Wednesday, June 24, 2009

Nguy Cơ Sống Còn Của Mékong - Ngô Thế Vinh

14 Con Đập Vân Nam, Nguy Cơ Sống Còn Của Mékong

Ngô Thế Vinh

Khi được hỏi về mối quan tâm của các quốc gia hạ nguồn về ảnh hưởng khai thác sông Mekong của TC, thì Wang Xiaodong chuyên viên Viện Nghiên Cứu Hoa Lục thản nhiên đáp: “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm” [7].

Mặt Trời Nhỏ Trên Sông Mekong

Các dự án khai thác sông Mekong của Trung Quốc đã có từ thập niên 70 trong thời kỳ còn bức màn sắt cô lập đất nước này với thế giới bên ngoài. Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa mãi tới năm 1989 người ta chỉ mới được biết sơ qua các dự án thủy điện Vân Nam qua một cuốn sách duy nhất của Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn bản tiếng Trung Hoa dày hơn 600 trang nhan đề “Lan Thương Giang: Tiểu Thái Dương” gồm 45 bài viết về các đề tài khác nhau nhưng tựu chung là chỉ đề cập tới những lợi lộc về thủy điện và nguồn nước của chuỗi 7 con đập bậc thềm trên sông Mekong tỉnh Vân Nam với tổng số công suất lên tới 15400 Megawat tổn phí dự trù là 7.7 tỉ $US. [2]

Nhưng đó là những con số của thập niên 70. Bây giờ là năm 2002, tưởng cũng nên cập nhật hoá - Hiroshi Hiro [6], một chuyên gia uy tín về sông Mekong của Nhật Bản cho biết theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam, thì không phải chỉ có BẢY mà con số đã lên tới MƯỜI BỐN con đập trên dòng chính khúc thượng nguồn sông Mekong chưa kể vố số những con đập phụ lưu.

Tên 14 con đập theo thứ tự từ bắc xuống nam đó là:

1. Liutongsiang, 2. Jiabi, 3. Wunenglong, 4. Tuoba, 5. Huangdeng, 6. Tiemenkan, Guongguoqiao/Công Quả Kiều,7. 8. Xiaowan/Tiểu Loan - khởi công 2001, 9. Manwan/Mạn Loan - hoàn tất 1993, 10. Daichaoshan/Đại Triều Sơn, 11. Nuozhado/Nọa Trát Độ, 12. Jinhong/Cảnh Hồng, 13. Ganlanba/Cảm Lãm Bá, 14. Mengsong/Mãnh Tòng .

Khúc sông Mekong từ Tây Tạng xuống Vân Nam chảy rất siết [nên có tên Lan Thương Giang/Con Sông Xanh Cuộn Sóng] với rất nhiều ghềnh thác có nơi cao hơn 600 mét. Với độ dốc ấy, dòng chảy siết ấy được coi là lý tưởng cho việc xây cất chuỗi những con đập thủy điện khổng lồ, lại thêm lợi điểm nữa là vị trí các con đập trên vùng thưa dân nên không phải tốn kém nhiều trong việc tái định cư các nạn nhân trong vùng xây đập.

Tuy đã có kế hoạch rất hấp dẫn khai thác sông Mekong rất sớm từ những năm 70 nhưng vì thiếu ngân sách nên mãi tới năm 80 con đập Manwan/Mạn Loan đầu tiên cao 99 mét với bức tường thành cao 35 tầng mới được khởi công và 13 năm sau thì xây xong và ngay sau đó cảnh thiếu điện tối tăm của Vân Nam và thủ phủ Côn Minh đã trở thành quá khứ. Khi hoàn tất chuỗi các con đập Vân Nam này, Trung Quốc sẽ dư khả năng điện khí hóa toàn các tỉnh phía nam và phía đông cận duyên của Trung Hoa. Cuốn sách cũng đề cập tới tiềm năng sông Mekong như một thủy lộ để đi về phương nam.

Nhưng điều đáng nói là cả cuốn sách không có bài viết nào nghiên cứu về hậu quả “có thể chấp nhận được hay không” của chuỗi các con đập ấy đối với 5 nước vùng hạ lưu là Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam. Trung Quốc thì luôn luôn giấu kín nhẹm các kế hoạch khai thác sông Mekong của mình – như một thứ bí mật quân sự. Lê Quang Minh, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ Đồng Bằng Sông Cửu Long đã phải than thở: “Thật khó để có được thông tin từ phía Trung Quốc. Điều ấy khiến chúng tôi thật sự lo ngại”. [4]

Thản hoặc nếu có chút hé mở ra thì Bắc Kinh chỉ toàn nói tới những điều tốt đẹp các khía cạnh màu hồng với hiệu quả tích cực của các con đập “mang tính giai thoại – anecdotal” chứ không phát xuất từ một cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh nào. Chẳng hạn theo họ thì chỉ với ba con đập đầu tiên Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng có thành vách cao với các hồ chứa theo mùa/seasonal reservoirs, lấy nước tối đa trong Mùa Mưa và xả nước trong Mùa Khô sẽ có tác dụng chống lũ lụt và chống hạn cho các quốc gia dưới nguồn [sic].

Nhưng với những người Cam Bốt hiểu biết thì thấy ngay rằng nếu không còn con lũ hàng năm từ thượng nguồn đổ về để tạo dòng chảy ngược từ con sông Tonlé Sap vào Biển Hồ [như trái tim và sự sống của Cam Bốt] thì rõ ràng đó là tương lai của một Biển Hồ chết . Riêng với Đồng Bằng Sông Cửu Long Nam Việt Nam thì các con sông Tiền sông Hậu sẽ không còn phù sa (nguồn phù sa chủ yếu từ thượng nguồn bị giữ lại trong các hồ chứa Vân Nam) mà cả cạn nguồn nước ngọt để thay thế bằng một biển mặn vì lòng sông thấp hơn mặt biển và rồi ra sẽ chẳng còn đâu vựa lúa nuôi sống cả nước và cũng không còn đâu cả một Nền Văn Minh Miệt Vườn. Trung Quốc đang ngang ngược và độc quyền khai thác con sông Mekong bằng cái giá của hạnh phúc an sinh và cả sống còn của hàng trăm triệu cư dân nơi các quốc gia hạ nguồn.

Sông Mekong Như 1 Con Sông Quốc Tế

Theo định nghĩa chính trị địa dư (geopolitics), một con sông được coi là quốc tế khi:

a. chảy qua hai hay nhiều quốc gia, hoặc
b. tiêu tưới cho lưu vực [drainage basin] của hai hay nhiều quốc gia hoặc
c. liên quan tới vấn đề biên giới thuộc lãnh vực công pháp quốc tế hay
d. là phương tiện giao thông đi lại bằng một thỏa thuận quốc tế.

Khảo sát từng khía cạnh trên với con sông Mekong:

a. Chảy qua 7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam trước khi đổ vào Biển Đông.

b.
Tiêu tưới cho vùng Lưu Vực Lớn Sông Mekong (Greater Mekong Subregion) bao gồm Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam.

c.
Con sông Mekong trong quá khứ đã từng liên quan tới vấn đề tranh chấp biên giới. Hơn 100 năm trước (1893) Pháp nhân danh sự toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương, đã đưa tàu chiến tới và ra tối hậu thư bắt vua Thái phải nhượng lại tất cả đất đai thuộc phía đông sông Mekong; rút cuộc Thái chỉ còn khúc sông 750 km như là đường biên giới thiên nhiên với nước Lào.

d. Di chuyển trên sông Mekong như một thủy lộ quốc tế lẽ ra là hoàn toàn tự do theo bộ luật La Mã nhưng trên thực tế tự do ấy chỉ có nghĩa rất tương đối bởi vì khi con sông chảy vào nội địa một quốc gia nào thì quyền tự do giao thông vẫn bị hạn chế hay cả bị tước đoạt tùy theo cách diễn dịch của quốc gia liên hệ.

[Một ví dụ, ngay giữa cuộc Chiến Tranh Việt Nam - theo New York Times, ngày 20 tháng 9, 1964 do tình báo của chính phủ Sài Gòn ghi nhận là Cộng Sản Bắc Việt đã chuyên chở vũ khí bằng đường sông Mekong xuống Nam Vang rồi từ đó đưa vào miền Nam Việt Nam khiến tướng Nguyễn Khánh lúc đó là thủ tướng tuyên bố cần phải hạn chế lưu thông trên sông Mekong nếu như Cam Bốt vẫn tiếp tục chánh sách thiếu thân thiện với Nam Việt Nam].

Do hội đủ tất cả các Đặc tính Chính trị Địa dư ấy, sông Mekong đúng nghĩa là một Con Sông Quốc Tế - International River.

Wang Xiaodong - một chuyên viên Viện Nghiên Cứu Hoa Lục ở cái tuổi 45 - như nguồn chất xám của Hoa Lục, không thể không biết con sông Mekong là một “con sông quốc tế” nhưng khi được hỏi về mối quan tâm và lo ngại của các quốc gia hạ nguồn về ảnh hưởng của chuỗi những con đập bậc thềm Vân Nam thì anh ta thản nhiên đáp: “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm.” [7]

Wang Xiaodong biểu trưng cho một tinh thần quốc gia cực đoan và bá quyền của Trung Quốc dựa trên sức mạnh trong khung cảnh một thế giới bước vào “toàn cầu hóa/globalization”. Như vậy thì làm sao lục địa Á Châu có thể có được một tương lai hòa bình.

Nguy Hại Môi Sinh Của Chuỗi Đập Vân Nam

Trong chiến lược khai thác khúc thượng nguồn con sông Mekong, Bắc Kinh chỉ có một mối bận tâm duy nhất là điện khí hóa các tỉnh vùng tây nam của Trung Quốc [6].

Từ kinh nghiệm ngót một thế kỷ qua của thế giới và chính Trung Quốc về khai thác thủy điện, mọi người đều biết rất rõ rằng khi ngăn chặn dòng sông để xây đập như với những sông Nile, Danube, Colorado, Mississipi, Hoàng Hà và Dương Tử … bao giờ cũng tạo nên một chuỗi những hậu quả và ngày nay thì vẫn cứ là “Những Bài Học Không Học ấy - Unlearned Lessons” [1] đối với con sông Mekong.

Ảnh hưởng trên vùng xây đập: ngoài việc phải tái định cư dân chúng đang sống trên vùng xây đập, các công trình xây cất quy mô sẽ tàn phá sinh cảnh, phá hủy môi trường sống của các loài thú. Nước tù đọng từ các hồ chứa làm gia tăng các bệnh về nước - water-borne diseases (sốt rét, sốt xuất huyết, bệnh sán gan do sên); nước hồ bốc hơi gây thay đổi khí hậu. Ngoài ra nước hồ chứa có thể bị rỉ thoát, làm đất xụp.

Và kinh hãi hơn nữa là các trận “động đất do hồ chứa - reservoir triggerred seismicity”, Các nhà khoa học địa chất khảo sát những con đập lớn nhận thấy sức nặng thường trực của khối nước khổng lồ trong hồ chứa đã gây ra tình trạng mất cân bằng địa chấn, gây đứt đoạn lớp địa từng dưới đáy có thể làm vỡ cấu trúc toàn con đập.

Đã có nhiều tường trình về các trận động đất gây ra do hồ chứa làm chấn động dư luận thế giới. Như hồ chứa Đập Aswan High - Ai Cập khi lấy đầy nước; thì sau đó các trận động đất M4.7 - 3/82, M4.3 - 2/83 đã xảy ra trên một vùng đất mà trước 1980 chưa hề có ghi nhận một cơn địa chấn nào. Tại Trung Quốc, gần tỉnh Quảng Đông, có con đập Tân Phong Giang/Xinfengjian cấu trúc giống đập Aswan đã bị một cơn địa chấn M6.1 vào năm 1961. Các trận động đất khác do hồ chứa cũng đã xảy ra với con đập Koina - Ấn Độ M5.5 - 9/67, M6.3 - 12/67 làm nứt thành đập và khiến hơn 180 người chết}. [6]

Không phải là hư cấu khi nghĩ tới tình huống trận động đất - induced earthquake do các hồ chứa khổng lồ Vân Nam trong Lưu Vực Sông Mekong. Con người đến lúc đó đã không còn làm chủ được khoa học kỹ thuật của mình. Sức tàn phá khủng khiếp của Cơn Hồng Thủy Vỡ Đập sẽ cuốn đi bao nhiêu thành phố và bao nhiêu vạn sinh linh nơi các quốc gia hạ nguồn? Liệu đó có bao giờ là mối ưu tư của các “Công Trình Sư Đại Hán” khi hình thành dự án Chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Vân Nam?

Nhưng quan trọng nhất phải kể tới một chuỗi tác hại trước mắt của những con đập đối với các nước hạ nguồn như: gây rối loạn dòng chảy, gây xói lở bờ sông, đọng muối trong đất. Làm mất nguồn phù sa như nguồn phân bón thiên nhiên do những cơn lũ hàng năm đem lại cho vùng châu thổ. Gây tổn hại về cá và ngư nghiệp bao gồm nguồn cá nước ngọt và cả hệ thủy sản nước lợ. Gây ô nhiễm nguồn nước với Điện khí hóa - Kỹ nghệ hóa - Đô thị hóa, trút đổ chất phế thải kỹ nghệ độc hại như chì, kẽm, cyanide từ các khu quặng mỏ rất giàu có của Vân Nam xuống sông và Đồng Bằng Sông Cửu Long luôn luôn là điểm hẹn cuối cùng. Do không còn phù sa bồi đắp, mũi Cà Mau và vùng duyên hải sẽ bị sạt lở, lại thêm lòng sông thấp hơn mặt biển, nước mặn sẽ càng ngày càng lấn sâu vào toàn vùng Đồng bằng Châu Thổ, có thể lên xa tới tận Nam Vang (cá đuối - cá nước mặn đã vào tới Đồng Tháp).

THÊM CON ĐẬP MẸ KHỔNG LỒ TIỂU LOAN / XIAOWAN

Theo tin Asian Pulse [5] từ Côn Minh 04/12/2001: Li Jiating tỉnh trưởng Vân Nam thông báo là Trung Quốc đang rộn rịp chuẩn bị khởi công xây con đập vĩ đại Tiểu Loan/Xiaowan chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Hiệp/Three Gorges Dam lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.

Đập Tiểu Loan được xây nơi khúc giữa Lan Thương Giang (tên Trung Quốc của con sông Mekong). Đây là đập thủy điện thứ ba nhưng lại là lớn nhất trong chuỗi những con đập Bậc Thềm Vân Nam [Mekong Cascades] của Trung Quốc trên dòng chính sông Mekong tiếp theo sau hai con đập Mạn Loan 1500 MW, Đại Triều Sơn 1350 MW.

Đập Tiểu Loan sẽ có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng]. Tiểu Loan sẽ như một con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, chỉ riêng những con số cũng đã gây mối quan tâm lo ngại cho các nhà bảo vệ môi sinh và 5 quốc gia nơi hạ nguồn. Đây sẽ là một con “đập cao nhất thế giới” 292 mét tương đương tòa nhà chọc trời cao 100 tầng. Và theo Kou Wei giám đốc thủy lợi sông Mekong thì hồ chứa đập Tiểu Loan sẽ là “Con Đập Mẹ/Mother Dam” dung lượng lên tới 15 tỉ mét khối nước lấy từ con sông Mekong – bằng tổng số dung lượng tất cả các hồ chứa tỉnh Vân Nam. Tổn phí để xây con đập Tiểu Loan lên tới trên 4 tỉ $US cũng là tổn phí cao nhất cho tất cả các dự án Vân Nam trong nửa thế kỷ qua. Nhiều chục ngàn công nhân đã được điều động tới để xây dựng cầu đường và các dự án yểm trợ cho đại công trình. Dự trù đập Tiểu Loan sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2010 và đạt toàn công suất năm 2013, mỗi năm sản xuất 18.9 tỉ kilowatt/giờ, phân nửa lượng điện ấy sẽ được chuyển qua Quảng Đông và các tỉnh cận duyên Trung Quốc.

Tiểu Loan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc nơi vùng Tây Nam nghèo khó chưa phát triển nhưng lại rất giàu nguồn “than trắng”. Số lượng điện hiện giờ đã dư dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và nay đã có thể chuyển sang các tỉnh thiếu điện miền đông. Chỉ riêng năm nay Vân Nam đã cung cấp cho tỉnh Quảng Đông 900 000 kilowatt/giờ và dự trù sẽ cung cấp 15 triệu kilowatt/giờ trong vòng 15 năm tới.

LÝ LẼ CỦA KẺ MẠNH

Dựa trên lý lẽ của kẻ mạnh, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Trung Quốc tự cho là có toàn quyền khai thác con sông Mekong với thế thượng phong là quốc gia thượng nguồn mà chẳng kể gì tới tới mối quan tâm lo lắng về thảm họa môi sinh do họ gây ra cho các nước dưới nguồn.

Năm 1995 Bắc Kinh đã dứt khoát từ chối tham gia Ủy Hội Sông Mekong để vẫn là một nước Trung Hoa “ngoài vòng kiêm tỏa” tự do muốn làm gì thì làm. Ủy Hội Sông Mekong không có Trung Quốc tham gia và hợp tác sẽ trở thành một tổ chức vô hiệu và tê liệt.

(Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về lịch sử hình thành Ủy Hội Sông Mekong. Năm 1957, Ủy Ban Sông Mekong/Mekong River Committee được Liên Hiệp Quốc thành lập bao gồm 4 nước Thái, Lào, Cam Bốt và Việt Nam với trụ sở đặt tại Bangkok để có kế hoạch khai thác con sông Mekong không phải chỉ có tiềm năng thủy điện mà còn cả về phát triển thủy lợi, canh nông, ngư nghiệp và giao thông. Nhưng do Chiến Tranh Việt Nam lan rộng mọi nên kế hoạch khai thác sông Mekong phải đình hoãn. Đến tháng 4 năm 1995, bốn nước lại nhóm họp để thành lập Ủy Hội Sông Mekong/Mekong River Commission với trụ sở đặt tại Nam Vang nhưng với điều thay đổi rất cơ bản là không nước hội viên nào có quyền phủ quyết/veto power).

Đến năm 1997, cho dù Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn công ước liên quan tới vấn đề hợp tác phát triển bền vững và sử dụng nước trên các con sông quốc tế nhưng cũng chính Trung Quốc đã lại bỏ phiếu chống. Tháng 08 năm 2000 có thêm một Hội Nghị “ASEAN Plus Three” họp tại vương quốc Brunei, ngoài các nước thuộc Hiệp Hội Quốc Gia Đông Nam Á, còn có thêm ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn nhưng do thái độ ngang ngạnh của Bắc Kinh nên cũng không đưa tới một kết quả cụ thể nào, phá tan niềm hy vọng hợp tác của các nước hạ nguồn với Trung Quốc trong kế hoạch phát triển Sông Mekong. [4]

Trong khi đó Trung Quốc vẫn không ngừng “xây thêm – xây thêm” những con đập Vân Nam. Trung Quốc đã tự do lấy nước vào các hồ chứa khổng lồ, làm cạn dòng sông, ngăn chặn nguồn phù sa, hủy hoại nguồn cá, với tác hại lâu dài trên toàn hệ sinh thái ảnh hưởng tới đời sống của hàng trăm triệu cư dân dưới nguồn. Xa hơn nữa họ còn có khả năng đổi dòng sông Mekong để có nước tưới cho những vùng đất mênh mông khô hạn của Trung Quốc và cả dùng chất nổ phá vỡ những khối đá trên sông để mở thủy lộ giao thông đi rất xa về phương nam. Điển hình là vào tháng 4 năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Mekong nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Điện, Thái Lan và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Simao Vân Nam xuống Chiang Khong Chiang Sean Thái Lan xuống thẳng tới Vạn Tượng thủ đô nước Lào. Trong khi Việt Nam và Cam Bốt là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài. [9]

Trong các chuyến đi khảo sát thực địa bên Lào (12/00) và Cam Bốt (12/01) mới đây, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái của con sông Mekong đang cạn dần – một cách tệ hại và nhanh hơn cả những dự đoán bi quan nhất. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi một giáo sư am hiểu tình hình Trung Quốc đã đưa ra nhận xét là trong bang giao quốc tế “Trung Quốc chưa hề có một hồ sơ theo dõi tốt – good track records”.

TRUNG QUỐC NẮM MỌI CON BÀI.

Sông Mekong - con sông Danube của Phương Đông, như một con sông quốc tế lớn thứ 11 thế giới và thứ ba Châu Á ấy đang đứng trước những nguy cơ do những bước phát triển tự phát bừa bãi dẫn tới từng bước hủy hoại toàn hệ sinh thái vô cùng phong phú của con sông [chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon Nam Mỹ].

Thảm họa lớn nhất cho con sông Mekong là Những Đập Thủy Điện không ngừng được xây thêm – xây thêm trên dòng chính và cả các phụ lưu. Đáng sợ nhất vẫn là Chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Khổng Lồ Vân Nam khiến nhiều khúc sông bị bóp nghẽn, làm ảnh hưởng trên toàn sinh cảnh của dòng sông và tác hại lâu dài trên hàng trăm triệu cư dân sống hai bên bờ con sông ấy.

Witoon Permpongsachareon, chủ tịch nhóm bảo vệ môi sinh TERRA (Towards Ecological Recovery & Regional Alliance) có văn phòng ở Bangkok phát biểu: “Những con đập là mối đe dọa lớn nhất đối với con sông Mekong và sự trong lành của môi sinh. Xây một con đập thì cũng giống như kẹp một động mạch trên một cơ thể khỏe mạnh. Nếu máu không lưu thông chắc chắn cơ thể ấy sẽ bị tổn hại” [8]. Cũng lại chính Witoon tiếp: “Chúng ta phải cùng nhau hợp tác khai thác con sông Mekong như một toàn thể và không để cho bị chia cắt bằng những hàng rào chánh trị”.

Đó chỉ là tiếng kêu cứu trong sa mạc bởi vì trớ trêu thay, tất cả mong ước ấy có thành tựu được hay không lại hoàn toàn do Bắc Kinh định liệu. Và khi mà những con đập thủy điện Vân Nam được coi như yếu tố tích cực tạo sức bật cho các bước canh tân nhảy vọt của Trung Quốc thì theo Dai Qing nhà hoạt động môi sinh nổi tiếng đã có nhận định là “Trung Quốc sẽ không có một thay đổi nào trong kế hoạch khai thác sông Mekong của họ cho dù ảnh hưởng tác hai ra sao đối với các quốc gia dưới nguồn” [8]. Bắc Kinh đã hành động như chính mình đã sở hữu suốt chiều dài con sông – vốn là một con sông quốc tế.

CHIẾN TRANH MÔI SINH VÀ NHÂN QUYỀN

Trong khi mọi người Việt phẫn uất đến cực điểm việc Trung Quốc chiếm đất biên giới phía bắc, lấn chiếm vịnh Bắc Bộ, “Tây tạng Hóa” Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa với nguồn trữ lượng dầu khí khổng lồ trong đó, nhưng cùng lúc đang diễn ra một cuộc chiến khác rất thầm lặng từ hơn 2 ngàn dặm xa: đó là trận chiến môi sinh do Trung Quốc gây ra từ chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Vân Nam. Rõ ràng Trung Quốc đang từng bước hủy hoại con sông Mekong, về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới từng ngụm nước uống, chén cơm, nồi cá ... hàng ngày của mỗi cư dân sống hai bên bờ con sông Mekong, tác hại trên quyền sống của hàng trăm triệu cư dân sống trong lưu vực nơi hạ nguồn và cũng là điều bi thảm khi chính những nạn nhân ấy – điển hình là hàng triệu nông dân ngư dân sống nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long rất cô đơn bị lãng quên, không hề được thông tin lại bị bóp nghẹt tiếng nói nhưng đồng thời họ vẫn bị bóc lột và khai thác bởi một chế độ toàn trị như hiện nay. Kinh hãi hơn nữa, là với chuỗi con đập khổng lồ ấy Trung Quốc đang nắm trong tay thứ vũ khí Môi Sinh Chiến Lược cực kỳ lợi hại có khả năng gây hạn hán hay những trận hồng thủy trong toàn lưu vực.

Phải làm gì khi mà thế liên minh của các quốc gia Đông Nam Á thực sự là chia rẽ và suy yếu. Các nước nhỏ ấy có thể làm khó gây thương tích cho nhau (self-inflicted injury) nhưng lại có chung một thái độ cam chịu trước sự hoành hành của nước lớn Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì bao giờ cũng theo chánh sách chia để trị và chỉ chấp nhận những cuộc thương thảo song phương trong các vụ tranh chấp và hiển nhiên không có một nước nào có đủ sức mạnh và tư thế ngoại giao [diplomatic leverage] để khiến Trung Quốc phải lắng nghe tiếng nói của mình.

Trước mắt, việc đưa Trung Quốc ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc về thái độ độc quyền khai thác con sông Mekong như một con sông quốc tế mà bất kể tới hậu quả nơi các quốc gia hạ nguồn sẽ như một báo động cảnh giác ít ra cũng khiến Trung Quốc và cả những đại công ty tư bản tài trợ cho các dự án thủy điện ấy biết là thế giới đang theo dõi họ khiến ở một chừng mực nào đó họ phải làm việc với những phương thức công khai minh bạch và hành sử một cách có trách nhiệm hơn thay vì với thái độ cao ngạo và trịch thượng Sống Chết mặc Bay như hiện nay.

Với một cái nhìn toàn cảnh trong mối tương quan chánh trị địa dư của toàn vùng, thì việc tiếp tục xây thêm những con đập trên dòng chính sông Mekong – điển hình là việc khởi công xây thêm con đập mẹ khổng lồ Tiểu Loan/Xiaowan, phải được xem là một hành động thù nghịch, tuy chưa có tiếng nổ của súng đạn nhưng chính đó là một cuộc chiến tranh môi sinh không tuyên chiến của Trung Quốc. Đây cũng là một vi phạm nhân quyền/human right violation trên quy mô lớn nhất”.

Sau hơn nửa thế kỷ chiến tranh, bước sang thế kỷ 21, dân tộc Việt nam lại đang phải đương đầu với những thử thách lớn trước Nguy Cơ Sống Còn. Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho riêng vấn đề môi sinh của một dòng sông - mà phải là bước chuyển hóa cơ bản của cả một hệ thống xã hội - trong đó có Việt Nam từ “Chế Độ Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ”. Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính người dân sẽ có ý thức và tiếng nói không chỉ để bảo vệ một dòng sông, bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ mà cơ bản nhất là quyền sống với phẩm giá của mỗi con người.

Ngô Thế Vinh
04/02 - [Đặc San Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ Việt Nam Kỳ IV]
------------ --------- ------
Tham Khảo:

1. Lessons Unlearned: Damming the Mekong River. Rothert Steve. International River Network, Working paper 6, Oct 1995.
2. Development Dilemmas in the Mekong Subregion. Bob Stensholt. Workshop Proceedings, Oct 1-2, 1996. Melbourne.Monash Asia Institute. VIC 3168, Australia.
3. The Impact of Development on the River, her Delta, and her People. The 1999 Conference on The Mekong River at Risk. The Mekong Papers. Mekong Forum & VAST 1999.
4. The Mekong Choke Point. Shawn W. Crispin, Margot Cohen, Bertil Lintner. Far Eastern Economic Review, Oct 12, 2000.
5. China Prepares For Major New Power Station. Asia Pulse Pte Limited. Apr 12, 2001.
6. The Mekong. Environment and Development. Hiroshi Hiro. United Nations University Press, 2000.
7. China’s Dated Perspective Lingers, Turning Encounters Into Crisis. Karby Leggett, Peter Wonacott, Ian Johnson. Wall Street Journal, Apr 6, 2001.
8. Strangling the Mekong. Ron Moreau, Richard Ernsberger Jr. Newsweek International Mar 19, 2001
9. Concern over plan to widen channel – clearing islets could affect neighbours. Saridet Marukatat. Bangkok Post April 20, 2001.


Thư Mời Tham Dự Ngày Quân Lực VNCH Paris



Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại
Trung Tâm Điều Hợp Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Âu Châu
05/07/2009 Chủ Nhựt 15giờ 00 - 20giờ 00
Tại Maison des Associations
11, rue Caillaux, 75013 Paris



LÃNH THỔ VÀ LÃNH HẢI VIỆT NAM - Nguyễn Thanh Liêm

Nguyễn Thanh Liêm

Lãnh thổ Việt Nam gồm có hai phần: một phần lớn nằm trên đất liền và một phần nhỏ nằm trên biển cả. Phần nằm trên đất liền có diện tích là 329,707 cây số vuông có hình dạng giống chư hình chữ S với hai đầu mở rộng ra mà người ta thường ví như hai thúng lúa mán trên cây đòn gánh. Hai thúng lúa đó là châu thổ sông Hồng Hà và đồng bằng sông Cửu Long, hai vựa thóc lớn của nước mình. Sách Địa Lý Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ và Phạm Đình Tiếu, viết cho lớp 11 của mình hồi xưa ghi rằng nước Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới từ vĩ độ 8o33 đến vĩ độ 23o22 Bắc bán cầu. Nhìn vào bản đồ ta thấy vĩ tuyến 8o 33 đi ngang Mũi Cà Mau ở phía cực Nam và vĩ tuyến 23o22 đi ngang điểm cực Bắc của tĩnh Hà Giang Bắc Việt. Về kinh độ, nước ta nằm trong khoảng 102o và 109o Đông.

Lãnh thổ trên đất liền của nước ta có hai vùng ranh giới khác nhau: một bên là biển cả chạy dài từ Móng Cái ở phía Bắc đến tận Cà Mau ở phía Nam và vòng qua phía Tây đến tận Hà Tiên. Đây là vùng ranh giới thiên nhiên rất dễ nhận biết. Vùng ranh giới thứ hai nằm trên đất liền giữa Việt Nam và các quốc gia Cam Bốt và Lào ở phía Tây và giữa Việt Nam và Trung Hoa ở phía Bắc. Đây là vùng ranh giới rất khó phân định và là nơi thường xảy ra các vụ tranh chấp, nhất là giữa ta và Cam Bốt cũng như giữa ta và Trung Hoa. Xưa nay vẫn có sự lấn đất qua lại giữa dân ta và dân Cam Bốt ở vùng Châu Đốc nhưng nó không quan trọng và nguy hiểm bằng sự lấn đất trên ranh giới phía Bắc giữa nước ta và nước Tàu. Trên bản đồ hiện hành ta có sáu tỉnh ở Bắc Việt có phần đất giáp giới với Trung Quốc. Từ Tây sang Đông, đó là các tĩnh Lai Châu, Lào Kay, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Cọng Sản đã sửa đổi tên các tĩnh, thành ra có thể bây giờ là 5 tĩnh, gồm Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Kay và Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang và Tuyên Quang), Cao Lạng (Cao Bằng và Lạng Sơn) và Quảng Ninh. Đường dài ranh giới nầy có hơn 1,350 cây số.
Ngoài phần lãnh thổ chính trên đất liền ta còn có một phần nhỏ lãnh thổ trên biển cả. Đó là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa ở vào giữa hai kinh tuyền 111o và 113o Đông, giữa hai vĩ tuyến 15o 45’ và 17o 15’ Bắc bán cầu. Quần đảo Hoàng Sa gồm có hai nhóm đảo: nhóm Tuyên Đức (gồm 8 đảo) ở phía Đông và nhóm Nguyệt Thiềm (gồm 7 đảo) ở phía Tây. Khoảng cách củađiểm gần nhất của lãnh thổ đất liền của Việt Nam, là Đà Nẵng, đến Hoàng Sa là 200 hải lý. Điểm gần nhất của Hải Nam đến Hoàng Sa là 150 hải lý. Điểm gần nhất của Phi Luật Tân đến Hoàng Sa là 450 hải lý, và điểm gần nhất của Đài Loan đến Hoàng Sa là 620 hải lý.
Quần đảo Trường Sa gồm có nhiều đảo nhỏ trải dài cả 100 hải lý, giữa các vĩ tuyến 8o và 11o 40’ Bắc bán cầu. Trong số các đảo nhỏ nầy có 9 đảo khá quan trọng. Đảo chính là đảo Spratley, tức là Trường Sa. Khoảng cách từ Phan Thiết (điểm gần nhất) đến Trường Sa là 280 hải lý. Hải Nam đến Trường Sa là 580 hải lý. Palawan (Phi Luật Tân) đến Trường Sa là 310 hải lý, và Đài Loan đến Trường Sa là 900 hải lý. Quyển Bạch Thư của bộ ngoại giao VNCH hồi năm 1975 đãtrưng dẫn đầy đủ bằng chứng cho thấy ông cha ta đã từng làm chủ ở đây. Người Việt Nam đã đặt chân lên Hoàng Sa và Trường Sa để khai thác làm ăn từ thế kỷ thứ XV, trước khi người Aâu Châu biết và đặt tên Paracels và Spratley cho hai quần đảo nầy. Mở đầu quyển bạch thư chánh phủ VNCH xác nhận rằng Hoàng Sa và Trường Sa dù chỉ chiếm diện tích nhỏ nhưng nó không kém quan trọng đối với người dân Việt. Nó là phần đất đai bất khả phân trong toàn thể lãnh thổ VN. Vùng lãnh thổ xa xôi nầy cũng đầy thân thương trong quả tim người dân Việt như vùng lãnh thổ thân thương khác của cha ông. Do đó chánh phủ VNCH và toàn dân VN, trong quyết tâm bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, long trọng tố giác sự chiếm cứ của ngoại bang trên vùng lãnh thổ nầy. Bạch thư viết: “Bổn phận cao quý và bó buộc nhất của một chánh phủ là phải bảo vệ chủ quyền, sự độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của quốc gia, Chánh phủ VNCH quyết tâm làm tròn bổn phận đó dù với bất cứ khó khăn nào.”

Trên đây là phần lãnh thổ trên giấy mực mà chúng ta có từ cuối thế kỷthứ XIX qua Hiệp Ước Thiên Tân hồi năm 1885 giữa Pháp và nhà Thanh bên Tàu . Cụ thể hơn nếu chúng ta có thể đi bằng đường bộ trên con đường chạy dài từ Bắc xuống Nam thì điểm khởi hành là Aûi Nam Quan và điểm cuối cùng ta đến là Mũi Cà Mau. Câu nói quen thuộc “từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” được dùng để diễn tả chiều dài của nước ta từ vĩ tuyến 8o33 đến vĩ tuyến 23o 27’ vậy. Về sau câu nói nầy trở thành câu tượng trưng cho toàn thể lãnh thổ Việt Nam thành ra khi muốn đề cập đến sự vẹn toàn lãnh thổ, sự thống nhất đất nước hay sự đoàn kết quốc gia người ta đều có thể nghĩ ngay đến cụm từ nầy (từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau). Mũi Cà Mau và Ải Nam Quan do đó đã trở thành hai địa danh thiêng liêng trong tâm hồn người dân Việt từ bao đời.

Trên đây là lãnh thổ còn lãnh hải thì thế nào? Chúng ta có cả vùng biển mênh mông ở phía Đông, phía Nam và phía Tây Nam. Đó là Vịnh Bắc Việt, biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Trong hai vùng biển ở phía Bắc là vịnh Bắc Việt, và ở phía Tây Nam là vịnh Thái Lan chúng ta phải chia sẻ với các nước láng giềng là Trung Hoa và Cam Bốt. Không rõ có hiệp ước nào giữa ta và Cam Bốt trong việc phân định lãnh hải của đôi bên không, chỉ thấy trước đây (trước 1975) Cam Bốt có đòi đảo Phú Quốc vì cho rằng đảo nầy nằm trong lãnh hải của họ. Riêng về Vịnh Bắc Việt thì đã có Hiệp Ước Constans năm 1887 làm nền tảng cho sự phân định lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Hoa. Theo Hiệp Ước nầy thì đường phân chia ranh giới là con đường thẳng nằm trên kinh tuyến 108o Đông. Vùng biển phía Tây của con đường nầy thuộc về Việt Nam, phần ở phía Đông thuộc Trung Hoa, với tỷ lệ VN khoảng 62% và Trung Hoa 38%.

Đất nước của chúng ta càng nhìn về thuở xa xưa chừng nào càng rộng ra và càng lùi sâu về phía Bắc chừng nấy. Chúng ta không có những bản đồ ghi rõ những đổi thay đó qua thời gian dài mấy ngàn năm trước Tây Lịch. Nhưng trong tâm hồn người dân Việt vẫn còn những mốc cắm phân chia ranh giới giữa ta và Tàu. Mốc cắm thứ nhất là cột đồng Đông Hán do tướng Mã Viện cắm hồi khoảng năm 42 Tây Lịch. Mã Viện cho cắm trụ đồng nầy để phân chia ranh giới giữa hai nước. Trên cột đồng có khắc câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” mà đa số người Việt Nam đều nhớ nằm lòng. Câu đó có nghĩa là khi nào trụ đồng gãy đổ thì dân Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Sợ trụ đồng gãy đổ nên ông cha ta, mỗi người một viên đá cứ đem tới mà đắp vào dưới gốc trụ đồng cho đến một ngày kia đá chất lên thành núi lấp mất cả trụ đồng. Cột đồng Mã Viện ở đâu, nay ta không còn dấu vết gì cả. Trước đây trong số các thức giả có người ức đoán vị trí của cột đồng nằm trong vùng đất Cổ Lâu hay ở trong chân núi Phân Mao thuộc Châu Khâm của tĩnh Quảng Tây bên Tàu.

Mốc cắm thứ hai rõ ràng chính xác hơn. Đó là Ải Nam Quan mà hình ảnh vẫn chưa và sẽ không bao giờ phai mờ trong sách sử. Đây là một ải quan do Trung Hoa dựng lên trên con đường qua lại giữa hai nước để ngăn chia ranh giới của đôi bên: bên phía Bắc là châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung Hoa, và phía bên Nam là xã Đồng Đăng châu Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn của mình. Bên phía Bắc cửa ải có “Chiêu Đức Đài” do nhà Thanh xây cất để cho sứ bộ Trung Hoa nghỉ ngơi trước khi lên đường sang Việt Nam. Trên cửa ải có tấm biển đề “Trấn Nam Quan”. Bên phía Nam cửa ải có Ngưỡng Đức Đài là phần xây cất của nhà Nguyễn để làm chỗ tiếp đón sứ bộ Trung Hoa sang công cán ở Việt Nam và cũng là nơi nghỉ chân của sứ bộ Việt Nam trên đường sang Trung Quốc. Theo các sử quan nhà Nguyễn thì Ải Nam Quan ra đời lúc nào không thấy ghi lại trong sách sử. Chỉ biết khoảng đời Lê Cảnh Hưng (niên hiệu của Lê Hiển Tông, 1740-1786), đốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Đang khi sửa lại “Ngưỡng Đức Đài” có cho lập bia trên đó có ghi đại lược như sau: “Nước Việt ta có Ngũ Lĩnh, quan ải trước ở đâu không rõ, là vì diên cách thế nào không ghi đủ. Gần đây lấy địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa quan. Cửa quan có Ngưỡng Đức Đài không rõ dựng tự năm nào, có lẽ bắt đầu từ đời Gia Tĩnh nhà Minh”.

Cửa Nam Quan mang nhiều tên khác nhau tùy triều đại. Cửa Nam Quan còn có tên là cửa Pha Lủy, từ đời Lê trung hưng người Tàu gọi là Trấn Nam Quan. Có lúc được gọi là Đại Nam Quan, Trấn Di Quan … Mao Trạch Đông đổi tên là Mục Nam Quan còn Hồ Chí Minh thì gọi là Hữu Nghị Quan. Tuy nhiên cái tên đẹp nhất, quen thuộc nhất và cũng thiêng liêng nhất đối với đa số người Việt Nam vẫn là Ải Nam Quan.

Ải Nam Quan nằm ở địa đầu tỉnh Lạng Sơn, cách Hà Nội 167 km về phía Đông Bắc. Từ Hà Nội lên tỉnh lỵ Lạng Sơn là 150 km, đi thêm 2 km nữa là đến Phố Kỳ Lừa. Từ Kỳ Lừa đi thêm 10 km nữa thì đến Đồng Đăng. Từ Đồng Đăng đi thêm 5 km nữa là đến Ải Nam Quan. Phía Tây Phố Kỳ Lừa có động Tam Thanh. Trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu và tượng nàng Tô Thị mà câu chuyện thương tâm đã được nhạc sĩ Lê Thương diễn tả trong những bảng nhạc Hòn Vọng Phu bất tử của ông. Các địa danh nổi tiếng nầy cũng đã được người dân Việt ghi lại trong những câu ca dao:

“Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”.

Từ xưa cửa Nam Quan đã từng là nơi diễn ra bao nhiêu biến cố lịch sử đau thương cũng có nhưng phần lớn là oai hùng của dân tộc Việt. Đây là nơi xảy ra câu chuyện “hận Nam Quan” với lời dặn dò của Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi “con phải trở về thay cha báo thù nhà đáp đền nợ nước”, đánh dấu việc Nguyễn Trãi gạt nước mắt nghe theo lời cha đau đớn quay về thao luyện binh tướng phò tá Bình Định Vương dành lại độc lập cho xứ sở. Bao nhiêu binh tướng kiêu hùng của Trung Quốc đã xông vào cửa ải nầy qua dày xéo lãnh thổ Việt, rồi cũng bao nhiêu binh tướng đó mua lấy thất bại chua cay hoặc bỏ thây trên quê người hoặc nhục nhã xác xơ chạy trối chết qua cửa nầy về Trung Quốc như Thoát Hoan (nhà Nguyên), như Liễu Thăng (nhà Minh), như Tôn Sĩ Nghị (nhà Thanh).

Tiếc thay! Nam Quan giờ đã không còn. Lãnh thổ của ta không còn nguyên vẹn nữa. Từ năm 1958 Thủ Tướng của Cộng Sản Hà Nội là Phạm Văn Đồng đã gởi công hàm thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để đổi lấy sự viện trợ của Trung Cộng. Tiếp theo đó trong những năm gần đây nhằm thể hiện phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trong quan hệ hai nước, Cộng Sản Hà Nội lại ký hai hiệp ước với Trung Cộng để nhượng một số lãnh thổ và lãnh hải cho bậc đàn anh không mấy thật lòng tốt bụng nầy.

Về hiệp ước thứ nhất, Vũ Khoan, thứ trưởng ngọai giao thường trực viết trong tạp chí Cộng Sản số 2 (1-2000) như sau: “Ngày 30-12- 1999, ngay bên thềm của năm mới, thế kỷ mới và thiên kỷ mới, tại Hà Nội đã diễn ra một sự kiện quan trọng được dư luận cả nước và thế giới quan tâm: đó là Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc được ký kết”. Vũ Khoan còn cho biết thêm là: ”Năm 1997, nhân dịp Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm Trung Quốc và tháng 2-1999, nhân dịp Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Trung Quốc, lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước thỏa thuận tích cực thúc đẩy đàm phán để ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền trước năm 2000”. Tiếc thay! Hiệp ước rất tốt, rất có lợi theo như Cộng Sản nói lại là hiệp ước xóa mờ hình ảnh của Ải Nam Quan vốn rất thiêng liêng trong tâm hồn người dân Việt. Một người bộ đội già viết: “Nào ai ngờ là có những kẻ lãnh đạo bán đất cầu vinh! Họ có hay chăng khi cắt đất dân tộc dâng cho ngoại bang là họ đã cắt da thịt đời tôi và dân tôi. Đau đớn thay! Uất hận thay! Nỗi đau nầy biết tỏ cùng ai?…Mất Aûi Nam Quan tôi như mất đi một phần hồn dân tộc, một điểm tựa tinh thần đã nuôi tôi và những đứa con mang dòng máu Lạc Hồng sống trong niềm tự hào dân tộc suốt chiều dọc dài 4000 năm lịch sử oai hùng …” .

Đây cũng là hiệp ước làm mất một phần lãnh thổ mà tổ tiên đã đổ bao nhiêu xương máu để bảo vệ, xây dựng, và bồi đắp. Vì được giữ bí mật cho nên không ai nắm vững những con số chính xác về sự mất mát nhưng những ước tính cho thấy có thể từ 700 đến 1000 km2. Oâng Nguyễn Văn An, một công nhân làm việc ở Cao Bằng cho biết Trung Quốc lấn chiếm nhiều nhất là huyện Yên Minh, tĩnh Hà Giang, Bảo Lạc, Trà Linh, Móng Cái và tĩnh Lạng Sơn. Ở Bảo Lạc nhiều chỗ đã lấn vào đến 6-7 km. Bắc Kinh đưa tin là hiệp ước đã được ủy ban thường vụ Quốc Hội Trung Quốc thông qua ngày 29/4/2000. Phía Hà Nội cũng cho biết Quốc Hội VN đã thông qua ngày 9/6/2000 và như vậy hiệp ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày đó. Ngày 27/12/2001 cột mốc đầu tiên được cắm lên ở Móng Cái (phía VN) và Đông Hưng (phía TQ) có thứ trưởng ngoại giao TQ là Vương Nghị và thứ trưởng ngoại giao VN là Lê Công Phụng chứng kiến.

Về hiệp ước thứ hai, Lê Công Phụng, thứ trưởng ngoại giao Công Sản, viết trong tạp chí Cộng Sản, như sau: “Nhân chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Chủ tịch Trần Đức Lương, ngày 25-12-2000, nước ta và Trung Quốc đã ký hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ. Lễ ký kết được tổ chức với sự chứng kiến của Chủ tịch Trần Đức Lương và Chủ tịch Giang Trạch Dân. Sự kiện trọng đại mang tính lịch sử nầy diễn ra vào thời khắc rất đặc biệt, nhân loại đang hối hả thu xếp hành trang giã từ thế kỷ XX đi vào thế kỷ XXI và thiên kỷ mới. Sự kiện nầy cũng diễn ra vào điểm đỉnh tốt đẹp của quan hệ Việt – Trung kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay. Nhân dân ta đón nhận việc ký kết hai hiệp định trên như một thành công lớn của hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong năm 2000, coi đó là nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng cường, thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, cũng như trong việc duy trì, củng cố hòa bình, ổn định và hớp tác trong khu vực”. Hiệp ước nầy đã làm mất hơn 10,000 km2 lãnh hải Việt Nam, chưa kể bao nhiêu thứ bất lợi to tát khác như điểm chiến lược, dầu hỏa, và những nguồn lợi thiên nhiên khác. Theo hiệp ước nầy thì phía Việt Nam chỉ còn có khoảng 53% vịnh Bắc Bộ trong khi Trung Cộng được khoảng 47 %, như vậy Việt Nam bị thiệt hại khoảng 9%. Với diện tích hơn 129,000 km2, mất 9% là mất hơn 11,500 km2 vịnh Bắc Bộ vậy.

Trước việc cắt đất bán nước để đổi lấy chỗ ngồi lãnh đạo Đảng và Nhà Nước của Cộng Sản Việt Nam, nhiều người trong nước đã lên tiếng phản đối từ các cán bộ cao cấp đảng đến những cựu chiến binh. Riêng ông Đoàn Minh Hải ở Hà Nội đãthay mặt cho các lão thành cách mạng có bức thư gởi cho những người lãnh đạo Cộng Sản phản đối việc ký các hiệp ước nói trên và cực lực lên án Trần Đức Lương, Lê Khả Phiêu cùng đồng bọn. Một cách mỉa mai, ông trích dẫn những câu ca dao cũ và mới sau đây để nhắn gởi những người lãnh đạo Cộng Sản:
Ca dao cũ:

“Yêu dân, dân lập đền thờ,
Hại dân, dân đái ngập mồ thối thây”.

Ca dao mới:

“Hoan hô Cộng Sản Việt Nam,
Cuối đời bán cả giang sơn nước nhà”.

Để kết luận tôi xin lập lại đây bài “Vịnh Bức Dư Đồ Rách” của nhà thơ Tản Đà để kính tặng cho những ai còn biết nghĩ tới công lao xương máu của cha ông trong việc bảo vệ biên cương, giữ gìn lãnh thổ, xây dựng đất nước cho giống nòi Hồng Lạc.

“Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông, núi núi khéo bia cười.
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi.
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi.
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.”

Nguyễn Thanh Liêm
(Bài nói chuyện trong buổi hội thảo ở Sacramento ngày 10-03-02 do Tổng Hội Sinh Viên và Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Sacramento tổ chức)


Tuesday, June 23, 2009

Thơ Bà Huyện Thanh Quan

Chiều Hôm Nhớ Nhà

Trời chiều bãng lãng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn
Gác mái ngư ông về viễn xứ
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Rặng liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài người lữ thứ
Lấy ai mà tỏ nỗi hàn ôn.

Bà Huyện Thanh Quan

NỐI GÓT NGƯỜI XƯA - Nguyễn Thanh Liêm


NỐI GÓT NGƯỜI XƯA,
NỐI GÓT SƯƠNG NGUYỆT ANH


Nguyễn Thanh Liêm

Các trường trung học (và một số rất ít trường tiểu học) ở Việt Nam thường mang tên các danh nhân có ít nhiều công lao trong quá trình bồi đắp cho lịch sử, văn hóa nước nhà. Các nhà lãnh đạo văn hóa/giáo dục bao giờ cũng muốn chọn những danh nhân có đức độ và tài năng, nhất là đức độ, đặt tên cho các trường quan trọng vì họ hy vọng rằng danh nhân lựa chọn sẽ đem lại niềm hãnh diện cho học sinh, phụ huynh, giáo sư, cho cả cộng đồng, và biết đâu cũng sẽ là tấm gương cho nhiều thế hệ học sinh sau này. Các trường lớn cho nam sinh thì có Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Petrus Trương Vĩnh Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Nguyễn Trải, Nguyễn An Ninh, v v... cho nữ sinh thì có Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Đoàn thị Điểm, Lê Ngọc Hân, Sương Nguyệt Anh, v v... Hầu hết các học sinh học ở trường nào cũng đều ít nhiều gắn bó thương yêu trường mình, nhất là trường trung học, (thời gian học ở trung học là thời gian mà con người dựng nên cơ sở tinh thần cho đời mình). Hầu hết đều hãnh diện về cái tên của trường mình, và hầu hết đều biết ít nhiều về vị danh nhân mà trường mình hãnh diện mang tên. Học sinh Petrus Ký tất nhiên phải biết Petrus Ký là ai, cũng như học sinh Phan Thanh Giản thì không thể không biết gì về Phan Thanh Giản. Tuy nhiên không phải là tất cả mọi người đều biết rõ về cuộc đời và công trạng của vị danh nhân mà trường mình mang tên. Chỉ một số ít người chịu khó tìm tòi học hỏi thì mới biết rõ danh nhân trường mình và cũng một số ít người nhìn thấy và theo gương danh nhân đó.

Là học sinh Petrus Ký chắc ai cũng biết Petrus Ký là ai? Nhưng không chắc gì ai cũng viết trúng chữ Petrus, cũng như không có bao nhiêu người biết hết công trạng lớn lao cũng như chủ trương văn hóa/giáo dục quan trọng của ông. Có bao nhiêu người đi học Petrus Ký biết, nhớ, và hiểu hai câu đối trước cổng trường? Đó là hai câu: “Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt, Tây Aâu khoa học yếu minh tâm” nói lên tất cả chủ trương văn hóa/giáo dục của nhà bác học mở đầu cho văn chương chữ Quốc Ngữ và nền học thuật mới ở Việt Nam. Tất cả học sinh Sương Nguyệt Anh đều biết Sương Nguyệt Anh là ai? Nhưng thật sự có bao nhiêu người biết rõ cuộc đời và sự nghiệp văn chương của bà? Có bao nhiêu nữ sinh Sương Nguyệt Anh hiểu rõ tài năng và đức độ cũng như vai trò lãnh đạo của bà trong buổi giao thời. Và có ai trong số nữ sinh Sương Nguyệt Anh ngày nay còn nhìn thấy ở bà một tấm gương sáng cho người phụ nữ Việt Nam? Có mấy ai nối gót người xưa?

Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Khuê, sanh ngày 24 tháng Chạp, năm Quý Hợi (1864), con gái thứ tư của cụ Đồ Chiểu. Năm 24 tuổi bà nhận lời kết hôn với ông phó Tổng Nguyễn Công Tính ở Mỹ Tho. Bà sanh được một người con gái đặt tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái bà lên ba thì chồng bà tạ thế. Bà ở vậy nuôi con, không hề tái giá. Khi con khôn lớn bà gả con cho Mai Văn Ngọc cũng người Mỹ Tho. Nguyễn Thị Vinh sinh được một cô con gái là Mai Kim Ba, nhưng sau khi sinh con được ba ngày thì Nguyễn Thị Vinh bị bệnh chết, và bà Sương Nguyệt Anh phải nuôi cháu ngoại còn măng sửa. Mai Kim Ba sau này có bút danh là Mai Huỳnh Hoa, là vợ của nhà cách mạng Phan Văn Hùm. Năm 1918 bà Sương Nguyệt Anh được ông Henri Blaquière (tên Việt Nam là Lê Đức) mời làm chủ bút tờ Nữ Giới Chung, nhưng tờ báo chỉ ra được mấy tháng thì đình bản. Bà Sương Nguyệt Anh mất ngày 12 tháng 12 năm Canh Thân, tức là ngày 20 tháng 1, năm 1921, thọ 58 tuổi. “Ngày nay du khách đi qua làng Mỹ Nhơn tỉnh Kiến Hòa, có thể nhìn thấy bên đường, gần chợ Ba Mỹ, một nấm mộ dười lũy tre xanh. Đó là nơi yên nghỉ cuối cùng của nữ thi hào Sương Nguyệt Anh.” (Huỳnh Minh, Kiến Hòa Xưa, tr. 189) .

Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh ra đời và lớn lên trong thời gian Miền Nam Việt Nam bắt đầu bị Pháp xăm chiếm, đô hộ. Về phương diện văn hóa đây là thời mạt vận của nho gia và thời chuyển mình của học thuật Việt Nam từ nho học qua tân học. Chữ Quốc Ngữ được phổ biến và bành trướng nhanh chóng để thay thế hẳn chữ Nôm, trong khi chữ Hán tuy vẫn còn tồn tại nhưng dần dần thu hẹp số người theo học. Nói như Trần Tế Xương thì:
    Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
    Mười người đi học, chín người thôi.
Dù sao thì thế hệ của bà Sương Nguyệt Anh lúc bà mới lớn lên vẫn còn thuộc phạm trù xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ, mà vai trò của người đàn bà chỉ đóng khung trong cảnh phụng sự chồng con, gia đình. Phụ nữ không được công khai đi học, không được đi thi, không được làm quan. Những người phụ nữ biết đọc, biết viết, biết làm thơ, nổi tiếng về thi văn, đều là những người được kín đáo đào tạo riêng tư trong gia đình. Chúng ta không biết họ học được những gì trong những kinh sách của nho gia, trình độ học vấn thật sự của họ đến đâu? Tú Tài, Cử Nhân hay Tiến Sĩ? Bà Đoàn Thị Điểm, bà Huyện Thanh Quan, bà Sương Nguyệt Anh, v.v. . . học hành đến đâu khó mà biết được. Chúng ta chỉ biết họ qua một ít tác phẩm họ còn để lại. Điều chắc chắn là tất cả các nữ sĩ này đều thắm nhuần luân lý tam cương ngũ thường và tam tùng tứ đức của nho gia. Nhất là bà Sương Nguyệt Anh. Là con gái của nhà thơ nổi tiếng hiếu trung, thì chắc không thể nào không thông suốt những bài học trung, hiếu, tiết, nghĩa của cụ Đồ Chiểu trong Lục Vân Tiên mà hai câu mở đầu đã được người dân Nam Việt ở mọi nơi thuộc nằm lòng:
    Trai thời trung hiếu làm đầu
    Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Nguyệt Anh là bút danh của bà khi bà sáng tác thi văn. Khi làm báo bà thêm chữ Sương vào để chỉ người góa phụ có bút hiệu Nguyệt Anh, lấy từ câu thơ: “Điệu thương xuân khóc ả sương khuê.” Khuê là tên thật của bà (Nguyễn Ngọc Khuê). Câu thơ có nghĩa điệu bi thương của người phụ nữ còn xuân đã phải góa chồng và quyết đóng cửa phòng khuê ở vậy nuôi con. Bà giữ đúng câu tam tùng tứ đức:
    Ba giềng trước đã xe tơ vắn,
    Bốn đức nay tua nổi tiếng dài.
    Dẫu khiến duyên này ra đến thế,
    Trăng thu dẫu xế rạng non đoài.
    (Trả lời ông Bái Liễu)
Nhiều người trai ngấp nghé bén tiếng ngỏ lời xin gá nghĩa nhưng bà quyết thủ tiết thờ chồng cho vẹn chữ trinh. Trả lời thầy Bảy Nguyện ở Mỏ Cày, bà viết:
    Chẳng phải tiên cô, cũng đạo cô,
    Cuộc đời dâu bể biết là mô?
    Lọng sườn dù rách còn kêu lọng,
    Ô bịt vàng ròng tiếng cũng ô.
Và:
    Phải thời ô quả, chịu thời cô,
    Chẳng biết tuồng đời tính thế mô?
    Dòm thấy bụi trần toan đóng cửa,
    Ngoc lành chi để thẹn danh ô.
Một người nữa là ông Phủ Học cũng có bài thơ tỏ tình gởi cho bà và được bà trả lời:
    Hết lúc trăng đầy đến lúc vơi,
    Nên hư trong cuộc phải coi đời.
    Vén mây bóng thỏ soi ngàn dặm,
    Đáy nước cung thiềm tỏ khắp nơi.
    Nột chí đứa gian hiềm vẻ rạng,
    Vui lòng người triết thú đua bơi.
    Khỏi vòng hối thúc ưng ra mặt,
    Đứng giữa trời xanh tiết chẳng dời.
Tư cách của bà, con người của bà là con người đạo đức trong sáng theo hệ thống giá trị của nho gia, có thể được biểu tượng bằng cành hoa mai trong bài thơ sau đây của bà:
    Non linh đất phước trổ hoa thần,
    Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân.
    Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng,
    Sương sa bóng nguyệt ánh màu ngân.
    Mây lành gió tạnh nương hơi nhánh,
    Vóc ngọc mình băng bặt khói trần.
    Sắc nước hương trời non cảm mến,
    Non linh đất phước trổ hoa thần.
Đến đây ta thấy bà Sương Nguyệt Anh cũng như bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác phải không được biết tới quyền cá nhân, quyền làm người của cá nhân mình. Người phụ nữ không có cái tôi, không có quyền, chỉ có bổn phận. Phải theo đúng bổn phận, phải sống trong khuôn khổ của luân lý xã hội Việt Nam xưa. Phận con gái là phải theo những lời Gia Huấn mà Nguyễn Trãi đã viết từ thế kỷ XV:
    Phận con gái ở cùng cha mẹ
    Lòng phải chăm học khéo, học khôn.
    Một mai xuất giá hồi môn
    Phận bồ liễu giá trong như ngọc.
    Khéo là khéo bánh trong bánh lọc
    Lại khôn nghề học vóc may mền.
    Khôn là khôn lẽ phải đường tin
    Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi. . . .

    Phận con gái này lời giáo huấn
    Lắng tai nghe chuyện kể tam cương.
    Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường
    Đạo chồng sánh quân thần chi đạo.
    Làm tôi con chí trung chí hiếu
    Làm dâu thời chí kính mới nên ...
Phạm Quỳnh, trong một bài viết về “Địa Vị Người Đàn Bà Trong Xã Hội Nước Ta” đã có nhận xét như sau về quyển Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi: “Thật không khác gì những thể lệ của cảnh sát, từ đầu chí cuối chỉ những điều nghiêm cắm cả, như giam người đàn bà vào trong cái lưới luật lệ, không còn để cho một chút tự do nào cả.”

Phụ Nữ Thời Đàm, số tháng 1, năm 1932, trong bài “Phụ Nữ với Bộ Dân Luật Mới Bắc Kỳ” nhận thấy rằng “trước mặt luật pháp thời xưa, quyền lợi của phụ nữ chỉ là số không.” Đó là tình trạng đáng buồn của người phụ nữ Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX mà trong đó có cả Sương Nguyệt Anh nữ sĩ. Bà cũng chịu đựng số phận đó, và nhất là bà đã quá thắm nhuần tư tưởng nho giáo mà cụ Đồ Chiểu đã truyền thụ cho bà.

Tuy nhiên sự thấm nhuần tư tưởng nho giáo của bà không làm mất tinh thần khai phóng và nhân bản vốn thường có trong bản chất của người dân sinh ra và lớn lên trong không khí tương đối tự do, phóng khoáng của vùng Đồng Nai Cửu Long. Đạo đức, luân lý Á Đông có những cái hay cần phải bảo tồn, phát huy. Nhưng bảo tồn đạo đức luân lý nho giáo không nên đồng hóa một cách chật hẹp với thủ cựu, đóng cửa rút cầu, bế môn tỏa cảng, bóp chẹt quyền làm người của người phụ nữ và giới bình dân thiếu học. Trước những chuyển mình, biến đổi của văn hóa xã hội, trước sức mạnh của văn minh khoa học, bà đã rất sáng suốt nhìn thấy những điều mình cần phải chấp nhận để tiến bộ, để đưa xã hội đến chỗ văn minh hơn. Bà đã nhìn thấy con đường dúng mà Petrus Ký đã vạch ra cho giới trí thức Miền Nam trong tiến trình xây dựng một nền học thuật mới, một xã hội/văn hóa mới. Đó là nền học thuật tổng hợp văn hóa (luân lý) Á Đông với văn minh (khoa học) Aâu Tây. Trong viễn tượng tốt đẹp đó bà đã mạnh dạn đứng ra làm người phụ nữ tiền phong trong ngành báo chí chữ Quốc Ngữ, mà đặc biệt nhất là tờ báo dành riêng cho phụ nữ. NỮ GIỚI CHUNG là tờ báo đầu tiên dành cho những vấn đề của nữ giới ở Việt Nam, cũng là tờ báo đầu tiên do một người đàn bà Việt Nam làm chủ bút, và người đó là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Số đầu tiên ra ngày 1, tháng 2, năm 1918 (50 năm sau Gia Định Báo do Petrus Ký làm chủ bút). Mỗi tuần xuất bản ngày Thứ Sáu, gồm các mục như Xã Thuyết, Học Nghề, Gia Chánh, Văn Uyển, và Tạp Trở. Tòa soạn đặt tại số 13 đường Taberd, Sàigon. Trong số mở đầu bà chủ bút có nói rõ mục đích của tờ báo là truyền bá chữ Quốc Ngữ, nâng cao luân lý, dạy cách sống hằng ngày, chú trọng đến thương mại và tiểu công nghệ, tạo sự tiếp xúc giữa những con người với nhau. Tuần báo Nữ Giới Chung chỉ sống được có 6 tháng rồi đình bản, số cuối cùng ra ngày 19 tháng 7, năm 1918. Tuy không sống lâu nhưng nó cũng đánh dấu sự thức tỉnh của một số người về quyền sống của phụ nữ, của con người, của văn minh khoa học. Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc đã thể hiện trong mục đích của tờ báo. Giá trị và vai trò của người phụ nữ Việt Nam được lưu ý nâng cao. Ba năm sau đó bà Sương Nguyệt Anh tạ thế. Tờ báo đã chết, người chủ bút đã ra đi, nhưng bà đã để lại cho thế hệ sau một Bắt Đầu vô cùng tốt đẹp.

Thập niên 1920 tiếp nối công trình của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh trên đường tranh đấu nâng cao địa vị phụ nữ và tinh thần nhân bản, khai phóng ở Miền Nam. Ở địa hạt giáo dục chính quyền đã để ý đến việc học hành của phái nữ. Trường nữ trung học Gia Long dành riêng cho nữ sinh ra đời trong thập niên 1920. Trường trung học Collège de Cần Thơ (sau này là trường trung học Phan Thanh Giản) và trường Petrus Ký ra đời vào giữa thập niên này. Tình hình chính trị ở miền Nam vào thập niên này cũng khá sôi nổi. Những hô hào canh tân xứ sở, những đòi hỏi chính quyền nới rộng quyền công dân được các chính trị gia đề cập đến luôn. Năm 1924, cô Nguyễn Thị Kiêm, trong một hội nghị về Dư Luận Nam Giới đối với Phụ Nữ Tân Tiến đã cho thấy là chủ nghĩa phụ nữ (feminism) làm thế nào giải phóng phụ nữ ra khỏi những lễ giáo hủ bại, bênh vực quyền lợi cho phụ nữ, kiếm những cách sinh hoạt cho chị em để sự sống của mình được hoàn toàn hơn và nâng cao trình độ trí thức của mình. Để tránh sự ngộ nhận là chương trình của chủ nghĩa phụ nữ sẽ đưa đến sự xung đột giữa hai phái nam và nữ, cô Kiêm giải thích thêm: ”... lo cho đàn bà có nghề nghiệp là để cho vợ giúp chồng mà nuôi con, em giúp anh để nuôi cha mẹ; lo cho đàn bà bỏ những thành kiến hủ bại, khỏi những lễ giáo gắt gao trái với sự sống, lo cho họ có học vấn là nâng cao phẩm giá đàn bà tức là phẩm giá người mẹ, người vợ, để cho họ biết rõ cái trách nhiệm của mình mà dạy dỗ con cho hợp thời, để hiểu chồng, giúp chồng trong xã hội”. Cuối thập niên này, năm 1929, xuất hiện ở Miền Nam tờ Phụ Nữ Tân Văn cũng dành riêng cho những vấn đề của phụ nữ như tờ Nữ Giới Chung hồi thập niên trước. Chương trình bốn điểm của Phụ Nữ Tân Văn cũng không khác bao nhiêu chương trình của Nữ Giới Chung hồi 11 năm trước. Và rồi sang thập niên 1930 bước đầu của bà Sương Nguyệt Anh đã dẫn đến những thành quả tốt đẹp hơn. Nhiều người đã nối gót theo bà. Năm 1930 tờ Phụ Nữ Thời Đàm ra đời ở Hà Nội, và năm 1932 ở Huế ra đời tờ Phụ Nữ Tân Tiến. Song song với các buổi hội thảo, các bài báo đăng trên báo chí phụ nữ, nhất là ở Miền Nam, bắt đầu có những hội đoàn hoạt động văn hóa đáng kể xuất hiện trong hướng chung đã nói ở trên. Trường nữ trung học Gia Long (hồi đó còn mang tên Collège des Jeunes Filles) lúc bấy giờ đã có nhiều học sinh tốt nghiệp, và vào tháng 8 năm 1933, hội Aùi Hữu các nữ sinh trường Collège des Jeunes Filles được ra đời với bà Henry Cordier làm hội trưởng danh dự, bà Phạm Văn Gia làm hội trưởng, bà Nguyễn Thị Giáp, phó hội trưởng, và cô Nguyễn Thị Kiêm, Tổng Thơ Ký. Đây là lần đầu tiên có hội ái hữu nữ sinh Miền Nam, và đó là hội Aùi Hữu Cựu Nữ Sinh Gia Long với tên cũ là Collège des Jeunes Filles. Mấy tháng sau đó (tháng 11, năm 1933) viện Nữ Lưu Văn Học Hội (l’Institut de Culture Feminine) ra đời ở Sàigon. Mục đích chính của viện Nữ Lưu là (1) nâng cao trình độ văn hóa của nữ giới, (2) cứu giúp và giáo dục thành phần nghèo khổ và thất học, và (3) giao tiếp với phụ nữ trên thế giới. Con đường mà nữ sĩ Sương Nguyệt Anh bắt đầu hồi mười mấy năm trước, giờ đây được mở rộng thêm cho các thế hệ mai sau.

Những cựu nữ sinh của trường Sương Nguyệt Anh không có được bao nhiêu so với các trường nữ trung học khác, vốn đã có mặt ở Miền Nam từ nhiều năm trước. Số ít đó ngày nay ờ rải rác ở nhiều nơi. Tuy nhiên điều đáng quý là số nhỏ đó lại mang tình sâu đậm đối với trường cũ, bạn bè, thầy cô xưa, và nhất là có những người có rất nhiều thiện chí, nhiều nhiệt huyết, muốn ít nhiều nối gót bậc nữ lưu mà trường đã hãnh diện mang tên, dù là họ đang phải mệt nhọc vật lộn với đời sống nơi xứ người. Người ta không thể không thấy vui, thấy phải mến phục, và dành nhiều cảm tình cho hội ái hữu SƯƠNG NGUYỆT ANH khi đọc các đặc san của hội và nhất là cái biệt thự “SƯƠNG NGUYỆT LẦU THƠ”của mấy chị em cựu nữ sinh SNA trên internet. Người ta thấy nữ sĩ Sương Nguyệt Anh được học sinh trường Sương Nguyệt Anh biết đến nhiều và đựơc một số nữ sinh Sương Nguyệt Anh hăng say nối gót.

Nguyễn Thanh Liêm

Tòa án nhăn răng Hà Nội không thụ lý đơn kiện thủ tướng của luật sư Cù Huy Hà Vũ - Thanh Phương

Thanh Phương
Source: http://www.rfi.fr/actuvi/articles/114/article_3948.asp

Luật sư Cù Huy Hà Vũ
Luật sư Cù Huy Hà Vũ
Theo tin từ trang tin điện tử của chính phủ Việt Nam, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội vừa quyết định không xem xét đơn của luật sư Cù Huy Hà Vũ kiện thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Luật sư Cù Huy Hà Vũ đã đệ đơn kiện này ngày 11/6, vì theo ông thủ tướng Việt Nam đã ra quyết định ''trái pháp luật'', khi vẫn cho phép tiến hành các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên.

Nhưng Chánh án Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Sơn, đã ra quyết định ngày 19/6 không thụ lý đơn kiện của ông Cù Huy Hà Vũ, với lý do là tòa án ''không có căn cứ pháp lý để thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện này''.

Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội còn khẳng định là quyết định của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho phép khai thác bauxite Tây Nguyên là ''hoàn toàn đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định'' của các luật có liên quan và việc khai thác bauxite là "chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước''. Trả lời phỏng vấn RFI hôm nay, luật sư Cù huy Hà Vũ đã bác bỏ những lập luận của Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.

Âm Thanh:


Tòa án Nhăn Răng thành phố Hà Nội không xem xét đơn khởi kiện của Cù Huy Hà Vũ

Kiến kiện củ khoai




Monday, June 22, 2009

Tehran: Death video woman 'targeted by militia' 20-06-2009


Source: http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/8113552.stm

Neda Agha Soltan
Neda Agha-Soltan was shot in the chest, witnesses say
Amateur video apparently showing a young Iranian woman dying in Tehran after she was allegedly shot by pro-government militia on Saturday has caused outrage in Iran and abroad.

The woman, Neda Agha-Soltan, was buried on Sunday.

Her fiance, Caspian Makan, told BBC Persian TV about the circumstances of Neda's death.

left She was near the area, a few streets away, from where the main protests were taking place, near the Amir-Abad area. She was with her music teacher, sitting in a car and stuck in traffic.

She was feeling very tired and very hot. She got out of the car for just for a few minutes.

Spaces for graves at Behesht-e-Zahra cemetery in Tehran
Grave spaces have reportedly been set aside for those killed in Tehran clashes

And that's when it all happened.

That's when she was shot dead. Eyewitnesses and video footage of the shooting clearly show that probably Basij paramilitaries in civilian clothing deliberately targeted her. Eyewitnesses said they clearly targeted her and she was shot in the chest.

She passed away within a few minutes. People tried to take her to the nearest hospital, the Shariati hospital. But it was too late.

We worked so hard to get the authorities to release her body. She was taken to a morgue outside Tehran. The officials from the morgue asked if they could use parts of her corpse for body transplants for medical patients.

They didn't specify what exactly they intended to do. Her family agreed because they wanted to bury her as soon as possible.

We buried her in the Behesht-e-Zahra cemetery in southern Tehran. They asked us to bury her in this section where it seemed the authorities had set aside spaces for graves for those killed during the violent clashes in Tehran last week.

A photo allegedly showing Neda Agha-Soltan dying in Tehran on 20 June 2009
.

On Monday afternoon, we had planned to hold a memorial service at the mosque.

But the authorities there and the paramilitary group, the Basij, wouldn't allow it because they were worried it would attract unwanted attention and they didn't want anymore trouble.

The authorities are aware that everybody in Iran and throughout the whole world knows about her story. So that's why they didn't want a memorial service. They were afraid that lots people could turn up at the event.

So as things stand now, we are not allowed to hold any gatherings to remember Neda.


Warning:
this video is of a highly explicit nature and may upset viewers
YouTube footage posted by witnesses in Tehran


Iran Tehran wounded girl dying in front of camera

Iranian Girl Shot Wounded

Cái Nhục Lớn Nhất Của Một Dân Tộc Là Có Một Chính Quyền Hèn Nhát - Lê Duy San

Lê Duy San

_ Nhiều người nghĩ rằng cái nhục lớn nhất của một dân tộc là cái nhục mất nước. Điều này không đúng hẳn. Nước nhỏ, dân ít, bị một nước lớn, dân đông, xâm chiếm là điều thường xẩy ra trên thế giới, nhất là vào thời kỳ khoa học, kỹ thuật chưa được tiến bộ. Vấn đề quan trọng là dân tộc đó có ý chí, có quyết tâm để tìm cách lấy lại chủ quyền hay không. Chỉ khi nào dân tộc đó cam chịu số phận mất nước, không có ý chí phục thù, không có quyết tâm giành lại độc lập, mới gọi là nhục.

Nước ta bị người Tầu đô hộ một ngàn năm và bị người Pháp đô hộ gần 100 năm, nhưng dân tộc ta không bao giờ chịu nhục. Lúc nào dân tộc ta cũng tìm cách nổi dậy để đánh đuổi người Tầu, người Pháp ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho đất nước và lấy lại chủ quyền cho dân tộc. Nhưng có độc lập, có chủ quyền mà đất bị lấn bị chiếm, biển bị xâm phạm mà chính quyền lại hèn nhát, không dám liên tiếng, thì qủa là một cái đại nhục cho dân tộc.

Ngày 19/1/74, trong khi Hải Quân của Việt Nam Cộng Hòa tử chiến với quân xâm lược Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa thì ngụy quyền Việt Công Hà Nội im hơi lặng tiếng một cách hèn hạ, không một lời phản đối Trung Cộng.

Ngày 2/12/07, Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập một quận lỵ lấy tên là Tam Sa trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam để trực tiếp quản lý cả hai quần đảo này, ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam cũng chỉ dám phản đối một cách yếu ớt qua lời tuyên bố của Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngọai Giao Cộng sản Việt Nam, rằng "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". Và rằng "Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên”.

Ngày 16/5/09, Trung Cộng đã thính thức ra lệnh cấm đánh cá đặc khu kinh tế khổng lồ bao quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phải cả các vùng đang bị tranh chấp mà cả các vùng mà Việt Nam có chủ quyền. Là cơ quan hành pháp, đại diện cho một quốc gia, đứng trước hành động hỗn xựợc này của Trung Quốc, đúng lý ra, bộ Ngoại Giao Việt Nam phải cho mời Đại Sứ Trung Quốc tới để phản đối hoặc gửi công hàm phả đối với lời lẽ thật mạnh mẽ và cương quyết như “vi phạm chủ quyền của Việt Nam” “xâm phạm lãnh hải Việt Nam”“yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam, lãnh hải của Việt Nam cũng như quyền đánh cá của ngư dân Việt Nam”.

Theo phát ngôn viên của chính quyền Việt Cộng thì bộ Ngoại Giao Việt Cộng đã yêu cầu Đại Sứ Trung Quốc tại Hà Nội kêu gọi chính phủ Bắc Kinh ngừng các hoạt động trên biển. Nhưng thực ra chính quyền Cộng Sản Việt Nam không những đã không dám phản đối mà chỉ xin xỏ một cách hèn hạ như “đề nghị phía Trung Quốc không nên có các hoạt động cản trở hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam” hoặc “việc Trung Quốc tăng cường tuần tra sẽ dẫn tới có thêm nhiều vụ bắt bớ ảnh hưởng tới các hoạt động đánh bắt cá bình thường của ngư dân Việt Nam tại khu vực đánh bắt cá truyền thống của Việt Nam”.

Thế nào là “khu vực đánh bắt cá truyên thống” ? Phải chăng đó là ngôn từ ngoại giao của bè lũ bán nước Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng ? Ôi, nghe sao mà hèn hạ vậy? Nếu không dám dùng những danh từ dao to, búa lớn, những danh từ sặc mùi khác mắu mà bọn mi đã dùng trong thời xâm chiếm miền Nam thì ít nhất cũng phải dùng những chữ cho rõ nghĩa, cho đúng với ngôn từ của một quốc gia có chủ quyền như: “không được có những hành động cản trở những hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam” hoặc “không được xâm phạm tại khu vực đánh cá thuộc chủ quyền của Việt Nam” v.v…. Đúng là phương khôn nhà dại chợ, chỉ quen áp bức dân lành.

Hèn mạt, không dám phản đối quan thày Trung Quốc, nhưng lại sợ lòng yêu nước của người dân nổi dậy, bọn lãnh đạo hèn nhát Việt Cộng quay sang tìm cách dàn áp những người bất đồng chính kiến để bịt miệng, đúng như tờ báo chui, “Báo Sinh Viên Yêu Nước” của anh em Sinh Viên trong nước đã nhận định trong cố báo thứ 5: “Thời gian qua, sự kiện Trung Quốc khai thác Bauxit ở Tây Nguyên còn đang bi dư luận phản đối. Vụ ngư dân Việt Nam đã không dám đánh cá vì bị tàu Trung Quốc tấn công. Vụ lãnh hải Việt Nam bị thu hẹp vì Trung Quốc dùng sức mạnh bá quyền công khai áp lực. Vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ dám ra mặt kiện Nguyễn Tấn Dũng. Trước áp lực dư luận có nguy cơ bùng nổ, phô bày bản chất yếu hèn, phản động của đảng CSVN trước tham vọng xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc. Hà nội quyết định bắt luật sư Lê Công Định cũng là cách để chuyển dư luận chống đối sang ngã rẻ khác, vừa răn đe thành phần đấu tranh dân chủ, vừa nhắn nhủ giới luật sư, trí thức, thanh niên sinh viên Việt Nam đang manh nha hình thành lực lượng nhằm phản đối vụ khai thác Bauxit và những quyết định bạc nhược, hèn yếu của Chính trị bộ đối với quan hệ Trung - Việt.

Hẳn chúng ta còn nhớ, cách đây gần 2 năm, sau khi biết tin Trung Cộng công khai xân chiếm hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và sát nhập vào một quần đảo khác của Trung Cộng để thành lập một quận lỵ lấy tên la Tam Sa, các học sinh và sinh viên Việt Nam cùng đồng bào trong nước đã tổ chức 2 cuộc biểu tình vào ngày 9/12/07 tai Saigon và Hà Nội để phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc. Bọn nguỵ quyền Cộng Sản Hà Nội, không những không ủng hộ hay khuyến khích mà lại còn bắt bớ, cấm đoán và hăm dọa. khiến một nữ sinh viên qúa uất ức đã vừa khóc vừa la: “Chúng cháu đến đây để thể hiện lòng yêu nước của mình … tai sao lực lượng an ninh lại ngăn cản lòng yêu nước của chúng cháu …? Khi ngăn chặn chúng cháu lại và không cho chúng cháu vào tham gia cùng mọi người …? Taị sao? Tại sao?. Và một thanh niên khác, không dằn được sự tức giận, đã hiên ngang đập mạnh tay xuống bàn và la lớn: “Các ông chỉ biết lo cho cái ghế của các ông, bọn tham nhũng”.

Ngày nay chúng ta đã thấy, người dân đã dám bàn chuyện chính trị, dám phê phán chính quyền công khai, không còn dè dặt và sợ hãi như những năm trước nữa. Nhiều người còn dám rủ nhau đi kiện, đi biểu tình phản đối những vụ chính quyền trưng dụng nhà cử đất đai của họ. Các anh em sinh viên cũng đã dám ra một tờ báo chui gọi lá Báo Sinh Viên Yêu Nước để bầy tỏ thái độ và các trí thức trong nước cũng đã dám công khai bầy tỏ lập trường, họ không còn sợ hãi trước sự hù dọa hay sự bắt bớ, giam cầm, bỏ tù một số người chống đối của ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam. Một vài luẫt sư đã dám tranh luận thẳng thừng với các chánh án Việt Cộng để bênh vực cho thân chủ trong các vụ án có lien can tới chính trị. Nhưng vẫn chưa đủ, cần phải tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa cho tới khi nào chế độ Cộng Sản Việt Nam bán nước phải cáo chung.

Một người dân trong nước cũng viết: “Tôi bần thần tự hỏi, chính quyền hiện hành có còn là chính quyền của dân tộc VN hay không ? Tự hỏi để rồi ngầm trả lời: Không, không, không, chính quyền này không phải là của dân tộc VN, mà là chính quyền của đảng cộng sản VN ! Tôi và bao bậc cha mẹ khác lẽ nào đưa con mình đi cầm súng để bảo vệ đảng nô lệ như thế này ??? Tôi đã rớt nước mắt. Tệ hại quá, tôi phải “nướng” con tôi cho lũ cầm quyền phản dân tộc này ? Tôi sẽ phải làm thế nào ? Cầm súng bảo vệ đất nước thì tôi không sợ, cầm súng chống bọn xâm lấn Trung Quốc thì tôi sẵn sàng đưa con tôi lên đường ! Còn cầm súng, hi sinh con cái chúng tôi cho quyền lợi riêng của đảng cộng sản VN thì khác nào sự ngu xuẩn, hơn nữa, đó là sự nhục nhã !

Thật không có cái nhục nào to lớn bằng cái nhục của một dân tộc có một chính quyền hèn hạ và đốn mạt như chính quyền cộng sản Việt Nam ngày nay, một chính quyền bán nước hại dân, chỉ biết tham nhũng và hiếp đáp dân lành. Và cũng không có cái hèn nào to lớn bằng cái hèn của một dân tộc khi có một chính quyền đốn mạt như vậy mà không dám chống đối.

Lê Duy San

Việt Nam Tỉnh hay Khu Tự Trị Của Tàu Cộng ? - Ninh Cơ

Ninh Cơ ghi lại:
(Trích tài liệu chép lại từ băng ghi âm cuộc họp mật giữa đại diện Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam để lưu trữ, được bảo quản theo chế độ tuyệt mật.)

Thưa các đồng chí.

Trong mấy ngày qua, ta đã cùng nhau thảo luận nhiều vấn đề, đạt được đồng thuận về căn bản, tuy không khỏi có sự tranh biện về tiểu tiết. Khép lại, ta có thể hài lòng khẳng định hội nghị đã thắng lợi và thắng lợi lớn. Xin các đồng chí hoan hỉ cạn chén.

Trong lời phát biểu kết thúc hội nghị, Lương Tư Lệnh nhấn mạnh: "Những gì được đưa ra bàn ở hội nghị chung quy chỉ là những điều đã được đề cập nhiều lần từ nhiều năm trong những cuộc gặp gỡ các cấp tham mưu và cả cao cấp." Với tư cách Chính Ủy được đề cử ra chủ trì hội nghị tôi xin tóm tắt vài điều cần thiết.

Trước hết, hội nghị nhất trí cao về quan điểm không có và không hề có chuyện Trung Quốc thôn tính Việt Nam. Trung Quốc không có nhu cầu thôn tính nước nào. Các nước lân bang đều nghèo. Họ cần đến Trung Quốc hơn là Trung Quốc cần đến họ. Những cái họ có đều ở dạng tiềm năng dưới đất hoặc ngoài biển. Không có Trung Quốc giúp đỡ thì chẳng khai thác được. Trong giai đoạn phải dồn toàn lực cho phát triển kinh tế, mà Ðặng Tiểu Bình lãnh tụ đã vạch ra, mọi sự đèo bồng đều vô nghĩa. Chúng kiềm hãm bước tiến vĩ đại của Trung Quốc vĩ đại. Thế mà ở Việt Nam lại có những luồng dư luận như thế đấy. Nào là Trung Quốc bá quyền, nào là Trung Quốc bành trướng. Thối lắm, thưa các đồng chí, không ngửi được. Bọn dân chủ ở Việt Nam đã hô hoán rầm rỉ rằng cuộc vạch lại biên cương giữa Trung Quốc và Việt Nam là tranh chấp biên giới. Trong khi đàm phán, tất nhiên có những điều hai bên phải nhân nhượng nhau. Có chỗ lồi ra, có chỗ lỏm vào, ở bên này hay bên kia. Nhưng, đó là kết quả của những thương thảo sòng phẳng, thuận mua vừa bán. Các đồng chí Việt Nam thấy chúng tôi nói thế, lại chỉ thanh minh mới chán. Như, Lê Thứ Trưởng (tức là ông Lê Công Phụng) trả lời phỏng vấn: "Thác Bản Giốc ta cứ tưởng là của ta, bạn cũng không bảo là của bạn. Ðo ra mới biết là của ta chỉ có một phần ba. Vì tình hữu nghị với ta, bạn cho ta hưởng một nửa." Nói thế là tốt. Nhưng vẫn cứ là thanh minh.

Việc gì mà phải là thanh minh cơ chứ? Với bọn phản động chuyên gây rối à? Cứ thẳng tay trấn áp, bịt cái miệng chó của chúng lại. Cứ lừng chừng, thiếu kiên quyết. Cứ hữu khuynh nhân nhượng. Nhân nhượng là chết đấy. Phải quét cho bằng sạch, không thương xót bọn dân chủ. Không cho chúng được đàng chân lên đàng đầu. Vùi chúng xuống đất đen, không cho chúng ngóc đầu dậy. Nhưng, cái đó sẽ không còn là vấn đề trong tương lai. Việc tiêu diệt bọn dân chủ dòi bọ sẽ không còn là việc của riêng các đồng chí Việt Nam. Nó sẽ là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta.

Thưa các đồng chí. Hội nghị đã thành công là nhờ nó gạt được ra những chuyện lặt vặt vô bổ, đang là đề tài thời sự, để tập trung vào đại sự: bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai. Tương lai có thể chưa tới ngay, nhưng lại có thể rất gần. Vì thế, ta phải có viễn kiến và phải có sự chuẩn bị. Hợp kết Trung Quốc Việt Nam có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc. Với tư cách tham mưu cho cấp cao hai bên, trong hội nghị này chúng ta bàn thẳng vào những phương án phát thảo những bước tiến hành cụ thể, những công việc cụ thể trong công tác chuẩn bị.

Nào, xin cạn chén một lần nữa, mừng thắng lợi của hội nghị lịch sử này.

Trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn lựa chọn nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại.

Ði với Mỹ chăng? Thì các đồng chí chạy đi đâu? Trở về với tổ quốc thì các đồng chí mới tiếp tục tồn tại như những ông chủ duy nhất trước hiểm họa của bọn dòi bọ đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí ra khỏi chỗ ngồi của mình. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, các đồng chí không được ngồi ở bàn giấy trong công thự, mà phải đi lang thang ngoài đường kiếm việc làm. Thật khủng khiếp. Vì thế, chúng ta phải chiến đấu hết mình cho sự tồn tại của chúng ta, cho con cháu chúng ta, tương lai của chúng ta, của con cháu chúng ta. Quyết không để lọt vào tay kẻ khác.

Lũ dân chủ dòi bọ ấy có cả ở Trung Quốc. Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng chúng tôi thẳng thắn trấn áp chúng thắng lợi. Nhưng ở Việt Nam tình trạng có khác. Chúng hung hăn hơn, lì lợm hơn, là do các đồng chí thiếu kiên quyết. Nếu ở Trung Quốc có một Thiên An Môn, thì tại sao Việt Nam không có một cái tương tự? Tôi xin bảo đảm với các đồng chí rằng, Trung quốc sẽ tận tình chi viện cho các đồng chí, một khi có sự biến đe dọa quyền lợi của đồng chí, để bảo vệ các đồng chí. Trung Quốc không thiếu xe tăng dĩ chí trong vài Thiên An Môn. Các đồng chí cứ hỏi Nông đồng chí (tức ông Nông Ðức Mạnh) xem Hồ đồng chí (tức là Hồ Cẩm Ðào) đã hứa hẹn gì trong cuộc gặp gỡ cấp cao vừa rồi. Nhưng đó là trong tình huống hiện nay. Trong tương lai thì hai nước đã là một, thì sẽ không phải như vậy.

Việc Việt Nam trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa. Trung Quốc và Việt Nam là một. Ðó là chân lý đời đời. Ðó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là ông Hồ Chí Minh) trong lễ tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: "Trung Quốc, Việt Nam như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh". Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể. Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Ðức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.

Trong thời đại hiện nay thì thế giới được tái phân chia sau đệ nhị thế chiến, thì Hoa Kỳ đã mất sự độc tôn trong sự trỗi dậy bất ngờ của tổ quốc chúng ta, thì sự sát nhập trở lại của Việt Nam và toàn bán đảo Ðông Dương tiếp theo là điều tất yếu. Thế nhưng chúng ta đều đã thấy, đã biết những biểu hiện lừng chừng, giao động lúc này lúc khác, trong ban lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam muốn người dựa lưng vào Trung Quốc, người dựa hơn con hổ giấy Hoa Kỳ. Bây giờ đã khác. Sự lựa chọn chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí Việt Nam tỏ ra có lựa chọn đúng.

Ngày nay, Trung Quốc vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có Việt Nam nhập vào, Trung Quốc đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại. Thế giới hôm nay chỉ còn lại hai siêu cường. Ðó là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Con hổ giấy Hoa Kỳ. Những việc mà bây giờ chúng ta phải làm. Tôi xin nhấn mạnh lại lần nữa. Không phải bây giờ mới làm, nhưng làm chưa đúng, làm chưa đủ, thì nay cần phải đẩy mạnh hơn nữa. Phải triển khai rộng hơn nữa là đè bẹp và tiêu diệt luận điệu tinh thần dân tộc vẫn còn tồn tại dai dẳng trong bọn kiên trì lập trường độc lập dân tộc. Ðặc biệt trong đám trí thức và vài phần tử công thần chủ nghĩa trong tướng lĩnh. Cần phải tiêu diệt cả về tinh thần, cả về vật chất.

Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công này là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Ðức Anh) người rất biết nhìn xa trông rộng. Tuy nhiên, lẫn vào đấy cũng vẫn có vài phần tử lừng chừng, giao động, chủ yếu do kém hiểu biết. Các đồng chí cần đả thông, bồi dưỡng thêm cho họ về lập trường, quan điểm và trường đảng các cấp. Mấy anh già sắp chết hay nói ngang thì phải đe nẹt cho chúng biết rằng, một khi đã bị coi là chống đảng thì chúng sẽ bị tước hết mọi tiêu chuẩn cao đang được hưởng, tất chúng sẽ im mồm.

Ðám trí thức lèo tèo mới là đáng ngại. Tuy chẳng có trong tay cái gì, nhưng chúng có khả năng kích động tinh thần nhân dân để cản trở sự hợp nhất. Nhưng không lo. Mao chủ tịch đã dạy: "Trí thức khởi xướng được, nhưng không làm được. Chúng chỉ lép bép lỗ miệng. Thấy súng lên đạn là chúng rùng rùng bỏ chạy". Ðáng ngại là ở chỗ ấy, chỗ khởi xướng. Nhưng không đáng sợ cũng ở chỗ ấy. Ở chỗ bản tính trí thức, hãy lên đạn, hãy hô bắn thật to, đâu sẽ vào đấy. Lực lượng chủ yếu của chúng ta trong việc trấn áp bọn dân tộc chủ nghĩa là hai cánh quân. Về vật chất là công an, về tinh thần là truyền thông.

Công an sẽ được cung cấp mọi trang bị hiện đại nhất để đè bẹp mọi mưu toan đối kháng. Nhưng phải chú ý đến điểm này: Không được lạm dụng các phương tiện hiện đại. Chiếu cố những biện pháp truyền thống ít gây ồn ào, tránh những phản ứng quốc tế bất lợi. Truyền thông phải xừ dụng mọi phương tiện sẵn có. Tăng cường viết và nói hằng ngày hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập. Họ sẽ được hưởng mọi phúc lợi của người dân Trung Quốc hơn hẳn phúc lợi đang có. Họ sẽ không còn chuyện lủng củng vướng mắc về biên giới. Ngư dân được tha hồ đánh cá trên biển Ðông này cũng là của họ mà không còn phải lo lắng: vì xâm phạm lãnh hải, bị hải quân Trung Quốc trừng phạt. Người dân khi xuất ngoại sẽ được cầm hộ chiếu của một nước lớn mà thế giới phải kiêng nể.

Tuy nhiên, tôi đặc biệt lưu ý các đồng chí là phải tiến hành kín đáo, để mọi việc chuẩn bị diễn ra như bình thường, không nhận thấy được. Trong khi chưa được hợp nhất, trung ương chính phủ, cũng như các tỉnh chính phủ, tuyệt đối không lộ ý đồ. Thỉnh thoảng cũng phải cho phát ngôn nhân trung ương chính phủ nói dăm ba câu phản đối về chủ quyền Tây Sa và Nam Sa. Và cho phép các báo đăng vài bài chiếu lệ về biên giới và hải đảo với mọi sự cố xảy ra trên biển như vừa rồi. Cứ tiếp tục ám chỉ một nước ngoài nào đó, hoặc một tàu lạ nào đó, không rõ quốc tịch là được. Ðừng quên xem thường các nhà báo. Họ là công bộc trung thành của ta. Thiếu họ không được.

Hiện nay đang nổi lên sự phản đối Trung Quốc khai thác Bauxite ở miền Trung, ồn ào lắm, có vẻ hung hăng lắm. Nhưng là bề ngoài thôi. Chứ bề ở trong, bọn phản đối cũng thừa biết mọi sự đã an bày. Tiền đã trao thì cháo phải được múc. Bộ Chính Trị quyết không bỏ kế hoạch này. Nhất là đồng chí Nông Ðức Mạnh. Là chuyện sinh tử của đồng chí Nông Ðức Mạnh nên đồng chí ấy rất cương quyết. Trong chuyện Bauxite, tôi thấy bên cạnh cái xấu lại có cái tốt đấy.

Các đồng chí ạ! Phải công bằng mà lập luận, một khi Việt Nam đã nhập vào Trung Quốc thì vùng Tây Nguyên của Việt Nam là của chung nước ta. Chưa chừng, trên sẽ thay đổi kế hoạch. Ta không khai thác ở đấy nữa, mà chuyển sang khai thác, thực hiện ở Châu Phi. Bauxite của ta, ta để đấy dùng sau. Cũng như ta đâu có vội khai thác cả tỷ tấn Bauxite ở Quảng Tây. Nói để các đồng chí phấn khởi. Về thực chất, qua con đường ngoại thương, đầu tư, ta nắm Châu Phi trong nhiều năm nay rồi. Ta đã mua hết các chính quyền ở đấy. Cái đó gọi là quyền lực mềm. Trung Quốc đến sau phương Tây và Hoa Kỳ, vậy mà chỉ trong vòng một thập niên, ta đã quét sạch chúng khỏi đấy. Ta còn chuyển dân mình sang Châu Phi, làm thành những vùng đất Trung Quốc trên lục địa đen kia nữa. Người Trung Quốc bây giờ có quyền nói: "Mặt trời không bao giờ lặn trên đất đai của tổ quốc".

Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương cho đến địa phương để họ thấy rằng sau hợp nhất, mọi vị trí quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chính sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc. Việc này rất quan trọng. Xin các đồng chí chớ coi thường. Lãnh đạo từ trung ương cho đến địa phương có thông thì dân mới thông. Nhân dân đã được giáo dục chu đáo trong nhiều năm, tinh thần tuyệt đối phục tùng lãnh đạo. Nhưng nếu họ thấy cấp trên của họ giao động, tư tưởng bất thông thì chính họ cũng sẽ giao động theo, trở thành mồi ngon cho những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

Thưa các đồng chí. Còn lại việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất. Tỉnh hay khu tự trị? Chuyện này xin các đồng chí về nghĩ thêm, bàn thêm. Tỉnh thì cũng như Quảng Ðông, Quảng Tây. Về diện tích hơn kém không nhiều. Khu tự trị kiểu như khu tự trị Choang trong tỉnh Quảng Tây thì lại quá nhỏ về vai vế. Nông đồng chí vốn rất e ngại sự chống đối trong nội bộ. Mà làm khu tự trị với ý nghĩa lớn hơn thì lại vướng chuyện Tây Tạng. Bọn chó Ðạt Lai Lạt Ma cũng đang xin tự trị đấy, mà trung ương không thuận. Còn mấy đồng chí Việt Nam nêu ý kiến, hay là tổ chức Trung Quốc thành liên bang, Việt Nam sẽ là một nước hay một bang trong liên bang ấy. Ý kiến này không mới. Nó đã từng được nêu lên. Nhưng các đồng chí thử nghĩ xem. Nếu như thế thì thống nhất làm sao được với bọn Tây Tạng, bọn Nội Mông, bọn Mãn Châu, bọn Hồi Bột. Chính chúng nó đang muốn cái đó để xưng độc lập, hoặc tự trị trong liên bang. Trên nguyên tắc thì đúng, là cái gì cũng được. Danh chính thì ngôn thuận. Nhưng nội dung bất biến. Vùng nào cũng chỉ là một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc. Có điều những danh hiệu độc lập, tự trị là cái rễ bị lồng vào đấy cái tinh thần dân tộc, mầm mống cho sự phận liệt. Không được. Quyết không được.

Thưa các đồng chí. Vấn đề hình thức nhưng lại có tầm quan trọng. Xin các đồng chí phát huy tự do tư ... (hết phần trích và dịch đoạn băng ghi âm)
.

Phóng sự hình ảnh ngày Quân Lực 19/6 tại Vương Quốc Bỉ

Hội CQN/QLVNCH tại Vương quốc Bỉ tổ chức Ngày Quân Lực 19/6 năm 2009 tại Bruxelles.

Đêm 20/06/2009 vừa qua, Hội CQN/QLVNCH tại Vương quốc Bỉ đã tổ chức kỷ niệm Ngày QL.19/6 lần thứ 34, sau ngày Miền Nam bị bức tử. Một buổi lễ đơn sơ nhưng rất trang nghiêm để vinh danh và tưởng niệm các chiến sĩ Quốc Gia đã vị quốc vong thân trong cuộc chiến tự vệ chống kẻ thù phương Bắc cũng được thực hiện sau đó vô cùng cảm động. Đêm liên hoan mừng Ngày QL năm nay của Hội đã gặt hái được nhiều thành công tốt đẹp, trội hẳn hơn các năm vừa qua, nói lên tinh thần đoàn kết trong tình chiến hữu, ngày xưa cho đến hôm nay, vẫn còn khắng khít và cảm thấy vẫn còn ấm áp trong cuộc sống tha hương. Quý đồng hương tham gia đều vui vẻ và rất cởi mở trong tình người Việt Nam xa quê. Chương trình văn nghệ rất sôi động và hào hứng. Sự hiện diện của các chiến hữu ở vùng Puy de Dôme (miến Nam nước Pháp) không quản ngại đường xá xa xôi, đã hết lòng cống hiến cho hội trường nhiều âm thanh mới lạ và hấp dẩn trong bầu không khí "cây nhà lá vườn". Các phái đoàn CQN và QCC ở các nước lân cận hội tụ về cũng rất đông đảo như Pháp, Đức, Hòa Lan.

Bài thơ dưới đây xin hân hạnh được gởi đến Hội CQN/QLVNCH tại Bỉ để ghi dấu một đêm họp mặt cuối tuần của đồng hương Việt Nam tại BXL. Và đây cũng là tâm tư của một người lính năm xưa, nay tuy đã già lụm cụm, nhưng tinh thần chống Cộng vẫn còn nghị lực đeo đuổi.

TÂM TÌNH NGÀY QUÂN LỰC

BÓNG MA BIÊN GIỚI




Mười chín tháng sáu thường niên,
Là Ngày Quân Lực dành riêng bọn mình.
Gặp nhau thăm hỏi chân tình,
Trao nhau những chuyện thường tình thế nhân:
- Như ai về nước bán buôn,
Coi chừng mất của lại chuồn trở ra
Đôi khi bị bắt điều tra,,
Làm sao tránh khỏi đôi ba năm tù.
Khi vỡ lẽ, biết mình ngu !
Ăn năn đã muộn, căm thù Cộng nô.
Làm ăn với thứ tham ô,
Không chầy thì chóng, cũng vô khám đường !
- Việt Nam thiếu thốn thương trường,
Đang cần chất xám bốn phương trở về.
Thành phần khoa bảng đủ nghề,
Còn thù Cộng Sản, đừng về kiếm ăn.
Vừa dụ dỗ, lại nói ngang,
Khi xong độc kế, chúng (CSVN) giam thật tình.
Tội danh chẳng rõ phân minh,
Chờ khi thất thế buồn tình đổi trao.
Cộng Sản ra vẻ ngọt ngào,
Coi chừng uổng mất công lao học hành.
Đôi lời nhắn nhủ hậu sanh :
Tài năng dành để đấu tranh bạo quyền.
- Cộng Sản láo khoét tuyên truyền,
Về thăm Tổ Quốc chẳng phiền vi-sa.
Ta nên cảnh giác tối đa,
Coi chừng cái bẫy gạt ta vô tình.
Gian manh, mưu kế bẩm sinh,
Làm cho lý lịch của mình tuôn ra.
Thế là ta lại hại ta,
Vô tình ta giúp gian tà thành công.
Vi-sa như cái hầm chông,
Lọt vào độc kế, đừng hòng đấu tranh.
Nghị Quyết 36 gian manh,
Ngăn ngừa chúng nó (CSVN) tung hoành khắp nơi.
Ra đi khắp bốn phương trời,
Cũng vì Cộng Sản nên đời đổi thay.
- Mười chín tháng sáu năm nay,
Anh em trở lại bắt tay vui mừng.
Có người giọng nói ngập ngừng,
Lâu ngày vắng bóng tưởng chừng thăm quê.
"-Thưa rằng: Cũng có nhớ quê,
Cha già mẹ yếu khó bề sống lâu.
Bà con chú bác ốm đau,
Thân bằng quyến thuộc thăm nhau đôi lần.
Xa quê cách trở khó khăn,
Gọi là báo hiếu song thân cuối đời.
Gia đình ly tán khắp nơi,
Mỗi người mỗi nẻo đừng khơi nỗi buồn..."
Nghe qua gợi nhớ cội nguồn,
Cuộc đời tỵ nạn, nỗi buồn như nhau...
Đêm nay gặp gỡ đổi trao,
Tình người chiến hữu mong sao lâu dài.
Từ ngày Quốc Hận đến nay,
Mười chín tháng sáu ở ngoài Việt Nam.
Đấu tranh phải có gian nan,
Đem Ngày Quân Lực về giang sơn mình.
Quê nhà từ đó hồi sinh,
Non sông tiếp nối bình minh Cộng Hòa.
Bao năm tỵ nạn bôn ba,
Cuối đời mãn nguyện tại nhà Việt Nam...

Mừng Ngày QL.19/6 năm 2009

BÓNG MA BIÊN GIỚI





























Bà Đặng Thị Ba thành viên Hội Phụ Nữ vùng Nam Úc và củng là Mẹ của một chiến hữu Hội CQN/VQ bỉ đến từ Úc


Chiến hữu Sơn phụ trách MC chương trình ngày Quân Lực 19/6


Toán Quốc Quân Kỳ tập dợt lại trước giờ khai mạc


Phái đoàn quan khách đến từ Pháp Quốc


Phái đoàn quan khách đến từ Hòa Lan và và Niên Trưởng Nguyển Nhựt Châu Pháp Quốc




Phái Đoàn Đúc, Pháp và Niên Trưởng Mai viết Triết


Bác Sĩ Châu Văn Lộc Sư Đoàn 18




Phái đoàn đến từ Đức Quốc, Pháp, Hòa Lan và Úc châu



Saturday, June 20, 2009

Lễ truy điệu trong Ngày Quân Lực VNCH tại Hoa Thịnh Đốn

Liên Hội Cựu Chiến Sị VNCH vùng Hoa Thịnh Đốn và phụ cận đã trang trọng tổ chức Lễ Truy điệu nhân Ngày Quân Lực 19 Tháng 6. Buổi lễ được tổ chức vào lúc 8:30 tối ngày 18 Tháng 6, 2009 tại Eden Center, Falls Church, VA.


Mời bấm vào đây để xem video