Thursday, February 19, 2009

Bản Tuyên bố 9 điểm của Khối 8406 về hiện tình Việt Nam

Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com

Tuyên bố 9 điểm về tình hình Việt Nam hiện nay

Việt Nam ngày 12 tháng 02 năm 2009
Kính gửi: Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Đồng kính gửi: Cộng đồng thế giới dân chủ.

Sau khi bản Tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam được công bố trên toàn thế giới vào ngày 8-4-2006, Khối 8406 (tên gọi theo ngày này) đã được thành lập như một tổ chức quần chúng đấu tranh gồm hàng chục ngàn người Việt Nam trong và ngoài nước, nhằm mục tiêu giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam bằng con đường hòa bình bất bạo động. Những quyền thiêng liêng này đã bị các thế hệ lãnh đạo trong đảng cộng sản Việt Nam ngang nhiên tước đoạt của dân tộc trong suốt hơn 63 năm qua (2/9/1945 – tháng 2/2009).

Trong năm 2008 vừa qua, tình hình quốc tế đã trải qua rất nhiều biến động, có ảnh hưởng lớn đến tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng,… của Việt Nam.

1) Về kinh tế:

+ Lạm phát gia tăng, sản xuất và dịch vụ đi xuống, đời sống của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam gặp khó khăn chồng chất. Nhiều người lao động bị mất việc làm và không còn thu nhập. Việt Nam lại chẳng có hệ thống an sinh xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu cho người thất nghiệp, cho những kẻ nghèo không nơi nương tựa. Họ đã và đang bị bần cùng hóa một cách thê thảm.

+ Tình trạng khốn khổ này không những xảy ra với dân thường mà còn với cả những người ngay chính, không chịu làm trái lương tâm trong hệ thống công quyền, kể cả trong lực lượng công an và quân đội. Tất cả họ - vốn chiếm đa số trong xã hội - đều thuộc tầng lớp bị trị mà quyền lợi đã và đang bị một thiểu số thống trị trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam hôm nay tham muốn nuốt trọn.

+ Những giải pháp chống lạm phát, chống suy thoái kinh tế do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (NCQ CSVN) đưa ra, tuy bước đầu đạt được vài kết quả nhất định. Thế nhưng xét về thực chất, đó chỉ là những kết quả nửa vời, thiếu căn bản, không giải quyết được tận gốc vấn đề. Các tệ trạng nhất định sẽ bùng phát trở lại ngay trong năm 2009 này. Bởi vì, nguyên nhân sâu xa của chúng là thể chế chính trị độc tài toàn trị vốn vẫn còn y nguyên.

+ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2008 vừa qua cũng đã tác động xấu đến Việt Nam. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng: sự yếu kém toàn diện của bản thân nền kinh tế Việt Nam mới là nguyên nhân chính và đã tiềm ẩn trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra, bởi lẽ đó là sự pha trộn kỳ quặc giữa tính chất thị trường cạnh tranh với tính chất “xã hội chủ nghĩa”.

2) Về chính trị:

+ Thế kỷ 21 đã bắt đầu được hơn 8 năm với sự nở rộ của nền dân chủ trên toàn thế giới, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn còn phải chịu ách áp bức, bóc lột của một thể chế chính trị độc tài toàn trị, phi nhân bản, phản dân tộc và đi ngược lại các quy luật khách quan. Suốt hơn 63 năm qua, chế độ này luôn tập trung quyền lực vào tay một thiểu số lãnh đạo chính trị bất lương trong đảng cộng sản Việt Nam. Điều này đã triệt tiêu mọi khả năng cống hiến cho quốc gia dân tộc của rất nhiều con dân ưu tú, của những lực lượng chính trị tốt hảo, trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển của đất nước. Chế độ này vẫn đang tiếp tục thực thi một chính sách khủng bố khốc liệt nhằm trói tay, bịt miệng tất cả những người Việt Nam yêu nước dám dũng cảm đứng lên đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ. Nó không hề lấy sự ủng hộ của lòng dân để xây dựng và phát triển đất nước mà lại lấy bạo lực và lừa bịp làm phương tiện để tồn tại. Những biểu hiện ra bên ngoài của nó là nạn tham nhũng, lãng phí và hủy hoại môi trường rộng khắp; là cảnh áp bức, bất công, đói nghèo và tụt hậu đầy dẫy; là thói mua quan, bán chức nhan nhản, là sự giảm thiểu đạo đức xã hội và gia tăng đủ loại tội ác; là sự xâm phạm ngày càng nghiêm trọng đến an ninh cá nhân và xã hội, đến an ninh dân tộc và quốc gia (biên giới đất và biên giới biển).

Tóm lại, những hệ quả xấu xa và nguy hiểm của chế độ này chẳng những là sự tụt hậu về kinh tế mà còn là sự suy đồi về tất cả các mặt của đời sống đất nước như: đạo đức, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, v.v… Tất cả đang đẩy dân tộc ta vốn có nền văn hiến hàng ngàn năm vào sự suy vong khó tránh khỏi. Điều này thật dễ hiểu, khi mà tập đoàn cầm quyền luôn đặt quyền lợi của họ lên trên quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Tập đoàn ấy, với Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, đã tự quy định cho họ được độc quyền lãnh đạo đất nước vô thời hạn và không hề bị một cơ chế kiểm soát và giám sát nào. Vì vậy họ đã và đang ngày càng tác oai tác quái, đè đầu cưỡi cổ dân tộc. Điều này giải thích vì sao ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam hiện nay, từng phát biểu vào ngày 27-8-2007 rằng: “Dù ai có nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 Hiến pháp thì cũng không có chuyện đó được. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát...”. Hậu qủa là: Trong xã hội Việt Nam nhiễu nhương và suy đồi hôm nay, những cái cần mất thì lại còn (do dã tâm muốn duy trì) và những cái cần còn thì lại mất (do dã tâm muốn loại bỏ) của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam!

• Trước tình hình trên, Khối 8406 chúng tôi kêu gọi mọi người Việt Nam còn yêu nước thương nòi, không phân biệt già trẻ trai gái, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hoàn cảnh xuất thân, giai tầng xã hội, địa điểm sinh sống, v.v… hãy cùng đoàn kết đứng lên đấu tranh để thay thế triệt để chế độ độc đảng, độc tài và phản dân tộc này bằng một chế độ dân chủ, đa nguyên đa đảng và pháp trị tiến bộ trong tương lai, bằng những việc làm cụ thể sau đây:

1) Tiếp tục vạch trần sự thối nát, mục ruỗng toàn diện của chế độ độc tài toàn trị hiện nay; vạch trần sự lũng đoạn bất lương của một thiểu số cầm quyền, đặc biệt là của 15 ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đương chức, đang hàng ngày hàng giờ tàn phá đất nước, dân tộc này!

2) Ủng hộ sáng kiến mở chiến dịch khiếu kiện trước Liên Hiệp Quốc về những vi phạm nhân quyền của NCQ CSVN. Đòi họ phải cho đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam 3 văn kiện quan trọng (xin xem phần phụ lục). Đó là:

+ Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc (1948).
+ Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (1966).
+ Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966).

Nội dung của 3 văn kiện đó chứa đựng những quyền tự do căn bản, mà mọi người trên khắp thế giới đều được hưởng. Nhà nước CHXHCNVN đã ký tất cả 3 văn kiện này vào năm 1982 để lừa mị thế giới tiến bộ, nhưng họ lại luôn cố tình vi phạm chúng ở Việt Nam. Thậm chí tuyệt đại đa số người dân trong nước cũng không hề biết là có chúng. Do đó, trên tinh thần tích cực và chủ động, Khối 8406 kêu gọi các thành viên của mình và mọi người Việt Nam yêu nước ở khắp nơi, bằng tất cả khả năng của mình, hãy chuyển tải được càng nhiều càng tốt 3 văn kiện trên đến với người dân Việt Nam trong nước (thành thị, nông thôn, trung du, sơn cước lẫn đồng bằng). Cần coi đây là một chiến dịch trọng điểm của năm 2009, gắn chặt nó với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa nhằm giành lại tự do dân chủ cho Dân tộc!

3) Lên án các cuộc đàn áp, theo dõi, bắt bớ, đánh đập, khám nhà, gọi thẩm vấn, tịch thu tài sản, đuổi việc, xử phạt hành chính, giam tù,… của NCQ CSVN đối với những tiếng nói đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ. Đòi họ phải thả các tù nhân chính trị, tù nhân tôn giáo; phải để cho những người đấu tranh dân chủ tự do gặp gỡ, hội họp với nhau và với các nhà hoạt động nhân quyền, lãnh đạo chính trị trên thế giới. Tiếp tục khẳng định và chủ động thực thi các quyền tự do căn bản của con người như: tự do tôn giáo tín ngưỡng, thông tin ngôn luận, lập hội lập đảng, biểu tình để đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi quyền tự quyết cho dân tộc,…

4) Lên án các cuộc đàn áp của NCQ CSVN đối với các cá nhân và tập thể dân sự lẫn tôn giáo đấu tranh đòi lại đất đai bị NCQ CSVN cướp đoạt trên khắp đất nước. Ca ngợi sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh này. Đồng thời, chủ động xây dựng một bản dự thảo Hiến pháp đa đảng, trong đó quyền tư hữu tài sản của công dân, đặc biệt quyền tư hữu về đất đai được tôn trọng và chế độ hộ khẩu bị dứt khoát bãi bỏ.

5) Lên án công hàm bán nước do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 và 2 Hiệp định ký trong 2 năm 1999 - 2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc (về đất và biển). Đòi NCQ CSVN phải đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng 3 văn kiện này cùng những bản đồ và biên bản về các cột mốc biên giới hiện nay song song với Hiệp ước Thiên Tân Pháp - Thanh ký vào năm 1885, để nhân dân Việt Nam có cơ sở so sánh, xem dân tộc đã bị thiệt hại như thế nào. Đòi NCQ CSVN phải cảnh giác và phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về các âm mưu xâm nhập gặm nhấm, cắm dân cài người của nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc ở các tỉnh biên giới phía Bắc, ở vùng Tây Nguyên và ở bất cứ vùng đất, vùng trời và vùng biển nào của Tổ quốc Việt Nam!

6) Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của thế giới dân chủ. Đề nghị họ hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, an ninh, văn hóa, giáo dục v.v… với Việt Nam song song với việc yêu cầu và áp lực NCQ CSVN phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản của người dân.

7) Lên án cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989 và những cuộc đàn áp gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với phong trào dân chủ và dân sinh ở Trung Quốc. Ủng hộ bản Hiến chương 08 (Linh bát Hiến Chương) của các nhà dân chủ nước này được công bố vào ngày 10-12-2008). Đồng thời, kêu gọi sự liên minh, liên kết của các lực lượng đấu tranh dân chủ trong lòng các chế độ độc tài còn sót lại trên thế giới như: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Bắc Hàn.

8) Xây dựng và tăng cường sự đoàn kết đích thực trong nội bộ phong trào dân chủ, với nguyên tắc hợp nhất trong đa diện (nghĩa là chung mục tiêu xóa bỏ chế độ độc tài, xây dựng tự do dân chủ với những phương cách khác biệt). Đồng thời, đấu tranh mạnh mẽ và sáng suốt với âm mưu lũng đoạn thao túng, chia rẽ phá hoại của bộ máy công an cộng sản giữa lòng phong trào dân chủ.

9) Mời gọi Đồng bào Việt Nam ở ngoài nước khi có điều kiện hãy về sát cánh với đồng bào trong nước để cùng đấu tranh cho dân chủ. Xin Đồng bào đừng để mình bị Nghị quyết 36 của bộ chính trị đảng CSVN lừa gạt.

Việt Nam ngày 12 tháng 2 năm 2009.
Ban điều hành lâm thời Khối 8406.

1) Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
2) Trung tá Trần Anh Kim – Thái Bình – Việt Nam.
3) Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
4) Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)
(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)

------------------------------- Phụ lục 1-------------------------------


Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc (1948)

Được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố theo
Nghị quyết số 217 (III), ngày 10 tháng 12 năm 1948.

LỜI MỞ ĐẦU

Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,

Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người,

Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,

Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia,

Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,

Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản,

Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.

Vì vậy,

ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC

Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thỗ bị giám hộ.

Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.

Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

Ngoài ra không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền.

Điều 3: Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể.

Điều 4: Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ

Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6: Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.

Điều 8: Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.

Điều 9: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.

Điều 10: Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.

Điều 11:

1) Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.

2) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.

Điều 12: Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 13:

1) Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.

2) Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.

Điều 14:

1) Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác.

2) Quyền này không được viện dẫn trong trường hợp sự truy tố thực sự chỉ căn cứ vào những tội trạng không có tính cách chính trị hay vào những hành động trái với mục đích và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 15:

1) Ai cũng có quyền có quốc tịch.

2) Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16:

1) Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn.

2) Hôn thú chỉ có giá trị nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn.

3) Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

Điều 17:

1) Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác.

2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.

Điều 18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Điều 20:

1) Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình.

2) Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.

Điều 21:

1) Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.

2) Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.

3) Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.

Điều 22: Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài nguyên của quốc gia.

Điều 23:

1) Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử.

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24: Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghỉ định kỳ có trả lương.

Điều 25:

1) Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn.

2) Sản phụ và trẻ em được đặc biệt săn sóc và giúp đỡ. Tất cả các con, dầu là chính thức hay ngoại hôn, đều được hưởng bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26:

1) Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn.

2) Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hoà bình.

3) Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.

Điều 27:

1) Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy.

2) Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

Điều 28: Ai cũng có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29:

1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ.

2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn.

3) Trong mọi trường hợp, những quyền tự do này không thể hành xử trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên Ngôn này.
Bản dịch của Trung Tâm Việt Nam Về Nhân Quyền,
với sự tu chính của Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Nhân Quyền

------------------------------- Phụ lục 2-------------------------------

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966)

LỜI MỞ ĐẦU

Các Quốc Gia Hội Viên ký kết Công Ước này:

Xét rằng, chiếu theo những nguyên tắc công bố trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền móng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.

Nhìn nhận rằng những quyền này xuất phát từ phẩm giá bẩm sinh của con người.

Nhìn nhận rằng, chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do được hành xử những quyền dân sự và chính trị cũng như được giải phóng khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt được nếu hội đủ những điều kiện thuận tiện để con người được hưởng những quyền dân sự và chính trị cũng như những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.

Xét rằng nghiã vụ của các quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do của con người.

Nhận định rằng con người có nghiã vụ đối với những người khác cũng như đối với cộng đồng, nên có trách nhiệm phải phát huy và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này.

Đồng chấp thuận những điều khoản sau đây:

PHẦN I

Điều 1:

1. Các dân tộc đều có quyền tự quyết. Chiếu theo quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính trị và tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá.

2. Để đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghiã vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi trường hợp các phương tiện sinh sống của nghiệp đoàn không thể bị tước đoạt.

3. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

PHẦN II

Điều 2:

1. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được nhìn nhận trong Công Ước cho tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

2. Trong trường hợp những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này chưa được quy định thành văn trong luật pháp quốc gia, các quốc gia hội viên ký kết Công Ước cam kết sẽ ban hành các đạo luật theo thủ tục luật pháp quốc gia và theo các điều khoản của Công Ước để các quyền này có hiệu lực.

3. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết:

a. Bảo đảm cho các nạn nhân quyền được đền bù hay đòi bồi thường thỏa đáng khi những quyền tự do của họ bị vi phạm, dầu rằng người vi phạm là một viên chức chính quyền.

b. Bảo đảm cho các nạn nhân quyền được khiếu nại tại các cơ quan tư pháp, hành chánh hay lập pháp quốc gia, hay tại các cơ quan có thẩm quyền và phát triển quyền khiếu tố trước toà án.

c. Bảo đảm các cơ quan thẩm quyền phải thi hành nghiêm chỉnh những sự đền bù hay bồi thường đã tuyên

Điều 3: Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành xử những quyền dân sự và chính trị ghi trong Công Ước.

Điều 4:

1. Trong khi tuyên bố tình trạng khẩn trương công cộng vì lý do quốc gia bị đe doạ, Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này có thể ban hành một số biện pháp đình chỉ thi hành các nghiã vụ của quốc gia ấn định trong Công Ước này. Tuy nhiên những biện pháp này phải có tính cách thật cần thiết vì nhu cầu của tình thế, và không vi phạm các nghiã vụ của quốc gia phát sinh từ luật pháp quốc tế, và cũng không được dùng để kỳ thị chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo hay nguồn gốc xã hội.

2. Trong mọi trường hợp những quyền dân sự và chính trị ghi trong các điều 6, 7, 8 (khoản 1 và 2), và trong các điều 11, 15, 16, 18 của Công Ước không thể bị đình chỉ thi hành.

3. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này phải lập tức thông báo qua vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc cho các quốc gia hội viên kết ước khác hay biết những điều khoản nào trong Công Ước đã bị đình chỉ thi hành, và vì lý do gì. Ngay sau khi chấm dứt tình trạng khẩn trương công cộng, họ cũng phải thông báo theo thủ tục nói trên.

Điều 5:

1. Không một quốc gia, một phe nhóm hay một cá nhân nào có quyền giải thích các điều khoản trong Công Ước này để cho phép họ hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đã được Công Ước thừa nhận, hoặc để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn định trong Công Ước.

2. Các quốc gia hội viên kết ước nào đã thừa nhận một số nhân quyền căn bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy chế hay tục lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân quyền căn bản đó, viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.

PHẦN III

Điều 6:

1. Mọi người đều có quyền sống. Đây là một quyền bẩm sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể bị tước đoạt quyền sống một cách độc đoán.

2. Trong các quốc gia chưa bãi bỏ hình phạt tử hình, toà án chỉ được tuyên án tử hình đối với những tội hình sự nghiêm trong nhất chiếu theo luật pháp áp dụng trong thời gian phạm pháp và không trái với những điều khoản của Công Ước này và của Công Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng. Hình phạt tử hình chỉ có thể được thi hành chiếu theo một bản án chung thẩm của một tòa án có thẩm quyền.

3. Điều luật này không cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này được giải trừ các nghiã vụ ghi trong Công Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng trong trường hợp sự hành quyết hay sát nhân cấu thành tội diệt chủng.

4. Các bị cáo bị tuyên án tử hình có quyền xin ân xá hay ân giảm hình phạt. Lệnh đại xá, ân xá hay ân giảm hình phạt có thể được ban hành trong mọi trường hợp.

5. Án tử hình không được tuyên đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp, và cũng không được thi hành đối với các phụ nữ mang thai.

6. Điều luật này không thể được viện dẫn để trì hoãn hay ngăn cản việc bãi bỏ hình phạt tử hình tại các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này.

Điều 7: Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người. Đặc biệt là, nếu không có sự ưng thuận tự do của đương sự, không ai có thể bị dùng vào những cuộc thí nghiệm y học hay khoa học.

Điều 8:

1. Không ai có thể bị bắt làm nô lệ; chế độ nô lệ và mọi hình thức buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ.

2. Không ai có thể bị bắt làm nô dịch.

a. Không ai có thể bị cưỡng bách lao động.

b. Khoản 3 (a) nói trên không được áp dụng tại các quốc gia trong đó luật pháp cho phép toà án có thẩm quyền tuyên án tù khổ sai.

c. Trong phạm vi khoản này, không được coi là "lao động cưỡng bách":

i. Ngoài trường hợp nêu ở khoản (b) trên đây, những công tác hay dịch vụ mà các tù nhân phải làm trong thời gian bị giam giữ chiếu theo một bản án hợp pháp của toà án, hay phải làm trong thời gian được phóng thích có điều kiện.

ii. Nghiã vụ quân sự, hay nghiã vụ quốc gia áp dụng cho những người được luật pháp cho miễn thi hành nghiã vụ quân sự vì lý do lương tâm.

iii. Nghiã vụ cộng đồng trong trường hợp khẩn trương hay thiên tai đe doạ đời sống hay sự an lạc của cộng đồng.

iv. Những nghiã vụ dân sự thông thường.

Điều 9:

1. Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định.

2. Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc.

3. Bị cáo bị bắt giữ hay giam cầm về một tội hình sự phải được dẫn giải không chậm trễ tới một vị thẩm phán (hay một viên chức có thẩm quyền tư pháp theo luật), để được xét xử trong một thời hạn hợp lý hay được phóng thích. Theo thông lệ, không nhất thiết phải câu lưu bị cáo trước ngày toà xử. Tuy nhiên để bảo đảm sự hiện diện của bị cáo trong phiên xử hay trong các giai đoạn thẩm vấn, và để thi hành bản án, nếu cần, sự phóng thích tạm bị cáo đòi hỏi phải có bảo đảm.

4. Những người bị bắt giữ hay giam cầm đều có quyền yêu cầu toà án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự giam giữ, và phải được phóng thích nếu sự giam giữ được xét là bất hợp pháp.

5. Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường thiệt hại.

Điều 10:

1.
Những người mất tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm.

a. Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, các bị cáo chưa được xét xử phải được giam giữ cách biệt với những người đã can án, và phải được đối xử theo quy chế của những người không can án.

b. Các bị cáo thiếu nhi phải được giam giữ cách biệt với người lớn và phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất.

c. Chế độ lao tù phải đặt trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân, tạo cho họ cơ hội cải hoá và hội nhập vào đời sống xã hội. Các thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt với người lớn, và phải được đối xử tuỳ theo tuổi tác và tình trạng pháp lý của chúng.

Điều 11: Không ai có thể bị giam giữ chỉ vì không có khả năng thi hành một nghiã vụ khế ước.

Điều 12:

1. Những người cư trú hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong lãnh thổ.

2. Mọi người đều được quyền tự do rời khỏi một quốc gia, kể cả quốc gia của mình.

3. Những quyền tự do ghi trên không thể bị giới hạn, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác được thừa nhận trong Công Ước này.

4. Không ai có thể bị tước đoạt quyền hồi hương một cách độc đoán.

Điều 13:

Ngoại kiều cư trú hợp pháp trong lãnh thổ các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này chỉ có thể bị trục xuất do một quyết định hợp pháp. Trừ trường hợp có lý do cưỡng thúc về an ninh quốc gia, người bị trục xuất có quyền trình bày lý do để chống lại quyết định trục xuất, và có quyền nhờ người biện hộ nạp đơn xin tái xét hồ sơ trục xuất tại các cơ quan hay người đại diện cơ quan có thẩm quyền.

Điều 14:

1.
Mọi người đều bình đẳng trước toà án. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án độc lập, vô tư và có thẩm quyền theo luật, để phán xử về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc hay về những quyền lợi và nghiã vụ của mình trong các vụ tranh tụng khác. Báo chí và công chúng có thể không được tham dự một phần hay toàn thể phiên xử, vì nhu cầu đạo lý, trật tự công cộng hay an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hay để bảo vệ đời sống riêng tư của các đương sự tranh tụng, hay, trong những trường hợp thật cần thiết, khi toà án quyết định rằng xét xử công khai sẽ làm thiệt hại quyền lợi của công lý. Tuy nhiên các bản án hình sự và các bản án khác phải được tuyên đọc công khai trước toà, ngoại trừ trường hợp để bảo vệ quyền lợi của thiếu nhi hay của gia đình trong những vụ tranh tụng về hôn nhân hay về việc giám hộ các con.

2. Bị cáo về các tội hình sự có quyền được suy đoán là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật.

3. Trong các vụ hình sự, tất cả các bị cáo đều được hưởng đồng đều những bảo đảm tối thiểu sau đây:

a. Được tức thì thông báo tội trạng với đầy đủ chi tiết bằng ngôn ngữ mà họ thông hiểu.

b. Quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị sự biện hộ và được quyền liên lạc với luật sư do mình lựa chọn.

c. Được xét xử mau chóng, không diên trì quá đáng.

d. Được hiện diện trong phiên xử để tự biện hộ hay nhờ luật sư biện hộ do mình lựa chọn; được thông báo về quyền này trong trường hợp tự biện hộ; và được quyền có luật sư biện hộ miễn phí vì nhu cầu công lý nếu bị cáo không có phương tiện mướn luật sư.

e. Được đối chất với các nhân chứng buộc tội và được quyền đòi nhân chứng và chất vấn các nhân chứng gỡ tội cho mình, theo cùng một thủ tục.

f. Được quyền có thông dịch viên miễn phí, nếu bị cáo không nói hay không hiểu ngôn ngữ của toà.

g. Được quyền không khai, để khỏi phải tự buộc tội mình, hay khỏi phải thú nhận tội trạng.

4. Trong các vụ án thiếu nhi, thủ tục xét xử phải căn cứ vào tuổi tác của bị cáo và hướng về mục tiêu cải huấn can phạm.

5. Các bị cáo bị tuyên phạt có quyền kháng cáo lên toà trên theo thủ tục luật định.

6. Trong trường hợp bị cáo bị tuyên hình phạt chung thẩm và sau này bản án bị tiêu huỷ hay đương sự được ân xá vì có sự kiện mới phát giác cho biết bị cáo đã bị phạt oan uổng, người bị kết án có quyền đòi bồi thường thiệt hại theo luật, trừ phi có bằng chứng cho biết, sở dĩ sự kiện mới này không được phát giác trong thời gian xử án, một phần hay hoàn toàn tại vì bị cáo.

7. Không ai có thể bị tái thẩm hay bị tuyên phạt một lần nữa về một tội trạng đã được toà án phán xử chung thẩm bằng cách tuyên phạt hay tha bổng, chiếu theo luật pháp và thủ tục hình sự hiện hành.

Điều 15:

1. Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế áp dụng hồi đó; mà cũng không bị tuyên một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng hình phạt khoan hồng hơn chiếu theo luật mới ban hành sau ngày phạm pháp.

2. Điều luật này không có tác dụng ngăn cản việc xét xử hay tuyên phạt một bị cáo vì đã làm hay không làm những hành vi cấu thành tội hình sự chiếu theo những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia trong thời gian đương sự phạm pháp.

Điều 16:

Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 17:

1. Không ai có thể bị xâm phạm trái phép hay độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm trái phép đến danh dự và thanh danh.

2. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 18:

1. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

2. Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.

3. Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác.

4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.

Điều 19:

1. Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.

2. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.

3. Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:

a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác.

b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.

Điều 20:

1. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ võ chiến tranh phải bị luật pháp cấm chỉ.

2. Mọi hình thức gieo rắc căm hờn, xúi giục kỳ thị, hiềm khích, kích thích bạo động giữa các quốc gia, các chủng tộc hay các tôn giáo phải bị luật pháp cấm chỉ.

Điều 21:

Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận. Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác.

Điều 22:

1.
Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

2. Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác. Điều luật này không có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành xử quyền tự do lập hội của các giới quân nhân và cảnh sát.

3. Điều luật này không có hiệu lực cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Động Quốc Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội, được ban hành hay áp dụng những đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do ghi trong Công Ước Lao Động Quốc Tế.

Điều 23:

1. Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản trong xã hội và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

2. Thanh niên nam nữ đến tuổi thành hôn có quyền kết hôn và lập gia đình.

3. Hôn thú chỉ được thành lập nếu có sự ưng thuận hoàn toàn tự do của những người kết hôn.

4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này phải ban hành những biện pháp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm của vợ chồng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú, cũng như khi ly hôn. Trong trường hợp ly hôn phải quy định những biện pháp bảo vệ quyền lợi của các con.

Điều 24:

1. Không phân biệt chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản hay dòng dõi, các trẻ em, với tư cách vị thành niên, phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo vệ.

2. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi sinh, và được đặt tên họ.

3. Trẻ em có quyền thủ đắc quốc tịch.

Điều 25:

1. Không bị kỳ thị (như đã quy định ở điều 2) và không bị giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có quyền và có cơ hội:

a. Được tham gia vào việc điều hành chính quyền, hoặc trực tiếp hoặc qua những đại biểu do mình tự do tuyển chọn.

b. Được bầu cử và ứng cử trong những cuộc tuyển cử tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu kín, bảo đảm trung thực ý nguyện của cử tri.

c. Được quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.

Điều 26:

Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương diện này, luật pháp cấm mọi kỳ thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được bảo vệ một cách bình đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào.

Điều 27:

Đối với các cộng đồng thiểu số về chủng tộc, tôn giáo, hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công Ước này bảo đảm cho các thành phần thiểu số cũng với những người khác trong cộng đồng của họ được quyền hưởng văn hoá riêng, được truyền giáo và hành đạo riêng, và được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.

Trích từ cuốn "LUẬT QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN" do Luật sư Nguyễn Hữu Thống dịch và diễn giải, với sự tu chính của Ủy ban Phối hợp Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam. Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam xuất bản năm 1998 (http://www.vietnamhumanrights.net)

------------------------------- Phụ lục 3-------------------------------

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966).

Các Quốc Gia Hội Viên ký kết Công Ước này:

Xét rằng, chiếu theo những nguyên tắc công bố trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền móng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.

Nhìn nhận rằng những quyền này xuất phát từ phẩm giá bẩm sinh của con người.

Nhìn nhận rằng, chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do được giải phóng khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt được nếu hội đủ những điều kiện thuận tiện để con người được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, cũng như những quyền dân sự và chính trị.

Xét rằng nghiã vụ của các quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do của con người.

Nhận định rằng con người có nghiã vụ đối với những người khác cũng như đối với cộng đồng, nên có trách nhiệm phải phát huy và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này.

Đồng chấp thuận những điều khoản sau đây:

PHẦN I

Điều 1:

1. Các dân tộc đều có quyền tự quyết. Chiếu theo quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính trị và tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá.

2. Để đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghiã vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi trường hợp các phương tiện sinh sống của nghiệp đoàn không thể bị tước đoạt.

3. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

PHẦN II

Điều 2:

1.
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết, sẽ tự mình và do sự tương trợ và hợp tác quốc tế, đặc biệt về kinh tế và kỹ thuật, ban hành những biện pháp tận dụng những nguồn lợi quốc gia vào mục đích thực thi lũy tiến và đầy đủ những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này bằng những phương pháp thích nghi, đặc biệt là bằng việc ban hành các đạo luật.

2. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm thực thi các quyền liệt kê trong Công Ước này không phân biệt chủng tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

3. Trong chiều hướng tôn trọng nhân quyền và căn cứ vào khả năng kinh tế trong nước, các quốc gia đang phát triển có thể ấn định những quyền kinh tế nào trong Công Ước này sẽ được bảo đảm áp dụng cho những người không có tư cách công dân.

Điều 3:

Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành xử những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá liệt kê trong Công Ước này.

Điều 4:

Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn nhận rằng, về việc hành xử những quyền ghi trong Công Ước, họ chỉ có thể ấn định các giới hạn luật định phù hợp với bản chất của những quyền này và chỉ nhằm mục đích phát huy sự an lạc chung trong một xã hội dân chủ.

Điều 5:
1. Không một quốc gia, một phe nhóm hay một cá nhân nào có quyền giải thích các điều khoản trong Công Ước này để cho phép họ hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đã được Công Ước thừa nhận, hoặc để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn định trong Công Ước.

2. Các quốc gia nào đã thừa nhận một số nhân quyền căn bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy chế hay tục lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân quyền căn bản đó, viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.

PHẦN III

Điều 6:


1.
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền làm việc và cam kết sẽ ban hành những biện pháp để bảo đảm quyền này. Quyền làm việc bao gồm quyền co cơ hội sinh sống nhờ công việc, quyền tự do nhận việc hay lựa chọn việc làm.

2. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này sẽ ban hành những biện pháp để thực thi đầy đủ quyền làm việc, như những chương trình huấn luyện, hướng dẫn kỹ thuật và hướng nghiệp, những chính sách và kỹ thuật để phát triển đều đặn về kinh tế, xã hội và văn hoá, cùng sự toàn dụng nhân công vào việc sản xuất trong điều kiện những quyền tự do chính trị và kinh tế căn bản của con người được bảo đảm.

Điều 7:

Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn nhận cho mọi người quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt với những bảo đảm sau đây:

1. Về việc trả lương cho các công nhân, tối thiểu phải có:

a. Tiền lương tương xứng và công bằng cho các công việc có giá trị ngang nhau không phân biệt đối xử. Đặc biệt phụ nữ được bảo đảm có những điều kiện làm việc tương xứng như nam giới, làm việc ngang nhau được trả lương ngang nhau.

b. Một mức sống xứng đáng cho bản thân và gia đình phù hợp với những điều khoản của Công Ước này.

2. Có điều kiện làm việc an toàn và không hại đến sức khoẻ.

3. Có cơ hội thăng tiến đồng đều cho mọi người và chỉ căn cứ vào thâm niên và khả năng.

4. Có quyền nghỉ ngơi và giải trí; được ấn định hợp lý số giờ làm việc, kể cả những ngày nghỉ định kỳ có trả lương và những ngày nghỉ lễ có trả lương.

Điều 8:

1. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm:

a. Quyền tự do thành lập nghiệp đoàn và tham gia nghiệp đoàn (theo nội quy và điều lệ), để bảo vệ và gia tăng quyền lợi kinh tế và xã hội của mình. Sự hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, hay sự hành xử quyền tự do của người khác.

b. Quyền của các nghiệp đoàn được kết hợp thành các tổng liên đoàn quốc gia, và từ đó thành lập hay gia nhập các tổ chức tổng liên đoàn quốc tế.

c. Các nghiệp đoàn được quyền tự do hoạt động và chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vi nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, hay sự hành xử quyền tự do của những người khác.

d. Quyền đình công được hành xử theo luật quốc gia.

2. Điều luật này không có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành xử những quyền này của các giới quân nhân, cảnh sát và công chức quốc gia.

3. Điều luật này không có hiệu lực cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Động Quốc Tế năm 1948 về Quyền Tự do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội được ban hành những đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm ghi trong Công Ước Lao Động Quốc Tế.

Điều 9:

Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội.

Điều 10:

Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn nhận rằng:

1. Vì gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản trong xã hội nên phải được bảo vệ và hỗ trợ mạnh mẽ nhất, đặc biệt trong giai đoạn thành lập và trong khi thi hành nghiã vụ chăm sóc và giáo dục các trẻ em. Hôn thú được thành lập do sự ưng thuận tự do của những người kết hôn.

2. Xã hội phải đặc biệt giúp đỡ các sản phụ trong một thời gian hợp lý trước và sau khi sinh nở. Trong thời gian này, các bà mẹ đi làm được nghỉ phép có trả lương hay được hưởng trợ cấp an sinh xã hội cần thiết.

3. Quốc gia phải ban hành những biện pháp đặc biệt để bảo vệ và hỗ trợ các trẻ em và thiếu niên không phân biệt tình trạng phụ hệ hay bất cứ thân trạng nào khác. Trẻ em và thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột về kinh tế và xã hội. Các thiếu niên không được tuyển dụng vào các công việc nguy hiểm đến đời sống hay phương hại đến đạo lý, sức khỏe hay đến sự phát triển bình thường của tuổi trẻ. Vi phạm điều này phải bị truy tố theo luật. Quốc gia cũng phải ấn định số tuổi tối thiểu cho các thiếu niên làm việc lao động có trả lương. Tuyển dụng các thiếu niên dưới tuổi luật định phải bị cấm chỉ và truy tố theo luật.

Điều 11:

1. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng một mức sống khả quan cho bản thân và gia đình, đủ cơm ăn, áo mặc và nhà ở. Mức sống này phải được nâng cao liên tục. Các quốc gia hội viên kết ước sẽ ban hành những biện pháp thích nghi để quyền này được thực hiện, ý thức rằng sự hợp tác quốc tế trên căn bản tự nguyện giữ vai trò thiết yếu trong việc này.

2. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền căn bản được giải thoát khỏi sự đói khổ, và cam kết sẽ ban hành những biện pháp do quốc gia và do sự hợp tác quốc tế, để thực hiện những chương trình đặc biệt cần thiết như:

a. Cải tiến những phương pháp sản xuất, tồn trữ và phân phối thực phẩm bằng cách tận dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật, phổ biến các kiến thức về dinh dưỡng, phát triển hay canh tân nông nghiệp để đạt được năng suất tối đa về phát triển và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

b. Trên phạm vi toàn cầu, phải tiến tới sự phân phối công bằng và hợp lý các thực phẩm trên thế giới tùy theo khả năng của các quốc gia xuất cảng thực phẩm và nhu cầu của các quốc gia nhập cảng thực phẩm.

Điều 12:

1. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe thể chất và tâm thần.

2. Để quyền này được thực thi đầy đủ, các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này sẽ ban hành những biện pháp cần thiết sau đây:

a. Giảm bớt tỷ lệ tử vong của thai nhi và hài nhi, bảo vệ sức khỏe và sự phát triển của trẻ em.

b. Cải thiện những điều kiện vệ sinh trong môi trường sinh thái và môi trường kỹ nghệ.

c. Ngăn ngừa, điều trị và kiểm soát các bệnh dịch, các bệnh đặc biệt tại một địa phương hay tại một loại nghề nghiệp, cũng như các bệnh khác.

d. Tạo điều kiện để bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ y tế và chăm sóc bệnh nhân khi đau yếu.

Điều 13:

1. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách và nhân phẩm, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; cho mọi người được thực sự tham gia sinh hoạt trong một xã hội tự do, đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo, và yểm trợ các hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hoà bình.

2. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn nhận rằng, đường hướng sau đây sẽ giúp vào việc thực hiện đầy đủ quyền giáo dục:

a. Giáo dục tiểu học phải có tính cách cưỡng bách và miễn phí cho tất cả mọi người.

b. Giáo dục trung học kể cả các ngành phổ thông, kỹ thuật và hướng nghiệp phải được phổ cập cho tất cả mọi người bằng những phương pháp thích nghi và đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí.

c. Giáo dục đại học phải được phổ cập bình đẳng cho mọi sinh viên bằng những phương pháp thích nghi, căn cứ vào khả năng, và đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí.

d. Giáo dục căn bản tráng niên được khuyến khích và tăng cường tối đa cho những người chưa tốt nghiệp tiểu học.

e. Hệ thống giáo dục các cấp phải được tích cực phát triển, hệ thống học bổng tu nghiệp phải được thiết lập và điều kiện vật chất của các nhân viên giảng huấn phải được cải thiện liên tục.

f. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền tự do của phụ huynh học sinh hay người giám hộ, được lựa chọn trường cho con em ngoài hệ thống giáo dục công lập, nếu trường này hội đủ những tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do quốc gia ấn định. Các phụ huynh hay người giám hộ cũng được quyền phụ trách về giáo dục tôn giáo và đạo lý cho con em theo tín ngưỡng của họ.

3. Điều luật này không có tác dung can thiệp vào quyền tự do của các cá nhân hay tổ chức trong việc thiết lập và điều hành các định chế giáo dục tư thục với điều kiện cùng theo đuổi những mục tiêu giáo dục nêu ở khoản 1 điều này, và nếu hội đủ tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do quốc gia ấn định.

Điều 14:

Trong thời gian ký kết hay gia nhập Công Ước này, nếu các quốc gia hội viên nào chưa tổ chức được hệ thống tiểu học cưỡng bách và miễn phí trong quản hạt quốc gia (hay trong các lãnh thổ mà họ bảo hộ hay giám hộ), họ cam kết sẽ thiết lập trong vòng 2 năm một chương trình hành động với đầy đủ chi tiết để tuần tự ban hành trong một thời gian hợp lý có ghi rõ trong chương trình, một hệ thống giáo dục cưỡng bách và miễn phí cho tất cả các học sinh tiểu học

Điều 15:

1. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa nhận quyền của mọi người:

a. Được tham gia vào đời sống văn hoá;

b. Được hưởng các lợi ích của những tiến bộ và sáng chế khoa học.

c. Được bảo vệ những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

2. Để thực thi đầy đủ quyền này, các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết sẽ ban hành những biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn, phát triển và phổ biến khoa học và văn hoá.

3. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền tự do cần thiết cho việc nghiên cứu khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật.

4. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này ghi nhận những lợi ích trong việc khuyến khích và phát triển những liên lạc và hợp tác quốc tế trên lãnh vực khoa học và văn hoá.

Trích từ cuốn "LUẬT QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN" do Luật sư Nguyễn Hữu Thống dịch và diễn giải, với sự tu chính của Ủy ban Phối hợp Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam. Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam xuất bản năm 1998 (http://www.vietnamhumanrights.net)


Khối 8406 ra tuyên bố 9 điểm về tình hình Việt Nam hiện nay

LM Nguyễn Văn Lý, một trong những sáng lập viên của Khối 8406 tại phiên tòa lịch sử 30/3/2007 tại Huế. Ngài bị CSVN kết án 8 năm tù chỉ vì đấu tranh cho nhân quyền.
(Hình: AFP/Getty Images)

SÀI GÒN 12-2 (NV).- Khối 8406, một tổ chức quần chúng gồm đủ mọi thành phần ở Việt Nam vừa đưa ra bản tuyên bố 9 điểm về tình hình Việt Nam và kêu gọi mọi người đoàn kết hành động để đất nước sớm có tự do dân chủ và thịnh vượng.

Tổ chức đấu tranh dân chủ bất bạo động này cho rằng các quyền tự do căn bản của người đân đã bị chế độ CSVN tước đoạt và dành đặc quyền đặc lợi cho một thiểu số thống trị trogn khi đại đa số quần chúng sống không có ngày mai.

Bản tuyên bố 9 điểm nói rằng về kinh tế "Lạm phát gia tăng, sản xuất và dịch vụ đi xuống, đời sống của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam gặp khó khăn chồng chất. Nhiều người lao động bị mất việc làm và không còn thu nhập. Việt Nam lại chẳng có hệ thống an sinh xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu cho người thất nghiệp, cho những kẻ nghèo không nơi nương tựa. Họ đã và đang bị bần cùng hóa một cách thê thảm.

Tình trạng khốn khổ này không những xảy ra với dân thường mà còn với cả những người ngay chính, không chịu làm trái lương tâm trong hệ thống công quyền, kể cả trong lực lượng công an và quân đội. Tất cả họ - vốn chiếm đa số trong xã hội - đều thuộc tầng lớp bị trị mà quyền lợi đã và đang bị một thiểu số thống trị trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam hôm nay tham muốn nuốt trọn".

Những giải pháp đối phó với khó khăn kinh tế được đưa ra trong năm qua chỉ là những biện pháp nửa vời, không giải quyết tận gốc rễ của vấn đề, bản tuyên bố nhận định.

Về phương diện chính trị, Khối 8406 nói "Suốt hơn 63 năm qua, chế độ này luôn tập trung quyền lực vào tay một thiểu số lãnh đạo chính trị bất lương trong đảng cộng sản Việt Nam... Nó không hề lấy sự ủng hộ của lòng dân để xây dựng và phát triển đất nước mà lại lấy bạo lực và lừa bịp làm phương tiện để tồn tại".

Chính vì vậy "nạn tham nhũng, lãng phí và hủy hoại môi trường rộng khắp; là cảnh áp bức, bất công, đói nghèo và tụt hậu đầy dẫy; là thói mua quan, bán chức nhan nhản, là sự giảm thiểu đạo đức xã hội và gia tăng đủ loại tội ác; là sự xâm phạm ngày càng nghiêm trọng đến an ninh cá nhân và xã hội, đến an ninh dân tộc và quốc gia (biên giới đất và biên giới biển)".

Ðể nắm trọng quyền lợi kinh tế, đảng CSVN đặt ra điều 4 ở hiến pháp, dành độc quyền thống trị cho họ vô thời hạn và không qua một cơ chế giám sát nào. Bởi vậy, Nguyễn Minh Triết từng tuyên bố ngày 27/8/2007 rằng "Dù ai có nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 Hiến pháp thì cũng không có chuyện đó được. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát..."

Trước tình hình đất nước như vậy, Khối 8406 "kêu gọi mọi người Việt Nam còn yêu nước thương nòi, không phân biệt già trẻ trai gái, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hoàn cảnh xuất thân, giai tầng xã hội, địa điểm sinh sống, v.v... hãy cùng đoàn kết đứng lên đấu tranh để thay thế triệt để chế độ độc đảng, độc tài và phản dân tộc này bằng một chế độ dân chủ, đa nguyên đa đảng và pháp trị tiến bộ trong tương lai, bằng những việc làm cụ thể sau đây:

1. Tiếp tục vạch trần sự thối nát, mục ruỗng toàn diện của chế độ độc tài toàn trị hiện nay; vạch trần sự lũng đoạn bất lương của một thiểu số cầm quyền, đặc biệt là của 15 ủy viên Bộ chính trị Ðảng cộng sản Việt Nam đương chức, đang hàng ngày hàng giờ tàn phá đất nước, dân tộc này!

2. Ủng hộ sáng kiến mở chiến dịch khiếu kiện trước Liên Hiệp Quốc về những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN. Ðòi họ phải cho đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam 3 văn kiện quan trọng (xin xem phần phụ lục). Ðó là:

+ Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc (1948).

+ Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (1966).

+ Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966)."

Khối 8406 kêu gọi mọi người "Lên án các cuộc đàn áp, theo dõi, bắt bớ, đánh đập, khám nhà, gọi thẩm vấn, tịch thu tài sản, đuổi việc, xử phạt hành chính, giam tù,... của nhà cầm quyền CSVN đối với những tiếng nói đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ. Ðòi họ phải thả các tù nhân chính trị, tù nhân tôn giáo; phải để cho những người đấu tranh dân chủ tự do gặp gỡ, hội họp với nhau và với các nhà hoạt động nhân quyền, lãnh đạo chính trị trên thế giới."

"Lên án các cuộc đàn áp của nhà cầm quyền CSVN đối với các cá nhân và tập thể dân sự lẫn tôn giáo đấu tranh đòi lại đất đai bị CSVN cướp đoạt trên khắp đất nước."

"Lên án công hàm bán nước do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 và 2 hiệp định ký trong 2 năm 1999-2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc (về đất và biển)."

Khối 8406 "Mời gọi đồng bào Việt Nam ở ngoài nước khi có điều kiện hãy về sát cánh với đồng bào trong nước để cùng đấu tranh cho dân chủ. Xin đồng bào đừng để mình bị Nghị quyết 36 của Bộ Chính Trị đảng CSVN lừa gạt."

Bản tuyên bố do một ban điều hành lâp thời công bố ngày 12/2/2009 ở Việt Nam.

Khối 8406 do LM Nguyễn Văn Lý và 117 vị khác gồm đủ mọi thành phần trong xã hội thành lập và công khai hoạt động ngày 8 Tháng Tư năm 2006. Nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, các chính phủ Tây Phương hậu thuẫn mạnh mẽ cho tổ chức này. Nhưng chế độ Hà Nội đã bỏ tù LM Nguyễn Văn Lý và một số thành viên quan trọng của tổ chức từ khi tổ chức được thành lập đến nay.



Từ Cứu Mù, Nhà May Mắn Tim Rebeaud đến… Bệnh Xá Lưu Động Vietnam Clinic

Tuấn Phan

Báo Người Việt Tây Bắc, Seattle tuần qua 13-2-2009 loan một tin sinh hoạt cộng đồng có vẻ bí hiểm, ẩn giấu một âm mưu lớn của một nhóm người ẩn danh, quảng cáo buổi tiệc vào cuối tuần nầy để gây quỹ cho cái gọi là “Bệnh xá lưu động Vietnam Clinic” KHÁM BỆNH miễn phí cho khỏang 1500 người nghèo khó ở miền quê hẻo lánh … Việt Nam. Điều đáng chú ý là buổi tiệc gây quỹ … từ thiện cho VC với giá 60 đô/người gồm 7 món, có phụ diễn ca nhạc, thời trang cũng lại được diễn ra tại Tea Palace, một nhà hàng Tàu lớn mới cất bên Renton của Tập đòan kinh tài Tàu-Việt Cộng Trần Đức Viet-Wah!

Theo sự tiết lộ của một nhân vật nổi danh địa phương, đàng sau "Bệnh xá lưu động Vietnam Clinic" nầy là một nhóm người trẻ Việt Nam thuộc University of Washington, (nghe nói có con gái của Chủ nhân Lam’s Seafood Market), giựt dây bởi ... cha chú, ông bà của chúng trong cộng đồng, chưa kể một số người Mỹ phản chiến thân Cộng!

Vietnam Clinic là tên gọi mới toanh của một tổ chức … bí mật vì cho tới giờ nầy, chẳng ai biết do ai cầm đầu, trụ sở ở đâu … nhưng rõ ràng có dính líu đến quan thái thú Tàu Trần Đức qua cái tiệc tại Tea Palace như lần trước gây quỹ cho Nhà May Mắn ở Việt Nam của nữ cán bộ từ thiện VC Tim Rebeaud, hợp tác tổ chức cùng Băng đảng mafia Việt Tân!

Chăm lo sức khỏe, bệnh tật cho 85 triệu dân Việt trong nước là bổn phận bắt buộc phải làm của CSVN, 1500 người nghèo khó miền quê Việt Nam có thấm gì so với hàng mấy chục triệu đồng bào dốt nát, bệnh tật, nghèo đói đang sống lây lất ở khắp miền đất nước từ rừng núi xuống đồng bằng, từ miền quê hẻo lánh đến tận hang cùng ngõ hẻm của các thành phố trên tòan cõi Việt Nam. Giúp khám bệnh miễn phí cho 1500 người có giải quyết tận gốc bệnh tật của họ hay chỉ là bước đầu thử nghiệm cho cái gọi là “Bênh xá lưu động Vietnam Clinic” để moi đô la và làm “công quả” cho bọn tu bản đỏ Việt Cộng, thi hành bởi tư bản đỏ Tàu Cộng kiêm quan thái thú Trần Đức?

Bề mặt làm từ thiện cho VC, đám người Mỹ gốc Tàu cấu kết với một số Việt gian đang âm mưu đô hộ 80 ngàn dân Việt ở Tiểu bang Washington qua việc vận động một cựu lính kiểng BĐQ/VNCH người Mỹ gốc Tàu nói rành tiếng Việt, lên làm Chủ tịch Cộng Đồng NVQG T/b Washington!

Tại sao quan thái thú Trần Đức, viên cảnh sát hợp đồng người Mỹ gốc Miên là Thạch L. lại sốt sắng đưa cựu lính kiểng BĐQ Nghiêm H. gốc Tàu (nói được tiếng Quảng, Tiều, Phổ Thông) lên làm Chủ tịch Cộng Đồng của người Việt? Theo nhận định của người hiểu chuyện, ngoài lý do chính trị chuẩn bị lập công với CSVN khi hình thành Lãnh Sự Quán VC tại Seattle, còn che giấu lý do liên quan tiền bạc!

Số là quan thái thú Tàu Trần Đức của Tập đoàn kinh tài Viet-Wah đã bị hố nặng khi mở chợ Viet-Wah ở tận bên Renton rất xa nơi cư ngụ của đa số dân Việt và Tàu, lại đèo thêm một nhà hàng lớn Tea Palace bên cạnh nên doanh thu không bù chi phí!. (Một chiến hữu từng công khai than phiền ngay tại chợ Viet-Wah rằng chợ này đã bày bán bánh mứt cũ tồn kho từ … Tết Mậu Tý năm ngoái. Thế là ngày hôm sau, chưa hết Tết Kỷ Sửu 2009, Viet-Wah dẹp hết các loại bánh mứt quá date nầy!) .

Để san bằng khiếm hụt lợi nhuận của hệ thống chợ và nhà hàng, quan thái thú Trần Đức liền tung tiền và đàn em xông pha len lỏi vào các tổ chức hội đoàn NVQG địa phưong, kể cả cấu kết với Băng đảng Mafia Việt Tân lấy cảm tình, tạo ân nghĩa để Tea Palace sẽ dần dần loại dần các nhà hàng của người Việt (thí dụ Jumbo), giành độc quyền (THẦU) tổ chức các buổi tiệc lớn nhỏ của cộng đồng Việt, tiện thể giải quyết các loại thực phẩm ế ẩm của chợ Viet-Wah bên cạnh!

Tiến mạnh hơn nữa, là một khi Chủ tịch Cộng Đồng NVQG Tb/Washington là người Tàu dưới sự nhiếp chính của quan thái thú Tàu Trần Đức thì hy vọng sự buôn bán, làm ăn của Tập đoàn kinh tài cho Tàu và Việt Cộng Viet-Wah sẽ phát triển mạnh! Đồng thời, viên chức cảnh sát hợp đồng người Mỹ gốc Miên Thạch L. cũng sẽ giữ vững job thơm của ông ta! Tàu, Miên lưỡng lợi còn Việt mình lãnh đủ!

Với bản chất Ba Tàu, ở nơi nào cũng là ba Tàu, từ Nhà May Mắn đến Bệnh xá lưu động Vietnam Clinic, thật sự nhóm người Mỹ gốc Tàu nói rành tiếng Việt chẳng hề có lòng từ thiện gì dành cho người Việt! Đó chẳng qua, họ xem cộng đồng người Việt ở Tiểu bang Washington là một nguồn sữa béo bở tha hồ vắt, đồng thời là môi trường chính trị thuận lợi để họ khống chế trước khi CSVN lập Lãnh Sự Quán tại Seattle !

Là người dân Việt tại Tiểu bang Washington, chẳng lẽ chúng ta không còn một ai rặt giống nòi Việt xung phong ra gánh vác cộng đồng, để cho đám người Tàu thao túng chúng ta như một hình thức đô hộ Bắc thuộc tái diễn hay sao?

Chúng ta hãy suy ngẫm lời kêu gọi sau đây của một nhà ái quốc Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ trước:

… Than ít tiếng gọi hồn chủng loại,
Việt Nam ! người Việt Nam mau trở lại!
Yêu giống nòi có phải hơn không ?
Dầu sao cũng giống Lạc Hồng!

(Lấy chồng Chệt, thơ Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH năm 1946).

Tuấn Phan
(Cư dân Seattle, WA State)
ddpghh@yahoo.com
http://lyhuong.net/viet/index.php?op...ndoc&Itemid=56


Người Bán Liêm Sỉ - Tiểu Tử

Tiểu Tử

Xin gọi ông ta là ông X. Để tránh phiền phức. Thời buổi bây giờ, con người dễ bị chụp mũ bất cứ lúc nào và bởi bất cứ ai. Ở trên chụp xuống là nhà cầm quyền – hạng này đông lắm và rất... vững tay nghề vì đã từng hành nghề này cả mấy chục năm. Ở dưới chụp lên là kẻ tiểu nhơn – hạng này thường thấy xuất hiện khi có biến cố hay khi thấy chánh quyền đa nghi như Tào Tháo; hạng này hành động theo thời cơ nên tay nghề lắm khi còn vụng; họ không đông nhưng rất nguy hiểm bởi vì họ giống như mọi người nên khó mà nhận diện ! Ở ngang với mình mà chụp mũ mình là mấy đứa mà mình thường gọi là bạn hay chiến hữu hay đồng chí – hạng... mắc dịch này mới bắt tay ôm hôn mình thấm thiết đó, vậy mà hôm sau đã “trở cờ xé lẻ” bởi vì cái đít của họ đòi cái ghế và cái mặt của họ muốn được... bự bằng cái nia ( để được thấy là … đại diện ! ) ; hạng này không cần tay nghề khéo nên cách chụp mũ thiếu... tế nhị ! Nói chung, hạng chụp mũ nào cũng chỉ chụp người có tên tuổi đàng hoàng chớ chẳng ai chụp mũ một kẻ vô danh. Cho nên, gọi nhân vật trong chuyện sau đây là ông X để ổng trở thành kẻ vô danh, khỏi bị chụp mũ ! (Xin lỗi ! Tôi hơi dài dòng ở đây tại vì tôi muốn mọi người đều thấy tôi “rõ như ban ngày”, để đừng ai... chụp mũ tôi “có ý đồ này nọ”. Đa tạ).

Bây giờ thì xin nói đến ông X.

Hồi thời trước – thời mà sau này “được” gọi là ngụy – ông X làm việc cho một hãng tư của ngoại quốc. Ông làm việc lâu năm và rất đắc lực nên ban giám đốc giao cho ông những chức vụ quan trọng với quyền hạn về tài chánh thật rộng rãi. Để thực hiện những chương trình xây dựng đồ sộ của hãng, ông thường xuyên giao dịch với chánh quyền. Nhờ vậy, ông “quen lớn” nhiều trong cả hai giới dân sự và quân sự.

Ở địa vị như của ông, con người dễ bị cám dỗ vì tư lợi. Chẳng có gì khó hết. Chỉ cần “nhắm mắt” một chút là nhà thầu sẽ biết cách đền ơn. Chỉ cần “biết phải quấy” một chút là vô “áp phe” riêng cho mình. Chỉ cần “bóp chẹt bắt bí” một chút là hất chân những đứa không theo bè cánh...

Ông X lại không thuộc hạng “biết làm ăn” như kể trên. Ông lớn lên trong một gia đình theo Khổng giáo, lấy “nhân nghĩa lễ trí tín” làm phương châm, luôn đề cao giá trị đạo đức của con người. Cho nên làm việc cho hãng gần hai mươi năm mà không thấy ông ... “xơ múi” chút gì hết ! Bạn bè có đứa chê ông nhát. Ông cười: “Thà tao nhát mà tao giữ tròn liêm sỉ. Cái đó mới là cái khó. Người ta có thể chê tao như mày đã chê tao. Chớ không ai dám khi dể tao hết. Cái phách của tao là ở chỗ đó!”.

... 30 tháng tư 1975. Ông X đã không di tản. Nghĩ rằng mình làm việc cho hãng tư, lại là hãng của ngoại quốc, chắc “họ không làm gì đâu”. Chẳng dè quân mũ tai bèo (Giải phóng miền Nam) và quân nón cối (bộ đội) vào Nam tiếp thu tuốt tuột. Hãng công hãng tư gì, lớn nhỏ gì cũng “đớp” hết ráo (Trước đó, họ có tuyên bố “không đụng tới cây kim sợi chỉ của dân”, và sự thật, họ đã làm đúng như vậy, mới chết ! Bằng cớ là họ đã lấy hết, chỉ chừa có... cây kim sợi chỉ ! Cho nên, có thấy ai thưa gởi rằng bị cách mạng ... cướp mất cây kim sợi chỉ đâu ? Vậy mà sao ai cũng nói họ “nói một đàng mà làm một nẻo” hết ! Oan cho họ ! Có điều là với “cây kim sợi chỉ”, người dân không biết. .. “làm khỉ gì ăn”. Chỉ còn có nước may cái miệng lại để khỏi phải ăn, khỏi phải nói !).

Hãng của ông X bị quân mũ tai bèo mang bí số K7 tiếp thu. May cho ổng: người dẫn đầu toán tiếp thu là người chú bà con đi khu hồi kháng chiến 1945. Nhờ ông này can thiệp nên ông X không bị đi cải tạo, nhưng bị đổi đi “hạ tầng công tác” ở một kho hóa chất (Sự che chở người thân như vậy rất hiếm thấy trong chế độ. Và có lẽ vì vậy mà chưa đầy sáu tháng sau, ông cán bộ đó bị cho “về vườn” mặc dầu chưa tới hạng tuổi !).

Bấy giờ, ông X ăn lương 80 đồng. Trong khi người tài xế cũ của ông lảnh 90 đồng ! Ông được phát lương mỗi tháng hai kỳ. Mỗi kỳ là 40 đồng nhưng bị giữ lại 2 đồng để cho vào sổ tiết kiệm (Nhà Nước lo cho dân chí tình như vậy mà vẫn có người không bằng lòng. Lạ thật !).

Bấy giờ, vì tất cả ngân hàng đều bị tịch thu, nên tiền của mà ông X để trong ngân hàng của ổng kể như đã ... cúng cô hồn ! Ông X trắng tay và ... trắng mắt.

Bấy giờ, vợ con ông X rã ra đi làm trong mấy tổ hợp. Hai đứa nhỏ nhứt ở nhà dán bao giấy bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ gói đồ. Ông X bán lần xe cộ, bàn ghế tủ...

Nhiều khi ông thầm nghĩ: “Mình đã tự hào giữ tròn liêm sỉ từ mấy mươi năm. Bây giờ ... đổi lấy cái ăn cũng không được. Phải chi hồi đó mình nhắm mắt làm bậy, mánh mung chụp giựt đầy túi rồi bay ra ngoại quốc ở, thì bây giờ mình đâu có ngồi đây nhìn cái khổ cực của vợ con ! Riết rồi không biết là mình khôn hay mình dại nữa”.

Hôm nay là ngày ông đi bán chiếc xe đạp của ông. Ông đã tính kỹ: đạp xe ra chỗ thằng nhỏ sửa xe đạp ở góc đường xin nó cho đứng nhờ để bán; ở đó người qua lại cũng đông và người ghé vào bơm bánh hay sửa xe cũng thường; thế nào cũng có người hỏi mua. Sau khi lau chùi sạch sẽ chiếc xe, ông lấy một miếng bìa cứng viết lên đó “Bán xe đạp” rồi khoét lỗ xỏ sẵn dây để mang ra cột tại chỗ. Vừa làm ông vừa nghĩ đến thân phận của mình, đến cái liêm sỉ mà ông đã đeo đẳng từ bao nhiêu năm. Ông cười chua chát: “Cái liêm sỉ không giá trị bằng chiếc xe đạp !”. Bỗng ông nẩy ra một ý, vừa hài hước vừa táo bạo: “Tại sao mình không treo bảng bán cái liêm sỉ ? Cười chơi, sợ gì ?”. Vậy là ông lấy một miếng cạc-tông, nắn nót viết lên đó hàng chữ “Bán cái liêm sỉ. Bảo đảm 20 năm chưa sứt mẻ”. Khoét lỗ xỏ dây xong, ông cho hết vào túi xách, đạp xe ra ngõ.

Thằng nhỏ sửa xe tuổi độ mười hai mười ba. Ốm nhom, đen thui, cười hở lợi. Sáng nào nó cũng kéo chiếc xe hai bánh chở hai thùng gỗ nhỏ và mớ đồ nghề, ra ... hành nghề cạnh trụ đèn ở góc đường. Sợ người ta không biết hay sao mà thấy nó có treo trên trụ đèn tấm bảng trắng sơn chữ đỏ “Tại đây sửa xe đạp đủ loại”.

Khi ông X xin đứng nhờ, nó vui vẻ nhận lời ngay:

- Dạ được ! Dạ được ! Ông Hai cứ dựng xe cạnh cột đèn đó, không sao hết. Chỗ này là chỗ “bá tánh” chớ phải của riêng cháu đâu mà ông Hai xin phép !

Rồi nó lấy cái thùng gỗ úp xuống, mời:

- Ông Hai ngồi. Cháu đang lỡ tay !

Nó làm như nếu nó không lỡ tay thì nó có bổn phận phải ngồi... tiếp chuyện ông X vậy ! Ông thấy có cảm tình ngay với thằng nhỏ. Ông cảm ơn rồi lấy hai miếng cạc-tông ra, treo một tấm lên sườn xe đạp, tấm thứ hai đeo lên cổ của mình một cách thích thú !

Ông ngồi xuống thùng gỗ phía sau lưng thằng nhỏ, đốt thuốc hút, ung dung. Thằng nhỏ đang ráp sợi dây sên vào chiếc xe đạp dựng ngược. Nó vừa làm vừa nói chuyện với ông X, mắt vẫn nhìn châm chú vào công việc.

- Ông Hai bán xe rồi lấy gì mà đi ?

- Thì... tôi đi chung xe với bà nhà tôi.

- Ông đèo bà hay bà đèo ông vậy ?

Ông X bật cười:

- Dĩ nhiên là tôi đèo bả chớ !

- Ý ! Bây giờ đổi đời rồi. Mấy bà chở chồng chạy bon bon thiếu gì, ông Hai.

Nói xong, nó cười hắc hắc. Ngừng một lúc, chừng như đang ngẫm nghĩ gì đó. Rồi nó nói tiếp, giọng ngang ngang:

- Bây giờ sao nhiều người bán đồ bán đạc trong nhà quá. Ở xóm của cháu, thấy có người cạy gạch bông nền nhà lên bán đặng ăn, ông Hai à !

Hình ảnh đó làm ông xúc động. Ông không biết phải nói gì. Sự bần cùng của người dân trong chế độ được gọi là ưu việt này, đã vượt quá xa tầm tưởng tượng của con người... thì còn lời gì để nói ? Im lặng, ông hít nhiều hơi thuốc dài...

Thấy sao “người đối thoại” của nó làm thinh, thằng nhỏ quay đầu nhìn lại. Bây giờ nó mới thấy tấm bảng ông đeo trước ngực. Nó ngạc nhiên:

- Ủa ! Ông còn bán cái giống gì nữa vậy ?

- Thì ... cháu đọc coi.

- Cái ... “liêm” ... Cái “liêm sỉ” là cái gì vậy, ông Hai ?

- Ờ ... Cái liêm sỉ là ... (Ông ngập ngừng tìm lời để giải nghĩa) Là ... Là cái mà thiên hạ ai cũng quí trọng hết. Người ta coi nó có giá trị như ... có giá trị như ...

- Như hột xoàn hả ông Hai ?

- Ờ ! Đại loại như vậy. Thiên hạ cho rằng người nào có cái liêm sỉ cũng thấy sáng ngời không kém.

Nổi tánh tò mò, thằng nhỏ chùi vội hai tay vào một miếng giẻ cũng dơ như tay của nó, rồi xoay hẳn người lại, hâm hở:

- Ông Hai cho cháu coi một chút được không ? Từ cha sanh mẹ đẻ cháu chưa nghe nói tới cái liêm sỉ bao giờ, chớ đừng nói thấy.

- À cái này không có coi được. Lớn lên rồi cháu sẽ biết.

Thằng nhỏ tiu nghỉu, quay trở về công việc mà nghĩ: “Chắc là đồ xịn lắm nên ổng sợ !”

Có hai thanh niên dừng lại bơm bánh xe. Cả hai đều đọc bảng treo trước ngực ông X. M ột anh hỏi anh kia:

- Cái liêm sỉ là cái gì vậy mậy ?

Thằng nhỏ nói hớt, vẻ sành sỏi:

- Là đồ nữ trang loại xịn. Mắc lắm đó !

Ông X mỉm cười, chua chát nghĩ: “Chế độ đâu có dạy con người phải có liêm sỉ. Bây giờ, chỉ thấy học đấu tranh, học hận thù, học giết chóc ... chớ đâu thấy học làm người có đạo đức, trọng lễ nghĩa để mà biết liêm sỉ là gì ? ‘’

Một anh bộ đội, nón cối nghiêng nghiêng, tấp Honda vào hỏi mua “săm” xe đạp. Thằng nhỏ nói: “Sửa xe chớ không có bán đồ phụ tùng”. Chờ cho anh bộ đội đi khuất, nó quay lại cười cười nói với ông X:

- Ruột xe thì nói ruột xe. Mấy chả nói “săm”. Hồi đầu cháu đâu có biết. Cháu chỉ qua bà xẩm bán nước sâm ở bên kia đường. Thấy cười quá ! Họ nói tiếng gì đâu không, hà !

Một thanh niên chở một ông già, ngừng lại nhờ thằng nhỏ siết lại cái đầu bàn đạp. Sau khi nhìn ông X, anh thanh niên hỏi nhỏ ông già:

- Liêm sỉ là cái gì hả ông nội ?

Ông già tằng hắng rồi nói, giọng nghiêm trang:

- Là cái mà nó bắt con người ta phải cẩn thận trong suy tư trong hành động. Nó không cho con người ta làm bậy làm quấy, làm sai đạo lý. Nó bắt con người ta phải biết xấu hổ khi có ý xâm phạm thuần phong mỹ tục. Quí lắm, con thấy không ? Vậy mà thời buổi bây giờ có mấy ai biết nó là gì...

Trả tiền xong, người cháu đợi người ông ngồi đàng hoàng vững chãi trên pọt-ba-ga rồi mới đạp đi. Ông già quay đầu nhìn lại ông X, giống như nhìn một món đồ cổ !

Mặt trời đã lên cao. Cây me già cạnh đó đổ bóng mát rượi xuống chỗ “hành nghề” của thằng nhỏ. Gió thổi hiu hiu. Lá me lăng tăng rụng...

Một ông già râu tóc bạc phơ đạp xe lọc cọc ghé vô nhờ sửa cái thắng. Sau khi... “kiểm tra” lại bộ phận, thằng nhỏ gãi gãi đầu mặc dù tay nó dơ hầy:

- Cha ... Vụ này hơi lâu à ông Hai. Cũng năm mười phút à !

- Không sao. Tao đợi. Tao thiếu gì thì giờ.

Nó vội vàng lật úp cái thùng gỗ còn lại, đặt gần chỗ ông X:

- Ông ngồi đây. Có ông Hai này ngồi bán xe, từ sáng giờ không thấy ai hỏi hết. Chắc cũng buồn !

Đó là cách nó giới thiệu để hai người dễ dàng bắt chuyện với nhau, nếu muốn.

Ông già ngồi xuống, gật đầu chào ông X, rồi móc bọc thuốc rê, mời:

- Ông vấn một điếu chơi.

- Cám ơn. Tôi có đem theo thuốc vấn sẵn ở nhà.

Ông X lấy trong túi ra hộp thiếc giẹp màu vàng (loại đựng thuốc điếu 555 ngày xưa) móp méo trầy trụa, mở ra mời lại:

- Ông hút thử thứ này coi.

Ông già cất bọc thuốc vào túi lấy một điếu của ông X để lên môi, đốt. Ổng hít mấy hơi thật dài rồi gật gù:

- Ùm ... Một phần Lạng Sơn hai phần Gò Vấp.

- Đúng ! Ông rành quá !

- Một đời hút thuốc mà không rành sao được, ông bạn.

Hai người im lặng thở những hơi khói dài. Giờ đó, đường cũng vắng, chỉ nghe tiếng lách cách sửa xe của thằng nhỏ. Một lúc lâu sau, bỗng ông già tằng hắng rồi nheo mắt nhìn thẳng ông X, giọng ôn tồn:

- Ông bạn à. Tôi nghĩ nếu ông bạn còn chút liêm sỉ thì nên dẹp tấm bảng bán liêm sỉ của ông đi. Chỉ có phường vô liêm sỉ mới khoe khoang khoác lác rằng ta là thế này, ta là thế nọ, ta hơn thiên hạ về đủ mọi mặt vv…. Sự thật, họ không có gì hết. Bọn vô liêm sỉ đó đã chà đạp mọi giá trị tinh thần của con người, đã chối bỏ truyền thống đạo đức của ông cha để lại từ không biết mấy ngàn năm.

Ông X im lặng gật gù nghe. Ông già ngừng một chút để hít mấy hơi thuốc. Rồi tiếp:

- Ông bạn à. Tôi tin rằng ông bạn là người có liêm sỉ. Trực giác cho tôi thấy như vậy. Bây giờ, đem rao bán cái liêm sỉ, ông bạn có thấy đó là hành động thiếu suy nghĩ không ? Nói khùng mà nghe, giả dụ ông bạn có bán được cái liêm sỉ, ông bạn sẽ “trắng tay”. Không còn liêm sỉ nữa thì ông bạn sẽ thành cái gì ?

Ông già ngừng ở đó, nhìn ông X một chút rồi nói gằn từng tiếng:

- Ông bạn sẽ là thằng-vô-liêm-sỉ !

Đến đây, thằng nhỏ đã sửa xong cái thắng. Ông già đứng lên chào ông X, trả tiền rồi đạp xe đi thẳng.

Hút tàn điếu thuốc, ông X thở dài, đứng lên tháo hai miếng cạc-tông cho vào túi xách. Thằng nhỏ ngạc nhiên:

- Ủa ! Bộ ông Hai về hả ?

- Ừ !

- Sao về sớm vậy ?

- Ừ ! Về sớm.

Ông X nói bằng một giọng trống rỗng. Thằng nhỏ ân cần dặn:

- Ông Hai cẩn thận nghe ! Coi chừng tụi nó giựt cái liêm sỉ à. Mấy thằng lưu manh nó giựt bóp của người ta hoài, hà !

Ông X làm thinh đạp xe đi, bỗng nghe như cái liêm sỉ của ông nó nặng như chì. Vậy mà bao nhiêu lâu nay, ngày ngày ông vẫn còng lưng cõng nó để đi tìm một chân trời, một lối thoát, một chút ánh sáng ở cuối con đường hầm … !

Tiểu Tử


Wednesday, February 18, 2009

Đừng đánh trống bỏ dùi! - Nam Nhân

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Đến nay đã bước sang tuần lễ thứ 3 của tháng 2 năm 2009. Việc nhóm Thanh Niên Cờ Vàng tại Nam Cali đã “theo sáng kiến của Gs. Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh” để lên tiếng phát động phong trào “không về du lịch, không gửi tiền về giúp thân nhân tại Việt Nam trong tháng Tư đen năm 2009 này”.

Tiếp theo, ông Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cũng viết một lá thư gửi quý Chiến hữu trong tập thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại Hải ngoại do ông làm chủ tịch.

Đọc đoạn:

“Vấn đề không về VN trong tháng Tư, tôi xin kể anh nghe cho vui là từ mấy năm nay tôi vẫn đưa ý kiến với một số thân hữu là để trả lời tên Việt Thường là tôi không làm gì, tôi có thể vận động để không có người Việt yêu nước nào đặt chân xuống phi trường Hà Nội hay Sài Gòn trong ngày Quốc Hận 30/4….”

Nam Nhân tôi chắc chắn đại đa số người Việt tỵ nạn việt-gian cộng-sản tại hải ngoại nói chung và tập thể Chiến Sĩ VNCH nói riêng, đều hân hoan chờ ông chủ tịch Nguyễn Xuân Vinh lên tiếng vận động một điều thật chí tình và thật đắc lợi cho công cuộc đấu tranh, mà cả 85 triệu người dân trong nước và tập thể người Việt tỵ nạn tại hải ngoại đều mong mỏi. Qua câu: “… tôi có thể vận động để không có người Việt yêu nước nào đặt chân xuống phi trường Hà Nội hay Sài Gòn trong ngày Quốc Hận 30/4.”

Cho đến nay, phần ông TP Nguyễn Xuân Vinh, mọi người chưa thấy ông động tĩnh gì sau chuyến đi Michigan như ông đã thuật lại trong thư gửi “quý Chiến hữu” của tập thể Chiến Sĩ VNCH mà chính ông được bầu lên lãnh đạo.

(Trích): “…Ý kiến đó mới đây lại được nhóm trẻ kỹ sư ở Michigan đưa ra lời kêu gọi theo một kế hoạch họ thảo ra. Tuy không trực tiếp góp ý kiến nhưng ngày họ bàn thảo (2/11/08) tôi và BS Vượng có mặt cùng với phóng viên Tuyết Mai đến từ Virginia. Sau đó tôi thấy TM đưa lời kêu gọi trên các diễn đàn điện tử và ít ngày sau có nhiều lời kêu gọi khác nữa.” (ngưng trích)

Nhưng nếu đọc tiếp câu kết của đoạn này, người đọc sẽ không khỏi thất vọng về việc phó mặc cho thế hệ hậu duệ của một người trong bậc trưởng thượng, thế hệ Cha, Chú, bằng câu nói bỏ lửng này mà người bình thường có trách nhiệm không ai dám làm:

“…. Tôi nghĩ là giới trẻ sẽ tự động thực hiện chương trình này”. !!!

Thế là giới trẻ, Nhóm Thanh Niên Cờ Vàng đã phát động kêu gọi trên các phương tiện truyền thông có được. Và đến nay, trong tập thể “Cựu chiến Sĩ của ông TP Nguyễn Xuân Vinh” cũng đang chờ lời khởi động của ông cho chính họ và gia đình là để làm gương: Quyết không về du lịch, không gửi tiền về giúp thân nhân trong dịp tháng Tư Đen năm 2009 này.

Hành động có đi đôi với việc làm thì chính bản thân mới không tủi thẹn với lương tâm và mới giữ được uy tín với người khác.

Với số tuổi đã cao, sức đã kém của ông TP Nguyễn Xuân Vinh, chắc chắn không ai còn đòi hỏi ông phải xông pha cầm súng ngăn thù như những năm ông còn trẻ, được chính quyền VNCH cho sang Mỹ du học và… ở lại phục vụ cho ngành Khoa học Không-gian của Mỹ. Mà chỉ kỳ vọng ở ông, thực hiện những gì ông vừa viết đến “qúy Chiến hữu” của ông ngày 09/01/2009 vừa qua. Đó là lời vận động vàng ngọc nặng ký của ông: “…tôi có thể vận động để không có người Việt yêu nước nào đặt chân xuống phi trường Hà Nội hay Sài Gòn trong ngày Quốc Hận 30/4….”

Trong hơn 3 triệu người Việt tỵ nạn vgcs tại hải ngoại, người ta có thể bỏ bớt một số nhỏ những kẻ dễ tính, đầy “lòng nhân” mà đã “Bỏ qua được những việc tàn ác, phi nhân trong quá khứ, quên nổi hận thù” do tập đoàn việt-gian cộng-sản đã gây cho chính bản thân họ, cho gia đình, bà con và cả dân tộc Việt, từ khi Hồ chí Minh tự nguyện làm tay sai bọn đế quốc đỏ Nga Sô và Tàu cộng cho đến nay. Như nhóm thế hệ một rưỡi tại Nam Cali vừa qua đã tổ chức cái gọi là “Nghệ Thuật Lên Tiếng”, rồi một Brian Đoàn với những tuyên bố làm đau lòng cả bố đẻ của mình! Thì Nam Nhân tôi đoan chắc rằng, không một ai nói mình không yêu nước cả. Và nhận thấy điểm thuận lợi cho lời “kêu gọi vận động” của ông TP Nguyễn Xuân Vinh trong dịp tháng Tư Đen năm nay là:

- Đại đa số người Việt tỵ nạn tại hải ngoại không bao giờ quên nguyên nhân cái họa diệt chủng và mất dần đất nước Việt vào tay ngoại bang, do chính tập đoàn vgcs mà Hồ đã lãnh đạo.

- Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang gây khó khăn cho mọi người và mọi gia đình không trừ một quốc gia nào trên thế giới.

Thêm vào đó, việc lên tiếng ủng hộ, hiệp thông cầu nguyện cùng toàn thể giáo dân trong Năm Thánh đã được khai mạc tại giáo xứ Thái Hà, Hà Nội nói riêng và toàn thể giáo dân Công giáo Việt nam nói chung cho công lý và sự thật đã được khai mạc vào ngày 31/1/2009 vừa qua, cũng là một điểm then chốt cho cuộc tranh đấu dành lại nhân quyền của người dân trong nước. Ông TP Nguyễn Xuân Vinh cũng chưa lên tiếng … hay ông còn chờ Mỹ bật đèn xanh?!!!

Hoặc chờ đến khi nào "heo đất" lên tiếng như hình đính kèm trong thư ông gửi đến quý chiến hữu của ông trong cùng lá thư trên???

Chiến dịch san xẻ, đền ơn những chiến sĩ QLVNCH đã hy sinh một phần thân thể của mình trong cuộc chiến bảo vệ tự do, an bình và toàn vẹn lãnh thổ cho nhân dân miền Nam VN trước đây, thật đáng phải làm. Và đúng ra, phải được tập thể những người được gọi là đồng đội, là huynh đệ chi binh của họ đã may mắn thoát khỏi nanh vuốt của vgcs, phải thực hiện trước đây vài chục năm kìa. Những anh em bất hạnh này, họ đã xác định qua lá thư của một thương binh QLVNCH gửi ra hải ngoại sau đây:

Họ không cần anh em, đồng đội, những cấp chỉ huy trước đây của họ hàng năm gửi chút quà từ “đàn heo đất”, để nuôi họ cho mãn đời còn lại! Mà ý chí họ trong suốt thời gian sống dưới chế độ thù hằn dai dẳng của bọn vgcs, từ đời cha đến đời con của họ vẫn còn nung nấu.

Họ ao ước, ôm ấp hoài bão, luôn mong ngóng ngày trở về của các cấp chỉ huy, của những Đại Bàng, những Bắc Đẩu … và của bao đồng đội họ … cho dân, cho nước, với màu cờ, sắc áo năm xưa, cùng với khúc khải hoàn ca chiến thắng dẹp tan lũ giặc thù cướp nước, làm tay sai cho ngoại bang đế quốc đỏ Nga, Tàu. Dựng lại thanh bình muôn thuở, chiếm lại toàn vẹn cõi bờ từ Ải Nam Quan đến tận Mũi Cà Mau.

Việc san xẻ với bao đồng đội bất hạnh của QLVNCH còn kẹt lại tại quê nhà hiện nay qua chương trình “nuôi heo đất”, phải chăng tương tự như những trại tù tập trung trá hình “cải tạo”, nhằm giết lần mòn sức sống, tuổi trẻ, sự oai hùng, niềm kiêu hãnh của những người lính QLVNCH còn lại sau cuộc chiến cướp nước của làn sóng Đế quốc Đỏ Nga Sô, Tàu cộng đại Hán bành trướng mà vgcs là tay sai, nhằm xóa bỏ mọi dấu tích bảo quốc an dân thật sự chính nghĩa của QLVNCH???

Và để thỏa mãn, vuốt ve lương tâm của những cấp chỉ huy, những đồng đội may mắn thoát được vòng kiềm tỏa của việt gian cộng sản, mà vô tình tiếp tay cho giặc thù vấy bẩn lâu dài thêm lên trang sử của giống nòi Việt Nam???

Hành động đánh trống bỏ dùi, không thể tiếp tục được tập thể người Việt tỵ nạn việt gian cộng sản tại hải ngoại chấp nhận bằng bất kể biện minh nào.

Anh quốc, ngày 17 tháng 2 năm 2009

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Phụ chú: Đính kèm lá thư của ông Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh đề ngày 09/01/2009


Ngày 09 tháng Giêng năm 2009.

Thân gửi quý Chiến hữu,

Ngày đầu năm, tôi tự hẹn với mình là sẽ thường xuyên liên lạc điện thoại để hỏi ý kiến quý vị Niên Trưởng trong Hội Đồng Tư Vấn, quý chiến hữu Tổng Hội Trưởng và Chủ tịch Liên Hội, cùng quý Trung Tâm Trưởng. Nếu không liên lạc được với từng người thì hàng tháng tôi cũng sẽ viết thư gửi đến quý chiến hữu. Ngoài ra thì trong những tháng đầu năm nay, vì vấn đề hỗ trợ cho Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở Orlando, Florida tôi sẽ có dịp gặp một số quý chiến hữu khi tham dự những buổi Ra Mắt Sách ngày 01 tháng 3, năm 2009 ở Westminster, CA và ngày 15/3/2009 ở Houston, Texas. Đó là những cuốn sách “Kỷ Niệm về Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh-Từ Chiến Sĩ đến Khoa Học Gia” , một Tuyển tập của nhiều người viết dầy 624 trang và do Văn Đàn Đồng Tâm xuất bản và Tập Truyện tình thời đại “Tìm Nhau Từ Thuở” sách dầy 240 trang của tác giả Xuân Vinh. Hai cuốn sách này đã được giới thiệu ngày 7/9/2008 ở Bắc Cali và một phần tiền thu được đã được ban tổ chức gửi giúp qũy TPB của VNCH. Ngoài ra, ngày 1 tháng 11, 2008 khi tham dự Đại Nhạc Hội giúp TPB của Cộng Đồng Người Việt ở Detroit, Michigan tôi cũng đã tặng ban tổ chức một số sách TNTT và bán được 1,200 Mỹ Kim để giúp vào qũy TPB. Tôi mong rằng trong những dịp xuống Nam Cali và đi Texas vào tháng Ba năm nay tôi sẽ có dịp gặp quý chiến hữu và một số đông người đồng hương để cổ động cho Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ được thành công như dự định. Số tiền thu được trong những buổi Ra Mắt Sách sẽ được dùng hoàn toàn làm kinh phí di chuyển cho Trung Tâm Asia về Orlando, Florida tổ chức Đại Nhạc Hội gây qũy Xây Dựng Tượng Đài, dự trù vào khoảng tháng Năm hay tháng Sáu trong năm nay. Trong những cuộc gặp gỡ sắp tới tôi hy vọng chúng ta sẽ có dịp trao đổi ý kiến để cho sự điều hành Tập Thể được hữu hiệu và những công tác được đề ra đạt được những kết quả khả quan.

Cùng với thư này tôi xin giới thiệu với quý chiến hữu hai chương trình đã được Tập Thể hỗ trợ và với nhiệt tâm đóng góp của quý chiến hữu và thành viên trong hội đoàn của mình tôi tin rằng sẽ đưa lại kết quả mong muốn.

1. Vấn đề lúc nào cũng làm những cựu chiến binh như chúng ta quan tâm là tình trạng của những chiến hữu còn có cuộc sống cơ cực ở quê nhà. Chúng ta đã có một tổ chức Trung Ương của Chị Hạnh Nhơn để cứu trợ Thương Phế Binh và Cô nhi Quả phụ VNCH, và nhiều Tổng Hội hay Hội Đoàn cũng có những chương trình xã hội để cứu trợ TPB và công tác chung đã một phần nào giúp cho nhiều cựu chiến binh bị thương tật và gia đình có một chút tặng phẩm hầu giảm bớt nỗi cơ hàn. Song song với những chương trình này, bác sĩ Phạm Đức Vượng là Phụ Tá Chủ Tịch Đặc Trách Thương Binh và Văn Hoá Xã Hội đã đưa ra môt kế hoạch gọi là “Gia Đình Nuôi Heo Đất Giúp Thương Phế Binh”. Để giới thiệu chương trình này chúng tôi đã đưa ra một bích chương do Hậu Duệ Phiến Đan thảo ra và bạn trẻ Doãn Quốc Vinh là con trai của văn hào Doãn Quốc Sỹ thực hiện như trình bầy dưới đây.

Những giòng chữ trên tấm bích chương đã tóm tắt những ý chính của kế hoạch nuôi heo đất. Nếu mỗi gia đình trong chúng ta nhận một con Heo Đất Tình Thương này và hàng ngày dậy cho con cháu chúng ta bỏ vào một số tiền cứu trợ thì hàng năm, khi gia đình chúng ta làm tổng kết để gửi số tiền về quê nhà, mỗi con Heo Đất sẽ có thể giúp cho một gia đình TPB có một đời sống bớt đau khổ hơn trong năm tới. Ngày đầu tiên mà chúng ta có thể biết kết quả sơ khởi của chương trình này đã dự trù là Ngày Quân Lực 19/6/2009. Hiện nay chúng tôi đang thảo luận để tìm phưong pháp chuyển số tiền các gia đình dành dụm được tới tận tay người thụ hưởng là những chiến hữu đã hy sinh một phần thân thể cho cuộc chiến dành Tự Do và Dân Chủ cho quê hương. Nguyên tắc được đặt ra là Tập Thể chỉ ghi dữ kiện số tiền hàng năm các gia đình để dành được, và giới thiệu đến các Hội đoàn có hồ sơ TPB chưa được trợ cấp. Những gia đình tham gia chương trình sẽ gửi tiền đóng góp về cho những Hội đoàn này, hay có toàn quyền gữi thẵng về cho gia đình TPB được giới thiệu.

Chúng tôi trình bầy chương trình nuôi heo đất này lần đầu tiên vào buổi giới thiệu hai cuốn sách nói trên ở San Jose, Bắc Cali. Ngày hôm ấy 50 con Heo Đất Tình Thương đã nhiều người tham dự nhận lãnh. Có những trường hợp cảm động có vị cao niên nhận thêm heo đất về để giao cho gia đình con cháu. Anh Hội trưởng Hội Ái Hữu cựu học sinh Chu Văn An Bắc Cali nhận một con heo và quyên góp ngay các cựu học sinh có mặt trong hội trường. Mới đây tôi lại được tin là trong bữa cơm thân hữu Tân Niên của CVA, sẽ được tổ chức vào tháng Ba 2009 toàn thể số tiền thặng dư sẽ được dành cho heo đất. Như vậy con Heo Đất CVA sẽ có thể giúp cho nhiều gia đình TPB bên nhà.

Tất cả những Heo Đất Tình Thương, có đánh số thứ tự, đều được tặng cho người nhận lãnh. Nhưng khi biết là bác sĩ Vượng đã bỏ tiền túi ra để đặt mua heo đất trong đợt đầu, nhiều người đã xin được trả sở phí và tặng thêm tiền cho qũy mua heo, dự trù cho 500 con trong năm đầu. Chương trình này đã được giới thiệu ở Bắc và Nam Cali, và ở những tiểu bang Michigan và Ohio. Tập Thể mong nhận được sự hỗ trợ và tích cực tham gia của các Tổng Hội và Liên Hội và được phát động ở các Trung Tâm như là một sự đóng góp cứu trợ TPB một cách thường xuyên, song song với những cuộc gây qũy khác.

2. Mới đây có lời kêu gọi của phóng viên Tuyết Mai xin ủng hộ ý kiến của một nhóm bạn trẻ ở Detroit Michigan là kêu gọi mọi người không về Việt Nam trong “Tháng Tư Đen 2009” . Về vấn đề này tôi trích lại để chia sẻ cùng quý chiến hữu thư mới đây tôi viết cho anh Phó Chủ Tịch Điều Hợp Trần Quang An:

“Vấn đề không về VN trong tháng Tư, tôi xin kể anh nghe cho vui là từ mấy năm nay tôi vẫn đưa ý kiến với một số thân hữu là để trả lời tên Việt Thường là tôi không làm gì, tôi có thể vận động để không có người Việt yêu nước nào đặt chân xuống phi trường Hà Nội hay Sài Gòn trong ngày Quốc Hận 30/4. Ý kiến đó mới đây lại được nhóm trẻ kỹ sư ở Michigan đưa ra lời kêu gọi theo một kế hoạch họ thảo ra. Tuy không trực tiếp góp ý kiến nhưng ngày họ bàn thảo (2/11/08) tôi và BS Vượng có mặt cùng với phóng viên Tuyết Mai đến từ Virginia. Sau đó tôi thấy TM đưa lời kêu gọi trên các diễn đàn điện tử và ít ngày sau có nhiều lời kêu gọi khác nữa. Tôi nghĩ là giới trẻ sẽ tự động thực hiện chương trình này”.

Nếu quý chiến hữu theo dõi những bài bình luận trên các diễn đàn thì có thể thấy những bài đánh phá chiến lược nhằm triệt hạ những tổ chức có tiềm năng chống cộng mạnh mẽ vì được người Việt tỵ nạn cộng sản tin tưởng và tôi có thể nói là Tập Thể CSVNCH của chúng ta hiện nay là một thành trì chống cộng vững vàng, được sự tin yêu và thương mến của đồng bào. Với đuờng lối minh bạch là quyết tâm không hoà hợp hoà giải với cộng sản VN, chúng ta đã gây được sự đoàn kết nội bộ và có thể cùng chung sức thực hiện được những chương trình làm suy yếu đảng cộng sản VN. Chiến hữu Phiến Đan từ Úc châu cũng đã lưu ý tôi là trước đây cũng có một bài viết của ký giả Huy Phương về vấn đề này. Vì vậy tôi nghĩ là năm nay, với những cuộc đàn áp giáo dân ở Việt Nam, đây là dịp chúng ta nói lên sự công phẫn của người Việt yêu Dân chủ và Tự do ở hải ngoại, và không gì mạnh mẽ hơn là tỏ cho thế giới biết và quan tâm đến sự vi phạm nhân quyền ở Việt Nam bằng cách không về VN trong tháng Tư Đen 2009, để làm cho sinh hoạt ở những phi trường quốc tế Hà Nội và Sài Gòn vắng lặng, một thái độ phản đối của chúng ta có thể làm cho giới lãnh đạo Đảng cộng sản VN phải bẽ bàng.

Ngày hôm nay, 10/1/2009, có một cuộc họp của các hội đoàn ở Nam Cali về vấn đề này. Tôi xin kêu gọi các chiến hữu Tổng Hội Trưởng, Chủ Tịch Liên Hội và các chiến hữu Trung Tâm Trưởng ở các nơi tiếp theo lời kêu gọi của chiến hữu Nguyễn Văn Tấn, Hội Cưụ Quân Nhân ở Toronto, Canada viết thư gửi cho Trung Tâm Điều Hợp Tây Nam và Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam Cali để tiếp tay thực hiện chương trình này do nhóm bạn trẻ ở Detroit Michigan khởi xướng. Tôi cũng nhờ chiến hữu Phó Chủ Tịch Điều Hợp nhân danh Tập Thể kêu gọi sự tiếp tay của giới truyền thông, đặc biệt là qúy bạn Nguyên Huy, Tuyết Mai. Huy Phương … và tất cả những ai sẵn lòng phổ biến những lời kêu gọi mọi giới người Việt ở Hải Ngoại tham gia chương trình này.

Với lời chào thân ái và đoàn kết, tôi trân trọng gửi đến qúy chiến hữu lời chúc đầu năm thành công trong mọi công việc và hạnh phúc trong gia đình.

Thân quý,

GS Nguyễn Xuân Vinh



Tuesday, February 17, 2009

Từ đôi dép râu đến đôi giày làm bằng da người -Trần Thanh

Trần Thanh

Kính thưa quý bạn đọc, hôm nay chúng tôi gởi đến quý vị một vài tấm hình để quý vị xem và suy nghĩ:

Trong tấm hình đen trắng có ba nhân vật, đó chính là ba đứa con của tên bạo chúa Lê Duẩn. Người chị gái tên là Lê Vũ Anh, lấy một giáo sư toán người Nga, và thị đã chết khi sinh đứa con thứ ba. Người đứng giữa tên là Lê Kiên Thành, sinh năm 1955, tiến sĩ vật lý, tốt nghiệp ở Liên Xô và người nhỏ nhất là Lê Kiên Trung, sinh năm 1958, Cục trưởng Cục hải quan thành Hồ từ năm 2007. Trong hình, quý vị thấy Lê Kiên Thành mặc cái quần đen chó táp bảy ngày không tới và .... chơi một đôi dép râu, "thời trang" duy nhất trong thời kỳ "kháng chiến" chống ... Mỹ "ngụy"!

Ðó là tấm hình chụp trong thời kỳ quân giặc cộng xâm lăng miền Nam, thời điểm mà đôi bàn chân của cậu ấm Lê Kiên Thành bị bắt buộc phải gắn bó với đôi dép râu. Bây giờ bước sang thế kỷ thứ 21, mọi việc đều đã đổi khác. Những tên việt cộng con ông cháu cha đều lũ lượt rủ nhau trở thành triệu phú, tỷ phú đô la. Tên Thành cũng đã trở nên một nhà đại tư bản đỏ, đang làm chủ nhiều công ty, nhiều tài sản kếch sù trong nước. Và tất nhiên, đôi "dép bác Hồ" đã trở thành dĩ vãng, đã bị hắn vất vào sọt rác! Ngày nay người dân trong nước thường thấy những tên cướp mang những đôi giày sang trọng, trị giá từ vài ngàn đô la trở lên, đi những chiếc xe hơi trị giá bạc triệu đô và đi đánh golf như những nhà quý tộc nhiều đời.

Theo sự truyền tụng của dân gian thì những đôi giày rất sang trọng mà bọn tướng cướp việt gian cộng sản đang mang là được lột trực tiếp từ da của ... người dân! Tất cả những tiện nghi vật chất mà bọn chúng đang hưởng thụ đều làm từ mồ hôi và máu của người dân! Chẳng hạn, trong năm 2003, tên Lương Quốc Dũng, Phó chủ nhiệm Ủy ban thể dục thể thao đã đi "mua" trinh một em bé gái mới 13 tuổi! Hàng trăm ngàn những chuyện đau thương như vậy đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên quê hương Việt Nam!

Tên Lê Kiên Thành
đang chơi golf

Những tên cướp trở nên giàu có là nhờ trấn lột, ăn cướp từ dân đen chớ không phải nhờ tài năng kinh doanh như những doanh nhân chân chính. Trong khi bọn chúng sống nhởn nhơ trên những núi vàng bạc thì đại đa số người dân Việt vẫn đang rên xiết, quằn quại trong sự nghèo đói, khốn khổ. Sống trong một đất nước đầy dẫy bất công mà kẻ ác đang nắm quyền thống trị thì cho dù một thiên tài hoặc một người vô cùng siêng năng cũng không bao giờ ngóc đầu lên được, nếu không chịu luồn cúi, chịu đi đổ bô cứt cho bọn giặc. Cho nên vấn đề là phải tiêu diệt lũ giặc việt gian cộng sản để cứu toàn dân ra khỏi ách nô lệ. Nhìn xa hơn nữa là thảm họa mất nước nếu chúng ta không nhanh chóng hành động.

* CÁC BẠN CÓ THỂ CHẤP NHẬN ÐƯỢC KHÔNG?


Đôi giày làm bằng da người
của bọn vgcs

- Da của các bạn bị lột ra để đóng giày cho bọn quan chức việt gian cộng sản đi! (Một đôi giày giá từ năm ngàn đô trở lên!)
- Da của các bạn bị lột ra để may áo khoác, may ví đầm cho lũ giặc cái việt gian cộng sản ăn diện!
- Máu huyết của các bạn phải tuôn ra để làm "tiết canh" cho lũ giặc việt gian cộng sản nhậu nhẹt! (uống máu .... của trinh nữ)

Tất cả những tiện nghi vật chất mà bọn chúng đang hưởng thụ đều làm từ mồ hôi và máu của người dân. Trước đây, tên thi sĩ việt cộng Giang Nam đã viết: "Xưa yêu quê hương vì có hoa có bướm. Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi" Oái oăm thay, bây giờ câu thơ "chống Mỹ" này lại áp dụng cho chính lũ giặc cộng và toàn dân trong nước! Ðúng vậy, ngày nay trên từng tấc đất quê hương đều có nhuốm máu của những người dân bị cướp đất, cướp ruộng, cướp nhà!!!

Nếu có bạn nào trả lời rằng "Tôi chấp nhận bị lột da" thì không còn gì để nói nữa. Bạn đó cứ việc tùy tiện đi vào các nhà máy lột da để cống hiến máu và da thịt của mình cho bầy quỷ đỏ!

Còn nếu những bạn nào dõng dạc thét lên:" Không bao giờ! Chúng ta phải quyết chiến đấu để diệt trừ bầy quỷ đỏ!", thì xin mời các bạn hãy đoàn kết lại và xin nhớ cho một điều quan trọng:

Muốn diệt giặc việt gian cộng sản, trước hết phải diệt lũ cò mồi, đối lập cuội. Ðôi khi tên thợ săn không nguy hiểm bằng con chó săn!

Các tổ chức sau đây đều là những con chó săn phục vụ đắc lực cho đảng việt gian cộng sản:

- Băng đảng Việt Tân
- Băng đảng Bùi Tín
- Băng đảng Alibaba
- Nhật báo Người Việt
- Tổ chức Thông Luận của Nguyễn Gia Kiểng
- Ðảng Dân Chủ 21 của Trần Khuê
- Khối 8406 do tứ quái "Kim-Hải-Lợi-Kết" cầm đầu
- Liên Minh Dân Chủ
- Cao trào Nhân Bản của Nguyễn Ðan Quế

Và còn nhiều nữa. Như đã đề cập nhiều trong các bài viết trước, chúng tôi nhận định rằng nếu không có bọn chó săn này ngăn cản những sự đấu tranh của quần chúng thì cái chế độ của bọn việt gian cộng sản đã bị sụp đổ từ lâu rồi! Toàn bộ người dân trong nước từ bắc chí nam đều căm thù bọn chúng, khinh ghét bọn chúng hơn ghét cứt! Những câu chuyện tiếu lâm dân gian, dạng "ghế đá công viên" lưu truyền trong mấy chục năm qua là những minh chứng hùng hồn. Tuy nhiên, những người nô lệ bị thất thế vì không có phương tiện truyền thông trong tay. Trong khi đó bọn giặc đã lợi dụng lợi thế này, thuê mướn hàng ngàn những tên bồi bút trong và ngoài nước đánh bóng cho chế độ của chúng. Tên Hồ Chí Minh là ác quỷ thì bọn chúng đã thổi phồng lên thành "thánh Hồ", còn hơn cả Vua Hùng dựng nước, vượt xa Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo!!! Tên giặc cái Dương Thu Hương đang "thổi kèn" cho tên Hồ tặc qua tác phẩm "Ðỉnh cao chói lọi"! Cả đất nước Việt Nam dưới sự cai trị của bọn ác quỷ đã biến thành địa ngục trần gian thì lại được công cụ truyền thông bất lương của chúng tô vẽ, biến thành thiên đàng hạ giới, đầy những nàng tiên nữ thi hoa hậu và đời sống người dân hết sức no ấm còn hơn dân ... Mỹ! Nói cho đâu xa, những việt kiều ở Mỹ có nhiều người một tuần phải cày từ 50 đến 60 giờ là chuyện bình thường. Ngay cả dân Mỹ chính cống cũng phải cày hộc gạch và chẳng bao giờ được biết khách sạn 5 sao là gì, những "tiên nữ" thi hoa hậu là gì! Trong khi đó thì qua vô số những báo chí và phim ảnh quảng cáo của bọn tay sai, cò mồi thì toàn bộ đất nước Việt Nam đã trở thành một quán nhậu khổng lồ, cứ bước chân ra khỏi ngõ là gặp "tiên nữ", tới mức ở trong khách sạn, khi đi đái, du khách cũng được "tiên nữ" đi theo hầu, cầm .... cu cho mà đái!

Có thể nói những bọn chó săn nêu trên chính là những kẻ đã trực tiếp gây ra tội ác. Bọn chúng đã tiếp tay với bọn việt gian cộng sản biến người dân Việt thành ra những nô lệ thời Trung Cổ. Tên thợ săn và con chó săn là một cặp bài trùng. Nếu không có con chó săn dẫn đường chỉ điểm thì tên thợ săn khó săn được nhiều mồi. Do đó khi chế độ cộng sản bị sụp đổ thì những tên đi làm tay sai cho giặc cũng phải bị đưa ra tòa xét xử như những tên tội phạm chính cống. Ðứng đầu sổ phải là tên Bùi Tín!

* TREO ÐẦU DÊ BÁN THỊT CHÓ:


Cái trò lừa bịp này bọn giặc cộng đã áp dụng trên 60 năm nay và cho đến nay vẫn còn rất nhiều người bị lừa. Trò lừa bịp của bọn chúng chính là chiêu thức treo đầu dê bán thịt chó. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ nói lướt qua vì đã đề cập nhiều trong những bài viết trước. Sau đây là một vài tiệm thịt chó tiêu biểu với cái đầu dê quay vàng khè treo phía trước tiệm để dụ dỗ những khách hàng khờ khạo:

- Mặt trận Việt Minh, thành lập năm 1941
- Mặt trận Giải phóng miền Nam, thành lập năm 1960
- Mặt trận QGTNGPVN, thành lập năm 1980. (Gọi tắt là Mặt trận Hoàng Cơ Minh)
- Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam
- Khối 8406

Chúng ta thấy trong Ban Ðiều Hành của Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền và Khối 8406 đều là những tên bịp sau đây nắm quyền:

- Ðỗ Nam Hải
- Trần Anh Kim
- Nguyễn Chính Kết

Ba tên Hải-Kim-Kết cùng điều hành hai tổ chức đối lập cuội cùng một lúc. Qua những bản Tuyên bố chín điểm, mười điểm gì đó của bọn chúng, ta thấy bộ mặt tay sai, lừa bịp của bọn chúng đã bộc lộ ra rất rõ.

Thủ đoạn bịp của bọn lưu manh thường đi theo những bước như sau:

Trước tiên, bọn chúng đưa ra trình làng "cái đầu dê" trông thật hấp dẫn. Ðó là những nhân vật có uy tín và thật sự là những người đấu tranh vì dân vì nước. Ví dụ như linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Lê Thị Công Nhân v..v.. Sau khi lợi dụng uy tín của những nhân vật này, thu gom được một số thành viên thì bọn lưu manh bắt đầu dở trò. Chúng sẽ tìm cách loại bỏ những người đấu tranh chân chính bằng nhiều biện pháp khác nhau, để rồi thay thế dần vào đó bằng những tên dân chủ cuội! Cái tổ chức ban đầu chỉ còn có cái vỏ bề ngoài là "chân chính" còn cái ruột bên trong thì toàn là ma quỷ! Y hệt như con ốc mượn hồn vậy!

Tổ chức Liên Minh Dân Chủ có một ban cố vấn gồm 13 thành viên và đã được khoảng hơn một trăm người ở hải ngoại ký tên ủng hộ. Khối 8406 được khoảng hơn 1000 người ở hải ngoại ký tên tham gia và ủng hộ. Ban điều hành cũng gồm những tên bịp nêu trên và Phan Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Bích.

Chúng ta không thể quơ đũa cả nắm nói rằng tất cả những người ký tên ủng hộ đều là cò mồi chính trị hoặc dân chủ cuội. Trong số họ chắc chắn có những người chân chính nhưng họ đã bị bọn lưu manh lừa bịp. Bọn lưu manh, khi ký tên vào những bản Tuyên ngôn hay Tuyên cáo đều ghi rõ là "thay mặt" cho ...., cũng ví như tên Phạm Văn Ðồng khi ký cái Công hàm bán nước, hắn cũng "thay mặt" cho toàn dân Việt! Những thằng tướng cướp như Mạnh, Triết, Dũng khi đi công du ở nước ngoài, đọc diễn văn, bọn chúng cũng đều xưng là "thay mặt cho 85 triệu dân Việt". Sự lừa bịp nó nằm ở chỗ đó!

Chỉ tội cho những con người bị lừa gạt, khi nhìn ra được sự thật thì cuộc đời đã xanh rêu rồi! Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đề nghị quý vị mạnh dạn phản tỉnh và phản tỉnh thực sự. Ðừng có lý luận như hai anh em tên dân chủ cuội Ðặng Văn Việt, Ðặng Văn Âu, nói rằng đã lỡ vào đảng Cộng sản là phải vào luôn, phải chịu "hy sinh" ở trong đảng suốt đời, nếu xin ra khỏi đảng thì bị chúng giết liền!

Tiến sĩ vật lý Hoàng Phương, bố của cô Lê Thị Công Nhân đã xin ra khỏi đảng! Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy cho biết bố của bà ta, năm 1985, trước khi chết cũng đã làm đơn xin ra khỏi đảng*! Hai anh em "hùm xám" Việt-Âu nghĩ sao về những sự kiện tiêu biểu này?

Con người ta khi sinh ra ai cũng muốn được tự do. Cái đầu của chúng ta là nơi thiêng liêng để thờ cha mẹ và tổ tiên. Vậy tại sao chúng ta lại chấp nhận cho bọn cướp ngồi trên đầu chúng ta, đái ỉa lên đầu chúng ta liên tiếp hơn 60 năm nay? Chúng ta hèn nhát là rất đắc tội với chính bản thân mình và đắc tội với tổ tiên! Phải vùng lên, giết chết bọn cướp đang ngồi trên đầu chúng ta, còn chần chừ đến bao giờ???

Da của chúng ta tại sao phải bị lột ra để đóng giày cho bọn cướp mang? Chúng ta đâu phải là trâu bò mà bị lột da đem làm ví, làm áo khoác cho bọn giặc cái việt gian cộng sản mặc, đi đú đởn du lịch nước ngoài? Máu thịt của chúng ta tại sao phải bị biến thành những món nhậu cho bọn chúng? Tại sao máu của những trinh nữ phải bị chảy vào mồm của những con quái vật mà bọn chúng đã hè nhau mút, bú, liếm một cách rất hả hê và ghê tởm!

Một khi đã ý thức được những điều bất công này thì xin quý vị hãy mạnh dạn hành động. Nếu đã lỡ tham gia vào những tổ chức bịp bợm của bọn việt gian cộng sản thì quý vị hãy nhanh chóng từ bỏ và đồng thời phối hợp với toàn dân tiêu diệt bầy quỷ đỏ. Những đôi dép râu cũng sẽ phải theo những chủ nhân của bọn chúng ra trước vành móng ngựa.

Trần Thanh
Ngày 18 tháng 2 năm 2009

* Chú thích: Trích dẫn từ bài viết "Ðảng Ta" của nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, phổ biến trên internet ngày 17/2/2009


Monday, February 16, 2009

Uống máu kẻ thù - Trần Thanh

Trần Thanh

Khi đề cập đến nền văn học nước Mỹ hầu như không ai không biết đến nhà văn Jack London. Ông sinh năm 1876 tại San Francisco, California và mất năm 1916. Tuy chỉ sống có 40 tuổi nhưng cuộc đời của ông hết sức sôi nổi, đầy những cuộc phiêu lưu mạo hiểm kỳ thú. Ông vào đời rất sớm lúc mới tám tuổi, đã từng làm rất nhiều nghề khác nhau, vừa "văn" vừa "võ": làm mục đồng trong nông trại, trẻ bán báo, cu li đường sắt, cu li bến tàu, cu li hầm mỏ, làm nghề giặt ủi, thủy thủ, người đi tìm vàng và văn sĩ! Trong suốt thời gian làm thủy thủ, gót giang hồ của ông đã từng phiêu du qua nhiều nước ở Á Châu, Úc Châu và Mỹ Châu. Trong thời gian đi tìm vàng, ông đã từng đến vùng Alaska và Klondile ở Gia Nã Ðại. Nhờ đi nhiều và sống nhiều cuộc sống mạo hiểm nên ông đã tích lũy được những chất liệu quý báu để viết nên những truyện ngắn tuyệt tác, được dịch sang nhiều thứ tiếng,làm cho tên tuổi của ông sống mãi đến bây giờ.

Những truyện ngắn tiêu biểu của ông như sau:

- The Call of the Wild (Tiếng gọi của Hoang Dã)
- A piece of Steak (Miếng bít tết)
- Flush of gold (Cơn sốt tìm vàng)
- To build a fire (Nhóm lửa)

Một trong những truyện ngắn rất nổi tiếng của ông là "Love of Life" mà chúng tôi đặt tựa đề là "Quyết Tâm Sống Còn" hoặc "Uống máu kẻ thù". Hôm nay qua bài viết này, chúng tôi giới thiệu tóm tắt đến quý độc giả nội dung truyện ngắn "Quyết Tâm Sống Còn", trước là thưởng thức văn tài của nhà văn Jack London, sau là nghĩ đến hoàn cảnh nô lệ của 85 triệu dân Việt dưới ách thống trị của tập đoàn việt gian cộng sản.

Truyện ngắn "Quyết Tâm Sống Còn" (Love of Life) chỉ có hai nhân vật chính là một người đi tìm vàng và một .... con chó sói! Tuy nhiên qua tài kể chuyện và dàn dựng những tình tiết, Jack London đã làm cho độc giả phải say mê, theo dõi câu chuyện từ đầu tới cuối!

Mở đầu câu chuyện là hai người đàn ông đi tìm vàng ở vùng bắc cực. Cả hai đã đào được một số vàng, mỗi người khoảng 6 kí lô và đang lầm lũi trở về hang trú ẩn. Tuy nhiên, trên đường đi, một người bị trượt chân té, bị trặc chân. Anh ta vội lên tiếng kêu cứu nhưng người bạn đồng hành đã bỏ mặc anh và đi mất. Kể từ đó, mọi tai họa dồn dập xảy đến với người đàn ông bị nạn. Bị trặc chân, anh ta phải xé chiếc mền ra, tự băng bó rồi khập khiễng tiếp tục lên đường nhưng bị lạc. Tiếp theo đó là lương thực ngày càng cạn dần cho đến lúc hết sạch, khiến anh ta phải hái lá cây, rong rêu bỏ vào miệng nhai để đánh lừa bao tử! Thỉnh thoảng anh ta may mắn bắt gặp một tổ chim, bắt những con chim con ăn sống. Có lần anh ta gặp một vũng nước nhỏ, dưới đó có một con cá lớn bằng ... hai ngón tay! Anh ta cố bắt cá nhưng không được, cuối cùng anh quyết tâm dùng cái lon nhỏ, múc hết nước trong vũng ra để bắt cá! Nhưng khi tát được hết nước thì con cá trong vũng đã chui vào cái khe và biến mất!

Người tìm vàng có một khẩu súng trường nhưng đã hết đạn. Do bị đói nhiều ngày nên anh ta bị bệnh ám ảnh, cứ muốn tin rằng trong buồng đạn vẫn còn sót một viên đạn, và với viên đạn đó, anh có thể bắn hạ được một con nai rồi xẻ thịt ăn, giải quyết nạn đói! Chính vì bị ám ảnh nên anh ta đã mở lòng súng ra rất nhiều lần để tìm viên đạn tưởng tượng! Anh ta có cả thảy 67 que diêm. Cứ mỗi sáng thức dậy, anh cẩn thận lấy toàn bộ số diêm ra đếm thật kỹ rồi gói vào ba gói, cất vào ba túi khác nhau trong người. Diêm tức là lửa, có thể đem lại cho anh hơi ấm và sự sống. Mất nó anh sẽ chết cóng vì lạnh ở vùng bắc cực. Do đó anh thường xuyên đếm những que diêm như đếm những ngày cuối cùng của mình trên dương thế! Sáng nào anh cũng nấu nước sôi để rửa vết thương ở chân và uống nước cho ... đỡ đói! Có lần, lúc anh vừa thức giấc thì thấy ngay trước mặt anh là một chú nai! Anh tưởng đó là ảo giác nhưng sau nhiều lần dụi mắt, rõ ràng đó là chú nai thật! Anh vội lấy khẩu súng trường đã hết đạn ra rồi ngắm .... bắn nhưng chú nai vẫn cứ đứng trơ ra ... chọc quê anh! Bực quá, anh ném mạnh khẩu súng vào chú nai khiến chú bỏ chạy mất! Nhiều lần tương tự khác, khi bị đói quá, anh ngất đi khá lâu, và khi mở mắt ra thì thấy một vài chú chim đang đứng gần anh chỉ khoảng vài mét! Anh cố gắng hết sức gượng đứng dậy, lao mình tới để chụp con chim nhưng vô ích!

Tuy bị đói, bị kiệt sức nhưng anh không dám vất khẩu súng trường và cái túi đựng vàng, nặng khoảng 6 kí lô. Anh vẫn nuôi hy vọng tìm ra đường trở về hang trú ẩn, nơi đó có cất dấu đạn dược, lương thực, nhờ đó anh sẽ tiếp tục sống sót, trở về thành phố. Nhưng càng đi anh càng lạc đường. Trí óc của anh đã bị những cơn đói bào mòn, không còn minh mẫn nữa. Thỉnh thoảng may mắn, anh bắt gặp những khúc xương của những con vật bị bầy chó sói ăn thịt. Anh vội chụp lấy những khúc xương còn dính những miếng thịt, ăn sống nuốt tươi ngay tại chỗ! Sau khi đã gặm thật nhẵn thín những khúc xương, anh lượm một cục đá thật to để đập nát khúc xương ra rồi tiếp tục ăn "cháo xương"! Trong lúc đập xương, anh đã vô ý đập luôn vào bàn tay của mình đến chảy máu nhưng anh lấy làm lạ là không hề cảm thấy đau đớn tí nào. Thì ra những cơn đói triền miên kéo dài từ ngày này sang ngày khác đã làm cho anh bị mất cảm giác, thần kinh bị liệt! Toàn bộ nướu răng và cái lưỡi của anh đã bị sưng vù và mất cảm giác. Khi ăn "cháo xương" anh đã nhai luôn cái lưỡi của mình mà không cảm thấy đau!

Bị những cơn đói hết sức khủng khiếp dày vò khiến anh không thể nào ngủ được. Những lúc gọi là "ngủ" chính là những lúc cơ thể bị kiệt sức và bất tỉnh. Anh không còn đủ sức để đeo cái ba lô nặng trĩu đằng sau lưng nữa. Cái túi vàng, cuối cùng đã trở nên nặng như quả núi, khiến anh phải quăng bỏ! Khẩu súng trường anh cũng quăng nốt và lần lượt quăng hết tất cả vì không còn đủ sức để mang bất cứ một vật gì trên người. Tất cả đều trở thành gánh nặng. Anh đứng không vững nên bị té nhiều lần, đầu gối va vào đá nhọn, bị chảy máu. Anh xé chiếc mền ra băng bó vết thương rồi tiếp tục chập choạng bước đi mà cũng không biết mình đang đi đâu!

Ðầu óc của anh vẫn còn làm việc nhưng nó chỉ le lói như một ngọn nến. Anh ao ước anh được chết để thoát khỏi những cơn đói hết sức khủng khiếp đang tra tấn anh từng giây từng phút. Tuy ao ước được chết nhưng cái bản năng khát sống nó vẫn vùng dậy rất mãnh liệt. Bằng cớ là trong những lúc mê sảng anh vẫn gọi tên người bạn đồng hành, hy vọng người ấy quay lại cứu anh! Thế rồi trong những lúc tuyệt vọng như vậy, anh bỗng bắt gặp những khúc xương còn dính máu do bầy chó sói bỏ lại. Và bên cạnh những khúc xương đó, anh trông thấy cái túi đựng vàng của người bạn đồng hành! Có lẽ người bạn của anh đã bị chó sói ăn thịt mất rồi! Anh vội vàng vồ lấy những khúc xương gặm ngấu nghiến rồi sau đó dùng đá nghiền nát để ăn "cháo xương"! Nhờ món ăn này mà anh tỉnh táo được đôi chút và theo bản năng sinh tồn, anh vẫn tiếp tục bò lê bò càng trên mặt đất như một con thú. Bây giờ anh không còn đủ sức để đi nữa!

Trong lúc đang bò lê dưới đất thì bỗng nhiên anh nghe một âm thanh vang lên như một tiếng ho. Anh ngoái đầu nhìn lại thì thấy cách anh khoảng 10 thước là một con chó sói! Tuy nhiên, con chó sói này cũng đang sắp chết. Bằng cớ là người nó ốm nhom, bốn chân đứng run rẩy không vững. Lưỡi của nó thè ra và có màu vàng khè vì kiệt sức. Rõ ràng nó là con chó sói bị bệnh, bị bầy đàn của nó bỏ rơi. Con chó sói nhìn người đàn ông một cách thèm thuồng. Nó tưởng tượng nếu được cắn cổ người đàn ông này để uống máu, rồi sau đó xé thịt trên cơ thể ông ta để "nhậu" thì sung sướng biết chừng nào! Mình sẽ được phục hồi sức lực nhanh chóng, có thể tiếp tục đi tìm đàn để cùng những "đồng chí" đi săn mồi! Tuy nhiên nó biết rõ nó đang rất yếu sức, không thể tấn công người đàn ông một cách dễ dàng. Vậy cách tốt nhất là kiên nhẫn chờ người đàn ông này chết vì đói kiệt sức!

Người đàn ông đã trông thấy con chó sói. Bản năng sinh tồn trong con người anh ta bỗng trổi dậy. Một cách tự phát, anh ta cố gắng bò thật nhanh như cố bỏ chạy để thoát khỏi sự đe dọa của kẻ thù. Tuy nhiên, y như trò chơi cút bắt, hễ anh ta bò được 20 mét thì con chó sói cũng ráng lết tới 20 mét. Khi nào anh ta kiệt sức nằm nghỉ thì con chó sói cũng nằm nghỉ để chờ ngày "ăn tiệc"! Trong lúc chờ đợi ngày "đại tiệc" thì nó tạm thời liếm những giòng máu rỉ ra, loang trên mặt đất, từ những vết thương lở loét ở đầu gối và bàn chân của người đàn ông.

Hầu như mọi cảm giác trong con người đàn ông đã bị tê liệt. Anh ta không còn cảm thấy đau ở bất cứ chỗ nào, mặc dù trên người anh đầy những vết thương rỉ máu. Cảm giác đói cồn cào hầu như cũng biến mất. Mọi sợi giây thần kinh hình như đã bị liệt. Ðầu óc người đàn ông đã trở nên quay cuồng, tê dại nhưng rất lạ là bản năng sinh tồn vẫn còn! Hình như nó đang điều khiển anh và báo cho anh biết rằng, nếu anh bỏ "chạy" thì anh sẽ chết vì kiệt sức, và như thế anh sẽ là người thua cuộc! Lúc ấy con chó sói sẽ đến đánh chén toàn bộ thể xác của anh! Cả người và chó sói đang chơi trò cút bắt, đang đấu trí với nhau rất quyết liệt. Con chó sói nó biết dùng chiến thuật "câu giờ" để làm tiêu hao sinh lực của đối thủ. Người đàn ông tuy đã bị liệt não hết bảy phần mười nhưng cái bản năng sinh tồn do thượng đế ban cho bỗng trổi lên, làm việc rất mạnh. Anh ta suy nghĩ, tính toán thật nhanh: mình đang kiệt sức, con chó sói cũng đang kiệt sức. Mình không còn đủ sức để bỏ chạy, vậy tại sao mình không chờ nó tới thì mình sẽ bóp cổ nó, cắn cổ nó, hút máu nó, giết chết nó?

Sau khi đã tính toán, lên kế hoạch "tác chiến", người đàn ông cứ nằm lì một chỗ, chờ con chó sói tới. Nhưng con chó sói dường như cũng biết rõ âm mưu của kẻ địch nên nó không chủ động tấn công. Nó vẫn cứ áp dụng chiến thuật "câu giờ", kiên nhẫn nằm chờ người đàn ông chết vì đói và kiệt sức. Lúc đó, bất chiến tự nhiên thành, nó sẽ ca khúc khải hoàn! Thế là cả người và chó, hai bên đều ghìm miếng, cả mấy ngày liên tiếp. Ngày nào cũng như ngày nấy, sau một đêm "ngủ" chập chờn trong đói khát, sáng dậy mở mắt ra, người đàn ông vẫn thấy kẻ thù kiên nhẫn nằm chờ cách anh ta khoảng ba mét! Tình trạng dàn thế trận này kéo dài vài ba ngày liên tiếp.

Bước sang ngày thứ tư thì con chó sói đói quá, không nhịn được nữa. Nó bèn lết tới người đàn ông và thè lưỡi liếm vào vết thương đang rỉ máu trên bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông vẫn nằm bất động để yên cho kẻ thù tấn công. Sau khi đã nếm được một chút "thuốc bổ", con chó sói bèn rướn người lên rồi ngoạm hẳn bàn tay của kẻ thù vào miệng. Nó cố sức dùng chút tàn lực để ghim hẳn hàm răng bén nhọn vào da thịt của đối thủ để uống máu. Tuy nhiên, cũng đúng vào lúc đó, bản năng sinh tồn và tự vệ trong người đàn ông chợt bùng dậy. Anh ta cố sức vùng lên, nằm đè hẳn lên người con chó sói. Hai bàn tay của anh ta tạo thành một gọng kìm ép vào cổ họng kẻ địch, làm cho kẻ địch bị nghẹt thở. Ðồng thời lúc ấy, bỗng nhiên anh ta cảm thấy thèm "tiết canh" vô cùng. Thế là anh ta, như ác quỷ Dracula, ghé răng cắn vào cổ con chó sói để hút máu. Tuy nhiên vì quá yếu sức nên phải mất hơn nửa tiếng đồng hồ, anh mới cắn xuyên qua lớp lông và uống được những giọt máu đầu tiên! Máu trong người con chó sói đã tuôn ra chảy vào miệng của người đàn ông. Nó dãy lên một cách yếu ớt rồi chết hẳn. Thế là cuộc chiến đã kết thúc và người đàn ông đã chiến thắng! Anh ta cứ lai rai uống máu con chó sói cho đến lúc no nê thì anh cũng lăn đùng ra bất tỉnh!

Bãi chiến trường nơi người và chó sói đấu trí xảy ra tại một bãi biển. Chúng ta đừng tưởng rằng chỉ có hai diễn viên đơn độc nơi vùng bắc cực xa xôi mà tuyệt nhiên không có khán giả. Thật ra, cuộc đấu trí một mất một còn, vô tiền khoáng hậu giữa hai đối thủ đã được ít nhất bốn năm khán giả chứng kiến liên tiếp trong một tuần. Những khán giả đó chính là ông thuyền trưởng và ban tham mưu của ông trên chiếc tàu thủy đang làm nhiệm vụ thám hiểm vùng bắc cực, đang buông neo ở ngoài khơi, cách bãi "chiến trường" khoảng 6 cây số. Thoạt tiên khi nhìn qua ống nhòm, mọi người thấy có hai sinh vật đang nhúc nhích, mỗi ngày di chuyển được vài chục mét. Một sinh vật trông giống như một con người và một trông giống như một con chó. Nhưng họ không tin đó là người và chó. Có lẽ đó là hai con sâu khổng lồ đang di chuyển. Cuối cùng người thuyền trưởng quyết định cho thuyền viên bơi xuồng vào bờ để tìm hiểu về hai con "sâu" khổng lồ! Nhờ vậy mà anh chàng tìm vàng đã được cứu thoát!

Khi được cứu lên tàu, phải mất cả tháng trời anh chàng mới phục hồi lại được sức khỏe. Tuy nhiên, anh bị mắc bệnh tâm thần, thường xuyên bị ám ảnh bởi nạn đói. Anh ăn rất nhiều để phục hồi sức lực và anh thường xuyên đi gặp những thủy thủ để xin thêm bánh mì. Anh cẩn thận cất dấu những miếng bánh mì tại nhiều chỗ trong cabin của anh, trên giường, dưới gầm giường, trong các hộc tủ. Trong các túi áo của anh cũng nhét đầy các miếng bánh mì khô để đề phòng ... nạn đói! Vẫn chưa yên tâm, anh còn đi gặp người đầu bếp hỏi thật kỹ rằng trong kho lương thực có còn thức ăn hay không! Anh khuyên các thủy thủ phải ăn uống tiết kiệm để đề phòng nạn đói! Mọi người đều cười anh chàng bị tâm thần nhưng họ thông cảm và tin rằng anh sẽ khỏi bệnh khi trở về đất liền.

* LIÊN HỆ ÐẾN TÌNH HÌNH ÐẤT NƯỚC TA:


Khi đọc xong truyện ngắn "Love of Life" tôi không khỏi liên tưởng đến tình hình đất nước ta. Con chó sói tượng trưng cho đảng việt gian cộng sản và người tìm vàng tượng trưng cho toàn dân nô lệ trong nước. Cả hai đã đấu trí với nhau, quyết tâm một mất một còn; hoặc là mày phải chết, hoặc là tao phải chết. Với bản năng sinh tồn do thượng đế ban cho và với ý chí quyết tâm sống còn, không đầu hàng nghịch cảnh, không đầu hàng kẻ thù, cuối cùng người tìm vàng đã chiến thắng. Dù trong tình trạng kiệt sức sắp chết nhưng anh ta đã rất khôn ngoan, sáng suốt để nhận thức ra rằng: - nếu anh ta hèn nhát bỏ chạy thì cuối cùng anh sẽ chết vì kiệt sức, vì máu trong người anh cứ rỉ ra, con chó sói không cần tấn công nó cũng chiến thắng! Do đó, anh ta đã quyết định chọn lựa giải pháp đương đầu với kẻ thù, tấn công kẻ thù và tiêu diệt được con chó sói. Anh ta đã chọn lựa giải pháp "tự do hay là chết", phải chiến đấu để sống còn chớ dứt khoát là không "hòa hợp hòa giải" với con chó sói! Trời sinh ra con chó sói là để nó uống máu và ăn thịt sống, nếu nó "hòa hợp hòa giải" với người tìm vàng, tha chết cho anh ta thì nó lấy gì để sống!!!???

Người tìm vàng đã phải đương đầu với nhiều nghịch cảnh nhưng cuối cùng anh ta đã chiến thắng tất cả.

Nghịch cảnh thứ nhất chính là thiên nhiên khắc nghiệt của vùng đất bắc cực quanh năm tuyết phủ, nếu không chết vì lạnh thì cũng chết vì đói vì rất hiếm thảo mộc và thú rừng sinh sống.

Nghịch cảnh thứ hai là nạn đói làm cho người tìm vàng phải ăn tất cả những gì có thể ăn được, kể cả những lá cây và rong rêu!

Nghịch cảnh thứ ba là sự phản bội của người bạn đồng hành đã bỏ rơi anh ta lúc anh bị tai nạn. Nhưng đúng là ông trời có mắt, tên phản bội này đã bị bầy chó sói ăn thịt! Ðiều này làm cho chúng ta liên tưởng đến thân phận của những tên chó săn đang đi làm tay sai, cò mồi cho bọn việt gian cộng sản, sớm muộn gì bọn chúng cũng sẽ bị cộng sản giết chết. Khi không cần những con chó săn nữa thì người chủ chó sẽ giết chúng để tiết kiệm ngân sách! Thân phận của băng đảng Việt Tân, nhật báo Người Việt, những tên lợi dụng Khối 8406, băng đảng Bùi Tín và Alibaba ..v..v.. sẽ được lịch sử phán xét và kết thúc một cách ngoạn mục!

Nghịch cảnh thứ tư chính là con chó sói, kẻ thù chính của người tìm vàng. Ðây là kẻ thù hết sức gian ác và quỷ quyệt. Nó đã biết dùng mưu kế "câu giờ", kéo dài thời gian để làm tiêu hao sinh lực của đối thủ rồi "bất chiến tự nhiên thành"! Nhưng trời không phụ người ngay, người tìm vàng đã được đấng bề trên ban cho nghị lực và sự sáng suốt để đối phó với kẻ ác. Cái thiện sau cùng đã chiến thắng cái ác, đó là quy luật muôn thuở.

* Ý THỨC VÀ HÀNH ÐỘNG:

Bọn việt gian cộng sản chỉ sợ những hành động cụ thể đang chống lại chúng.

Những cuộc đình công của công nhân trong nước là những biểu hiện của bão táp cách mạng. Ðó là những nhát dao cụ thể đang đâm đang chém kẻ thù. Hàng trăm ngàn công nhân đã đình công phải là một thế lực đáng sợ làm cho lũ giặc phải quan tâm. Bước đầu là hàng trăm ngàn công nhân đình công, bướp tiếp theo sẽ là vài triệu và hàng chục triệu công nhân đình công thì bắt buộc chế độ của bọn việt gian cộng sản phải bị sụp đổ!

Những buổi cầu nguyện của các giáo dân với số lượng đông đảo hàng trăm ngàn lượt người thay phiên tham gia. Bước đầu là hàng trăm ngàn lượt người, bước tiếp theo sẽ là vài triệu và hàng chục triệu người cùng tham gia cầu nguyện thì bắt buộc chế độ của bọn việt gian cộng sản phải bị sụp đổ!

Những cuộc phản kháng của người dân trong nước cùng đoàn kết đánh lại công an, đốt xe hơi, xe mô tô của công an, ném đá vào đồn công an là những biểu hiện của bão táp cách mạng. Bước đầu mới chỉ vài chục ngàn người tham gia trên phạm vi toàn quốc, bước tiếp theo sẽ là vài triệu rồi hàng chục triệu người cùng tham gia thì bắt buộc chế độ của bọn việt gian cộng sản phải bị sụp đổ!

Những người Việt ở hải ngoại tẩy chay không gởi tiền về Việt Nam vào tháng tư đen, không đi du lịch Việt Nam vào tháng tư đen. Bước đầu chỉ có vài ngàn người tẩy chay, bước tiếp theo sẽ là vài chục ngàn người rồi kéo theo vài triệu người tẩy chay lâu dài, tẩy chay suốt 12 tháng trong năm, kéo dài vài năm liên tiếp thì bắt buộc chế độ của bọn việt gian cộng sản phải bị sụp đổ!

Sức mạnh đang ở trong tay chúng ta chớ không phải ở đâu xa, vấn đề là làm sao tập hợp sức mạnh đó lại. Sức mạnh chính là lòng dân ở trong nước, dù không có súng đạn nhưng họ thừa sức lật đổ cái chế độ hung tàn bạo ngược! Biển là lòng dân, chế độ là chiếc thuyền. Sức mạnh chính là chúng ta, tại sao nhiều người không chịu nhìn thấy hay cố tình không nhìn thấy mà họ cứ mong chờ một giống người nào đó từ hành tinh khác đến cứu dân tộc chúng ta?

Nhiều người cho rằng chúng ta không có sức mạnh, không có tiền thì làm sao đánh lại cộng sản? Cũng theo những người này, muốn có tiền thì phải chờ người Mỹ bật đèn xanh, viện trợ cho vài trăm tỷ đô la để mua vũ khí và tuyển mộ quân lính! Những kẻ dốt nát mang nặng đầu óc Lê Chiêu Thống thì chỉ có phá hại đại cuộc!

Bọn việt gian cộng sản không sợ những bản tuyên ngôn hay tuyên cáo phổ biến trên internet. Không những không sợ mà bọn chúng còn ra lệnh cho con chó săn Việt Tân làm cho thật nhiều, phổ biến loạn cào cào trên internet! Nếu không có những con chó săn, những bọn cò mồi chính trị, những bọn đối lập cuội cản đường thì tôi tin chắc chế độ của bọn việt gian cộng sản đã bị sụp đổ từ lâu rồi!

Hiện nay bọn chó săn Khối 8406 đang kêu gọi toàn dân làm đơn kiện bọn việt gian cộng sản ra trước Liên Hiệp Quốc vì tội vi phạm nhân quyền! Sức mạnh của chúng ta phải được tập trung lại để đánh một cú nốc ao tiêu diệt giặc cộng chớ không phải đi làm những chuyện ruồi bu như bọn chó săn đang cố tình đánh lạc hướng. Cũng ví như một người lính khi ra trận có 100 viên đạn mà vì bị ma quỷ lèo lái, anh ta đã bắn hết 33 viên vào bụi rậm, 33 viên tiếp theo bắn xuống ao, 33 viên nữa bắn lên trời, chỉ còn lại 1 viên bắn vào quân giặc! Suốt mấy chục năm qua, chúng ta đã lãng phí rất nhiều công sức chỉ vì bị bọn chó săn Việt Tân lừa bịp và cũng một phần vì nhiều người đã ngu dốt, nhẹ dạ nghe theo lời chúng!

Sự đấu tranh của chúng ta phải là những việc làm cụ thể, rất rất rất cụ thể như hành động cắn cổ và uống máu con chó sói của người đàn ông đi tìm vàng trong truyện ngắn "Love of Life" của nhà văn Jack London. Xin mọi người hãy cùng nhau ghi nhớ: phải xắn tay áo và hành động cụ thể!

Trần Thanh
Ngày 15 tháng 2 năm 2009