Tuesday, March 31, 2009

Rước Giặc Vào Tây Nguyên, Giầy Xéo Đất Nước - Trần Quốc Kháng

Trần Quốc Kháng

Cuối năm 2008, đảng giặc VC rước Tàu Cộng (TC) vào Tây Nguyên, nguỵ trang bằng cách ‘đeo mặt nạ’— qua màn kịch ‘Khai Thác Bô-Xít’ (KTBX). Đầu năm 2009, VC lại còn trâng tráo, làm lễ “Chào Mừng” việc cắm mốc biên giới Việt-Trung hoàn tất.

Thế là chúng đã ‘hợp thức hoá’ ải Nam Quan và thác Bản Giốc là của Tàu Cộng. Thế là chúng đã ‘hợp thức hoá’ mốc ‘biên giới ma’—thụt lùi vào nội địa VN khoảng năm cây số—là ‘biên giới chính thức’.

Khi nhìn ra biển Đông, muôn dân lại càng cảm thấy hận sầu: Hoàng Sa và Trường Sa đã mất vào tay TC. Sự việc xẩy ra chỉ vì, năm 1958 Thủ Tướng VC là Phạm Văn Đồng—đã nhận lệnh của quốc tặc Hồ Chí Minh—viết văn thư, công nhận lãnh hải của TC—trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Nên năm 1988, TC mới viện cớ ấy, công khai chiếm đóng Hoàng Sa để xây cất căn cứ quân sự kiên cố—kể cả sân bay—nhằm khống chế VN và vùng biển Đông.

Quả thật, sau khi dâng đất, dâng biển cho quan thầy, VC lại còn xô đẩy nước ta, càng ngày càng lún sâu vào ‘tử địa’ trong thế chiến lược “Ba Mặt Giáp Công’:

Ở phía bắc—dọc theo biên giới—TC đã nắm giữ các cao điểm quân sự, chúng có thể tiến quân như vũ bão vào VN. Ở phía đông, TC đã có sẵn phi trường và căn cứ hải quân hùng hậu, uy hiếp cả miền duyên hải Trung Phần. Còn ở giữa nước Việt thì TC dùng Tây Nguyên làm ‘bàn đạp’, CHẶT VN thành ‘hai khúc’, để tấn công lên hướng Bắc, hay đánh xuống hướng Nam.

Chính vì vậy mà ‘màn kịch KTBX’ hiện nay trở thành đề tài sôi nổi. Người thì quả quyết, TC sẽ biến Tây Nguyên thành ‘Tây Tạng thứ hai’. Kẻ thì tiên đoán, TC vào Tây Nguyên để ‘thành lập chiến khu’, giúp khối FULRO nổi loạn, đòi ‘Tây Nguyên tự trị’. Đồng thời, lại có nhận định cho rằng, TC vào Tây Nguyên để xây cất căn cứ quân sự—kể cả dàn phóng hoả tiễn—phòng thủ cho đại lục Trung Hoa khi có chiến tranh ở Á Châu.

Chúng tôi thì nhận thấy, thảm hoạ sau ‘màn kịch KTBX’, còn trầm trọng hơn thế nhiều. Trong tương lai không xa, nếu không có đột biến nào lật ngược tình thế, CẢ NƯỚC sẽ trở thành thuộc địa của ‘Thiên Triều Đỏ’ Bắc Kinh. Chỉ có điều khác biệt với thời đế quốc xa xưa là ‘Quan Thái Thú ĐỎ’—thời XHCN—mang nhãn hiệu “Cờ Máu Sao Vàng”.

Lẽ dễ hiểu là đảng giặc VC, giữ độc quyền lãnh đạo đất nước, mà chúng thường xuyên cúi đầu thần phục ‘Thiên Triều Đỏ’: Nước Việt sẽ đi về đâu?

Ngày xưa, sử sách nguyền rủa Lê Chiêu Thống ‘cõng rắn cắn gà nhà’ thì ngay nay, VC không thể nào tránh khỏi, đại khối quốc dân phỉ nhổ.

Có lẽ, trang sử ‘lưu xú vạn niên’ đậm nét nhất hiện nay là sự kiện xẩy ra ngày 23-2-2009. Như đã nêu ở phần trên: Đảng giặc VC đã trâng tráo, tổ chức lễ “Chào Mừng” việc cắm mốc biên giới Việt-Trung hoàn tất. Sự kiện Ô NHỤC này làm nhiều người liên tưởng đến chuyên Mạc Đăng Dung ngày xưa, tự trói mình rồi quỳ lậy tướng Tàu trong buổi lễ dâng đất cho Tàu.

Cúi Đầu Thần Phục ‘Thiên Triều Đỏ’

Nhìn lại quá trình lịch sử thì ai cũng thấy, từ 1945 đến nay, đối với đồng bào thì quốc tặc Hồ Chí Minh và đồng đảng hung bạo, thường xuyên lừa bịp, tráo trở và xảo quyệt khôn lường. Ngược lại, đối với quan thầy Nga-Tàu thì VC khiếp nhược, thường xuyên cúi đầu. Sau khi mẫu quốc Nga Cộng xụp đổ thì lẽ đương nhiên, VC cúi đầu thần phục TC. Nếu không thì TC lại “dậy cho bài học” lần thứ 2—tương tự như cuộc chiến đẫm máu năm 1979.

Là chư hầu thần phục ‘Thiên Triều Đỏ’ nên ‘Nhà Nưóc VC’ đã thẳng tay đàn áp, bắt giam, tra tấn, truy lùng các thanh niên yêu nước trong cuộc biểu tình ôn hòa ngày 9-12-2007—chống TC xâm chiếm Hoàng Sa. Vì nhiệt tâm, biểu lộ ý chí bảo vệ Tổ Quốc VN, nên nhiều thanh niên trở thành nạn nhân của đảng giặc VC. Như vậy, ‘Nhà Nước VC’ đứng về bên nào chiến tuyến? Thờ Vua Hùng, hay ‘thờ Mao chủ tịch’?

Trong khi đó, VC lại còn cúi đầu nhận lệnh TC, mở cửa biên giới, cho TC được quyền ra vào VN— tự do đi khắp nơi như trên đất Tàu—không cần chiếu khán. Thế là gián điệp và công an TC tha hồ vào VN. Chúng tung tiền ra mua tay sai, thành lập ‘mật khu’, củng cố mạng lưới nội tuyến, ‘nằm vùng’ trong hệ thống cai trị của đảng giặc VC.

Hiện nay TC có khoảng 20 triệu người thất nghiệp. Nếu cần, TC có thể đặt kế hoạch, trả lương cho vài trăm ngàn thanh niên, từng nhóm đi đến các tỉnh miền Tây Nam Phần.

Thế rồi, ‘có tiền mua tiên cũng được’. Chúng sẽ hối lộ công an VC, tìm vợ đẹp, xây nhà, quy tụ với nhau thành làng, thành xóm, sinh sôi nẩy nở. Khoảng chừng 5 năm sau, từ Tây Nguyên đến Tây Ðô—vùng đồng bằng sông Cửu Long—sẽ có hàng trăm khu phố, hay cả ngàn “làng Tàu Đỏ’. Khi cần, khối Tàu Đỏ trên đất Việt này sẽ ‘đồng khởi’, nổi lên đòi ‘độc lập’ theo lệnh của ‘Thiên Triều’ Bắc Kinh—nội thù của dân tộc Trung Hoa, ngoại thù của dân tộc VN.

Hiện thời thì trên mạng lưới Internet có tài liệu cho hay, hệ thống cai trị của bạo quyền VC, kể cả Công An, Bộ Đội và Bộ Chính Trị, đều có ‘bàn tay nói dài’ của TC. Mặc dù mức độ khả tín của tài liệu ấy, chưa kiểm chứng được. Nhưng hiện nay, ai cũng thấy, từ Bắc vào Nam, có nhiều chuyện ‘quái đản’ xẩy ra liên tiếp:

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm cuộc chiến 1979, nhiều tác phẩm của TC, như cuốn “Ma Chiến Hữu” chẳng hạn, được phổ biến công khai, khắp nơi trong nước—với nội dung ca tụng ‘công đức’, tài năng và tinh thần chiến đấu của tướng lãnh và binh sĩ TC. Nếu VC không cúi đầu thì ai có thể công khai, phát hành rầm rộ các tác phẩm ‘phản động’ như thế?

Hơn nữa, tất cả “Uỷ Ban Nhân Dân” ở các tỉnh biên giới Việt-Hoa còn nhận lệnh trung ương đảng VC, cử phái đoàn đại diện đến thăm viếng các nghĩa trang của binh sĩ TC tử trận năm 1979—với vòng hoa có hàng chữ “Đời Đời Nhớ Ơn Các Liệt Sĩ Trung Quốc’!

‘Các Liệt Sĩ’ ấy là ai? Là cán binh TC tràn vào các tỉnh ở biên giới, tàn phá nhà cửa, chém giết đồng bào VN, kể cả trẻ thơ và phụ nữ mang thai, vô cùng dã man tàn ác—đâm bằng lưỡi lê, đập bể sọ bằng báng súng, nghiền nát thân thể người Việt bằng xích sắt xe tăng.

Chuyện quái đản—“nhớ ơn liệt sĩ” TC—nêu trên chứng tỏ, VC đã đứng về phía chiến tuyến của giặc ngoại xâm. Không những VC PHẢN BỘI đồng bào mà còn PHẢN BỘI NGAY CẢ CÁC ‘ĐỒNG CHÍ BỘI ĐỘI’ của chúng trong cuộc chiến 1979.

Thế mà ngày 4-3-09 vừa qua, Ban Thường Vụ của Mặt Trận Tổ Quốc VC lại còn DIỄN KỊCH, phối hợp với Quân Chủng Hải Quân VC, tung ra “biện pháp tuyên truyền về biển, đảo tới các tầng lớp nhân dân”.

Làm sao, chúng có thể bịp bợm quần chúng được nữa? Vì sự kiện lịch sử—buôn dân bán nước—rõ như ban ngày. Chúng không thể xoa dịu lòng uất hận của muôn dân. Chúng không thể chạy tội cho ‘Bác và Đảng’ được.

Trở lại việc KTBX ở Tây Nguyên thì vấn đề được nêu lên: Tại sao ‘Nhà Nước VC’ lại ban hành Văn Thư số 17/TB-VPCP, cấm các cơ quan truyền thông, không được loan tin về việc ấy?

Việc KTBX, nếu thuần tuý nằm trong lãnh vực kinh tế—không dính líu đến AN NINH QUỐC PHÒNG—thì có điều gì mà cấm loan tin? Tại sao công an VC lại ngăn chặn, tất cả các ngả đường dẫn đến thị xã Nhân Cơ—trung tâm KTBX? Ắt hẳn, có điều GIAN TRÁ, BÍ ẨN ở phía sau.

‘Màn Kịch Bô-Xít’ Tây Nguyên

“Khai thác bô-xít Tây nguyên là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đã được nêu trong Nghị quyết đại hội X của Đảng, Bộ Chính trị đã ba lần nghe, kết luận về việc phát triển bô-xít Tây nguyên”.

Đó là điều khẳng định của Thủ Tướng VC Nguyễn Tấn Dũng ngày 4/2/2009. Qua mạng lưới Internet, chúng tôi nhận thấy, phía báo chí ủng hộ Nhà Nước VC thì cho rằng “việc KTBX có ích lợi về Kinh Tế. Còn thiệt hại về môi trường thì rất nhỏ, có thể khống chế được”.

Hiển nhiên, đó là ‘nhận định’ “theo định hướng XHCN”. Nên không có bài viết ủng hộ việc KTBX mà nêu lên được những dữ kiện chính xác.

Ngược lại, bài viết phản đối thì nhiều, độ khả tín lại cao. Tựu trung cho thấy việc KTBX KHÔNG CÓ ích lợi về Kinh Tế, mà còn gây thiệt hại RẤT TRẦM TRỌNG cho môi sinh. Nhất là không khí ‘ô nhiễm chất Bô-Xít’, sẽ làm cho dân chúng bị ung thư phổi. Nhiều khoa học gia còn quả quyết, việc KTBX, không những làm cho rừng núi và đất đai phì nhiêu vùng Tây Nguyên bị huỷ hoại, mà độc hại môi sinh còn lan tràn xuống tận đồng bằng sông Cửu Long.

Điển hình là cuộc phỏng vấn Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết—Chủ Tịch Hội Khoa Học Kỹ Thuật VN ở hải ngoại—do đài RFA thực hiện ngày 5-3-2009. Ông Truyết đã nêu nhận định trung thực về việc KTBX:

‘.....Chúng tôi thấy hoàn toàn không có hiệu quả kinh tế. Lý do là hiện nay khu Nhân Cơ và Đắc-Nông là hai khu trồng tiêu và cà phê, đây là hai nguồn lợi rất lớn’.

Tác giả còn dẫn chúng cho biết, 1 hecta đất dùng để trông cây thì đem lại nguồn lợi từ 2 đến 3 ngàn Đô-La. Trong khi lấy Bô-Xít từ 4 hecta, chỉ biến chế được 2 tấn nhôm, mỗi tấn chỉ trị giá khoảng 3, 4 trăm Đô-La mà thôi.

Hơn nữa, về môi sinh, về dân sự, về chính trị và văn hóa, sẽ phải gánh chịu hậu quả tai hại trầm trọng về lâu về dài.

‘….Vùng Tây Nguyên là vùng đất trước kia là vùng núi lửa cách đây hàng triệu năm, do đó vùng đất này gọi là đất bazan (đất đỏ) rất tốt cho việc trồng cao su, trà, cà phê…’

Đó là lời phản bác phía ‘Khoa Học Gia VẸM’, cho rằng ‘đất Tây Nguyên không tốt cho cây cỏ’.

Ngoài ra, muốn sản xuất khoảng 1, 2 triệu tấn nhôm hàng năm thì phải cần khối nước khổng lồ và điện lực—gấp đôi lượng điện VN hiện nay. Như vậy thì làm sao việc KTBX tiến hành được?

Ở trong nước, nổi nhất là ‘thư ngỏ’ của Đại Tướng VC Võ Nguyên Giáp—gởi cho Nguyễn Tấn Dũng. Trong đó có đoạn, Giáp đã viết nguyên văn:

“Cần nhắc lại rằng….. Sau khảo sát đánh giá hiệu quả tổng hợp của các chuyên gia Liên Xô, khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây Nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng….”

… “Chính phủ khi đó đã quyết định không khai thác bô-xít mà gìn giữ thảm rừng và phát triển cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè...) trên Tây Nguyên...”.

‘….Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng’.

Đúc kết việc KTBX, ai cũng thấy chỉ có lợi cho TC. Còn VN thì phải chịu thảm hoạ lâu dài, rõ ràng nhất là lãnh vực AN NINH QUỐC PHÒNG.

Vì Tây Nguyên là địa điểm CHIẾN LUỢC vô cùng quan trọng—nằm gần ngã ba biên giới Việt-Miên-Lào. Trong thời chiến tranh VN (1946-1975), các tướng lãnh Tàu Cộng, VC, VNCH, Pháp và Mỹ đều chú tâm vào việc kiểm soát Tây Nguyên. Phía nào nắm được Tây Nguyên thì phía ấy dễ dàng khống chế được các tỉnh miền duyên hải Trung Phần và miền đồng bằng sông Cửu Long. Nếu làm được như vậy thì Sài Gòn sẽ bị cô lập, hoặc sa vào tử địa ‘tứ bề thọ địch’.

Sự thật này đã xẩy ra năm 1975. Vì thiếu vũ khí—không đủ sức giữ được vùng Tây Nguyên—Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hấp tấp ban lệnh cho Quân Đoàn II, triệt thoái khỏi Pleiku. Lầm lỗi trầm trọng này đã mở đường cho CSVN tiến quân như vũ bão vào Thủ Đô Sài Gòn hồi ‘Tháng Tư Đen’ 1975.

Chắc chắn, đảng giặc VC thừa biết vị thế chiến lược quan trọng như vậy. Nhưng chúng vẫn CÚI ĐẦU, rước giặc vào Tây Nguyên, nguỵ trang màn kịch ‘Khai Thác Bô-Xít’.

Chỉ vì lo ngại sự thật bị phanh phui, nên VC mới cấm báo chí loan tin, hay bình luận về việc KTBX ở Tây Nguyên. Không những thế, trước hiểm họa xâm thực của TC, văn công VC lại còn tung ra những lập luận hồ đồ—nhằm chay tội cho ‘bác Hồ’ quốc tặc.

Hiểm Hoạ TC Xâm Thực Khởi Sự Từ Năm Nào?

‘VN bị hiểm họa bành trướng của Trung Quốc đe doạ chỉ vì vài ba đảng viên cao cấp thoái hoá gây ra—như Lê Khả Phiêu trúng ‘Mỹ Nhân Kế’. Còn ‘bác Hồ’ khi xưa, rất sáng suốt, nên đã ngăn chặn được nhiều áp lực từ phía Trung Quốc’.

Đó là phần tóm lược nhiều bài viết ‘theo định hướng XHCN’. Nhưng sự thật, hiểm họa xâm thực của TC, khởi sự năm 1950. Mao Trạch Đông đã từng ban lệnh cho thuộc cấp, vẽ lại bản đồ TC—trong đó có VN và nhiều nước khác.

Vì thế, Mao mới tỏ ‘tình đồng chí thắm thiết’ với Hồ Chí Minh. Nào là gởi cố vấn sang VN, chỉ huy các đơn vị bộ đội VC. Nào là gởi ‘chí nguyện quân’, trực tiếp tham chiến ở Điện Biên Phủ. Nào là cũng cấp vũ khí, quân trang quân dụng trên khắp chiến trường. Nhờ vậy, trong cuộc chiến chống Pháp, bội đội VC mới chuyển bại thành thắng kể từ đầu thập niên 1950.

Hồi ấy, chính Hồ đã hớn hở, đón tiếp hai đoàn cố vấn do La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cầm đầu. Ngoài việc huấn luyện và chỉ huy bộ đội VC, phái đoàn cố vấn TC còn có trách nhiệm ‘Toàn Quyền Đông Dương’—do Mao giao phó để thực hiện quỷ kế xâm thực ba nước Việt, Miên, Lào.

Đại Tá VC là Bùi Tín—mặc dù trá hàng—nhưng khi viết hồi ký cũng phải nhìn nhận: Chính hắn đã từng chứng kiến trong buổi họp, quan thầy TC hách dịch, ngồi gác chân lên ghế, khạc nhổ trước mặt chủ tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cao cấp VC!

Gần đây, trên trang nhà của ‘đàn chim VẸM’ có bài “Chống diễn biến hoà bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc”, tác giả là Bùi Minh Quốc (BMQ)—viết ngày 30-12-08.

Mặc dù, bài viết có chủ ý, vừa chạy tội, vừa đánh bóng “bác Hồ” quốc tặc. Nhưng ‘thiên bất dung gian’, nên BMQ sa vào tình trạng ‘dấu đầu hở đuôi’. Chứng cớ rõ ràng nhất là đoạn, BMQ viết về thảm họa đấu tố (1952-1956)—với chủ ý đổ lỗi cho cố vấn Tàu Cộng, nhằm chạy tội cho “bác Hồ” quốc tặc:

“Nhưng đến cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức với cả một hệ thống cố vấn Trung Quốc từ trung ương tới địa phương kèm sát các đoàn ủy của ta thì mưu đồ nham hiểm bất thành nêu trên đã thành công ở qui mô chưa từng thấy, dưới một hình thái bi thảm chưa từng thấy: Đảng ta tự đưa mình vào cảnh dùng tay nọ chặt tay kia. Hàng nghìn cán bộ đảng viên, hầu hết là những người tận tụy nhất, trung kiên nhất, hy sinh nhất, những người con ưu tú nhất của Đảng, của dân tộc bị giết, bị hành hạ, tù đầy, số sống sót thì bị vô hiệu hóa. Hàng vạn người dân lương thiện, trong đó nhiều người là ân nhân của cách mạng và kháng chiến cũng chịu cảnh tương tự. Tổn thất này vượt ngàn lần so với những tổn thất do thực dân đế quốc gây ra, cùng những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt, nhất là về chính trị và văn hóa”.

Chúng ta thử hỏi, nếu không phải là Hồ quốc tặc thì kẻ nào ‘cõng rắn gà nhà’—đã ‘nhất trí với Mao chủ tịch’, hớn hở đón tiếp cố vấn TC vào VN? Hồi ấy, ai là chủ tịch Nhà Nước—đã ban hành và chịu trách nhiệm về chính sách “Cải Cách Ruộng Đất”?

Chỉ cần cô động về tội ác trong thời kỳ đấu tố mà BMQ thuật lại như trên, ai cũng cảm thấy GHÊ TỞM quốc tặc Hồ Chí Minh:

Vì Hồ là kẻ bất nhân với đồng bào—cho đồng đảng chém giết, hành hạ, tù đầy “hàng vạn người dân lương thiện”.

Vì Hồ là kẻ bất nghĩa—cho đồng đảng chém giết, hành hạ, tù đầy hàng nghìn đảng viên “tận tụy nhất, trung kiên nhất, hy sinh nhất”.

Vì Hồ là kẻ tội đồ, đã mang Mác-Lênin từ Liên-Xô về VN, giầy xéo đất nước—“vượt ngàn lần so với những tổn thất do thực dân đế quốc gây ra, cùng những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt, nhất là về chính trị và văn hóa”.

Phải chăng, đó là ‘đỉnh cao trí tuệ’ của Hồ mà BMQ muốn đánh bóng? Hay là‘đỉnh cao chói lọi’ của Hồ trong tác phẩm mà Dương Thu Hương muốn lừa bịp độc giả?

Hàng chục năm đã trôi qua. Nhưng “những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt” vẫn còn tiếp tục hoành hành trên hai miền nam Bắc VN:

Quốc nạn tham nhũng, quốc nạn mãi dâm, quốc nạn dân oan, quốc nạn nhân quyền bị chà đạp. Trong khi cán bộ VC ‘ăn chơi phè phỡn’ thì đại khối dân chúng nghèo khổ, luân thường đạo lý trong XHCN bị tàn phá tận gốc rễ—kể từ khi chiến dịch đấu tố lan tràn, con tố khổ cha, vợ bôi nhọ chồng, họ hàng và bạn hữu chiếm giết lẫn nhau.

Tiếp theo, “hệ luỵ tại hại” gần gũi nhất là sự kiện lịch sử CÚI ĐẦU khiếp nhược, thần phục ‘Thiên Triều Đỏ’, dâng ải Nam Quan, dâng Thác Bản Giốc, dâng Trường Sa, dâng Hoàng Sa, rồi lại còn rước giặc vào chiếm Tây Nguyên—nguỵ trang bằng màn kịch KTBX.

Tuy nhiên, trước hiểm hoạ xâm thực của TC hiện nay, đại khối quốc dân—trong và ngoài nước—có thể ‘ĐOÀN KẾT’ dưới lá cờ Máu Sao Vàng của đảng giặc VC để chống lại TC được không?

Nên Hay Không Nên ‘Đoàn Kết’ Với VC?

Như đã chứng minh ở phần trên, VC là tay sai tận tuỵ của Tàu Cộng—trong quỷ kế xâm thực VN. Vậy thì hiển nhiên, ‘đoàn kết’ với VC chỉ có nghĩa là ĐỒNG LO×cùng với chúng, cúi đầu bái phục ‘Thiên Triều Đỏ’.

Trong 30 năm lịch sử (1945-1975), có nhiều bài học về ‘Quốc Cộng Đoàn Kết’. Nhưng có lẽ, đậm nét nhất là ‘Chính Phủ Liên Hiệp’ ngày 2-3-1946: Hồ Chí Minh là Chủ Tịch; Nguyễn Hải Thần là Phó CT; Nguyễn Tường Tam là Ngoại Trưởng; Cựu Hoàng Bảo Đại là Cố Vấn Tối Cao.

Nhiều bậc cao niên còn nhớ, trước đó khoảng 2 tháng, có bản “Tuyên Cáo Đoàn Kết’, được phổ biến ngày 24-12-1945. Trong đó, Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần cùng ký tên—đại diện cho Việt Minh, VN Quốc Dân Đảng và Cách Mạng Đồng Minh Hội—kêu gọi tình đoàn kết để cùng nhau tranh đấu, giành lại Ðộc Lập cho Tổ Quốc.

Thế rồi, trong khi các đảng Quốc Gia từ hải ngoại hưởng ứng, rủ nhau về nước thì Hồ bí mật ra lệnh cho đồng đảng khủng bố, chém giết tại chỗ, hay bắt mang đi thủ tiêu, tất cả lãnh tụ và đảng viên—có huynh hướng Quốc Gia—đang hoạt động ở trong nước. Nhiều nhà cách mạng như Trương Tử Anh (Đại Việt); văn sĩ Khái Hưng (Quốc Dân Đảng); Lý Đông A (Duy Dân) và Tạ Thu Thâu (Đệ Tứ Quốc Tế CS) v.v đã bị Hồ thủ tiêu.

Đồng thời, đảng giặc VC còn công khai tấn công, phá huỷ các căn cứ của Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Tổng kết, có hàng chục ngàn chiến sĩ Quốc Gia bị VC sát hại.

Đến khi biết được mặt thật—tráo trở, bất nhân, bất nghĩa và xảo quyệt khôn lường—của Hồ Chí Minh thì các lãnh tụ của các đảng phái Quốc Gia—còn sống sót—kể cả thành phần trong Chính Phủ Liên Hiệp, như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh, đều phải vượt biên, trốn sang Hoa Nam tỵ nạn. Dĩ nhiên, ‘Chính Phủ Liên Hiệp’ tự động giải tán trong tháng 5-1946.

Quả thật, kinh nghiệm xương máu của các thế hệ Cha Anh—qua bài học lịch sử nêu trên—thêm lẫn nữa cho thấy: Chỉ có kẻ mắc bệnh TÂM THẦN, hoặc vài tổ chức chính trị XÔI THỊT—cấu kết với nhóm “Việt Kiều’ PHẢN PHÚC và CÒ MỒI thì mới có thể ‘đoàn kết’, hợp tác, hay “hoà hợp hoà giải’ đảng giặc VC.

San Jose 29-3-2009
Trần Quốc Kháng



Monday, March 30, 2009

Giáo hội Công Giáo và Căn Bệnh Thế Kỷ - Kim Nguyên

Kim Nguyên

Trong mấy tuần lễ vừa qua, những luồng dư luận chỉ trích, phê phán Đức Giáo Hoàng Benedic 16 nổi lên dữ dội khắp nơi: từ những chính trị gia, giới dân cử cho đến những cá nhân hay tổ chức độc lập. Người ta dùng mọi phương cách để chỉ trích, chống đối, thậm chí lăng mạ ngài. Người ta thu thập chữ ký trên mạng, tồ chức hội thảo, biểu tình chống đối. ... Có những người còn đòi hỏi chính phủ, bộ ngoại giao nước họ phải có thái độ rõ ràng, phải có những biện pháp “trừng phạt” đối với ĐGH và Vatican vì một lời phát biểu “không thể chấp nhận được” của vị chủ chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ trong chuyến viếng thăm Phi Châu vào giữa tháng 03/2009.

Đức Giáo Hoàng đã phát biểu: “Bao cao su (condom) không phải là giải pháp cho bệnh AIDS, thậm chí nó còn có thể làm cho sự việc trở nên nghiêm trọng hơn ...”. ĐGH đã nói ra điều này bằng một ý thức, một lập trường rõ rệt, ngài không nói ra điều này trong một cơn cao hứng, bốc đồng. Thật ra, lập trường này không có gì mới lạ. Vatican xưa nay vẫn có lập trường không tán thành việc dùng bao cao su như một phương pháp chống căn bệnh thế kỷ này. Tuy nhiên, sự chống đối trong quá khứ chưa bao giờ mãnh liệt và có hệ thống như lần này.

Quan điểm bảo vệ luân lý xưa nay luôn luôn gặp sự chống đối của trường phái vô thần và trường phái chủ trương thụ hưởng, phải tận dụng cuộc đời ngắn ngủi này bằng cách tận hưởng những thú vui xác thịt cùng tất cả những lạc thú bao lâu còn hưởng được, bất chấp những giá trị đạo đức. Khi nào số người chủ trương hưởng thụ càng đông thì những người chủ trương bảo vệ những giá trị luân lý càng trở nên cô thế và càng bị tấn công mạnh mẽ hơn, và điều đó hình như đang đúng trong xã hội chúng ta sống hôm nay.

Khi người ta nhìn một sự việc qua hai lăng kính khác nhau thì việc đưa đến những kết luận khác nhau là chuyện bình thường: người chủ trương sống buông thả coi nhẹ những giá trị đạo đức làm sao có cùng cái nhìn với người dám bảo vệ và duy trì những giá trị đạo đức bằng mọi giá. Thế nhưng người ta không chịu tìm hiểu tường tận những lý lẽ gói ghém trong thông điệp của ĐGH, người ta chỉ biết khi cái chủ trương thụ hưởng của mình bị động chạm là liền lớn tiếng “cả vú lấp miệng em” bằng tất cả những phương tiện mình có được và bằng mọi phương pháp có thể vận dụng được.

Làm sao mà Giáo Hội Công Giáo có thể tán thành và cổ võ việc dùng túi cao su để ngừa AIDS. Làm như vậy đồng nghĩa với việc cổ võ tín hữu của mình tự do hưởng thụ thú vui xác thịt một cách bừa bãi và vô trách nhiệm. Không ít người đòi hỏi GH phải làm một cuộc “cách mạng”, phải “vào đời” , phải “cấp tiến” bằng cách chấp nhận những điều trái ngược với truyền thống , giá trị luân lý cốt lõi của đạo Công Giáo, được rao giảng bởi chính Đức Kitô. Nếu không làm như vậy thì bị họ lên án là “bảo thủ“, là “lạc hậu”. Điều khá khôi hài là đại đa số những người lớn tiếng nhất, ồn ào nhất lại là những người không hề chia sẻ cuộc sống của giáo hội, họ thường là những người không bao giờ đến nhà thờ, hoặc chỉ đến nhà thờ trong những dịp “quan hôn tang tế” hiếm hoi !.

Trở lại lời phát biểu của ĐGH Benedic 16, theo thiển ý, nếu tin rằng căn bệnh AIDS là sự cảnh báo của Thượng Đế đối với lối sống sa đọa, trụy lạc của con người trong xã hội hôm nay thì việc phát bao cao su để tiếp tuc đi sâu hơn vào cuộc sống trụy lạc ấy chắc chắn không phải là cách giải quyết, đúng như lời Đức Giáo Hoàng nói. Tại sao bệnh AIDS lại lan tràn một cách nhanh chóng như vậy? Câu trả lời ai cũng có thể tìm thấy không khó: vì người ta xem việc quan hệ tính dục là một trò chơi, một thú vui và cứ miệt mài lăn xả vào như con thiêu thân, không cần quan tâm tới những nguyên tắc luân lý, đạo đức. Người ta có thể đưa nhau vào nhà nghỉ thật dễ dàng chỉ sau một lần gặp gỡ, sau vài câu chuyện qua lại. Người ta có thể thực hiện quan hệ tính dục với thật nhiều người, người ta có thể làm công việc trao đổi vợ chồng một cách hết sức thoải mái, vô tư, như trao đổi những món đồ dùng .... Người ta không còn trân trọng thân xác của mình nữa. Những người thích cuộc sống lang chạ như vậy họ sử dụng bao cao su để có thể an tâm lao vào con đường sa đọa ấy. Đối với những người biết tiết chế, có quan hệ tính dục lành mạnh họ không có nhu cầu dùng bao cao su để chống AIDS. Bởi vậy, phát bao cao su, khuyến khích người ta “mang bùa” rồi thoải mái lao vào vòng trụy lạc mà không cần tiết chế rõ ràng không phải là cách giải quyết tận gốc mà còn làm cho sự việc nghiêm trọng hơn. Ai dám bảo đảm rằng dùng bao cao su là có thể tránh được AIDS 100% ? vi trùng AIDS có thể xâm nhập vào cơ thể bằng nhiều lối khác nhau. Bạn cứ mang bao cao su và chung đụng với thật nhiều người, “đi đêm có ngày gặp ma”, khả năng mắc bệnh của bạn sẽ cao gấp trăm lần những người có cuộc sống lành mạnh, biết tiết chế. Bởi vậy giải pháp cho bệnh AIDS là sự giáo dục, là sự phục hồi những giá trị đạo đức. Biết rằng không phải dễ dàng để thay đổi quan niệm sống. Nhưng vấn đề là các chính phủ, những người có trách nhiệm xã hội hầu như KHÔNG HỀ nhắm tới hướng này mà chỉ nhằm tới việc phân phát bao cao su và tin tưởng rằng đó là giải pháp cho căn bệnh thời đại này, điều đó sai! Là người lãnh đạo tinh thần, là vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo toàn cầu, Đức Giáo Hoàng phải có tiếng nói rõ ràng. Ngài không thể im lặng cho dù biết rằng nói ra sẽ bị chống đối dữ dội.

Hãy nhìn tất cả các loài động vật trên trái đất này. Đối với chúng, mục đích duy nhất của hành động giao cấu là gì nếu không phải là truyền sinh? Riêng với con người, ngoài mục đích truyền sinh, Thượng đế ban cho một ân huệ, cũng có thể nói là một món quà, đó là sự khoái lạc. Đồng thời Thượng đế cũng ban cho con người lý trí và sự tự do để biết phân biệt, phán đoán và lựa chọn .... Càng ngày, người ta càng có khuynh hướng coi nhẹ (và đang bỏ qua hẳn) cái mục đích chính mà chỉ còn biết đến “món quà” kia mà thôi. Làm như vậy có phải là con người đang phụ tấm lòng của đấng có nhã ý tặng cho ta “món quà“ kia không ? Những ý tưởng này tôi muốn chia sẻ với những ai còn niềm tin vào đấng tạo hóa.

Đức Giáo Hoàng Benedic 16 từng viết trong quyển “Muối cho đời” rằng: "...... Tôi nghe vang vọng bên tai những lời của thánh kinh và của các giáo phụ kết án rất nghiêm khắc những mục tử làm chó câm để tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Tìm yên ổn không phải là bổn phận hàng đầu của công dân; tôi ghê sợ hình ảnh một giám mục chỉ lo an phận và tìm hết cách che đậy và né tránh mọi thứ xung đột ... ”. Ngài đã tâm niệm như vậy và Ngài đang thực hiện điều đó, cho dù gặp phải biết bao phiền toái, chống đối, lăng mạ từ khắp nơi.

Nguyện xin Thiên Chúa gìn giữ và ban sức mạnh cho đấng kế vị thánh Phê Rô để ngài luôn vững vàng trước những cơn sóng dữ.

Nguyện xin thánh cả Giuse, Đấng bảo trợ giáo hội và cũng là thánh bổn mạng của Đức Thánh Cha phù trợ, dẫn dắt vị chủ chăn của chúng con và gìn giữ Giáo Hội, hiền thê của Đức Kytô vượt qua những âm mưu bách hại đến từ khắp nơi, dưới mọi hình thức.

Brussels, Mùa Chay - tháng Thánh Giuse - năm 2009
Kim Nguyên

Đại lão HT Thích Quảng Độ kêu gọi đồng bào biểu tình tại gia suốt tháng 5

Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste

Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax: Paris (331) 45 98 32 61 -
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net
    THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 30.3.2009
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ kêu gọi Đồng bào các giới trong nước Bất tuân dân sự - Biểu tình tại gia suốt tháng 5 để yêu sách bãi bỏ khai thác quặng bô-xít Tây nguyên gây đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng.

PARIS, ngày 30.3.2009 (PTTPGQT) - Sáng nay Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế “Lời Kêu gọi Một Tháng Biểu tình Tại gia” để phổ biến đến các cơ quan truyền thông, báo chí cùng đồng bào các giới mong được sự hưởng ứng trước nguy cơ đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng nơi yết hầu quân sự Tây nguyên.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo), Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cất lên lời kêu gọi. Bởi vì theo nhận định của Hòa thượng, hiện nay “lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam”. Nên hy vọng cuối cùng của Hòa thượng là “CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN”.

Hòa thượng kêu gọi tháng Tư này xin đồng bào các giới chuẩn bị lương thực để có thể thực hiện suốt tháng 5.2009 làm tháng “Bất tuân dân sự” biểu dương bằng cuộc “Biểu tình Tại gia” : “Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường”. Sống dưới chế độ độc tài toàn trị, mọi tự do cơ bản đều bị tiêu hủy, đặc biệt tự do ngôn luận, tự do biểu tình. Công an là thế lực đàn áp và bắt bớ Người Biểu tình. Cho nên đối sách là Biểu tình tại chỗ, trong nhà mình, thì cuộc bắt bớ không thể thực hiện.

Với người Việt hải ngoại, Hòa thượng kêu gọi “đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả”.

Với các cơ quan truyền thông, báo chí Hòa thượng kêu gọi xin “giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước”.

Lời kêu gọi trình bày chi tiết đầy đủ về đại nạn sinh thái gây ra do việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên. Nhất là “công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long”. Điều trầm trọng hơn nữa, theo lời Hòa thượng, là “nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam”.

Lời kêu gọi thống thiết của Hòa thượng Thích Quảng Độ là: “Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…”

Mục tiêu của Tháng 5 Bất tuân dân sự - Biểu tình Tại gia, nhắm đạt 3 mục tiêu:

1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.

“Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.

2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.

Chúng tôi xin đăng tải toàn văn Lời Kêu Gọi Một Tháng Biểu Tình Tại Gia như sau:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon
---------------------------------------------------------
Phật lịch 2552 Số 03 /VHĐ/VT
    LỜI KÊU GỌI MỘT THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA
    để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi Nhôm nước ngoài
Bất chấp những lời báo động hiểm nguy của các chuyên gia, trí thức về việc khai thác quặng bô-xit ở Tây nguyên, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn một mực tiến hành việc lựa chọn nhà thầu Trung quốc vào Tây nguyên khi khẳng định : “Khai thác bô-xít Tây nguyên là chủ trương của Đảng nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X”, nghĩa là từ năm 2006.

Đảng quyết định. Nhưng toàn dân thì sao ?

Toàn dân thông qua ý kiến của các giới chuyên gia, trí thức, học giả… đưa lên báo chí, truyền thông, Internet đều báo động rằng khai thác bô-xít sẽ hủy diệt mầu xanh rừng Tây nguyên, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quét sẽ xẩy ra nhiều hơn, đồng thời ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu ở miền Nam Trung bộ, Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Saigon. Từ nghìn xưa, mầu xanh rừng Tây nguyên bảo vệ cho việc tích trữ nước trong lòng đất, lọc không khí và điều hòa nhiệt độ toàn vùng. Phá hủy mầu xanh còn là phá hủy nghiêm trọng không những cảnh quan mà sắc thái văn hóa và quyền sống của hàng chục dân tộc ít người trên vùng cao.

Theo các báo cáo khoa học thì quặng bô-xít để sản xuất nhôm không là kim loại chiến lược. Giá trị kinh tế của nhôm không cao hơn việc trồng cây công nghiệp ở Tây nguyên. Bô-xít là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh. Còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn và có tái sinh. Ấy là chưa nói đến công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Bức thư ngỏ mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết từ năm 1980 Đảng và nhà nước đã đề nghị khối COMECON, tức khối kinh tế cộng sản Liên xô và Đông Âu, khai thác quặng bô-xít Tây nguyên. Nhưng theo thư ông Giáp thì “khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung bộ”.

Vì tính chất nguy hại sinh thái và cư dân quanh vùng khai thác bô-xít mà Cục bảo vệ môi trường quốc gia Trung quốc đã đóng cửa 100 mỏ bô-xít trên lãnh thổ Trung quốc từ năm 2004 đến 2008. Tại Ấn độ năm 2004 đã có một phong trào quần chúng lớn rộng nổi dậy biểu tình chống việc khai thác bô-xít tại bang Orissa trên diện tích 1000 hecta làm nguy hại 60.000 cư dân.

Tại Việt Nam hiện nay, chỉ nói đến một cứ điểm Đắk Nông ở phía cực nam Tây nguyên hiện đang có 7 mỏ khai thác bô-xít, tất thấy ngay nguy cơ sa mạc hóa - “bùn đỏ hóa mầu xanh” trên 6000 quả đồi với hàng trăm con suối trên một diện tích 600.000 hecta, nơi cư ngụ 29 dân tộc ít người, chủ yếu là cư dân bản địa người M’Nông. Để khai thác 5,4 tỉ tấn quặng thô bô-xít ở Đắk Nông thì chất thải bùn đỏ sẽ phủ lấp hàng nghìn buôn làng : khi ta biết rằng để có 1 tấn nhôm cần khai thác 4 tấn quặng bô-xít và thải ra môi trường 3 tấn bùn đỏ !

Vấn nạn nêu trên nằm trong lĩnh vực môi trường và sinh thái cho cư dân Tây nguyên. Một vấn đề trầm trọng khủng khiếp khác là nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam. Việc nhà thầu Trung quốc khai thác quặng bô-xít đã bắt đầu, những làng người Hoa vừa dựng lên ở Tây nguyên, khoảng năm, mười nghìn người Trung quốc sẽ tới : Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…

Nguy cơ mất nước bắt đầu.

Lần này không chỉ Bắc thuộc Một Nghìn Năm, mà là Ba Nghìn Năm hay lâu hơn nữa khi lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam.

CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN. Trước là chận đứng việc lấy Vàng, tức dân tộc, đổi lấy Nhôm ngoại quốc. Sau là bảo vệ sự Vẹn toàn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi kêu gọi người Việt trong ngoài nước hãy tỏ thái độ trước nguy cơ hủy hoại mầu xanh Tây nguyên và đời sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người trong việc khai thác quặng bô-xít không thông qua nghiên cứu khoa học và kinh tế, mà chỉ vụ vào sự lệ thuộc Bắc phương.

Kính xin người Việt nước ngoài khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây nguyên, và nguy cơ nối giáo Bắc Kinh trấn đóng yết hầu chiến lược vùng ba biên giới.

Kính xin người Việt trong nước hãy tỏ thái độ bằng cuộc biểu dương BẤT TUÂN DÂN SỰ trong suốt tháng 5 kể từ ngày Lễ Lao động 1.5 sắp tới.

Sống dưới chế độ độc tài, công an trị, người dân đã mất quyền biểu tình công cộng nói lên ngưỡng vọng thiết tha suốt 54 năm tại miền Bắc và 34 năm qua tại miền Nam, thì nay hãy BIỂU TÌNH TẠI GIA như một thái độ Bất tuân dân sự: Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường. Chúng ta có một tháng Tư để chuẩn bị lương thực cho gia đình nhằm thực hiện tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA để đòi hỏi ba yêu sách sau đây :

1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.

Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.

2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.

Tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA sẽ là thái độ dũng cảm nói lên mối ưu tư Bảo vệ sinh thái và Vẹn toàn lãnh thổ của toàn dân trong giai đoạn cấp cứu của lịch sử. Dân chủ là Tiếng Nói, một tiếng nói đối thoại và tranh luận khi quê hương nguy biến để tiến tới giải pháp cứu nguy dân tộc. Nay là cơ hội và thời điểm sinh tử để Tiếng Nói cất lên thông qua một tháng BIỀU TÌNH TẠI GIA.

Kính xin đồng bào các giới trong nước hưởng ứng THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA trong suốt tháng 5.2009, và đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả.

Kính xin các cơ quan truyền thông, báo chí giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước.

Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 29.3.2009
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
Kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc - LM Trần Quý Thiện

Bài thuyết giảng của LM Trần Quý Thiện (cựu tù nhân chính trị dưới chế độ CSVN từ 1975-1988) trong Thánh Lễ cầu nguyện cho LM Tađêô Nguyễn Văn Lý và những tù nhân lương tâm

(do Phong Trào Giáo Dân VN Hải Ngoại, Mạng Lưới Nhân Quyền và Diễn Đàn Giáo Dân phối hợp tổ chức tại Trung Tâm CGVN/GP Orange, Nam Cali ngày 28/3/2009 kỷ niệm 2 năm Cha Lý bị xử án trong phiên toà bịt miệng tại Huế (30/3/2007))



Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc
    Kính thưa...
Dưới ánh sáng Niềm Tin Công Giáo, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Chủ của Lịch Sử. Ngài đã biểu lộ tình thương của Ngài qua các biến cố lịch sử, vì Ngài đã tạo thành vạn vật và điều khiển muôn loài. Trong cái nhìn vĩnh cửu và quyền năng vô biên, Thiên Chúa luôn luôn quan phòng để mọi sự kiện xảy ra trên thế giới, cũng như trong cuộc đời mỗi người, mang một giá trị tích cực đối với Ơn Cứu Độ, dù con người có thể không nhận thức được giá trị ấy, do tầm nhìn nhất thời và hạn hẹp của mình.

Trong dòng Lịch Sử Việt Nam; dân tộc chúng ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm: những chiến thắng oanh liệt cũng như những năm dài nô lệ ngoại xâm, những giai đoạn phát triển thịnh vượng cũng như những cuộc nội chiến đau thương, người Công giáo Việt Nam chúng ta luôn tin tưởng rằng mọi biến cố vui buồn đều mang giá trị cứu độ của Thiên Chúa.

Theo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức năm 1856, thì vào năm Nguyên Hoà (tức 1533), vua Lê Trang Tông đã ban hành chỉ dụ cấm đạo Gia Tô, trong đó có ghi tên một tu sĩ ngoại quốc tên là I Nê Khu, đã theo đường biển lén lút đến truyền đạo Gia Tô tại làng Ninh Cường và Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam. Nếu năm 1533 đã có sắc chỉ cấm đạo thì Tin Mừng Đức Kitô tất nhiên đã được rao giảng trước đó, nghĩa là đầu thế kỷ 16. Đó là mốc thời gian đầu tiên ghi dấu vàng son của Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Hạt giống bé nhỏ Tin Mừng Đức Kitô ấy đã lặng lẽ âm thầm nảy mầm, và nhờ Thiên Chúa quan phòng đã sinh hoa kết quả. Nhưng không biết bao nhiêu giông tố bão táp kinh hoàng đã bao phủ!! Người ta không thể nào kể hết biết bao cuộc bố ráp, lùng kiếm, bắt bớ, giam cầm, sát hại những lớp giáo dân Việt Nam đầu tiên, dưới thời chúa Trịnh miền Bắc, và chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, các vua nhà Nguyễn và Phong Trào Văn Thân tại miền Nam...

Ngày nay, các nhà viết sử làm sao có thể đo lường được mức độ tàn bạo dã man đến kinh hoàng với muôn vàn hình thức khác nhau mà các nhà cầm quyền thời đó đã thi đua sáng kiến ròng rã bốn thế kỷ (XVI-XIX) trong cố gắng dập tắt Niềm Tin Công Giáo của cha ông chúng ta vào Đức Kitô!! Nào giam cầm tù ngục, tan xương nát thịt, máu chảy đầu rơi, voi giầy ngựa xéo, quẳng vào vạc dầu sôi, nhốt trong cũi sắt, cũng không làm các ngài quá khoá nghĩa là chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô!!

Kết thúc 400 năm kéo dài trong đau thương đẫm máu đó của Giáo Hội CGVN là trên 130.000 tín hữu CG đầu tiên đã tuẫn tiết, can trường chấp nhận cái chết để trung thành trong Niềm Tin vào Thiên Chúa!! 400 năm giảng đạo đã biến thành 400 năm sống trong cảnh máu chảy đầu rơi!!

Nhận định về cuộc sống và cái chết các vị Tử Đạo VN, người ta thấy các Ngài không sống và chết cho mình hoặc vì những lý do trần tục như danh vọng, địa vị, tiền bạc! Các Ngài đã sống trên miền đất Quê Hương mà chúng ta đã sống và phục vụ! Các Ngài đã trở thành Chứng Nhân của Niềm Tin sắt đá vào Đức Kitô, đã thà chết hơn là chối bỏ!! Muốn thế, các Ngài phải lựa chọn giữ trung thành và phản bội, giữa sự sống và cái chết, giữa Đức Kitô và thế tục. Chính những nguyên nhân đó đã khiến thế giới Công Giáo luôn ngưỡng mộ và không ngừng khâm phục Tinh Thần Bất Khuất của Cha Ông chúng ta.

Dưới một khía cạnh nào đó, chúng ta cũng có thể nói các vị Tử Đạo Việt Nam là những Chứng Nhân tiền phong cho Nhân Quyền trên thế giới, đã đánh đổi chính mạng sống mình để mọi người sau này được tự do sống đạo và hành đạo mà ngày nay chúng ta gọi là Quyền Tư Do Tôn Giáo, vì trước đây 5 thế kỷ làm gì có tổ chức Liên Hiệp Quốc và bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Chứng nhân nhân quyền thời nay.

Một vấn đề quan trọng khác mà hôm nay chúng tôi xin thưa với qúy vị: Đó là dòng máu tử đạo vẫn còn đang chảy lênh láng trên quê hương Việt Nam. Với chủ trương vô thần, chính quyền Cộng Sản vẫn đang thực hiện chính sách đàn áp mọi quyền ttự do căn bản của con người với những biện pháp tinh vi khoa học hơn trước đây rất nhiều.

Là một Linh Mục đã đi cải tạo 13 năm trong ngục tù CS, chỉ vì đã phục vụ trong ngành Tuyên Úy Công Giáo/QLVNCH. Kinh nghiệm bản thân cho chúng tôi hay hiện nay trên thế giới không có chế độ lao tù nào dã man tàn bạo bằng các nhà tù Việt Cộng, vì họ đã tích lũy kinh nghiệm coi tù từ Liên Xô, Trung Cộng, các nước Đông Âu cộng với những mánh lới ác độc của Việt Cộng.

Kể từ ngày 30/4/1975, khi những người Cộng Sản từ miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam, theo lượng đoán của những nhà viết sử thì tổng số các Linh Mục VN dòng và triều đã đi tù cải tạo là trên 200 vị, trong đó gần 30 vị bị chết trong tù. Ngày nay, nếu người ta cần phải nêu cao tấm gương của một Linh Mục VN đã dâng hiến trọn vẹn đời mình cho Quê Hương và Giáo Hội như nhà ái quốc Ái Nhĩ Lan O'Conor đã tuyên bố trước khi bị hành quyết: Trái tim tôi xin dâng hiến cho Thiên Chúa, còn thân xác này, xin gửi lại dân tộc Ái Nhĩ Lan thì con người Việt Nam đó không ai khác, chính là Linh Mục Tađêô NGUYỄN VĂN LÝ.

Chính Cha Lý là người đã thể hiện lời tuyên bố của Đức Kitô Không có tình yêu nào cao qúy bằng chết vì người khác Do đó, cuộc sống của Cha Lý đã trở thành biểu tượng cho những khát vọng tha thiết nhất cho Tự Do và Nhân Quyền của mọi người, đặc biệt cho quyền Tự Do Tôn Giáo không chỉ riêng cho 8 triệu người Công Giáo mà cho tất cả các tôn giáo tại Việt Nam. Chính Cha Lý là người đã thực hiện hoàn hảo nhất Lý Tưởng mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố trong Thư Chung 1980 sau khi thống nhất đất nước. Sống Phúc Âm Giữa Lòng Dân Tộc vì Quê Hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Chúa. Và Dân Tộc này là Cộng Đồng mà Thiên Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tư cách vừa là Công Dân trần thế vừa là thành phần Dân Chúa.

Vậy, Nguyễn Văn Lý, Ngài là ai?

. Nguyễn Văn Lý là một Linh Mục Công Giáo Việt Nam, tên Thánh là Tađêô, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1946, tại làng Ba Bình, xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam trong một gia đình có truyền thống Công Giáo đạo đức.

. Năm 1963, lên 17 tuổi, cậu Lý muốn dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa và được Linh Mục Nguyễn Như Tự bảo trợ và giới thiệu vào tu học tại tiểu chủng viện Hoan Thiện, thành phố Huế.

. Năm 1966, lúc 20 tuổi, thầy Lý được Bề Trên giáo phận tuyển chọn để theo ban Triết học và Thần học tại Đại chủng viện Xuân Bích, Huế.

. Sau 11 năm tu luyện, nguyện ước trở thành mục tử của Chúa đã trở thành hiện thực, tháng 4 năm 1974, Thầy Tađêô Nguyễn Văn Lý đã được hân hạnh thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, thành phố Huế dưới sự đặt tay của Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền. Năm đó, Cha Lý đúng 28 tuổi.

Sau đó tân Linh Mục Nguyễn Văn Lý xin gia nhập Hội Thừa sai do Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền sáng lập, với mục đích hoạt động truyền giáo nơi những vùng dân cư nghèo khó. Ngài được bổ nhiệm phụ trách Cộng Đoàn Thừa sai tại quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.

Một biến cố đau thương nhất của dân tộc xảy đến, sau ngày 30/4/1975, tân Linh Mục được gọi trở về Huế làm Thư ký cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền. Vì được hân hạnh làm bí thư bên cạnh một vị Giám Mục nổi tiếng đạo đức và yêu nước la Đức TGM Nguyễn Kim Điền nên Cha Lý đã nối gót Ngài đi vào con đường tranh đấu cho Giáo Hội và Quê Hương Dân Tộc.

Tính đến nay (năm 2009) Cha Lý đã 63 tuổi, thụ phong Linh Mục 35 năm, đã bị CSVN kết án 4 lần tổng cộng 53 năm. Ngài đã ở tù 16 năm, không kể thời gian bị quản chế; đây là 4 lần bị ra toà lãnh án

- Tháng 9 năm 1977, bị kết án 20 năm tù với tội danh chống phá cách mạng, bị giam tại Thừa Phủ, Huế.

- Tháng 5 năm 1983, bị kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với tội danh gây rối trật tự xã hội bị giam tại Thanh Cẩm (Thanh Hoá) và Ba Sao (Nam Hà).

- Tháng 10 năm 2001, bị kết án 15 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh phá hoại chính sách đoàn kết bị đưa về giam tại trại tù Ba Sao (Nam Hà).

- Ngày 8 tháng 4 năm 2006, Ngài thành lập Khối 8406 quy tụ tất cả những ai muốn tranh đấu cho Nhân Quyền tại Việt Nam.

- Ngày 30 tháng 3 năm 2007, cách đây đúng 2 năm, Cha Lý bị kết án 8 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh tuyên truyền chống phá Nhà Nước. Đây là một phiên tòa quái đản trơ trẻn bất công nhất thế giới, không có luật sư biện hộ, không nhân chứng, thân nhân không được tham dự!! Cha Lý bị còng tay, lôi kéo ra trước tòa, một nhân viên an ninh mặc thường phục đã lấy tay bịt miệng Ngài! Hình ảnh một Linh Mục bị còng tay trước tòa , gợi cho ta hình ảnh Đức Kitô bị điệu trước toà án Philatô. Nhưng Philatô hỏi, chúa Giêsu còn được trả lời, còn Cha Lý bị bịt miệng.

Chính hình ảnh bịt miệng trước tòa đã tố cáo đời sống bi đát hiện nay của 80 triệu đồng bào chúng ta trong một cuộc sống đọa đày dưới áp bức bạo tàn.


Quả thật, hình ảnh bịt miệng đã đánh động lương tâm nhân loại khiến Quốc Hội Hoa Kỳ và Quốc Hội Âu Châu đã vinh danh Cha Lý là một người tù bất khuất và Hội Đồng Giám Mục Đức dành cả một năm để cầu nguyện cho Việt Nam và cho Ngài. Và lần đầu tiên trong lịch sử, 165 Linh Mục VN hải ngoại trên khắp thế giới đã chính thức công bố Bản Lên Tiếng hỗ trợ cuộc tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền do Cha Lý phát động.

Là những người VN sống xa Quê Hương nhưng vẫn nặng lòng với Dân Tộc, hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện tha thiết nhất phát xuất tận đáy lòng để cầu nguyện cho Quê Hương VN thân yêu sớm thoát khỏi nạn CS vô thần, đặc biệt cầu cho Cha Lý kiên tâm vững chí bước theo Đức Kitô.

Cầu cho Cha Lý hôm nay, chúng ta không quên cầu cho tất cả những tù nhân khác đang làm chứng cho Công Lý và Sự Thật, vì chỉ có Công Lý và Nhân Quyền mới giải phóng con người và đất nước chúng ta.

(Nguyễn Lý-Tưởng đánh máy lại và gửi đến các cơ quan truyền thông, báo chí và thân hữu để tuỳ nghi...Westminster, California, lúc 3 giờ PM ngày 28/3/2009)


CẢNH GIÁC NHÀ CẦM QUYỀN HÀ NỘI VỀ VIỆC PHÂN ĐỊNH THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM - Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Chính quyền nào rồi cũng qua đi
Nhưng dân tộc và đất nước thì vẫn còn mãi
    ỦY BAN LUẬT GIA VIỆT NAM BẢO VỆ DÂN QUYỀNCẢNH GIÁC NHÀ CẦM QUYỀN HÀ NỘI VỀ VIỆC PHÂN ĐỊNH THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM
Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Từ khi biết sống hợp quần trong xã hội để thành lập quốc gia, con người đã biết đặt ra luật lệ để giải quyết các tương quan về quyền lợi và nghĩa vụ trong sinh hoạt cộng đồng.

Địa cầu gồm 3 phần đất và 7 phần nước. Nếu có luật quốc tế tại các lãnh thổ thì cũng phải có luật biển cho miền lãnh hải hay hải phận.

Ngày 10-12- 1982, 119 quốc gia đã ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Muốn thành luật, Công Ước phải được đa số các quốc gia kết ước phê chuẩn. Ngày 16-11-1993, 60 quốc gia đã phê chuẩn Công Ước, và một năm sau, ngày 16-11-1994 Công Ước có hiệu lực chấp hành.

Danh từ lãnh thổ bao gồm cả lục địa, hải phận và không phận.

Tại vùng hải phận đường cơ sở (baseline) thông thường là lằn mức thủy triều xuống thấp.

Biển lãnh thổ (territorial sea) rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra khơi

Cần phân biệt giữa biển lãnh thổ và lãnh hải hay hải phận của quốc gia duyên hải (maritime zone).

Theo án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế The Hague và chiếu Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, biển lịch sử (historic waters) chỉ là nội hải (internal waters).

Muốn có biển lịch sử phải hội đủ 3 điều kiện:

a. Quốc gia duyên hải đang hành sử chủ quyền;
b. Sự hành sử chủ quyền có tính liên tục và trường kỳ;
c. Các quốc gia kế cận và đối diện thừa nhận chủ quyền của quốc gia duyên hải.

Dầu sao biển lịch sử chỉ là nội hải tọa lạc trên đất liền, về phía bên trong đường cơ sở của biển lãnh thổ.

Như vậy biển lịch sử của Trung Hoa hay Lưỡi rồng Trung Quốc chỉ là nội hải. Nó không thể là Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á cách Hoa lục đến 2000 cây số.

Vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý để đánh cá chạy từ biển lãnh thổ ra khơi.

Thềm lục địa để thăm dò và khai thác dầu khí trùng điệp với vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và cũng rộng 200 hải lý (370 km).

Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, thềm lục địa pháp lý (legal continental shelf) của các quốc gia duyên hải dài 200 hải lý tính từ biển lãnh thổ ra khơi. Ngoài ra còn có thềm lục địa địa chất (geological continental shelf) có thể kéo dài tối đa đến 350 hải lý (650 km), nếu về mặt địa chất và địa hình, đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài khơi trên triền biển sâu đến mũi xa bờ nhất của nền lục địa (continental margin).

Đó là một yếu tố đặc thù của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tại Hoàng Sa, thềm lục địa địa chất nằm trên nền lục địa, chạy thoai thoải từ dẫy Trường Sơn ra biển, phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Độ sâu nhất quanh đảo Hoàng Sa là 900 mét. Về mặt địa chất và địa hình, đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy Trường Sơn từ Cù Lao Ré ra các đảo Tri Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. Đây là những cao nguyên của lục địa Việt Nam trên mặt biển. Nếu nước biển rút xuống 900 mét thì toàn thể các hải đảo Hoàng Sa sẽ biến thành một dẫy hành lang chạy thoai thoải từ Trường Sơn ra Biển Đông.

Năm 1925 nhà địa chất học quốc tế, Tiến Sĩ khoa học A. Krempt, Giám đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, phân chất đất đai, đo đạc, vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa chất những đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam” (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam).

Trong khi đó từ quần đảo Hoàng Sa về Hoa lục có một rãnh biển sâu hơn 2300 mét. Vì đáy biển Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài biển, Trung Quốc không có hy vọng đòi nới rộng thềm lục địa Trung Hoa từ 200 hải lý đến 350 hải lý như trường hợp Việt Nam.

Vả lại các đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-15 bắc, cách bờ biển Việt Nam khoảng 160 hải lý và cách Hoa lục tới 270 hải lý, nên thuộc thềm lục địa của Việt Nam.

Tại Trường Sa cũng vậy. Về mặt địa chất và địa hình đáy biển, Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên từ lục địa Việt Nam ra ngoài biển. Tại bãi Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400 mét, và tại vùng đảo Trường Sa và cồn An Bang (do Việt Nam chiếm cứ), độ sâu chỉ tới 200 mét. Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 170 hải lý và cách Hoa lục tới 800 hải lý. Các đảo Trường Sa tọa lạc tại các vỹ tuyến 12-8 bắc (từ Cam Ranh đến Cà Mâu), cách bờ biển Việt Nam 220 hải lý và cách Hoa lục tới 750 hải lý, nên thuộc hải phận của Việt Nam.

Hơn nữa về mặt địa chất và địa hình, đáy biển Trường Sa cách bờ biển Trung Quốc bằng một rãnh biển sâu hơn 4 ngàn mét. Vì đáy biển không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài biển, Trung Quốc không có hy vọng đòi nới rộng thềm lục địa đến mức 350 hải lý. Trong mọi trường hợp, các đảo Trường Sa cách Hoa lục quá xa, từ 700 đến 800 hải lý, vượt quá mức tối đa 350 hải lý dành cho thềm lục địa địa chất, nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Q uốc,

Khác với vùng đặc quyền kinh tế đánh cá, thềm lục địa (pháp lý hay địa chất) thuộc chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc thăm dò và khai thác dầu khí. Các quốc gia duyên hải không phải chia dầu khí cho ai, mặc dầu chưa khai thác hay không khai thác hết (các Điều 77 và 81). Các quốc gia khác không được quyền đến thăm dò hay khai thác dầu khí nếu không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Mọi sự vi phạm bằng cách chiếm cứ, dầu có võ trang hay không, cũng đều bất hợp pháp và vô hiệu lực.

Hơn nữa, tại thềm lục địa, quyền của các quốc gia duyên hải không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ (occupation), thăm dò (exploration), khai thác (exploitation) hay công bố minh thị (express proclamation). Do đó, mặc dầu không còn chiếm cứ các đảo tại Hoàng Sa từ 1974, Việt Nam vẫn không mất chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu tại quần đảo này.

Trong những năm 1974, 1988 và 1992 Trung Quốc đã chiếm cứ võ trang một số đảo, cồn, đá, bãi tại Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là những hành động vi phạm thô bạo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Dầu sao sự chiếm cứ bất hợp pháp này cũng không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại thềm lục địa. Hành vi bạo hành dầu kéo dài bao lâu cũng không làm mất tính bạo hành của nó. Và sự bạo hành võ trang không được viện dẫn quy chế tiêu diệt thời hiệu theo luật lệ hiện hành tại các quốc gia văn minh trên thế giới.

Đơn yêu cầu mở rộng thềm lục địa của Việt Nam

Chiếu Điều 4 Phụ Đính 2 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có quyền đệ đơn tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa (Commission on the Limits of the Continental Shelf) để được hưởng quy chế thềm lục địa địa chất đến mức tối đa 350 hải lý, trong trường hợp nền lục địa của quốc gia duyên hải dài hơn thềm lục địa pháp lý (200 hải lý).

Thời hạn đệ đơn yêu cầu mở rộng thềm lục địa là 10 năm kể từ khi Công Ước có hiệu lực chấp hành (tháng 11-1994).

Qua năm 1995, nhân kỳ Đại Hội Khu Vực Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) họp tại Brunei, Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền đã gửi 7 vị nguyên thủ quốc gia thuộc tổ chức ASEAN một bản tường trình về vụ tranh chấp tại Hoàng Sa Trường Sa trên bình diện công pháp quốc tế. (Lúc này Việt Nam đã gia nhập ASEAN). Trong phần kết luận, Ủy Ban Luật Gia yêu cầu Khối ASEAN đổi danh xưng Biển Nam Hoa (South China Sea) thành Biển Đông Nam Á (Southeast Asia Sea). Đồng thời đề nghị Khối ASEAN triệu tập những cuộc đàm phán đa phương để giải quyết toàn bộ vấn đề tranh chấp tại Biển Đông Nam Á giữa các Quốc Gia hội viên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á..

Riêng đối với Việt Nam, Ủy Ban Luật Gia cũng đề nghị nhà cầm quyền triệu dụng các luật gia và chuyên gia trong các tổ chức hải dương quốc tế (như Viện Hải Dương Đông Tây tại Hawaii) để lập bản tường trình về những yếu tố đặc thù liên quan đến địa lý, địa hình và địa chất tại Hoàng Sa và Trường Sa theo các tiêu chuẩn hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc. Mục đích để kiện toàn hồ sơ yêu cầu Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa chấp thuận cho Việt Nam được mở rộng thềm lục địa từ 200 hải lý cho đến mức 350 hải lý. Về thủ tục tố tụng Ủy Ban Luật Gia cũng lưu ý rằng thời hạn đệ đơn là 10 năm chiếu Điều 4 Phụ Đính 2 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Thời hạn này sẽ mãn vào tháng 11-2004.

Từ đó đến nay đã 14 năm, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn im lìm bất động. Hơn nữa, năm 2000, Chính phủ Hà Nội còn ký một hiệp ước bất bình đẳng về Hợp Tác Nghề Cá với Trung Quốc. Trong hiệp ước này có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự khai thác dầu khí chung tại thềm lục địa đồng thời với sự hợp tác đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế tại Vịnh Bắc Bộ.

Theo những tin tức mới đây, căn cứ vào thỉnh nguyện của một số quốc gia hội viên, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc đã đồng ý triển hạn cho các quốc gia kết ước hay gia nhập Công Ước trước ngày 13-5-1999 (như Việt Nam) được có thời hạn 10 năm nghĩa là đến ngày 13-5-2009 để đệ đơn yêu cầu mở rộng thềm lục địa từ 200 hải lý đến 350 hải lý.

Quyết định này căn cứ vào hai sự kiện sau đây:

1. Mặc dầu Công Ước đã có hiệu lực chấp hành từ tháng 11-1994, vậy mà 3 năm sau, mãi tới tháng 5-1997, các ủy viên trong Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa mới được tuyển chọn.

2. Hơn nữa, mãi tới ngày 13-5-1999 Ủy Ban Phân Định mới soạn thảo và công bố Cương Lĩnh hướng dẫn các quốc gia hội viên về các tiêu chuẩn phải khai trình về mặt chuyên môn và về khoa học kỹ thuật.

Vì có sự chậm trễ 5 năm, Ủy Ban Phân Định đã đồng ý cho triển hạn thêm 5 năm (từ ngày 16-11-2004 đến ngày 13-5-2009) để các quốc gia hội viên đệ nạp hồ sơ.

Điều đáng lưu ý là đơn thỉnh nguyện có thể chưa viện dẫn đầy đủ các dữ kiện và yếu tố theo các tiêu chuẩn ghi trong Cương Lĩnh về Khoa Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999 của Ủy Ban Phân Định. Trong trường hợp này các quốc gia đệ đơn có thể dành quyền sẽ xuất trình thêm tài liệu về những yếu tố và dữ kiện bổ túc để kiện toàn hồ sơ.

Vì những lý do nêu trên, cũng như năm 1995, một lần nữa, Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền cảnh giác và khuyến cáo nhà cầm quyền Hà Nội đệ đơn thỉnh nguyện tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc trong thời hạn luật định, nghĩa là trước ngày 13-5-2009.

Mục đích để bảo vệ và tranh thủ tối đa chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các thềm lục địa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cùng đồng bào trong và ngoài nước, Ủy Ban Luật Gia sẽ quan tâm theo dõi thái độ, hành động và tinh thần trách nhiệm của nhà cầm quyền Hà Nội trong việc thi hành nhiệm vụ lịch sử này. Nếu còn ngoan cố hay bất lực, bất cứ vì lý do gì, Chính Phủ và Đảng Cộng Sản sẽ phải chịu tội trước Quốc Dân và Lịch Sử.

Làm tại Hải ngoại ngày 20-2-2009

T.M. Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống



Những con kên kên ăn xác chết - Trần Thanh

Trần Thanh

Mùa hè sắp đến! Ðối với những người Việt sống nơi xứ lạnh, ai cũng mong cho đến mùa hè để được đi sinh hoạt ngoài trời, đi cắm trại, đi du lịch đó đây, hưởng những tia nắng ấm, sau nhiều ngày làm "con gấu mùa đông" trốn biệt trong nhà, không dám thò mặt ra ngoài đường! Mùa hè cũng là mùa mà những con kên kên rất "hồ hởi phấn khởi" vì đó là dịp rất thuận tiện để bọn chúng rỉa rói, ăn no nê những xác chết của những thương phế binh, tử sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Và mùa hè chính là mùa mà các tên đầu gấu việt cộng trong Bắc Bộ Phủ rất háo hức mong đợi, vì bọn chúng có thể kiếm được bạc triệu đô la một cách rất dễ dàng mà không hề tốn một giọt mồ hôi! Kiếm tiền bằng cách nào? Xin thưa, bằng cách thúc giục bầy kên kên Việt Tân ở hải ngoại tích cực rỉa rói những xác chết, hay nói một cách cụ thể hơn: - tổ chức những hoạt động "từ thiện" để gây quỹ giúp các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, gây quỹ để trùng tu nghĩa trang quân đội Biên Hòa ..v..v...

Thoạt mới nghe qua chúng ta thấy có vẻ nghịch lý: - tại sao bọn việt gian cộng sản lại thúc giục chúng ta tổ chức những buổi văn nghệ gây quỹ giúp các thương phế binh VNCH? Ai đời kẻ thù của chúng ta mà lại rất "biết ơn" những anh em thương phế binh còn đang mắc kẹt tại quê nhà! Nhưng đó chính là một sự thật rất phũ phàng!

Bởi vì gây quỹ, tiếng là để giúp các thương phế binh VNCH, nhưng thực chất là đem tiền đi nuôi béo bọn việt gian cộng sản và cũng là dịp để những tên lưu manh, lợi dụng danh nghĩa từ thiện ăn cắp tiền, làm giàu một cách phi pháp! Những nạn nhân ở Việt Nam nghèo vẫn hoàn nghèo, họ chỉ là những cái xác chết bị lợi dụng!

Những kẻ nào đã ăn trên xương máu của những thương phế binh quân lực Việt Nam Cộng Hòa?

Ðầu tiên phải kể là bọn đầu gấu việt cộng từ trung ương xuống dưới địa phương, đến những tên cán bộ tép riu, cắc ké ở phường khóm. Tất cả bọn chúng đều thẳng tay chém chặt, ăn cướp một cách công khai những món tiền từ thiện.

Tiếp theo là những tên việt kiều lưu manh, lợi dụng danh nghĩa "từ thiện" để ăn cắp, làm giàu bất hợp pháp trên xương máu của anh em thương phế binh quân lực VNCH.

Và cuối cùng, những gì còn sót lại, khi đến tay những anh thương phế binh thì hầu như chỉ là những mẩu xương, gân. Tất cả những phần béo bở đều đã bị bọn cướp, bọn lưu manh ăn cắp, đớp hết trọi rồi! Ðược chia phần xương và gân cũng còn ... phước. Ðôi khi các nạn nhân được chia ... Zê Rô phần trăm, đói vẫn hoàn đói, nghèo vẫn hoàn nghèo!

· TRUNG TÂM BĂNG NHẠC ASIA VÀ ÐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN

Nhạc sĩ Trúc Hồ là một trong những nhân vật chủ chốt, điều hành hai trung tâm này. Cha của ông ta, nhạc sĩ Trúc Giang, đang làm việc "từ thiện" tại Việt Nam. Trong những năm vừa qua, cứ mỗi khi hè đến, trung tâm băng nhạc Asia lại rầm rộ tổ chức những buổi văn nghệ ngoài trời, quyên tiền để giúp các thương phế binh VNCH. Số khán giả tham gia lên đến hàng chục ngàn người, số tiền quyên được lên đến hàng triệu Mỹ kim.

Người Việt chúng ta vốn dễ dãi và rộng lượng, đa số ủng hộ từ vài chục đô đến vài trăm đô. Ðối với những nghệ sĩ tham gia giúp vui văn nghệ, nhiều người đã có những nghĩa cử rất cao đẹp. Nhiều người đã lặn lội từ những tiểu bang xa xôi, thậm chí bay từ các nước khác đến Cali, làm việc từ thiện mà không hề nhận bất cứ một thù lao nào. Sau khi làm nghĩa cử cao đẹp, thưởng thức văn nghệ xong thì ai về nhà nấy, ngày hôm sau lại tất bật lo đi cày, chẳng ai bận tâm đến việc số tiền mình đã đóng góp, không biết có đến tay các anh thương phế binh hay không? Tất cả chúng ta đều đã khoán trắng cho những kẻ khoác áo "từ thiện". Số tiền đóng góp đa số là tiền mặt, rất dễ bị ăn cắp. Thậm chí nếu có làm sổ sách "kế toán" cũng sẽ bị những tên ăn cắp gian lận rất dễ dàng.

Hàng triệu Mỹ kim đóng góp cho "từ thiện" đã không được công khai tài chánh, không được phổ biến rộng rãi trên truyền thông hải ngoại. Ðáng lẽ phải có một ủy ban được bầu ra, giám sát việc thu chi một cách chặt chẽ. Danh sách họ và tên của những thương phế binh VNCH đã nhận được tiền từ thiện là bao nhiêu người? Ðịa chỉ của họ ở đâu? Nhận tiền trong thời gian nào? Những người nào đã trao số tiền đó đến tay họ? Có hình chụp làm bằng chứng hay không? Có bản photo chữ ký họ đã nhận tiền hay không? Bọn đầu gấu việt gian cộng sản đã thâu "hụi chết" là bao nhiêu phần trăm?

Tất cả những điều công khai tài chánh đều đã không được thực hiện. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng hàng triệu đô la do những việt kiều ở hải ngoại đóng góp đều đã bị bọn việt gian cộng sản ăn cướp và bị những tên lưu manh,lợi dụng danh nghĩa từ thiện ăn cắp!

Chúng ta đi cày hộc gạch ở hải ngoại để đem mồ hôi, xương máu của mình đi nuôi béo kẻ thù và nuôi những thằng lưu manh ăn cắp hay sao? Tại sao chúng ta lại ngu quá lâu và quá đần độn, bị lợi dụng, móc túi bao nhiêu năm nay mà vẫn chưa sáng mắt? Chúng ta phải nhanh chóng thức tỉnh, tìm phương cách làm từ thiện bằng cách khác, dứt khoát đừng bao giờ để bọn chó đẻ bòn rút xương máu của chúng ta nữa. Phải ngăn chận những con kên kên đang ăn những xác chết của những thương phế binh VNCH!

· TRUNG TÂM BĂNG NHẠC ASIA VÀ ÐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN CÓ CHỐNG CỘNG HAY KHÔNG?

Ðã đến lúc chúng ta phải nêu lên câu hỏi này. Xưa nay, nhiều người trong chúng ta vẫn thường cho rằng trung tâm băng nhạc Asia là "chống cộng", còn Thúy Nga Paris là đi bưng bô cho việt cộng! Thật ra cả hai thằng chó đẻ đều là tay sai của cộng sản! Thúy Nga Paris đã bị rớt mặt nạ cách đây hơn 10 năm, qua vụ băng Thúy Nga số 40, chủ đề về Mẹ. Khi bị thất vọng vì Thúy Nga, chúng ta đã dồn mọi hy vọng vào trung tâm Asia, coi trung tâm này như "tiền đồn chống cộng" tại hải ngoại. Những nhân vật như Trúc Hồ và Nam Lộc bỗng nhiên trở thành những ngôi sao sáng chói, những người hùng chống cộng! Những tờ báo công an của việt cộng ở trong nước thường đăng những bài viết "chửi" trung tâm Asia là "phản động"! Nếu chỉ căn cứ vào hiện tượng bề ngoài, chúng ta sẽ dễ bị nhầm lẫn, lừa bịp. Chính trị vốn dĩ phức tạp chớ không phải đơn giản như hai với hai là bốn. Ở bất cứ sòng bài nào cũng có những tên cò mồi cờ bạc, động đĩ thì có ma cô dắt mối và trong lãnh vực "từ thiện" cũng có những tên ma cô từ thiện dắt mối cho bầy kên kên ăn xác chết! Do đó, đến thời đểm năm 2009 này, chúng ta phải rút ra một kết luận:

- Một con đĩ đã công khai làm đĩ, công khai đứng đón khách ngoài đường ở ngã ba Chú Ía.
- Một con đĩ khác đi làm đĩ một cách kín đáo hơn, khéo léo đóng kịch cho nên nhiều người ngây thơ cứ tưởng nó là con nhà lành!

· CHỐNG CỘNG HAY ÐẦU HÀNG CỘNG SẢN?


Việc chống cộng vốn đa dạng, phức tạp nhưng tối thiểu phải thể hiện được hai yếu tố quan trọng sau đây:

1. Quyết tâm xóa bỏ chế độ cộng sản và đảng việt gian cộng sản
2. Nêu đúng tên, đúng tội, nêu đúng bản chất của kẻ thù, đó là: VIỆT GIAN CỘNG SẢN. Chống cộng mà run sợ, không dám dùng đúng chữ để tố cáo tội ác của bọn chúng thì chống làm gì? Phải chăng đó là hình thức đầu hàng cộng sản?

Hiện nay nhiều cá nhân và tổ chức vẫn dùng những nhóm chữ sau đây khi đề cập đến kẻ thù:

- Chính quyền Hà Nội
- Nhà cầm quyền Hà Nội
- Chính quyền Việt Nam/ nhà nước Việt Nam
- Cộng sản Việt Nam/ cộng sản Hà Nội

Và đa số không dám viết nguyên nhóm chữ mà chỉ viết tắt: CSVN!

Một thằng ăn cướp đã cướp mất nhà của chúng ta, giết hết vợ con của chúng ta mà chúng ta vẫn không dám gọi nó là ăn cướp, phải gọi tránh đi bằng cái tên khác, nghe hiền lành hơn, ví dụ như "ông giang hồ", thì chúng ta chỉ là những thằng hèn! Chúng ta chỉ là những kẻ ngụy tín, tự lừa dối mình. Ðó là chưa kể có nhiều tên lưu manh chính trị, khoác áo chống cộng nhưng thực chất là lấy dao đâm vào sau lưng người quốc gia, như bọn băng đảng Việt Tân đang làm hiện nay!

Chính danh không có thì không thể có chính nghĩa. Ðã không có chính nghĩa thì không thể nào tập hợp được toàn dân đứng dậy lật đổ chế độ cộng sản hung tàn, bạo ngược! Nội việc làm đơn giản nhất là thể hiện sự chính danh qua lời nói mà những kẻ "chống cộng" không dám nói thì chúng ta mong chờ gì họ dám hành động???

· VINH DANH QUÂN LỰC VNCH LÀ ÐÚNG NHƯNG CHƯA PHẢI LÀ YẾU TỐ QUYẾT ÐỊNH:

Vinh danh Quân lực VNCH là cần thiết để chúng ta tiếp tục hâm nóng, duy trì bầu nhiệt huyết chống cộng và truyền lại những kinh nghiệm cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, quan trọng hơn hết là phải nêu cho được bản chất và tội ác của kẻ thù cho toàn dân biết. Tất cả những tội ác của bọn chúng đã phạm liên tục hơn 60 năm nay phải được chúng ta liên tục tố cáo qua những phương tiện truyền thông. Một khi người dân trong và ngoài nước thấy rõ tội ác của bọn cướp, sự căm phẫn của họ sẽ bùng lên, sẽ là động lực để họ đứng dậy lật đổ chế độ cộng sản.

Việc tố cáo tội ác của cộng sản cũng ví như việc châm lửa vào thùng thuốc súng. Nếu chúng ta không châm lửa thì thùng thuốc súng sẽ mãi mãi nguội lạnh và 85 triệu dân sẽ tiếp tục mãi mãi phải làm nô lệ cho bọn giặc! Thùng thuốc súng chúng ta đã có, lửa chúng ta cũng đã có trong tay nhưng không dám hoặc không thể châm! Vì sao?

- Vì một số lớn các cơ quan truyền thông hải ngoại đã ăn xôi chùa ngọng miệng, bị bọn việt gian cộng sản mua chuộc. Họ chỉ dám vinh danh Quân lực VNCH mà không dám tố cáo tội ác của cộng sản, kêu gọi toàn dân đứng dậy lật đổ bọn cộng sản!

- Vì những kẻ đục nước béo cò, làm "nghề" từ thiện sợ bị mất job! Chính những kẻ này, những việt kiều lưu manh không bao giờ muốn cho chế độ cộng sản bị sụp đổ! Nếu chế độ cộng sản bị sụp đổ thì những kẻ làm việc từ thiện sẽ bị chết đói vì đa số bọn chúng đều là những tên lười biếng, bất tài, ăn bám xã hội!

- Những tên lưu manh chính trị đi làm tay sai, chó săn cho bọn việt gian cộng sản đã tích cực tìm cách cản phá, vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh của chúng ta, lèo lái cuộc đấu tranh của chúng ta đi xuống hố. Ví dụ như bọn chúng đã phao tin:

* Việt Nam ngày càng đi sâu vào quỹ đạo của người Mỹ
* Người Mỹ sẽ giúp Việt Nam xuống cọp được an toàn, được hạ cánh an toàn
* Có phe thân Mỹ trong trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam và phe này đang tìm cách là .... đảo chánh, lật đổ phe thân Trung Cộng!

Những sự lừa bịp này đã gây cho chúng ta một ảo tưởng rằng chúng ta không cần đấu tranh nữa mà rốt cuộc vẫn chiến thắng. Chế độ Cộng Sản sắp sửa bị tiêu vong rồi! Ðảng Cộng Sản đã và đang trở thành "bạn" của chính quyền Mỹ (đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ), mà bạn của Mỹ tức là bạn của Việt Nam Cộng Hòa. Kẻ thù đã trở thành "bạn" rồi thì chống đối làm gì nữa!!! Nếu cứ tiếp tục chống cộng sản thì có khác gì chống Mỹ, chống lại "ông thầy" của mình!!!

Chưa hết, bọn chó săn còn tung ra luận điệu: - bây giờ là lúc người quốc gia và cộng sản phải cùng hợp tác với nhau để chống giặc ngoại xâm Trung Cộng!

· CHÚNG TA HÃY NHÌN CHO KỸ TRUNG TÂM BĂNG NHẠC ASIA VÀ ÐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN:

- Họ chỉ dám vinh danh quân lực VNCH mà không bao giờ dám tố cáo tội ác của bọn việt gian cộng sản. Việc làm "vinh danh" của họ chỉ là hình thức làm kiểng, tựa như bọn đối lập cuội đóng tuồng, hầu che đậy những màn đi đêm lén lút bắt tay với cộng sản.

Thỉnh thoảng họ nêu lên những hình ảnh "chống cộng" như vụ chiếc cầu sập ở Cần Thơ làm chết 50 công nhân hoặc vụ hòa thượng Thích Quảng Ðộ và linh mục Nguyễn Văn Lý bị cộng sản giam cầm; tuy nhiên, đây là những việc làm dư thừa vì ai ai cũng đều biết. Vụ cầu sập, báo chí của cộng sản trong nước đã nêu rất nhiều, đâu cần phải chờ đến trung tâm băng nhạc Asia đưa tin, ở hải ngoại mới biết. Còn vụ hòa thượng Quảng Ðộ và cha Lý thì truyền thông ở hải ngoại cũng đã đưa tin rất nhiều.

- Nếu cho rằng trung tâm băng nhạc Asia là "chống cộng" thì chúng ta có thấy người MC nào của trung tâm dám nói một câu nào "chống cộng" hay không, hay chỉ khom lưng, cúi đầu xưng hô với bọn giặc bằng những nhóm chữ rất lễ phép là "chính quyền Việt Nam, chính quyền Hà Nội, nhà nước Việt Nam"?

- Ðài truyền hình SBTN đã để cho tên đại ma đầu Bùi Tín cùng những tên tay sai cộng sản như Phan Nhật Nam, Trần Phong Vũ xuất hiện trên đài, kêu gọi người quốc gia hãy bao dung với những tên phản tỉnh cuội!

- Nhạc sĩ Trúc Hồ và MC Thùy Dương đã lên đài truyền hình SBTN kêu gọi người Việt tại hải ngoại làm việc "từ thiện" bằng cách ký những giấy bảo lãnh, nuôi những trẻ em mồ côi tại Việt Nam ăn học đến hết năm 18 tuổi! Ðây là hình thức kêu gọi chúng ta hãy đóng thuế cho cộng sản! Một khi đã ký giấy bảo lãnh tức là chúng ta tự nguyện cho phép bọn giặc rút từ trương mục ngân hàng của chúng ta mỗi tháng từ 50 đến vài trăm đô và rút liên tục từ 10 đến 15 năm!!!

Trước đây vì toàn dân ta dại dột, ngu dốt, nghe theo lời lừa bịp của tên Hồ tặc Hồ Chí Minh, hậu quả là mười triệu người đã toi mạng, 85 triệu người bị bắt làm nô lệ, cho tới bây giờ vẫn chưa thoát khỏi gông cùm nô lệ. Bây giờ lại xuất hiện thêm một "bác Hồ" mới, họ Trúc, cũng lưu manh và lừa bịp không khác gì tên Hồ tặc. Nghe theo lời xúi dại của "bác Hồ", chúng ta ký giấy bảo lãnh tức là tự ký bản án tử hình cho chính mình! Ngoài việc ngu dại đóng thuế cho bọn giặc, chúng ta đã tiết lộ hết tất cả những lý lịch cá nhân của chúng ta cho bọn chúng biết, bởi vì khi điền đơn bảo lãnh, chắc chắn chúng ta phải khai rõ họ tên, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp ..v..v... Một khi bọn giặc đã nắm được lý lịch cá nhân của chúng ta, coi như là chúng đã nắm được linh hồn của chúng ta trong tay. Nguy hiểm hơn nữa là bọn chúng có thể dùng lý lịch của chúng ta để làm giả các giấy tờ như thẻ tín dụng Visa, thẻ Passport, thẻ quốc tịch ..v..v.. và những hậu quả chết người sẽ đến với chúng ta!

- Ðài truyền hình SBTN đã trình chiếu bộ phim phóng sự dài nhiều tập mang tên là "Hành trình xuyên Việt". Chúng ta hãy đặt câu hỏi vì sao cộng sản lại cho phép phóng viên của đài truyền hình SBTN được tự do đi lại trên khắp nước để làm phim phóng sự? Chắc chắn đây phải là một sự trao đổi có lợi cho cộng sản. Và chắc chúng ta cũng chưa quên, trước đây phóng viên của đài SBTN đã về tận Hà Nội quay cảnh lụt lội, chiếu cảnh những chiếc xe tăng lội nước chạy trên đường phố Hà Nội, rồi đưa tin là sắp sửa có đảo chánh ở trong nước, để người Việt ở hải ngoại hồi hộp chờ đợi, lơ là việc chống cộng!!!

Trong bộ phim phóng sự "Hành trình xuyên Việt", phần 2, có chiếu những đoạn thời sự về cảnh những người dân miền bắc di cư vào Nam năm 1954 và những lời bình luận về việc tại sao việc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc, dự trù tổ chức vào năm 1956, không được thi hành. Những lời bình luận này có lợi cho cộng sản hay cho phía quốc gia?

Mùa hè sắp đến. Trung tâm Asia và đài truyền hình SBTN đã rục rịch quảng cáo những buổi văn nghệ gây quỹ từ thiện giúp những thương phế binh VNCH. Qua những điều trình bày tóm tắt nêu trên, chúng tôi có thể khẳng định rằng hầu hết những kẻ làm việc "từ thiện" đều là những tên lừa bịp và ăn cắp. Và cũng chính những bọn này đã tìm mọi cách để vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh của chúng ta bởi vì bọn chúng không bao giờ muốn cho chế độ cộng sản bị sụp đổ. Cộng đồng người Việt tại hải ngoại là cái mỏ đô la vô tận, là con bò sữa rất béo, không bòn rút xương tủy, hút máu hút mủ thì uổng lắm!

Riêng đối với nhạc sĩ Trúc Hồ, giám đốc đài truyền hình SBTN thì bộ mặt đi làm tay sai cho việt cộng của y ngày càng lộ rõ. Chúng ta cũng đừng quên, cha của y, nhạc sĩ Trúc Giang đang làm việc "từ thiện" tại Việt Nam. Trước đây "bác Hồ" đã sáng tác một số bài hát mang tính cách nhân bản và "đấu tranh", và nhờ có phương tiện truyền thông trong tay nên y đã nhanh chóng nổi tiếng. Ngày nay, lợi dụng sự nổi tiếng đó, y đã kêu gọi chúng ta đi đóng thuế, đi làm nô lệ cho cộng sản! Cô MC Thùy Dương cũng vậy. Sau một thời gian xuất hiện trên băng nhạc Asia, có được chút tiếng tăm, được thiện cảm của khán giả thì cô đã vội vàng đi theo "bác Hồ" để tìm đường cứu cái .... bao tử của mình!!! Chúng ta cần phải tẩy chay và phản đối những thành phần này. Không phải vì nể nang những thành tích văn nghệ của họ mà chúng ta xuôi theo những lời dụ dỗ, rủ rê, đưa chúng ta vào chỗ chết!

Biết bao nhiêu gia đình việt kiều, những đồng bào của chúng ta tại tiểu bang Louisiana nước Mỹ đã bị tan nát nhà cửa vì cơn bão Katrina, phải sống cảnh màn trời chiếu đất, tài sản dành dụm mấy chục năm nay bỗng nhiên biến mất. Nếu có làm việc từ thiện thì phải ưu tiên cho những người này! Và hiện nay rất nhiều người Việt trên đất Mỹ đang bị phá sản, mất nhà, mất việc, trở nên thành phần homeless vì nạn suy thoái kinh tế. Nếu có tổ chức lạc quyên, từ thiện thì phải ưu tiên giúp những người này trước. Cha mẹ, anh chị em, con cái của chúng ta ngay trong gia đình không lo cứu mà lại đi lo giúp trẻ mồ côi ở Việt Nam là vì sao? Phải chăng vì làm việc "từ thiện" cho bọn việt gian cộng sản thì mới dễ lươn lẹo và ăn cắp vì khó kiểm soát!?

Hiện nay, tại Việt Nam, thành phần dân nghèo sống đầu đường xó chợ lên đến hàng triệu người. Tệ nạn xã hội nhiều như cát ở sông Hằng. Tất cả những tai họa này đều do bọn giặc cướp việt gian cộng sản gây ra. Chúng đã gây ra tai họa thì chính bọn chúng phải chịu trách nhiệm giải quyết. Tại sao kẻ ăn ốc, người đi đổ vỏ? Nếu chúng ta ngu dại cứ nai lưng ra dọn dẹp những đống rác do bọn cướp gây ra thì bọn chúng sẽ tiếp tục sản xuất ra rác! Cái vòng lẩn quẩn sẽ không bao giờ chấm dứt!

· PHẦN ÐỀ NGHỊ:


Giúp đỡ những thương phế binh VNCH là điều rất nên làm nhưng chúng ta phải làm như thế nào để đạt được kết quả hữu hiệu và dứt khoát là chúng ta không tin tưởng bất cứ một tổ chức từ thiện nào đứng ra quyên góp. Giả sử có một tổ chức uy tín, đứng đắn nào đó hoạt động nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi sớm muộn gì cũng sẽ bị bọn lưu manh, ăn cắp lợi dụng! Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề nghị một vài điểm:

- Chúng ta nên tổ chức làm việc từ thiện theo cá nhân hoặc nhóm tối đa là 10 người. Những người trong gia đình, họ hàng hoặc trong những bạn bè thân thiết có thể tổ chức thành một nhóm.

Cách trao tiền:

Ðích thân người trong nhóm về Việt Nam trao tiền tận tay các anh thương phế binh. Nếu không về Việt Nam được thì ủy nhiệm cho một người đáng tin cậy ở Việt Nam trao giùm.

Khỏi đóng thuế cho việt cộng:

Chúng ta có thể dàn xếp bằng cách, ví dụ:

- Bước một: người A trao tiền Mỹ kim cho người B tại Mỹ. (người B đại diện cho người C ở Việt Nam)
- Bước hai: người C ở Việt Nam trao tiền Việt cho các thương phế binh.

Hai bên liên lạc với nhau qua điện thoại hoặc e-mail. Bọn việt cộng chỉ còn có nước ngáp gió, vô phương thu thuế!

Ðây là cách an toàn và hữu hiệu, không sợ tiền bạc bị thất thoát, rơi vào túi bọn lưu manh, ăn cắp. Nhiều người làm thành nhiều nhóm và nhiều nhóm cùng hoạt động từ thiện thì sẽ có hiệu quả ở phạm vi rộng lớn. Bằng cách này, chúng ta sẽ loại bỏ được hai con cá mập rất lớn, ăn chận hết 99% số tiền cứu trợ, đó là bọn việt gian cộng sản và cái đám việt kiều lưu manh! Chúng tôi biết có những tên việt kiều lưu manh, ôm tiền từ thiện về Việt Nam, sau khi đóng hụi chết cho việt cộng, bọn chúng đã đi vào các động đĩ chơi bời đến mệt nghỉ, lỏng đầu gối, rồi lại tiếp tục về Mỹ đi quyên tiền! (Muốn biết các động đĩ nổi tiếng thì cứ tham khảo nơi tờ báo điện tử Take-2-Tango! ) Chẳng có ai kiểm tra sổ sách bọn này cả, mà nếu có kiểm tra thì bọn chúng cũng thừa sức lừa bịp, qua mặt! Những kẻ ngu đần ở Mỹ lại tiếp tục móc hầu bao ra cúng dường cho "từ thiện" để cho những tên chó đẻ vô lương tâm tha hồ làm giàu, trác táng!!!

Sở dĩ chế độ cộng sản còn tồn tại đến ngày hôm nay là vì chúng ta đã nuôi nó, chớ bọn chúng không phải nhờ tài giỏi hay thần thánh gì. Chỉ cần triệt nguồn tiền tài trợ từ cộng đồng người Việt tại hải ngoại và các phương tiện truyền thông chống cộng hoạt động hữu hiệu là đủ sức cho toàn dân trong nước vùng dậy. Số phận của chúng ta do chính chúng ta quyết định. Người Mỹ hay ông trời không thể cứu được chúng ta.

Trần Thanh
Ngày 21 tháng ba năm 2009



HUYẾT TÂM THƯ (UBTV ĐẢNG TTVN)


ĐẢNG THĂNG TIẾN VIỆT NAM
VIETNAM PROGRESSION PARTY (VNPP)
Việt Nam, ngày 24 tháng 03 năm 2009
    HUYẾT TÂM THƯ
Kính gửi:
    - Toàn Thể Người Việt Nam trong và ngoài nước
    - Ban điều hành lâm thời Khối 8406
    - Các Tổ chức - Tôn Giáo- Đảng phái phi cộng sản
    - Các Cơ quan Truyền thông - Báo chí trong - ngoài nước
Mỗi năm vào những ngày này chúng tôi không tránh khỏi bùi ngùi nhớ đến ngày OAN NGHIỆT của Vị lãnh đạo tinh thần kính mến LM Nguyễn Văn Lý và các anh em ĐẢNG TTVN đã đấu tranh Tự Do -Dân Chủ cho ĐỒNG BÀO VN mà bị nhà cầm quyền csVN kết án OAN SAI!

Mối hận này không những riêng các thành viên Khối 8406 hay của đảng TTVN mà của cả Đồng bào và các Dân tộc yêu chuộng TỰ DO - DÂN CHỦ .

"NHẤT NHẬT TẠI TÙ- THIÊN THU TẠI NGOẠI", nhưng Cha Lý đã không ngần ngại đau khổ mà Ngài còn sẵn sàng tranh đấu trực diện và rằng: "TỰ DO HAY LÀ CHẾT" !

Gần cả cuộc đời, Ngài sống vì ĐẠO và luôn nghĩ đến việc cứu ĐỜI.

Bao nhiêu lần bị tù đày chỉ vì hai chữ TỰ DO.

Cộng sản coi TỰ DO là kẻ thù, có TỰ DO thì không thể ĐỘC TÀI, không thể ĐÈ ĐẦU - CƯỠI CỔ người dân lương thiện.

Chủ trương chính sách của cs là: "NGU DÂN & BẦN CÙNG HÓA NHÂN DÂN " !

Nghèo đói lấy đâu ăn học mà không ngu dốt, và đã dốt nát thì chỉ làm tay sai - nô lệ truyền kiếp.

Cộng sản luôn luôn dùng chiêu bài: ĐÁNH ĐỔ GIAI CẤP BÓC LỘT (Tư bản), ĐẤU TRANH GIAI CẤP ĐỂ GIẢI PHÓNG DÂN NGHÈO, nhưng chính bọn chúng không những bóc lột mà còn ăn cướp của dân một cách trắng trợn.

Tuy thế chưa thỏa mãn còn tiếp tục gây tội lỗi tày trời: CẮT ĐẤT - GIAO BIỂN ĐÔNG cho Trung cộng & CHUẨN BỊ BÁN NƯỚC nếu Đồng bào cứ im lặng cúi đầu khuất phục!
    Hỡi tất cả những Người Việt nam !
    Nước Việt Nam còn, là còn Người Việt !
    Nếu nước VN mất , thì chúng ta là người gì ???
    CHÚNG TA MỖI NGƯỜI VN THÀ CHẾT CÒN HƠN CHỨ KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN LÀ NGƯỜI TÀU !!!
Mất nước đến nơi mà nhiều người vẫn chưa thức tỉnh, vẫn còn nhẹ dạ tin nghe những luận điệu tuyên truyền lừa gạt của csVN . Thậm chí một vài tổ chức do những tên BẮT CÁ HAI TAY cầm đầu vẫn còn hy vọng sẽ có Jelsin thứ II, rồi yên tâm chờ SUNG RỤNG .

Trước lễ Giáng sinh, công an nói với anh Nguyễn Bình Thành (Đảng TTVN) rằng anh sẽ được thả trong dịp Tết Nguyên Đán.

Mặt khác cũng chính công an csVN tung tin là trong tháng 3 năm 2009 này Cha Lý và LS LTCN sẽ được thả về.

Dĩ nhiên chúng tôi mừng khi nghe tin, nhưng chúng tôi không tin !

Chúng tôi không bao giờ quên câu nói bất hủ của Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu "ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ CS NÓI - MÀ HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ CS LÀM " !

Chúng ta đã thấy tất cả SỰ THẬT những gì csVN đã và đang làm, chúng ta không thể thơ ngây tin tưởng bất cứ một luận điệu nào của csVN, cũng như không ỷ lại trông chờ thế lực của ngoại bang, mà chính mỗi một người dân VN phải tự đứng lên giải phóng ÁP BỨC cho chính mình dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đấu tranh TD-DC chân chính trong nước.

Cha Lý đã nhắn nhủ: "ĐẤU TRANH PHẢI QUYẾT LIỆT, ....."

Mới đây Cha Lý đã nhắn lời ra thăm tất cả các anh em, bạn bè thân thiết và cho biết: "NGÀI LÚC NÀO CŨNG KIÊN VỮNG , CŨNG ... DÙ Ở ĐÂU"!

Vì sự nghiệp đấu tranh chung cho TD-DC Việt Nam Uỷ Ban Thường Vụ Đảng TTVN đề nghị :

Thứ nhất:

- Yêu cầu các Vị điều hành lâm thời Khối 8406 (LM Phan Văn Lợi, Kỹ sư Đỗ nam Hải, Anh Trần Anh Kim, GS Nguyễn Chính Kết) không vì bất cứ lý do gì mà bỏ tên Cha Lý trong danh sách Ban Lãnh Đạo Khối 8406, bởi Cha Lý là Người sáng lập Khối 8406 không những người Việt mà cả Thế giới ngưỡng mộ và kính trọng.

Chúng tôi cảm thấy việc bỏ tên Cha Lý ra khỏi danh sách NHƯ MỘT HÀNH ĐỘNG KÉO CỜ ĐẦU HÀNG.

Trong khi Cha Lý vẫn sống, vẫn kiên vững đấu tranh dù ở đâu. Đó là chưa nói đến việc xúc phạm DANH DỰ của Cha Lý và UY TÍN của cả phong trào đấu tranh Tự D0-Dân Chủ cho VN.

Ngay sau khi Cha Lý bị bọn csVN kết án OAN SAI theo luật rừng, Quý Vị đã bỏ tên Cha Lý trong danh sách Lãnh đạo Khối 8406, chúng tôi đã viết thư 2 lần cho LM Phan Văn Lợi đề nghị ghi tên Cha Lý vào, nhưng LM Lợi không trả lời.

Vì vậy UBTV ĐẢNG TTVN yêu cầu các Vị Lãnh đạo lâm thời Khối 8406 nói trên ghi tên Cha Lý vào danh sách BAN LÃNH ĐẠO Khối 8406 như ban đầu.

Thứ hai:

Khối 8406 là một tập hợp QUẦN CHÚNG RỘNG RÃI bao gồm các Tổ chức, Đảng phái không cs và toàn dân, trong đó Đảng TTVN là một trong những thành viên nòng cốt. Chúng tôi luôn mong muốn góp sức cùng Quý Vị để đấu tranh Tự Do-Dân Chủ một cách hữu hiệu cho đồng bào VN.

Kinh nghiệm qua các cuộc Cách mạng Tự Do-Dân Chủ tại Đông Âu và Nam Tư (Yugoslavia), họ vận động đồng bào xuống đường với sự dẩn đầu của các nhà Lãnh đạo Dân chủ cho đến ngày thành công, họ bất chấp thời gian và khí hậu lạnh. Cuộc xuống đường của đồng bào Nam Tư kéo dài hai tháng trường dưới sự DẨN ĐẦU của Vị Lãnh tụ phong trào đấu tranh TD-DC và họ đã thành công.

Vẫn biết: "Viết 10 pho triết không khó bằng thực hiện một phương châm", nhưng không có nghĩa khó không làm được. Các nước Đông Âu và Nam Tư họ làm được thì dân tộc VN cũng làm được !

Vấn đề là các Vị lãnh đạo Khối 8406 hiện nay có sẵn sàng hy sinh và can đảm như lãnh tụ của các nước nói trên hay không ?

Đảng TTVN sẵn sàng chung sức cùng Quý Vị và đồng bào khi tình huống xảy ra, trong điều kiện bảo mật vì csVN lúc nào cũng tìm kiếm Thành viên Đảng TTVN để bắt.

CSVN đã và đang sẵn sàng bán nước cho Trung cộng.

CHÚNG TA THÀ CHẾT CHỨ KHÔNG LÀM NÔ LỆ, KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG !!!

Kính mong tất cả các Tổ chức - Tôn Giáo - Đảng phái và Đồng bào trong - ngoài nước cùng đồng tâm - nhất trí đứng lên CỨU NGUY DÂN TỘC & BẢO VỆ TỔ QUỐC VN !

Trân trọng kính chào

UBTV ĐẢNG TTVN

Chủ tịch
- Nguyễn Phước

Phó Chủ tịch
- Võ Đình Chương



Friday, March 27, 2009

HUYỀN SỬ TIÊN RỒNG: MINH TRIẾT UYÊN NGUYÊN CỦA DÂN TỘC - Đông Lan

Đông Lan

Huyền Thoại là tự truyện của một dân tộc được kể lại trong cái lung linh sử mệnh của dân tộc. Sử mệnh của một dân tộc là con đường tiền nhân mặc khải qua những thăng trầm, của phút nội tỉnh, những phút trổi vượt về miền tâm linh siêu việt, của những ước vọng hừng hực LỬA SINH SINH không mất đi trong hành trình sinh tử.

Do đó, Huyền sử là Tiềm Thức Cộng Thông của Dân Tộc, nơi đó tiền nhân gửi gấm linh hồn vượt không gian và thời gian qua huyền thoại.

Thật thế, Huyền sử là di bảo thiêng liêng, là giá trị tinh thần của dân tộc do bao đời kết tinh, là linh hồn của lịch sử. Huyền sử là ý nghĩa của sử, là đạo lý của sử, là mạch sống đời đời của sử. Nếu sử ký là Sử Hàng Ngang, nhằm ghi lại sự kiện bám sát vào không gian và thời gian, thì Huyền Sử là Sử Hàng Dọc, vượt lên, bao trùm không thời, đi vào cội nguồn của hồn sử. Những biến cố của sử ký có tính cách cá thể, chỉ xẩy ra một lần, trong một không gian và thời gian nhất định. Vì thế, địa danh và niên đại phải được ghi chép rõ rệt và trở thành quan trọng. Nhưng trái lại, ý nghĩa của Huyền sử nhắm tới cái gì phổ quát, vượt lý trí phân minh, đi vào miền thâm sâu của tiềm thức, tiếp cận miền vi tế của tâm linh. Vì thế những địa danh, niên đại, cũng như các nhân vật phải được hiểu một cách co dãn, trừu tượng, vì Huyền sử là đạo lý của dân tộc được gửi gấm qua những mảnh vụn lịch sử. Do đó, nếu sử ký là Sử Vòng Ngoài của những biến cố Ngoại Diện, thì Huyền Sử là Sử Vòng Trong của Tâm Linh Dân Tộc.

Hay nói cách khác, nếu sử ký là câu chuyện của Tử Sinh, thì Huyền sử là cõi Sinh Sinh Bất Tuyệt.

Do đó, muốn tiếp cận Ánh Sáng Tâm Linh của Huyền Sử, con người cần phải thả lỏng các ràng buộc của quy luật sử ký, cần dọn tâm hồn cho trống rỗng, tâm không nghiêng lệch, ô nhiễm từ bất cứ ý niệm nào. Cùng nhau, chúng ta, những người con Việt muôn phương, mở lòng ra, lòng Hư Không, và bắt đầu cung kính mở trang đầu tiên Huyền Sử Việt. Cuộc hội thoại với Tâm Linh Dân Tộc chỉ cần một hành trang duy nhất là không một hành trang gì được mang theo – Đọc Huyền Sử với Tâm Vô Tư, Vô Nhiễm, Vô Cầu.

* ( Chính Văn) Truyện Hồng Bàng

Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quận cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc.

Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dậy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ; hoặc có lúc đi về thủy phủ nhưng trăm họ vẫn được yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta”, thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được.

Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỷ thấy Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê la Âu Cơ cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa, dị thảo, trân cam dị thú, tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào là không có; khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.

Nhân sẵn về nên mới đem nhau kêu rằng: “Bố ở phương nào nước nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân, nên mau về cứu nhân dân”.

Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá mới hóa ra một chàng trai nhi lang phong tú mỹ lệ, tả hữu thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang. Đế Lai về không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng, kẻ đi tìm úy cụ, không dám lục đảo tận cùng. Đế Lai trở về Bắc lại truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Truyền và Trác Lộc không hơn nên tử trận. Họ Thần Nông biến mất.Âu Cơ ở với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bà đem về nuôi nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng uy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường.

Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh ngày đêm trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!” Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã. Âu Cơ nói:

-Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ.Lạc Long Quân bảo:

-Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc gì thì cùng nghe, không được bỏ nhau.

Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tồn (bây giờ là nước Chiêm Thành), chia trong nuớc làm mười lăm bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Vũ Định, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em phân trị, đặt em thứ là tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng; con trai vua gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu Ty gọi là Bố Chính, thân bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khởi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.

Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua. Vua bảo rằng:

- Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.
Bèn khiến lấy mực châm hình trạng thủy quái ở thân thể, từ đó tránh được nạn giao long cắn hại; cái tục văn thân của Bách Việt thực khởi thủy từ đấy.

Ban đầu quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo cất làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cầy, lấy nước cấy đất trồng gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, lấy cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện việc vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã cối gạo cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.

Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.

* Ý Nghĩa

Qua Huyền Sử Hồng Bàng, dân tộc ta có truyền thuyết về nguồn gốc Người Việt là Con Rồng Cháu Tiên.

Như đã trình bầy ở trên, huyền thoại dân tộc là lời gửi gấm sâu xa về ý nghĩa nhiều hơn sự kiện. Tiên và Rồng là hai biểu tượng chỉ Hai Linh Lực của cuộc sống. Hai sức sống ngược chiều nhau như Tiên và Rồng trong huyền thoại, ví von như Tiên ở trên núi, Rồng gốc dưới nước. Hai sức đối nghịch không giống nhau được, như Hữu -Vô, Tán- Tụ, Tử- Sinh, Tâm-Vật, Lý-Tình v.v…Sự mâu thuẫn phải gây ra ly biệt, cho nên sự chia tay của Lạc Long Quân và Âu Cơ là sự chia tay tất yếu của lý trí khi nhìn ở sự cách ly của vạn hữu. Vì, Lý Trí là Phân Biệt.

Thật thế, nếu ta thử ngắm nhìn ngoại giới với giác quan thông thường ta sẽ thấy vạn vật rõ ràng phân biệt với hai khuynh hướng cực kỳ khác biệt: Thế giới cụ thể này quả thực là có; có xác thân với bao là nhu cầu cần thỏa mãn, có cảm xúc mừng giận buồn vui với tất cả chấn động của thân tâm; có mùa trăng hạ huyền, có hương táo nồng nàn…Nhưng rồi tất cả những đọng ngừng tưởng chừng như có thật ấy rồi cũng trôi qua. Không níu giữ được mãi, nên con người mới vỡ lẽ ra cái hư vô đã ẩn tàng nơi sự vật , nơi kết tụ mong manh đã ngầm chứa sự biệt ly, trong sự sinh tồn đã có lưỡi hái huỷ diệt. Ý thức về hai sức mâu thuẫn trong bản thể vạn vật làm con người - dù mặc nhiên hay minh nhiên - xác nhận bản tính cho nó nơi chọn lựa cách thái sinh hoạt: Nếu nhận rằng bản chất đời sống là những gì hữu hạn, cụ thể, thoả mãn những giá trị mà giác quan có thể kiểm nhận được, người ta đi theo khuynh hướng duy vật hữu vi một cách tích cực. Ngược lại, con người cũng có thể chọn lựa thái độ tích cực với vô vi. Hoặc một chọn lựa dung hợp, như An Vi chẳng hạn. Nghĩa tích cực ở đây có nghĩa là coi trọng, nghiêng về một giá trị này và coi nhẹ giá trị khác, là đặt nổi yếu tố đối kháng và chọn lựa dứt khoát.

Sự việc Lạc Long Quân đề cập với Âu Cơ về các sự khác biệt, nào là: Thủy hỏa tương khắc, phương viên bất đồng chính là ý nghĩa của cái nhìn của Lý trí trên hiện tượng vạn vật. Lý trí là một khả năng hữu hiệu của con người trên bứơc đường phân tán. Nó có tính sắc bén của một con dao nên khi xử dụng lý trí trên bất cứ sự vật, sự việc gì, việc đầu tiên của lý trí là chia cắt, chẻ nhỏ, cô lập sự vật, sự việc ấy lại, nên thấy nước là nước, lửa là lửa, làm sao không bất đồng. Chỉ đặt nổi sự khác biệt, là đặt nặng đối kháng, tất phải chia lìa.

Trong đời sống, chúng ta đã biết bao lần để cho lý trí làm chủ các quyết định, chỉ nhìn thấy sự việc một chiều. Hoặc chọn cái lợi thì phải bỏ nghĩa, hoặc chọn ích kỷ thì phải dứt tình người, hoặc chọn sắc đẹp thì phải quên đi phần đức hạnh, hoặc chọn danh vọng thì phải hy sinh chính nghĩa, hoặc chọn tâm bỏ vật, chọn vô bỏ hữu… Như thế, có nghĩa là ta đã đi vào cái vấn nạn của câu chuyện mở đầu huyền sử: Câu chuyện của Lý Trí, câu chuyện của Phân Biệt, câu chuyện của sự Chia Ly, và dĩ nhiên là câu chuyện của sự Bất An, có nước mắt, hoạn nạn, khổ đau.
Nhưng câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ không dừng lại ở đây.

Quan trọng nhất là đoạn Giải Kết cái mâu thuẫn của đời sống phân chia bởi lý trí. Minh Triết Việt cho sự việc Âu Cơ và Lạc Long Quân cùng đồng ý với nhau, nếu có việc cần vẫn phải gặp nhau trên Cánh Ðồng Tương, và nghe lời nhau, không được bỏ nhau, lại là một Hóa giải mâu thuẫn từ nền tảng của Tâm Vô Phân Biệt. Chữ Tình được kết thúc nơi đây thay cho Lý phải là từ giác ngộ Tâm, vì nơi đáy nội tâm sâu xa thăm thẳm ấy mới dung chứa được mọi sự khác biệt, mới nhìn thấy được cái phân chia của lý trí là giả tạo, hẹp hòi, thiển cận. Trầm tư, tâm tư, thả lỏng ý thức bén nhậy đi, con người mới bắt được cái Hư Không, mới trực nhận được Hư Không ấy mới là Lẽ Thật, mới không chỉ thấy đời chỉ là phân ly, dị biệt của từng vạn vật, mới Hội Tụ về Nhất Thể, mới tìm được suối nguồn Bình An, Hạnh Phúc miên viễn giữa lòng đời.

Trong ý nghĩa đó, Huyền thoại Tiên Rồng đã muốn nói một sự Tương Quan giữa hai đối nghịch đều phải Kết Hợp làm một ở đích điểm của mâu thuẫn.

Tiên Rồng là nguồn gốc của người Việt, hay nói chính xác hơn, Tiên Rồng là Bản Thể của vũ trụ, vạn vật và con người muôn nơi muôn thuở. Thật thế, chúng ta thử quan sát và chiêm nghiệm mọi lẽ vận hành trong tự nhiên hay mỗi sinh hoạt của con người đều phản ánh nguyên lý hòa hợp trong mâu thuẫn, tương quan trong đối lập. Vạn sự vạn vật tự bản thể đều có rồi không, không rồi lại có. Nhưng làm sao ta biết được là Thực Tại là có hay không. Vạn vật nương nhau tồn tại và phân định danh phận cho nhau xuất lộ nơi từng cặp mâu thuẫn tịnh hành: Nam-Nữ, Thiện-Ác, Tiểu-Đại, Động-Tịnh, Ngày-Đêm…Trong sự tương đối ấy, mọi sự mâu thuẫn đều là điều kiện của nhau. Có xác định người nam thì mới có tiêu chuẩn y cứ mà cho rằng người kia là nữ. Vì cho rằng có điều gọi là thiện thì mới gọi điều ngược lại là ác. Có vật cho là nhỏ thì mới có vật lớn. Không có biến động thì làm sao có ý thức về thường tịnh. Không có ánh sáng ban ngày thì làm sao có bóng tối để gọi là đêm…Cho nên, chính trong mâu thuẫn, vạn vật tự xác định cái danh và phận của nhau, tự giúp nhau tồn tại, tự sinh ra nhau, và cũng sẽ tự diệt với nhau. Bản chất ấy gọi là mối tương quan nền tảng. Nếu Chân Lý là Sự Thật, thì Mâu Thuẫn là Chân Lý, Tương Quan Mâu Thuẫn là Chân Lý Tối Cao, Kết Hợp Mâu Thuẫn là Chân Lý Nền Tảng. Khi Kết Giải Mâu Thuẫn cho Tiên và Rồng không được bỏ nhau, vẫn gặp nhau ở Cánh Đồng Tương, có nghĩa là Huyền Sử Việt đã xác tín nhận thức về Chân Lý Toàn Diện ấy. Chân lý là nơi lưu thông những bế tắc. Chân lý là sự tương quan giữa hai chiều đối nghịch. Chân lý là nơi giao hòa của mâu thuẫn. Tiên tổ truyền lại bài học về Bản Tính của vạn vật tiêu biểu trên cánh đồng Tương, nơi gặp gỡ của hai lực đối nghịch Tiên Rồng. Cánh đồng Tương cũng chính làCánh đồng Tâm.

Như thế, ta có thể gọi Rồng Tiên là Âm Dương, Sắc Không cũng cùng một ý nghĩa như vậy. Rồng Tiên, Âm Dương , Sắc Không chính là Bản Thể Mâu Thuẫn bất Khả Phân Ly qua ý nghĩa của Mùa Tiên Rồng Hội Ngộ nơi Tương Dã trong Huyền Sử Việt.

Ngày nay khoa học minh chứng trong điện, cũng có hai dòng điện tiêu, tích. Phân tích một nguyên tử cho biết đó chỉ là sự cấu tạo của âm điện tử và dương điện tử. Với thuyết tương đối của Einstein thì hai thực thể cơ bản làm nên mọi hiện tượng vạn vật là Thời gian và Không gian không phải là hai thực thể độc lập không có chi liên hệ. Mà không gian và thời gian tương quan, liên kết, có thể nói vũ trụ này chỉ là một khối Không-Thời-Liên. Trong lãnh vực y khoa, cơ thể luôn sinh ra chất đề kháng với các chất có hại cho nó (bệnh chỉ là sự bất quân giữa các liều lượng của chất thuận và nghịch). Hệ thống điện toán ngày nay chỉ dựa trên sự áp dụng của hai tình trạng 0 và 1.

Như vậy theo kiểu nói của ngôn ngữ nào, biểu tượng trong huyền sử, mạch lạc trong triết lý, hay cụ thể trong khoa học, cũng đi đến những ý nghĩa như nhau về bản thể của vạn vật, và cũng là bản chất của con người: HÒA điệu giữa hai đối nghịch, Một mà Hai, Hai mà Một, Mâu Thuẫn nhưng không hủy diệt, Tương khắc Tương sinh, Sắc Sắc Không Không.

Trên chiều hướng đó, Huyền Sử Con Rồng Cháu Tiên được hiểu như hai cột trụ chống đỡ khung Tâm Thức con người của Minh Triết Việt. Khi Rồng Tiên còn chia cách, thì Rồng có thể biểu hiệu cho bản chất hướng ngoại, phân chia, suy luận, lý trí, ý thức, hiển nhiên như Tâm còn ở trong chốn đầm lầy tù hãm có tính chất vật thể giới hạn, tức Rồng mới ở giai đoạn khởi đầu của tiến trình Cá thể hóa của cõi Hiện tượng, còn nặng phần tiểu tâm, tiểu trí của cái “ta” nhỏ bé ở đợt hiện hình, ngoại diện. Còn Tiên có thể biểu hiệu cho bản chất hướng nội, tổng quát, trực giác, tâm tư, tiềm thức, nhưng Tâm vẫn còn ở trong trạng thái mông lung, hàm hồ, đồng nhất với cõi Vô thức.

Muốn thoát khỏi “gọng kềm” nhị nguyên đối kháng nêu trên, là tình cảnh phải “chọn một bỏ một”, hoặc một bên Ý Thức phân ly, tính toán sắc cạnh, hoặc bên kia, Tiềm Thức hàm hồ, âm u, tăm tối, như phải chọn hoặc Lý hoặc Tình, một vấn nạn khó khăn, mà muốn giải quyết, Hành giả phải tạo điều kiện cho Rồng Tiên Hội Ngộ. Được như vậy thì Rồng mới vùng vẫy, uốn khúc được để trở thành Rồng Thiêng, vì Rồng không còn biểu hiệu cho lý trí của ý thức cá nhân hữu hạn nữa, mà nhờ tiếp cận với Tiên, tức nội dung của Tiềm Thức thâm sâu nên Rồng đã trở thành Biểu Tượng của Ý Thức Sáng Láng Về Toàn Thể Thực Tại mang tính Vô Biên. Còn Tiên dưới ánh sáng của Ý Thức Toàn Diện của Rồng, đã vượt qua được trạng thái “vô phân biệt” Nguyên thủy của trạm Quỳnh Hư của cõi Tiềm Thức mông lung để bước vào điện GIAO QUANG của miền TÂM LINH SIÊU TUYỆT.

Rồng Phải Hội Ngộ cùng Tiên trong Ý Nghĩa con người với cái “ta” Ngoại Diện thuộc về Lý Trí Hiện Tượng có khuynh hướng liên hợp với cái “TA” uyên áo của Nội Tâm sâu thẳm. Rồng không còn là Rồng nữa với xác thân hữu hạn, mà đã “Siêu Việt” để trở thành Rồng Thiêng khi tiếp cận Giấc Mơ Tiên. Cũng tương tự, Tiên cũng rộn ràng đam mê nhiệt đới, cũng không thể khước từ trái Táo địa đàng. Tâm Thức Rồng Tiên là Tâm Thức Toàn Diện của Cơ Cấu Uyên Nguyên. Cá nhân chỉ Trọn Vẹn Hóa trong Tương Quan, Thống Nhất với Toàn Diện Tính của Bản Thể Rồng Tiên. Trong tất cả những đa đoan của đời sống chẳng qua chỉ là một trường thử nghiệm của khuynh hướng tìm về chính Mình, Bản Tính Liên Hợp, có nước mắt của chia xa và niềm hân hoan hạnh ngộ. Nói một cách khác, Chân Lý Rồng Tiên ẩn tàng nơi Tương Dã chính là Lời Hẹn của Tình Yêu giữa Đạo với Đời. Cho nên Đạo Mới Không Xa Đời.

Huyền Sử Tiên Rồng còn gửi lại ý nghĩa thêm nữa trong việc Mẹ Âu Cơ sinh được 100 trứng trong một bọc, sau này 50 con ở lại với mẹ và 50 con theo cha xuống biển. Bọc đây phải là Bọc Tâm Linh . Bọc Tâm Linh nên ôm ấp chân lý tròn đầy, chân lý kết hợp, hòa tan mọi mâu thuẫn của thế giới hiện tượng phân biệt, Chân lý Hòa Hợp, bất khả phân ly của Đạo Thể Viên Dung. Một trăm ở đây cũng là biểu tượng cho sự toàn vẹn của mỗi khả thể, 100 là cái toàn thể, toàn thiện của chân lý. Chân lý không để phần tử nào phải lẻ loi cô độc. Chân lý là tròn đầy. Chân lý như là tổng số 100.

Đi vào thể dụng của chân lý, Tiên Rồng với bọc trăm trứng giúp cho người Việt cảm thấy gần gũi nhau hơn trong ý nghĩa đều là cùng một bụng mẹ Âu Cơ, cùng phải thân yêu, đùm bọc lẫn nhau, kết quả là ta có chữ đồng bào (cùng một bọc) để gọi nhau. Và, gọi người cai quản sinh hoạt xã hội bằng “bố”, một từ mà sau này người Việt dùng để gọi cha ruột thịt của mình. Một hình ảnh thân yêu và gần gũi giữa người một nước coi nhau là con một bọc của mẹ, dân gọi vua âu yếm và tin tưởng như cha, ta thấy một dân tộc có trình độ văn hóa cao siêu và nhân bản đã biểu hiện qua Huyền sử Tiên Rồng một cách thơ mộng mà thiết thực như thế là cùng! Còn có một nền nhân bản nào cao siêu hơn?

Chúng ta hãy tìm hiểu các nền văn minh trên thế giới. Tây phương khởi nguồn từ văn minh Hy Lạp, mà theo đó, con người là con cháu của các thần thánh hung dữ và độc ác, đầy đủ thói hư tật xấu của trần gian. Con người vì vậy rất sợ hãi sự thịnh nộ và trừng phạt của các thần, nên giới thống trị dựa vào sự tin tưởng ấy để đưa đến một xã hội phi nhân bản, phân chia giai cấp, điển hình là chế độ nô lệ. Tổ sư triết học Tây phương là Socrate, Platon, Aristote đã chấp nhận và bênh vực cho chế độ nô lệ. Rồi sau đó kỹ thuật tiến dần thì chế độ nô lệ bãi bỏ, chứ không do một lý tưởng cao đẹp nhân chủ bình đẳng nào hô hào bãi bỏ. Ấn Độ cũng không hơn gì. Niềm tin vào thần thánh khiến sự phân chia giai cấp vì lý do sanh bởi chân tay của thần thánh thì phải làm nô bộc cho giai cấp sanh từ đầu của thần thánh, rốt cuộc đại đa số dân chúng làm nô bộc cho một thiểu số tư tế và quý tộc. Ta thử xem bảng thống kê về sự bãi bỏ nô lệ, mới chỉ xẩy ra chưa bao lâu: Hoa Kỳ bãi bỏ nô lệ năm 1808, Anh 1833, Pháp 1845, Bồ Đào Nha 1856.

Trở lại Ý Nghĩa Huyền Sử trên, Tiên Rồng còn mãi mãi ly biệt, khi đời còn theo quan niệm chia cắt Thực Tại Toàn Diện bằng cái nhìn của Lý Trí, như những thuyết Duy vật, Duy tâm, Duy Một Chiều Kích. Tiên Rồng chỉ được Hội Ngộ khi con người nhận thức Chân Lý Hai Chiều Toàn Diện của cuộc Nhân Sinh. Hay nói cách khác, Huyền Sử Tiên Rồng đã đưa ra 3 mệnh đề : Chính Đề là Hiện Tượng Mâu Thuẫn, Phản Đề là Lý Trí Phân Ly, Tổng Đề là Tâm Linh Vô Phân Biệt, qua sự việc Tiên Rồng chia tay rồi hội ngộ nơi Cánh Đồng Tương .

Tóm lại, qua Huyền sử Con Rồng Cháu Tiên của Việt Đạo, bài học đơn giản mà ta có thể nhận ra ngay là: “Ngoài thì là Lý, nhưng trong là Tình”. Sâu xa hơn nữa, đây là một Biện Chứng Tâm Linh Tổng Hợp Chân Thực Hiện Tượng và Bản Chất của nền MINH TRIẾT UYÊN NGUYÊN của Dân Tộc.

(Trích trong Yêu Mến An Vi, cùng tác giả)


Đông Lan