nhập quốc dân (21), đến nay con số này lên tới trên 30 tỷ USD. Số nợ nần này mỗi ngày một lớn dần. Tính bình quân, đến năm 2005 mỗi người Việt Nam trong độ tuổi lao động đang cõng trên lưng khoản nợ nước ngoài tương đương trên 40 USD (22) và hiện nay là 65 USD.

Ngoài những thứ lũ CS phá hoại vừa nêu trên, thử hỏi trên đời này, trên mảnh đất hình chữ S này còn cái gì mà lũ CS không phá hoại!? Rồi đây, những thế hệ con cháu tương lai khi chúng chưa kịp mở mắt chào đời, chúng đã phải vác trên mình cái nợ nước ngoài do lũ CS vay về phá hoại. Các thế hệ tương lai này sẽ biết xoay sở như thế nào đây với đống nợ như núi mà lũ CS để lại với một đất nước hoang tàn đổ nát; nguồn tài nguyên bị khai phá không còn gì; rừng núi, sông ngòi, biển cả ô nhiễm trở thành vùng đất, vùng biển chết; với một nền kinh tế chắp vá; và một xã hội suy đồi về đạo đức!?

Như vậy, với những gì mà chúng ta vừa biết được về chuột cs, chúng ta thấy rằng, đây là một lũ chuột rất tinh ranh và nguy hiểm, cần phải có những hành động thiết thực đối với lũ chuột này.

PHÒNG VÀ DIỆT TRỪ CHUỘT CỘNG SẢN

Loại trừ lũ chuột, lũ giặc CS bằng cách nào là câu hỏi lớn đang làm nhức nhối đối với tất cả những ai yêu nước, yêu dân tộc; đối với những người không bị liệt kháng, ngộ độc; và cả đối với những người đã tỉnh mê sau khi bị lũ CS đầu độc, nhất là khi lũ giặc CS đã hủy hoại đất nước này, dân tộc này đến mức không còn thể hủy hoại hơn được nữa, làm tê liệt đến nỗi dường như không thể đứng lên được nữa. Để trả lời được câu hỏi trên thì những vẫn đề sau đây cần phải được thực hiện ngay bây giờ.

- Không được sợ hãi

Để có thể tiêu diệt được lũ chuột CS, trước tiên cá nhân của mỗi con người phải vượt lên trên sự sợ hãi của chính bản thân mình. Sự sợ hãi làm cho con người không dám phản kháng, chấp nhận tất cả, kể cả những điều tồi tệ nhất. Không phải bạo lực có thể giết chết con người mà chính sự sợ hãi của con người giết chết con người. Bà Aung San Suu Kyi, người được giải Nobel Hòa Bình năm 1991, đã nói một câu bất hủ: "Không phải cái Quyền hủy diệt con người, nhưng chính là cái Sợ". Đối với bà Aung San Suu Kyi, cái sợ mới là điều nguy hiểm nhất, vì nó làm cho con người chấp nhận tất cả những gì lẽ ra không thể chấp nhận. Nói cách khác, vì sợ, con người trở nên hèn. Ngược lại, khi không còn sợ, con người trở nên can đảm (23). Chính vì ý thức được sự quan trọng của can đảm, không sợ hãi, mà Đức Giáo hoàng Jean Paul II, khi vừa mới lên ngôi, trở về thăm Ba Lan, quê hương của Ngài đang đấu tranh chống lại cộng sản độc tài và sự hăm dọa của Liên Xô gửi quân sang đàn áp những nhà dân chủ ở Ba Lan, Ngài đã tuyên bố: “Hãy can đảm! Đừng sợ xệt! Hãy hy vọng!” (24). Câu nói này của ĐTC như một luồng sinh khí thổi tận đến tâm can sâu thẳm nhất của từng người dân Ba Lan, làm bùng lên sức mạnh của can đảm. Sự sợ hãi trước đây của người dân Ba Lan đã được thay bằng sự cam đảm. Chính nhờ điều này mà người dân Ba Lan quét sạch lũ CS và thành trì CS bị sụp đổ hoàn toàn cách đây 20 năm.

Hiện nay số lượng những người không còn sợ lũ CS ngày càng lớn mạnh. Điển hình gần đây nhất là Đức TGM Ngô Quang Kiệt, “vị giám mục đầu tiên cả gan chặt đứt sợi dây thừng vừa nói là đức cha Giu-se Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Hà Nội, qua việc phản bác cơ chế xin-cho…” (Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh). Ngài đã can đảm công khai đòi quyền làm người trước lũ quan chức CSVN đang lăm le ăn tươi nuối sống Ngài. Tiếp theo, là các Linh mục DCCTVN như LM Vũ Khởi Phụng, Lê Quang Uy, Nguyễn Văn Khải v.v. đã can đảm đòi công lý, sự thật; các luật sư Lê Trần Luật, Lê Công Định v.v đã can đảm làm chứng cho sự thật, loan báo sự thật; và hàng ngàn người công giáo bất chấp bạo lực, súng đạn, dùi cui, hơi cay, thủ đoạn của lũ CS đã lên đường đòi công lý. Và ngọn đèn đòi/tìm công lý này bắt đầu từ TKS lan tỏa đến Thái Hà rồi tiếp tục lan tỏa đến khắp chốn ở Việt Nam. Ngọn đèn này đang rực cháy sáng hơn bao giờ hết.

Chính điều này đã làm cho chính lũ CS phải lo sợ. Chúng ta càng can đảm bao nhiêu thì lũ CS lại sợ bấy nhiêu. Như vậy sự sợ hãi này của lũ CS sẽ là nấm mồ ñeå chôn chúng.

- Tẩy chay hệ thống tuyên truyền của lũ CS

Khi chúng ta đã rũ bỏ được nỗi sợ hãi chuột CS, chúng ta có đủ can đảm để đối diện vaø đương đầu với chúng, và chúng ta có thể tiêu diệt được chúng. Để tiêu diệt được lũ chuột CS, trước tiên chúng ta phải đề phòng những dịch bệnh nguy hiểm từ chúng. Con đường truyền nhiễm chủ yếu của lũ CS là thông qua sự tuyên truyền láo lếu, bịp bợm, nhồi sọ một chiều của chúng. Như vậy, để không bị truyền nhiễm thì chúng ta phải tránh xa sự tuyên truyền của chúng. Nói cách khác chúng ta phải đoạn tuyệt với hệ thống tuyên truyền tức là đài báo của chúng. Cụ thể là chúng ta phải tẩy chay “700 cơ quan báo chí in, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất, 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản” (theo báo cáo Nhân quyền của VN tại Hội đồng LHQ tại Geneva, Thụy Sỹ, 08/05/2009).

- Tìm kiếm sự thật và loan truyền sự thật

Với mạng lưới báo đài cùng với đội ngũ bồi bút của lũ cs hùng hậu nói trên đã giăng kín mít khắp dải đất hình chữ S này rồi, thêm vào nữa người dân vốn đã bị truyền nhiềm từ khi mới lọt lòng mẹ nên đã quen với cách thức truyền thông, giáo dục nhồi sọ một chiều này, thì làm sao có thể “tẩy chay” được!? Chỉ còn một cách có thể giải thoát, có thể tẩy chay được, đó là SỰ THẬT.

Sự thật sẽ phơi bày mọi tội ác, tâm địa đen tối, dơ bẩn, bán nước, hại dân của lũ CS. Một khi người dân thấy được điều này thì cho dù CS có mạng lưới báo đài với lũ bồi bút gấp hàng trăm lần như hiện nay thì người dân cũng không nghe và ngược lại càng làm cho người dân phỉ nhổ vào lũ CS, vào lũ bán miệng nuôi trôn.

Khi sự thật được tỏ hiện, thì cũng là ngày lũ CS bị tiêu diệt. Lê Sáng khẳng định rằng: “…cái việt gian cộng sản hôm nay sợ nhất là không kiểm soát, không bưng bít được tin tức sự thật. Cộng sản sống được là nhờ đủ thứ giả dối – Sự thực mà sáng tỏ nó sẽ kết liễu cộng sản, chẳng ai phải cầm súng bắn nó cả…” (25).

Vậy có thể tìm kiếm sự thật ở đâu, khi mà đâu đâu cũng thấy sự gian dối giăng đầy của lũ CS? Rất may, trong thời đại bùng nổ thông tin, với mạng thông tin toàn cầu internet vô cuøng hữu dụng, bức tường bưng bít thông tin của lũ CS dù có dầy đặc đến đâu, dù lũ CS ra sức ngăn chặn, che chắn đến đâu, cuõng đều có thể bị chọc thủng. Nếu ai muốn tìm kiếm sự thật về lũ CS, chỉ cần một cái click chuột thì chiếc mặt lạ của lũ CS bị lột ra, bản chất thực của lũ CS bị phơi bày ra trong từng trang viết.

Khi tìm kiếm được sự thật rồi, thì bản thân người ấy phải đi loan báo sự thật cho người khác hoặc phải chỉ cho người khác cách thức để tiếp cận sự thật. Nếu sự thật không được loan đi thì sự thật ấy có thể được gọi là “sự thật chết”, nó sẽ không tạo ra hiệu ứng cho xã hội, cộng đồng. Lũ CS sợ sự thật nhưng chúng không bao giờ sợ “sự thật chết”.

Vậy phải loan báo sự thật bằng cách nào? Có nhiều cách để loan báo. Trước tiên mỗi cá nhân phải ý thức được rằng mình phải có trách nhiệm loan báo sự thật cho người khác, sẵn sàng làm chứng cho sự thật trong mọi hoàn cảnh và loan báo sự thật bằng tất cả phương tiện trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Mọi người ở bất kỳ địa vị xã hội nào cũng có thể trở thành người loan báo sự thật. Một em học sinh có thể nói cho người bạn ngồi kế bên về sự thật; người cha có thể kể cho các con nghe về sự thật trong các bữa ăn, buổi nói chuyện thân mật của gia đình; người nông dân có thể kể sự thật cho người nông dân khác trên đường ra đồng làm việc của mình; trong cơ quan, đồng nghiệp này có thể giúp đồng nghiệp ngồi bên cạnh tìm và tiếp cận các trang website sự thật, gửi cho nhau những đường link …; các vị lãnh đạo tinh thần như các giám mục, các linh mục, các mục sư, các vị tăng sư ... loan báo sự thật cho các tín đồ của mình, cho đồng đạo của mình; các nhà trí thức qua các diễn đàn có thể loan báo sự thật bằng các bài viết, bình luận …; các blogger có thể lưu truyền sự thật v.v. Cứ như vậy sự thật sẽ được loan đi vôùi cấp số nhân. Mỗi người phải tìm cho mình cách loan truyền sự thật phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của từng người.

Một ví dụ điển hình gần đây nhất trong việc loan báo sự thật đó là câu truyện của nhà giáo Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh. Cô Hạnh đã tốt nghiệp thạc sĩ tại Đại Học Đà Lạt và cô đã được mời dạy môn văn tại trường trung học phổ thông Nguyễn Bỉnh Khiêm, tỉnh Quãng Nam theo chương trình thu hút nhân tài của tình Quãng Nam năm 2007. Thạc sĩ Bích Hạnh cho biết, cô khuyến khích học trò chuyên của mình bớt chơi game mà nên dành thời gian tìm kiếm tri thức trên mạng. Cô đã giới thiệu với học trò các website, chẳng hạn talawas, Hợp Lưu, Tiền Vệ (26). Trong từng bài học, tình huống cụ thể, cô Hạnh đã đưa các em học sinh của mình đến SỰ THẬT một cách nhẹ nhàng, khôn khéo và đấy sức thuyết phục. Ví dụ: “Sau giờ giảng dạy về tác phẩm “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam, Bích Hạnh khuyên học trò nên tự nghiên cứu, tìm tòi thêm trên internet. Cô giáo thạc sĩ Bích Hạnh ân cần nói cho học trò biết trên mạng internet có nhiều tài liệu “rất thú vị” (chữ dùng của Bích Hạnh)… Tiếp tục đề cập tới những tin tức trên internet, Bích Hạnh cho học trò biết Cô có đọc một bài viết trên web mạng của giáo sư Lê Hữu Mục. Bài này chứng minh: Nhật ký trong tù không phải của ông Hồ. Một học trò của Bích Hạnh phản đối ý kiến vừa nêu với lời lẽ nguyên văn rằng: “Bác Hồ là thần tượng của cả dân tộc, tại sao lại có thông tin như vậy?” Bích Hạnh ôn tồn trả lời học trò: “Cô tin sự thật, cái đẹp, chân lý luôn luôn tồn tại, cho dù ai đó có tìm cách phủ nhận”.

Ý kiến của cậu học trò về ông Hồ là ý kiến theo cảm tính, ý kiến của người có nhiều năm bị dạy dỗ bằng giáo dục nhồi sọ. Ý kiến của cô giáo là ý kiến của lý trí. Bích Hạnh nhấn mạnh: “Chân lý luôn luôn tồn tại dù ai đó tìm cách phủ nhận”. Dĩ nhiên “ai đó” ở đây là đảng CSVN chứ không là giáo sư Lê Hữu Mục. Vấn đề không là ông Hồ có phải là thần tượng của dân tộc Việt Nam hay không, vấn đề chính là ông Hồ có đích thực là tác giả của Nhật ký trong tù hay không? Chân lý mà cô Bích Hạnh muốn nói tới chính là chân lý rằng: Ông Hồ là người có biệt tài ăn trộm, ăn trộm tên, ăn trộm vợ, ăn trộm văn thơ và đặc biệt nhất là ăn trộm quyền hành của nhân dân” (Đỗ Thái Nhiên) (27).

Một ví dụ điển hình khác mang đầy tính thời sự và rất nóng bỏng hiện nay là vụ Luật sư Cù Huy Hà Vũ ngày 11/06/2009 đệ đơn khởi kiện thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Đã ban hành trái pháp luật Quyết Định số 167/2007/QD- TTg ngày 01/11/2007 phê duyệt Quy hoạch phân dùng thăm dò, khai thác chế biến, sử dụng quặng bauxite giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025” lên Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Trong đơn khởi kiện này, LS Hà Vũ đã nêu ra rằng Quyết Định này của ông Dũng đã vi phạm ít nhất 4 luật: Luật bảo vệ môi trường, Luật quốc phòng, Luật di sản văn hóa và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (28).

Nếu Luật sư Hà Vũ viết bài tố cáo những sai phạm của ông Dũng nói trên thì Luật sư sẽ bị quy chụp vào tội vi phạm điều 88 bộ luật hình sự do lũ CS vẽ ra và CS sẽ bắt bỏ tù không lương tay như trường hợp của LS Lê Công Định. LS Hà Vũ đã khôn khéo dùng chính luật của lũ CS vạch tội chúng. Mặc dù đơn kiện của LS Hà Vũ không được tòa án CS thụ lý theo như nhiều người dự đoán, nhưng cách làm này của LS Hà Vũ đã gây một tiếng vang mới. Ngoài ra nhờ có đơn kiện này mà nhiều người đã bị đầu độc lâu năm, vốn luôn “dị ứng” với các trang mạng “phản động” nay tìm đến những trang này để đọc đơn khởi kiện ông Dũng của LS Hà Vũ vì các báo đài của lũ CS câm như hến, không hề đề cập đến đơn kiện nổi tiếng đầy mới mẻ này ở Việt Nam. Nhờ đơn kiện này không những tên đầu sỏ của lũ CS bị vạch tội chỉ tên, mà còn làm cho một bộ phận người ở Việt Nam biết đến những trang mạng, đến sự thật.

Như vậy, vì bất cứ hoàn cảnh gì, lý do gì, không ai có thể nói rằng tôi không thể biết sự thật hoặc không thể loan báo sự thật cho người khác được, mọi lý do đưa ra chỉ là ngụy biện!

- Tẩy chay các tổ chức của lũ CS

Khi chúng ta biết được sự thật về lũ CS, thì chúng ta nhận thức được rằng cần phải tẩy chay, không gia nhập bất kỳ tổ chức đoàn thể naøo mà lũ CS thành lập.

Lũ CS rất thâm hiểm đã lập ra đủ các thứ đoàn hội, tổ chức ở khắp mọi nơi, cho mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội, chúng lập cả tôn giáo quốc doanh. Các đoàn hội, tổ chức do lũ CS dựng lên, lập ra nhằm để kiểm soát người dân, khống chế người dân. Các đoàn hội chính là tai mắt của lũ CS. Những ai đang ở trong những tổ chức do lũ CS lập ra cần phải bước ra khỏi ngay lập tức.

Xa hơn nữa, phải tẩy chay các cuộc bầu cử do lũ CS tổ chức, đặc biệt là các cuộc bầu cử hội đồng nhân dân các cấp, bầu cử quốc hội. Những cuộc bầu cử này chỉ là nhöõng trò chơi, trò hề dân chủ lừa bịp ma mãnh của lũ CS bày đặt ra, chỉ thêm tốn tiền, toán xương máu của nhân dân.

Khi các tổ chức do lũ CS lập ra không còn ai gia nhập, CS khó có thể kiểm soát được nhân dân; khi những tổ chức như hội đồng nhân dân, quốc hội do lũ CS bày đặt không được người dân đi bỏ phiếu, thì những tổ chức này mất đi tính “chính danh” nguyên tắc, đến lúc này quyền lực trong tay lũ cộng sản sẽ không được gọi là “chính” nữa mà trở về với bản chất thực là “ngụy”, và lúc này “ngụy quyền” này sẽ không còn đứng vững được nữa. Trong thế giới văn minh không bao giờ có chỗ đứng của “ngụy quyền”. Ngụy quyền sẽ trở nên bị cô lập và tự tan rã. Đó cũng là ngày lũ chuột CS đang đứng bên bờ huyệt.

- Lên đường

Những hành động nêu trên mới chỉ đưa lũ CS đến mép huyệt mộ. Hành động cuối cùng là tất cả mọi người dân phải đoàn kết và đồng loạt lên đường tiễn đưa lũ CS đến “nơi an nghỉ cuối cùng”. Khi người dân không còn sợ, biết rõ tội ác, sự nguy hiểm của lũ CS thì việc lên đường quét sạch lũ CS là điều tất yếu.

Lời kết

Nếu cách đây gần 80 năm, người dân Việt Nam đã thực hiện một cuộc canh chừng đối với chuột cs giống như cách thức mà ngày nay người ta đang làm đối với Cúm A H1N1 thì tai hoạ đâu có xảy ra cho dân tộc Việt Nam như đã từng xảy ra trong vòng mấy chục năm qua. Tuy nhiên, dù sao thì sự lơ đễnh cũng đã xảy ra rồi và giờ đây thì người ta chỉ còn có nước là tìm cách để khắc phục chúng mà thôi.

Bản chất chui rúc, cắn rỉa, ăn tàn phá hoại và truyền dịch bệnh của lũ CS không bao giờ thay đổi cho dù ở bất cứ điều kiện hay bối cảnh nào. Bất cứ nơi nào có lũ CS, nơi đó trở thành vùng đất chết; nơi đó toàn những bất công, bạo tàn và chết chóc, đạo đức bị tha hóa suy đồi; nơi đó trở thành địa ngục trần gian …

Dân tộc Việt Nam chỉ có thể tồn tại, phát triển và thịnh vượng; và đất nước Việt Nam chỉ có thể trở thành miền đất sống, phồn vinh khi nào lũ CS ở VN bị quét sạch.

Lũ CS còn tồn tại bao lâu nữa ở dải đất S này, hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ và hành động của mỗi con dân Việt Nam. Vì dân tộc Việt Nam, vì chính bản thân của chính chúng ta và vì thế hệ tương lai, ngay lúc này và ngay bây giờ chúng ta phải đứng lên, nói lên và có hành động ngay lập tức để loại trừ lũ CS ra khỏi đất nước này, thế giới này. Bất cứ sự im lặng nào đều là sự đồng lõa với tội ác của CS! Thế hệ tương lai sẽ nguyền rủa, và hận chúng ta nếu chúng ta cứ để lũ CS sống thêm.

Vũ Minh Tâm


Friday, July 3, 2009

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà 34 Năm Nhìn Lại




Xem hình cũ:: Ai vái lạy Hoàng Minh Chính tại San Jose

Ðố biết kẻ nào quỳ, đứa nào đứng, tên nào chụp hình ?

Ô hô! "Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương 1, thương ông...."


"



csVN tham giết người cướp đất

Trảng Bom - Đồng Nai: csVN tham giết người cướp đất
    - QUAN THAM TỔ CHỨC CƯỚP ĐẤT

    - BẢO KÊ XÃ HỘI ĐEN TẤN CÔNG DÂN LÀNH VÀ - GIẾT CHẾT 2 ANH EM THUỘC GIÁO XỨ BÙI ĐỆ

    Xin lưu ý: bài có hình ghê rợn ở cuối trang

Từ việc phản đối vợ chồng Chủ tịch huyện Trảng Bom và các cán bộ địa phương chiếm đất của gia đình các anh chị em mình và đất công của nhà nước, 2 người trong một gia đình bị giết chết dã man, một người phải vào tù, nhà ở của các anh chị em bị xã hội đen tấn công bằng gạch đá và bom xăng.

Hà Nội – Ngày 24/6/2009 chị Huỳnh Thị Nhân cho biết: Năm 1994 Chủ tịch huyện Trảng Bom là Đoàn Hải mưu toan chiếm ½ khu đất mặt tiền rộng 70 m, diện tích khoảng 8000 m2 của 4 gia đình anh các chị em chị, với lý do đấy là đất của lâm trường Thống Nhất, trong khi thực sự đấy là đất của đại gia đình chị.

Năm 1999, chị ra Hà Nội kiện và năm 2000 Phó Tổng Thanh tra Nhà nước là Dương Ngọc Sơn đã buộc chính quyền địa phương trả lại đất cho 4 gia đình chị em chị.

Lúc này ông Đoàn Hải lên làm Phó Giám đốc Sở Nông Lâm Đồng Nai và bà vợ là Nguyễn Thị Thành lên làm Chủ tịch huyện. Họ cấu kết với các cán bộ tham tàn khác trong tỉnh tiếp tục quyết tâm chiếm đất của gia đình các anh chị em chị.

Năm 2003, tỉnh Đồng Nai lại ra quyết định thu hồi một nửa số đất đã được trả với lý do là đất của lâm trường Thống Nhất. Phần đất còn lại phải đóng thuế 100%.

Thực chất lúc này, sau khi bị báo đài và các cơ quan trung ương phanh phui vụ biển thủ mấy nghìn héc-ta đất, nhiều cán cán bộ ở Đồng Nai lại quyết tâm tái chiếm đất của chị Nhân và các gia đình anh em chị nhằm bù đắp phần thiếu hụt.

Gia đình các anh chị em chị Nhân kiên quyết phản đối quyết định bất công này và tiếp tục kiện lên trung ương. Kết cục là một chuỗi những đau thương đổ xuống gia đình chị.

Ngày 15/4/2006 chị Nhân bị cướp giấy tờ liên quan đến khu đất 8000 m 2.

Ngày 6/12/2006 chị Nhân bị bắt rồi bị kết án 22 tháng tù giam vì bị bỏ vạ, cáo gian là đã lấn chiếm đất của một gia đình cán bộ lâm trường Thống Nhất và chặt phá hơn 20 cây rừng.

Tháng 6.2008, trước khi chị Nhân ra tù 1 tháng, thì Chủ tịch xã, Trưởng Công an xã Bắc Sơn và 1 người khác đòi ủi phá nhà chị Nhân. Em trai chị là là Huỳnh Văn Phong đứng ra phản đối và bảo vệ nhà cho chị.

Mười ngày sau, cán bộ xã trên đây hậu thuẫn cho côn đồ đập phá và ném bom xăng vào nhà anh Phong. Gia đình anh khiếu nại lên chính quyền tỉnh, tỉnh làm ngơ không can thiệp.

Ngày 20/7/2008, nhận được điện thoại của một người quen mời anh đi xin lại cái xe nơi một gia đình xui gia của bố mẹ anh, cách nhà khoảng 3 km. Anh Phong gọi người em rể là Nguyễn Thanh Lâm cùng đi.

Khi hai anh em vừa đến nơi thì bị một nhóm khoảng 20 chục thanh niên lao ra bao vây, tấn công bằng nhiều loại hung khí khiến cho anh Phong (31 tuổi) chết ại chỗ và anh Lâm (33 tuổi) chết khi đang cấp cứu tại bệnh viện.

Ngay sau đó, 2 anh em ruột là Nguyễn Văn Duy và Nguyễn Văn Dũng thuộc nhóm đối tượng giết chết hai anh Phong và Lâm- đã ra tự thú. Một tuần sau Nguyễn Văn Dũng được thả và đã đi làm bảo vệ cho công ty nước ngoài ở đại phương.

Công an tỉnh Đồng Nai đã đổi trắng thay đen khi cho rằng cái chết của 2 anh Phong và Lâm là do hai băng nhóm “xã hội đen” thanh toán nhau, trong khi gia đình chị Nhân cho biết 2 tên Dũng và Duy hoàn toàn không có mẫu thuẫn gì với gia đình các anh Phong & Lâm.

Chị Nhân khẳng định cán bộ tham nhũng tàn ác tại địa phương đã tổ chức giết chết dã man 2 người em của chị để trả thù việc các anh chị em trong gia đình chị khiếu nại tố cáo các quan chức tham tàn của xã Bắc Sơn, của huyện Trảng Bom và của tỉnh Đồng Nai liên quan đến vụ cướp đất của gia đình các anh chị em chị và vụ ăn chia khoảng hơn 2000 héc-ta đất rừng ở Bắc Sơn.

Hiện nay, sau nhiều đơn từ kêu oan, vụ án giết 2 người em chị Nhân vẫn chưa được xét xử, trong khi đó gia đình các anh chị em chị Nhân vẫn đang bị đe doạ tấn công và cướp đất. Lúc này chị Nhân, 4 người em và 7 người cháu là con của anh Phong và anh Lâm đang vất vưởng ở Hà Nội kêu oan cho chồng, cho cha, cho em và cho chính mình.



Thái Hà CTV CSsR



Cả gia đình đến khấn Đức Mẹ Công Lý ở Thái Hà









>




Anh Lâm bị giết


Anh Huỳnh Thanh Phong bị giết




Nguon: DCCTVN

TÊN LỪA THẦY, PHẢN BẠN VÀ BÁN ÐỨNG TỔ CHỨC MÌNH

  • PHAN CHÍNH: TÊN LỪA THẦY, PHẢN BẠN VÀ BÁN ÐỨNG TỔ CHỨC MÌNH
Hồ Đinh
- Nguyên Thương Phế Binh VNCH trước tháng 4-1975

- Cựu Tham Sự Hành Chánh Hạng 2, Phó Ty Cựu Chiến Binh Bình Thuận KBC 4508

- Tổng Thư Ký Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận 2007-2009
(Hình trên Khai Trinh Xã Ðoàn Trưởng XDNT, Hồ Ðinh Phó Ty Cựu Chiến Binh BìnhThuận,
ông Lê Ngọc Lan Quận Ðoàn Trưởng XDNT và ông Phan Chính Ðoàn Trưởng XDNT)

Cho tới đầu tháng 1-2007 ngày thành lập Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận Hải Ngoại tại Miền Nam CA. Tôi (Hồ Ðinh) mới có dịp hân hạnh quen biết ông Phan Chính qua lời giới thiệu của cả hai anh Khai Trinh và Lê Ngọc Lan "Ðây là đệ tử tôi". Truớc tháng 4-1975, dù là người được sinh trưởng và đã làm việc ở đó từ cuối năm 1973, tôi chưa hề được nghe ai nhắc một lần về ông Phan Chính.

Với lương tâm của con người và tình bạn còn in đậm trong tâm trí, tôi xác nhận ông Phan Chính có bề ngoài rất dễ thương, tốt, sốt sắng trong mọi công tác và người chung quanh. Chính lớp phấn son này đã giúp ông Phan Chính thành công trong nhiều vai trò trên sân khấu đời, đạt được bản chất sẵn có mà trời dành cho riêng mỗi người: tính lừa thầy, phản bạn, bán đứng tổ chức của mình bất cứ lúc nào, khi thấy không còn cần thiết hay đạt không đúng mục tiêu mà thượng cấp giao phó.

Chúng tôi gồm rất nhiều người, cao niên và cao chức nhất là cựu Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa và người sinh sau đẻ muộn là cô Cát Mai (con gái lớn bà Nguyễn Thị Dung), trong đó có hai ông Nguyễn Quốc Hùng, một cựu Ðại Uý thuộc Tiểu Khu Bình Thuận (do bà Nguyễn Thị Dung giới thiệu) và ông Phan Chính (lính của ông Lê Ngọc Lan), đã ngồi lại với nhau để cùng lo liệu cho anh chị em TPB, QPCN và cựu Quân Cán Chính VNCH tại Bình Thuận bao gồm Bình Thuận, Bình Tuy và Phan Thiết, qua tổ chức từ thiện mang tên Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Bình Bình Thuận Hải Ngoai, với mục tiêu: Bình Thuận Hải Ngoại không quên Bình Thuận quốc nội, quyết tâm trả món nợ Ân Tình cho Ðồng Ðội Chiến Hữu, những người đã nằm xuống, đã hy sinh một phần cơ thể cho quê hương đất nước và dân tộc Việt, mấy chục năm qua vẫn lê lết kiếp sống thừa bên lề xã hội vì bị ngụy quyền cộng sản Hà Nội cướp giựt tài sản và quyền sống con người.

Mục tiêu và ý nghĩa của Ủy Ban Tương Trợ chỉ có thế và thời gian hiện diện của Ủy Ban nếu được hoàn cảnh cho phép cũng chỉ là mõt lần trong năm , tại bất cứ địa phương nào có đông Ðồng Hương Bình Thuận cư ngụ. Thế nhưng qua ba lần Ðại Hội Ân Tình (2007-2009), từ Sài Gòn Nhỏ ở Nam CA tới San Jose Bắc CA, chúng tôi đã bị chính một số người Bình Thuận sinh sống tại đó Hãm Hại, Trù Dập, Săn Ðuổi và tệ nhất là tìm đủ mọi cách để bôi xấu, đâm sau lưng tận tuyệt. Ðại Hội Ân Tình I- 2007 ở Nam CA (Nguyễn Thanh Dũng, Ung Thu Hà, Nguyễn Văn Tạo, Phan Chính, Nguyễn Quốc Hùng ..) San Jose II - 2008 (Nguyễn Thị Ðào, Nguyễn Thị Quận, Hoàng Xuân Cường qua sự xúi bẩy của Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Văn Tạo, Phan Chính, Nguyễn Quốc Hùng ..) và Ðại Hội III ố 2009 với sự phá hoại công khai của Nhóm Phan Bá Thụy Dương, Nguyễn Thị Kim Sang, Nguyễn Quốc Hùng, Phan Chính và chắc chắn trong đó có ông Nguyễn Thanh Dũng giấu mặt).

Lý do mà một số chức quyền tại hai hội Thân Hữu Bình Thuận ở nam-bắc CA đánh phá ba lần tổ chức Ðại Hội Ân Tình của Ủy Ban Tương Trợ là CA đã có hội thân hữu rồi thì tới đây làm gì để gây chia rẽ nội bộ của người khác ?. Góp tiền cho tụi nó để bà Nguyễn Thị Dung mang về Phan Thiết tiêu xài tới 22.000 USD..

Ðúng là "vừa ăn cướp vừa la làng". Ở Nam CA hội thân hữu Bình Thuận đã bắt đầu xáo trộn từ mấy năm qua vì vụ ông Võ Ðình Dược đã đắc cử Hội Trưởng trong cuộc đầu phiếu công khai nhưng sau đó bị truất quyền. Tiếp theo năm 2008 trong nội bộ Hội lại xãy ra vụ chia rẽ về việc mời phái đoàn Việt Cộng do vợ chồng đồng chí Ngọc Thị Yến (cựu học sinh Trung Học Phan Bội Châu 1968-1975) và chồng là cán nhớn Bùi Thanh Liêm) hướng dẫn qua dự Hội Ngộ Trung học Phan Bội Châu được tổ chức tại Hoa Thịnh Ðốn vào tháng 7-2008.

Chính ông Nguyễn Thanh Dũng hiện là Hội Trưởng Hội Thân Hữu Bình Thuận Nam CA, là người chủ xướng mọi công tác từ A-Z trong việc làm thủ tục bảo lãnh, đưa rước NGƯỜI từ Phan Thiết tới Nam CA trước khi tiếp cuộc hành trình về Hoa Thịnh Ðốn. Sau đó ông Nguyễn Thanh Dũng lại tổ chức tiệc tùng tiển đưa NGƯỜi về quê hương.

Tấm hình do Z10 từ Phan Thiết gửi tặng, xác quyết ông Nguyễn Thanh Dũng đã vì mục tiêu Chính Trị nên quyết tâm đánh phá cho xập Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận theo lệnh thượng cấp, để triệt tiêu con đường giúp đỡ đồng đội VNCH tại quê nhà. Có như vậy một nhóm người trong tổ chức Cựu Học Sinh TH Phan Bội Châu Phan Thiết mới thực hiện được mục tiêu ‘ Nối Vòng Tay Lớn và hoà hợp đầu hàng giặc, đem tập thể cựu học sinh TH Phan Bội Châu hải ngoại nhập vào tổ chức học sinh của đảng bộ Bình Thuận. Mục tiêu thật rõ ràng qua lời tuyên bố của ông Lê Khắc Anh Vũ, cựu hiệu trưởng TH Phan Bội Châu, trong lần Hội Ngộ PBC 2008 tại Hoa Thịnh Ðốn. "Chúng ta sẽ trưng cầu ý kiến trên mạng để thành lập Liên Hội Ái Hữu PBC quốc tế, trong đó có Hai Ðại Diện Trong Nước". Mục tiêu cao quý này không biết có trong chương trình Hội Ngộ PBC kế tiếp (2010) chăng, nhất là Trưởng Ban Tổ Chức lần này lại do ông Hoàng Xuân Cường nổi danh như cồn qua việc "từ chức phó hội trưởng ngoại vụ của Hội Thân hữu Bình Thuận Bắc CA, vì ai đó trong Hội dám cả gan chụp hình ngài đứng trước Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, mà không xin phép trước ...". Chuyện này ai cũng biết hết, vậy mà lần này Ngài lại được bầu chọn giữ chức trưởng Ban Tổ Chức Hội Ngộ PBC vào năm 2010, thật là kỳ lạ không ai hiểu nổi !!!. Ðầu tháng 7-2009 này, ông Nguyễn Thanh Dũng lại tổ chức hội ngộ PBC tại nam CA, nói là liên lớp 1969 nhưng thực chất là của những học sinh từ 1968-1975, không biet ông Dũng có mời đồng chí Yến qua chăng ?

Còn ai mang tiền về Bình Thuận-Phan Thiết để trao cho các đối tượng Cựu Chiến Binh., chúng tôi xin trả lời ở San Jose thì do bà Nguyễn Thị Ðào từ đầu tới cuối mà lần chót là vào ngày 30-4-2009. Tại Nam CA thì quý đồng hương có thể mở các đặc san Xuân của Hội TH Bình Thuận Nam CA thực hiện, thì biết ai trực tiếp đem tiền về. Riêng Ủy Ban Tương Cựu Chiến Binh suốt thời gian từ 2007 tới đầu năm 2009, qua năm lần trợ giúp với số tiền gần 30.000 USD, đều giao cho Dịch Vụ trao tận tay cho người thụ hưởng, dù họ ở Võ Ðắc Tánh Linh, Ma Lâm, Long Hương hay La Gi, Phan Thiết, Phú Long, Mũi Né ... cũng với lệ phí 2 USD/100. Bà Nguyễn Thị Dung hay bất cứ ai đều không có quyền mang tiền về quê nhà.


(ông Nguyễn Thanh Dũng Hội trưởng Hội TH Bình Thuận Nam CA và bà Ngọc ThịYến(thứ ba)
tại tư gia ở Nam CA trong lần Hội Ngộ PBC Phan Thiết năm 2008 tại Hoa thịnh Ðốn)

Và chính vụ bà Nguyễn Thị Ðào mang tiền của Hội TH Bình Thuận Bắc CA về phát cho anh chị em tại Bình Thuận trước 2007, là một trong hai nguyên nhân khiến ông Phan Chính từ một người tử tế, trở thành Kẻ Lừa Thầy Phản Bạn, Bán Ðứng Ủy Ban Tương trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận Hải Ngoại mà đương sự là một thành viên đắc lực từ ban đầu.

Vào những ngày đầu Ủy Ban thành lập năm 2007 rất vui vẽ và đoàn kết, nên được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều Ân Nhân giúp đở, trong đó có Anh chị Vivian Bửu và Trần Hải Long (mỗi người giúp Ủy Ban 5000 USD). Nhưng niềm vui này chẳng kéo dài được bao lâu, thì vào một đêm tại tư gia của anh Võ Ðình Dược, qua cuộc họp phân công việc để xúc tiến tổ chức Ðại Hội Ân Tình I tại Nam CA vào ngày 15-4-2007. Chính đêm đó, hai ông Nguyễn Quốc Hùng (ủy viên phụ trách nội vụ) và Phan Chính (ủy viên ngoại giao) đã dẫn một người lạ mặt tên Nguyễn Thái Hiến tới ngay cuộc họp. Mục đích của hai ông Nguyễn Quốc Hùng và Phan Chính nói là để vạch mặt ông Phạm Ngọc Cửu (nguyên Phó Tỉnh trưởng Bình Thuận, Trương Ban Ðiều Hành Ủy Ban Tương trợ) là Thành Viên thuộc Tổ Chức của ông Nguyễn Hửu Chánh qua xác nhận của ông Nguyễn Thái Hiên.

Từ đó hai ông Nguyễn Quốc Hùng và Phan Chính yêu cầu Ủy Ban loại ông Phạm Ngọc Cửu ra khỏi tổ chức với lý do ông Cửu không phải là người Bình Thuận và đang ở trong tổ chức của NHC. Riêng ông Phan Chính còn đòi hỏi Uỷ Ban phải truy tố bà Nguyễn Thị Ðào về việc đem tiền về Phan Thiết ăn xài hay chỉ phát riêng cho người nhà mình, mà không giúp các TPB & QPCN theo danh sách đề nghị. Ông Phan Chính còn đòi Ủy Ban phải loại bà Nguyễn Thị Ðào ra khỏi tổ chức với lý do thiếu đạo đức, nhân phẩm về những hành động đã làm tại San Jose.

(hình chụp trước khi chia tay bạn thành tử thù: ông Phạm Ngọc Cửu, ông Phan Chính,
bà Nguyễn Thị Dung, bà Mai Minh và Hồ Ðinh, nạn nhân trả thù của ông Phan Chính
)

Tất cả hai yêu cầu của hai ông Nguyễn Quốc Hùng và Phan Chính đều bị Ủy Ban bác bỏ vì không ăn nhập gì tới tổ chức. Thế là hai ông Hùng, Chính ra đi với lời hăm dọa sắt máu "mấy ông để ông Phạm Ngọc Cửu trong tổ chức, coi chừng nguy hiểm tới tính mạng khi tới CA". Sự thật là vậy đó và cũng kể từ đó ông Phan Chính biến dạng từ một khuông mặt hiền lành dễ thương, trở thành kẻ đanh ác với quyết tâm "phanh thây uống máu những người hôm qua như ông Phạm ngọc Cửu (thầy), Hồ Ðinh (bạn), Nguyễn Thị Dung (em gái) .. thành kẻ thù không đội trời chung, quyết tâm phá cho tụi nó xập, đánh cho tụi nó chết, bôi bẩn lý lịch đời tư của chúng nó để không còn lộ diện. Có như vậy Phan Chính và Nguyễn Quốc Hùng mới đạt được mục tiêu". Chặt đứt con đường gửi tiền về giúp anh chi em TPB & QPCN Bình Thuận.

Ðể thu được kết quả theo yêu cầu của thượng cấp, hai ông Nguyễn Quốc Hùng, Phan Chính cặp bồ với một ít chức sắc trong Hội TH Bình Thuận tại Nam CA như ông Nguyễn Thanh Dũng (hiện là hội trưởng), Nguyễn Văn Tạo, bà Ung Thu Hà (vợ thiếu tá Hàng Phong Cao) bắt đầu mở chiến dịch đánh phá Ủy Ban trên các Diễn Ðàn cũng như groups của TH Phan Bội Châu và liên lớp PBC 69. Kết quả rất mỹ mản trong chiến dịch bôi xâu tổ tiên ba đời Hồ Ðinh-Mường Giang, vì tên này dám chống lại mấy người mà suốt thời gian qua đã tung hoành một trời một chợ, từ lãnh vực chữ nghĩa tới chuyện cộng đồng.

Tiếp theo là chiến dịch gọi điện thoại từng nhà để cấm mọi người đừng tham dự Ðại hội Ân Tình I. Chính ông Nguyễn Thanh Dũng là người công khai Hăm Dọa mọi người "Nếu ai dự Ðại Hội Ân Tình I sẽ không được VC cấp phép về Phan Thiết. Còn hai ông Nguyễn Quốc Hùng, và Phan Chính, người thì lái xe ra tận phi trường ngăn cản, kẻ tới các quán cà phê, tiệm ăn rĩ tai đừng tới, vì tụi nó làm chỉ lấy tiền bỏ túi. Lại có thêm một bộ phận phụ trách bêu xấu Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa với tội danh "không phát lương cho lính Bình Thuận hai tháng 3 + 4/1975".

Nhưng chúng tôi vẫn không nản lòng, vẫn tiếp tục con đường với mục tiêu vạch sẵn qua kỳ Ðại Hội Ân Tình II tại Bac CA năm 2008. San Jose cách xa nam CA hằng vạn dặm nhưng hai ông Nguyễn Quốc Hùng và Phan Chính đâu có tha. Riêng ông Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Văn Tạo, Ung thu Hà thì liên lạc trực tiếp với ông Hoàng Xuân Cường năm 2008 là hội phó ngoại vu (xin vào lại), qua cuộc họp của Hội TH Bình Bắc CA để quyết định về việc "bảo trợ và giúp đỡ cho Uỷ Ban". Trong cuộc họp, ông Cường phán "tại sao phải giúp tụi nó" . Vì thế trong Ðại Hội Ân Tình II - 2008 tại San Jose, những anh chị em tới giúp đều với tư cách cá nhân, kể cả ông Hội Trưởng Lê Ngọc Lan.

Kỳ Ðại Hội Ân Tình II tại San Jose, bà Nguyễn Thị Ðào là người gọi điện thoại tới nhà từng người để ngăn chận họ đừng đi dự Ðại Hội với lý do "tụi nó bóc lột bán vé vào cửa 50 USD, cho tiền để tụi nó chia nhau xài". Trong việc góp máu ăn thề này, còn có bà Nguyễn Thị Quận, ông Hoàng Xuân Cường và quý ông bà ở Nam CA .

Còn Ðại Hội Ân Tình III ngày 28-6-2009 tại Nam CA thì việc phá xập cho tụi nó chết, được diễn tiến một cách công khai do ông Phan Bá Thụy Dương cầm đầu nhóm với ông Nguyễn Quốc Hùng, Phan Chính (nam CA) và bà Nguyễn Thị Kim Sang là vợ của cố Ðại Uý KQ Nguyễn Văn Hóa ở Okland Bắc CA.

Kế hoạch được thi hành từ bức thư GHEN gửi qua mạng lần thứ hai qua email hoanguyen411@gmail.com (lần thứ nhất gứi trực tiếp cho cô Cát Mai). Chộp lấy thời cơ , bà Nguyễn Thị Kim Sang gửi ngay cho ông Nguyễn Quốc Hùng đang chờ sẵn. Thế là ông Hùng tiếp tục đưa lên mạng và copy thật nhiều bảng đê hai ông Phan Bá Thụy Dương và Phan Chính đem trao tận tay những anh chị em từ các tiểu bang khác về dự đại hội thường tụ tập uống cà phê trong khu Phứoc Lộc Thọ.

Ông Phan Bá Thùy Dương thật dữ tợn có một không hai tuy rằng già đầu bạc tóc, đi đứng thì không vững nhưng không biết ông đã dựa vào thế lực nào mà đối xử với chúng tôi thật lố lăng tàn nhẩn. Ngày 27-6-2008, ông công khai nói qua điện thoại với ba Nguyễn Thị Dung là sẽ tới Ðại Hội với một nhóm bạn bè nhưng không có vé vào cửa. Sau đó qua ông Lê Bá Hùng, ông Dương tuyên bố chắc nịch là tới phá cho tụi nó xập. Và ông đã giữ đúng kế hoạch phá.

Riêng ông Nguyễn Quốc Hùng thì giấu mặt nhưng chỉ huy trận chiến qua điện thoại báo cáo trực tiếp từ ông Dương. Nhưng người xông xáo và tàn bạo nhất vẫn là ông Phan Chính, một nhân vật lớn của nhà báo Vi Anh, của tập thể Can Bộ XDNT Hải Ngoại đang sắp tổ chức Ðại Hội vào tháng 7 này như email đọc được. Ông Chính lái xe lặn lội khắp những nơi chốn có anh em về, để trao bức thư đánh phá cho xập Ðại Hội III. Tại các quán cà phê, quán ăn.. ông Chính dùng tài ba lổi lạc học được trong các lớp xây dựng người cán bộ BDNT/VNCH.. thay vì để chống lại kẻ thù VC bán nước hại dân, thì ông quay súng, lưởi lê đâm lút cán ‘ Ðồng Ðội mình ‘ mợt cách tàn nhẩn qua nét mặt không đổi sắc.

Khi viết bức thư này, cá nhân Hồ Ðinh tôi đã khóc trong uất nghẹn và bất bình. Tại sao những người như quý ông Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Văn Tạo, Bà Ung Thu Hà, Nguyễn Thị Kim Sang, Nguyễn Thị Ðào và hai ông Nguyễn Quốc Hùng và Phan Chính dù gì chăng nữa sống ở bên Mỹ cũng đã đủ đầy rồi. Tại sao không thương cho những anh chị em đồng đội mình đang sống một cuộc đời nghèo cực, chỉ mong vào tình thương của anh em bên này. Bây giớ quý ông bà đã quyết tâm dồn chúng tôi vào chân tường, cắt đứt hết mọi phương tiện giúp đở cho họ, thì mai này anh em sẽ ra sao ?

Ðó là tất cả nước mắt và tim óc trong giây phút giả từ, chúng tôi không còn cách nào để lựa chọn. Tàn ác nhất, là bà Nguyễn Thị Kim Sang dù gì cũng là một quả phụ, bà rất giàu có ở Mỹ cũng như tại Phan Thiết nhưng bà cũng phải nghĩ tới những người quả phụ nghèo cực khác, rất cần sự giúp đở. Ông Phan Chính cũng vậy, ở Mỹ ông sống sung sướng bằng tiền trợ cấp của chính phủ. Tại Phú Hội (Phan Thiết) gia đình ông là tư bản đỏ với nhà nhiều tầng có xe đò 20 chỗ ngồi chạy Sài Gòn. Tuy nhiên ông cũng phải thương cho anh em khác, trong đó có nhiều cán bộ XDNT Bình Thuận can giúp đở.

Những kẻ ăn chén đá bát, lừa thầy phản bạn, phản đồng đội, tổ chức như ông Nguyễn Quốc Hùng, bà Nguyễn Kim Sang và nhất là ông Phan Chính, trời chẳng bao giờ dung thứ, hồn linh của các tử sĩ Bình Thuận từ nay sẽ theo các người đòi mạng, ráng mà chờ.

Cuối cùng xin có lời nhắn gủi với những ai còn đang bị ông Phan Chính chơi trò "bịt mắt bắt dê" hãy tỉnh ngộ sớm, kẻo ân hận suốt đời như Ủy Ban Tương trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận, suốt ba năm qua bị hai ông Nguyễn Quốc Hùng và Phan Chính đâm lút cán, chơi thảm tuyệt. Tuy nhiên kể từ giờ phút này, chúng tôi quyết tâm chống lại tới cùng vì Ðại Hội đã xong, Ủy Ban cũng sắp kết thúc. Riêng bà Nguyễn Thị Dung và Hồ Ðinh tôi thì mồ mã ông cha cũng bị moi lên hết rồi, kể cả gia đình kẹt lại, cũng được phe ta báo cáo cho công an tới tận nhà hỏi thăm sức khỏe từng người nhiều lần dù 15 năm qua tôi không hề trở lại VN.

Từ nay là thời gian quá rãnh rỗi, tôi sẽ lần lượt cống hiến những bút ký đến quý vị nói về chuyện dài liên quan đến các ông bà đã hãm hại chúng tôi, để gở một chút vốn danh dự mà quý ông bà đã cho chúng tôi suốt ba năm qua. Với Hồ Chí Minh, Hồ Ðinh tôi còn dám công khai chửi cha nó, thì cở như ông Phan Bá Thụy Dương, Nguyễn Quốc Hùng, Phan Chính.. có gì phải sợ ?

Kính chào
Hồ Ðinh viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
tháng 7-2009


Thursday, July 2, 2009

37 Thượng nghị sỹ Mỹ yêu cầu thả Linh Mục Nguyễn Văn Lý


Rev. Thaddeus Ly, the high profile, prominent Freedom of Religion activist..

37 U.S. Senators Urge Vietnam to Free Imprisoned Priest

WASHINGTON (Reuters) July 1-2009— A group of United States senators urged Vietnam’s president on Wednesday to free a Roman Catholic priest as human rights groups said that his imprisonment justified putting Vietnam on a religious freedom blacklist.

The priest, the Rev. Thadeus Nguyen Van Ly, was sentenced to eight years in prison in March 2007 after being charged with spreading propaganda against Vietnam’s Communist government. He had previously served 16 years in prison for activities in which he advocated for human rights.

The group of 37 senators, who were led by Barbara Boxer Democrat of California, and Sam Brownback, Republican of Kansas, urged President Nguyen Minh Triet of Vietnam to free Father Ly, calling his trial “seriously flawed.”

“We request that you facilitate Father Ly’s immediate and unconditional release from prison, and allow him to return to his home and work without restrictions on his right to freedom of expression, association and movement,” the senators said in a letter.

“Father Ly’s longstanding nonviolent activities to promote religious freedom and democracy in Vietnam are well known in the United States,”
wrote the senators, who included Edward M. Kennedy, Democrat of Massachusetts, and Orrin G. Hatch, Republican of Utah.

The Vietnamese Embassy in Washington did not confirm receipt of the letter or issue a comment.

During Father Ly’s four-hour trial in 2007, he was denied access to a lawyer and was silenced by security guards when he tried to speak, said the human rights group Freedom Now.

Maran Turner, the executive director of Freedom Now, said Father Ly’s case and similar ones involving other religious figures should mean that Vietnam was placed on a United States government list of “countries of particular concern” for violations of religious freedom.

The United States, which put Vietnam on that list in 2004, lifted the designation before President George W. Bush visited Hanoi in November 2006.

Michael Cromartie, vice chairman of the United States Commission on International Religious Freedom, was permitted to visit Father Ly in prison in May. Father Ly was “in solitary confinement for reasons that are not clear,” Mr. Cromartie said.
..................................

  • 37 Thượng nghị sỹ Mỹ yêu cầu thả Linh Mục Nguyễn Văn Lý
(Reuters) July 1-2009: Một nhóm 37 Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa vừa gửi thư cho Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết yêu cầu thả linh mục linh mục Nguyễn Văn Lý "ngay lập tức và vô điều kiện".

Họ cũng tìm kiếm thêm thông tin về điều kiện sức khỏe của Lý.

Linh mục Lý bị Tòa án Nhân dân Thừa Thiên Huế phạt tù tám năm hồi tháng 04/2007 vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN Việt Nam, theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự̣.

Cùng bị xử với ông tại phiên tòa có bốn nhân vật bất đồng chính kiến khác, lãnh án từ 18 tháng đến sáu năm.

Vụ xét xử và án tù dành cho LM Nguyễn Văn Lý đã gây phản ứng gay gắt từ một số chính trị gia Hoa Kỳ. Thậm chí lúc đó, đã có yêu cầu từ dân biểu Frank Wolf đòi cách chức Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội vì không có hành động trong vụ này.

Lá thư chung vừa gửi tới Chủ tịch Triết do hai Thượng nghị sỹ Barbara Boxer thuộc Dân chủ và Sam Brownback thuộc Cộng hòa chấp bút.

Hai Thượng nghị sỹ John Kerry và John McCain không ký tên vào lá thư trên.

Phiên tòa gây tranh cãi

Thư ngỏ của 37 vị Thượng nghị sỹ viết rằng phiên tòa xử LM Nguyễn Văn Lý "sai sót nghiêm trọng", vì ông Lý không được mời luật sư bào chữa.

Thư viết: "Vì có các sai sót nghiêm trọng trong việc bắt giữ, xét xử và bỏ tù ông, chúng tôi yêu cầu (ông Chủ tịch) tạo điều kiện trả tự do cho Cha Lý ngay lập tức và vô điều kiện, cho phép ông được về nhà và hoạt động mà không bị hạn chế về tự do ngôn luận, hội họp và đi lại".

Các Thượng nghị sỹ nhắc lại cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị cáo tại các phiên tòa như quyền được coi là vô tội khi chưa bị buộc tội, quyền được mời luật sư bào chữa.

"Việc bắt giữ, xét xử và giam cầm Cha Lý đã đặt câu hỏi về cam kết của Việt Nam đối với các nguyên tắc nền tảng này."

Chính phủ Việt Nam chưa có phản ứng chính thức trước lá thư này.

Mới đây, Việt Nam đã cực lực phản đối Hoa Kỳ là "can thiệp nội bộ" sau khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Ian Kelly lên tiếng bày tỏ quan ngại về việc luật sư Lê Công Định bị bắt ngày 13/06 tại TP Hồ Chí Minh.

Linh mục Nguyễn Văn Lý đã bị xử tù ba lần, tổng cộng 14 năm, từ những năm 1970 vì theo đuổi phong trào tự do tôn giáo và dân chủ.

Năm 2001 ông bị tù sau khi kêu gọi Mỹ cân nhắc bỏ cấm vận vì các vi phạm nhân quyền của Việt Nam. Sau đó ông được ân xá năm 2005 trướ ckhi bị bắt lại và bỏ tù năm 2007.

LM Lý là một trong những người sáng lập khối đấu tranh dân chủ 8406.



Bản Lên Tiếng Về Một Bức Hình Của Ủy Ban Yểm Trợ Aarhus

  • Bản Lên Tiếng Về Một Bức Hình Của Ủy Ban Yểm Trợ Aarhus - Đan Mạch bị CSVN Sử Dụng Với Dụng Ý Sai Lạc


Lê Công Định (X) tại buổi ra mắt “ủy ban yểm trợ tự do dân chủ
tại việt nam” do Nguyễn Sĩ Bình tổ chức tại Đan Mạch. (Chú thích của báo ANTG)

Ngày 1/7/2009
    Kính gởi các cơ quan truyền thông

    Đề mục: Bản lên tiếng về một bức hình của Ủy Ban Yểm Trợ Aarhus - Đan Mạch bị Công an nhân dân Online và An ninh thế giới sử dụng với dụng ý sai lạc.
Trong loạt bài “Những kẻ cơ hội bị đẩy thành “tiên phong” chống Nhà nước” đăng trên báo Công an nhân dân online liên tiếp các ngày 22 và 23/6/2009 [1] [2] và sau đó bài “Chân tướng Nguyễn Sĩ Bình và tổ chức ‘đảng nhân dân hành động’ ” trên tờ An ninh thế giới ngày 23/6/2009 [3], nhà cầm quyền CSVN đã đăng một bức hình và khẳng định đó là một buổi hội họp do ông Nguyễn Sĩ Bình tổ chức. CSVN đánh dấu X vào một người trong hình và nói đó là luật sư Lê Công Định. Và bức hình này là một trong những cái gọi là bằng chứng mà chế độ CSVN đưa ra để kết tội ông Lê Công Định “cấu kết với thế lực bên ngoài chống lại nhà nước XHCNVN”.

Chúng tôi, Ủy Ban Yểm Trợ Aarhus (Đan Mạch), xin khẳng định trước cả thế giới rằng chúng tôi là chủ bức hình đó và là người tổ chức buổi sinh hoạt. Đây là ảnh chụp buổi sinh hoạt của đồng bào tại thành phố Aarhus (Đan Mạch) vào 18/3/2007 nhân dịp giáo sư Nguyễn Chính Kết ghé thăm cộng đồng người Việt tại đây.

Buổi sinh hoạt này KHÔNG liên hệ gì đến ông Nguyễn Sĩ Bình hay luật sư Lê Công Định, và KHÔNG hề có sự hiện diện của 2 vị này. Người bị đánh dấu trong hình là một đồng bào đang sinh sống tại Đan Mạch. CHẮC CHẮN đó không phải là luật sư Lê Công Định.

Chúng tôi xin để công luận thế giới và mọi người Việt Nam đánh giá mức độ coi thường người dân và coi rẻ công lý của hệ thống pháp lý CSVN.

Kính chào quý đài.

Trân trọng,
Ủy Ban Yểm Trợ Aarhus - Đan Mạch

Chú thích:
[1] http://www.cand. com.vn/vi- VN/binhluan/ 2009/6/115139. cand (ngày 22/6/2009)
[2] http://www.cand. com.vn/vi- VN/binhluan/ 2009/6/115179. cand (ngày 23/6/2009)
[3] http://antg. cand.com. vn/vi-VN/ sukien/2009/ 6/69712.cand? Page=2 (ngày 23/6/2009)

Đính kèm:
Hình từ các bài
[2][3]


Nguồn: Báo Công an nhân dân Online, ngày 22/6/2009

TRẦN THANH: LÝ VÀ TÌNH 12 - Bảo quốc Kiếm

Bảo quốc Kiếm

Trong bài này, tôi muốn đề cập đến Ba Yêu Sách của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ mà nhóm Trần Thanh cho là: “RẤT THỐI VÀ RẤT NGU”. Tôi xin xác nhận rõ ràng là, những ý kiến này là của cá nhân tôi, chứ không liên quan chi đến bất kỳ ai, không thay mặt cho ai cả; cũng chưa chắc phản ánh được tinh túy của tác giả là HT Thích Quảng Độ. Nguyên văn của Yêu Sách Một là:

“Yêu cầu nhà cầm quyền Việt nam cấp tốc nạp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công ước Liên hiệp quốc về luật biển cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa (UNCLOS) trước ngày giờ quy định của Liên hiệp quốc, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải Tổ quốc.

Nếu đảng và nhà nước Việt nam vẫn làm ngơ trước quyền lợi của Tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt nam, thu thập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương”.

Trước khi xin phép lạm bàn về việc này, tôi phải ghi lại lời mạt sát của Trần Thanh như sau:

“Yêu sách một: Rất ngu và rất thối.

Nếu bọn việt gian cộng sản là một chính quyền thực sự vì dân vì nước thì bọn chúng thừa biết chúng phải làm gì để bảo vệ giang sơn đất nước. Không việc gì chúng ta phải đi làm thầy dùi, khuyên bọn chúng phải làm thế này, thế nọ để bảo vệ lãnh hải. Bọn chúng sẽ chửi chúng ta rằng "chúng mày là những thằng ngụy bị thua trận, bị mất nước, không việc gì phải lên mặt dạy khôn chúng ông!" Lúc đó đưa cái mặt nhục ra mà nghe!

Cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng không việc gì phải mất công đi vận động quốc tế can thiệp, bảo vệ thềm lục địa. Bọn việt gian cộng sản phải chịu trách nhiệm trước toàn dân và lịch sử về việc này. Bọn chúng sẽ bị toàn dân xét xử. Chúng nó cứ ăn ốc rồi chúng ta cứ đi đổ vỏ hay sao?”.

Bằng một văn phong kiểu “Thần man rợ phương tây”, Trần Thanh đã giáng ngay búa rìu lên tác giả mà không cần luận chứng. Điều đó chứng tỏ rằng mục đích của bài viết chỉ nhằm đốn hạ kẻ khác mà không cần suy nghĩ; và từ đó cho thấy thái độ cuồng si của Trần Thanh trước một vấn đề mà ông ta dị ứng. Trong câu: ”Nếu bọn Việt gian Cộng sản là một chính quyền thực sự” đã chứng tỏ một thứ “nếu” tối dạ. Ngược lại với ông Thanh, Hoà thượng Thích Quảng Độ đã thấy rõ “Cộng sản không phải Chính quyền”, mà là “Nguỵ quyền phi Dân tộc, vô Tổ quốc”, do đó bọn chúng âm mưu giữ kín những toan tính dâng hiến lãnh thổ, lãnh hải Việt nam cho Trung cộng. Đến nay, sự thật đã được luật sư Nguyễn hữu Thống trình bày. CSVN đã không nói gì về những đảo Hoàng sa và Trường sa trong văn bản đệ nạp tại Liên hiệp quốc; nghĩa là chúng ngang nhiên chấp nhận hai quần đảo trên thuộc về Trung cộng. Trong lúc Trần Thanh còn “nếu” và tin tưởng rằng: ”chúng thừa biết chúng phải làm gì để bảo vệ quê hương đất nước”, thì HT Thích quảng Độ đã nhận rõ bản chất Thế giới Đại đồng (hoàn vũ) là phi biên giới, nghĩa là vô Tổ quốc, thì làm gì có chuyện “bảo vệ quê hương đất nước”, vì vậy ngài khẩn thiết kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước phải làm bổn phận của mình trước nguy cơ của Tổ quốc. Vậy chính nghĩa về ai ? AI NGU VÀ THỐI ?
Nhận rõ sự trì hoãn nạp hồ sơ là một âm mưu bán nước, nên HT Thích Quảng Độ lên tiếng bắt buộc chúng phải trình hồ sơ trước thời hạn để toàn dân biết rõ mà có thái độ phản ứng hầu cứu vãn cơ đồ. Nhưng với bản chất ngoan cố và lưu manh, CSVN chỉ đệ trình trước mấy ngày thôi (07-5-09), chúng ta không trở tay kịp. Như thế, lời báo động ấy đúng hay sai, lợi hay hại ? Đọc câu: ”Không việc gì chúng ta phải đi làm thầy dùi, khuyên bọn chúng phải làm thế này, thế nọ để bảo vệ lãnh hải”, chúng ta thấy ngay sự méo mó bất lương. Không lẽ một tên Tiến sỹ, một nhóm chính trị, nhà văn … lại không biết sự khác biệt giữa chữ “yêu sách” (demand) và “lời khuyên” (advice) hay sao ? Nếu không biết mà nói, thì chỉ là một bọn “mặt rô nhà thổ” mà thôi. Nếu biết mà nói thì là những thứ “bất lương, xảo quyệt” chứ là gì khác ? Xin lỗi, không có cách nghĩ nào khác.

Lại đọc và ngẫm nghĩ câu:

“Bọn chúng sẽ chửi chúng ta rằng "chúng mày là những thằng ngụy bị thua trận, bị mất nước, không việc gì phải lên mặt dạy khôn chúng ông!" Lúc đó đưa cái mặt nhục ra mà nghe!”


Tôi thấy tội nghiệp cho Trần Thanh quá ! Ông ta từng lên án những từ ngữ phi nghĩa, nhưng nay lại mượn lời Việt cộng để chửi lại chính ông ? Trần Thanh có biết rằng Lời kêu gọi của Hoà thượng Thích Quảng Độ là lời nói thay cho toàn dân khi họ đang bị bịt miệng ? Toàn dân không hề thua trận, mà toàn dân chỉ bị lừa. Toàn dân không phải là Ngụy, mà chính chủ nghĩa Cộng sản, đảng Cộng sản mới là Ngụy. Hoà thượng Thích quảng Độ không phải là Ngụy, mà chính Trần Thanh mới là Ngụy; bởi vì Ngụy là Bất chính, bạo ác, thô tục, dơ dáy, hạ cấp, nham hiểm, vọng ngoại. Thứ nữa “thua trận” không phải là mất chính nghĩa, “thắng trận” cũng không phải chính nghĩa; vì xưa nay kẻ ác thắng thiện chỉ là chuyện thường. Nhưng sự thắng ấy không phục vụ cho toàn dân, và sẽ bị thất bại. Cho nên, khi nói thắng hay thua, không chỉ đặt trên vấn đề bạo lực, nắm giữ được quyền hành; mà phải nói đến việc có thu phụ được “nhân tâm” hay không. Nếu không thu phục được nhân tâm, thì chắc chắn sẽ nắm lấy thảm bại không sớm thì muộn. Muốn thu phục nhân tâm thì trước hết phải có chính nghĩa. Nhưng chính nghĩa là gì, nếu không phải là con đường phụng sự Tổ quốc, Dân tộc, Đồng bào ? Chính nghĩa là gì, nếu không phải là gìn giữ, phát triển truyền thống đạo đức, là văn hoá, là thuần phong mỹ tục của Đồng bào, của Dân tộc, của Tổ quốc mình ? Thế nhưng, qua những bài viết đầy ngôn từ bàng sanh khổ thú, mặt rô nhà thổ của nhóm Hứa vạn Thọ, Trần Thanh thì có nêu lên được chính nghĩa hay không ? Nếu đã phi văn hoá, đạo đức Dân tộc Việt, thuần phong mỹ tục của Đồng bào Việt thì tự nó đã phản lại Tổ quốc, Dân tộc và Đồng bào rồi. Vậy làm sao có chính nghĩa để thắng kẻ thù Phi chính nghĩa là Cộng sản và bọn chủ trương Phi Dân tộc ? Chỉ một chuyện “ngôn hạnh thô bỉ, tự chuyên manh động” đã làm cho đồng bào thấy gớm ghiếc rồi, thì những kẻ ấy làm sao thu phục nhân tâm, làm sao để có chính nghĩa mà đấu tranh ?

Quý vị nghĩ gì khi đọc câu này:

“Cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng không việc gì phải mất công đi vận động quốc tế can thiệp, bảo vệ thềm lục địa. Bọn việt gian cộng sản phải chịu trách nhiệm trước toàn dân và lịch sử về việc này. Bọn chúng sẽ bị toàn dân xét xử”.

Tư tưởng này là gì, nếu không phải là VÔ TỔ QUỐC ? Đất nước Việt nam là của toàn dân Việt nam, nay bọn côn đồ Cộng sản dùng bạo lực để cầm quyền và chúng âm mưu bán nước, thì mỗi một người dân đều có bổn phận phải tìm cách bảo vệ. Chúng ta bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải, chứ không phải bảo vệ Cộng sản. Ngược lại, khi nói như thế là phe nhóm Trần Thanh đã bảo vệ Cộng sản rồi. Đứa con phản bội chiếm gia tài, rồi đem bán cho kẻ khác, nếu chúng ta những người anh chị không thể trực tiếp can ngăn nó, thì cũng phải tìm cách ngăn chận từ bên ngoài, tìm cách công bố cho mọi người biết rằng nó không phải là kẻ chính danh có quyền đứng tên bán gia tài của tôi. Nhờ vậy, sau này khi giết chết nó đi, chúng ta mới có thể nhờ công pháp quốc tế mà đòi lại gia sản này; nếu không thì bằng chứng nào đâu để trình bày trước quốc tế ? Lẽ nào chúng ta cúi đầu nhận chịu sự trái đạo, phi pháp của nó ? Cổ nhân nói: ”IM LẶNG LÀ ĐỒNG LOÔ, thế thì Trần Thanh bảo chúng ta “thoả hiệp với Cộng sản” để bán nước, chứ là ý gì khác khi luận lý như vậy ? Không tố cáo Cộng sản trước quốc tế, đồng nghĩa với công nhận quyền hạn của chúng; chỗ léo lận xỏ lá này đã phơi bày bộ mắt gian dối của băng đảng Hứa vạn Thọ. Không trưng bằng chứng về chủ quyền quốc gia Việt nam mà chúng ta có trước Liên hiệp quốc, đồng nghĩa với “nhận Cộng sản làm cha” và trao toàn quyền cho chúng. Một câu xỏ lá nữa là: ”Bọn chúng sẽ bị toàn dân xét xử”. Cái nghệ thuật này nghe sao gớm ghiếc quá ! Khi Cộng sản bán nước thì anh cúi đầu im lặng chấp nhận, nghĩa là anh công nhận việc làm của chúng là đúng. Như thế, khi anh “trở chứng” kêu gọi bà con giết hết chúng đi, thì nước anh đã vào tay kẻ khác một cách hợp pháp rồi; bởi khi chúng bán anh đâu có nói năng, phản đối gì, anh cũng không nhắn gửi với ai về việc sai trái của chúng. Vậy thì, câu nói này chỉ nhằm “hợp thức hoá” việc Cộng sản bán nước mà thôi !

Có một số vị cho rằng chúng ta không có tư cách để nói với Liên hiệp quốc vì ông Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Và như thế, VNCH không còn nữa, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không còn là Quốc kỳ Việt nam, mà chỉ còn là biểu tượng cho người Việt tỵ nạn CS. CSVN là chính quyền hợp pháp trước quốc tế ! Sự thật có đúng như vậy không ? Theo tôi, một phần đúng, vì hiện nay CSVN được quốc tế thừa nhận là chính phủ đang điều hành nước Việt nam. Điều đó không thể phủ nhận. Thế nhưng, có ai nghĩ rằng việc tuyên bố đầu hàng của Tướng Dương văn Minh là một sự kiện lịch sử có giá trị hay không ? Nếu không bị Đồng minh chủ trương phản bội, nếu không bị CS dùng bạo lực xâm lăng, nếu bọn cầm quyền trước đó của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không bỏ chạy … thì làm gì có chuyện “Tổng thống vài ngày” phải đầu hàng ? Có thể làm gì được khi mà Nguyễn văn Thiệu đã để cho CS vô Dinh Độc lập rồi ? Làm gì được khi mà toàn quân đã mất tinh thần vì vụ rút hai Quân đoàn I và II, đã rã ngũ, tướng tá chuồn đi hết, kể cả Tổng thống, Thủ tướng, Tham mưu trưởng QLVNCH, Phủ Tình báo Trung ương đã trốn mẹ hết rồi ? Làm gì được khi mà nguồn quân viện không còn, căn cứ hải lực không quân đã rơi vào tay giặc Cộng, các Tư lệnh đã bỏ chạy ? Nếu hô chiến đấu, thì chiến đấu được bao lâu, mấy ai chiến đấu, hay chỉ giúp cho Cộng sản tàn phá cả quê hương và diệt tận Dân tộc này ?

Có người khác lại nói “Dương văn Minh đã cướp chính quyền một cách êm thắm để bàn giao cho Cộng sản”. Đây là một luận điểm hàm hồ và ác ý. Chính Quốc hội “Đại chiên Nguyễn văn Huyền”… đã buộc Tổng thống Trần văn Hương bàn giao quốc gia một cách vô lý cho một “công dân tay trắng Dương văn Minh”, chứ họ Dương lấy cái gì mà ”cướp chính quyền” ? Không phải không ai biết ĐẠI ÂM MƯU này, nhưng Dương văn Minh bị bắt buộc phải bán đứng danh dự chính mình để cứu hơn Ba triệu dân Sài gòn, và Thủ đô VNCH không bị huỷ hoại như vụ Mậu Thân 1968 tại Huế. Vậy thì, việc những người chê bai Dương văn Minh đầu hàng có phải đã tiếc nuối KHÔNG MƯỢN ĐƯỢC BÀN TAY CỘNG SẢN TIÊU DIỆT DÂN TỘC VIỆT ĐỂ TRẢ THÙ NHƯ MẬU THÂN 1968 TẠI HUẾ HAY KHÔNG ???

Lại chuyện là Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là cờ gì ? Tôi xin nhắc lại rằng, Đại tướng Dương văn Minh, Tổng thống vài ngày “yêu cầu buông súng đầu hàng”, nghĩa là giới cầm quyền, tức chính phủ VNCH của hai đời Diệm-Thiệu đầu hàng Bắc việt cộng theo lệnh quan thầy của họ; nhưng Tổ quốc Việt nam không đầu hàng, đồng bào không đầu hàng. Cuộc bỏ phiếu bằng chân của hai ba triệu dân đã nói rõ điều này, trong đó hàng trăm ngàn mạng đã phải chôn thây nơi rừng hoang, biển cả. Do đó mà lá Cờ Vàng là hồn nước được đồng bào mang theo, nó không phải riêng của chế độ. Trước tình thế hiện nay, CSVN đang chiếm lấy sự cầm quyền trong nước, chúng ta chưa thể khôi phục lại một quốc gia tự do, dân chủ thật sự. Nhưng chúng ta không chấp nhận Cộng sản, thì cũng không thể nào chấp nhận lá Cờ Đỏ Sao Vàng làm tượng trưng cho Tổ quốc. Vậy thì, khi hướng hồn về Tổ quốc, chúng ta lấy gì để tượng trưng ? Không lẽ lấy Cờ Đỏ Sao Vàng của Cộng sản ? Do đó, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn là tượng trưng cho Tổ quốc Việt nam của những người không chấp nhận Cộng sản. Chúng ta còn chiến đấu với chúng, và còn hy vọng quang phục quê hương. Thế nhưng, không tránh khỏi một vài kẻ lợi dụng để cho mơ ước riêng của băng đảng họ. Họ xem lá cờ ấy như là một lá bùa của bóng dáng Diệm -Thiệu trong tương lai. Chúng tôi, những người hiện nay vẫn xem lá Cờ Vàng là lá cờ Tổ Quốc Việt nam, nhưng không mang khái niệm như họ. Một ngày nào đó, Chủ nghĩa Cộng sản không còn, thì QUỐC DÂN ĐẠI HỘI sẽ quyết định một lá cờ mới, (cũng có thể lá Cờ Vàng được chấp thuận) một bản QUỐC CA mới cho Tổ quốc Việt nam, thì chúng tôi sẽ tuyệt đối tôn trọng; và lúc đó là Cờ Vàng hiện nay chỉ còn là một kỷ niệm của một giai đoạn lịch sử mà thôi.

Qua vài cảm nghĩ như thế, tôi thấy rằng lời kêu gọi của Hoà thượng Thích Quảng Độ, vị nhân danh Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN để tuyên cáo trước quốc dân và quốc tế về việc đảng Cộng sản Việt nam âm mưu bán nước, là một việc làm rất cần thiết mà tất cả mọi người dân Việt nam phải lên tiếng ủng hộ, vì đó không phải việc riêng của Phật giáo, mà là việc chung của Tổ quốc, Dân tộc và Đồng bào. Và nên nhớ cho rằng đây là một yêu sách bắt buộc Cộng sản phải thực hiện, chứ không phải là “thầy dùi”, là “lời khuyên” như Trần Thanh nói.

Đến yêu sách thứ hai, Đại lão Hoà thượng Thích quảng Độ viết:

“Yêu cầu nhà cầm quyền Việt nam công bố toàn bộ nội dung hai bản hiệp ước biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam và Cộng hoà nhân dân Trung hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn của lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng”
.

Phản ứng của băng đảng Hứa vạn Thọ, qua bài viết Trần Thanh là:

“Yêu sách hai: Cũng rất thối và rất ngu!

Ðây là yêu sách ruồi bu. Có khác gì chúng ta yêu cầu một con đĩ tuột quần ra để chúng ta kiểm tra sự toàn vẹn của cái .... màng trinh của nó! Toàn dân có biết được sự toàn vẹn hay không toàn vẹn của lãnh thổ thì giải quyết được điều gì ? Thân phận nô lệ vẫn làm nô lệ! Chính vì muốn được làm nô lệ cho nên ông Ðộ chỉ dám yêu sách đòi kiểm tra "cái màn trinh của con đĩ" chớ không dám vùng lên đạp đổ bạo quyền! “


Ngay cái ngôn ngữ của băng đảng này đã chứng tỏ một bầy mất dạy, một lũ dã thú rừng hoang, một bọn côn đồ mặt rô nhà thổ, chứ đâu phải những con người, thậm chí là một con người vô học. Trẻ em Việt nam có biết bao nhiêu đứa thất học, sống đầu đình xó chợ để kiếm ăn, kể cả móc túi, cướp giựt, nhưng tôi chưa thấy những đứa nào ăn nói như bọn khoa bảng, chính trị, tôn giáo này. Gặp người lớn, bọn lưu manh vẫn biết thưa ông, thưa bà, thưa bác, thưa chú, thưa cô, thưa anh, thưa chị…, nhưng băng đảng họ Hứa thì không. Vậy chúng là bầy thú (chiên, bò, trâu, chó, rắn..) chứ đâu phải là người ? Thế thì chúng thò mặt ra để làm gì ? CẮN ??? Vâng, chỉ một chữ này là đúng nhất.

Nhưng tại sao bọn này chủ trương CẮN PHẬT GIÁO ? Đó là một vấn đề tương đối còn bí mật, chưa ai dám nói ra. Nhưng tôi sẽ nói trong cuốn “Liên Thành và Mắm tôm”. Ở đây, chỉ xin tiết lộ một điều kẻo một số quý vị nhầm lẫn tội nghiệp. Tôi có đọc qua vài bài mà một số tác giả khen ngợi rằng trước đây Băng đảng Hứa vạn Thọ “ủng hộ GHPGVNTN” và đã đăng những bài lên án nhóm Về nguồn của Tuệ sỹ, Lê mạnh Thát ! Sự thật có phải vậy không ? Xin thưa ngay là không phải vậy. Theo dõi nhiều bài viết cũng như nhìn CĂN CỐT của nhóm này, tôi đã phát hiện họ là ai từ lâu. Để thực hiện chủ trương thiên giáng, họ sẽ làm cho CON TRAI TỐ CHA, CON GÁI ĐẤU MẸ, DÂU CHỐNG BÀ GIA VÀ NGƯỜI TA SẼ CÓ KẺ THÙ LÀ NGƯỜI NHÀ CỦA MÌNH để trục lợi. Trong lúc mái nhà Phật giáo đang suy sụp, họ sẽ tự chia ra để giúp bên này chống đỡ, nhưng bên kia thì đạp xuống. Và cuối cùng họ sẽ “tàn sát” nhóm còn lại. Đây là cạm bẫy của THẦN CHIẾN TRANH, mà họ đã được phép giăng ra từ sau 1963 tại Việt nam. Chính băng đảng này đã âm mưu thủ tiêu Huế, Đà nẵng trong năm 1966. Vì bị Mũi lõ cản trở, chúng xoay qua vụ Thảm sát Mậu Thân 1968, và rồi tập hợp lực lượng đổ lên đầu Phật giáo tội diệt chủng. Ai không tin tôi thì cứ kiểm điểm tất cà sách vỡ, bài viết, và hành động của nhóm này rồi truy chứng từ 1963 cho đến ngày nay xem sao. Một điều cần đặc biệt lưu tâm, đó là từ sau 30-4-1975 họ đã làm gì ở trong nước ? Tuy nhiên cũng phải thận trọng, vì toàn bộ tiến trình được xây dựng trên căn bản “tình báo chính trị”. Chỉ một thứ thôi thì đã là khó, còn nay kết hợp cả Chính trị lẫn tình báo lại một, thì chuyện đời càng bí hiểm hơn nhiều. Nhưng sự bí hiểm chỉ đến với kẻ vô tâm, hoặc cố tình tàn hại Phật giáo và Dân tộc mà thôi.

Trở lại Yêu sách thứ hai mà Đại lão Hoà thượng Thích quảng Độ nêu ra, mà phe đảng họ Hứa đã thẳng mồm “vừa chửi vừa ngửi là tại làm sao. Sự so sánh của Trần Thanh giữa một văn bản Hiệp ước mang tính quốc gia, quốc tế với cái “màn trinh con đĩ”, thì tự ông ta đã xem thường Tổ quốc, Dân tộc và Đồng bào rồi. Văn bản ấy không những liên hệ đến xương máu của những người hiện sống; mà nó còn mang cả núi xương, sông máu của lớp lớp tiền nhân trong hơn bốn ngàn năm dựng nước, mở nước và giữ nước. Thế thì, những lời lẽ ấy chống lại tội bán nước của Cộng sản hay thỏa hiệp với chúng ? Từ sự khinh thường như đã nói, cho thấy bọn người này có cùng quan điểm coi thường Tổ quốc Viêt nam như đảng Cộng sản. Vì quan niệm Tổ quốc như “cái màn trinh con đĩ”, nên chúng đẩy đưa cho ai thì cũng vậy thôi, không đáng giá trị gì; miễn sao việc ấy đem lại lợi nhuận cho chúng là được rồi !!! Thật là khốn nạn !

Do biết rõ âm mưu tồi bại của chế độ Cộng sản, Hoà thượng Thích quảng Độ đã đưa ra yêu sách thứ hai. Một điều mà Cộng sản không thể thực hiện nỗi. Không chỉ đòi hỏi phải đưa ra bản Hiệp ước, mà còn đòi phải có Bản đồ đính kèm, chính là một thách thức cay nghiệt với bọn cầm quyền Hà nội. Do bị đánh vào yếu huyệt, chúng đã sai “tôi tớ hèn mọn” làm cái công việc chửi. Chỉ có chửi mới có thể khoả lấp vấn đề mà thôi; đó là một đường lối “xưa như quả đất dưới 10,000 tuổi”, nhưng cũng có hiệu quả chút xíu đối với kẻ đui mù.

Trong câu viết:

“Toàn dân có biết được sự toàn vẹn hay không toàn vẹn của lãnh thổ thì giải quyết được điều gì ?” đã chứng tỏ “tinh thần độc tài tuyệt đối” và khinh thường toàn dân của Băng đảng này. Đây chính là lời lẽ của “bọn độc tài cha” khai thị cho “lũ độc tài con” rằng quyền năng của chúng đã được ban phát, và không ai có thể cưỡng lại. Như vậy, rõ ràng băng đảng này coi sự quyết định của đảng CSVN là tối thượng, dù cho toàn dân biết cũng chẳng làm được gì. Đó cũng là một lối lý luận phi dân chủ, phản nhân quyền, trái ngược với trào lưu quốc tế. Nếu xem dân chúng chẳng làm được gì, thì sao bọn CS phải sợ mà giấu kín ? Thì sao bọn người này phải đỡ đầu cho CS, phải chống lại quyền quyết định của toàn dân ? Phải chăng do quá sợ hãi sự phản kháng tuyệt đối của toàn dân, kể cả những người đảng viên CS giác ngộ, những người “quân đội nhân dân” đã thấy rõ sự phản trắc của đảng Cộng sản trước sự cắt xén dâng nộp một phần da thịt của quê hương ? Âm mưu này còn lộ liễu hơn khi Trần Thanh cho rằng “mặt trận chính là ở hải ngoại”. Chúng ta cần phân tích thêm để thấy rõ những độc hiểm của lý luận này.

Bảo Quốc Kiếm
20-6-09

Wednesday, July 1, 2009

Diễn Hành Văn Hóa 2009 tại New York - 06/2009







http://picasaweb.google.com/dnguyen39/Y09_DienHanhVHQT_27June?authkey=Gv1sRgCN6Y_vatlsGvvQE&feat=email

http://www.mediafire.com/?sharekey=68724eeb0c8093dfe62ea590dc5e5dbb 563094c1b636902e 5be6ba49b5870170
http://www.mediafire.com/imageview.php?quickkey=miyonywmtfa&thumb=4