Tuesday, April 28, 2009

Thảm sát trên đảo Trường Sa - Nguyễn Nhân Chứng



Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 130 đồng bào trên “ghe ông Cộ” trên đường vượt biển tìm tự do đã bị Việt cộng tàn sát dã man vào tháng Tư năm 1979 ở đảo Trường Sa, và cũng để gửi đến các con yêu quý của ba: Chí Dũng, Đông Nghi, Tì Tì.

Trước khi vào chuyện:

Thời gian gần đây, dư luận đồng bào trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ trước nguồn tin Trung cộng đã xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam đang săn bắt hải sản chung quanh khu vực đảo Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam, gây thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản cho ngư dân Việt Nam, Đây không phải là lần thứ nhất Trung cộng xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam. Cách đây vài năm, Trung cộng cũng đã xả súng bắn vào ngư thuyền Việt Nam khiến cho 8 người bị chết và nhiều khác bị thương, sau đó Trung cộng còn ngang nhiên bắt giam nhiều ngư thuyền và ngư dân Việt Nam một cách trái phép vô cùng ngang ngược, bất chấp công pháp quốc tế về luật hàng hải. Đây là hai vụ điển hình nhất mà dư luận quốc tế có đưa tin và đề cập đến. Dĩ nhiên, là còn có nhiều vụ khác đã xảy ra nhưng không có người biết đến. Điều đáng để nói là: nhà cầm quyền Việt cộng đã không có lấy một hành động đáng kể nào được xem là để bảo vệ công dân của mình trước các hành động man rợ của Trung cộng. Thái độ nhu nhược và bất lực của Việt cộng trước việc Trung cộng bắn giết bừa bãi dân lành đã bị đồng bào nguyền rủa.

Nhưng đâu có ai biết được một câu chuyện đã xảy ra cách đây 28 năm về trước, cũng tại quần đảo Trường Sa này. Một cuộc tàn sát man rợ khác đã diễn ra, máu đào loang thắm cả một vùng biển, xác người trôi vất vưởng làm mồi cho muôn loài cá. Cuộc thảm sát man rợ này đã diễn ra do chính bộ đội Việt cộng, lực lượng trú đóng trên đảo Trường Sa ra tay thực hiện. Và ….. nạn nhân là hơn 130 đồng bào vượt biển tìm tự do trên một con thuyền xuất phát từ thành phố Nha Trang. Trung cộng là giống dân ngoại chủng luôn luôn có ý đồ xâm chiếm Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Trung cộng bắn giết ngư dân Việt Nam cũng do bản chất xâm lăng, đồng thời muốn chứng tỏ thế nước lớn của mình đối với Việt Nam. Thế nhưng, bộ đội Việt cộng xả súng hàng loạt bắn thẳng vào chính những người cùng một dòng máu, cùng một màu da, cùng một ngôn ngữ, mà họ gọi là đồng bào, chỉ vì những đồng bào này đã bỏ nước ra đi vì không chấp nhận một chế độ độc tài cộng sản. Hành động này của bộ đội Việt cộng đã vượt qua mức tưởng tượng bình thường của con người. Hành vi tội ác này của chúng nó, ngày nay đã được đảng cộng sản xóa bỏ để trở thành quá khứ, và những người sống sót trên con tàu oan nghiệt đó trở thành những khúc ruột xa ngàn dậm theo chủ trương của đảng, cho dù những người này không và sẽ không bao giờ quên dược cái đêm kinh hoàng của tháng 4 năm 1979 của 28 năm về trước.

Bộ máy tuyên truyền của đảng Vc giờ đây đang cùng với những cá nhân, đảng phái đón gió trở cờ đang cùng nhau diễn xuất kịch bản “xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai ” Người sĩ quan bộ đội cộng sản, người đã trực tiếp ra lịnh thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội trên đảo Trường Sa 28 năm về trước, nếu còn sống, có lẽ giờ đây đã biến thành một tay tư bản đỏ giàu sang, và đang ngồi ở vị trí Ủy viên Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

Tác giả câu chuyện này xin được viết ra đây câu chuyện của 28 năm về trước, như một nén hương lòng thắp muộn để tưởng nhớ đến hơn 130 đồng bào trên “ghe ông Cộ” những người bạn đồng hành của tác giả đã bất hạnh gục ngã trước những họng súng oan nghiệt của những tên Việt cộng cuồng sát. Những người còn may mắn sống sót sau cuộc thảm sát trên, nếu có dịp được đọc những dòng chữ này xin hãy cùng nhau dành một phút để cầu nguyện cho những bạn đồng hành xấu số của chúng ta. Những kẻ theo cộng sản là những kẻ cuồng tín, cuồng sát. Cho nên chúng mới xả súng bắn những người chạy đi, dù là đàn bà hay con trẻ, trong tay không tấc sắt. Dù chúng đổi tên, thay áo bộ đội, vất nón cối, bỏ dép râu ….

Nguyễn Nhân Chứng.
*
* *

Chúa ơi cứu con với !

Tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi, cùng lúc với một dòng nước ấm văng vào mặt đã khiến cho tôi phải lấy tay vuốt mặt mình và bàng hoàng nhận ra toàn là máu, máu nóng đã ập vào mặt tôi từ người phụ nữ bên cạnh. Tôi ngẩng cao đầu lên một chút để nhìn sang bên cạnh, người phụ nữ đang oằn oại với vết thương một bên đùi vỡ toác do đạn xuyên phá, máu tuôn xối xả. Tôi xót xa nhìn người phụ nữ đang lăn lộn vì đau đớn, nhưng cũng đành bất lực không cứu giúp gì được, vì ngay bản thân tôi cũng đang nằm bẹp dí xuống sàn tàu để tránh đạn.

Đạn vẫn tiếp tục nổ, tiếng rên xiết, la hét, kêu gào, của những người bị trúng đạn quyện vào nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn đến rợn người, âm thanh giữa biên giới của sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một cái nháy mắt, mới còn nghe rên la đó …. một loạt đạn tiếp theo đã ghim chặt vào thân người, lập tức tiếng rên la im bặt, một con người đã vĩnh viễn ra đi, những người khác tiếp tục rên la, chờ đợi loạt đạn tiếp theo cướp lấy mạng sống của mình. Tôi tự nhủ thầm, muốn sống còn phải rời bỏ con tàu ngay lập tức. Tôi vùng dậy, và nhận ra con tàu đang chìm dần từ phía sau của thân tàu, phía trước của con tàu đã bị đạn pháo bắn gãy, đang chổng lên trời. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt văng tung tóe, thây người nằm la liệt, một cảnh tượng hãi hùng mà tôi chưa từng chứng kiến. Thần kinh tôi tê cứng vì sợ hãi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản năng sống còn của con người trong tôi bừng sống dậy, tôi lao mình ra khỏi con tàu phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng biển chụp tới cuốn tôi rời xa con tàu. Thật là may mắn, tôi vừa rời xa con tàu thì dường như cùng một lúc, một trái đạn pháo kích rớt chính xác ngay giữa con tàu khiến con tàu gãy đôi và chìm xuống biển, mang theo toàn bộ số người có mặt trên tàu lên tới trên 130 người.

Trên mặt biển bây giờ đã không còn thấy bóng dáng con tàu đâu nữa, thay vào đó là những vật dụng bể nát của con tàu, những tấm ván bể nổi trôi lềnh bềnh trên sóng nước. Xác người chết ! xác người chết trôi nổi quanh tôi, phụ nữ, đàn ông, con nít, già có, trẻ có. Tất cả, không một ai còn được toàn vẹn thân thể, không một ai còn sống cả ….. Có lẽ tôi là người sống sót duy nhất còn lại của con tàu, ngoài tôi ra thì chỉ còn lại toàn rặt là xác của người chết. Máu, là máu, từng vệt loang dài chảy ra từ vết thương của những xác chết, theo dòng nước trôi quanh tôi. Thủy triều đang lên, tôi rùng mình nghĩ đến đàn cá mập đói đang lẩn quẩn quanh đây chờ thủy triều lên cao sẽ theo mùi máu mà kéo đến, thì cho dù tôi có còn sống thì vẫn phải làm mồi cho đàn cá mập như những xác chết kia mà thôi! Tôi vươn tay cố gắng chụp lấy một mảnh ván để bám vào, tôi bám chặt vào mãnh ván, nhắm mắt lại cầu nguyện, dọn mình chờ chết, và trong cái khoảnh khắc tuyệt vọng đó tôi đã nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những người thân thương ruột thịt, đã không biết được rằng tôi đã bỏ thây giữa biển cả và làm mồi cho cá mập. Vĩnh biệt tất cả ……

Câu chuyện bắt đầu:

Chuẩn bị ra đi tìm tự do, dân chủ, hạnh phúc, ấm no

3 giờ sáng thành phố Nha Trang vẫn còn chìm trong giấc ngủ, hàng trụ điện bên đường Nguyễn Thái Học tỏa ánh sáng mờ mờ, soi bóng tôi trên đường. Vai mang cái phao (loại ruột xe hơi được bơm căng lên) giả làm dân đi tắm biển sớm (đối với người dân Nha Trang thì việc có người đi tắm biển vào lúc 3- 4 giờ sáng là chuyện thường) tôi rảo bước thật nhanh hướng về phía biển cho kịp giờ hẹn. Xuống tới bãi cát, tôi đưa mắt nhìn quanh dò xét địa thế, bãi biển vắng lặng không một bóng người, tôi yên tâm cởi bỏ áo ra chỉ mặc chiếc quần cụt, giả vờ làm vài động tác thể dục trước khi bước xuống nước. Từ xa, về phía biển có ánh sáng mù mờ của một chiếc thuyền câu đang tiến vào bờ, tôi lại đảo mắt nhìn quanh kiểm soát lần cuối trước khi rời bãi cát. Bước xuống nước, tôi nhoài người bơi nhanh về hướng chiếc thuyền câu, trả lời đúng mật mã, một bàn tay vươn ra kéo tôi lên chiếc thuyền. Thuyền lướt nhẹ trên mặt biển hướng về “Hòn Tre” cá nhân tôi thì phải nằm sát xuống khoang thuyền không được ngồi dậy cho đến khi tới chỗ ẩn nấp ngoài đảo Hòn Tre.

Hòn Tre là một hòn đảo lớn, nằm cách bờ biển và hải cảng Nha Trang khoảng chừng 6 cây số, cư dân trên đảo này rất ít chỉ chừng vài chục gia đình, hầu hết đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Nơi đây cũng là nơi ẩn nấp của các tàu thuyền và ngư dân mỗi khi gặp gió bão. Con thuyền chạy được chừng hơn tiếng đồng hồ thì tới một cửa động nằm khuất sâu vào phía trong trên đảo Hòn Tre, rất khó mà tìm thấy nếu không quen thuộc được địa hình nơi đây. Từ phía ngoài nhìn vào, tôi chỉ nhìn thấy một màu tối đen, bằng ánh sáng của cái đèn (pin) do người ngồi trước mũi soi sáng, chiếc thuyền câu từ từ lướt nhẹ vào động. Tôi được bỏ xuống đây để ẩn trốn chờ đêm đến sẽ ra "tàu lớn". Một tốp 5 người đàn ông chạy ra đón tôi, ai nấy đều trần như nhộng, không mặc một thứ gì trên người (sau này thì tôi cũng như họ vì không khí trong động rất oi bức khó chịu) họ là những người đã đến trước tôi từ đêm hôm trước, cũng để chờ để ra tàu lớn. Trời đã sáng tỏ, nhưng từ phía bên trong động, chúng tôi nhìn ra bên ngoài cũng chỉ nhìn thấy được một vệt ánh sáng rất mờ, yếu ớt chiếu sáng vào trong động. Lúc này trong động chúng tôi cũng đã lờ mờ nhìn thấy được nhau, thật là một cảnh tượng sống động có một không hai mà trong cuộc đời của tôi đã được tận mắt nhìn thấy, 5 ông Adam của thời kỳ hồng hoang, ăn lông ở lỗ, trên người không một mảnh vải che thân, đang đứng giữa một thạch động thiên nhiên thì thào to nhỏ với nhau, vì cứ sợ bên ngoài nghe được. Nhưng thật ra thì có hét to lên cũng chẳng có ai người ta nghe thấy. Không khí trong động đã bắt đầu oi bức dần lên, tôi cũng phải lột bỏ cái quần cụt mang trên người để trở thành người tiền sử như những người khác.

Qua câu chuyện, tôi được biết nơi đây là nơi cất giấu dầu chạy máy dùng cho chuyến vượt biển, mỗi ngày một ít số dầu tồn trữ được tăng dần lên theo với thời gian, và đây là giai đoạn chót cho nên 5 người họ đã ở lại luôn trong thạch động, chờ tối nay thì sẽ chuyển sang tàu lớn. Tôi được chia cho một ít cơm với muối mè đã được vắt cục lại với nhau để đỡ đói chờ đêm đến ra tàu lớn, nằm ngả lưng trên mặt đá lởm chởm, tôi liên tưởng đến chuyến vượt biển đêm nay và cầu nguyện ơn trên cho mọi việc được thông suốt, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến tương lai không biết rồi sẽ đi về đâu, tôi bồi hồi tấc dạ. Đêm đến, ánh đèn pin từ cửa động chiếu ánh sáng vào, cùng với tiếng người nói chuyện với nhau. Rõ ràng là không phải những người trong ban tổ chức, mọi người nín thở chờ đợi, mọi người đều nằm ép sát mình xuống mặt đá, không dám cử động mạnh, cũng may là từ phía ngoài nhìn vào thì chỉ thấy một màu tối đen, nên chúng tôi đã không bị phát giác.

Thời gian chờ đợi tưởng chừng như vô tận, sau cùng thì nhóm người đó cũng bỏ đi, chúng tôi thở ra nhẹ nhõm. Một anh trong nhóm chúng tôi cho biết, đó là những người đi “soi mực” ban đêm và anh đoan chắc rằng họ chỉ vô tình đi lạc vào đây mà thôi. Vào khoảng giữa đêm thì chiếc thuyền câu liên lạc đã trở lại thông báo cho biết là: tối nay không thể khởi hành được vì có sự trục trặc do lý do an ninh. Mọi người lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng đành phải nhận lấy phần lương thực cho ngày mai và tiếp tục chờ đợi. Thời gian chờ đợi trong thạch động dường như dài vô tận, chúng tôi chỉ có việc ăn xong rồi nằm hoặc đi lại cho giãn gân cốt, trò chuyện thì hạn chế tối đa vì lo sợ bị phát giác. Một ngày một đêm đã trôi qua, mọi người nôn nóng chờ tin từ con thuyền liên lạc, bóng đêm lại phủ đầy bên ngoài cửa động, con thuyền liên lạc đã trở lại và tiếp tục báo tin buồn vẫn chưa thể khởi hành được, chúng tôi nóng ruột thấy rõ, người đưa tin thì chỉ làm nhiệm vụ đưa tin và chuyển lương thực cho chúng tôi xong thì rút lui. Đêm thứ ba, bóng con thuyền đưa tin đã trở lại, lần này có vẻ hối hả hơn hai đêm trước, theo sau nó là ba chiếc thuyền câu khác nối đuôi nhau tiến vào thạch động, tôi đoán là giờ khởi hành đã tới. Quả đúng như tôi dự đoán, chúng tôi được lịnh “bốc” toàn bộ số dầu chạy máy lên bốn chiếc thuyền câu cùng với mọi người rời thạch động ra tàu lớn. Giây phút quan trọng đã đến, chúng tôi lần lượt chuyển hết số dầu lên thuyền, còn chúng tôi thì nằm sát xuống thuyền bên trên được phủ một tấm nylon để che kín. Bốn chiếc thuyền câu theo hàng dọc lặng lẽ rời thạch động hướng về tàu lớn. Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi đã cập được sát tàu lớn đang bỏ neo chờ chúng tôi.

“Tàu lớn” là một chiếc ghe đi biển của ngư dân, dài khoảng 15 thước, rộng chừng 3 thước, mà dân trong nghề đi biển gọi là “3 lốc đầu bạc”, dầu được chuyển cấp tốc và nhanh chóng lên tàu lớn, chúng tôi cũng đã lần lượt leo lên tàu lớn. Tàu nhổ neo, chạy ở vận tốc bình thường như là một chiếc tàu đánh cá bình thường khác đang hoạt động quanh đó. Tôi leo lên mui tàu tìm chỗ ngồi, tôi đã giật mình kinh ngạc khi nhìn thấy toàn bộ số người có mặt trên tàu. Đông quá! Chỗ nào cũng có người ngồi chen chúc, nhưng rồi tôi cũng không lấy làm quan tâm cho lắm, miễn sao con tàu cứ tiếp tục hướng mũi ra khơi hướng về Philippines. “Tháng ba bà già đi biển” câu thành ngữ của những người hành nghề đánh cá, rất đúng trong trường hợp của chuyến vượt biển đêm nay. Mặt biển phẳng như gương, bầu trời trong vắt với muôn vì sao lấp lánh. Sau khi đã bỏ xa khu vực đánh cá trong vùng, con tàu mở hết tốc lực hướng mũi ra khơi. Mặt trời đã ló dạng từ phía chân trời, trời đã dần sáng tỏ, từ trên mui tàu tôi có dịp quan sát rõ hơn toàn bộ khung cảnh trên tàu, điều khủng khiếp đập vào mắt tôi đầu tiên là mặt nước biển chỉ cách bẹ tàu có chừng non 1 thước, chứng tỏ con tàu đang bị khẳm vì chở quá nặng, con tàu như đang oằn mình trườn tới phía trước với sức nặng vượt quá mức cho phép.

Trên khoang tàu la liệt là người, trước mũi, sau khoang, chỗ nào cũng có người. Nắng đã lên cao, tuy mới sáng sớm nhưng nắng giữa đại dương đã mang lại cái nóng khó chịu trong người rồi, vài người đã cởi áo ra cũng như tận dụng hết tất cả những gì khả dĩ có thể che nắng được để tránh cái nắng đã bắt đầu gay gắt. Chỗ duy nhất có thể tránh nắng được là cabin tàu đã được dành riêng cho gia đình chủ tàu, các hầm tàu bình thường dùng để làm nơi chứa cá sau khi thu hoạch được, đã được gỡ bốc nắp hầm đi dùng làm nơi tránh nắng, nhưng có lẽ dưới hầm tàu không khí quá ngột ngạt oi bức nên cứ chốc chốc lại có người trồi lên để hứng lấy khoảng không khí trống trải trên tàu, có người leo lên khỏi miệng hầm thì cũng có người lại chui xuống dưới hầm tàu, cái quy trình “cắc cớ” này cứ thế mà tiếp diễn trong suốt cuộc di hành. Vài tiếng khóc của trẻ em đã nổi lên vì khát nước, chủ tàu ra lịnh cung cấp nước uống cho mọi người, người lớn thì được ba nắp “bi đong“, con nít được gấp đôi trong ngày đầu tiên, cứ cách khoảng chừng 1 giờ đồng hồ thì lại cấp tiếp cho con nít, người lớn thì phải chịu nhịn lâu hơn. Vì ngồi trên mui cabin nên tôi đã nói chuyện được với gia đình chủ tàu, theo như họ cho biết thì chuyến đi đã bị gặp khó khăn do địa điểm bị tiết lộ ra bên ngoài bởi những người chung vàng cho chuyến đi, do đó thân nhân của những người này đã “canh me” rất sát chuyến đi. Đó cũng là lý do khiến chúng tôi phải chờ đợi trong thạch động hết hai ngày đêm, đêm thứ ba chủ tàu quyết định phải ra đi bằng mọi giá trước khi việc đổ bể. Tàu cập sát bờ biển nơi “kho gạo” để bốc người, số người dự trù chính thức là gần 60 người. Không ngờ, khi tàu cập vào bờ thì người ở mọi ngõ ngách túa ra leo lên tàu, và vì không muốn bị lộ nên chủ tàu đành phải chở hết số khách không có trong danh sách, sau khi kiểm soát lại thì được biết là con số người đã lên đến hơn 130 người.

Trời đã vào chiều, gió thổi lạnh, một đàn cá heo “dolphin” bơi cập theo hông tàu trông rất đẹp mắt, mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống chân trời, bóng tối bắt đầu phủ xuống, con trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đầu, bóng con tàu trông thật cô đơn giữa biển cả mênh mông, con người đã trở nên vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, đâu đó văng vẳng tiếng cầu nguyện, lúc đầu nhỏ, sau to dần lên, và không hẹn hầu như mọi người trên tàu đều cầu nguyện theo tôn giáo mình. Biển hoàn toàn vắng lặng, không có bóng một con tàu nào qua lại, không gian là một màu đen che phủ đến lạnh người, con tàu vẫn lầm lũi lướt tới, tôi được anh tài công người của chủ tàu đưa cho một “tấm bạt” loang đầy dầu mỡ để che lạnh, tôi cùng vài người khác quây quần phía bên trong tấm bạt cho bớt lạnh. Một ngày một đêm đã trôi qua trong an bình, mọi người thầm cảm tạ ơn trên đã che chở cho con tàu. Ngày thứ hai, nắng dường như gay gắt hơn, nắng như đổ lửa xuống những tấm thân đã rộp lên vì bị phỏng nắng, tiếng con nít khóc vang trời. Nước ! Nước đã trở thành một thứ quan yếu bật nhất trên tàu, chủ tàu đã cử bốn thanh niên lực lưỡng đứng canh gác khu vực để nước. con nít được ưu tiên tăng lượng nước uống lên từ 6 nắp lên 8 nắp, nhưng người lớn thì bị giảm xuống chỉ còn có một nắp mà thôi.

Ngày qua đi, đêm lại xuống, tiếng kinh cầu lại vang lên, thỉnh thoảng lại có tiếng nôn oẹ vang lên, đoàn lữ hành nằm dã dượi trân mình hứng chịu khí hậu lạnh lẽo của đại dương về đêm. Ngày hứng chịu cái nắng khủng khiếp, đêm về lại phải đón nhận cái lạnh, chỉ mới có hai ngày mà những con người khốn khổ đã teo hóp lại, sức đề kháng dường như đã không còn nữa. Ngày thứ hai cũng trôi qua bình an, nhưng đoàn người thì đã hoàn toàn đuối sức, ai nằm chỗ đó, phó mặc cho con tàu muốn đưa mình đi tới đâu thì đi. Trưa ngày thứ ba thì sóng gió đã nổi lên, mặt biển đã không còn phẳng lặng nữa, gió đã nổi lên kéo mạnh từng cơn, bầu trời vần vũ, mây đen kéo về đen kịt, từ xa từng ngọn sóng bạc đầu đang kéo tới. Sóng to, gió mạnh, khiến con tàu chao đảo liên tục, từng cơn sóng cao vời bốc con tàu lên cao, nhìn xuống dưới là một hố sâu thẳm đến rợn người. Tôi cùng những người khác trên mui phải leo xuống khoang tàu, vì quá nguy hiểm nếu cứ tiếp tục ở lại trên mui tàu. Đang ở giữa trưa mà tôi cứ ngỡ rằng là đang lúc chiều tối vì bầu trời tối đen, chủ tàu trấn an mọi người rằng: ”Đây là chuyện thường thôi, chỉ là “gió Nam”, gió Nam thì mấy người làm nghề biển coi như cơm bữa.” Hư thật ra sao không biết, nhưng mọi người đã quá hoảng sợ và trở nên nhốn nháo, khiến con tàu đã bị sóng nhồi chao đảo lại thêm tròng trành như muốn lật úp. Chủ tàu phải hét lớn ra lịnh, không được nhốn nháo, nếu không muốn tàu bị lật thì ai ở đâu ngồi đó. Con tàu chuyển mình kêu răng rắc như muốn vỡ ra từng mảnh nhỏ, khiến mọi người đang lúc hoảng sợ càng thêm hoảng sợ, tiếng than khóc, tiếng gọi nhau vang lên thảm thiết, người ta dồn cục vào với nhau như để tìm sự che chở cho nhau.

Mưa đã bắt đầu trút xuống, ngày càng nặng hột hơn, mưa giăng trắng xóa cả một khoảng không gian rộng lớn giữa đại dương, con tàu vẫn trồi lên hụp xuống tưởng chừng như muốn hất văng những thuyền nhân xuống biển. Con tàu đã phải chuyển hướng, không thể nào đi theo hướng đã định mà phải cập theo sóng để tránh cho tàu khỏi bị lật úp, người tài công chính của tàu, người nắm giữ sinh mạng của hơn 130 thuyền nhân, giờ đây đang gồng mình ôm chặt bánh lái với sự giúp sức của hai người khác để giữ cho con tàu khỏi bị lật, giữ cho con tàu khỏi bị lật đã là một việc vô cùng khó khăn lắm rồi, việc nhận rõ phương hướng đã không còn được đặt ra nữa. Con tàu đã thật sự lạc mất phương hướng, mặc cho sóng gió đưa đẩy, mọi người chỉ còn biết cầu nguyện và phó mặc số mệnh vào sự may rủi mà thôi. Cơn bão vẫn tiếp tục quần thảo từ trưa đến tối, nhồi con thuyền xoay vòng giữa cơn bão dữ, những người trên tàu giờ đây đa số đã phải chui vào hầm tàu để tránh khỏi bị hất văng xuống biển.

Đến tối thì cơn bão chấm dứt, mọi người ngoi ngóp bò dậy, may mắn thay suốt cơn bão dữ mọi người vẫn được bình an dù đã phải trải qua một ngày kinh hoàng khiến ai nấy không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc tiếp tục di hành thêm nữa. Có ánh đèn ! Có ánh đèn ! Một người la to, rồi nhiều người khác cùng la, cứ tưởng như là mơ. Nhưng quả thật, từ hướng bên phải của con tàu có ánh đèn leo lét khi ẩn khi hiện do sự trồi lên hụp xuống của con tàu. Tài công hướng mũi con tàu chạy thẳng vào nơi có ánh đèn, trông thì gần, nhưng thật ra thì tàu phải chạy gần hai giờ đồng hồ mới đến được. Càng đến gần thì mọi người nhận ra đó là một hòn đảo, đảo nhưng có ánh đèn, nghĩa là có người sinh sống trên đảo. Mọi người mừng rỡ quỳ tạ ơn trên đã dẫn dắt con tàu đến nơi bình an. Con tàu đang ngon trớn, bỗng nghe đánh ….. ầm một tiếng lớn, tiếng máy tàu gầm rú liên hồi, anh tài công la lớn “Ghe mắc rạng”, anh tài công cố gắng bằng mọi cách để xoay chuyển con tàu nhưng đành bó tay đứng nhìn, nhìn mũi tàu ghếch cao ở phía trước, tôi đoán là con tàu đã “cưỡi” lên đá ngầm rồi. Từng đợt sóng mạnh mẽ đánh vào mạng tàu như muốn phá vỡ con tàu ra làm trăm mảnh. Nhìn vào phía trong đảo, thấy không còn xa lắm, từ chỗ con tàu gặp nạn vào đất liền khoảng chừng vài trăm thước. Phải rời tàu đi tìm phương tiện cấp cứu thôi, có người lên tiếng đề nghị. Thế là một số trai tráng khỏang chừng 20 người trong đó có tôi, tình nguyện rời tàu đi vào đảo tìm phương tiện cấp cứu, chúng tôi được quấn dây thừng thật chặt rồi lần theo đó mà vào chỗ nông hơn để đi vào bờ, thật may mắn là vào lúc đó thủy triều đang rút xuống cho nên chúng tôi có thể đi bộ vào đảo được, dưới chân tôi là muôn ngàn những con cầu gai cùng với các loại vỏ nghêu, vỏ ốc, mà tôi đã phải giẫm lên khiến cho lòng đôi bàn chân bị cắt đứt ngang dọc, khiến đau rát buốt óc. Chúng tôi lần mò, nối đuôi nhau tiến vào đảo, đặt chân được lên bãi cát trên đảo, chúng tôi nằm nhoài ra nghỉ lấy sức. Hồi tưởng lại cơn bão vừa qua, tôi vẫn còn hãi hùng và thầm cám ơn ơn trên đã che chở, bằng không có lẽ giờ này chúng tôi đã vùi thây giữa lòng biển cả rồi. Lấy lại được sức, đoàn người tiếp tục bước sâu vào trong đảo, riêng tôi thì còn quá mệt nên cũng chẳng vội vã bước theo họ. Vì lý do đó, cho nên tôi trở thành người cuối cùng ở sau chót của đoàn người. Bất ngờ, hàng loạt đèn pha từ phía trong đảo bật sáng chiếu thẳng vào chúng tôi. Có tiếng hô to ….. ai đó, đứng lại, vào đây làm gì? Lúc đầu chúng tôi nghe không rõ vì gió biển thổi cùng với tiếng sóng, hơn nữa họ lại nói tiếng Việt phát âm giọng Bắc khiến chúng tôi ngỡ là một thứ tiếng ngoại quốc, có thể là tiếng Phi. Chúng tôi đã vô cùng mừng rỡ vì biết được mình đã tới nơi chốn mà mình muốn.

Chúng tôi vừa đưa cả hai tay lên trời, vừa làm dấu cho họ biết rằng chúng tôi đến đây là do thiện chí và cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng càng đến gần thì chúng tôi nhận ra rõ ràng là tiếng Việt chứ không phải là tiếng ngoại quốc. Có tiếng hô qua loa phóng thanh. Tất cả đứng lại ….. nếu không sẽ bị bắn bỏ. Trời ạ …… chúng tôi đã lạc vào đảo của Việt Nam rồi!

Chúng tôi lập tức đứng lại, hai tay vẫn đưa thẳng khỏi đầu, chúng tôi hội ý với nhau là: để qua mặt được họ, chúng tôi phải nói rằng tàu vượt biên do nhà nước tổ chức ra đi. Khi nói như vậy, chúng tôi ngầm hai ngụ ý: Thứ nhất, khi biết là chúng tôi ra đi do nhà nước tổ chức thì họ sẽ tìm phương tiện giúp chúng tôi. Thứ hai, nếu không giúp được gì thì họ cũng sẽ không làm khó dễ chúng tôi, trường hợp tệ lắm là họ sẽ bắt trở về đất liền để đi tù, trong trường hợp này thì mọi người sẽ an toàn hơn cả.

Giọng nói kia tiếp tục vang lên: Tất cả đứng yên tại chỗ đợi lịnh …… Thời gian lặng lẽ trôi qua trong ngột ngạt. Khoảng chừng hơn 10 phút, thì đột nhiên từ phía bờ cát một loạt lửa da cam tóe lên cùng lúc với những tràng súng liên thanh nổ rền trời, tôi giật mình ngó về phía đoàn người. Tôi như bị hoa mắt vì thấy máu từ các thây người phun ra khắp nơi, thây người đổ ập xuống, tiếng rên la thảm thiết vang lên như muốn xé tan màn đêm. Việt cộng giết người ….. nghĩ thế xong là tôi vội vàng bò hết tốc lực để tránh ra xa khỏi đoàn người và đứng lên vùng chạy về phía biển, vài người khác trong đoàn người cũng cố gắng mang thương tích vùng chạy ngược trở ra biển, một số chỉ chạy được nửa chừng rồi thì ngã xuống nằm lại luôn. Bằng tất cả sức lực còn lại trong người, tôi chạy thẳng và nhào người ra biển, giẫm lên cầu gai, võ nghêu, võ ốc mà chạy càng xa, càng tốt, trong tôi bây giờ không còn có cảm giác đau đớn do bị cầu gai đâm thủng chân nữa, tôi hoàn toàn ở trong trạng thái vô cảm. Sau cùng thì tôi cùng vài người khác cũng đã chạy ra được nơi con tàu mắc cạn. Mọi diễn biến trên đảo đã được chúng tôi tường thuật lại, thực ra thì mọi người đã nghe được tiếng súng nổ tuy không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng cũng phần nào đoán ra được là đã có chuyện không lành. Khi nghe chúng tôi báo cáo lại mọi chuyện, mọi người đã vô cùng hoảng sợ. Tất cả đàn ông, trai tráng trên tàu, đều được huy động xuống để đẩy con tàu ra khỏi vùng đá ngầm.

Trời đã phụ lòng người ! Sức của con người làm sao chống chọi lại với sức mạnh của thiên nhiên, chúng tôi cố đẩy được con tàu xê dịch đi một chút, thì lập tức các ngọn sóng lại đánh đẩy con tàu trở về vị trí cũ. Đang lúc tất cả đang cố gắng đẩy con tàu thì súng lại nổ vang rền, đạn bay như rải về phía con tàu. Có tiếng thét kinh hãi … có người trúng đạn … có người trúng đạn, tiếp theo là những tiếng khóc, tiếng kêu gào, khung cảnh rối loạn cả lên, mạnh ai người đó chạy tìm chỗ nấp, nhưng nấp vào đâu bây giờ, giữa trời nước bao la và con tàu khốn khổ đang phải hứng chịu những vết đạn từ những con người tàn bạo? Súng đã thôi nổ liên hồi, nhưng vẫn tiếp tục nổ cầm chừng, và thỉnh thoảng lại có người gào lên kêu cứu khi thân nhân mình trúng đạn. Phải ở vào hoàn cảnh trên thì mới có thể cảm nhận được hết cái không khí dã man, tàn bạo, đầy khủng bố mà không thể có ngòi bút nào lột tả được hết. Súng vẫn nổ lai rai, đoàn người vẫn cố gắng trong tuyệt vọng để đẩy con tàu. Nhưng bất lực! Hoàn toàn bất lực! Mọi người đã kiệt sức vì đói lạnh, da thịt mọi người đã thâm tím đi vì lạnh. Tất cả đều buông xuôi leo lại lên tàu phó mặc cho trời. Suốt đêm đạn vẫn nỗ, người tiếp tục chết vì đạn, tiếng kêu khóc vẫn cứ vang lên mỗi khi có người trúng đạn chết. Từ nơi xa xa, có thấp thoáng ánh đèn chiếu sáng từ một hòn đảo khác bên cạnh .…

Trời sáng dần, tiếng kẻng buổi sáng phía trong đảo vang lên. Đoàn người tội nghiệp dõi mắt về hướng đảo trông chờ phép lạ. Trên đảo nhộn nhịp hẳn lên, bộ đội chạy tới chạy lui, gia đình thân nhân vợ con của bộ đội cũng chạy ra đứng nhìn con tàu nghiêng ngả. Đàn bà, con nít trên tàu được cho lên mui tàu hướng về trong đảo quỳ lạy xin được cứu giúp. Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những con người Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng tay bắn giết đồng bào mình. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm nay chưa bao giờ có những trang sử ô nhục như thế này. Ô kìa …. phép lạ xảy ra, có bóng của những bàn tay vẫy phất như báo cho thuyền nhân biết là họ có thể vào bờ được rồi, những cái vẫy tay mời gọi từ phía trong đảo đã làm mọi người như sống lại. Ưu tiên cho đàn bà và con nít vào trước, dây thừng được lấy ra quấn chặt vào mình, cùng với sự giúp sức của vài thanh niên, sợi dây thừng dài được nối từ con tàu vào thân của những người xuống tàu lôi vào bờ. Đoàn người rời con tàu xa dần dần tiến vào bờ, dây thừng vẫn được quấn chặt vào người, cách bờ chừng 100 mét nhưng vẫn chưa thấy người từ trên bờ ra cứu giúp. Bỗng nhiên súng lại nổ. Trời ơi! súng nổ nhắm vào những người đang quấn chặt dây thừng ngang mình để vào bờ, thế là chỉ còn có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi dây oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai còn sống sót qua trò chơi man rợ của lũ người không tim trên đảo. Tiếng kêu gào thảm thiết lại vang lên của những người chồng, người cha, khi nhìn thấy cảnh vợ con mình bị bắn giết vô cùng man rợ như trên. Đàn bà con nít lại được đưa lên mui tàu chấp tay hướng vào đảo mà van lạy xin được buông tha, đáp ứng lại những lời van xin thảm thiết này là những tràng đạn lại nổ tiếp, bóng người đàn bà với tư thế hai tay chấp vào nhau vì đang quỳ lạy ngã chúi xuống biển từ trên mui tàu, cùng lúc với các em trẻ bật ngửa ra sau giẫy chết vì trúng đạn.

Tàn bạo, man rợ, không thể nào tả hết.
Tàu vướng đá ngầm rồi, phải rời tàu thật nhanh.

Nắng đã lên cao, từ trong đảo bóng dáng bộ đội Việt cộng chạy lại ụ súng được mọi người trên tàu nhìn thấy rõ mồn một. Tấm phông che súng được kéo xuống, nòng súng được hạ xuống. Trời ơi!….. Một cây súng pháo với nòng súng dài có đến 10 thước đang hiện ra trước mắt mọi người trên tàu. Kinh hãi …. hỗn loạn trên tàu đã diễn ra, chỉ cần một trái đạn pháo từ khẩu súng đó mà trúng vào con tàu thì tất cả chỉ còn là tro bụi. Cầu nguyện, và dọn mình chờ chết, vì sẽ không còn ai sống sót sau khi trái đạn được khai hỏa bắn trực xạ vào một mục tiêu cố định là con tàu. Nhưng không, tấm phông đã được kéo lại che đậy khẩu súng, nòng súng đã được nâng lên cao, không còn ở vị trí sẵn sàng nhả đạn nữa. Bóng dáng bộ đội lại chạy nhốn nháo, và họ đang lấp ráp chân “dế” của cây súng cối. Dã man, tàn bạo, bộ đội cộng sản Việt Nam vì tiếc một quả đạn súng pháo lớn, nên đang thay vào đó là đạn súng pháo nhỏ hơn, và đó là trò chơi giết người của họ.

Ầm …. quả đạn đầu tiên được bắn ra rớt xuống biển cách con tàu chừng vài thước, mọi người chưa kịp hoàn hồn thì. Ầm …. quả đạn thứ hai rớt chính xác ngay mũi tàu, thịt xương văng tung tóe, máu đổ chan hoà, cùng lúc với hàng loạt đạn lớn nhỏ vang rền khắp nơi, tay chân, máu thịt, vung vãi ở khắp mọi nơi trên tàu, con người lăn lộn, vật vã với vết thương, khung cảnh của địa ngục trần gian đang phơi bày trước mắt tôi. Sau tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm bên cạnh tôi. Tôi vùng dậy, nhoài mình phóng ra khỏi con tàu, một ngọn sóng cuốn tôi ra xa cùng lúc với một trái đạn khác rớt ngay giữa thân tàu, con tàu gẫy đôi và chìm xuống biển. Tất cả sự kiện xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ, sau khi tiếng kẻng buổi sáng trên đảo vang lên.

Chung quanh tôi xác người chết trôi vất vưởng khắp nơi, những người còn sống sót thì vẫn phải đang lặn hụp với từng cơn sóng biển, và từ trong bờ đảo những tên bộ đội Việt cộng khát máu vẫn giương súng nhắm bắn vào những người sống sót, rất may là nhờ sóng biển nhồi lên hụp xuống mà cái đầu tôi trở thành một mục tiêu khó bắn trúng của những kẻ sát nhân, có người đang cố gắng bơi ra xa khỏi tầm đạn, nhưng nửa chừng thì tôi bỗng thấy nằm bất động trôi vật vờ trên biển, tôi biết rằng họ đã trúng đạn hoặc chết vì vết thương quá nặng. Thủy triều đã lên cao, sóng biển không còn đánh mạnh nữa, và cũng chính vì vậy mà những người sống sót khó tránh khỏi tầm ngắm của lũ sát nhân. Tất cả đã vĩnh viễn ra đi, tôi cũng đã trôi ra xa khỏi tầm đạn và đang nằm chơi vơi giữa đại dương bao la, khung cảnh hoàn toàn im lặng đến rợn người. Tôi nhắm mắt lại cầu nguyện, nghĩ đến gia đình đang còn ở lại đất liền xa xôi, chỉ trong chốc lát nữa thôi những con cá mập sẽ kéo tới và tôi sẽ chết vì bị cá mập ăn. Nghĩ tới cá mập, tôi hoảng sợ mở mắt ra. Và kìa, từ hướng xa tôi nhìn thấy một chiếc thuyền câu đang trôi về hướng tôi. Thoạt đầu, tôi cứ tưởng bộ đội công sản Việt Nam hạ quyết tâm đuổi tận, giết tuyệt, nên không dám bơi lại gần. Nhưng nhìn kỹ lại thì tôi nhận ra trên chiếc thuyền đó hoàn toàn im lặng, không có một sự di động của bất cứ người nào trên thuyền, tôi hơi vững tâm và cố gắng bơi lại gần thuyền. Nắm được be thuyền và leo lên thì tôi trông thấy có người trên thuyền, nhưng mọi người đang nằm ở tư thế ẩn nấp. Thấy tôi leo lên thuyền họ bèn quay lại sụp lạy tôi và xin tha mạng, tôi không có thời giờ giải thích gì cả, bật ngửa ra nằm bất động trên sàn tàu. Sau khi đã hoàn hồn và hỏi chuyện nhau thì tôi mới vỡ lẽ ra họ cũng trôi dạt vào đây và cũng bị bắn như chúng tôi. Thuyền của họ xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà Rịa, trên tàu gồm 13 người gồm 11 người đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị vào khoảng 9 tuổi, bé em trai khoảng 6 tuổi. Ba của hai em bé này đã bị bắn vỡ đầu nằm chết ở phía mũi thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát mất phần vai hai bên, hai cánh tay chỉ còn dính liền bởi phần da còn lại trên vai, đang nằm thôi thóp thở dưới hầm máy, tình trạng cho thấy là anh này sẽ khó thoát chết do vết thương quá nặng.

Trong khi con thuyền đang trôi vật vờ như thế thì cũng có được 4 người khác từ chiếc tàu bị bắn chìm trước đó thoát chết, leo lên được con thuyền mà chúng tôi đang có mặt. Như vậy là tổng cộng số người thoát chết của hai chiếc thuyền là 16 người, con số trên 130 người đã bị bắn chết vùi thây dưới lòng biển lạnh. Sóng lớn quá, có người rơi xuống biển.

Con thuyền cứ tiếp tục trôi vật vờ trên biển, nhưng càng lúc càng rời xa khu vực nguy hiểm, lúc này đã vào khoảng 10 giờ sáng, nhìn sang bên trái của con thuyền, chúng tôi nhìn thấy một hòn đảo khác cách chúng tôi không xa lắm. Nghĩa là con thuyền của chúng tôi đang nằm giữa vị trí của hai hòn đảo. Hòn đảo này tôi đoán có lẽ là hòn đảo mà chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh đèn từ đêm hôm trước, đêm hôm bị bộ đội Việt cộng tàn sát. Chúng tôi quyết định phải rời xa hai hòn đảo này càng sớm càng tốt nếu còn muốn sống. (Đây là một quyết định sai lầm mà chúng tôi đã phải trả giá rất đắt, sẽ được nói đến ở đoạn sau) chúng tôi dùng mái chèo cố gắng chèo con thuyền ra khơi, vì bình xăng của con thuyền đã bị bắn vỡ chảy hết dầu. Gió đã đổi chiều, thổi con tàu tội nghiệp của chúng tôi trôi vào cõi vô định. Con thuyền này dài chừng 6 thước, rộng gần 2 thước, loại thuyền dùng để đi câu ven bờ biển chứ không thể đi xa hơn. Vậy mà nó cũng đã chở 13 con người vượt được hàng trăm hải lý để đến nơi đây cùng chung số phận như chúng tôi.

Chiều xuống dần, không gian yên tĩnh, không có một bóng dáng của bất cứ một con tàu nào khác ngoài con thuyền của chúng tôi lạc lõng giữa đại dương. Tối đến, chúng tôi phát giác ra một chuyện chết người khác, con thuyền đang bị vô nước từ phía dưới lườn tàu, thế là chúng tôi tìm cách chặn nước không cho tràn vào, và cử người canh chừng để tát nước liên tục. Cứ hai người cho mỗi phiên trực tát nước, số phận của 16 người sống sót trên con thuyền này sẽ tùy thuộc vào hai người có nhiệm vụ tát nước ra khỏi tàu, nếu chẳng may họ buồn ngủ, hoặc mệt quá mà chểnh mảng thì con thuyền sẽ chìm và mọi người cũng sẽ chìm theo con thuyền, nhưng biết làm sao hơn đây! khi mà tất cả mọi người ai cũng còn mang nét mặt kinh hoàng vì mới vừa phải trải qua một biến cố quá đau thương và …. phó mặc mọi việc cho Thượng Đế. Một đêm kinh hoàng trôi qua, người sống phải sống cùng xác chết trên một diện tích vô cùng chật hẹp của con thuyền, vấn đề vệ sinh chung đã được đặt ra, là phải giải quyết cái xác chết vẫn còn ở trước mũi thuyền. Thật là tội nghiệp cho hai đứa trẻ, chúng kêu khóc thảm thiết không cho thủy táng người cha thân yêu của mình. Chúng tôi cũng đành phải chìu lòng của hai em, nhưng sang đến ngày thứ ba thì chúng tôi phải giấu lén hai em mà thủy táng người quá cố để bảo vệ sức khỏe cho những người còn lại. Sau này biết được hai em đã lăn lộn khóc lóc vô cùng bi thảm, chúng tôi chỉ còn biết rớt nước mắt dỗ dành hai em. Tình trạng của anh thanh niên bị thương dưới hầm tàu đã trở nên tồi tệ hơn vì không có thuốc men chạy chữa, vết thương đã thối rữa, biết là anh cũng sẽ không qua khỏi, tối ngày thứ ba, sau khi thủy táng người đàn ông ba của hai đứa trẻ, chúng tôi quyết định nấu cho anh chút cháo trộn với đường cát như là bữa ăn tối cuối cùng trước khi ra đi, tôi là người đã đút cháo cho anh ăn, suốt bữa ăn anh cứ liên tục kêu cứu cầu sống, tôi chỉ còn biết gạt lệ an ủi với anh là cố gắng chút cháo, rồi mọi người sẽ được cứu sống. Sáng hôm sau, chúng tôi thấy anh đã nhắm mắt lìa đời, thân thể anh tái xanh vì đã không còn máu. Chúng tôi cũng đã thủy táng anh và cầu nguyện cho linh hồn anh sớm được siêu thoát.

Đã hơn một tuần lễ lênh đênh trên biển, có một điều thật lạ lùng là chúng tôi không hề nhìn thấy bất cứ một thương thuyền nào qua lại vùng biển này cả. Không lẽ chúng tôi đã lạc vào một vùng biển chết? Lương thực còn được mấy kí gạo sau ngày bị bắn dùng để nấu cháo cầm hơi cũng đã hết, nước uống thì đã hết từ trưa, cơn đói khát đang đốt cháy ruột gan mọi người. Một ngày đói khát đã bắt đầu và sẽ còn tiếp tục không biết kéo dài đến bao lâu. Cầu nguyện, chỉ còn có biết cầu nguyện thôi, tất cả mọi việc đều đã được sắp đặt và an bài do Thượng Đế, con người đã trở thành vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ.

Lại một ngày đói khát nữa, cái khát làm cho da thịt như muốn bốc khói, môi nứt nẻ, đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thức ăn, nước uống. Tội nghiệp hai đứa trẻ, suốt ngày chúng cứ nói đến miếng ăn mà trước đây mẹ chúng làm cho chúng ăn, hoặc thứ nước uống mà chúng thích. Mọi người như mê loạn đi vì đói và khát. Dường như lời cầu nguyện của chúng tôi đã thấu tới trời xanh. Chiều hôm đó, trời đổ cơn mưa, những hạt mưa như những nước cam lồ trong chuyện thần tiên, tưới mát thân thể chúng tôi, chúng tôi say sưa ngửa mặt lên trời hứng lấy nước mưa mà uống, lấy thêm “can nhựa” trên tàu hứng lấy nước mưa dự trữ. Nhưng trời mưa lại dẫn đến một vấn đề khác. Thuyền ngập nước, thế là mọi người xúm vào tát nước cho thuyền khỏi chìm, rất may là cơn mưa không kéo dài, và còn may hơn nữa là từ đó cho đến ngày được cứu, cứ vài ngày lại có một cơn mưa ngắn giúp chúng tôi có đủ nước uống. Vấn đề nước uống đã được giải quyết, nhưng còn thức ăn? Chúng tôi đã không còn được bất cứ một thứ gì để có thể ăn được. Cơn đói cứ dày vò, ám ảnh chúng tôi liên tục, người chúng tôi đã teo lại chỉ còn lớp da bọc lấy xương, hay nói cho đúng hơn là những bộ xương biết bò, vì chúng tôi không thể nào đứng vững được nữa. Một hôm tôi bò xuống hầm máy để cố gắng kiếm thử xem còn gì có thể ăn được không, tôi trông thấy một chai “ xá xị ” mới nhìn tôi cứ tưởng đó là một chai đựng dầu nhớt gì đó của mấy người thợ máy bỏ quên, nhưng tôi cứ cầm lên và ngửi thử. Một mùi thơm ngào ngạt bốc thẳng vào óc tôi, khứu giác tôi dường như mở ra tối đa để hít lấy mùi thơm đó. Mùi thơm của mỡ heo, đúng vậy, chai xá xị kia là một chai dùng để đựng mỡ heo dành để chiên đồ ăn của các ngư phủ. Tôi thọc ngón tay vào miệng chai và đưa lên miệng mút. Trời ạ! Thật là một thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa hề được thưởng thức qua bao giờ, tôi cứ mút lấy mút để cái thứ nước sền sệt nhưng vô cùng tuyệt hảo đó. Chợt nhớ lại những người ở trên, đặc biệt là hai đứa trẻ, tôi bò trở lên với chai xá xị, không ai còn để ý đến tôi vì mọi người đều đã nằm liệt. Tôi bò đến hai đứa trẻ, thò ngón tay tôi móc một ít mỡ heo nhét vào miệng các em, như là một liều thuốc tiên các em bừng tỉnh lại, tôi ra dấu cho các em cứ bình tĩnh mà mút mỡ heo, nhắm chừng các em đã dần dần có chút sinh lực trở lại, tôi trút một ít mỡ heo vào cái chén nhựa cho các em, còn lại tôi dùng một chiếc đũa thọt vào chai xá xị có mỡ heo và kêu mọi người lại mút lấy chiếc đũa thần kỳ diệu. Nhờ có chai xá xị mỡ heo mà chúng tôi có được một bữa tiệc sang trọng nhất trong đời. Và cũng nhờ chút mỡ heo tuyệt vời đó mà em bé trai có chút sinh lực ngồi nghịch phá cái máy radio nhỏ xíu bất khiển dụng, cái radio bị vỡ lòi ra mấy sợi dây kẽm nhỏ, một bác lớn tuổi trên thuyền có sáng kiến uốn mấy sợi kẽm nhỏ đó thành những cái móc câu, dùng cước cột các móc câu đó lại, cạy các con ốc nhỏ bám theo be thuyền làm mồi.

Kết quả thật bất ngờ khích lệ, buổi đầu tiên bác câu được hai con cá lớn độ bằng bàn tay người lớn. Cái cột buồm vô dụng được bác ấy chẻ ra từng miếng nhỏ dùng để nhóm bếp. Cũng may là trên thuyền còn có được cái hộp quẹt còn sử dụng được. Hai con cá được bác nướng lên chia đều cho mỗi người. Từ đó chúng tôi được chia ra làm công việc chẻ cột buồm để giữ lửa, bác ấy làm công việc câu cá. Ngày nào có được vài con cá thì bác chia đều cho mỗi người được một miếng bằng hai ngón tay, ngày nào không câu được thì mọi người nhịn đói uống nước mưa cho qua cơn đói.

Chúng tôi đã trôi trên biển 20 ngày qua rồi, nhưng vẫn không nhìn thấy bóng dáng của một chiếc thương thuyền nào, mỗi khi chiều xuống tôi thường bò lên trước mũi thuyền nằm trông ngóng bóng dáng một con thuyền. Nằm nhìn những con chim hải âu săn mồi trên biển mà lòng tôi tan nát, không ngờ rằng cuộc đời của mình lại kết thúc trong bi thảm như thế này. Sợ nhất là mỗi khi chiều về, màn đêm chuẩn bị buông xuống, chung quanh là một màu tối đen, không khí chết chóc cứ như lẩn quẩn đâu đây. Hoặc những khi trời nổi cơn giông, từng lượn sóng cao như mái nhà bốc con thuyền lên cao, rồi nhận con thuyền xuống đáy, rồi lại bốc lên, cứ như thế kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liền khiến chúng tôi vô cùng sợ hãi. Tình trạng cô đơn giữa đại dương bao la kéo dài cho đến tuần lễ thứ ba thì chúng tôi nhìn thấy con tàu đầu tiên. Thật là không còn gì để diễn tả được nỗi vui mừng của chúng tôi, chúng tôi reo mừng, reo la cầu cứu, vì nghĩ rằng chắc chắn là mình sẽ được cứu.

Nhưng, ô kìa ! Chiếc thương thuyền vẫn lạnh lùng rẽ nước phăng phăng chẳng buồn ngó đến chúng tôi, mặc dù khoảng cách của đôi bên quá gần, gần đến nỗi chúng tôi có thể nhìn thấy thủy thủ trên chiếc tàu buôn đang tập trung trên bong tàu để nhìn chúng tôi. Con tàu khuất dạng ở chân trời, chúng tôi ngỡ ngàng, hụt hẫng, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy ? Sao lại có những người vô lương tâm đến như vậy? Thấy người sắp chết sao không cứu? Ngần ấy câu hỏi cứ quay trong đầu tôi cho tôi đến khi tôi lịm người đi vì mệt mỏi và thất vọng.

Lại có thêm bóng dáng một chiếc tàu buôn từ đàng xa, như được tăng thêm sức, tôi cùng vài người khác vùng dậy trèo lên mui ra dấu cầu cứu, và cũng như chiếc tàu thứ nhất, họ lạnh lùng bỏ đi mặc cho chúng tôi kêu gào đến kiệt sức. Từ đó trở đi, mỗi ngày chúng tôi nhìn thấy hàng chục chiếc tàu buôn qua lại trong vùng nhưng không một chiếc nào chịu cứu vớt chúng tôi. Thậm chí, có ngày chúng tôi còn nhìn thấy hạm đội của Mỹ đang thao dượt trên biển với máy bay phản lực lên xuống trên các chiến hạm. Từ dữ kiện này, tôi đoán là chúng tôi đang ở đâu đó trong vùng vịnh Philipines. Chiều ngày thứ 30 trên biển, chúng tôi tuyệt vọng trong mòn mỏi, không còn hơi sức để kêu cứu nữa, mặc cho các tàu buôn vẫn qua lại nhìn chúng tôi sắp chết. Tôi nằm xoải trên mui con thuyền đưa mắt hững hờ nhìn chiếc tàu buôn mang hàng chữ Nhật chở đầy những cây gỗ với đường kính hai người ôm, chiếc tàu buôn đó, cũng như những chiếc khác trước đây, cũng lạnh lùng băng qua trước mặt chúng tôi mà đi thẳng, tôi cũng chẳng buồn ngó theo làm chi vì quá chán ngán với thế thái nhân tình. Khoảng độ hai tiếng đồng hồ sau, tôi đang nằm nhìn mặt trời xuống dần thì bỗng giật mình vì tiếng còi hụ ngân dài, tiếng còi hụ giữa biển khơi nghe vang dội, tôi nhổm mình dậy nhìn thì trông thấy từ đàng xa chiếc tàu buôn chở gỗ mà tôi nhìn thấy từ chiều đang tiến về hướng chúng tôi. Và ….. Trời ạ ! Thủy thủ trên tàu đang nhộn nhịp với dây thừng và phao cấp cứu, và quan trọng hơn nữa là nó đang giảm dần tốc độ để lựa thế lại gần thuyền chúng tôi mà tàu chúng tôi không bị lật do sóng vỗ. Dùng thân tàu to lớn như ngọn núi, chiếc tàu buôn chận lại các ngọn sóng đang vỗ về phía ghe chúng tôi như một bà mẹ đang bảo vệ đứa con bé bỏng của mình, các thủy thủ đang cố gắng quăng các sợi dây thừng sang phía chúng tôi. Họ đã cứu chúng tôi, sau khi đã cột được dây thừng vào thuyền chúng tôi, họ đã kéo được con thuyền cập sát hông chiếc tàu buôn, chiếc thang dây được buông xuống, chúng tôi từng người một dưới sự phụ giúp của các thủy thủ trên chiếc tàu buôn, chúng tôi đã lần lượt lên được chiếc tàu buôn an toàn. Leo lên được bong tàu chúng tôi ngã sóng soài xuống và nằm im không cử động gì được nữa, vì tất cả sinh lực còn lại đã được dồn lại cho việc leo lên chiếc tàu buôn to lớn kia sau gần hai tiếng đồng hồ cố gắng thực hiện.

Con thuyền nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi được kéo theo sau chiếc tàu buôn, nhưng sau đó có lẽ vì lý do an toàn đã được cắt bỏ, nhìn chiếc thuyền bé nhỏ tội nghiệp đã cưu mang chúng tôi một tháng trời ròng rã trên biển đang từ từ chìm xuống biển, chúng tôi không hẹn mà ai cũng bật lên tiếng khóc chào vĩnh biệt con thuyền.

Tối đến, chúng tôi được cho uống nước mát ướp lạnh, một loại nước uống thông dụng của người Đại Hàn có pha đường. Thật là một cảm giác khó tả, khi cầm ly nước trong tay nhưng chưa uống được vì quá vui mừng vì đã được cứu sống, tất cả xảy ra như một giấc mơ. Sáng hôm sau chúng tôi được cho ăn cháo loãng với nước tương (xì dầu) chúng tôi ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng vì sợ chúng tôi bị bội thực, thủy thủ trên tàu đã không cho chúng tôi ăn nhiều, vậy mà cũng có người sau khi ăn xong bèn quay qua ói xối xả vì bội thực. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi được biết đây là một chiếc tàu chở mướn của một công ty hàng hải Nhật Bản với thủy thủ đoàn và thuyền trưởng là người Đại Hàn, chiếc thuyền đang trên đường chở gỗ từ Pakistan về Okinawa, một hòn đảo nằm về phía cực Nam nước Nhật. Viên hoa tiêu cho chúng tôi biết diễn biến của sự việc như sau: Lúc chiều (là lúc mà tôi nhìn thấy chiếc thuyền) ông ta đã thấy con thuyền của chúng tôi và đã báo cáo lên thuyền trưởng xin phép được tiếp cứu, nhưng viên thuyền trưởng cho biết là ông ta không được phép làm vậy, nếu không tất cả nhân viên kể cả ông sẽ bị mất việc và gặp rắc rối, vì vậy mà chiếc tàu vẫn tiếp tục hải trình như tôi đã thấy. Tuy nhiên, viên hoa tiêu vẫn cứ tiếp tục van nài thuyền trưởng với lý do là sẵn sàng bị mất việc, chứ thấy người sắp chết mà không cứu là không được. Hơn nữa, theo tin tức khí tượng cho biết thì tối nay bão sẽ kéo tới và chắc chắn rằng con thuyền vượt biên sẽ bị nhận chìm xuống biển. Viên thuyền trưởng đã khóc và chấp nhận vớt chúng tôi. Vị trí mà chiếc tàu buôn đã cứu chúng tôi nằm cách đảo Lữ Tống (Luzon) của Philippines khoảng 60 cây số. Và nếu chúng tôi có sống sót qua cơn bão này thì chúng tôi sẽ trôi ra tới Ấn Độ Dương, vì gió đã đổi chiều và chúng tôi sẽ khó có cơ hội được cứu thoát vì đó không phải là hải trình của tàu buôn.

Chúng tôi cũng đã tường thuật lại chuyến vượt biên kinh hoàng của chúng tôi cho thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ trên tàu được biết. Sau khi nghe chúng tôi tường thuật, thuyền trưởng đã đánh điện vào đất liền thông báo cấp tốc, vì trước đó qua tin tức ông cũng đã biết được chuyến vượt biên kinh hoàng này do những người sống sót trước đó tường thuật lại. Số là trong cái đêm kinh hoàng đó, khi chúng tôi bị bộ đội Việt cộng tàn sát dã man, thì có 8 người đàn ông nhìn thấy có ánh đèn trên một hòn đảo ở từ phía xa, cách nơi chiếc thuyền bị nạn chừng vài hải lý, nên thay vì ở lại chờ chết, họ đã lặng lẽ dùng các can nhựa có trên tàu để bơi về phía hòn đảo có ánh đèn đó để tìm sinh lộ. Họ đã tìm đúng sinh lộ, vì đó là hòn đảo thuộc chủ quyền của Philippines. Họ được cứu và đưa về đất liền ngay đêm hôm đó. Đêm đó, quân trú phòng trên đảo được lệnh báo động và sẵn sàng để cứu vớt các thuyền nhân mắc nạn, họ cho biết là có nghe tiếng súng nổ suốt đêm, và súng pháo kích sáng hôm đó, nhưng không thể làm gì khác hơn được là đứng nhìn, vì hòn đảo đang diễn ra cuộc tàn sát thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tóm lại, trong khi chúng tôi vẫn còn đang lênh đênh trên biển đúng một tháng, thì đã có 8 người trên chiếc “ghe ông Cộ” đã được cứu thoát do bơi sang đảo Phi.

Nhận được tin từ vị thuyền trưởng, Bộ Nội Vụ Nhật Bản đã đồng ý cho chúng tôi cập bến Okinawa, thuyền trưởng hoan hỷ loan báo tin này cho chúng tôi biết và chúc mừng chúng tôi thoát nạn. Ba ngày sau, chúng tôi cập bến hải cảng Okinawa. Người đầu tiên bước lên tàu để đón chúng tôi là một thông dịch viên tiếng Nhật, một sinh viên du học tại Nhật Bản trước năm 1975, hiện đang phụ giúp với hội Caritas Nhật lo giúp đỡ những thuyền nhân Việt Nam đang tị nạn tại Nhật Bản. Chúng tôi đã vô cùng xúc động vì nghĩ mình đã được tái sinh lần thứ hai. Chúng tôi bịn rịn bắt tay từ giã các vị ân nhân cứu mạng mình để lên đất liền làm thủ tục tị nạn, những người này cũng đã khóc khi tiễn chúng tôi bước xuống cầu tàu.

Bước xuống tàu, chúng tôi đã nhìn thấy một rừng phóng viên báo chí, các hãng thông tấn thế giới đang chờ sẵn để lấy tin tức, một cuộc họp báo đã được tổ chức liền tại chỗ dưới sự hướng dẫn và thông dịch của các anh thuộc tổ chức người việt tại Nhật Bản. Sau đó chúng tôi lên xe bus về trại tị nạn tại quận Motobucho, một trại tị nạn dành cho người Việt tị nạn được coi là lớn nhất nước Nhật với vỏn vẹn chừng 300 người Việt hiện đang tạm trú để chờ các quốc gia đệ tam nhận đi định cư. Ngày hôm sau, tất cả các báo chí, đài truyền hình Nhật Bản đều cho chạy đi bản tin đầu với hình ảnh và tin tức về chuyến vượt biển kinh hoàng do tội ác Việt cộng gây nên, và 30 ngày đói khát lênh đênh trên mặt biển của chúng tôi. Cầm trên tay tờ báo, nhìn vào hình ảnh của chính mình, tôi đã rúng động không còn nhìn ra được mình nữa, thay vào đó là một bộ xương với hộp sọ nhô cao lên. Đôi dòng lệ đã âm thầm chảy xuống vì hạnh phúc. Tôi biết mình đã thực sự sống sót.

Chủ nghĩa cộng sản đã là một thảm họa của nhân loại. Kể từ khi thứ chủ nghĩa này xuất hiện trên thế giới, nó đã giết chết không biết là bao nhiêu nạn nhân vô tội. Cuộc vượt biển tìm tự do đầy bi thảm và kinh hoàng của tôi cũng chỉ là một sự đóng góp vào kho tàng tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng quan tâm là hiện nay đất nước và dân tộc Việt Nam vẫn còn bị chìm đắm dưới sự độc tài, toàn trị của đảng Việt cộng. Chỉ có một con đường duy nhất là phải chấm dứt cái chế độ man rợ này, không thể nào nói chuyện hoà hợp hòa giải với những con người với đầu óc chai cứng vì đặc quyền, đặc lợi, mà họ đang thụ hưởng trên từng thân xác của những con người Việt Nam bất hạnh.

February 18, 2008
Nguyễn Nhân Chứng



Phật Tử Vùng Lên Bảo Vệ Chánh Pháp - Trương Minh Hòa

    PHẬT TỬ VÙNG BẢO VỆ CHÁNH PHÁP, LẤY LẠI CHÙA, LÙA BỌN TU GIẢ RA KHỎI TỰ VIỆN
Trương Minh Hòa

Từ hàng chục năm qua ở hải ngoại khắp các châu lục, tuyệt đại đa số Phật tử và người Việt Nam tỵ nạn đã lầm "trông thành phần bất hảo cạo đầu, mặc ác cà sa mà tưởng là sư" sau khi đóng góp công của để xây dựng nhiều "tự viện hoàng tráng" cho những người mặc áo cà sa, cạo đầu, dựng lên các bàn thờ, tượng Phật, thu tiền, trở thành "tư bản Phật Giáo", mỉa mai qua câu: "tu nhất kiếp giàu nhất thời", không hề đổ mồ hôi làm việc để tạo ra của cải vật chất, nhưng: "không lao động mà lại vinh quang" nên đa số mỗi sư, ni đều có trong tay ít nhất là một ngôi chùa, đáng giá bạc triệu, có vị còn phát triển thêm nhiều ngôi chùa, dùng tiền bá tánh đóng góp để du hý, du dâm hơn 15 năm "tịnh thất":

- Như trường hợp của huề thượng Thích Phước Huệ, cư sĩ chùa Chánh Giác ở Tây Úc, lợi dụng việc làm từ thiện để ép phụ nữ tên Nguyễn Thị Huệ, trong hoàn cảnh khó khăn đưa con từ Việt Nam sang Úc để trị bịnh, nên bị đưa vào tròng phục vị sinh lý một cách "man rợ" đàng sau chánh điện;

- Như đại đức Thích Nguyên Trực, cởi ca sa giả dạng một "dân chơi bời lậu", trên đường tìm đến "hành lạc" với không phải "hành đạo", đón gái trên đường phố để tìm đường lên Niết Bàn, đến thế giới miền "Cụp Lạc" với giá 50 Úc Kim mà còm trả giá bớt 20%, thành 40, nay nhờ "công đức tu hành" nầy mà sau nầy lên chức Thượng Tọa, giữ chức Tổng Vụ Phó Tăng Sự (tức là phó vụ quản trị tăng ni của cánh nầy)... đa số chùa "phật Giáo ngày nay" còn có thêm "mặt mạnh" là công tác chủ yếu, bảo lãnh sư Vẹm từ các cơ sở giáo hội Phật Giáo quốc doanh sang tu giả, tu rửa tiền, trà trộn, và dần dần "bào giao trong vòng trật tự" các tự viện do Phật tử đóng góp cho sư ở Việt Nam sang, vốn thông suốt chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh hơn là kinh Phật; sự kiện lộng hành, tiếp tay cho giặc trà trộn, khuynh đảo Phật Giáo hải ngoại được bạch hóa sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước, do hòa thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo, ban hành giáo chỉ số 9, nêu đích danh những kẻ mượn đạo tạo tiền, trở thành "lãnh đạo tinh thần ngang hông" thường đội mão y như "giáo hoàng Phật Giáo" tự biên tự diễn, lãnh đạo "không người lái", hiu hiu tự đắc, trong tiệm Phật, được "cung thỉnh" trong sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ngồi hàng ghế danh dự, được xướng danh thật long trọng, vênh váo với các chánh khách tại các nước tạm dung, nên chúng tưởng mình đúng là "thế gian ta Phật sắp thành" vừa đánh lừa Phật tử, tung hỏa mù ở xã hội .... nay bộ mặt "tiếm danh" đã bị phơi bày trước kính chiếu yêu "giáo chỉ số 9", cũng đúng theo luật nhân quả nhà Phật, bộ mặt thật lòi ra, là đám quỷ ma, lợi dụng danh đức Phật Thích Ca để ra vô hốt bạc, bày ra lễ nhạc, là đạt mục đích làm giàu nhanh, mạnh hơn bất cứ thương nghiệp nào trên thế gian, là tay ngang làm giàu bằng nghề không vốn, chẳng tốn công lao gì cả.

Từ lâu nay, các tay tu dỏm, tu giả, tu tiền, tu thịt, tu gái, tu theo đạo ù ù ... đã lợi dụng danh nghĩa của giáo hội do huề thượng Quảng Độ trong nước, sớm biến ngôi chùa thành Tiệm Phật mà không cần "kinh qua" giai đoạn quá độ, cứ âm thầm THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI mà "thanh tâm trường hốt bạc", lung lạc Phật pháp, thi đua xây bảo tháp để kinh doanh tro người chết, là lũ "đếch tu" mượn tượng Phật để kiếm xu, nên có nhiều Tam Tạm thời đại ngu, mang tiền đến chu, là lọt vào âm mưu gian tăng, ung dung an trên đầu bá tánh, lại lập nhiều phe cánh, tranh giành quyền lợi nhưng miệng đọc "Nam Mô" mà" trong lòng lại chứa "một bồ gươm dao", là đau lòng Phật tử thuần thành.

Do đó sau khi giáo chỉ số 9 ra đời, bọn ma tăng, quỷ ni như trúng phải ánh đạo vàng, khiến chúng hốt hoảng, ban hành nào là thông cáo chung gồm, 124 kẻ "mượn áo cà sa", mà đa số là tu sĩ được xuất khẩu với nhãn hiệu "made in Vietnam" đưa sang trà trộn. Tại Úc Châu, những kẻ tiếm danh cũng phản ứng, cũng hội thảo và tung ra cái gọi là "ban Điều Hành Liên Châu" là chiêu chống đỡ cuối cùng, gượng gạo của hòa thượng Thích Như Huệ và đồng bọn như Quảng Ba, Bảo lạc, Nguyên Trực, Viên Trí .... tuy nhiên bộ mặt tiếm danh đã lộ, không còn ăn khách là "đạo mạo, từ bi". Phật tử nhìn thấy nên không còn "kính tăng" như xưa, sau khi khám phá ta tăng còn tệ hơn người thường, có khi còn thua cả phong cách của những người bất lương, thì không thể làm gương cho bánh tánh, nên càng ngày Phật tử xa lánh bọn quỷ ma giả làm tăng chúng.

Tại tiểu bang Nam Úc (nước Úc Đại Lợi) thủ phủ là Adelaide, nhiều Phật tử đã vạch mặt "gian tăng, dỏm sư, giả ni" từ lâu nay, từ lâu núp bóng Phật đà, ăn trên đầu cha Phật tử, gây bao điều dữ, cuối cùng thiện nam tín nữ vùng lên, loại bỏ những tên gian tà tu giả, núp bóng từ bi. Đây là phản ứng tự nhiên, nhằm lấy lại chùa từ tay gian sư, là tài sản mà Phật tử đóng góp lâu nay, lẽ nào lại trở thành tài sản riêng của bọn "mượn đạo tạo tiền" và nhất là có chiều hướng bàn giao cho các sư ở Việt Nam sang, biến Phật Giáo hải ngoại nằm trong hệ thống quốc doanh, mà hiện tượng đám Tiếm danh do Thích Như Huệ cầm đầu đã từng mời tên sư Vẹm, đại đức Thích Nhật Từ sang "lếu láo" với danh nghĩa thuyết pháp, phổ biến những dĩa DVD của một số sư" áo vàng, đít đỏ "nhằm tuyên truyền, ru ngủ ....

Do đó, các Phật tử đã đứng lên giành lấy chùa Pháp Âm về tay Phật tử, thuộc Giáo Hội Phật Giáo trong nước, đang bị cơn đại pháp nạn, dưới sự lãnh đạo của huề thượng Thích Quảng Độ là điều cần phải hành động, nhất là trong giai đoạn nầy. Trong tương lai, các Phật tử cũng có khả năng giành lại luôn tiệm Phật Pháp Hoa, là bản doanh của huề thượng "tiệm chủ" Thích Như Huệ, để đưa về vị thế tôn nghiêm của một tự viện, là bảo vệ chánh pháp, chánh nghĩa "Đạo pháp gắng liền với dân tộc", giải độc trong đạo Phật tại hải ngoại.

Từng bước đứng lên, với đa số Phật tử, dùng hình thức dân chủ để lấy lại những gì đã bị bọn gian sư, mạo danh, lừa đảo từ bấy lâu nay, đã đến lúc ma tăng, quỷ ni, quái cư sĩ phải trả lại những gì mà chúng tạo ra từ thủ đoạn bất lương, mánh khóe dùng tượng Phật để thu tiền, phát triển nhiều dịch vụ ma chay, tụng niệm, cầu siêu, điểm nhãn .... và những cách dùng mê tín dị đoan hù dọa, phù phép, dựa vào kinh Phật mà hốt thêm tiền, dạy thiền kiếm bạc, lung lạc Phật tử, làm điều dữ mà cho là phụng sự đạo pháp. Đây là công việc cần thiết, cấp bách trong cơn pháp nạn và sự an nguy của Phật Giáo hải ngoại đang bị tác hại bởi các gian tăng, giả ni, nhất là có thê "sư về nguồn" sau kỳ Phật Đản "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" tại Hà Nội năm 2008, lại thêm hơn 2,000 tên cán Cộng, gồm công an, gián điệp, được bảo lãnh từ Việt Nam sang dưới tàng lộng tôn giáo, trở thành "lực lượng đặc công tôn giáo vận" rất nguy hiểm cho Phật Giáo nói riêng và cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại nói chung.

Do đó, ngọn "đuốc từ bi" từ tiểu bang Nam Úc đang chiếu sáng khắp năm châu, làm cho đám sư tiếm danh lo âu, đó là "thứ sâu" nằm trong cửa Phật lâu nay phải có ngày bị hiện nguyên hình. Những bước lấy lại chùa bước đầu, đưa tiệm Phật thành chùa Phật, dưới sự lãnh đạo của hòa thượng Quảng Độ, đang nằm trong tay Phật tử hải ngoại, với đa số tuyệt đối, có thể dùng sức mạnh để "gianh lấy chùa về tay Phật tử" với những biện pháp khả thi như sau:

- Dùng lối sinh hoạt dân chủ để ứng cử vào các ban trị sự chùa, nếu các sư gian có lệ bầu cử theo nhiệm kỳ

- Nếu không có bầu cử, các Phật Tử đứng lên thành lập "ban trị sự" với danh sách số đông Phật Tử, là nguyên tắc dân chủ được tôn trọng tại các nước Tây Phương. Sau đó yêu cầu "ban trị sự thiểu số" do gian sư lãnh đạo phải "triệt thoái" ra khỏi chùa, vì họ không còn là đa số đại diện nữa. Khi có tranh chấp trước pháp đình, thì chính cái đa số nầy là ưu điểm để tống cổ lũ gian sư ra khỏi chùa bằng pháp luật các nước dân chủ và đồng thời thanh lọc những tăng ni giả, được móc nối bảo lãnh sang, từ lâu nay phá đạo một cách qui mô, có sách lược, đang trên đà lập lại những biến động Phật Giáo trước đây tại Việt Nam.

Nếu chúng ngoan cố, thì hãy nhờ đến "kiếng chiếu yêu SỞ THUẾ" để bắt buộc các gian sư "trụ trì" chưa chịu từ bỏ chùa theo "ý Phật tử là ý trời" qua số đông, cũng là những người đóng góp công, của nhiều nhất. Cứ báo với sở thuế, vì hầu hết các sư, ni đều "không bao giờ làm việc", đóng thuế, mà trong tay có tài sản bạc triệu; đương nhiên là trong phạm vi chuyên môn, nhân viên sở thuế sẽ đặt nhiều câu hỏi cho các sư nào muốn chiếm đoạt tài sản từ mồ hôi của Phật tử như:

- Tiền ở đâu mà có?
- Tiền có đóng thuế từ năm nào?

Nếu chùa do sư đứng tên, thì đây là yếu tố pháp lý quan trọng để tống cổ chúng ra khỏi nơi mà phật tử đổ biết bao công sức để cho họ hưởng, mà còn làm nhiều việc ác nhân, tà dâm, tham lam, nối giáo cho quỷ đỏ vô thần, thò bàn tay lông lá, dùng cửa chùa để đánh phá cộng đồng hải ngoại. Tại các nước dân chủ, người ta có câu: "con người không ai tránh khỏi chết và đóng thuế", nên tất cả mọi người đều trả thuế và ngay cả các cơ quan từ thiện cũng phải khai thuế hàng năm. Tại các cộng đồng người Việt Tự Do Úc Châu, dù có được chính phủ cấp tiền để hoạt động, nhưng hàng năm ban chấp hành phải khai thuế. Tuy nhiên, hiện tượng các chùa giàu "nức tượng Phật" là điều mà người ta thắc mắc.

Chắc chắn là những câu hỏi nầy của sở thuế, trở thành bí lối đối với tất cả tăng ni nào trong các giáo hội tiếm danh và nhiều khi nhân viên chuyên môn sở thuế còn tìm ra được những "đường dây rửa tiền" từ trong nước, do đảng cướp Việt Cộng ngầm thực hiện, để làm bàn đạp xâm nhập lâu dài tại hải ngoại, có phương hại đến nền an ninh quốc gia, kinh tế các nước dân chủ.

Chỉ có lực lượng "thiên lôi thuế vụ" mới làm cho những tăng ni tiếm danh phải bỏ chùa mà chạy, để tài sản về tay điều hành và quản trị của Phật tử, là những người xứng đáng được trông nôm tài sản chung qua ban trị sự được chính Phật tử bầu ra. Phật tích tâm, nên khi mọi người có lòng thành, thì không cần sư, nhất là sư gian, có tâm địa thuộc TỨ DIỆU XÚ: "giam, ác, tham, dâm", biến chùa thành Tiệm Phật, làm nhiều chuyện tà dâm, thì Phật cũng tránh xa và đương nhiên quỷ ma nhập vào, làm hao chánh pháp ... nên việc hạ bệ sư bá láp là biện pháp khả thi, để đức từ bi được tránh khỏi thời suy pháp nạn.

Trong Phật tử có nhiều người học cao, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư .... thuưa khả năng để am hiểu những kinh sách nhà Phật, trong khi đó, tuyệt đại đa số sư, ni không được đào tạo một cách đứng đắn, nhiều khi ít học mà cạo đầu, mặc y phục cà sa và trở thành "THẦY", nên họ không có khả năng thấu hiểu Phật pháp, rồi lái sang mê tín dị đoan, lãnh đạo tinh thần và làm hoen ố cả đạo Phật, chính những người không hiểu đạo mà hành đạo là nguyên nhân chính tạo nên mạt pháp. Do đó, khi Phật tử dứng ra điều hành giáo hội, chùa, thì việc "đảnh lễ" Phật không khó khăn, kinh sách có sẵn, ma chay cứ lấy kinh ra đọc, với tấm lòng thành, thì cũng coi như được Phật chứng minh.

Trong khi gian sư như thích Phước Huệ, Như Huệ, hay những dâm tăng "dơ dái" trong ba quyển "giặc thầy chùa" của Đặng Văn Nhâm, đọc kinh cầu siêu cho người chết, công phu trước chánh điện ... là trò hề, che mắt thế gian qua bức màng the "phật sự". Trong hàng Phật tử có biết bao người đạo hạnh, lòng thành, tư cách còn hơn những người tự nhận là "thầy" rất nhiều. Cư sĩ cũng điều hành chùa, như ở Tây Úc, cư sĩ Lê Tấn Kiết đã điều hành chùa Chánh Giác 29 năm, cũng tụng kinh, ma chay .... tuy nhiên cư sĩ nầy "ít học" nên đọc kinh không đúng chữ, nếu ở đây, các Phật tử đứng lên lấy lại chùa, tự quản lý, thì trong nghi thức, có nhiều Phật tử có trình độ văn hóa. Và nay thì cư sĩ Lê Tấn Kiết bị lột mặt, nên Phật tử Tây Úc cần đoàn kết lại, thành lập ban trị sự, tự điều hành như ở Nam Úc và nhất là: "không bao giờ mời sư từ Việt Nam sang với danh nghĩa trụ trì" là vô tình mời công an sang đấy, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Như Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, do cư sĩ Võ Văn Ái điều hành, vẫn chạy việc như thường .... nếu mai nầy, các ban trị sự, văn phòng ... trở cờ, thì chính Phật tử đứng lên điều hành, tiếp tục bảo vệ đạo pháp.

Trong xã hội loài người, từ xưa đến nay, đã có thành phần TRUNG GIAN mà trong từ ngữ kinh tế tiếng Anh gọi là BROKER, là những người làm ít hay không làm gì mà hưởng nhiều nhất.

- Thời bộ lạc, giai cấp tù trưởng, thầy mo, tự nhận là "thay thần linh" để cai trị dân trong các bộ tộc, là thứ broker giữa thần và các thành viên bộ tộc, nên tự ban cho minh quyền hành sanh sát trong tay, dưới nhản hiệu thần linh.

- Thời phong kiến, vua chúa chính là Boker, cũng tự nhận là "giới trung gian" giữa trời và dân, họ tự nhận là con trời. Nếu đất nước có được Broker lương thiện, thì dân được thái bình, là những minh quân; nhưng gặp thứ broker xấu, là những tên hôn quân, nhan nhản trong lịch sử các nước từ Âu sang Á.

- Tại các nước dân chủ, những bộ máy điều hành quốc gia chính là "broker" giữa chính quyền và dân chúng, nơi nầy cũng có nhiều đảng phái khác nhau, thi đua vào làm "broker" nên các đảng phái luôn tìm những chính sách để phục vụ dân chúng để giữa "công ty trung gian", nếu không sẽ bị dân đá văng ra khỏi bộ máy cai trị. Trong khi đó tại các nước Cộng Sản, giới Broker bất lương chính là tập đoàn đảng Cộng Sản, vì không có bất cứ đảng phái nào cạnh tranh, nên đảng Cộng Sản là thứ Broker độc quyền, tha hồ làm mưa làm gió, tự ý ban hành những thứ luật rừng để hưởng lợi.

- Trong thương trường, các super market là những broker giữa các công ty sản xuất và người tiêu thụ, nên các broker phải cạnh tranh nhau để được người tiêu thụ đến mau càng đông càng tốt. Do yếu tố cạnh tranh lành mạnh, theo luật pháp nên đa số các thương nghiệp là những broker lương thiện, giá cả đàng hoàng; tuy nhiên khi gặp phải gian thương, sau thời gian mánh mun, rồi vũng bị bể và bị chế tài theo luật pháp.

Trong tôn giáo cũng thế, tu sĩ chính là giới BROKER giữa trời, Phật, chúa và tín đồ, nên đây là sợi dây quan hệ mật thiết giữa đạo và đời. Do đó đức thầy Huỳnh Giáo Chủ, đạo Hòa Hảo có hai câu thơ ý nghĩa:

"Đời không đạo, đời vô liêm sĩ.
Đạo không đời, đạo biết dạy ai?"

Trong tôn giáo, giới tu sĩ Broker rất quan trọng, nên việc đào tạo là nhu cầu cần thiết trong việc bảo tồn và phát triển. Thiên Chúa giáo đào tạo tu sĩ rất kỹ, nên những chức sắc phải là những người thông hiểu kinh hơn các con chiên, đào tạo như vậy mà thỉnh thoảng cũng có những linh mục, giám mục làm sai và bị chế tài bởi giáo hội. Hồi giáo cũng có một số giáo sĩ cực đoan (Cleric), tự nhận là trung gian giữa Hallah và tín đồ, rồi có một số broker tự cho mình có quyền năng, cấp "chiếu kháng" cho bất cứ tín đồ nào ôm bom tự sát, dưới chiêu bài "thánh tử đạo" là nguyên nhân gây ra nạn khủng bố.

Phật giáo vốn lỏng lẻo về đào tạo, nên giới tu sĩ Broker làm sai chiếm khá nhiều, trong thương trường là gian thương, thì trong Phật giáo là gian tăng, nhan nhản trong các tự viện, khi làm sai mà không có ai chế tài, thì coi như đám gian sư lộng hành và tiếp tục phá đạo. Một số broker làm ăn khắm khá như thiền sư Thích Nhất vẹm, có cả hệ thống "supper Budhha market" từ Pháp sang Mỹ, sản nghiệp kếch xù hàng trăm triệu Mỹ kim. Hệ thống Phước Huệ công đức tùm lum, hệ thống phái Như Huệ .... và các tiệm Phật khắp nơi trên thế giới càng phát triển. Giới gian sư, ma ni trong Phật Giáo rất đông, nên giới tiêu thụ chính là các Phật tử hảy chọn nơi nào tốt để cùng nhau tu học, tìm đường giải thoát. Do đó, việc lấy lại các tự viện về tay Phật tử quản lý là điều cần thiết, trong tinh thần "đại hùng, đại lực, đại từ bi" là giúp đạo vượt qua cơn pháp hạn. Khi Phật tử đứng ra điều hành, thì sáng suốt hơn cá nhân các sư, và trong tương lai, nếu giáo hội trong nước bị nhuộm đỏ, hay bị khống chế, bị lái sang "định hướng xã hội chủ nghĩa" thì những tự viện ở hải ngoại do chính Phật tử điều hành, là nơi bảo tồn đạo pháp để chờ ngày bọn quỷ đỏ tiêu diệt, chấn hưng đạo, giúp đời. Nếu tự viện nào được minh sư hướng dẫn thì theo và nơi nào gặp gian sư, Phật tử nên làm cuộc đứng lên giành lấy chùa, bảo vệ chánh pháp.

Ánh sáng từ chùa Pháp Âm vùng sáng trên nền trời chánh đạo, hy vọng các nơi khác, khắp các châu lục, Phật tử hảy vùng lên lấy lại chùa, bảo vệ chánh pháp, là công đức to tát trong thời Mạt Pháp, tống cổ bọn gian sư, bao năm bòn rút mồ hôi trở thành MẬP PHÁT trong các Tiệm phật; đã đến lúc phải làm cái gì, bằng không thì ma quái tiếp tục lộng hành.

Trương Minh Hòa
27.4.2009


Monday, April 27, 2009

Thư mời biểu tình ngày quốc hận 30-4-2009 - Cộng Đồng Tỵ Nạn Hòa Lan

Thư mời biểu tình ngày quốc hận 30-4-2009

Kính gởi:
    - Quý vị lãnh đạo tôn giáo
    - Quý vị đại diện các đoàn thể, các ban đại diện địa phương.
    - Quý đồng hương.
Thưa quý vị,

Việt Nam đã mất thác Bản-Giốc, mất ải Nam-Quan, mất 700 km2 vùng biên giới phía Bắc, trong đó có nhiều ngọn đồi chiến lược.
    Việt Nam đã mất 20000 km2 lãnh hải.
    Việt Nam đã mất Hoàng Sa, mất Trường Sa.
    Chưa hết, Việt Nam đang có nguy cơ mất toàn bộ đất nước.
Hiện nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục bán vùng cao nguyên trù phú để Trung Cộng khai thác bauxite. Đây là vấn nạn gây tai hại to lớn trên nhiều lãnh vực như môi trường sinh thái, thế địa lý chính trị quân sự, kinh tế và nguy hiểm nhất là hàng vạn công nhân Trung Cộng đang đổ vào Việt Nam. Điều này đưa đến tai họa lâu dài cho dân tộc mà hậu quả là đất nước chúng ta sẽ rơi vào tay Trung Cộng và sẽ biến thành chư hầu của phương Bắc. Đất nước thật sự đang lâm nguy.

Trước tình hình khẩn thiết này, nhân ngày quốc hận 30-4-2009, CDVNTNCS/HL phối hợp cùng các đoàn thể sẽ tổ chức cuộc biểu tình trước sứ quán VC để phản đối việc bán nước cầu vinh này.
    Địa chỉ: Nassauplein 12, 2585 EB Den Haag
    Thời gian: Ngày 29-4-2009 từ 13:00 --- 15:30 giờ
Chúng tôi tha thiết kêu gọi đồng hương tích cực tham gia cuộc biểu tình vào ngày giờ nói trên.

Sự hiện diện của quý vị là biểu hiện cụ thể cho công cuộc tranh đấu vì tự do dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chúng ta.

Trân trọng

T/m Ban Thường Vụ CDVNTNCS/HL

Chủ tịch,

Nguyễn Liên Hiệp

*
* *


Tuyên cáo chung
Của Cộng Đồng Và Hội Đoàn Hòa Lan

v/v: Cộng Sản Việt Nam để cho Trung Cộng khai thác quặng Bauxite ở Tây nguyên

Nhận định rằng:

1. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Tổ tiên và các bậc tiền nhân của ta đã hy sinh biết bao xương máu chống lại

kẻ thù phương Bắc để bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho con cháu giống nòi.

2. Thế, mà vì muốn dựa Trung Cộng để giữ độc quyền thống trị đất nước, CSVN đã khiếp nhược đem đất đai, lãnh hải dâng hiến cho kẻ thù qua các việc:
    - Xác nhận Hoàng Sa, Trường sa thuộc về Trung Cộng qua Công hàm T/T Phạm Văn Đồng ký năm 1958

    - Dâng thác Bản-Giốc, ải Nam-Quan và cả ngàn cây số vuông dọc theo biên giới phía Bắc, trong có nhiều ngọn đồi chiến lược, qua Hiệp ước phân định lãnh thổ năm 1999.

    - Dâng hàng chục ngàn cây số vuông lãnh hải với bao nhiêu là tài nguyên phong phú, qua Hiệp ước phân định vịnh Bắc-Bộ năm 2000.
3. Chưa hết, hiện nhà cầm quyền CSVN bất chấp mọi khuyến cáo của các thành phần dân tộc và các nhà nghiên cứu, rước Trung-Cộng khai thác quặng Bauxite ở Tây nguyên mà hậu quả nghiêm trọng sẽ là:
    - Gây ô nhiễm và hủy diệt môi trường sinh thái đất nước.

    - Triệt tiêu văn hóa của các thành phần dân tộc ít người.

    - Mất ưu thế về chiến lược phòng ngự bảo vệ an ninh tổ quốc.

    - Nguy hiểm nhất, hàng vạn công nhân Trung Cộng đổ vào VN, mối đe dọa bành trướng của phương Bắc trở thành hiện thực, nạn mất toàn bộ đất nước có nguy cơ xảy ra.
Trước tình hình nguy ngập đó, Cộng-Đồng Việt-Nam Tỵ-Nạn Cộng-Sản tại Hòa lan cùng các đoàn thể, tổ chức người Việt Quốc Gia tại Hoà Lan đồng thanh tuyên cáo:
    1. Cực lực lên án nhà cầm quyền CSVN làm tay sai cho Trung Cộng bán nước cầu vinh.

    2. Lên án mọi hành động xâm lăng của Trung Cộng trước dư luận quốc tế và trước Liên-Hiệp-Quốc

    3. Kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước cùng nhau đứng lên đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

    4. Mạnh mẽ đòi nhà cầm quyền CSVN lập tức chấm dứt ngay dự án khai thác Bauxite Tây nguyên và ngưng ngay việc nhập cảng công nhân Trung-Cộng vào VN

    5. Nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi “tháng năm biểu tình tại gia chống việc lấy vàng dân tộc đổi nhôm nước ngoài”của đại lão Hòa-Thượng Thích-Quãng-Dộ, phổ biến ngày 29/3/2009.
Làm tại Eindhoven ngày 14-4-2009


Phát động chiến dịch Viết Thư Về Quê Hương - Đảng Thăng Tiến Việt Nam

Đảng Thăng Tiến Việt Nam
Vietnam Progression Party (VNPP)
Headquarters: 86 Lê Ngô Cát, Huế (temporary closed)
Email: ttvnhn@gmail.com
Web: www.thangtien.de & www.thangtienvietnam.org

Đức quốc, ngày 22 tháng 4 năm 2009
TB03/2009

Thông Báo
Phát động chiến dịch Viết Thư Về Quê Hương

Hãy nói cho dân ta nghe: bọn giặc Hồ buôn dân bán nước,
Hãy nói cho dân ta nghe: bọn Việt cộng bán nước buôn dân.

Đồng kính gởi:
    - Đồng bào Việt Nam, trong và ngoài nước,
    - Quý Hội đoàn, Đoàn thể, Đảng phái phi cộng sản, xin tiếp tay.
    - Quý vị lãnh đạo các tôn giáo, xin hưởng ứng, hỗ trợ.
    - Quý cơ quan truyền thông, nhờ phổ biến.
Kính thưa Đồng bào,
Kính thưa quý Chư vị,

Lịch sử Việt Nam từ ngàn xưa đã toàn tâm, toàn lực trong các cuộc diệt Nguyên, đuổi Tống, kháng Minh, đánh Hán, dẹp Thanh và chống thực dân Pháp. Rồi gần đây là cuộc chiến với Trung cộng tại hải đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đã nói lên ý chí sắt son của toàn dân ta trong công cuộc bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của quê hương. Nhưng tệ hại thay, từ năm 1930, Hồ chí Minh và tập đoàn Việt gian đã gieo mầm ký sinh cộng sản vào đất nước Việt Nam với những dã tâm ghê gớm:

1. Về đối nội: Chúng chủ trương áp dụng một nền văn hóa ngu dân, bạc nhược, hèn kém, bưng bít mọi thông tin, nhằm làm băng hoại nền văn hóa Nhân Bản dân tộc và tiêu diệt nền luân lý đạo đức cơ bản của xã hội, để ngày ngày người ta phải giả dối nhau mà sống. Tệ hơn thế, bằng một loại luật lệ vô pháp vô cương, ô dù, chúng đã tạo ra những tệ nạn tham ô, hối lộ, cửa quyền, đẩy cả xã hội vào cuộc sống bất công, với hàng ngũ dân oan mất đất, mất nhà lan tràn trên bình diện cả nước. Riêng các cán bộ, đoàn đảng viên nhà nước từ trung ương cho đến địa phương thì tự do thi đua rúc rỉa, đục khoét, trộm cướp, bòn mót của công cũng như của tư để cho vào túi tham riêng.

2. Mặt đối ngoại: Chúng chủ trương đưa đất nước Việt Nam vào quỹ đạo làm thuộc địa, nô lệ cho tàu cộng. Bằng chứng điển hình là:
    • Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng đã cúc cung đời nô lệ qua việc ký công hàm năm 1958, công nhận chủ quyền 12 hải lý của Tàu cộng trên quần đảo Trường Sa Hoàng Sa là phần đất thuộc Việt Nam về mặt lịch sử và trực thuộc miền nam Việt Nam quản trị theo hiệp định Geneve năm 1954 quy định.

    • Đến cuối năm 1999 và 2000, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Nguyễn mạnh Cầm lại ký hiệp định và hiệp thương về biên giới và lãnh hải, nhường thêm những địa danh như thác Bản Dốc, Ải Nam Quan và vùng biển bắc bộ rộng hàng ngàn Kilô mét vuông trên bộ cũng như lãnh hải cho Tàu cộng để tỏ rõ ý chí thần phục bành trướng phương bắc.

    • Đến nay, Nguyễn tấn Dũng, Nông đức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Phạm phú Trọng, không những chỉ đồng ý đóng lại các cột mốc ở biên giới lui sâu vào xương thịt Việt Nam cho vừa lòng Tàu cộng, chúng còn ruớc Tàu qua Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Tiếng là nhượng đặc quyền quản trị và khai thác mỏ bauxite, nhưng thực tế là chúng đang thực hiện chủ trương của Việt cộng, quyết tâm đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của tàu bàng cách bao che và khai mở ra cuộc di dân vĩ đại, được bảo vệ và tổ chức từ phương bắc tràn qua lãnh thổ Việt Nam sinh sống một cách hợp pháp. Bởi lẽ, đã sang đến đây, chúng có khi nào quay trở về? Và nhà cầm quyền Việt cộng có khi nào dám đòi hỏi đến việc cấp chiếu khán có thời hạn, hoặc được quyền kiểm soát số nhân viên thuộc công nông trường và an ninh của tàu cộng sang sinh sống, khai thác hầm mỏ hay rà đặt các căn cứ quân sự?
Kính thưa toàn thể đồnng bào,

Nước Việt Nam và dân tộc ta đang trong cơn nguy biến. Tổ quốc thân yêu Việt Nam của chúng ta đang bị nhà nước Việt cộng chuyển hóa từ từ cho mộng bành trướng bá quyền từ phương bắc. Con cháu chúng ta thật khó mà còn có được một mảnh đất độc lập và tự do mang tên Việt Nam. Theo đó, đảng Thăng Tiến Việt Nam long trọng công bố một sách lược không khoan nhượng với nhà cầm quyền Việt cộng: Dù chỉ còn lại một người đảng viên cuối cùng thì đảng Thăng Tiến Việt Nam vẫn cương quyết chiến đấu. Trước là khai trừ đảng và nhà nước Việt cộng ra khỏi địa bàn sinh hoạt chính tri Việt Nam. Sau là bảo toàn lãnh thổ, lãnh hải, bảo toàn nền Độc Lập, xây dựng một xã hội nhân bản trong Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý cho Việt Nam.

Cùng với bản thông tin này, đảng Thăng Tiến Việt Nam, dốc toàn lực phát động chiến dịch: Gởi Thư Về Quê Hương. Trong chiến dịch này, chúng tôi trân trọng kính đề nghị toàn thể đồng bào cùng thực hiện với chúng tôi những mục tiêu ngắn hạn sau đây:
    1. Đồng bào hãy rỉ tai, thông báo cho nhau, để từng nhà, từng người từ thành thị cho đến nông thôn, người người được biết, và hiểu rõ dã tâm của nhà nước Việt cộng đang từng bước hiến dâng tổ quốc Việt Nam cho Tàu cộng và đẩy toàn dân ta vào vòng nô lệ mới.

    2. Vì trong nước thiếu hệ thống thông tin chính xác và nhà cầm quyền bưng bít mọi loại tin tức có liên quan đến việc dâng đất, hiến biển để chúng dễ thực hiện vịệc xin làm nô lệ cho phương bắc. Chúng tôi kính xin đồng bào ở ngoài nước, hãy viết thư về quê hương cho thân nhân, cho bạn bè, cho làng xóm, cho phố phường của mình biết rõ dã tâm của nhà nước Việt cộng đang từng ngày, từng bước dâng hiến toàn bộ giang sơn Việt Nam cho bá quyền Trung cộng để cho dân ta phải sống đời nô lệ. Phần chúng, với những món tiền khổng lồ thu về từ các vụ tham ô, hối lộ hoặc bán đất, dâng biển cho Tàu qua các hiệp định, hiệp thương, dựng cột mốc, nên chúng đã sẵn sàng cuốn gói ra đi, sau khi bán sạch giang sơn của cha ông chúng ta cho Tàu cộng

    3. Chúng tôi khẩn thíết xin đồng bào: Nếu không cần thì đừng về Việt Nam du lịch vào lúc này. Nếu chưa cấp bách thì cũng đừng gởi tiền về cho thân nhân. Hoặc giả, nếu cần chỉ gởi tối thiểu để cuộc sống của đồng bào ta khỏi lầm than mà thôi. Bởi vì, tất cả tiền bạc do quý đồng bào gởi về hoặc tiêu xài tại Việt Nam thì lại trở thành tiền tươi trong túi áo của những đảng viên Việt cộng, giúp vốn cho chúng cất giữ trong các ngân hàng tại ngoại quốc mà thôi.

    4. Chúng tôi cũng kêu gọi đồng bào và các giới, đặc biệt là các gia đình và bản thân các thành viên đảng Thăng Tiến Việt Nam hãy tích cực ủng hộ và tham gia chiến dịch “bất tuân dân sự” biểu tình bất bạo động tại gia như lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Quảng Độ để rút ngắn tíến trình tranh đấu cho dân chủ, ngõ hầu bảo vệ tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Kính thưa toàn thể đồng bào.

Đất nước Việt Nam, thuộc về toàn thể dân ta, không phải là của riêng các cán bộ, đảng viên nhà nước Việt cộng. Chúng không có quyền hiến dâng một tấc đất, một tấc biển cho ngoại bang.

Kính xin đồng bào cùng với chúng tôi, cương quyết phủ nhận tất cả mọi hiệp thương, hiệp định, công hàm có liên quan đến biên giới lãnh hải của Việt Nam do nhà nước Việt cộng ký kết với Trung cộng.

Chúng tôi, đảng Thăng Tiến Việt Nam, nguyện sát cánh cùng đồng bào trong cuộc chiến giải trừ chế độ bạo tàn cộng sản tại Việt Nam và nguyện lấy lại từng tấc đất, tấc biển của cha ông chúng ta để cùng nhau xây dựng một xã hội Nhân Bản trong Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lý và Phú Cường.

Trân trọng kính chào đồng bào.

Ban Điều Hành Đảng Thăng Tiến Việt Nam
Nguyễn Phong, Trưởng ban thành lập. Thái thanh Thủy, thư ký VPHN
Lê thị Công Nhân, Phát ngôn nhân

LM Nguyễn văn Lý, cố vấn



Nghĩ gì về 34 năm ngày "giải phóng" - Âu Dương Thệ

    Nghĩ gì về 34 năm ngày "giải phóng"
    Không được phép đánh lừa thanh niên VN một lần nữa!
Âu Dương Thệ
    · Nói và làm của nhóm cầm đầu chế độ độc tài toàn trị
    · Những nguy hiểm và bất lợi trước mắt cho đất nước
Trong thời gian gần đây càng gần ngày kỷ niệm 30.4 và ngày sinh nhật người sáng lập chế độ toàn trị người ta lại thấy nhóm cầm đầu chế độ này đang phát động một phong trào đề cao đoàn kết dân tộc, lòng yêu nước và "làm theo Bác". Cuộc vận động mới này không chỉ dừng trong các giới đồng bào các dân tộc, người Việt ở nước ngoài, mà trọng tâm chính là các giới trẻ như sinh viên, học sinh và thanh niên. Thậm chí vào dịp lễ giỗ Tổ Hùng Vương vào đầu tháng 4 và dịp kỷ niệm 78 năm thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM, Nguyễn Tấn Dũng đã để cho tổ chức một cuộc gặp mặt với Ban Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM để nghe sự hoạt động phong trào của Đoàn về "Năm xung kích phát triển KT-XH và bảo vệ tổ quốc".[1] Trước đó vài tuần nhóm cầm đầu chế độ toàn trị cũng cho tổ chức đình đám "Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Sinh viên VN" vào giữa tháng 2.04 với sự hiện diện của một số nhân vật cựu trào cực kì bảo thủ và thần phục Bắc kinh như Đỗ Mười, Lê Đức Anh và người đại biểu trung thành của nhóm này trong Bộ chính trị hiện nay là Nguyễn Phú Trọng đã đọc diễn văn chính ra chỉ thị cho sinh viên.[2]

Các câu hỏi quan trọng đặt ra ở đây là: Đằng sau tấm màn của các "Đại hội" và gặp gỡ với các giới trẻ của những người cầm đầu chế độ toàn trị nói lên điều gì? Lời nói và việc làm của họ có đi đôi với nhau không?

Theo dõi sát tình hình chính trị, kinh tế và ngoại giao của chế độ toàn trị CSVN trong thời gian qua thì ai cũng thấy rất rõ, khó khăn kinh tế-tài chánh càng lớn thì họ lại càng quay đầu cầu cứu phương Bắc nhiều hơn và nhóm cầm đầu Bắc kinh đã tận dụng cơ hội này để đưa ra những yêu sách ngày càng ngang ngược và nguy hại cho đất nước. Rõ rệt nhất là trong dịp 30 năm Bắc kinh mở cuộc chiến tranh biên giới chống VN (2.1979- 2. 2009) những thủ lãnh của CSVN đã không dám mở một buổi lễ kỉ niệm nào, ngay cả việc thăm viếng mộ các chiến sĩ cũng không có. Thậm chí còn không cho báo chí được viết các bài về cuộc chiến tranh xâm lược này. Nhưng cũng lúc đó thì họ đã cùng với Bắc kinh tổ chức long trọng "Lễ chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc biên giới" Việt-Trung vào ngày 23.2 ở Lạng sơn, mặc dầu trong suốt hơn 10 năm đàm phán và thực hiện Hiệp định Biên giới thì Bắc kinh luôn luôn ở thế thượng phong![3] Trong buổi lễ này Ủy viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã không ngớt lời ca tụng mối bang giao mà hai bên gọi là "16 chữ vàng" và "4 tốt":

"Đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện giữa 2 nước và cũng là thông điệp quan trọng khẳng định với thế giới về mối quan hệ hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Trung Quốc." [4]

Mới vài ngày trước đây Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự Hội nghị kinh tế Bác Ngao ở Hải nam, Trung quốc. Trong dịp này ông Dũng đã phải chấp nhận yêu sách của Thủ tướng Trung quốc Ôn Gia Bảo là thời gian tới sẽ tiến hành thảo luận nhanh về các vấn đề ở biển Đông và vẫn ca lại tình giao hảo "hữu nghị". Đài Bắc kinh tường thuật cuộc hội đàm này và cho biết, Ôn Gia Bảo đã khuyên Nguyễn Tấn Dũng:

"Hai bên phải nhìn xa trông rộng, xuất phát từ đại cục, tích cực giữ gìn sự ổn định của Biển Nam, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, cố gắng tiến bước tích cực trong việc cùng khai thác Biển Nam." [5]

Còn Nguyễn Tấn Dũng chỉ biết vâng dạ, vẫn theo đài này:

"Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ, Việt Nam sẵn sàng thể theo tinh thần tôn trọng và thương lượng lẫn nhau, giải quyết ổn thỏa vấn đề Biển Nam."[6]

Tuy nhiên, những lời trên chẳng đánh lừa được ai, nhất là thanh niên VN. Những bất lợi cho VN về lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo và tài nguyên cùng những thái độ nhu nhược và làm mất thể diện dân tộc của nhóm cầm đầu CSVN đã không thể nào qua mặt được phần đông thanh niên và chuyên viên VN, những người rất nhạy cảm, nhiều nhiệt huyết và còn biết quí sự tự trọng và danh dự tổ quốc.

Chính vì thế, nên nhóm cầm đầu chế độ toàn trị đã bày mưu định kế để tìm cách xoa dịu sự thất vọng, bất mãn của các giới trẻ bằng những "Đại hội sinh viên", bằng những cuộc gặp gỡ của lãnh đạo với các Đoàn thanh niên của ĐCSVN để biểu giương các thành tích của các giới trẻ. Trong các dịp này họ đã chọn lựa để cho một số nhân vật cầm đầu hiện nay đang bị dư luận chỉ trích là quá ngả hoặc nhượng bộ vô điều kiện với Bắc kinh để gặp gỡ các đoàn thanh niên, sinh viên trong các đại hội và các lễ lớn để tìm cách rửa mặt. Vì vậy, Nguyễn Phú Trọng không chỉ xuất hiện và đọc diễn văn chỉ đạo trong "Đại hội Sinh viên toàn quốc" vào giữa tháng 2 mà ông ta còn chủ tọa "Ngày kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ đội Biên phòng" vào đầu tháng 3. Cũng không phải tình cờ, trong hai cuộc họp mặt lớn này đứng cạnh Nguyễn Phú Trọng đều có cựu Tổng bí thư Đỗ Mười, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, mặc dù họ không còn giữ một chức vụ gì trong Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn còn quyền uy rất lớn trong giới lãnh đạo hiện nay.[7] Đây là hai nhân vật chính đã đặt viên đá mở đường sang thần phục Bắc kinh từ cuối thập kỉ 80 của thế kỉ trước.

Lời nói không đi đôi với việc làm

Trong Đại hội Sinh viên và gặp Bộ đôi Biên phòng Nguyễn Phú Trọng ca tụng lòng yêu nước của giới trẻ và bộ đội, nhưng chỉ ít ngày sau khi thăm một số tỉnh Tây nguyên chính ông ta lại cổ động cho việc tiếp tục để Bắc kinh khai thác mỏ Bauxite ở đây.[8] Nguyễn Tấn Dũng cũng chọn thái độ trí trá, đánh hỏa mù như thế. Sau khi cấm đoán báo chí không được đưa tin về khai thác Bauxite ở Tây nguyên không đạt kết quả. Dư luận các giới chuyên viên và nhân sĩ ngày càng bất bình, báo chí và giới trẻ tỏ cảm tình với các quan tâm chính đáng về vấn đề này. Cho nên Nguyễn Tấn Dũng đã cho Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mở cuộc "Hội thảo Khoa học" về việc khai thác Bauxite ở Tây nguyên vào ngày 9.4. Họ tỏ ra như muốn lắng nghe ý kiến của tướng Võ Nguyên Giáp cũng như của các chuyên viên và nhân sĩ về những tai hại cho môi trường, kinh tế, xã hội và quốc phòng. Nhưng trước khi chấm dứt cuộc Hội thảo Hoàng Trung Hải đã kết luận, "chủ trương phát triển công nghiệp khai thác Bauxite Tây nguyên là đúng đắn".[9] Ông Hải còn cho biết, các công trình Tân Rai và Nhân Cơ do các chủ thầu của Trung quốc vẫn tiếp tục được khai thác như đã định trước. Mở ra cuộc Hội thảo ông ta chỉ làm một công việc tìm cách đánh lừa sự theo dõi và bất bình của dư luận khi nói rằng, đây là "thí điểm" đầu tiên để học tập.

Cũng bằng cách đánh lừa quen thuộc, trong dịp Giỗ Tổ Hưng Vương, vào đầu tháng 4 Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước, đã lại ca "đoàn kết dân tộc" và "yêu nước" theo sách lược, yêu nước là yêu đảng, kính lãnh đạo và yêu XHCN:

"Đảng và Nhà nước không có thành kiến với những kiều bào còn chưa hiểu rõ về đất nước. Mẹ hiền Việt Nam luôn dang rộng cánh tay đón những người con về với Tổ quốc, kể cả những người từng lầm đường, lạc lối." [10]

Thoạt nghe qua thì tưởng đây là chủ trương "đoàn kết dân tộc". Nhưng đọc kỹ những từ ngữ và ý của đoạn trên thì rõ ràng Nguyễn Minh Triết vẫn lập lại thái độ yêu nước độc quyền mà khi còn sinh thời chính cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã công khai kết án. Không những thế, Nguyễn Minh Triết còn tỏ thái độ ngạo mạn trịch thượng, kẻ cả, hống hách, coi ĐCS là "mẹ hiền" và khinh thường coi người Việt nước ngoài là "các con". Đây chính là tư duy cực kỳ phong kiến của các vua chúa trước đây. Nghĩa là ở đây ông ta vẫn lập lại cái ý trước đó vài năm phải tiếp tục giữ độc quyền lãnh đạo cho ĐCS, cho nên phải duy trì Điều 4 của Hiến pháp 1992. Vì nếu không như thế, theo ông Triết "bỏ Điều 4 Hiến pháp… là tự sát" [11]. Cũng ngay khi Nguyễn Minh Triết tỏ ra vẻ hồ hởi với kiều bào thì nhà cầm quyền đã không cho Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc vừa từ Úc đáp xuống sân bay Nội bài vào VN. Họ cưỡng ép Ông phải ra khỏi ngay VN. GS Quốc là một chuyên viên có uy tín, yêu nước và không có một tội gì cả.[12] Việc cấm cản hay gây khó khăn cho người Việt từ nước ngoài về là sự tự tố cáo lòng giả dối và thái dộ kiêu ngạo quyền lực của Nguyễn Minh Triết cũng như những người cầm đầu CSVN.

Cũng theo cách làm tương tự, Nông Đức Mạnh, người cao nhất của chế độ toàn trị, với tư cách là Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương trong Phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM" luôn luôn rao giảng đạo đức và lòng yêu nước. Nhưng thực sự lại là người chỉ lo thu vén quyền tiền, ăn bẩn nhất và gia đình trị, bất cần đến dư luận và đạo đức và còn mở đường để Bắc kinh đang áp đảo VN. Trong chuyến thăm Bắc kinh vào cuối tháng 5.08 ông Mạnh đã đồng ý với Hồ Cẩm Đào để Bắc kinh khai thác Bauxite ở Tây nguyên, đồng thời thỏa thuận lập "quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện" giữa hai nước.[13] Nghĩa là sau khi khống chế được kinh tế, thương mại của VN, Bắc kinh sẽ ép nhóm cầm đầu CSVN phải hợp tác cả trong an ninh và quốc phòng, biến VN thành một liên minh chiến lược của TH ở phía Nam.

Trước Đại hội 10 (4.06) để cứu cái ghế Tổng bí thư và người con rể, Nông Đức Mạnh đã cách chức một số nhân vật thân tín dính líu vào vụ tham nhũng nghiêm trọng PMU 18 và phải hoãn kế hoạch đưa con trai Nông Quốc Tuấn vào Trung ương đảng. Nhưng sau khi củng cố lại được quyền lực thì Nông Đức Mạnh đã tìm cách đổi trắng thay đen, cho bỏ tù một số nhà báo tố các quan lớn tham nhũng, thả cựu Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến và vất hồ sơ vụ tham nhũng này vào sọt rác. Không những thế, chỉ cách đây vài ngày Nông Đức Mạnh đã ra lệnh cho Ban Bí thư Trung ương phải để cho con trai là Nông Quốc Tuấn làm Phó Bí thư tỉnh ủy Bắc giang.[14] Trước đây Nông Quốc Tuấn là Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, một chức vụ khó kiếm chác. Với chức vị mới này sẽ là cái cầu để cậu ấm có cơ hội ăn bẩn giống bố và chuẩn bị nhẩy lên Trung ương đảng trong Đại hội 11 sắp tới.

Mối nguy cho đất nước đang đứng trước mắt

Hiện nay Trung quốc là cường quốc kinh tế đứng thứ ba trên thế giới, có mức dự trữ ngoại tệ rất cao là trên 2000 tỉ USD và đã bỏ gần một nửa số trữ kim trên để đầu tư và mua trái phiếu nhà nước của Mĩ. Do tác động rất lớn của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở Mĩ và trên thế giới hiện nay cho nên vai trò và ảnh hưởng của Bắc kinh cũng đang gia tăng ở ngay cả Hoa kì. Đối với VN, hiện Trung Hoa đứng đầu thế giới trong quan hệ buôn bán với VN, mức giao thương hiện đã lên tới trên 20 tỉ USD. Trong số này thì số hàng nhập cảng từ Trung quốc cao hơn nhiều so với hàng xuất cảng của VN sang Trung quốc. Vì thế số nhập siêu của VN trong buôn bán với Trung hoa có thể lên hơn phân nửa tổng số trữ kim của VN. Tình trạng bất lợi đến mức nguy hiểm này ngày càng gia tăng nhất là từ khi cuộc khủng hoảng tài chánh-kinh tế thế giới bùng nổ.

Trong chiến lược hiện nay của nhóm lãnh đạo Bắc kinh thì họ coi các sức mạnh tài chánh, thương mại và viện trợ kinh tế của họ là mũi nhọn trong việc mở rộng ảnh hưởng và thế lực ở các khu vực trên thế giới từ Mĩ, Âu châu, Phi châu và đặc biệt ở Đông Nam Á. Sách lược dùng các "phần mềm" này để áp đảo các nước lân bang đang gặp khó khăn về tài chánh và kinh tế là đường lối chính của Bắc kinh trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện sách lược này dễ dàng hơn thì họ cần có sự ủng hộ của một số cá nhân có quyền lực trong những nước này. Đó là sách lược mua chuộc các nhà lãnh đạo các nước nhỏ bằng nhiều mánh lới và thủ đoạn rất tinh ranh. Mặt khác, Bắc kinh sử dụng các lợi thế về tài chính và kinh tế của mình để gây áp lực nhằm mở rộng ảnh hưởng. Trong lúc này Bắc kinh chưa cần và cũng chưa đủ mạnh để sử dụng phần cứng, tức võ lực. Hiểu rõ những thâm ý và tính toán thâm độc của Bắc kinh cho nên trong Kiến nghị ngày 12.4 về "vụ khai thác Bauxite ở Tây nguyên" nhiều chuyên viên và nhân sĩ trong và ngoài nước đã cảnh báo những người cầm đầu chế độ toàn trị:

"Người Trung Quốc đóng cửa các mỏ khai thác bauxite của họ để chuyển sang khai thác ở Việt Nam, định trút gánh nặng ô nhiễm môi trường cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và nhiều đời mai sau – những hành động y hệt như họ đã và đang làm ở châu Phi với sự giúp sức của những chế độ cai trị tham nhũng tại châu lục này, và đang bị dư luận thế giới theo dõi chặt chẽ và hết sức công kích" [15]

Trong quan hệ VN-Trung quốc từ đầu thập niên 90 của thế kỉ trước cho tới nay sách lược "phần mềm" đã giúp Bắc kinh đạt được từ thắng lợi này sang thắng lợi khác. Khi biết được nhóm Đỗ Mười, Lê Đức Anh coi lợi ích giữ quyền cho mình và cho đảng cao hơn lợi ích của đất nước, nên Bắc kinh đã ra những điều kiện cho việc đi cầu hòa của nhóm này. Cho nên những người kế tục của họ như Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải đã phải kí các hiệp định về biên giới, lãnh hải và mở rộng giao thương trong những điều kiện rất bất lợi cho VN vào các năm sau này. Hiện nay ảnh hưởng của Bắc kinh ở VN không chỉ mở rộng mạnh trong chính trị và ý thức hệ xuyên qua Nguyễn Phú Trọng, mà còn đang áp đảo trong tài chánh, kinh tế. Vì thế Nông Đức Mạnh đã phải chấp nhận đòi hỏi của Bắc kinh lập "quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện" vào giữa năm qua. Tiếp theo Nguyễn Tấn Dũng vào cuối năm qua đã phải sang Bắc kinh nghe chỉ thị của Hồ Cẩm Đào và thực hiện việc lập đường giây nóng giữa hai bên. Trong thực tế, có nghĩa là từ nay Bắc kinh có thể ra lệnh trực tiếp cho nhóm cầm đầu Hà nội. Mới đây Bắc kinh cũng đã giục Nguyễn Minh Triết phải sớm sang Bắc kinh.

Bước phát triển mới mà Bắc kinh đang theo đuổi ở VN trong giai đoạn từ sau khi "quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện" đươc thiết lập là đùng sức mạnh tài chánh và kinh tế để đưa người và các trang bị khai thác tài nguyên và xây dựng những cơ sở có lợi ích chiến lược quốc phòng ngay ở VN có lợi cho Trung Hoa về lâu dài. Việc này người ta thấy rõ ràng nhất là qua việc nhóm cầm đầu Hà nội đã để Bắc kinh chính thức đưa hàng ngàn công nhân sang khai thác các mỏ Bauxite tại Tây nguyên, bất chấp những lời cảnh báo của tướng Võ Nguyên Giáp và các chuyên viên, nhân sĩ về những tai hại đối với môi trường, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của VN. Mới đây báo chí trong nước cho biết, đang có hàng chục ngàn công nhân phổ thông (không chuyên môn) Trung quốc đang ào ạt vào VN làm việc trong các công trình mà các công ti Trung Hoa đã "trúng thầu" ở VN.[16] Riêng ở Tây nguyên, theo báo chí trong nước, có tới 2.000 công nhân Trung quốc sang làm việc.[17]

Giữa khi hàng vạn công nhân phổ thông Trung quốc ào ạt vào VN làm việc thì trong cuộc chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào giữa tháng 3, Ủy viên Trung ương Đảng Bộ trưởng Lao động, thương bình và xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã thừa nhân đang có hàng chục ngàn công nhân phổ thông VN đang bị thất nghiệp, không được hưởng trợ cấp thất nghiệp phải quay về quê sống trong nghèo đói. Tuy đứng đầu Bộ lao động nhưng bà Ngân vẫn giữ thái độ rất vô trách nhiệm và vô cảm với những người thất nghiệp khi trả lời các đại biểu:

"không nên quá bi quan về chuyện lao động ở các làng nghề mất việc do thiếu đơn hàng. Bởi không làm nghề này, họ sẽ chuyển đổi sang nghề khác, hoặc quay về làm nghề nông" [18].

Chưa một nước nào độc lập, có chủ quyền và chính quyền biết lo cho dân lại để hàng chục ngàn công nhân phổ thông nước ngoài ồ ạt vào trong một khoảng thời gian ngắn. Trong khi đó thì hàng chục ngàn công nhân nước mình thì bị mất việc, không được trợ cấp thất nghiệp và phải về quê sống cảnh nghèo khó. Đây là hoàn cảnh của VN hiện nay!

Về phương diện quốc phòng, như tướng Võ Nguyên Giáp đã cảnh báo trong thư gởi cho Nguyễn Tấn Dũng vào đầu tháng 1.09, Tây nguyên được coi là cái nóc nhà của VN và Đông dương. Nay Bắc kinh đang đem hàng ngàn công nhân Trung Hoa sang khai thác ở Tây nguyên, họ có thể lấy lí do, vì nhu cầu kinh tế và hợp tác chiến lược giữa hai nước để thiết lập những trung tâm Radar ngay trên Tây nguyên của VN. Với những Radar đặt ở Tây nguyên, Bắc kinh có thể kết hợp với hệ thống Satellit của Trung Hoa đang hoạt động trong vũ trụ thì mọi di chuyển quân sự của Quân khu 5 của VN, chạy từ Đà nẵng tới Tây nguyên, tức Quân khu phụ trách an ninh cho các quần đảo Hoàng sa và Trường sa và biển Đông, ngày đêm sẽ không thóat khỏi các mắt thần điện tử của Bắc kinh.

Xa hơn nữa, nếu lấy lý do là hai nước Trung quốc và VN đã thiết lập „quan hệ đối tác–hợp tác chiến lược toàn diện“ thì Bắc kinh có thể lập các đài Radar với những kỹ thuật cao nhất hiện nay, rồi từ đó hợp sức với các Satellit của Trung quốc và các tầu ngầm có hỏa tiễn với đầu đạn nguyên tử của Trung quốc có thể hoạt động ở tầm xa. Khi đó không chỉ an ninh quốc phòng của VN bị đe dọa trực tiếp và thường xuyên, mà ngay cả toàn bộ khu vực biển Đông, con đường biển thương mại chính giữa Đông Á và Đông Nam Á với thế giới sẽ bị đe dọa an ninh trầm trọng. Ý đồ này được thể hiện rất rõ qua cuộc diễn binh lần đầu tiên của hải quân Trung quốc với sự chứng kiến của Hồ Cẩm Đào vào ngày 23.4 vừa qua. Trong đó Bắc kinh đã cho biểu diễn các tầu ngầm có đầu đạn nguyên tử để trình diện với thế giới và đe dọa các nước trong khu vực về một nước Trung quốc dưới chế độ độc tài toàn trị không chỉ áp đảo về kinh tế-tài chánh mà còn là một cường quốc quân sự không còn xa![19] ♣

GHI CHÚ
[1] . Nhân dân (ND) 6.4
[2] . ND 16.2
[3] . Âu Dương Thệ, khi Nguyễn Phú Trọng tuyên bố bảo vệ đất nước và quyền lợi lãnh thổ, xem phần Thời sự trong www.dcpt.org
[4] . Phạm Gia Khiêm trong buổi „Lễ chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc biên giới“, Chính phủ điện tử (CP) 23.2
[5] . Đài Bắc kinh, 17.4
[6] . Như trên
[7] . Quân đội nhân dân điện tử (QĐND) 2.3
[8] . QĐND 14.3, Cộng sản điện tử 13.3
[9] . CP 9.4.
[10] . Vietnam Net (VNN) 4.4
[11] .Nguyễn Minh Triết tuyên bố ngày 27.8.07 tại Tổng cục Chính trị; Âu Dương Thệ, Nguyễn Minh Triết: „Bỏ Điều 4 Hiến pháp…là tự sát“, trong Tạp chí Dân chủ & Phát triển số 34, 10.07, tr 66/67
[12] . Người Việt, 7.4
[13] . Thông cáo chung VN-TQ, ND 2.6.08
[14] . Công an Nhân dân điện tử 22.4
[15] . Nguyên văn Kiến nghị xem trong: www.dcpt.org
[16] . Tuổi trẻ điện tử 19.4
[17] . VNN, 24.4
[18] . VNN 20.3
[19] . Đài Bắc kinh 24.4, BBC 20.4, VNN 23.4




Úc Châu Quốc Hận 30-04-2009




Trần VănThinh
Nguyên Hương


Quốc Hận 30 tháng Tư đen mỗi người trong chúng ta không ai không nghĩ đến thảm cảnh đất nước nhà tan cửa nát, vì chế độ csvn đã và đang gây ra đã khiến người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, không biết bao nhiêu sinh mạng đã bỏ mình trên biển cả, trong rừng sâu nước độc để tìm tự do. Đã 34 năm kể từ ngày 30 tháng tư đen 1975 Việt Cộng áp dụng chánh sách trả thù dân quân cán chính VNCH dưới chiêu bài "học tập cải tạo" chịu nhiều khổ đau trong lao trù việt cộng. Đã 34 năm kể từ ngày 30 tháng tư đen 1975 Việt Cộng áp dụng chánh sách trả thù Dân quân cán chính VNCH dưới chiêu bài "học tập cải tạo" chịu nhiều khổ đau trong lao trù việt cộng xuất cảng đưa công nhân ra nước ngoài làm việc đã bị các công ty ngoại quốc đối xử tồi tệ đánh đập, mà không có được một sự bảo vệ nào từ phía CSVN

Ngày 26 tháng 4 năm 2009 lúc 6giờ 30 sáng trước khi lên đường tiến về thủ đô Canberra để tham dự cuộc biểu tình lên án bọn bán nước cầu vinh tại tòa đại sứ Việt Cộng, đồng bào cùng các gia đình quân đội cựu quân nhân QLVNCH/ Úc Châu/NSW đã tề tựu trước Tượng Đài chiến sĩ Việt Úc tại công viên Cabra Vale Park, góc đường Railway Parade và Bartley St, NSW để làm lễ thượng kỳ và đặt vòng hoa tưởng niệm chiến sĩ VNCH.

Trong thời tiết lạnh giá và lộng gió với nhìẹt độ trên dưói 10 độ C, có đến trên một ngàn năm trăm đồng hương từ khắp các tiểu bang trên toàn nước Úc đã vượt hàng ngàn cây số để tham dự cuộc biểu tình Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 34. Sau nghi thức chào cờ Úc Việt và một phút mặc niệm là phần phát biểu của ông Nguyễn Thế Phong, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu đã không quên ghi nhớ công ơn của tiền nhân và nhắc nhở mọi người nhớ đến vận mệnh của đất nước ngày hôm nay.


Ông cũng đã đề cập đến hành động "rước voi về dầy mả tổ" của bọn Việt Cộng bán nước, ông cũng không quên nhắc nhở đến sự hy sinh của các chiến binh VNCH và chiến binh Úc trong việc bảo vệ tự do của miền nam VN chống lại sự xâm lăng của Việt Cộng. Trước khi dứt lời, ông nhấn mạnh về bổn phận của mỗi người Việt tỵ nạn Cộng Sàn là không được phản bội những sự hy sinh của đồng bào đã hy sinh trên đường đi tìm tự do.


Kế tiếp là phần phát biểu của Ls Võ Trí Dũng chủ tịch CĐNVTDUC/NSW về nghị quyết 36 của CSVN nhằm mục đích bình thường hóa sự hiện dìện của VC tại hải ngoại bằng nhiều cách. Có 2 phương cách màVC thực hiện: Thứ nhất là chiêu dụ những cá nhân và thương gia về nước hợp tác để có lợi cho VC. Thứ hai là gây chia rẽ, đánh phá Cộng Đồng qua chính sách văn hóa vận bằng các buổi trình diễn văn nghệ như "Duyên Dáng VN", "Mr.Dam" v.v...

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu luôn luôn đề cao cảnh giác, tiếp tục phản đối những âm mưu dùng văn hóa để bóp méo sự thật về lịch sử VN và những hoạt động từ thiện của VC nhằm chận đứng sự len lỏi của VC trong âm mưu xây dựng những trung tâm văn hoá ở hải ngoại. Để kết luận LS Dũng đã khẳng định rằng ngày nào CS còn ngự trị trên đất nước VN ngày đó chúng ta tiếp tục đấu tranh để mang lại tự do dân chủ cho VN.


Phần phát biẻu LS Dũng đã được đồng hương cổ võ liên tục bằng những khẩu hiểu xen kẽ trong bài phát biểu của ông: "Đả đảo CSVN", "Freedom For VN", "Human Right For VN", Demoncracy For VN".

Tiếp theo là phần phát biểu của ông Lê Công, chủ tịch CĐNVTDUC/ACT, ônggởi lời chào mừng đến các đồng hương đến từ khắp các tiểu bang trên nước Úc và các bạn trẻ sinh viên và đề cập đến tình trạng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên. Xen kẽ là những tiếng hô "Đả đảoVC bán nước" của đồng hương.


Ông Nguyễn Thế Phong chủ tịch, CĐNVTDUC/VIC trong phần phát biểu về tình cảnh người dân VN trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu đã nêu bật thảm cảnh dân VN đã sống trong hoàn cảnh tồi tệ lại càng tồi tệ hơn trong cơn khủng hoảng kinh tế trên thế giới.

Thay vì được bảo vệ quyền đươc thông tin về kinh tế tài chánh một cách trung thực thì đã bị bưng bít tin tức và được cung cấp những thông tin lừa đảo. Theo thống kê của tạp chí Forbes thì VC được xếp hạng 113, có mức độ tham nhũng và quan liêu cao nhất trong số 127 quốc gia tại Á Châu. Thảm trạng lao nô ở ngoại quốc lâm vào tình trạng thất nghiệp trầm trọng, công nhân đã không có tiền để trở về nước, có người đã phải ăn xin, thâm chí có người đã phải tự tử.

Theo định nghĩa "Nghèo" của VC thì thu nhập từ 200 đến 250 ngàn đồng một ngày (tương đương USD 0.40) do đó đã nẩy sinh ra hiện tượng sinh viên học sinh phải dùng mọi thủ đoạn để được bán máu 2 hoặc 3 lần trong một tháng. Ông cũng đề cập đến tình trạng 60% hợp đồng xuất khẩu của VN lệ thuộc vào Hoa Kỳ và Nhật Bản nay vốn đầu tư ngoại quốc giảm đến mức báo động mà nhà cầm quyền cộng sản đã không làm gì để giúp những công nhân này. Ông kết luận là những thảm trạng này chỉ có thể chấm dứt khi nào mầm mống cộng sản bị tiêu diệt.

Phần phát biểu kế tiếp của Bác Sĩ Bùi Trọng Cường, chủ tịch CĐNVTDUC/QLD về đề tài những âm mưu thâm độc của Trung Cộng trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite tại Tây Nguyên nhằm mục đích biến VN thành một tỉnh lỵ nghèo nàn của Trung Cộng với một môi trường sinh thái độc hại không bao giờ cứu vãn được. Do đó BS đã kêu gọi chúng ta hãy ủng hộ lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Quảng Độ về việc biểu tình tại gia để bày to thái độ quyết liệt của chúng ta về việc mãi quốc cầu vinh của bọn CS VN.

Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, chủ tịch CĐNVTDUC/ADL đã bày tỏ sự ủng hộ đối với những phong trào đấu tranh ở trong nước mà theo ông thì từ sau năm1975 đến nay thì những phong trào này ngày càng đẩy VC vào đường cùng. Ông nhắc nhở mọi người về bổn phận của người Việt hải ngoại trong việc tiếp tục hỗ trợ bằng tất cả nỗ lực của từng người.

Cô Trần Hương Thủy, chủ tịch CĐNVTDUC/WOLONGGONG xác định vị trí của nhửng chiến sĩ VNCH ngày hôm nay là để nhắc nhở chúng ta là cuộc chiến chưa chấm dứt vì những thảm nạn của đất nước dưới sự cai trị của CSVN. Một trong những thảm nạn đó là nhân phẩm của trẻ em và phụ nữ bị chà đạp qua việc buôn bán một trăm ngàn trẻ em để cung cấp cho các nhà thổ ở Campuchia. Phụ nữ thi bị rao bán tên mạng ebay từ 1 đến 2 ngàn Mỹ Kim một người, bị bán qua Đài Loan để làm nô lệ tình dục...

Cô đã kêu gọi phụ nữ hãy đứng lên đòi lại chỗ đứng trong lịch sử của phụ nữ VN. Đồng bào đã cùng cô hô to: "Phụ nữ VN muôn năm", "Đả đảo CSVN"...


Kết thúc là phần phát biểu của bạn trẻ Vương Nguyễn, đại diện Sinh Viên NSW. Anh tâm sự là đã học hỏi được nhiều điều từ tiền nhân như Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Hai Bà Trưng. Anh mong ước được các bậc trưởng thượng trong Cộng Đồng nâng đỡ và giúp đỡ anh cũng như các bạn trẻ trong việc đóng góp xây dựng Cộng Đồng và nền tự do dân chủ cho VN.

Ông Nguyễn Thế Phong đã cám ơn đồng bào, cảnh sát Úc đã giữ gìn an ninh trật tự cho cuộc biểu tình và mời đồng hương tham dự buổi tưởng niệm tại Đài Tưởng Niệm.


Sau đó đồng bào đã đến đài tưởng niệm 504 chiến sỹ Úc đã hy sinh tai chiến trường VN. Trong dịp nay Ông Nguyễn Thế Phong đai diện đồng bào đã phát biểu như sau: Muc đích của chúng ta ngày hôm nay có mặt tai Đại Lộ Vinh Danh (the boulevard of honor) của Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan để bày tỏ lòng tri ơn sâu xa của dân VN đối với sự hy sinh của 504 chiến sĩ Úc va hang trăm ngàn chiến sĩ VNCH đã bỏ mình trong cuộc chiến bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam. Mặc dù chiến tranh chưa hề xảy ra trên nước Úc va Tân Tây Lan nhưng ngừơì lính Úc và Tân Tây Lan luôn luôn mang tinh thần Anzac để chiến bênh vực lẽ phải, tự do và dân chủ của thế giới.

Ông Mai Đức Hòa Chủ Tịch Tổng Hội CQNQLVNCH Úc Châu đã phát biểu như sau: Mặc dù chiến tranh VN đa bị thế giới nhìn một cách sai lạc và ngay cả đồng minh Úc cũng đã bị nhìn như thế. Nhưng vào năm 1987 toàn thể dân Úc Đại Lợi đã vinh danh cuộc chiến đấu của quân đội hoàng gia Úc, và đã xây dựng đài tưởng niệm 504 chiến sĩ Úc đã chiến đấu và hy sinh cho nền tự do của miền nam VN. Ngừơi VN nói riêng luôn dành cho 504 vị đồng minh này và chiến sĩ QLVNCH sự tri ơn.


Sau cùng Ông xác định rằng cuộc chiến của chiến sĩ VNCH vẫn đang tiếp diễn vì sự tàn phá trong việc khai thác bauxite, sự cưỡng chiếm Hòang Sa và Trường Sa của quan thầy bọn CSVN là Trung Quốc và cho sự no ấm, tự do và dân chủ của toàn dân VN.

Cờ máu treo ngược của đám việt gian csVN

Buổi lễ đã chấm dứt vào khoảng 3 giờ chiều cùng ngày.

Trần Văn Thinh - Nguyên Hương (26 - 4 -2009)

Sunday, April 26, 2009

Úc Châu trong ngày biểu tình Quốc Hận 30/4/2009 - Lê Minh


Lê Minh

Năm nay cuộc biểu tình để kỷ niệm ngày Quốc Hận thứ 34 tại Úc Châu được tổ chức vào ngày chủ nhật 26/4, mặc dầu ngày 30/4 rơi vào ngày thứ Năm trong tuần. Đây là thông lệ về thuận tiện thời gian để đồng hương Việt Nam có thể tham dự.

Tại Sydney, nơi có đông người Việt Nam cư ngụ, đã bắt đầu chuyến đi bằng lễ Thượng Kỳ Úc-Việt tại công viên Cabra-Vale Park từ 7g sáng tinh mơ của cái lạnh đầu đông. Sau phần nghi thức thượng kỳ Úc-Việt thì các vị đại diện cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang NSW đã đặt vòng hoa ngay chân tượng đài chiến sĩ Úc-Việt trước khi đoàn xe bus của Sydney lên đường đến Canberra.


Đặt vòng hoa tại tượng đài Úc-Việt tại công viên Cabra-Vale lúc 7g sáng

Khoảng 11g sáng khi đoàn xe bus của Sydney đến địa điểm tập kết là bên ngoài Tòa đại sứ CSVN, thì phái đoàn của các tiểu bang thành phố khác cũng đã tề tựu gần như đầy đủ.

Lúc này bầu trời ở thủ đô đã nổi gió mạnh, cùng những cơn mưa bất chợt lúc tắt lúc hiện. Tiếng gió rít khiến nhiệt độ bất ngờ trở lạnh xuống gần 10 độ C. Đến 11.30g sáng, khi những bàn tay và quai hàm bắt đầu run vì lạnh thì hai MC Quốc Dũng và Thanh Trúc đã bắt đầu "khởi động" bằng các khẩu hiệu sôi nổi:

Freedom for Vietnam - Now, now, now,...
Down with the VC - Down, down, down,...
Human rights for Vietnam - Now, now, now,...

Vừa chấm dứt giây phút "khởi động" thì ông Lê Công, vị chủ tịch cộng đồng tiểu bang ACT đã giới thiệu với bà con đồng hương lá cờ đỏ "treo ngược" trên cột cờ chính ngay bên trong khuôn viên Tòa Đại Sứ CSVN. Liền lúc đó, trong đám đông có tiếng cười nói hả hê "Lá cờ mà treo ngược là ngày tàn của chế độ rồi,..."

Cờ máu treo ngược của đám việt gian csVN

Sau phần nghi lễ chào cờ Úc-Việt diễn ra đúng 12g trưa thì ông Nguyễn Thế Phong, vị chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do liên bang Úc Châu lên ngỏ lời chào đến tất cả đồng hương đến từ mọi miền của Úc. Ông vắn tắt giới thiệu "chủ đề" của cuộc biểu tình năm nay xoáy quanh vấn đề chủ quyền đất nước và quần đảo Hoàng-Trường Sa, và cũng cho đồng hương biết về cuộc sinh hoạt "đem tâm tình của tuổi trẻ VN" do Tổng Hội Sinh Viên VN Úc Châu tổ chức vào đêm hôm trước tại thủ đô Canberra.

Mở đầu phần phát biểu của các vị đại diện các tiểu bang, là phần trình bày của Luật sư Võ Trí Dũng chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tại tiểu bang NSW về những nguy cơ đánh phá cộng đồng của Nghị Quyết 36 và những vấn đề liên quan đến việc cho Trung Quốc khai thác Bauxite tại Tây Nguyên VN.

Tiếp theo, ông Lê Công lên chào đồng hương đến từ các thành phố của nước Úc. Ông cũng lập lại các tác hại đến môi sinh, môi trường từ việc CSVN cho phép Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên.

Liền đó âm thanh bài hát "Hoàng Trường Sa là của ta" của nhạc sĩ Trường Hải đã làm nức lòng đồng hương tham dự biểu tình.

Ông Nguyễn Thế Phong, trong cương vị đại diện cộng đồng tiểu bang Victoria, đã trở lại trình bày các thảm họa của "dân chúng VN dưới chế độ cộng sản trong cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay". Trong bối cảnh các nước tiên tiến đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng thì một nền kinh tế lệ thuộc vào xuất khẩu như VN càng khiến cho đời sống người dân càng thêm khốn đốn vì lạm phát tăng vọt trong khi phải đối diện với nạn thất nghiệp đang tăng cao. Trong khi đó nạn cường quyền ác bá, quan chức lộng hành cướp đất càng đẩy người dân vào chốn khốn cùng.

Ông Thế Phong kết thúc bài phát biểu bằng việc trích bài thơ "Người Cách Mạng" từ tập thơ Hoa Địa Ngục của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện:
....

Chúng thực tế là những tên đao phủ
Trăm lần tởm kinh hơn ác thú!
Đáng giận là còn có những cái đầu mê mụ
Cho lũ gian manh biến thành công cụ
Loại đầy tớ này chỉ một ngày nếu dân làm chủ
Sẽ đưa tất cả chúng về âm phủ!


Ông Nguyễn Thế Phong – chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do liên bang Úc Châu

Tiếp theo, bác sĩ Bùi Trọng Cường, vị chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang Queensland đã trình bày cùng đồng hương đề tài "CSVN là chư hầu không thể chối cải của Trung Cộng". Trước khi bắt đầu, ông đã mời đồng hương cùng đồng ca bài hát quen thuộc "Cái nhà của ta":

Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha làm ra.
Cháu con phải gìn giữ lấy, muôn năm với nước non nhà.


Bác sĩ Bùi Trọng Cường, chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang Queensland

Trong phần trình bày này, ông đã nêu ra mối đe dọa từ phương Bắc khi Trung Cộng thực hiện chiến thuật "tằm ăn dâu", lấn dần hải đảo, nay lại vào trong tận đất liền qua việc CSVN cho phép Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên

MC Quốc Dũng và Thanh Trúc

Tiếp tục chương trình, MC Thanh Trúc đã xuớng lên bài "Hồ Chí Minh, tội đồ dân tộc", trước khi mời ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, vị chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tiểu bang Nam Úc. Ông Lộc nêu lên vấn nạn "dân oan" và vấn đề đấu tranh liên quan đến vấn nạn này, cũng như kêu gọi đồng bào ở hải ngoại hãy hỗ trợ đồng bào trong nước trong công cuộc đấu tranh đòi lại công lý.

Để xen kẻ chương trình, MC Thanh Trúc đã giới thiệu tiếng hát của thế hệ tỵ nạn "3X" qua phần trình bày của cô bé 10 tuổi Khánh Vân và bạn trẻ Quốc An với nhạc phẩm "Đáp lời sông núi" của nhạc sĩ Trúc Hồ.

MC Thanh Trúc cũng giới thiệu đến đồng hương nhạc sĩ Dương Hải Linh đến từ Melbourne với nhạc phẩm tự sáng tác mang tên "Chúng con đã nghe"

Nhạc sĩ Dương Hải Linh và anh Quang

Vị đại diện cuối cùng là cô Hương Thủy, chủ tịch cộng đồng người Việt Tự Do tại thành phố Wollongong, đã lên án chế độ CSVN bán nước, đàn áp người dân.


Nguyễn Bá Vương đại diện Tổng hội Sinh Viên VN

Trong tinh thần "tre già măng mọc", Nguyễn Bá Vương đại diện Tổng hội Sinh Viên VN Úc Châu vắn tắt với đồng hương về chủ đề "Triệu trái tim hồng" của đêm sinh hoạt không ngủ vào tối thứ Bảy đêm trước tại Canberra.

Kết thúc cuộc biểu tình chị Bảo Khánh đã mời toàn thể đồng hương cùng đồng ca bài "Kẻ thù truyền kiếp vào tội đồ dân tộc" của nhạc sĩ Trường Hải.

Cuộc biểu tình chấm dứt đúng 1.30g chiều và đoàn biểu tình chuyển sang đài chiến sĩ trận vong Úc-Việt để đặt vòng hoa trước khi ra về trong cơn mưa gió lạnh của ngày đầu đông tại Canberra.

Ghi nhanh
Lê Minh - Canberra ngày 26/04/2009

---o0o---


Những hình ảnh thân thương tại cuộc biểu tình:


Bà cụ 94 tuổi đi cùng đàn con, cháu và chắt đến cuộc biểu tình


Cụ bà vẫy cờ cùng chiến sĩ Võ Đại Tôn


Ca sĩ tí hon Khánh Vân song ca cùng với bạn trẻ sinh viên Quốc An

Bài hát "Chúng con đã nghe" của nhạc sĩ Dương Hải Linh


Trích từ: http://lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=918:918&catid=39:sinhhoatcongdong&Itemid=58

34 NĂM SAU "GIẢI PHÓNG" - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Theo nghĩa thông thường, "giải phóng" là cởi trói, là thay đổi hoàn cảnh sống theo hướng làm cho đời người trở nên êm ả hơn, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, sau 30/04/1975, người Việt Nam, đặc biệt là những người sanh sống tại miền Nam Việt Nam trước 1975 ngày càng tỏ ra hoài nghi về ý nghĩa của hai chữ “giải phóng” do chế độ Hà Nội xử dụng.

Ngay giữa Saigon, đầu năm 1976, nhạc sĩ Trần Nhật Ngân là người đầu tiên đặt dấu hỏi về hồ sơ giải phóng. Dấu hỏi kia được gói ghém trong nhạc phẩm “Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh?”. Sau dấu hỏi của Trần Nhật Ngân, mọi người nhanh chóng nghiệm ra rằng: Đối với CSVN, “giải phóng” có nghĩa là cưởng bách nhân dân phải từ bỏ thiên đàng để nhảy xuống hỏa ngục. Bây giờ, 34 năm đã trôi qua, chúng ta có thừa bình tĩnh để suy nghĩ về “cơn đau giải phóng”. Sau đây là những tình huống “bị” giải phóng điển hình:

Nạn nhân đầu tiên của hành động giải phóng lại chính là con đẻ của Bắc Kinh và Hà Nội. Đó là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Thực vậy, sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hà Nội vội vàng “giải phóng” Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam. Nói cách khác Hà Nội đã giải tán MTGPMNVN không trống, không kèn, không một lời cảm ơn, không một lễ hạ cờ. Kế tiếp màn giải-phóng-Mặt-Trận-Giải-Phóng là sự việc hàng loạt cán bộ Hà Nội được tung ra để chiếm giữ vị trí lãnh đạo, đồng thời cũng là vị trí tham ô từ trong Nam ra tới ngoài Bắc, từ xã ấp lên tới trung ương. Đó là ý nghĩa của tình đồng chí giữa Cộng Sản Bắc và Cộng Sản Nam.

Bây giờ chúng ta hãy xét tới mối “liên hệ giải phóng” giữa đảng CSVN và đất nước Việt Nam. Đất nước ở đây gồm nhân dân và lãnh thổ.

“Giải phóng” nhân dân Việt Nam

Sau 1975, đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam, CSVN đánh các đòn giải phóng sau đây: giải phóng khỏi đời sống tự do để đưa vào những nhà tù khổ sai dưới mỹ danh “học tập cải tạo”. Giải phóng khỏi những ngôi nhà khang trang để “tự giác” tìm tới vùng kinh tế mới. Giải phóng khỏi quê hương thân yêu để trôi dạt tới những vùng đất tạm dung nằm rãi rác khắp năm châu. Người Việt sinh sống tại hải ngoại khỏang 3 triệu người. Người Việt gục ngã trên đường vượt biên khoảng 500 ngàn người. Từ 1975 cho tới 1985 những người vượt biên bị gọi là phản quốc, bị đẩy ra biển trong chương trình vượt biên bán chính thức, vượt biên bất chấp những an toàn tối thiểu của những chuyến đi biển … Mặc dầu bị đối xử tàn tệ như vừa kể, lòng yêu gia đình, yêu quê hương hối thúc người Việt hải ngoại gửi tiền về trong nước ngày càng nhiều. Khối tiền to lớn kia đã che khuất hai chữ “phản quốc”. Người Việt hải ngoại được Hà Nội xảo trá tặng cho danh hiệu “những khúc ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Rõ ràng là CSVN bất chấp liêm sĩ, sẳn sàng nói ngọt với người Việt hải ngoại chỉ để tiếp tục “giải phóng” túi tiền của những người trước kia đã bị CS ra tay hành hạ ở mức độ hiểm ác nhất. Đối với khúc- ruột- ngàn- dặm “moi tiền” là mục đích chính. Đối với đồng bào sống ngay tại quốc nội CSVN đã đối xử ra sao?

Trước tiên, hãy nói tới “Mẹ chiến sĩ”. Mẹ ở đây là những người đã dày công bảo bọc, che chở, tiếp tế cơm gạo cho đám cán binh Việt Cộng trong thời kỳ CSVN phải sống chui rúc ở hốc núi, hầm đất cùng đủ loại địa đạo … Ngày nay đám “con chiến sĩ” đã có quyền lực đầy mình, tiền bạc đầy túi. Thay vì đền đáp công ơn Trời Biển của Mẹ, đám con tai quái kia lại quay ra “giải phóng” nhà, “giải phóng” ruộng vườn của Mẹ và của vô số đồng bào khác. Công viêc giải phóng yêu ma kia đã tạo ra tại Việt Nam một giai cấp mới: giai cấp dân oan.

Giai cấp dân oan cộng với nông dân thất nghiệp phải chạy vào thành phố kiếm sống cộng với giới phụ nữ chấp nhận “lấy chồng ngoại” để có được cơm áo cho gia đình cộng với đông đảo nam nữ thanh niên sẳn sàng bán bắp thịt trong những chương trình “xuất khẩu lao nô” cộng với khối quần chúng lớn lao không có cơ hội đi học, không có nghề nghiệp chuyên môn… Các bài toán cộng vừa nêu dẫn tới nhận định rằng: hầu hết lực lượng lao động của xã hội Việt Nam ngày nay chỉ có thể là lao động chân tay. Lao động kiểu này gọi là lao động “tay làm, hàm nhai”. Lợi tức của “lao động tay làm hàm nhai” gọi là lợi tức cơm chim. Thế nhưng, ngày cả cơm chim của nhân dân cùng khổ cũng bị CSVN tận tình “giải phóng”. Thực vậy, thời gian gần đây, dưới danh nghĩa cờ bauxite và cờ công tác xây dựng, CSVN vừa miển thuế kinh doanh cho Trung Quốc, vừa mời gọi Trung Quốc tự do mang dân Tàu vào Việt Nam làm việc tại những nơi Trung Quốc trúng thầu, gọi là tụ điểm Tàu. Do được miễn thuế kinh doanh, Trung Quốc trở thành quốc gia độc quyền trúng thầu tại Việt Nam. Vì vậy, hiện nay từ Bắc chí Nam của lãnh thổ Việt Nam tràn ngập tụ điểm Tàu. Mỗi tụ điểm Tàu có trên dưới 2000 dân Tàu, hầu hết chuyên làm lao động tay chân. Đó là lý do giải thích tại sao giới lao động chân tay người Việt bị thất nghiệp và cơm chim của giới này đã bị người Tàu “giải phóng” với sự hổ trợ tích cực của nhà cầm quyền Hà Nội.

Như vậy là dạ dày của người dân đã trống rỗng. Liệu chừng có hay không hiện tượng rằng: bên trên cái dạ dày lép kẹp là quả tim và bộ óc hừng hực chống Tàu? Chính vì lo sợ lòng căm thù Tàu trong mỗi người Việt dâng cao, ngày 03/04/2009, chính phủ CSVN đã ký ban hành công văn số 1992/VPCP-QHQT cho phép thành lập học viện Khổng Tử tại Việt Nam. Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết hoc. Nó không là tư tưởng biện chứng. Nó bao gồm những bài học rời rạc của Khổng Tử. Những bài học rời rạc kia khi đi vào thực tiễn đời sống của người Trung Quốc, người đời nhìn ra ba trọng điểm:

Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao. Vợ con chỉ là những người phải tuyệt đối tuân lệnh gia trưởng. Trọng nam, khinh nữ là chân lý không cần chứng minh. Biết bao nhiêu tỷ phụ nữ đã chết vì “chân lý” quái ác vừa kể. Khổng Tử và đệ tử của Khổng không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào.

Trong xã hội quốc gia: Vua là tối cao. Vua nắm quyền sinh, sát toàn dân.

Trong bang giao quốc tế: Trung Quốc là nước vua. Những quốc gia chung quanh chỉ là nước tôi. Trung Quốc có toàn quyền tùy nghi bành trướng.

Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt Nam sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của Trung Quốc trên căn bản tư tưởng rằng: Trung quốc là nước vua, Việt Nam là nước tôi. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho Trung Quốc trong nổ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” TÍNH Việt và TÌNH Việt ra khỏi con người Việt Nam, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường. Thường ở đây là con người chấp nhận thân phận hèn mọn trước gia trưởng, trước Đức Vua và trước “Trung Quốc vĩ đại”.

“Giải phóng” lãnh thổ Việt Nam

Câu chuyện cơm chim bị giải phóng đi kèm với sự việc tính Việt và tình Việt bị giải phóng cho thấy: Con người Việt Nam đang bị CSVN ra sức giải phóng cả thể chất lẩn tinh thần. Từ đó, không cần tốn một viên đạn, người Tàu đã nghiểm nhiên tràn ngập lảnh thổ Việt Nam. Bây giờ hãy bàn tới biên giới và hải giới. Tất cả người Việt Nam đều còn nhớ năm 1999 và 2000 CSVN ký hiệp ước dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc. Từ đó hai hiệp ước kia, đặc biệt là bản đồ biên giới Việt Hoa bị CSVN triệt để dấu kín. Ngày 29/03/2009, trong Lời Kêu Gọi Bất Tuân Dân Sự, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quãng Độ yêu cầu chế độ Hà Nội hãy khai trình với Liên Hiệp Quốc thềm lục địa Việt Nam đúng theo đòi hỏi của luật biển 1982. Lời kêu gọi vừa nói có hậu ý tố cáo CSVN không dám lập hồ sơ khai trình bởi lẽ hầu hết thềm lục địa Việt Nam đã bị CSVN cống hiến cho Trung Quốc. Sự việc bản đồ biên giới bị dấu kín đi kèm với sự việc CSVN không dám làm thủ tục khai trình thềm lục địa cho thấy CSVN đã “giải phóng” đất đai và biển cả Việt Nam ra khỏi khối tài sản của tổ tiên để dâng cúng cho Trung quốc.

Nói tóm lại, sau 34 năm cướp quyền cai trị đất nước, cái gọi là công lao giải phóng dân tộc của chế độ Hà Nội bao gồm các điểm trọng yếu sau đây:

1. Giải phóng ba triệu đồng bào ra khỏi quê hương để sống cuộc đời tị nạn khắp năm châu.

2. Giải phóng “cơm chim” của tuyệt đa số nhân dân lao đông để mở đường cho nhiều vạn dân Tàu, lính Tàu vào Việt Nam kiếm sống bằng nghề lao động tay chân.

3. Giải phóng tính Việt, tình Việt ra khỏi tim óc Việt Nam để thay vào đó là tư tưởng Khổng với mục đích ngấm ngầm tạo hoàn cảnh tâm lý để người Việt Nam chấp nhận suy- nghĩ- kiểu- Tàu, sống- theo- trật- tự- Tàu. Trật tự gia trưởng. Trật tự trọng Nam, khinh Nữ. Trật tự vua tôi: vua là đảng, tôi là dân. Trật tự nước vua là Tàu, nước tôi là Việt.

4. Giải phóng đất Việt, biển Việt ra khỏi tầm tay Việt Nam để làm lễ vật triều cống cho vua Trung Quốc.

Bốn khối tội ác giải phóng kể trên đã biến đảng CSVN thành tên phản quốc lớn nhất trong thế giới của các loại phản quốc.

Đỗ Thái Nhiên