Sunday, March 22, 2009

Sáng Mắt ra chưa (bài 5) - Đoàn Văn Toại

Thổn thức cho Việt Nam

Đoàn Văn Toại
Felix lược dịch từ: A Lament for Vietnam, The New York Times, March 29, 1981


Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam.

Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?

Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.

Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.

Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.

Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.

Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.

Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).

Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.

Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.

Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.

Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.

Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.

Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo”. Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!

Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.

Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.

Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.

Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.

Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.

Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.

Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:

"Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười".
(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu).

Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.

Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi trụy. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”.

Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.

Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury, “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam.

Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.

Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.

Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.

Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.

Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.

Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.

Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.

Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.

Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận, “Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.

Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.

Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi, "Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.

Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.

Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.

Đoàn Văn Toại


Saturday, March 21, 2009

Một vài sự thật về tên vgcs Nguyễn Tấn Dũng và sui gia

"Chuyện về gia đình phò mã và sui gia của Thủ tướng"
Trích từ:Vietland

Chắc trong chúng ta sẽ có lần thắc mắc sao lại không có mã di động 099 mà chỉ có 090, 091, 092, 093, 094, 095, 096, 097, 098. Năm trước thấy Bộ Thông Tin Truyền Thông nói hết kho số 09 cho di động nên mới ra kho số 012… Sắp tới mọi người sẽ có câu trả lời vì sẽ thấy một “chú” di động mới ra đời, có dịch vụ di động mang mã số 099-xxx-xxxx.

Nhà cung cấp dịch vụ này mang tên Indochina Telecom. Chắc ai cũng sẽ đang thắc mắc Indochina Telecom của ai mà lại được dành cho mã di động đẹp nhất Việt Nam như thế. Indochina Telecom được thành lập dưới danh nghĩa của Tổng cục II Bộ Quốc Phòng nhưng nguồn vốn và chi phối thực tế từ ông sui của anh 3 Thủ Tướng – ông Nguyễn Bang (cha của Nguyễn Bảo Hoàng hay Henry) và con rể của ông ấy (Thomas O’Connor, tức anh rể của Hoàng), có sự tham gia của ông Đỗ Trung Tá – nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT.

Ngoài ưu tiên được dành mã số đẹp, công ty viễn thông này còn có một đặc tính khác lạ hơn so với các công ty di động khác hiện nay, đó là nó sẽ phải bỏ ra hàng trăm triệu Đô-La để đầu tư nhà trạm phát sóng, máy móc thiết bị đắt tiền tốn kém, mà tất cả các công ty di động của Tập Đoàn Bưu chính Viễn Thông VNPT bao gồm Vinaphone, Mobifone và một phần của Viettel Mobile sẽ phải “phát sóng thay” cho nó. Mà nó cũng chẳng phải bỏ tiền ra mua các sóng này, thay vào đó nó chơi rất “cha” bằng cách khi nào nó bán được dịch vụ, tức là khách hàng 099 mà có gọi và phát sinh doanh thu thì nó ăn chia phần trăm lại cho các công ty di động này.

Đúng là một trường hợp trong mơ cũng không thể có được. Chẳng phải bỏ tiền ra đầu tư ban đầu tốn kém, cũng chẳng phải chịu rủi ro nếu mua sóng theo dung lượng nào đó mà chưa biết bán tới đó hay không. Ấy vậy mà một công ty di dộng có mã đẹp như thế chỉ cần vài chục triệu Đô-La Mỹ là hoạt động được rồi. Dự kiến là siêu lợi nhuận vì di động bình thường (phải đầu tư lớn) đã lời rất nhiều, còn cái này thì chẳng phải đầu tư gì đáng kể.

Mấy chục triệu Đô-La này phía Tổng cục II không phải bỏ ra mà gia đình ông sui anh Ba Dũng lo hết. Nhưng trên thực tế, khoản tiền này cũng chẳng phải là tiền túi của gia đình này mà nó có nguồn gốc thật đáng xấu hổ. Những ai đọc các loạt bài ca ngợi phò mã Henry cách đây hơn một tháng trên các báo lề phải thì chắc vẫn còn nhớ các bồi bút nhắc tới VITC là một công ty được vị phò mã (tức là lúc đó chưa phải phò mã) Henry thành lập và phát triển nó lớn mạnh đến mức doanh số cả chục triệu Đô. Doanh số lên cả chục triệu là thật nhưng sự thật đầy đủ thì hãy đọc tiếp dưới đây.
Đỗ Trung Tá (dấuX) trong chuyến tháp tùng
Nguyền minh Triết sang Mỹ

Indochina Telecom được thành lập dưới danh nghĩa của Tổng cục II Bộ Quốc Phòng nhưng nguồn vốn và chi phối thực tế từ ông sui của anh 3 Thủ Tướng – ông Nguyễn Bang (cha của Nguyễn Bảo Hoàng hay Henry) và con rể của ông ấy (Thomas O’Connor, tức anh rể của Hoàng), có sự tham gia của ông Đỗ Trung Tá – nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT. Ngoài ưu tiên được dành mã số đẹp, công ty viễn thông này còn có một đặc tính khác lạ hơn so với các công ty di động khác hiện nay, đó là nó sẽ phải bỏ ra hàng trăm triệu Đô-La để đầu tư nhà trạm phát sóng, máy móc thiết bị đắt tiền tốn kém, mà tất cả các công ty di động của Tập Đoàn Bưu chính Viễn Thông VNPT bao gồm Vinaphone, Mobifone và một phần của Viettel Mobile sẽ phải “phát sóng thay” cho nó.

Mà nó cũng chẳng phải bỏ tiền ra mua các sóng này, thay vào đó nó chơi rất “cha” bằng cách khi nào nó bán được dịch vụ, tức là khách hàng 099 mà có gọi và phát sinh doanh thu thì nó ăn chia phần trăm lại cho các công ty di động này. Đúng là một hợp trong trong mơ cũng không thể có được. Chẳng phải bỏ tiền ra đầu tư ban đầu tốn kém, cũng chẳng phải chịu rủi ro nếu mua sóng theo dung lượng nào đó mà chưa biết bán tới đó hay không. Ấy vậy mà một công ty di dộng có mã đẹp như thế chỉ cần vài chục triệu Đô-La Mỹ là hoạt động được rồi. Dự kiến là siêu lợi nhuận vì di động bình thường (phải đầu tư lớn) đã lời rất nhiều, còn cái này thì chẳng phải đầu tư gì đáng kể.

Mấy chục triệu Đô-La này phía Tổng cục II không phải bỏ ra mà gia đình ông sui anh Ba Dũng lo hết. Nhưng trên thực tế, khoản tiền này cũng chẳng phải là tiền túi của gia đình này mà nó có nguồn gốc thật đáng xấu hổ. Những ai đọc các loạt bài ca ngợi phò mã Henry cách đây hơn một tháng trên các báo lề phải thì chắc vẫn còn nhớ các bồi bút nhắc tới VITC là một công ty được vị phò mã (tức là lúc đó chưa phải phò mã) Henry thành lập và phát triển nó lớn mạnh đến mức doanh số cả chục triệu Đô. Doanh số lên cả chục triệu là thật nhưng sự thật đầy đủ thì hãy đọc tiếp dưới đây.

Nguyễn Bang khi mới sang VN móc nối được với Đỗ Trung Tá và mua chuộc tay quan tham này cho một kế hoạch mà nhiều người tin là được toan tính từ đó đến nay. VITC do con rễ của ông Bang là Thomas O’Connor thành lập, đang buôn linh tinh đủ thứ từ xử lý môi trường, PVC, xuất khẩu ở VN thì đột ngột nhảy vào lĩnh vực viễn thông và có ngay hợp đồng với công ty Viễn thông Quốc tế VTI (trực thuộc VNPT) để chuyển lưu lượng điện thoại từ nước ngoài về VN với trị giá cả triệu Đô-La Mỹ một tháng.

Điều kỳ lạ là nếu như các công ty khác làm ăn tương tự với VTI (như AT&T, France Telecom, …) đều phải thanh toán trước thì VITC luôn được thanh toán sau với trị giá có thời điểm lên đến gần 50 triệu Đô. Việc làm ăn này bắt đầu từ 2002 và lúc đó Henry đang làm Giám đốc kinh doanh cho VITC, anh rể Thomas làm Tổng Giám Đốc, ông bố Nguyễn Bang làm Chủ Tịch. Ai cũng thắc mắc tại sao những tay Việt kiều này lại có thể chiếm dụng một số lượng vốn hàng chục triệu Đô thường xuyên và lâu dài như vậy. Có một số quan chức VNPT muốn đưa vấn đề này ra nhưng đều thất bại vì lúc đó ông Đỗ Trung Tá đã trở thành Bộ Trưởng Bộ BCVT từ cái ghế Chủ Tịch HĐQT VNPT.

Số vốn chiếm dụng này gia đình Nguyễn Bang dùng đầu tư vào chứng khoán, bất động sản và mở một nhà nhà hàng tên Vine ở số 1 Xuân Diệu. Đến tháng 3/2008 VITC tuyên bố đóng cửa VPĐD tại VN với số nợ VTI lúc đó lên tới 23 triệu Đô-La Mỹ, và giải tán toàn bộ nhân viên đang làm việc ở đây. Tuy nhiên sau đó, theo đề nghị của ông Tá và lãnh đạo VTI nên VITC duy trì một văn phòng giả, lẳng lặng chuyển hết máy móc về số 1 Xuân Diệu, cho thiết bị chạy không tải, không có lưu lượng để qua mắt các nhà chức trách để duy trì cái hợp đồng với VTI nhằm chiếm dụng 23 triệu lâu dài. Kế hoạch của gia đình Nguyễn Bang cấu kết với Đỗ Trung Tá (dù giờ đây không còn làm Bộ Trưởng nhưng vẫn còn ảnh hưởng mạnh trên chính trường, đặc biệt là với ông 3 Dũng) là VTI sẽ xóa nợ 23 triệu này bằng những thủ đoạn như đối soát cước, mua lại cổ phần của VITC bên Mỹ, …

Tuy nhiên việc này đến hiện nay đang gặp phản đối của nhiều người trong VNPT nên đến giờ vẫn không thực hiện được. Nhưng số tiền 23 triệu Đô thì vẫn nằm trong túi gia đình Nguyễn Bang và bây giờ được tiếp tục đầu tư vào Indochina Telecom. Trong quá trình lừa đảo trên, có một số nhân viên VITC, người nước ngoài lẫn người Việt cũng bị gia đình Nguyễn Bang lừa đảo và lợi dụng nên rất bất bình. Họ đang tìm cách đưa vấn đề này ra ánh sáng. Donald Berger (người Canada) đầu tiên hùn hạp với Thomas làm nhà hàng Vine, mới đây bị Thomas hất văng khỏi nhà hàng này.

Nguyễn Thanh Phượng con gái Nguyễn tấn Dũng và phò mã Tổng giám đốc Henry Nguyễn bảo Hoàng (dấuX) trong ngày khai trương đầu tư công ty IDG Venture Việt Nam

Hay như Larry Grace, một luật sư rất ở Chicago và là bạn học đại học của Hoàng phò mã, có thời được Thomas (thường gọi là Tom) mời sang tư vấn vụ bán một phần cổ phần của VITC cho VNPT (25%). Tuy nhiên chỉ sau 1 thời gian ngắn làm việc với gia đình này thì Larry phát hiện ngay ra đây là một công ty lừa đảo và ngay lập tức bỏ dở dự án và rút về nước làm Thomas và Hoàng vô cùng cay cú. Larry đã nhận ra bản chất lừa đảo của Tom và gia đình Nguyễn Bang từ rất sớm đã có một lần khởi kiện Tom ở Singapore liên quan đến việc lừa đảo và sử dụng vốn sai mục đích.

Tom đã phải tốn khá nhiều tiền để lo lót vụ này êm xuôi. Larry cách đây vài năm đã gửi thư đến VNPT tố cáo bản chất lừa đảo của VITC và dụng ý xấu của Tom nhưng chả ai quan tâm. Nhưng Larry tuyên bố sẽ không bỏ cuộc trong việc vạch mặt việc chiếm dụng 23 triệu Đô tiền của nhà nước (tức của nhân dân).

Tôi tin là câu chuyện này sẽ bị lôi ra ánh sáng, không sớm thì muộn. Anh 4 cũng đã nắm được thông tin này, hy vọng sẽ là một bằng chứng tốt để trừng trị Đỗ Trung Tá – thân tín của anh 3.



Friday, March 20, 2009

Nhạn trằng Gò Công mò về VN kiếm danh - Nguyễn văn Hoàng


Ca sĩ Phương Dung tên thật là Phan Phương Dung, sinh năm 1946 tại Gò Công, Tiền Giang. Năm 1962, hai năm sau khi bắt đầu ca hát, chị nổi tiếng với ca khúc Nỗi buồn gác trọ (sáng tác: Mạnh Phát, Hoài Linh). Dòng nhạc quê hương trữ tình gắn liền với tiếng hát Phương Dung từ đó.

Năm 1974, thi sĩ Hà Huy Hà (người Kiên Giang) tặng cho chị mỹ danh "con nhạn trắng Gò Công" nhờ tiếng hát chân quê ngọt ngào của đất Gò Công cùng hình ảnh chiếc áo dài trắng khi hát. Hiện nay, Phương Dung sống cùng gia đình tại Mỹ. 2 cô con gái trong số 8 người con của chị đang hoạt động nghệ thuật trong cộng đồng.

Ngoài ca hát, Phương Dung còn được biết đến là người có tấm lòng nhân ái. Chị là một trong những người thành lập Hội See The Light chuyên giúp đỡ những bệnh nhân và người nghèo tại Việt Nam qua việc giúp đỡ tiền bạc để mổ mắt, xây nhà, trường học. Chị còn vận động văn nghệ sĩ, bạn bè của mình tham gia vào chương trình này thông qua những show nghệ thuật gây quỹ từ thiện tại những quốc gia có đông người Việt.

-------------------------------

Nguyễn văn Hoàng


Thưa cô Phương Dung,
cc: anh chị em nghệ sĩ

Bức thư này cháu xin gởi cho cô, nhưng đồng thời cũng mong được các anh chị em nghệ sĩ trong và ngoài nước đọc chung, để chia sẻ tấm lòng của một người xa xứ.

Cháu là Hoàng, hiện ở Úc, đang sống chung với gia đình một anh bạn mà anh ta là người cô nuôi dưỡng trong nhà trước năm 1975. Thân phụ của cháu cũng là người đồng hương (Gò Công) của cô và biết phu quân của cô. Với quan hệ này, cháu thuộc hàng con cháu của cô, nên xin đuợc xưng là cháu.

Đọc được cuộc phỏng vấn của Nhiêu Huy thực hiện với cô, cháu có nhiều cảm xúc. Cháu đã chảy nước mắt.

Cũng như nhiều nghệ sĩ Việt Nam từng vượt biên ra hải ngoại, cô đã về nước và đã hát. Lòng hoài cựu, nhớ cố hương thì ai mà chẳng có, nên cháu không ngạc nhiên khi thấy cô về VN biểu diễn, nhưng cháu tự hỏi tại sao ngày trước nhà nước CSVN mắng chúng ta, trong đó có cô, là ma cô, đỉ điếm, bây giờ thì họ lại hoan nghênh cô về nước, còn tạo cơ hội cho cô hát trước đồng hương. Họ đã thay đổi chăng?

Thưa cô, thật vậy, sự thay đổi của nhà nước CSVN hẳn là có, thay đổi từ chủ trương kinh tế, đến thái độ đối với những người mà họ từng nguyền rủa. Không có gì là bất biến, thưa cô, trừ một điều, đó là lòng tham của những kẻ ích kỷ. CSVN một thời cầm súng, lấy của của người miền Bắc rồi miền Nam, bây giờ họ giàu nức tường đổ vách. Cầm súng để đoạt của cải người ta là ăn cướp. Ăn cướp cũng có thể hoàn lương, nhưng cô nhìn xem, các ông bà tư bản đỏ vẫn ngày càng giàu sụ, còn người dân thì đói. Lòng tham của họ bất biến. Chính vì có những người dân nghèo nên cô móc tiền túi ra làm từ thiện, nhưng các ông bà CSVN thì không, tiền họ vẫn đút túi. Có thể cô là người có cái tâm tốt, nhưng họ, CSVN, là người có cái trí khôn. Họ, trước thì dùng bạo lực lấy của, giờ thì dùng mưu mẹo, ra nghị quyết 36, dụ dỗ những người có cái tâm tốt mà kém trí như cô về làm thay công tác xã hội cho họ.

Số tiền tham nhũng, ăn trên xương máu của đồng bào của một tên trong đám tư bản đỏ đủ để xây hàng chục ngôi trường, hàng chục nhà thương. Nhưng họ nào có bỏ ra. Cái họ bỏ ra là một chút mẹo vặt và cô cùng những đồng hương nhẹ dạ nhào ra vốc túi. Chính trị là như vậy.

Trong khi đó, thưa cô, có những người thấy được sự nghèo khó của dân mình là do sự tham nhũng, tham quyền, ích kỷ và vô trách nhiệm của nhà nước CS. Họ muốn giải quyết tận gốc, họ lên tiếng đấu tranh và bị tù đày.

Những dòng nước mắt của cháu chảy ra khi đọc bài phỏng vấn của cô là cho những chiến sĩ này. Trong khi họ chiến đấu cho cái lớn lao, bị đày ải, thì cô vui vẻ hợp tác với cái chính quyền mưu mẹo, tham lam ấy. Cháu khóc cho dân tộc mình, sao lại có những người ngu muội như cô. Cháu hiểu được tại sao nước mình vẫn bị đám CSVN đểu cáng tham lam đè đầu, lý do đơn giản là vì có nhiều người như cô.

Tại sao họ lại phỏng vấn cô, hoan nghênh cô lên sân khấu? Có phải vì giọng ca của cô hay chăng? Thưa cô, năm nay cô đã đáng tuổi bà nội, bà ngoại rồi, tiếng hát "Yamaham" của cô làm sao mà so sánh với những giọng ca trẻ trong nước. Nhưng cô vẫn rất có giá, bởi vì cô là một nhân vật của quần chúng hải ngoại. Cô làm thì người ta bắt chước. Vì vậy mà Việt Cộng dụ cô, cũng như dụ những nghệ sĩ Việt Nam ở hải ngoại khác.

Có thể cô không ngu muội như cháu tưởng, cô thấy được chiều sâu của nghị quyết 36, nhưng cô vẫn về, vẫn hát, vì một niềm vui riêng, hay một ít bả vinh hoa cuối đời.

Cô ơi, sao bỗng trong lòng cháu dâng lên một niềm khinh miệt. CSVN như những con cọp, chè chén trên thịt của những con nai. Cô thì trồng cỏ nuôi nai, để thỉnh thoảng được VC pha một ngọn đèn sân khấu.

Trong giấc mơ, cháu mộng tưởng cô lên tiếng một lần cho những người trong lao tù đang đấu tranh chống tập đoàn hổ báo CS, đấu tranh cho tự do và dân chủ cho dân tộc. Giật mình tỉnh dậy, ôi thôi, thấy cô đang nhoẻn cười chải lông cho hổ báo. Dù con Nhạn Trắng Gò Công mặc bao nhiêu lớp áo dài mượt mà, dù cô có đứng dưới bao nhiêu ngọn đèn sân khấu lấp lánh, cháu e rằng cái khối bầy nhầy nho nhỏ trong đầu của cô cũng không sáng bao nhiêu.

Kính chào cô,

Nguyễn văn Hoàng

(Úc châu)
------------------------

'Nhạn trắng Gò Công' Phương Dung về nước biểu diễn

Tiếng hát "Nỗi buồn gác trọ" một thời sẽ tái ngộ khán giả TP HCM vào 2 đêm 20-21/3. Ca sĩ Phương Dung tâm sự về lần hát đầu tiên và công việc từ thiện mà chị đã âm thầm thực hiện gần 13 năm nay tại quê nhà.

- Vì sao chị chọn thời gian này để xuất hiện với tư cách là ca sĩ, dù đã về nước rất nhiều lần?

- Do cơ duyên cả. Duyên đến thì tôi hát (cười). Thú thực, tôi không gặp khó khăn trong việc được cấp phép hát. Nhưng những chuyến về trước, tôi dành nhiều thời gian cho việc gia đình và từ thiện, nên chưa thu xếp hát được.

- Cảm xúc của chị trong lần về này khác gì so với những lần trước?

- Tôi luôn nói với mọi người, tình yêu thì có vui, có buồn, nụ cười hay nước mắt. Nhưng tình quê hương thì bao giờ cũng vui và chỉ có nụ cười thôi. Đó là thứ tình lưu luyến theo thời gian, để mà "con chim nhạn" (ca sĩ Phương Dung được mệnh danh là "nhạn trắng Gò Công") hay bất cứ loài chim nào dù có bay đi đâu thì cũng phải quay về tổ.

- Biệt danh "nhạn trắng Gò Công" xuất phát từ hình ảnh chiếc áo dài trắng mà chị luôn chọn cho mỗi lần lên sân khấu. Với chị, hình ảnh quan trọng thế nào với người nghệ sĩ?

- Có một trật tự mà tôi luôn cho là đúng và hướng mình theo từ trước đến nay là: thanh, sắc, tài, tướng. Nếu hội đủ cả 4 yếu tố thì quá tốt. Còn không thì điều đầu tiên phải chú trọng là giọng hát.

Về hình ảnh, chiếc áo dài luôn là chọn lựa duy nhất mỗi khi tôi biểu diễn. Trước đây và bây giờ vẫn như thế. Nó góp một phần làm nên cái tên Phương Dung trong lòng khán giả. Cho nên, tôi xem cái tên như là sinh mệnh thứ hai của mình vậy, phải giữ đạo đức cá nhân thế nào để tên tuổi của mình xứng đáng với tình yêu thương và sự quý trọng mà mọi người dành cho mình.

- Chị mong chờ gì ở lần hát này?

- Tôi hát lại ca khúc từng giúp tôi nổi tiếng trước đây, bài Hoa nở về đêm. Tôi hy vọng dòng nhạc cũ với tiếng hát Phương Dung vẫn được khán giả thương mến như trước đây.

- Chị chia sẻ, đã về nước làm từ thiện được 13 năm nay. Việc làm này được khởi nguồn từ đâu?

- Khoảng đầu thập niên 80, tôi nhận được bức thư gửi từ Việt Nam của cô giáo dạy mình hồi lớp 3 tiểu học. Cô đang cần giúp đỡ để trị bệnh mắt. Nhưng tiếc là khi tôi gửi tiền về thì cô đã bị mù. Chính sự việc này đã làm tôi suy nghĩ, đôi khi cái mình bỏ ra để giúp đỡ rất nhỏ nhưng đem lại ánh sáng rất thần kỳ. Từ đó, tôi tự thân đi đến những vùng sâu, vùng xa từ Quảng Bình, Quảng Trị, Huế đến các tỉnh phía Nam..... để chia sẻ khó khăn với mọi người.

- Công việc từ thiện đã mang lại cho chị những gì?

- Công việc này đến với tôi một cách tự nhiên, con cái của tôi bảo là "có thể đây là mơ ước cả đời của mẹ". Tôi làm từ thiện như thực hiện ước mơ của mình. Cảm nhận vui nhất là khi thấy được thành quả từ việc làm của mình, giống như cái mơ nó thành sự thật vậy.

Hiện nay, tôi có gần 50 người em (những người mà ca sĩ Phương Dung bảo bọc, giúp đỡ) ở khắp các nơi. Riêng tại Gò Công, tôi giúp khoảng 20 em. Có em giờ đã là bác sĩ nổi tiếng, có em đang học năm thứ tư, Đại học Y TP HCM.

- Những hoàn cảnh nào dễ tác động vào cảm xúc của chị?

- Cũng không nói cụ thể được.. Tôi cứ đi và tìm theo hướng dẫn của những người bạn quen tại các tỉnh. Thấy cái nhà xiêu vẹo quá, mình góp tay sửa lại, gửi thêm chút quà. Thấy hoàn cảnh gia đình nào nghèo túng thì mình giúp.

Riêng các cháu học sinh, sinh viên thì tôi lại đòi hỏi cao hơn. Tôi thường chọn những cháu có thành tích cao, học lực giỏi để giúp.

- Chị quyên góp thế nào để có tiền làm từ thiện?

- Tôi làm với tư cách cá nhân nên không kêu gọi hay quyên góp từ tổ chức nào khác. Phần lớn số tiền có được là từ việc đi hát và bán CD. Có khán giả biết tôi hay làm từ thiện thường mua CD và ủng hộ thêm một ít tiền. Thỉnh thoảng, con cái cũng ủng hộ vào quỹ của mẹ (cười).

- Hiện tại, đời sống của chị thế nào?

- Cái may mắn nhất là gia đình tôi sống quây quần, luôn ở cạnh nhau nên dễ vượt qua mọi bỡ ngỡ hay khó khăn gặp phải. Tôi tự hào khi thấy 8 đứa con (6 trai, 2 gái) đều thành đạt. Chúng không biết nhiều về Việt Nam nhưng lại rất mê các món ăn quê hương.

- Hoạt động sắp tới của chị ở trong nước?

- Tôi dự định thu một CD tại Việt Nam, nhưng chưa tính đến việc phát hành thế nào. Thu vì ý thích. Lần này, tôi không có nhiều thời gian để ở Việt Nam nhưng sắp tới tôi nghĩ sẽ có thêm nhiều chuyến về biểu diễn khác.



Tuesday, March 17, 2009

Đờm hay Đàm? - Trần Việt Trình


Trần Việt Trình

Đờm là các chất tiết ra từ hốc mũi tới phế nang và thải ra ngoài miệng. Đờm gồm các dịch tiết của khí phế quản, phế nang, họng, các xoang hàm trán, các hốc mũi. Bình thường ai cũng có các loại tiết dịch trên, nhưng không nhiều, cho nên hô hấp không bị cản trở, không ho và khạc đờm. Khối lượng tiết dịch đó vào khoảng 100ml/24 giờ, các tiết dịch đường hô hấp sẽ qua thực quản rồi đào thải theo đường tiêu hoá. Trong trường hợp bệnh, có tình trạng da tiết các dịch của đường hô hấp, ngoài ra có thể còn các chất khác không gặp trong điều kiện bình thường như: máu, mủ, giả mạc, bã đậu. Các chất trên cản trở đường hô hấp, gây phản xạ ho và được tống ra ngoài, gọi là đờm. Đờm là hậu quả của nhiều nguyên nhân gây bệnh trên đường hô hấp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, những xét nghiệm đờm về mặt cơ thể bệnh, vi khuẩn, và ngay cả hình thái của đờm cũng giúp ta chẩn đoán bệnh. Cần thiết lấy đờm để xét nghiệm tìm nguyên nhân bệnh và cũng để theo dõi tiến triển của bệnh. Khi đường hô hấp có bệnh hoặc vào các thời kỳ khác nhau của bệnh, đờm sẽ thay đổi cả về số lượng, màu sắc, độ đặc loãng và mùi vị. Nếu quan sát kỹ sự thay đổi đó, ta có thể nhận biết được bệnh.Đờm còn gọi là Đàm. Đờm và Đàm giống nhau.

"Mr Dam & Friends" là sản phẩm của Nghị Quyết 36 của CSVN, "khạc" từ trong nước bắn qua tới Úc Châu hòng làm nhiễm trùng và lây lan cho người Việt Tự Do Tỵ Nạn Cộng Sản sinh sống ở hải ngoại. Nghị Quyết 36 nhắm phá hoại cộng đồng người Việt hải ngoại dưới nhiều hình thức.

Trong lãnh vực văn hóa, CSVN tiếp tục đưa nghệ sĩ từ trong nước ra ngoài trình diễn nhằm nhập nhằng xóa mờ lằn ranh giữa trong và ngoài nước, cũng như gây chia rẽ trong nội bộ cộng đồng người Việt hải ngoại. Đã có nhiều show được đưa ra nước ngoài trình diễn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đoàn TNCS như báo Thanh Niên với show “Duyên dáng Việt Nam” hay những show riêng lẻ của tư nhân cũng đã được sự giúp đỡ trực tiếp của sở Thông tin Văn Hoá CSVN.

Cần nhắc lại rằng CSVN đã chỉ thị rõ ràng cho các Bộ, Sở phải "thực hiện trợ giá đối với cước vận chuyển phim ảnh, sách báo, văn hóa phẩm ..., giá vé máy bay cho các đoàn nghệ thuật ở trong nước đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người VN ở nước ngoài. Mức trợ giá bằng 50% tổng số giá cước vận chuyển, giá vé máy bay thực tế thanh toán với các đơn vị vận tải. Các đoàn nghệ thuật đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người VN ở nước ngoài phải được Bộ Văn Hóa Thông Tin hoặc Bộ Ngoại Giao giới thiệu". Do vậy, những buổi trình diễn có ca sĩ từ VN qua hẳn phải nằm trong chính sách chung của CSVN, chứ không "vô hại và thuần túy thương mại" như những bầu show thường rêu rao để minh oan.

"Mr Dam & Friends" là một kế hoạch khác thâm nhập văn hoá vận vào Úc. Chương trình lưu diễn nầy đã được chính Cộng đảng VN quảng cáo trên website của họ. CSVN, một lần nữa lại lấy chiêu bài gây quỹ cho trẻ em nghèo tại VN để lừa bịp dư luận, gây xáo trộn trong cộng đồng người Việt hải ngoại và thách thức với thành trì chống văn hoá vận Cộng Sản mà Cộng đồng Úc Châu đã theo đuổi từ bấy lâu nay.

Biểu tình chống " văn Hóa vận CSVN " tại Sydney
Chiều Chủ Nhật 15.3.2009
Mỗi khi được phép trình diễn ở hải ngoại, họ đều gặp phải sự chống đối và triệt để tẩy chay của đồng bào tỵ nạn Cộng sản Việt Nam tại Úc qua những cuộc biểu tình đông đảo. Lần này CSVN chọn "chiến trường" là sòng bài Star City Casino ở Sydney và Crown Casino ở Melbourne để gây khó khăn và trở ngại cho Cộng Đồng người Việt tỵ nạn trong việc chống đối. Đứng trước sự thách thức này, mặc dầu địa thế khó khăn của các sòng bài, toàn thể đồng bào cùng các hội đoàn đoàn thể đã biểu dương sức mạnh của tập thể người Việt quốc gia tại Úc trước mọi sự ngoan cố và thách thức của CSVN và tay sai trong cuộc chiến văn hoá vận.

Trưa hôm qua, Chủ Nhật ngày 15 tháng 3, đã có gần 3000 người với cờ Vàng Quốc Gia và cờ Úc từ các nơi kéo về tề tựu trước Star City Casino để phản đối mạnh mẽ. Cuộc biểu tình được đánh giá là thành công vì đã nêu bật lên khí thế chính trị không hoà hợp hoà giải với Cộng Sản dưới mọi hình thức.

Chủ Nhật tuần này, 22 tháng 3, lại đến phiên đồng bào Melbourne tỏ khí thế chính trị đánh vào mặt trận thứ hai mà CSVN sẽ mở và chiến trường mà họ đã chọn. Cộng đồng Người Việt ở Úc đã và đang tiếp tục là ngọn cờ đầu chiến đấu chống cộng ở hải ngoại. Sức mạnh của hàng ngàn người, hàng ngàn lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, hàng trăm biểu ngữ, là tiềm lực của một quan điểm dân tộc duy nhất trong hai chử Tự Do.

Đờm hay Đàm gì cũng vậy. Khi đường hô hấp có bệnh hoặc vào các thời kỳ khác nhau của bệnh, đờm sẽ thay đổi cả về số lượng, màu sắc, độ đặc loãng và mùi vị. Nếu quan sát kỹ sự thay đổi đó, ta có thể nhận biết được bệnh.




Trần Việt Trình
16 tháng 3, 2009


Monday, March 16, 2009

Đôi Điều Nhận-Định Trong Vấn-Đề Vận-Động Kết-Hợp LMDCVN - Thanh Thủy

TinParis: Tác giả bài viết là một cựu Đảng viên của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam do Gs Nguyễn Ngọc Huy thành lập , đã từng đảm nhận những trọng trách của đoàn thể. Vì quý mến Gs NNH và thương tiếc công trình của ông đã bị " đàn em " phản bội , nên tác giả đã đưa ra những đề nghị để những anh em " có lòng " nên ý thức được vai trò , và khả năng của mình để xây dựng lại Đảng. Tuy nhiên, đề nghị của ông thật khó mà thực hiện được khác gì "tìm cây kim trong đóng rơm": Ban Lãnh-Đạo mới không vướng vào các hệ-lụy đã qua.

Ngoài các đề nghị khác như 2.- Không tiếp-xúc 3.- Không liên-lạc 4.- Không thương-thuyết 5.- Không hợp-tác với CSVN , TinParis không thấy tác giả đề cập đến các đề nghị đó đối với các tổ chức thân cộng, hòa hợp hòa giải, hay do Việt cộng giựt dây ở hậu trường như Băng Đảng Mafia Việt Tân .Mặt khác, làm sao gây lại niềm tin đối với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại khi những người có trách nhiệm trong LMDCV lại đi về Việt Nam một cách thong thả , khác nào quảng cáo gián tiếp cho chế độ CSVN là chúng dân chủ " quá thế " ?

Riêng đối với cá nhân tôi thì LMDCVN đã phản bội đường lối của Gs NNH, đang đi theo hướng khác phản bội lý tưởng của người " Quốc gia " , và đang ở giai đoạn " hết thuốc chữa " cuối cùng của "bệnh ung thư não". LMDCVN đang biến thành một thứ " Băng Đảng " hơn là " một Chính Đảng " đúng theo nghĩa của nó!

- Hứa Vạng Thọ (Chủ Nhiệm TinParis.net)

http://tinparis.net/thoisu09/2009_03_15_VanDongKetHopLMDCVN_TThuyQVH.html
-----------

    Đôi Điều Nhận-Định Trong Vấn-Đề Vận-Động Kết-Hợp LMDCVN
Thanh Thủy

Vấn-đề kết-hợp hay thống-nhứt lại một đoàn-thể đã bị phân-hóa là một việc rất đáng nên làm, nhứt là trong hoàn-cảnh hiện nay, cho nên, hàng mấy tháng nay người ta thấy có nhiều đoàn-viên, cán-bộ trong tổ-chức LMDCVN đã tỏ ra rất ưu-tư (tuy muộn-màng), nên xông-xáo lên tiếng vận-động, liên-lạc mọi phía để tìm cách ráp nối các phía lại với nhau. Giai-đoạn nầy, sự vận-động hoàn-toàn có tánh-cách nội-bộ, cho nên việc hành-xử các phía với nhau được diễn-tiến ra sao, người bàng-quan không biết được. Cho đến nay thì mọi vận-động nói trên đã bị thất bại, cho nên nội-vụ mới được đưa ra ngoài, tuy vẫn còn hạn-chế ở một số người, nhưng vấn-đề nầy đã được nhiều người biết đến.

I. Nhận-Xét và Ý-Kiến:

Không biết trong sự vận-động kết-hợp, thống nhứt, những người trong cuộc đã dựa trên căn-bản nào để đặt vấn-đề, chỉ thấy sau cuộc vận-động thất bại, các vị đã có những lời lẻ với nhau rất hằn-hộc, nhận thấy vấn-đề nói trên có ảnh-hưởng đến một đoàn-thể lớn mà trước đây đã được rất nhiều người quý-trọng và nhứt là có ảnh-hưởng đến công việc tranh-đấu chung, nên người viết xin có vài điều phát-biểu:

1. Trước khi vận-động kết-hợp, điều căn-bản cần-thiết nhứt là những người trong cuộc cần phải hiểu rõ nguyên-nhân vì sao đoàn-thể của mình bị phân-hóa? Và làm sao loại được hết những con vi-trùng tạo-ra những mầm móng phân-hóa nầy?

Nếu làm được công việc nầy thì con đường vận-động mới có thể khai-quang để những người trong cuộc bắt đầu tiến-hành. Nếu không làm được công việc nầy mà cứ nhắm mắt đi tới thì sự vận-động sẽ vô-ích mà còn gây thêm nhiều hệ-lụy, không chừng còn bị sa chân vào bẫy của những kẻ vốn lúc nào cũng muốn cho các đoàn-thể chống Cộng phải tả-tơi như xác pháo.

2. Muốn tìm-hiểu nguyên nhân, người ta phải trở về nguyên-thủy. Gs.Nguyễn-Ngọc-Huy trước khi mất đã tuyên-bố Quan-Điểm 5 Không để cho tất cả mọi đoàn-viên cán-bộ dùng làm Kim-Chỉ-Nam cho mọi hành-sử khi ông không còn sống nữa. Đó là căn-bản, là nguyên-thủy của LMDCVN.

3. Quan-Điểm 5 Không của ông rất đơn-giản, chỉ có một mục-đích duy nhứt để nói là không hòa-hợp, hòa-giải với Cộng-sản. Đơn-giản và rất dễ hiểu như thế nhưng tại sao ông lại phải ghi rõ chi-tiết tới 5 Không?

Nếu mọi người đều nhận thấy rằng Gs.Huy có một viễn-kiến rất sâu rộng, thì đó chính là vấn-đề mà mọi người trong chúng ta cần suy-ngẫm. Ông đã tiên-liệu là sau khi ông nằm xuống thì trong hàng ngủ của LMDCVN sẽ sanh biến do một số người có tham-vọng muốn bắt tay với kẻ thù. Nếu điều nầy xãy ra thì LM sẽ bị phân-hóa dần, nhẹ thì chia năm xẽ bảy, nặng hơn là tan-rã luôn, bởi vì ngoài những thành-phần muốn trở cờ, trong hàng ngủ LMDCVN còn rất nhiều người một mực trung-thành với đoàn-thể, những người nầy sẽ chống lại những kẻ “một mặt, hai lòng”, bằng cách lên tiếng một cách thẳng-thắn, và cũng sẽ có một số người chán-nãn, thầm-lặng rút lui.

Điều nầy thực sự đã xãy ra liền sau khi Gs.Huy nằm xuống! Viễn-kiến của ông thật chính-xác.

Tưởng cũng cần ghi lại hết Quan-Điểm 5 Không của Gs.Huy , đối với chế độ Cộng Sản Việt-Nam, để tiện việc theo-dõi các diễn-tiến như sau:

1. Không công-nhận chế-độ Cộng-sản Việt-Nam
2. Không tiếp-xúc
3. Không liên-lạc
4. Không thương-thuyết
5. Không hợp-tác

II. Diễn-tiến của sự phân-hóa

1. Phong-Trào Thống-Nhứt Dân-Tộc và Xây-Dựng Dân-Chủ: Tất cả mọi nguyên-nhân khiến cho LMDCVN bắt đầu phân-hóa đều do sự hiện-diện của Phong-Trào nầy mà ra. Trong Đại-Hội Thế-Giới LMDCVN được tổ-chức tại Hòa-Lan năm 1990, di bút của Gs.Huy có cho biết là Giáo-sư đã có những liên-lạc với anh em trong nước và đã có những phân-công để làm việc. Những chiến-hữu trong nước mà giáo-sư đã phân công là ai thì đến nay vẫn còn trong bóng tối, nhưng chắc-chắn không phải là những vị lãnh-đạo của Phong-Trào vì thời-gian nầy những vị nầy còn trong nhà tù Cộng-sản chưa biết ngày nào ra và chết sống ra sao.

Cứ xem những tài-liệu về việc hình-thành Phong-Trào, dù ai có ngây-thơ đến đâu cũng đều thấy được là những người lãnh-đạo LMDCVN thời đó đã có những dàn-xếp với bạo-quyền Cộng-sản để dựng nên Phong-Trào nầy với mệnh danh là “một tổ-chức đối lập” với bạo-quyền Cộng-sản ngay trong nước. Rõ ràng một đàng là mưu-toan bất chánh, một đàng là cạm bẫy của bạo-quyền được giăng ra để “hốt” những người còn có tư-tưởng chống lại chúng. Thật vậy, vì chủ-trương của bạo-quyền Cộng-sản không bao giờ chấp-nhận đối-lập, ngay cả tự-do Tôn-Giáo còn không được phép huống gì là đối-lập chánh-trị!

Mưu-đồ đen-tối nầy còn lộ rõ nguyên hình là việc Phong-Trào loan-báo tổ-chức một cuộc Hội-Thảo ngay tại Saigon với sự tham-dự của nhiều chánh-khách và phó chủ-tịch Quốc-Hội Cộng-sản VN. Cuộc Hội-Thảo nầy bất thành vì trước đó một tuần, những người lãnh-đạo Phong-Trào đã lộ-diện và đã bị bắt hết. Bẫy sập của bạo-quyền đã thành-công, dĩ nhiên Phong-Trào nầy phải tan-rã.

Lẽ ra mọi chuyện phải được dừng lại ở đó, nhưng Ban Lãnh-Đạo của LMDCVN thời đó còn muốn đi xa hơn, nên đã liên-tiếp tổ-chức những buổi hội-thảo chánh-trị rất tốn kém để tiếp-tục tìm cách đánh bóng Phong-Trào mà cao-điểm là tổ-chức một cuộc Hội-Thảo tại Thái-Lan với sự tham-dự hứa-hẹn của tên Phó chủ-tịch Quốc-Hội Viêt-cộng. Trong cuộc Hội-Thảo nầy có mặt đầy đủ Ban Lãnh-Đạo LMDCVN. Việc nầy nằm trong Quan-Điểm thứ mấy của Gs.Huy???

Ngay từ lúc thành-lập Phong Trào, nhiều anh em phản-đối Ban Lãnh-Đạo và tách ra thành-lập LMDCVN/Kiên-Định Lập-Trường. Từ đó LMDCVN bắt đầu bị phân-hóa

2. Liên-Minh Dân-Chủ Việt-Nam hậu Gs.Huy: Sau cuộc phân-hóa nầy, LMDCVN còn lại đã trải qua 2 lần Đại-Hội, năm 1993 ở Canada, năm 1997 ở Texas cũng với thành-phần Ban-Lãnh-Đạo đã có mặt tích-cực trong việc thành-lập Phong-Trào, chẳng những thế mà nhiều lúc Ban Lãnh-Đạo còn xác nhận một cách thẳng-thừng với Cộng-đồng bên ngoài là Phong-Trào với LMDCVN tuy hai mà một. Do đó, đồng-bào các nơi đã cho rằng LMDCVN ngày nay đã thay-đổi lập-trường tranh-đấu, hòa-hợp, hòa-giải với bạo-quyền Cộng-sản, phản-bội Gs.Huy.

Tuy nhiên, do sự khéo-léo che dấu của Ban Lãnh-Đạo thời bấy giờ nên nội-bộ củng-cố được phần nào và có phát-triễn được vài nơi, nhưng mầm mống chia-rẽ nội-bộ cũng bắt đầu, nguyên-nhân không phải vì khác lập-trường mà chính vì tranh-chấp quyền-hành của một số cán-bộ cao-cấp trong Ban Lãnh-Đạo.

Sự tranh-chấp nầy thực-sự bùng nổ ác-liệt vào những lúc gần cuối nhiệm-kỳ 1997-2001, và chia ra làm 2 nhóm rõ-rệt với những lời chỉ-trích nhau một cách tận-tình.

Mùa Hè năm 2001, một nhóm làm Đại-Hội ở Boston trong khi nhóm khác làm Đại-Hội ở Vancouver sau đó một vài tháng, mục-đích để bầu Ban Chấp-Hành mới. Cả hai Ban Chấp-Hành mới xem nhau như kẻ thù, khai-trừ lẫn nhau một cách kịch-liệt, nhưng cùng mang một tên là LMDCVN.

Để cho phân-biệt, đồng bào gọi nhóm ở Boston là LMDCVN/Boston, và gọi nhóm ở Vancouver là LMDCVN/Vancouver.

Nhóm LM/Vancouver xác-nhận Phong-Trào là sản-phẩm của họ và chủ-trương đem Phong-Trào ra hải ngoại để lãnh-đạo Liên-Minh. Một nữ cán-bộ cao-cấp của nhóm nầy ra mặt tuyên-bố dứt khoát là chống lại Quan-Điểm 5 Không của Gs.Nguyễn-Ngọc-Huy, và chờ cho ông chủ-tịch của Phong-Trào ra khỏi tù là họ sẽ phất cờ (!!!).

Trong khi đó thì nhóm LM/Boston kín-đáo hơn, tuyên-bố vẫn trung thành với Quan-Điểm của Gs.Huy, nhưng làm chớ không nói (!!!).

Trên thực-tế, cả 2 nhóm đều tìm cách móc nối với những người của Phong-Trào khi họ được ra khỏi tù của bạo-quyền Cộng-sản VN. Nhưng tất cả những người của Phong-Trào ngày nay đều đã ra khỏi tù và đã đều bỏ cuộc, không hợp tác với cả bên nầy lẫn bên kia.

Nhóm Vancouver thì rõ-ràng như vậy, riêng nhóm Boston thì cũng chẳng khác gì hơn, từ nhiệm-kỳ 2001-2005 cho đến nhiệm kỳ 2005-2009, Ban Lãnh-Đạo không bao giờ dám nhắc tới Quan-Điểm 5 Không của Gs.Huy, cơ-sở nào có yêu-cầu Ban Lãnh-Đạo xác nhận cũng không được đáp-ứng, nhiều cán-bộ đoàn-viên muốn Ban Lãnh-Đạo xác nhận lại Quan-Điểm nầy để tạo lại uy-tín LM của Gs.Huy, xóa bỏ mặc cảm hòa-hợp, hòa-giải của đồng-bào dành cho LM để anh em dễ làm việc với Cộng-đồng trong các công-tác chống Cộng tại địa-phương, nhưng những người lên tiếng yêu-cầu nầy đều bị đối-xử rất lãnh-đạm. Một số lớn không chịu đuợc cung-cách làm việc như thế nên đành phải rút lui.

Câu châm-ngôn của nhóm LM/Boston là:“Làm chớ không nói”. Lời nói nầy tự bản-chất của nó đã làm tê-liệt sự củng-cố và phát triễn đoàn-thể, vì trong nội bộ cũng như đồng-bào bên ngoài biết được gì ở họ để theo, nhưng cứ nhìn vào những điều mà họ đã và đang làm thì sẽ rõ vì sao họ không dám nói, như việc họ ủng-hộ những tên Việt-cộng như Hoàng-Minh-Chánh, như Nguyễn-Chính-Kết, v.v…

Trong thời-gian nầy, nơi cơ-sở làm việc chặt-chẻ nhứt của UBCHTƯ ở Âu-Châu là Khu-Bộ Bỉ, một số người đã lên tiếng trên diễn-đàn, yêu-cầu đừng nhắc tới Quan-Điểm 5 Không và những lời nói của Gs.Huy nữa vì họ cho rằng những điều nầy làm cản bước tiến của công cuộc tranh-đấu của LM, thậm chí, họ còn nói là con đường đi của Gs.Huy vạch ra có nhiều hầm hố, không đi được, trong khi có những con đường khác trơn-tru sao không chịu đi (con đường khác nầy là con đường mà Hoàng-Minh-Chách đã vạch ra như: Đề nghị Tiểu Diên-Hồng, đề nghị của Việt-cộng sẽ mời một số người đại-diện đồng-bào ở hải ngoại về nước làm đại-biểu quốc-hội của chúng mà không cần phải bầu-cử,…).

Chuyện gần đây nhứt là khi tên Thủ-tướng Việt-cộng Nguyễn-Tấn-Dũng sang Pháp tổ chức một buổi hợp tại Paris để bàn về việc đầu-tư kinh-tế, thì một Ông Lớn của LM lại xin vào họp !?

Thử hỏi, tất cả những điều nầy có nằm trong điều nào của Quan-Điểm Gs.Huy không? Thì ra Ban Lãnh-Đạo Chỉ Làm Chớ Không Dám Nói là thế? Nhưng lúc nào họ cũng tuyên-bố là trung-thành với đường-lối của Gs.Huy. Nói như thế là hạ nhục ông vì Gs.Huy không bao giờ có chủ-trương như vậy.

3. Việc Kết-Hợp, Thống-Nhứt LM: Những điều cụ-thể đã như thế, hiển-nhiên là lập-trường của 2 nhóm LM/Vancouver và Boston không khác gì nhau, nên việc kết-hợp hay thống-nhứt thành một mối thật ra không có gì khó-khăn. Giả sử như việc kết-hợp được suông-sẻ, họ sẽ có một LMDCVN thống-nhứt, nhưng thực-chất của LM thống nhứt nầy không có liên-hệ gì với LMDCVN trước năm 1990 của Gs.Nguyễn-Ngọc-Huy, nhưng cũng may là việc kết-hợp không thực-hiện được vì tự bản-chất của 2 nhóm là tranh quyền chớ không phải vì lợi-ích của dân-tộc, hối-tiếc một điều là người đề xướng ra cuộc vận-động nầy, có thể vì nhiệt tình nên bị vướng bẫy, không ước-lượng được nội-vụ nên đã làm cho sự đổ vỡ càng trầm-trọng hơn.

III. Đề-Nghị:

Công-tác đoàn-kết để tạo thành một lực-lượng Hậu-Phương Hải-Ngoại hùng-mạnh để đủ sức yễm-trợ đồng-bào lật đổ bạo quyền Việt-cộng để xây-dựng một nước Việt-Nam Tự-Do, Dân-Chủ là một lý-tưởng quý-giá và cao-đẹp của người Việt Quốc-Gia, bởi vậy, việc kết-hợp nầy những anh chị em có lòng ưu-tư trong LM, nếu muốn vận-động, thiết-tưởng cần phải nhắm đúng hướng để đi.

Trước tiên là trong kỳ Đại-Hội tới, làm sao chọn được một Ban Lãnh-Đạo mới không vướng vào các hệ-lụy đã qua. Ban Lãnh-Đạo nầy sẽ công khai:

1. Xác nhận trung-thành với Quan-Điểm 5 Không và chánh-sách của LMDCVN trước năm 1990
2. Vô hiệu-hóa tất cả những văn-kiện khai-trừ nội-bộ từ năm 1993 đến nay.
3. Mời tất cả những anh chị em còn trung-thành với Quan-Điểm nầy cùng ngồi lại với nhau để bàn chuyện đất nước,
4. Phải có ngay những kế-hoạch để hòa-mình, hợp tác chặt-chẽ và nhiệt-tình với các Cộng-Đồng trong những công-tác đấu-tranh chung, v.v…

Những điều nầy phải được thông-báo trên báo chí, trên các diễn-đàn Internet và thực-hành một cách nhiệt-tâm. Có như vậy, lần hồi mới thu-phục lại nhân-tâm, những anh chị em đã ra đi có thể thấy như vậy mà tin tưởng trở lại làm việc. Những người bên ngoài nhìn thấy việc làm và chính-nghĩa của LM sẽ tìm đến với LM. Đó là điều-kiện để phát-triễn đoàn-thể và sự kết-hợp, đoàn-kết như thế mới thật sự hữu-ích.

IV. Kết-Luận:

Trải qua một thời gian dài hơn 30 năm qua, lòng người đôi khi mệt mỏi nên tinh-thần có nhiều biến-đổi, chạy theo sự đua-đòi của thời-cuộc nên vướng vào các ngụy-kế và bẫy giăng của kẻ tội-đồ Việt-cộng, từ đó tinh-thần hăng-say chống độc-tài Cộng-sản trước kia, nay không còn nữa, như ông Tướng Râu Kẽm, như ông Nhạc-sĩ già đầu bạc và một số người, một số băng đảng mất gốc, chảng hạn. Đó là điều nguy-hiễm cho công-tác đấu tranh chung và nguy-hiễm cho lợi-ích thật sự của dân-tộc. Hy-vọng sự tận-tình của quý vị trong cuộc vận-động được đúng hướng để còn kịp thời cứu-nguy con thuyền LM đang trong cơn bảo lửa.

Những điều trình-bày trên là vạn bất đắc-dĩ, người viết phải nói lên như thế với hy-vọng làm tỉnh-ngộ một số vị đang lạc nẽo, hầu khôi-phục lại công-trình xây-dựng gian-khổ của Người Quá-Cố, để tiếp tay với đồng-bào xây-dựng lại quê-hương. Điều nầy sẽ làm phiền lòng một số người, người viết chỉ mong nhận được ở quý vị những lời phê-phán.

Thanh-Thủy (15/03/2009)


Wednesday, March 11, 2009

Tướng Bùi Thế Lân, Cuộc Đổ Bộ Tqlc Ở Hải Lăng Hè 1972 - Vương Hồng Anh

Vương Hồng Anh

Tướng Bùi Thế Lân và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến VNCH ở phòng tuyến bờ Nam Mỹ Chánh, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Hè 1972.

Trong loạt bài “Chiến trường Việt Nam, 30 năm nhìn lại”, trong phần trình bày tình hình chiến sự từng ngày tại mặt trận Quảng Trị mùa Hè 1972, chúng tôi đã lược trình một số cuộc hành quân của các đơn vị thuộc Sư đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC). Như đã trình bày, sau khi Sư đoàn 3 Bộ binh và các đơn vị tăng phái rút khỏi Quảng Trị vào đầu tháng 5/1972, Lữ đoàn 369 TQLC đã lập ngay tuyến chận địch ở bờ Nam sông Mỹ Chánh trong khi chờ đợi bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 và bộ Tư lệnh Sư đoàn TQLC tái phối trí lực lượng để giữ khu vực gần địa giới hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên.

Ngày 4 tháng 5/1972, tiếp theo sự bổ nhiệm trung tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4, giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1 thay trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đă quyết định bổ nhiệm đại tá Bùi Thế Lân, lúc đó đang là Tư lệnh phó Sư đoàn TQLC, giữ chức Tư lệnh đại đơn vị tổng trừ bị này thay thế trung tướng Lê Nguyên Khang. Theo tài liệu của trung tướng Ngô Quang Trưởng, thì ban đầu trung tướng Lê Nguyên Khang được đề nghị giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 2 thay trung tướng Ngô Du xin từ nhiệm, thế nhưng tướng Khang đã từ chối, sau đó, ông được bổ nhiệm làm Phụ tá Hành quân Tổng tham mưu trưởng.

Đại tá Bùi Thế Lân xuất thân khóa 4 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, bạn đồng khóa với trung tướng Ngô Quang Trưởng và các chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù), Nguyễn Văn Điềm (Tư lệnh Sư đoàn 1 BB), Hồ Trung Hậu (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 21 BB). Trước khi giữ chức Tư lệnh phó rồi cuối cùng là Tư lệnh TQLC, đại tá Lân là tham mưu trưởng Thủy quân Lục chiến từ những năm đầu của thập niên 60 khi binh chủng này còn ở cấp Lữ đoàn, ông được thăng đại tá vào năm 1966. Sau khi đảm nhận chức Tư lệnh TQLC được hơn 3 tuần, ngày 28-5-1972, ông đã được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn một sao lên cổ áo ngay tại bản doanh bộ Tư lệnh TQLC đặt trong Đại Nội Huế. Tân chuẩn tướng Bùi Thế Lân đã tuyên hứa với Tổng thống VNCH là ông và Sư đoàn TQLC sẽ quyết tái chiếm Cổ Thành trong tay quân thù. Sau gần 3 năm chỉ huy Sư đoàn TQLC, ông được vinh thăng thiếu tướng.

Trở lại với mặt trận phía Nam tỉnh Quảng Trị, ngày 4 tháng 5/1972, trung tướng Ngô Quang Trưởng đã họp với tân Tư lệnh Sư đoàn TQLC Bùi Thế Lân để duyệt xét tình hình. Trung tướng Trưởng đã giao trách nhiệm cho Sư đoàn TQLC chịu trách nhiệm phòng thủ phía Nam Quảng Trị và vùng Bắc Thừa Thiên. Sau đây là một số cuộc hành quân của TQLC tại khu vực cận duyên quận Hải Lăng tỉnh Quảng Trị trong tháng 5 và thượng tuần tháng 6/1972. Phần này được biên soạn dựa theo tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, bài viết của cựu trung tá Trần Văn Hiển, nguyên Trưởng phòng 3 Sư đoàn TQLC và tài liệu riêng của VB.

* Tướng Bùi Thế Lân, Sư đoàn TQLC và cuộc các đổ bộ tấn công CQ

Hạ tuần tháng 5/1972, phòng tuyến Mỹ Chánh đã trở nên sôi động khi Cộng quân tập trung lực lượng tấn công vào các vị trí phòng ngự của các Tiểu đoàn 3,8 và 9 TQLC, bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 TQLC và các pháo đội của Tiểu đoàn 3 Pháo binh TQLC vào hai ngày 21 và 22 tháng 5/1972. Những ngày kế tiếp, Cộng quân chuyển mũi dùi tấn công sang phía Tây-vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 258 TQLC. Trong ba ngày liền, CQ dàn trận tấn công giữa ban ngày nhưng đã trở thành mục tiêu cho Pháo binh và Không quân Việt Mỹ tiêu diệt bằng hỏa lực hùng hậu.

Trong khi trận chiến ở phía Tây thuộc khu vực trách nhiệm của Lữ đoàn 258 TQLC còn đang sôi động, để tạo yếu tố bất ngờ nhằm triệt hạ lực lượng đối phương ở hướng Đông, tướng Bùi Thế Lân và bộ Tư lệnh Sư đoàn TQLC đã mở tiếp cuộc hành quân tại khu vực duyên hải quận Hải Lăng. Lực lượng chính là 3 Tiểu đoàn 4,6,7 TQLC thống thuộc quyền điều động của Lữ đoàn 147 TQLC. Theo kế hoạch, ngày 23 tháng 5/1972, toàn bộ Tiểu đoàn 7/TQLC đã từ phòng tuyến Mỹ Chánh di chuyển bằng quân xa đi về phía Nam để đến bến Tàu Tân Mỹ, cách Huế 5km đường chim bay về hướng Đông, từ đó được chở hải vận ra Hạm đội 7 ở ngoài khơi để chuẩn bị cuộc đổ bộ bằng đường biển. Theo phân nhiệm, Tiểu đoàn này sẽ phụ trách tuyến ven biển, trong khi đó hai Tiểu đoàn 4 và 6 TQLC được trực thăng vận đổ vào vùng có địa danh chiến sử “Dãy phố buồn thiu”.

Đúng 7 giờ 30 ngày 24 tháng 5/1972, cuộc hành quân khai diễn. Mở đầu, các pháo đội pháo binh, hải pháo và phi tuần không quân chiến thuật đã oanh kích với hỏa lực tối đa vào các mục tiêu tại các bãi đổ bộ, trong khi đoàn tàu chở Tiểu đoàn 7 TQLC còn cách bờ 3 cây số. Cùng thời gian này, hai Tiểu đoàn 4 và 6 TQLC và các phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ đã sẵn sàng tại bãi bốc chuẩn bị nhập trận sau đó. Để dọn sạch các chướng ngại vật và triệt hạ hỏa lực phòng không của Cộng quân quanh các khu vực đổ quân của TQLC, theo sự điều hướng của Ủy ban liên bộ Tham mưu Sư đoàn TQLC và Hạm đội 7 đặt trên chiến hạm chỉ huy USS Blue Ridge, phi vụ B-52 bay tới trải những thảm lửa xuống các bãi đáp, lúc đó đoàn tàu đổ bộ còn cách bờ chưa đến 2 km.

Khi B-52 vừa chấm dứt đợt oanh tạc, hai đợt tàu đổ bộ, mỗi đợt 40 chiếc cập bãi đổ Tiểu đoàn 7 TQLC lên các bãi ấn định. Vừa đặt chân lên bờ, các Cọp Biển xung phong tiến chiếm các đồi cát cao, nhanh chóng tấn công các mục tiêu. Cộng quân bị tấn công bất ngờ nhưng vẫn cố bám giữ các công sự tác chiến chính để cầm chân tiểu đoàn 7 TQLC, kịch chiến đã diễn ra quanh các đồi cát khi các trung đội TQLC tràn lên tiến chiếm các cao địa. Với lối đánh tốc chiến, hơn 1 giờ sau, Tiểu đoàn 7 TQLC đã làm chủ trận địa, đánh bật CQ ra khỏi vùng đồi cát ở phía Đông khu vực hành quân, hạ sát tại chỗ hơn 50 CQ, bắt sống 10 tù binh.

Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 4 và 6 TQLC được trực thăng vận xuống khu vực giao điểm của hai hương lộ 555 và 602, một địa danh đã đi vào chiến sử với cái tên gọi “Dãy phố buồn thiu”. Tại đây, trong thời gian từ 1965 đến 1972 đã xảy nhiều trận giao tranh ác liệt giữa lực lượng VNCH, đồng minh và các đại đơn vị CSBV. Trước tháng 7 năm 1954, tại địa danh chiến sử này đã xảy ra trận chiến kéo dài hơn 1 tuần lễ giữa lực lượng Nhảy Dù Pháp và trung đoàn 95 Việt Minh (CSVN).

Trở lại với cuộc đổ quân ngày 24 tháng 5/1972, ngay khi vào vùng hành quân, TQLC đã đụng độ ngay với 1 đơn vị của trung đoàn 18 thuộc sư đoàn 325 CSBV, mà thành phần chủ lực đã rút trước đó. Do Cộng quân đã chiếm giữ khu vực này hơn một tháng nên đã tổ chức được hệ thống phòng sự kiên cố với các cụm giao thông hào liên hòa và các chốt chận đặt ở những vị trí yết hầu.

Để triệt hạ được các cụm kháng cự của địch quân, các đại đội Thủy quân Lục chiến đã phải di chuyển và lưu động chiến, rồi tấn công bất ngờ theo mô thức dương Đông kích Tây. Đến ngày 30 tháng 5/1972, Thủy quân Lục chiến đã làm chủ nhiều vị trí trọng yếu tại khu vực giao điểm nói trên. Cuộc hành quân Sóng Thần 6-72 chấm dứt ngày 31/5/1972 sau khi 3 Tiểu đoàn 4, 6 và 7 TQLC trở lại phòng thủ tuyến Mỹ Chánh.

* Cuộc đổ bộ ngày 6 tháng 6

Trong chiến sử của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến VNCH, ngày 6 tháng 6/1972 đã trở thành ngày lịch sử khi 4 Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến vượt sông Mỹ Chánh để mở đầu cho một cuộc hành quân quy mô tái chiếm Quảng Trị.

Mục tiêu đầu tiên của kế hoạch tái chiếm Quảng Trị do bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 vạch ra là các lực lượng VNCH phải kiểm soát được khu vực phía Bắc sông Mỹ Chánh cách bờ Nam sông Mỹ Chánh ít nhất là 5 km. Để thực hiện giai đoạn này, trung tướng Ngô Quang Trưởng đã giao trọng trách cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến làm lực lượng tiên phong. Khai triển kế hoạch của Quân đoàn 1, chuẩn tướng Bùi Thế Lân đã cho tổ chức cuộc hành quân vượt sông Mỹ Chánh. Ngày 6 tháng 6/1972, 4 Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đã mở đầu cuộc hành quân Sóng Thần 8-72 bằng cuộc vượt sông Mỹ Chánh dưới sự yểm trợ của Không quân Việt Mỹ và pháo binh.

Từ rạng sáng ngày 6 tháng 6/1972, oanh tạc cơ của Không quân Việt Mỹ đã dội bom vào các vị trí bắc Mỹ Chánh mà Thủy quân Lục chiến sẽ tiến đánh, sau đó Pháo binh VNCH đã bắn dồn dập vào các khu vực có dấu hiệu là Cộng quân đang trú đóng. Sau đợt oanh tạc của Không quân và đợt pháo dọn đường của Pháo binh VNCH, 4 Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đồng loạt tiến quân vượt sông Mỹ Chánh. Qua khỏi tuyến xuất phát, các đơn vị tiên phong đã đụng độ các toán tiền tiêu của Cộng quân.

Giao tranh diễn ra quyết liệt. Các đại đội Thủy quân Lục chiến đi đầu đã tràn lên chiếm các vị trí trọng điểm để làm đầu cầu cho toàn đơn vị tiến lên. Gần trưa ngày 6/6/1972, cuộc tiến quân của Thủy quân Lục chiến đã gặp sự kháng cự mạnh của các trung đoàn Cộng quân, nhất là cánh quân tiến theo trục hương lộ 555 về phía Đông của Mỹ Chánh, thuộc địa phận quận Hải Lăng. Theo kế hoạch, tiến sau Thủy quân Lục chiến là các đơn vị Công binh, có nhiệm vụ thiết lập và sửa chữa cầu cống, để các chiến xa của các chi đoàn Thiết giáp tiến lên yểm trợ. Đến 18 giờ chiều ngày 6 tháng 6/1972, các cánh quân TQLC đã chiếm được các mục tiêu trọng điểm của cuộc hành quân.

Vương Hồng Anh
---------------------------

Tướng Bùi Thế Lân Được Trao Huy Chương Legion Of Merit

WASHINGTON -- Cựu Tướng Bùi Thế Lân vừa được Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng Huân Chương Legion of Merit (Degree of Commander) qua một văn bản ký bởi Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert M. Gates.

Bản văn viết bằng Anh ngữ, ghi là trao tặng huân chương này cho:
“Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam,

Do tài lãnh đạo được đặc biệt ca ngợi trong khi thi hành xuất sắc nhiệm vụ từ ngày 30 tháng 3-1972 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972 khi liên tục đảm trách chức vụ Tư Lệnh Phó và kế tiếp là Tư Lệnh TQLC Việt Nam.

Thời gian này mang tính cách quyết định cho cuộc chiến đấu mất còn của VNCH, gây ra bởi các cuộc tiến chiếm ồ ạt của nhiều sư đoàn chính quy quân đội Bắc Việt tràn qua khu phi quân sự, Chuẩn Tướng Lân đã giữ vai trò chủ yếu trong những chiến thắng vẻ vang của TQLC/VN mà đỉnh cao là giải phóng hoàn toàn thị xã Quảng Trị.

Nhờ tài chỉ huy lỗi lạc, kinh nghiệm chiến trường và lòng dũng cảm vượt bậc khi đối đầu với một địch quân thiện chiến, Chuẩn Tướng Lân đã tạo cho toaà thể quân sĩ TQLC thêm những cố gắng quả cảm trong nỗ lực đầy hào hùng và chiến thắng được một kẻ thù kiên cường.

Thành tích gương mẫu của ông đã tạo đươc danh tiếng cho cá nhân ông, cũng như cho toàn thể Quân Lực VNCH.

Huân chương naỳ đính kèm Biểu Chương Chiến Công Xuất Sắc.
Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng

Robert M. Gates

Ấn Ký”


ÔNG ĐẠI SỨ ... ZIỆT CỘNG - Lê Phàm Nhân

Lê Phàm Nhân

(Trích đăng từ Nguyệt San Con Ong Việt số 102 tháng 3,2009)

Cuộc tranh cử tại Hoa kỳ năm 2008 đã trôi qua, kết quả đang mang lại rất nhiều thay đổi trong mọi lãnh vực sinh hoạt tại nội địa Mỹ, và đồng thời cũng ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia khác trên toàn cầu.

Cử tri da mầu, hậu duệ của những người gốc Phi châu đến tây bán cầu này khoảng trên dưới ba trăm năm về trước, hoan hỉ chào mừng chiến thắng chính trị, vì đã dồn phiếu đẩy được một ứng viên gốc Phi vào tòa nhà trắng: ông Barack Hussein Obama. Cộng đồng người Việt Nam chối bỏ cộng sản, đến định cư tại Hoa Kỳ trong vòng mới ba mươi năm trở lại đây, cũng mừng vui vì lần đầu tiên có được một em cháu thuộc “thế hệ tị nạn 2” vừa đắc cử vào Hạ Nghị Viện Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn: Dân Biểu Joseph Cao, đơn vị 2 Louisiana.

Cho đến nay, Tổng Thống Barack Hussein Obama vừa nhậm chức được hơn một tháng. Và Dân Biểu Joseph Cao cũng đang làm việc khóa đầu tiên, tại Hạ Viện trên Capitol Hill. Để tìm hiểu rõ hơn về đường lối và chủ trương hoạt động của hai tên tuổi này tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, phải kiên nhẫn theo dõi lâu hơn tí nữa, để ghi nhận những triển khai rõ ràng cụ thể hơn. Trong giai đoạn tiên khởi này, giới quan sát thời cuộc cũng chỉ ghi nhận được công việc đầu tay của mỗi nhân vật vừa nêu trên. Quyết định đầu tiên của Barack Obama, là ký sắc lệnh đóng cửa căn cứ Gitmo (Guantanamo Bay) trong vòng một năm. Chuyện này không đơn giản, chưa chi đã hứa hẹn nhiều lẩm cẩm

nhiêu khê. Chúng tôi sẽ trở lại câu chuyện Gitmo này hầu quý vị sau.

Được báo chí tiếp xúc ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức, Dân biểu Mỹ gốc Việt Nam Joseph Cao đã nói lên mối ưu tư hàng đầu của ông ta, đó là việc vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền cộng sản tại nội địa Việt Nam. Và ông Joseph Cao cho biết, sẽ thúc đẩy việc đề nghị Hạ Viện Hoa Kỳ đưa tên nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tức Việt cộng, trở lại danh sách các quốc gia cần được đặc biệt quan tâm (CPC – Countries of Particular Concern) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam bị cho tên vào danh sách các “Countries of Particular Concern” năm 2004, vì các vi phạm nhân quyền trầm trọng và liên tục. Để chạy chọt được vào làm thành viên của Tổ chức Mậu dịch Thế Giới “World Trade Organization” (WTO), Hà Nội đã làm một vài hành động tiểu xảo, cho giới quan sát quốc tế thấy như là họ đang thực tâm cố gắng cải thiện sinh hoạt dân chủ, như là họ đang cố gắng tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam. Họ cho thăm viếng tù nhân chính trị, họ thả một vài nhân vật có tên trong danh sách do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu v.v... Do đó, tháng 11 năm 2006, Việt cộng được rút tên ra khỏi danh sách các nước bất hảo này.

Nhưng liền ngay sau khi được vào làm thành viên của Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO rồi, thì Việt cộng vẫn thói nào tật đó. Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội lại lập tức trở về với thói rừng rú cũ, đàn áp, bắt bớ, giam cầm ... Điển hình nhất, là việc công khai cho công an bịt mồm Linh Mục Nguyễn Văn Lý trước tòa án Thừa Thiên, mà tin tức hình ảnh đã nhanh chóng loan truyền đi khắp đó đây ... Do đó, năm 2007, nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại bị đề nghị cho tên trở vào lại danh sách các xứ cô hồn. Việc làm đầu tiên của Dân Biểu Joseph Cao, là thúc đẩy tiến trình nhốt Việt cộng trở lại trong “cũi” CPC.

Dân Biểu Joseph Cao, tức Cao Quang Ánh, năm nay 41 tuổi, là người con thứ năm trong tám người con của một gia đình người Việt Nam, đã cùng với mẹ chạy bỏ cộng sản, đến định cư tại Texas Hoa Kỳ năm 1975, khi Ánh vừa mới lên 8. Thân phụ Cao Quang Ánh là một sĩ quan trong Quân Lực miền Nam Việt Nam, đã bị Việt cộng đưa ra Bắc Việt cầm tù. Cao Quang Ánh mở mắt chào đời năm 1967 tại Saigon, Hòn Ngọc Viễn Đông một thời, bây giờ đang ... tạm thời mắc nạn! Mắc nạn, vì đang bị bọn cầm quyền phi văn hóa bắt Saigon phải thay tên. Tên của một quốc tặc, một tội đồ thiên thu của lịch sử nòi giống Việt. Tên của một việt gian bán nước. Tên của một đứa gian dâm vô đạo, bịp bợm tham tàn. Mạn phép mở một dấu ngoặc, về câu chuyện thành phố thay tên, thành phố chôn nhau cắt rốn của chàng trai trẻ Joseph Cao Quang Ánh.

Gọi Hồ Chí Minh là tên Việt gian bán nước, trước đây còn có kẻ tranh cãi. Nhưng sau 30 năm lịch sử phơi bày, những chuyện giải mật ở bên Mỹ, bên Tầu, đã cho thấy rõ ràng là Hồ Chí Minh và bè lũ đã bán nước từ khi chúng chưa là chủ nhân ông của cơ đồ. Vì cuồng vọng quyền hành, chúng đã quỳ gối lạy lục Nga Tầu, ngầm ký kết để vay mượn quân lương, vũ khí đạn dược, nhiên liệu tiền nong, hầu đẩy mạnh việc thôn tính miền nam nước Việt. Và khi đã cưỡng chiếm được trọn dải đất hình chữ S rồi, bây giờ chúng đang trả nợ quan thầy. Công khai trả nợ bán nước, trước mắt thế giới, không dấu diếm. Trả nợ bằng đất nước Việt Nam, trả nợ bằng nhân dân Việt Nam. Trả nợ bằng đất Bản Dốc, đất Cao Bằng, đất Thục Lãm. Trả nợ bằng nước Hoàng Sa, nước Trường Sa, nước Cửu Long. Trả nợ bằng cách đưa nhiều trăm ngàn lao nô đi khắp Nga và đông âu, trả nợ bằng cách “xuất cảng” phụ nữ Việt ra quốc ngoại ... Với “thành tích” vô tiền khoáng hậu này, Hồ Chí Minh và bè lũ là những tên tội đồ thiên thu trong lịch sử nhiều nghìn năm dựng nước của dân tộc Việt.

Tên Saigon đã có trong địa dư nước Việt từ lâu. Địa danh Saigon đã nổi trôi, thăng trầm cùng với vận mệnh nước nhà trong nhiều thế kỷ lịch sử cận đại. Tên gọi Saigon, hay là tên của bất cứ phố thị nào khác, tự nó không thân không sơ gì với bất cứ phe phái đối nghịch chính trị nào. Tên gọi Saigon, tự nó chỉ là nhân chứng lịch sử. Bắt Saigon phải thay tên, dù có là tên gì, tên ai đi chăng nữa, chỉ có thể là việc làm của một lũ đầu óc hẹp hòi nhỏ mọn, thiển cận, dốt nát, phi văn hóa.

Hãy thử cùng quay ngược lại đoạn phim lịch sử của thế giới trong thế kỷ thứ 20 vừa qua. Trong tiền bán thế kỷ thứ 20, thế lực bạo tàn nhất là Đức Quốc Xã và Quân phiệt Nhật. Và trong hậu bán thế kỷ thứ 20, khối chính trị sắt máu bạo ngược nhất, là Liên Bang Sô Viết. Với những kho vũ khí hạt nhân đầy ắp, thế giới nghẹt thở từ sau thế chiến thứ hai cho đến cuối thập niên 1980. Tiền đồn của khối quân sự Varsovie ở đông Bá Linh bị rạn nứt năm 1989, làm sụp đổ Đông Đức, khiến cơn thác lũ lan tràn khắp đông âu, kéo theo sự tan rã nhanh chóng của khối Liên Bang Sô Viết khổng lồ năm 1991.

Nếu những lãnh tụ sừng sỏ của điện Cẩm Linh như Nikita Krushchev hay Leonid Breznev có thể “ngửi thấy” trước được “thiên cơ” tan rã đó, chắc chắn một trong hai ngài lựu đạn sét này đã phải nhả Đông Dương ra, để quay về tử thủ cửa ngõ đông Bá Linh và hành lang đông âu bằng mọi giá. Và thế cờ đã xoay chuyển về hướng khác: chính cộng sản Bắc Việt đã bị cạn nhiên liệu đạn dược tiếp vận, rốt cuộc đã rơi vào tay các đơn vị tinh nhuệ của Quân Lực Miền Nam. Từ Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, cho đến Bùi Tín đều đã được Quân cảnh hộ tống về quân lao Gò Vấp. Và những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ... cũng đã được Cảnh sát Dã chiến cho xộ khám Chí Hòa, chờ ngày ra trước vành móng ngựa để được xét xử tội phạm chiến tranh, chứ không có chuyện đày ải đi rừng thiêng nước độc, như kiểu cu li cu leo của việt cộng. Riêng Hà Nội, vẫn là đất Hà Thành nghìn năm văn vật của Việt Nam. Không thể có chuyện ngu xuẩn, là bắt thành Thăng Long phải bỏ đi cái tên lịch sử của nó, để thay vào bằng tên cúng cơm của một ông Tổng Thống hay Tướng Tá nào của Miền Nam Việt Nam. Nói đến non nước Việt, người ta nhắc đến Hà Nội, Huế và Saigon, chứ không ai ăn nói quái đản ngược ngạo là Hà Nội, Huế và thành phố ... già mắc dịch!

Nhiều người thở than rằng, dù biết vậy, nhưng ván đã đóng hòm rồi, biết chừng nào mới gỡ ra được. Chúng tôi không tin như vậy. Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, lịch sử loài người đã minh chứng rằng, điều gì gượng ép, ngược ngạo, không thật, điều đó sẽ không thể trường tồn. Sihanoukville đã trở về với cái tên cúng cơm Kompong Som. Thế “mạnh” của mũi AK đàn áp nhân dân tại Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, so với thế mạnh của Liên Bang Sô Viết ngày trước, như thế nào? Vậy mà Stalingrad và Leningrad cũng đã tan biến theo mây khói phù du của thế sự. Chuyện trả lại tên cho Saigon, nơi Joseph Cao mở mắt chào đời, chỉ là chuyện thời gian. Địa danh Saigon chỉ đang tạm thời ... mắc nạn.

Chinh chiến điêu linh đẩy đưa trôi dạt đến Texas, cậu bé 8 tuổi Cao Quang Ánh học 4 năm tiểu học, rồi sau đó đỗ trung học tại Jersey Village High School, Houston. Năm 1990, Cao Ánh đỗ Cử nhân Vật Lý tại Baylor University, Waco, Texas. Năm 1995, lấy được bằng Cao Học Triết tại Fordham University ở New York. Trong thời gian theo học tại vùng đông bắc Hoa Kỳ, Cao Ánh tình nguyện vào làm việc cho tổ chức Boat People S.O.S., Inc. (BPSOS), tích cực giúp đỡ giải quyết hồ sơ của các trường hợp vượt biển tìm tự do còn chưa ngả ngũ rải rác tại nhiều trại khắp đông nam á.

Năm 1997, Cao Ánh trở về New Orleans dạy học, và năm 2000, lấy được bằng Tiến Sĩ Luật Khoa tại Loyola University. Ngày 28 tháng 8 năm 2005, Joseph Cao và gia đình (vợ Kathy Hoàng và hai con gái Sophia và Betsy) đã chạy đi lánh nạn, vì bão Kathrina tàn phá nặng nề vùng New Orleans tiểu bang Louisiana. Tháng 9 năm đó, Joseph Cao đã trở lại New Orleans, quyết định ở lại để vừa nỗ lực xây dựng lại nhà cửa và văn phòng của gia đình mình, vừa tích cực hoạt động xã hội, để giúp xây dựng lại cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản tại đây. Năm 2006, Thống đốc Louisiana Bobby Jindal, thuộc đảng Cộng Hòa, đã mời Joseph Cao Ánh vào Ủy Ban Bầu Cử hạt New Orleans. Tháng 11 năm 2008, Joseph Cao Ánh đắc cử vào Hạ Viện trong Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn, đánh bại một Dân Biểu đương nhiệm thuộc đảng Dân Chủ, đã ngồi ghế này liên tục suốt 9 nhiệm kỳ tại đơn vị 2 New Orleans Louisiana.

Với tiểu sử và thân thế như vừa tóm lược trên đây, Joseph Cao Ánh và gia đình, rất thông thạo am tường về thảm trạng cộng sản, bởi chính họ đã từng là nạn nhân của những hành động man ri của lũ người rừng về thành tại Việt Nam. Cho nên, không ai lấy làm lạ về ưu tư số một của Dân Biểu Joseph Cao: chuyện vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền việt cộng trên đất Việt. Không ai lấy làm lạ về đề nghị đầu tiên của Dân Biểu Joseph Cao: đưa tên nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa trở vào danh sách các nước cần được đặc biệt quan tâm CPC. Chỉ trừ có một người. Một người Việt duy nhất tại Hoa Kỳ. Một người, mà anh bạn tôi ở Virginia khi điện thoại cho tin, đã gọi là ông ... đại sứ ziệt cộng. Lê công Phụng, đại sứ của cộng sản Hà Nội tại Mỹ. Ông này rất bất bình về chuyện Dân Biểu Joseph Cao. Và ông đại sứ ziệt cộng giận quá, nên ông đại sứ ziệt cộng mất khôn, hiện nguyên hình.

Được đài BBC phỏng vấn về chuyện Dân Biểu Joseph Cao, Đại sứ Cộng sản Hà nội Lê Công Phụng đã trả lời như sau: “Chắc có nhiều người mừng khi ông Joseph Cao trở thành nghị sĩ người Việt đầu tiên. Chúng tôi chưa tiếp xúc với ông ấy, cũng chưa phê phán. Nhưng tôi nghĩ thế này, đến ông Obama làm đến tổng thống thì ông ấy vẫn là người gốc Kenya. Bà con người Việt ở đây muốn làm đến tổng thống, thủ tướng, thì vẫn là người Việt. Mà lại đi nói xấu Việt Nam, người nghe cũng cảm thấy mình không đứng đắn lắm ...” !!!

Lời lẽ bình dân giáo dục, lỉnh ka lỉnh kỉnh, câu sau ... chửi cha vế trước. Vì vừa nói chưa tiếp xúc, chưa phê phán, nhưng rồi lại phạng ngay. Chuyện một người làm chính trị ưu tư về tình trạng vi phạm nhân quyền tại cố quốc, được ông đại sứ ziệt cộng gọi là ... đi nói xấu Việt Nam, và như vậy là không đứng đắn! Nghe cứ như là chuyện mari sến đôi chối ngoài máy nước công cộng!

Ông đại sứ ziệt cộng còn nghêu ngao tiếp về chuyện đồng bào: “Chúng tôi mong muốn tất cả những người Việt có gì thì góp ý thẳng thắn với đồng bào trong nước, có gì chỉ trích thì cứ chỉ trích, nhưng không nên chống lại đồng bào mình”! Dân Biểu Joseph Cao chống ai? Người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại chống ai? Vạch mặt chỉ tên, kể tội lũ thiểu số ác ôn đang ngồi trên đầu trên cổ đồng bào Việt Nam, đang bạo ngược cai trị đồng bào, đang bán rẻ đất nước và nhân dân cho tầu cộng, là chống lại đồng bào của mình?

Nếu nói theo chính chữ nghĩa của việt cộng, thì lập luận của ông đại sứ chỉ lòng vòng “tranh thủ” cù nhầy, hạ cấp, chỉ sặc mùi “tuyên truyền phản động”, chống lại hơn ba triệu người Việt Nam tự do tị nạn cộng sản đang sống khắp nơi ở hải ngoại. Và nham nhở ở chỗ là, bọn cán ngố cứ tự đồng hóa chúng với đất nước Việt Nam, với đồng bào Việt Nam. Tại các quốc gia có quá trình sinh hoạt dân chủ lâu đời, nhóm cầm quyền được định nghĩa là những công bộc được chọn lựa để phục vụ quốc gia và đồng bào. Trong khi đó, cộng sản Việt Nam tự cho chúng là tổ quốc, chúng là đồng bào. Lên tiếng về những tệ trạng đang xảy ra ở Việt Nam, dưới sự cai trị của việt cộng, tức là đi nói xấu Việt Nam, tức là đi chống lại đồng bào! Quan niệm từ trong cội nguồn đã như vầy, thì chừng nào lũ cầm quyền hiện nay mới “thực thi dân chủ”?

Lê công Phụng đang là đại sứ toàn quyền của Việt cộng tại Hoa Kỳ. Nơi đây, người dân chỉ trích đường lối của các ông George Bush, ông Barack Obama hằng ngày, họ có bao giờ bị ai tố cáo là nói xấu nước Mỹ, hay chống đối dân Mỹ hay chưa? Vậy Lê công Phụng là ai, đang sống ở thế giới nào đây? Hãy nhìn vào tiểu sử của Lê Công Phụng, đã được chính tòa đại sứ Việt cộng ở Hoa thịnh Đốn trau chuốt, đánh bóng và trình làng. Phụng sinh ngày 20 tháng 2 năm 1948 tại Thanh Hóa, một vợ hai con, được chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết bổ nhậm làm đại sứ toàn quyền cho nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa tại Hoa Thịnh Đốn Hoa Kỳ tháng 10 năm 2007. Không hề thấy nói Phụng học trường tiểu học, trung học hay đại học nào. Chỉ thấy ghi rằng Phụng tốt nghiệp lớp ngoại giao năm 1971 tại Bộ Ngoại vụ cộng sản tại Hà nội. Thời bấy giờ, tất cả thanh niên trai trẻ ngoài bắc đều phải trình diện thi hành nghĩa vụ quân sự. Phải tình nguyện lên đuờng “đi B”. Nếu không xung phong tình nguyện lên đường sinh bắc tử nam, thì gia đình bị cúp hộ khẩu v.v... và v.v. ... Năm 1971, chàng trai tuổi vừa ngoài đôi mươi Lê Công Phụng là ai, lại được miễn “đi B”, mà còn được tuyển chọn vào học “lớp ngoại giao”?. Hồ Chí Minh vừa về chầu Diêm Vương năm 1969, Lê Duẩn lên thay. Lê công Phụng là con rơi của Lê Duẩn, hay cháu rớt của Lê đức Thọ? “Giáo sư” nào dạy “ngoại giao”?. Dạy ngoại giao kiểu gì?.

Năm 1971, Võ Nguyên Giáp vừa cho nướng xong toàn bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào hai trận “tiến công” Mậu Thân 1 và 2. Năm 1971, Henry Kissinger sang thăm Cấm Thành, nghéo tay với Chu Ân Lai, rồi bay sang Paris, bắt tay cười toe toét với Lê Đức Thọ, bật đèn xanh cho các đơn vị chính quy cộng sản Bắc Việt ào ạt xâm nhập vào Nam, qua đèo Mụ Giạ. Năm 1971, Nguyễn Chí Thanh được Lê Duẩn phái vào Kratié Căm Bốt, điều động cục “R”, thay thế Mặt Trận Giải Phóng bằng các đơn vị chính quy Bắc Việt. Được Mỹ và Trung cộng cùng bật đèn xanh, năm 1971 đánh dấu thời điểm cao tột đỉnh của tiến trình chuẩn bị xâm lăng miền Nam. Con ông cháu cha Lê Công Phụng được tuyển chọn và nhồi sọ cho một mớ giáo điều đỏ của đảng cộng sản, trong bối cảnh hừng hực xâm lược này. Cho nên, đến vài chục năm sau, hễ mở mồm ra, là Phụng tự động đồng hóa nhóm thiểu số cầm quyền với tổ quốc, với đồng bào.

Bây giờ, nếu có mổ óc Lê Công Phụng ra mà giảo nghiệm, cũng không thể nào tìm thấy được một tế bào dân chủ, theo nghĩa mà nhân loại tiến bộ đã học hỏi được từ hai thế kỷ nay. Hậu quả của việc tuyển chọn, đào tạo và xử dụng nhân viên “ngoại giao” kiểu này là, sau hơn một phần ba thế kỷ trôi qua, lá cờ đỏ sao vàng vẫn không ngóc đầu nổi được dưới mắt Người Việt tự do, tại bất cứ nơi nào có ánh mặt trời, trên khắp hải ngoại bao la ...

Lê Phàm Nhân
Tháng 2/2009