Friday, December 19, 2008

Hồ Chí Minh & đảng Việt gian CSVN - Ls Nguyễn Văn Chức

Ls. Nguyễn Văn Chức

Hồ Chí Minh & đảng Việt gian CSVN
Tai hoạ lớn nhất cho nhân dân VN ! Kẻ thù lớn nhất của dân tộc VN !


Đêm nay, tóc bạc và xa quê hương, tôi viết tập sách nhỏ bé này, để lột mặt nạ Hồ Chí Minh và đảng CSVN của y. Đồng thời nói lên chính nghĩa đấu tranh của dân tộc Việt Nam, trước đây cũng như bây giờ.

Tôi viết tặng những thế hệ mai sau. Và tri ân thầy mẹ tôi: Phêrô Nguyễn Thiều Quang, Maria Nguyễn Thị Sinh. Sách vở về Hồ Chí Minh có nhiều lắm. Do Việt Cộng viết. Dốt nát, bịp bợm, và làm trò hề.

Một số học giả ngoại quốc cũng viết, nhưng hầu hết viết sai, viết gian, và đầy mặc cảm.

Dưới đây là tiểu sử Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, do tôi viết. Ngắn, và dựa trên tài liệu, sự việc.

* Chương Một

Nguyễn Sinh Cung; Thời Thơ Ấu & Niên Thiếu; Đói Khổ, Thất Học
Hồ Chí Minh sinh năm nào ? Sử sách Việt Cộng viết: 1890.
Hồ Chí Minh sinh ngày nào ? Sử sách Việt Cộng viết: ngày 19/05.

Chúng ta hãy nghe:

“Tháng 05/1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội Nghị Trung Ương đảng CS Đông Dương lần thứ Tám. Theo quyết định của hội nghị này, thì ngày 19/05/1941 Mặt Trận Việt Minh chính thức được thành lập. Như vậy là ngày sinh và tháng sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trùng với ngày thành lập của Mặt Trận Việt Minh”. (Hồ Chí Minh, Giải Phóng Dân Tộc Và Đổi Mới. Nxb Hà Nội,1977, trang 40).

Đúng là logic Việt Cộng. Thứ logic đồng hóa bệnh ỉa chảy với cái lỗ đít.

Rất may, lịch sử còn đó.

Ngày 06/03/1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ, chấp nhận cho Pháp mang quân ra đóng ở Bắc Việt.

Chủ Nhật 19/05/1946 Đô Đốc D’Argenlieu của Pháp đến Hà Nội. D’Argenlieu đã được đón rước cực kỳ long trọng. Hà Nội hôm đó tràn ngập cờ đỏ sao vàng.

Tại sao Hà Nội lại treo cờ đỏ sao vàng để đón rước giặc Pháp ? Xin thưa: Hà Nội treo cờ đỏ sao vàng không phải để đón rước giặc Pháp, mà để mừng sinh nhật của Bác. Bởi vì: trước đó hai ngày, ngày 17/05, đài phát thanh Hà Nội đã chính thức công bố ngày 19/05 là sinh nhật của Bác, đồng thời kêu gọi dân chúng hãy treo cờ trong ba ngày (từ ngày 17 đến ngày 20), để mừng sinh nhật của Bác.

Bác đây là Hồ Chí Minh.

Nói tóm lại, ngày 19/05 là ngày Hồ Chí Minh rước giặc Pháp vào Hà Nội. Và để lừa bịp dân chúng cũng như giữ thể diện cho đảng và nhà nước, Việt Cộng đã phải tuyên bố ngày 19/05 là sinh nhật của Hồ Chí Minh.

Như vậy: 19/05 là ngày sinh của Hồ chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chứ không phải ngày sinh của Nguyễn Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng thị Loan.

Xuân Diệu đã viết bài thơ ghi nhớ ngày sinh của Hồ chí Minh:

Hôm nay Mười Chín tháng Năm
Lòng con vui sướng reo trăm tiếng cười
Lỗi lầm đã nói được vơi
Hồn như mở rộng dưới trời Chí Minh
Ngày sinh nhật Bác quang vinh
Là ngày sinh nhật hồn xanh muôn người

Hồ Chí Minh sinh tại đâu ?

Về điểm này, sách vở Việt Cộng đều viết: tại thôn Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Tố Hữu đã viết:

“Nhất vui là thôn Kim Liên
Cảnh tiên có cảnh, nguời tiên có Người”.
Người viết chữ hoa, là Hồ Chí Minh.

Ông bà Sắc có mấy người con ?

Thưa: có bốn nguời con. Người con cả là Nguyễn Thị Thanh, người con thứ là Nguyễn Sinh Khiêm. Nguyễn Sinh Cung (tức Hồ Chí Minh sau này) là người con thứ ba.

Còn người con thứ tư ?

Sách vở Việt Cộng viết: người con thứ tư này tên là Nguyễn Sinh Xin.

Tại sao ông bà Sắc lại đặt tên con là Xin ? Chúng ta hãy nghe :

“... bà Hoàng Thi Loan sinh thêm người con thứ tư. Sinh trong cảnh túng quẫn, phải nhờ bà con lao động láng diềng giúp đỡ, bà Loan lấy cảnh ngộ ấy đặt tên cho con là Nguyễn Sinh Xin” (Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ, Nxb Nghệ An 1995, tr. 18).

Quyển “Việt Nam Đẹp Nhất Có Tên Bác Hồ”, (Nxb.Trẻ, 161B Lý Chính Thắng, Quận 3, Sài Gòn, tr. 21) và cả trăm sách vở Việt Cộng đều viết về đứa bé tên Xin này. Đặc biệt, quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mạng Việt Nam” (Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 1997), của Võ Nguyên Giáp cũng viết về đứa bé tên Xin này. Viết rằng: “Đó là nỗi khổ đau của Người phải bế em đi xin sữa” (sđd, tr. 230).

Người đây là Hồ Chí Minh.

Đứa bé tên Xin này – đứa bé mà Nguyễn Sinh Cung đã phải lê lết bế đi hàng xóm xin sữa thừa xin gạo thừa, xin cám thừa, xin cơm thừa, xin cháo thừa, xin khoai thừa, xin sắn thừa, xin ngô thừa để bú mớm – đã chết yểu.

Sự kiện nói trên xác nhận một thực tế: Hồ Chí Minh đã sinh ra trong một gia đình hạ cấp đói rách. Thực tế ấy suốt đời ám ảnh y.

Sau khi vợ chết, ông Sắc đổi tên hai người con trai thành những tên đầy hứa hẹn. Nguyễn Sinh Khiêm đổi là Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn Sinh Cung đổi là Nguyễn Tất Thành.

Hồ Chí Minh có bao nhiêu bí danh và bút hiệu ? Sách vở VC và sách vở ngoại quốc kê khai khoảng hơn 30 bí danh và bút hiệu. Chưa kể bút hiệu Trần Dân Tiên, tác giả quyển “Những Mẫu Chuyện Về Hồ Chí Minh”, trong đó chính Hồ Chí Minh ca tụng Hồ Chí Minh.

Trần Dân Tiên nghe hao hao như Tôn Dật Tiên. Chế Lan Viên đã viết :

“Bác sinh ra làm người hiền
Dân Tiên cùng với Dật Tiên một vần”.

Tôi sẽ thiếu sót, nếu không nói thêm về ông Nguyễn Sinh Sắc, bố của Nguyễn sinh Cung, tức bố của Hồ Chí Minh.

Mãi cho đến năm 1990, tất cả tài liệu VC đều ca một luận điệu: thân sinh của Bác, cụ Nguyễn Sinh Sắc, là một vị quan thanh liêm của triều đình Huế. Vì chống thực dân Pháp, cụ đã treo ấn từ quan về sống với dân nghèo.

Sự thật không phải thế. Sự thật là: Nguyễn Sinh Sắc – một thư lại của Bộ Lễ – đã bị án “truyền nọc đánh trăm trượng trước công đường” vì tội ăn hối lộ. Vì biết hèn hạ lậy lục, Nguyễn Sinh Sắc đã không bị nọc đánh trăm roi, mà chỉ bị cách chức đuổi về làng.

Việt Cộng đã tìm mọi cách phi tang vụ này. Nhưng tài liệu còn đó :

“Ngày 19/05/1910, Hội Đồng Nhiếp Chánh làm xong bản án số 140. Ngày 27/08/1910, bản án mang số 140 được duyệt y, Nguyễn Sinh Sắc bị kết án nọc ra đánh 100 trượng, rồi sau đổi thành giáng cấp 4 chức và bị triệt hồi” (Trần Minh Siêu, Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ, Nxb Trẻ, 161 B Lý Chánh Thắng, quận 3, Sài Gòn, 1996, trang 41).

Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Vụ Nguyễn Sinh Sắc được loan truyền khắp nơi, cả Nghệ An không ai là không biết.

Riêng Nguyễn Sinh Cung, tức Hồ Chí Minh, suốt đời không quên vụ của bố, cũng như không quên cảnh nghèo đói của gia đình, với đứa em tên Xin.

* Chương Hai

Đói, Phải Đi Kiếm Ăn; Cực Khổ, Và Không Tương Lai, Nạp Đơn Xin Học Trường Thuộc Địa

Ngày 05/06/1911, Nguyễn Tất Thành (lúc đó 20 tuổi) xin được một chân phụ bếp trên chiếc tầu buôn của hãng Chargeurs Réunis Amiral Latouche Tréville.

Theo quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Bác Hồ”, do Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết ca tụng Hồ Chí Minh, thì Bác, lúc đó tên là Ba, “làm đủ mọi việc, từ rửa chén đĩa, đến nhặt rau mổ cá, chặt thịt, đến bày bàn, bưng bê các món ăn, rót rượu ...”

Và, tất cả kho tàng sử liệu Việt Cộng đều viết: “Bác đi tìm đường cứu nước”.

Sự thực không phải thế. Bác không đi tìm đường cứu nưóc, mà tìm đường cứu đói cho đời bác.

Lúc đó gia cảnh Nguyễn Tất Thành vô cùng quẫn bách. Bố thì bị đuổi việc. Nguyễn Tất Thành thì mồ côi mẹ, đói khổ và thất học. Hai mươi tuổi mà không có được cái bằng tiểu học “primaire”, cái bằng mà thời ấy nhiều học sinh VN đã có, lúc chưa đầy 12 tuổi.

Cho nên, vụ Nguyễn Tất Thành đi làm bồi trên tầu Amiral La Touche Tréville của Pháp phải được hiểu là đi tìm kế sinh nhai, đồng thời thực hiện giấc mơ mà giai cấp nghèo mạt thời đó hằng ấp ủ. Được đi Pháp, được sống ở Pháp một thời gian, rồi về nước, biết nói tiếng Tây, dù là tiếng Tây bồi. Cái gì, chứ kiếm một chân thông ngôn hay thông phán thì không khó.

Đó chính là chí lớn và quyết tâm của Nguyễn Tất Thành khi bỏ nước ra đi. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y. Cho nên, y phải vươn lên cho bằng được. Vươn lên bằng cách đi Pháp. Đi Pháp với bất cứ giá nào. Điều này, sách vở Việt Cộng cũng đã viết:

“Khi đã có chí, đã quyết tâm, mọi khó khăn đều có thể vượt qua, mà nhất định phải vượt được. Phải sang tới Pháp. Quyết không vì một sơ sểnh nào mà bị đuổi lên một bến bờ không định trước. Mục tiêu là nước Pháp kia” (Thy Ngọc, Việt Nam Đẹp Nhất Có Tên Bác Hồ, Nxb Trẻ, Hà Nội 1997, trang 48).

Đó chính là giấc mơ của Nguyễn Tất Thành, lúc đóù 20 tuổi, thất học và con nhà nghèo. Giấc mơ được đi Pháp, được học trường Pháp, rồi về nước làm quan cho Pháp. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụï của bố ám ảnh y.

Nhưng, Việt Cộng thì viết khác.

Mãi cho đến cuối năm 1982, tất cả sách vở Việt Cộng đều ca một luận điệu: vì căm thù thực dân Pháp, và vì quyết tâm đi theo tiếng gọi của non sông, Bác đã bỏ con đường học vấn, bôn ba tìm đuờng cứu nước.

Trong cuốn Hồ Chủ Tịch, Trường Chinh còn khẳng định: “vì Người phát giác trường học của Pháp chỉ nhằm đào tạo tay sai cho đế quốc, cho nên Người đã bỏ ra đi tìm đường cứu nước”.

Võ Nguyên Giáp cũng viết thế. Phạm Văn Đồng viết thế. Tố Hữu viết thế. Tất cả văn nô Việt Cộng từ trên xuống dưới đều viết thế.

Chúng nó đã bị Người lừa.|Người đây, là Hồ Chí Minh.

Sự thật là: sau một thời gian làm bồi tầu, Nguyễn Tất Thành lâm vào cảnh cực kỳ quẫn bách, và gần như tuyệt vọng. Chẳng lẽ suốt đời làm bồi tầu, bị bạc đãi, bị chửi bới và không tương lai. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Y bèn nạp đơn xin vào học Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) của Pháp.

Vụ này, y giấu tất cả mọi người. Giấu cả bọn Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn ...
Mãi cho đến năm 1983.

Năm 1983, một học giả Người Quốc Gia VN (tiến sĩ Nguyển Thế Anh) tìm thấy tại Thư Khố Đông Dương ở Aix En Provence bên Pháp một tài liệu vô cùng quý giá : lá đơn viết tay của Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc điạ của Pháp. Lá đơn đề ngày 15/09/1911.

Marseille le 15 Septembre 1911

Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne.
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Trévile” pour ma substance.Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction.
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam.
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée.
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous docteur ès- lettres). Etudiant Francais, quốc ngư, caractère chinois.

Lá đơn nổ như một trái bom. Đảng CSVN nhìn nhau, ngơ ngác. Họ đã bị Bác lừa.

Bác đây là Hồ Chí Minh. Dưới đây tôi xin tạm dịch ra tiếng Việt :

Marseille ngày 15 tháng 9, 1911

Kính gửi Tổng Thống Cộng Hoà Pháp
Tôi hân hạnh thỉnh cầu Ngài vui lòng cho tôi đặc ân được vào theo học Trường Thuộc Điạ với tư cách nội trú.
Hiện nay, tôi làm công cho hãng Chargeurs Réunis Amiral Latouche Tréville để sinh sống.
Tôi hoàn toàn túng quẫn và ham muốn được học hành. Tôi ước ao trở nên hữu ích cho nước Pháp trong tương quan đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể giúp đồng bào tôi hưởng những lợi ích của học vấn.
Tôi sinh đẻ tại Nghệ An, Trung Kỳ.
Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi cho tôi, Tổng Thống hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi.
Nguyễn Tất Thành,
sinh tại Vinh năm 1892,
con trai ông Nguyễn Sinh Huy
(phó bảng văn chương),
học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Nho.

Có nhiều điểm đáng nói.

Điểm 1 : Tiếng Pháp trong lá đơn xin học của Nguyễn Tất Thành quá kém.

Điểm này cần được nêu ra, để chứng minh một sự thực vô cùng quan trọng : những tài liệu viết bằng tiếng Pháp ký tên Le Patriot hay Nguyen Le Patriot tại Paris sau này, như “Mêmorandum Des Reven-dications du Peuple Annamite”, “Le Paria”, “Le Procès Contre La Colonisation Francaise”, v. v. đã không do Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết, mà do nguời khác viết.

Điểm 2 : Trong đơn, Nguyễn Tất Thành xin được làm học sinh nội trú, nghĩa là được ăn ở ngay trong trường.

Nguời ta thâáy rõ : Nguyễn Tất Thành nạp dơn xin vào học nội trú, là để đỡ đói rét, ngoài giấc mơ sau này được làm quan cho Tây. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Điểm 3 : Trong đơn xin học, Nguyễn Tất Thành khai y sinh năm 1892. Y khai gian. Sự thực, y sinh năm 1890.

Điểm 4 : Trong đơn xin học, y khai đã học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ nho. Chỉ có vậy.
Nói tóm lại : Nguyễn Tất Thành nạp đơn xin vào học nội trú Trường Thuộc Đia Pháp, là để có chỗ ăn chỗ ở, đỡ đói rét, và để sau này được về làm quan cho Tây. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y. Nhưng đơn của y đã bị bác.

Lời Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Víp KK, Chánh Án Tư Quốc Tế Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa.

Lời bàn 1 : Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, vì đói rách và không tương lai, đã nạp đơn xin học nội trú trường thuộc điạ của Pháp và đơn đã bị bác. Vụ này, y giấu tất cả mọi người. Bọn Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng không biết, cho nên cứ mồm loa mép giải rằng : vì ghét cái học của Pháp, Bác đã bỏ học, đi tìm đường cứu nước.

Lời bàn 2 : Tất cả sách vở của đảng đều viết rằng hồi nhỏ Bác đã từng học trường Quốc Học Huế và từng dậy học tại trường Dục Thanh, Phan Rang. Đây là những thành tích văn hóa tốt. Nếu có thật, Nguyễn Tất Thành đã không dại gì mà không kê khai trong lá đơn xin học. Nhưng, trong đơn xin học, y chỉ dám khai là đã “học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ nho”. Y không dám khai gian, vì sợ người Pháp cóù hồ sơ của trường Quốc Học Huế và trường Dục Thanh.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười của Đảng CSVN, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta, rất hoan nghênh những nhận định rất sáng suốt của cụ VIPKK.

Cựu Tổng bí thư Đỗ Mười còn nói : tất cả đảng CSVN bọn tôi, đứa nhớn đứa nhỏ, nhất là những đứa đã vào được Chính Trị Bộ, đều gian manh bịp bợm. Nhưng, so với Bác Hồ, bọn tôi còn kém xa. |

Về vụ án cụ Nguyễn Sinh Sắc, cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cho biết : vụ đó có thiệt. Sở dĩ Trần Minh Siêu có được tài liệu và dám in trong cuốn “Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ” là do sự bảo trợ ngầm của Võ Văn Kiệt, lúc đó đứng thứ 3 trong chính trị bộ.

Vẫn theo Cựu tổng bí thư Đỗ Mười, thì tài liệu ấy đã do bọn phản đảng miền Nam (Bẩy Trấn, Trần Văn Giầu và Nguyễn Hộ) ngầm phổ biến trong cuộc hội thảo của “Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ Sài Gòn”. Cuộc hội thảo này đã diễn ra ngày 07/01/1990, tại Nhà Văn Hoá Lao Động Sài Gòn, tức trụ sở quốc hội cũ thời Mỹ Nguỵ. Cuộc hội thảo ấy mang tên :

“Công Cuộc Cải Tổ, Cải Cách, Đổi Mới Ở Các Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Anh Em Và Ở Việt Nam”. Diễn văn khai mạc là của Trần Văn Giầu. Diễn văn bế mạc là của Nguyễn Hộ.

Vẫn theo cựu tổng bí thư Đỗ Mười, thì cuốn sách của Trần Minh Siêu đã in xong và phân tán trong một đêm tại Hà-nội, dưới sự bảo trợ ngầm của phe cánh Võ Văn Kiệt. Sau đó, nhà nước đã cho cán bộ đi tịch thu, nhưng không kịp. Trong Nam cũng như ngoài Bắc, bọn phản động chuyền tay nhau in lén ra hàng trăm ngàn cuốn và bán chợ đen rất chạy.

* Chương Ba

Lại đi kiếm ăn ; Đánh Cắp Danh Xưng Nguyễn Ái Quốc.

Sau khi đơn xin vào học Trường Thuộc Điạ bị bác, Nguyễn Tất Thành vô cùng chán nản.Tài liệu của đảng viết : “Bác lại đi tìm đường cứu nước”.Bác lại đi làm bồi tầu.

Vì phải làm việc quá nặng nhọc, Nguyễn Tất Thành mắc bệnh ho lao, sức khỏe trở nên suy nhược, và bị đuổi khỏi hãng.
Y về sống tại Anh, số 10 Orchard Place, Southampton, England. Tại đây, y làm đủ nghề : quét tuyết, bồi khách sạn, bồi ổ điếm, rửa phim ảnh ; đời sống cô đơn và cơ cực. Vì vậy y quyết định rời Luân Đôn để về sống ở Paris.

Y viết thư cho cụ Phan Chu Trinh lúc đó ở Paris. Trong thư, y gọi cụ Phan là Hy Bá Nghi Mã Đại Nhơn, và xưng cháu. “Cháu muốn biết như cháu có thể gặp Bác trước lúc Bác đi hay không và cháu rất cần một lời ...” . Bức thư này do y viết tay, hiện lưu trữ tại thư khố Luân Đôn.

Năm Đinh Tỵ (1917), y rời Luân Đôn, về định cư tại Paris, làm nghề thợ ảnh, đời sống vẫn cơ cực và không tương lai.
Lúc đó, Paris có đông người Việt Nam lưu vong, và là trung tâm của nhiều tổ chức chính trị Pháp thiên tả, đặc biệt Đảng Xã Hội Pháp SFIO (Section Francaise de l’Internationale Ouvrière), một chi nhánh của Đệ Nhị Quốc Tế.

Lúc đó, phong trào Việt Nam chống Pháp dành độc lập lan rộng. Hai nhóm chính được sử sách ghi nhận. Một nhóm, do cụ Phan Chu Trinh lãnh đạo, nhắm vào văn minh Âu Châu. Một nhóm, do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo, tức Việt Nam Quang Phục Hội, nhắm vào Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên. Nhóm thứ nhất hoạt động tại Pháp. Nhóm thứ hai hoạt động tại Trung Hoa.
Sách vở Việt Cộng đã triệt để khai thác sự kiện này, khi viết “Bác đi tìm đường cứu nước”, với thâm ý đặt bác Hồ của họ ngang hàng với những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, của người quốc gia Việt Nam.
*
Lúc đó, tại Paris có nhóm nhân sĩ Việt Nam của cụ Phan Chu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, và kỹ sư Nguyễn Thế Truyền. Nhóm nhân sĩ này rất đươc kính nể, vì là tác giả nhiều bài tham luận chính trị có tầm vóc, như “Le Procès Contre La Colonisation Francaise” (Bản Án Chống Thực Dân Pháp), Le Paria (Việt Cộng dịch là Người Cùng Khổ) và “Mémorandum Des Revendications du Peuple Annamite” (Những Yêu Sách Của Nhân Dân Annam) gửi Hội Nghị Versailles năm 1919.

Những tài liệu này được viết bằng một tiếng Pháp trình độ hàn lâm, và được ký dưới một tên chung : Le Patriote, hoặc Nguyen Le Patriot.

Kẻ được thuê mướn đi phân phát những tài liệu đó tại Paris, là Nguyễn Tất Thành.

Nguyễn Tất Thành đã không bỏ lỡ cơ hội. Y tự nhận là Nguyen Le Patriot. Y trở thành Nguyễn Ái Quốc. Và y đã vào được đảng Xã Hội Pháp (SFIO). Một vinh dự lớn cho y.

Lời Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Án Tư Tối Cao Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa :

Ngày xưa tôi tập sự luật sư tại văn phòng Luật sư Bùi Tường Chiểu, số 148 Pasteur, Sàigòn. Ls Chiểu đã dậy dỗ tôi nhiều về văn chương Pháp, và về khoa hùng biện.

Luật sư Chiểu từng quen thân Ls Nguyễn Mạnh Tường. Theo Ls Chiểu kể lại, thì Ls Nguyễn Mạnh Tường quả quyết : Nguyễn Tất Thành chỉ nói đuợc thứ tiếng Pháp của anh em lính thợ Annam không chuyên nghiệp ONS (Ouvrier Non Spécialisé) được tuyển mộ sang Pháp thời đó. Nguyễn Tất Thành không đủ trình độ để hiểu, chứ chưa nói viết, những bài tham luận có tầm vóc như “Le Procès Contre La Colonisation Francaise”, và nhất là bản “Memorandum des Révendications du Peuple Annamite” gửi Hội Nghị Hoà Bình tại Versailles năm 1919.

Mới đây, bạn tôi, Chủ nhiệm Lê Hồng Long của tờ Thế Giới Ngày Nay, gửi cho tôi tuyển tập “Une Histoire de Conspirateurs Annamites à Paris” của Ls Phan Văn Trường. Tôi đã đọc.

Trong bài tựa của tuyển tập, trang 6, học giả Ngo Van viết : “En 1919, il rédige le ‘Mémorandum des Revendications du Peuple Annamite’ adressé à la Conférence de Paix à Versailles, dont Nguyen Ai Quoc – le futur Ho Chi Minh – revendiquera la paternité. (Tạm hiểu : “Năm 1919, [Phan văn Trường viết] ‘bản văn ngoại giao về những yêu sách của nhân dân Annam’ gửi Hội Nghị Hoà Bình tại Versailles. Bản văn đó, Nguyễn Ai Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này, đã mạo nhận là tác giả).

Tôi muốn kết luận gì đây ? Tôi muốn kết luận : tất cả những bản văn chính trị viết bằng tiếng Pháp tại Paris từ 1910 đến 1940 và ký tên Nguyễn Ái Quốc, đã do người khác viết, Nguyễn Ái Quôc chỉ là kẻ mạo danh.

Năm 1960, cụ Nguyễn Thế Truyền ra tranh cử tổng thống tại miền Nam Việt Nam. Tôi có đi theo anh em báo chí đến nghe Cụ nói chuyện.

Khi đuợc hỏi về những tài liệu viết bằng tiếng Pháp tại Paris ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhất là bản Mémorandum gửi Hội Nghị Hoà Bình Versailles 1919, cụ Truyền nói : Nguyễn Tất Thành chưa học hết tiểu học Pháp. Lúc đó ở Paris, nhóm chúng tôi mướn anh ta đi phân phát những tài liệu đấu tranh bằng tiếng Pháp do chúng tôi viết. Anh ta đã nhận xằng mình là Nguyễn Le Patriot và nhận xằng mình là tác giả những tài liệu đó.

Đó là Nguyễn Ái Quốc, tức Bác Hồ của đảng CSVN.

* Chương Bốn

Đói Ăn Và Thèm Danh Vọng ; Trở Thành Tay Sai Đệ Tam Quốc Tế.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc trở thành tay sai của Đệ Tam Quốc Tế .

Đệ Tam Quốc Tế là gì ?

Là Cộng Sản Quốc Tế (Komintern) do Lê Nin sáng lập năm 1919, nhằm tách ra khỏi Đệ Nhị Quốc Tế.

Đệ Tam Quốc Tế chủ trương liên minh giai cấp vô sản trên thế giới với các dân tộc bị đàn áp trên thế giới để tiến hành một cuộc cách mạng toàn thế giới do Liên Sô lãnh đạo. Tiến hành bằng đấu tranh giai cấp và bạo lực.

Đệ Tam Quốc Tế – do Liên Sô sáng lập, và lãnh đạo – bao trùm tất cả các đảng CS điạ phương trên thế giới. Những đảng CS điạ phương này chỉ là lũ tôi tớ nằm trong kỷ luật sắt của Liên Sô, và có bổn phận phải đóng góp cho sự lớn mạnh của Liên Sô. Đóng góp bằng tiền bạc cướp được của nhân dân, và đóng góp bằng xương máu, nếu tình thế đòi hỏi.

Đệ Tam Quốc Tế là bản thân Liên Sô, một đế quốc thực dân, bóc lột, tàn bạo và đểu cáng như chưa hề có trong lịch sử nhân loại.
*
Nguyễn Ái Quốc đã đi theo Đệ Tam Quốc Tế. Và y đã trở thành một cán bộ đắc lực của Đệ Tam Quốc Tế. Y không còn con đường nào khác để giải quyết cái hiện tại “đói rách” của y lúc đó. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Y được Mạc Tư Khoa trợ cấp hàng tháng một số tiền khá lớn, và được Mạc Tư Khoa xử dụng như một cán bộ nòng cốt trong chiến lược nhuộm đỏ Đông Dương.

Lúc đó là tháng 07/1920. Theo tài liệu Việt Cộng, lúc đó y 30 tuổi.

Tháng 12/1920 Đảng Xã Hội Pháp (SFIO) họp đại hội tại Tours (Pháp quốc), Nguyễn Ái Quốc đứng lên đả kích SFIO. Sau đó, y bỏ SFIO, công khai gia nhâp đảng Cộng Sản Pháp, và trở thành cán bộ chính thức của Liên Sô. Nguyễn Ái Quốc nổi danh từ đó.
*
Tất cả sách vở Việt Cộng đều viết : con đường giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản thế giới, và vì lòng nhân ái muốn cứu dân cứu nước, Bác đã đi theo con đường cách mạng vô sản.

Sách vở Việt Cộng còn nhắc lại bài ca rất mùi của Nguyễn Ái Quốc, cái đêm y đọc “Bản Luận Cương Lê Nin”. Chúng ta hãy nghe Nguyễn Ái Quốc ca sáu câu vọng cổ :

“Luận cương của Lê Nin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, tin tưởng biết bao ! Tôi vui mừng đến phát khóc. Ngồi một mình trong buồng, tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo : hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ : đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (Hồ Chí Minh Toàn Tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 127).

Người ta không khỏi lắc đầu.

Thứ nhất : Hồ Chí Minh vô cùng lưu manh. Lưu manh ngay cả đối với những tay chân thân tín nhất của y. Vụ y nạp đơn xin vào học nội trú trường Thuộc Điạ của Pháp, là bằng cớ. Vụ này, cho đến lúc chết, y vẫn giấu. Giấu Đảng, giấu cả Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh. Vì vậy tất cả đảng CS Việt Nam đã mắc lỡm khi ca tụng Bác “vì căm thù giặc Pháp, nên đã bỏ học rất sớm”.

Rồi quyển “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”, do Trần Dân Tiên ( tức Hồ Chí Minh) viết ca tụng chính Hồ Chí Minh, là bằng cớ thứ hai ,về cái lưu manh của Hồ Chí Minh.

Tôi vừa đưa ra hai sự việc, để chứng minh một sự thực : Hồ Chí Minh là một tên lưu manh, và có tài đóng kịch.
Bên cạnh cái lưu manh và tài đóng kịch, còn một thực tế phũ phàng : cái nghèo khổ đói rách của y lúc đó. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Cho nên : sự kiện y trở thành tay sai Đệ Tam Quốc Tế là điều dễ hiểu.

Đó là con đường duy nhất giúp y thoát khỏi cảnh nghèo đói lúc đó tại Paris. Và đó cũng là con đường có thể đưa y tới danh vọng.
Nói tóm lại, Nguyễn Ái Quốc đi theo Đệ Tam Quốc Tế, vì không còn đường tiến thân nào khác. Và nhất là vì nhu cầu cấp bách của y lúc đó tại Paris, nhu cầu có miếng ăn hàng ngày và đỡ đói rách. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Lời Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Án Tư Quốc Tế Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa.

Nguyễn Ái Quốc đi theo Đệ Tam Quốc Tế, vì đói, vì tiền. Y không mất mát gì. Y không xuất thân từ một dòng họ danh vọng. Y xuất thân từ một gia đình hạ cấp đói rách, như hầu hết những cán bộ đầu sỏ Việt Cộng sau này. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Bài ca Luận Cương Lê Nin của Hồ Chí Minh chỉ là sáu câu vọng cổ rẻ tiền nhằm biện minh cho sự bán thân và vong thân của y. Bán thân vì đói, vong thân vì tiền.

Cựu Tổng Bí Thư đảng CSVN Đỗ Mười, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn và từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta, hoàn toàn đồng ý với lời bàn rất sáng suốt này của cụ Vip KK.

* Chương Năm

Tay Sai Đệ Tam Quốc Tế ; Thời Kỳ Huấn Luyện Tại Nga Sô.

Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đuợc CS Pháp thuê mướn đi rải truyền đơn. Bị mật thám Pháp truy nã, y được đảng CS Pháp bố trí cho sang Đức, rồi từ Đức đáp xe lửa đi Mạc Tư Khoa. Giấy thông hành của y (số 1829, đề ngày 16/06/1925 đóng dấu toà đại sứ Nga tại Bá Linh) ghi : Chen Wang, sinh ngày 15/01/1895 tại Đông Dương, làm nghề thợ ảnh. (Nguyên văn : Chen Wang né le 15 Janvier 1895 à Indochine, profession : photographe) .

Nguyễn Ái Quốc được ở lại Mạc Tư Khoa, học tập lý thuyết Marx, học tập chủ nghĩa Marx - Lenin, và học tập sách lược đấu tranh của Lê Nin.

Y được tham dự đại hội đảng Cộng Sản Quốc Tế tại Mạc Tư Khoa, trên tư thế một đảng viên CSQT đại diện nhân dân Viêt Nam. Trước đại hội, y đã lớn tiếng tố cáo tội ác của thực dân Pháp.

Ngoài ra, y cũng được dự một vài hội nghị khác tại Mạc Tư Khoa. Cũng vẫn bài bản cũ : tố cáo thực dân Pháp và bày tỏ lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Liên Sô trong sự nghiệp giải phóng nhân loại khỏi áp bức.

Và y đã trở thành một cán bộ thuần thành của Mạc Tư Khoa.

Nhưng y không thể trở lại Pháp. Vì vậy, Mạc Tư Khoa đã xử dụng y trong tổ chức mang tên Cục Đông Phương CSQT.

* Chương Sáu

Tay sai đê tam quốc tế ; Thời Kỳ Hoạt Động tại Trung Hoa
Cục Đông Phưong Cộng Sản Quốc Tế (CĐP/ CSQT) là gì ?

Là một phân bộ quan yếu của Mạc Tư Khoa tại Đông Phương lúc đó, với nhiệm vụ lũng đọan Trung Hoa Quốc Gia (Trung Hoa Quốc Gia của Tôn Dật Tiên, và sau này của Tưởng Giới Thạch), đồng thời giúp đỡ đảng CS Trung Quốc của Mao Trạch Đông còn đang trong thời kỳ phôi thai.

Riêng đối với Nguyễn Ái Quốc, CĐP / CSQT còn là chặng đường lý tưởng giúp y du nhập chủ nghĩa CS vào Việt Nam.Lúc đó, y lấy tên là Lý Thụy.

Năm Quý Hợi (1923) Lý Thụy được Mạc Tư Khoa phái sang Quảng Châu, phục vụ trong phòng thông tin của Borodin (sách Tầu ghi là Pháo La Đình), môt cán bộ của Mạc Tư Khoa.

Võ Nguyên Giáp đã viết rất rõ “Lý Thuỵ được phái sang Quảng Châu để chỉ đạo phong trào cách mạng và phong trào nông dân ở Trung Quốc và một số nước châu Á”.

Ngoài ra, tất cả sách vở Việt Cộng đều viết : Quảng Châu, Miền Nam Trung Quốc, là nơi nhiều nhà cách mạng VN yêu nước đang hoạt động, cho nên Người rất quan tâm.

Người đây là Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh. Theo sử gia Trung Hoa Tưởng Vĩnh Kính trong quyển Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc, thì lúc đó “Quảng Châu không những là một trung tâm cách mạng của Trung Quốc, mà còn là thánh địa của Á Châu chống đế quốc chủ nghĩa”.

Và Mạc Tư Khoa đã gửi Lý Thụy đến thánh địa đó.
*
Tại Quảng Châu, Lý Thụy có dịp tiếp xúc một số thanh niên VN của Phong Trào Đông Du, thuộc Tâm Tâm Xã, một tổ chức chống Pháp dành độc lập.

Tâm Tâm Xã do cụ Phan Bội Châu thành lập tại Quảng Châu năm Giáp Dần (1914). Tổ chức này đuợc giới cách mạng Trung Hoa Quốc Gia cũng như giới cách mạng Việt Nam Quốc Gia ngưỡng mộ, nhất là sau vụ liệt sĩ Phạm Hồng Thái.

Chúng ta nên ôn lại lịch sử.

Năm Quý Hợi (tháng 06/1923) Toàn Quyền Đông Dương Merlin ghé qua Sa Diện (Quảng Châu) trên đường sang Nhật Bổn. Phạm Hồng Thái ám sát Merlin, nhưng ám sát hụt. Bị cảnh sát truy nã, họ Phạm gieo mình xuống đầm Bạch Nga. Thi hài họ Phạm đuợc anh em cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa vớt lên chôn ở chân đồi Bạch Vân. Năm Ất Sửu (1925), để tôn vinh nhà cách mạng VN, tỉnh truởng Quảng Châu là Hồ Hán Dân đã truyền đưa hài cốt họ Phạm vào an táng tại Hoàng Hoa Cương, thánh địa của những vị anh hùng cách mạng Trung Hoa Dân Quốc.

Phạm Hồng Thái được coi là linh hồn của Tâm Tâm Xã.

Lý Thuỵ, tức Hồ Chí Minh, đã xâm nhập đuợc Tâm Tâm Xã, nhân danh cách mạng Việt Nam, và nhân danh tinh thần Phạm Hồng Thái bất diệt. Y đã lừa bịp được tổ chức này và được tổ chức này nhiệt tình ủng hộ. Một vài thành viên ưu tú của Tâm Tâm Xã đã được y móc nối gửi sang học tập tại Mạc Tư Khoa, và trở thành cán bộ CS sau này.

Năm Ất Sửu (1925), trong mưu đồ nắm trọn quyền lãnh đạo Tâm Tâm Xã, và để kiếm một món tiền thưởng rất lớn của thực dân Pháp, Lý Thụy đã cùng với Lâm Đức Thụ (tức Nguyễn Công Viễn) lập mưu bắt cụ Phan Bội Châu trao cho Pháp.

Cụ Phan bị bắt tại Thượng Hải, bị đưa về Hương Cảng, rồi từ đó bị giải về Hải Phòng. Ngày 8 tháng 10 năm Ất Sữu (23/11/1925) , cụ bị đưa ra trước Đại Hội Đồng Đề Hình của Pháp (tại Hải Phòng) và bị lên án tử hình. Sau đó, để trấn an dư luận, toàn quyền Varenne của Pháp đã ra lệnh ân xá, và an trí cụ tại Huế. Cũng năm Ất Sửu (1925), tại Quảng Châu, tổ chức “Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội’ ra đời, gồm phần lớn thành viên của Tâm Tâm Xã. Tổ chức nói trên cũng đã bị Lý Thụy xâm nhập, và trở thành đội ngũ tiền phong của đảng CSVN sau này.

Theo Hoàng Văn Hoan tác giả “Giọt Nước Trong Biển Cả” xuất bản thâp niên 1980, thì suốt thời kỳ hoạt động tại Trung Hoa, Bác đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của cụ Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng VN có uy tín lớn tại Trung Hoa Dân Quốc lúc đó.
Bác đây là Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh.

Cũng theo Hoàng Văn Hoan thì cụ Hồ Học Lãm lúc đó vẫn coi Bác là một nhà cách mạng Việt Nam trong truyền thống Phạm Hồng Thái- Nguyễn Thái Học.

(Chú thích của tôi, Nguyễn Văn Chức : Hoàng văn Hoan là Đại sứ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đầu tiên tại Bắc Kinh năm 1950 ; Uỷ Viên Trung Ương Đảng năm 1951 ; Uỷ Viên Chính Trị Bộ 1956 về Cải Cách Ruộng Đất, Phó Chủ Tịch kiêm Tổng Thư Ký Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội Khoá 1 năm 1958, khoá 2 năm 1960, khoá 3 năm 1964, khoá 4 năm 1971 ; Uỷ Viên Chính Trị Bộ đảng CSVN năm 1960, Bí Thư Thành Uỷ Hà-nội năm 1961).
*
Theo tất cả sách vở và tài liệu của Việt Cộng, đặc biệt quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mạng Việt Nam” của Võ Nguyên Giáp, thì năm Canh Ngọ (tháng 2 năm 1930), Trần Phú sáng lập Việt Nam Cộng Sản Đảng . Vẫn theo Võ Nguyên Giáp, thì tháng 10 năm đó, thi hành lệnh của Mạc Tư Khoa, Bác đã đổi tên Việt Nam Cộng Sản Đảng thành Đông Dương Cộng Sản Đảng.

Bác đây là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh.

Sáu tháng sau, ngày 19/04/1931 Trần Phú, – từng được huấn luyện tại Mạc Tư Khoa, có tầm vóc hơn Hồ Chí Minh, và là lãnh tụ đầu tiên của phong trào CS tại Đông Dương – đã bị Pháp bắt tại Sàigòn. Dư luận lúc đó quả quyết : Nguyễn Ái Quốc đã chủ mưu vụ này, nhằm loại trừ một đối thủ có tầm vóc.

Lơi Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Ánh Tư Quốc Tế Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa.

Nguyễn Tât Thành, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh, là một tên đại lưu manh. Nhờ vậy, y đã thành công rực rỡ. Từ một tên bồi tầu đói rách, y đã trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cờ đỏ sao vàng, và vị lãnh đạo tối cao của đảng CSVN.

Đại hội X (tức đại hội 10, nhân dân trong nước đọc là đại hội Ếch) của đảng CSVN hồi tháng Tư 2006 vừa qua đã khiến cả nước phải lắc đầu. Ngay cả bọn Phan Văn Khải CSVN cũng đã phải ngượng mồm khi lên tiếng tôn vinh Hồ Chí Minh. Cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN Đỗ Mười, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta, rất đồng ý với lời bàn rất sáng suốt nói trên của cụ Vip KK.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cho biết : Phan văn Khải, tức tên thủ tướng của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN trong chuyến Úc du tháng 04/2005 và Mỹ du tháng 06/2005 đã bị Người Việt Tỵ Nạn vác cờ vàng ba sọc đuổi chạy vãi cả ra quần, cũng rất đồng ý với lời bàn rất sáng suốt của cụ Vip KK.

Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn cho biết : hai tên Nguyễn Minh Triết, Nguyẽn Tấn Dũng – bây giờ có trong tay cả trăm triệu Mỹ kim nhờ tham nhũng, trộm cắp buôn lậu – cũng rất đồng ý với lời bàn rất sáng suốt của cụ Vip KK vô vàn mến yêu.
Cựu tổng bí thư Đỗ Mười cũng cho biết : hai tên Nguyễn Minh Triết, Nguyễn tấn Dũng dự định sang Mỹ vận động cho nhà nước và đảng ta, nhưng sợ bị lũ ngụy hải ngoại đánh đuổi như đã đánh đuổi Phan văn Khải trước đây năm 2005.

Cựu tổng bí thư Đỗ Mười còn chửi địt mẹ cái Nghị Quyết chó đẻ 36-NQ/TU ngày 26/03/2004. Theo cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, thì Phan Văn Văn Khai phàn nàn rằng : chính vì cái nghị quyết chó đẻ 36-NQ/TU ấy, mày đã bị Người Việt Hải Ngoại cầm cờ vàng ba sọc đánh đuổi như con chó, trong chuyến Úc du và Mỹ du của y năm 2005.

* Chương Bảy

Trốn Khỏi Trung Hoa ; Sang Hoạt Động Bên Xiêm La.

Năm 1927, chính quyền Trung Hoa Quốc Gia mở chiến dịch lùng bắt cộng sản.

Borodin bỏ chạy về Mạc Tư Khoa. Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam. Nhờ uy tín của cụ Hồ Học Lãm, y đã được phóng thích. Y trốn về Mạc Tư Khoa, và được Mạc Tư Khoa phái sang Hương Cảng, làm việc dưới quyền một tên CS Pháp : Hilaire Noulens (sách Tầu ghi là Ngưu Lan).

Nguyễn Ái Quốc được Ngưu Lan giao phó công tác vùng Đông Bắc Thái Lan, nơi có đông nguời Việt lưu vong. Chỉ trong mấy năm, y gặt hái đuợc nhiều kết quả, nhờ tài tổ chức và bịp bợm.

Và cũng nhờ thời cuộc.

Ngày 10/02/1930, cuộc khởi nghĩa Yên Báy thất bại. Nhiều anh em VN Quốc Dân Đảng bị Pháp bắt, tra tấn, thủ tiêu. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cồ Việt tỉnh Hải Dương. Ngày 17/07/1930 ông và một số đồng chí bị đưa lên máy chém tại Yên Báy. Trước khi chết, ông đã hô to “Không thành thân thì thành nhân. Việt Nam muôn năm”.

Theo quyển “Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc” của Tưởng Vĩnh Kính, thì Nguyễn Ái Quôc đã vô cùng hoan hỉ truớc tai họa của Việt Nam Quốc Dân Đảng, coi đó là cơ hội ngàn vàng. Y đem đảng CS của y trám vào chỗ trống. Trong thư luân lưu gửi đảng viên, y viết :

“Lần khởi nghĩa Yên Báy giai cấp tư sản đã mất hết ảnh hưởng trong việc vận động giải phóng dân tộc ; đảng ta được tha hồ tổ chức giai cấp công nhân và quần chúng nông dân lao động vào đảng, và đảng ta trở thành lực lượng duy nhất thi hành lãnh đạo cách mạng chống đế quốc chủ nghĩa”.

* Chương Tám

Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Người Quốc Gia Trở Thành Mặt Trận Việt Minh.

Ngày 20/06/1940, Pháp bị Đức đánh bại ở Âu Châu, Nguyễãn Ái Quốc triệu tập đại hội đảng tại Côn Minh, sửa soạn về nước cướp chính quyền.

Tưởng cũng nên nhắc lại : tại Trung Hoa lúc đó, có những tổ chức cách mạng sau đây của người Việt quốc gia lưu vong :

1. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do cụ Hồ Học Lãm chủ trì.
2. Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội do cụ Trương Bội Công chủ trì.
3. Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, do cụ Nguyễn Hải Thần chủ trì.

Mượn danh nghĩa chống Pháp dành độc lập, Nguyễn Ái Quốc đã xâm nhập được những tổ chức nói trên. Thành công ngoạn mục nhất của y là đã cướp danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (của cụ Hồ Học Lãm) để đặt tên cho một tổ chức cộng sản của y.

Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của cụ Hồ Học Lãm đã bị bỏ mất chữ Hội, để trở thành Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt Việt Minh, một tổ chức võ trang tuyên truyền với võ khí do Trung Cộng cấp phát và cán bộ do Trung Cộng đào tạo.

Về vụ thành lập mặt trận Việt Minh, Võ Nguyên Giáp viết như sau :

“Tháng 05/1941, Người chủ trì Hội Nghị Trung Ương lần thứ 8 [...] Hội Nghị đề ra chủ trương thành lập mặt trận rộng rãi lấy tên là Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh” (Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đuờng Cách Mạng VN, tr. 32).


Người đây, là Hồ Chí Minh.

Trước và sau Võ Nguyên Giáp, cả trăm sách vở Viêt Cộng đều cùng một luận điệu đó .

Lời bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ VIP KK Chánh Án Tư Quốc Tế Tối Cao Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa

Trong đảng CSVN, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thái Mai (bố vợ của y), và Hoàng Minh Giám, là những người có học nhất.
Cả ba từng là cựu giáo sư trường trung học Thăng Long Hà Nội ngày xưa. Cả ba đã đi theo cộng sản. Và cả ba rất hèn. Nhất là Võ Nguyên Giáp.

Trong vụ tên tướng VC Hoàng Văn Thái, người được Võ Nguyên Giáp che chở và cất nhắc (nghe nói còn là thông gia với Võ Nguyên Giáp), bị bọn Lê Đức Thọ Lê Duẩn ám hại, Võ Nguyên Giáp đã không dám hé răng. Năm 2002, bản thân y bị bọn Lê Khả Phiêu công khai hạ nhục. Y cũng không dám hé răng.

Cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN Đỗ Muời, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao ruợt vì hoạn chết lợn của nguời ta, rất hoan nghênh nhận định rất sáng suốt này của cụ VIP KK.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cho biết : giữa thập niên 1990, Võ Nguyên Giáp bị bọn Lê Khả Phiêu làm nhục. Để vớt vát uy tín, Võ Nguyên Giáp đã viết quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mệnh”. Trong quyển sách ấy (xuất bản năm 1997), Võ Nguyên Giáp kể truyện bác Hồ lúc bé phải bế em đi hàng xóm xin sữa xin ăn, tuởng rằng viết như vậy là đề cao Bác. Võ Nguyên Giáp đã bị cả đảng chửi như con chó. Bọn Lê Khả Phiêu đã xuýt tát vào mặt y.

Cũng trong cuốn sách đó, trang 247, Võ Nguyên Giáp còn viết rằng các nhà văn hoá của đảng đã phát hiện khoảng 600 (sáu trăm) gương tốt của bác Hồ. Địt mẹ, cả đảng phải bịt mũi. Nịnh Bác, mà nịnh quá, chỉ làm trò hề.

Cũng trong cuốn sách đó, trang 249, Võ Nguyên Giáp còn viết :

“Năm 1990, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, Tổ Chức Văn Hoá Và Giáo Dục Thế Giới (UNESCO) đã tôn vinh Người là Vị Anh Hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là nhà văn hoá kiệt xuất ...”

Theo Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, thì Võ Nguyên Giáp lại viết láo. Năm đó (1990), quả thật UNESCO dự định tôn vinh Bác là nhà văn hoá kiệt xuất, nhưng bị lũ nguỵ hải ngoại chống đối. Lũ Nguỵ hải ngoại kéo nhau đến biểu tình la hét trước Hội Nghị UNESCO tại Giơ Ne Vơ, và hô to đả đảo Hồ Chí Minh. Sau đó, UNESCO đã nhìn thấy sự thật, rút lại ý định tôn vinh Bác, và xin lỗi lũ nguỵ.

Thế mà Võ Nguyên Giáp dám viết rằng bác đã đuợc UNESCO tôn vinh.
|
Ngoài ra, tủ sách giáo khoa của đảng và nhà nước có quyển sách mang tên “Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, Những Tác Phẩm Tiêu Biểu (Nxb Giáo Dục, xuất bản ngày 01/01/2000, Sài Gòn). Quyển sách giáo khoa này cũng trích dẫn lời của Võ Nguyễn Giáp, và lớn tiếng ca tụng Bác đã được UNESCO vinh danh là nhà văn hoá kiệt xuất của thế kỷ 20. Trang 14 của quyển sách đó viết như sau (nguyên văn) :

“Năm 1990, Tổ Chức Văn Hoá Giáo Dục Khoa Học Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã trao tặng Chủ Tịch Hồ Chí Minh danh hiệu danh nhân văn hoá thế giới, và đã long trọng kỉ niệm 100 năm sinh của Người”.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn nói : toàn bộ sách giáo khoa và nền giáo dục của đảng CSVN chúng tôi từ hơn 50 năm nay đều là gian manh lừa lọc. Tội nghiệp cho bao nhiêu thế hệ học sinh con em chúng ta.

Vẫn theo Cựu Tổng Bí Thư Hoạn Lợn Đỗ Mười, thì đã đi theo Bác, thằng đéo nào cũng hèn, cũng lưu manh bịp bợm. Càng có học, lại càng hèn, càng lưu manh bịp bợm. Võ nguyên Giáp là điển hình.

Cựu Tổng Bí Thư Hoạn Lợn Đỗ Mười gửi biếu cụ Vip KK quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” của Võ Nguyên Giáp, kèm hai câu ca dao đuợc truyền tụng trong dân gian khi Võ Nguyên Giáp bị bọn Lê Đức Thọ hạ tầng công tác xuống làm Chủ Tịch Uỷ Ban Hạn Chế Sanh Đẻ Nhà Nưóc :

“Ngày xưa đại tướng công đồn
Bây giờ đại tướng canh l. cản c.
và :
“Ngày xưa đại tướng cầm quân
Bây giờ đại tướng cầm quần chị em”

* Chương Chín

Bản Chúc Thư Số Hai ; Hồ Chí Minh Chạy Tội Trước Lịch Sử

Hồ Chí Minh chết ngày 02/09/1969, và được phát tang ngày 03/09/1969. Y để lại một bản chúc thư trong đó y kể công lao của y và của đảng CSVN đối với dân tộc. Y vui mừng sắp được về với thánh tổ Các Mác. Y căn dặn đảng viên các cấp phải “giữ gìn đảng như giữ gìn con ngươi của mắt”.

Bản chúc thư nói trên – gọi là bản chúc thư số I – được Việt Cộng trân quý như thánh kinh của đảng.

Ngoài bản chúc thư số I nói trên, cuối thập niên 1980, người ta thấy xuất hiện ở Pháp một bản chúc thư số 2, đề ngày 14-8-1969, nói là do Hồ Chí Minh viết để lại cho đúa con gái lai tại Pháp.

Trong bản chúc thư số 2 này, Hồ Chí Minh phủ nhận bản chúc thư số I. Chẳng những thế, y còn viết rõ : y hối hận đã đi theo cộng sản làm hại đất nước.

Năm 1986, một ngưòi Pháp từ Paris gửi biếu tôi – Nguyễn văn Chức – bản chụp chúc thư số 2 này, kèm bản chụp bút tự của Hồ Chí Minh.

Nếu tôi không lầm, thì bản chúc thư số 2 này cũng đã được phổ biến trên nhiều báo tiếng Việt ở hải ngoại, hồi cuối thập niên 1980.

Dưới đây, tôi xin đăng lại nguyên văn bản chúc thư số 2 ấy, như một tài liệu :

“Thời xưa, ở bên Trung Quốc, người ta thường nói con chim trước khi chết thì tiếng kêu thương, con người trước khi chết thì lời nói phải. Tôi tự xét mình chẳng còn sống bao lâu nữa, nên cố gắng viết di chúc này, mong rằng những điều viết ra không phải là những điều sai quấy.

Vừa mới đây, Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, buộc tôi phải viết bản di chúc theo ý họ. Tôi đã viết, mà trong bụng thì tấm tức vô cùng. Nay tôi viết thêm di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi không nhận bất cứ di chúc nào khác là của mình. Tôi ước mong một ngày nào đó di chúc tôi đang viết đây sẽ được mọi người biết tới, thì ở thế giới bên kia tôi mới đuợc thoả lòng.

Tôi vốn con nhà nghèo, nhưng từ bé đã nuôi mộng đảo lộn sơn hà, mà đem lại vẻ vang cho nòi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề quản ngại khó khăn gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày Tổ Quốc ta độc lập giầu mạnh, dân tộc ta hạnh phúc tự do.

Tôi thường đọc lịch sử nước Việt Nam ta, thấy ông Trần Thủ Độ là một tay hào kiệt hiếm có trên đời, đã không quản ngại làm việc ác, làm phản mà gây nên cơ nghiệp hiển hách của nhà Trần, đuổi giặc Nguyên, đem lại vinh quang cho cả dân tộc về cả hai mặt văn minh và đời sống. Không lượng sức mình, không đo tài mình, tôi đã hành động như ông Trần Thủ Độ, nên đất nước mới tan nát, nhân dân ta mới điêu linh mà đầu mình thì nặng nề không biết bao nhiêu tội ác không thể nào tha thứ được.

Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo cộng sản Mác Xít mà không biết là chủ nghĩa này dần dần trở thành lạc hậu và phản động, những người theo Mác Xít chỉ là giả bộ, để đánh lưà giai câp nghèo mà cướp lấy chánh quyền cho nước Nga.
Tôi cũng ngay tình mà dùng những người hợp tác với mình. Tôi cứ tưởng những người đó quý yêu tôi, đầu ngờ họ đều là mật thám của Nga, vây quanh tôi chỉ là để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường nước Nga đã vạch sẵn. Họ đề cao và tâng bốc tôi để khi nào tôi làm điều gì độc ác thì tôi phải chiụ hết trách nhiệm với dân tộc. Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ Cải Cách Điền Điạ ở Bắc Việt bây giờ nhân dân còn nguyền rủa oán trách tôi không biết để đâu cho hết. Dù sao thì tôi vẫn là người có tội, tôi không dám chối cãi, chỉ dám mong lịch sử sau này xét kỹ cho tôi mà đừng lên án tôi quá nặng nề.

Đầu nàm 1963, hồi đó tôi còn chưa bị bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy ông thuộc Uỷ Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến chuyển vào Nam Bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô Đình Diệm, kèm theo một bức thư. Trong bức thư, tôi chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giầu nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người.

Truyện này vỡ lở ra, cụ Ngô bị giết ở trong Nam, còn ở ngoài Bắc tôi bị kiểm soát rất khắt khe, không có quyền quyết định gì nữa cả. Đáng lẽ ra thì tôi bị giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tôi còn được thế giới biết đến, nên họ còn phải lợi dụng mà để cho tôi sống thêm. Tôi đã già, râu tóc đã bạc mà còn phải sống trong cảnh ngục tù, cứ nghĩ đến điều này là tôi ứa nước mắt. Họ không giết tôi nhưng sai ông bác sĩ Tôn Thất Tùng cho uống thuốc độc, để tôi không thể đi đâu nữa, mà cũng không thể tiếp xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng là chết lần chết mòn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở.

Thật cũng tiếc, khi về già, biết mình sai lầm, muốn chuộc lỗi mà không được nữa.

Trước khi viết phần cuối di chúc, tôi xin thú nhận tôi không phải thần thánh gì, nên khi còn sống cũng đủ bẩy tình như kinh nhà Phật đã đề cập. Tôi không có vợ, nhưng cũng có được một đưá con gái lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi khi đọc được tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi không đủ bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm.

Ai cũng tưởng tôi là con người vô thần, nhưng riêng Đức Cha Lê Hữu Từ thì biết tôi rất tin có Đấng Tạo Hoá. Vì tin có ông Trời nên tôi xin khẩn cầu cho nước ta và các nước Cộng Sản khác trên thế giới sớm thoát ách Cộng Sản. Tôi cũng xin ông Trời cho tờ di chúc này có ngày được phổ biến khắp nơi.

Cuối cùng, tôi xin lẩy Kiều mượn tạm hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để tỏ lòng hối hận trước đấng Cao Xanh :

“Rằng con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam”.
Ngày 14/08/1969
Hồ Chí Minh

Lời bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Án Tư Quốc Tế Pháp Đình Tân Kiểng Bên Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Ngày Xưa

Lời bàn một

Trong bản chúc thư số 2 nói trên, Hồ Chí Minh viết : “tôi vốn con nhà nghèo, nhưng từ bé đã nuôi mộng đảo lộn sơn hà, mà đem lại vẻ vang cho nòi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề quản ngại khó khăn gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày tổ quốc ta độc lập giầu mạnh, dân tộc ta hạnh phúc tự do”.
Hồ Chí Minh viết bản chúc thư đó năm 1969. Nhưng y vẫn dấu nhẹm vụ y nạp đơn xin vào học trường Thuộc Điạ Pháp năm 1911.

Lời bàn hai

Hầu hết – nếu không muốn nói là tất cả – những tên đầu sỏ Việt Cộng cao cấp đều thất học cu ly cu leo, và con nhà khố rách áo ôm. Chúng nó đi theo cộng sản vì không còn con đường tiến thân nào khác. Nhưng trong tiểu sử hoặc chúc thư thì thằng chó nào cũng phét lác rằng mình đi theo cách mạng là để mưu tìm độc lập tự do cho Tổ Quốc. Đó chính là trường hợp Hồ Chí Minh.

Lời bàn ba

Những trại cải tạo rùng rợn Đầm Đùn, Lý Bá Sơ, cuộc tiêu thổ kháng chiến 1945, cuộc đấu tố rưộng đất 1953-1956, cuộc đàn áp văn nghệ sĩ năm 1956, vụ dâng đảo Hoàng Sa cho Bắc Kinh, cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam VN, vụ giết và chôn sống đồng bào hồi Tết Mậu Thân Huế, v. v... Tất cả những tội ác đó cũng như muôn vàn tội ác khác, đều do bàn tay Hồ Chí Minh.

Trong bản chúc thư số 2, Hồ Chí Minh đổ lỗi cho người khác.

Cựu Tổng Bí Thư đảng CSVN Đỗ Mười – tức đồng chí Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta – rất đồng ý với những lời bàn rất sáng suốt của cụ VIP KK.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười không dám quả quyết vụ Bác Sĩ Tùng cho bác Hồ uống thuốc độc là có thật. Nhưng cựu tổng bí thư quả quyết chữ viết và luận điệu trong chúc thư là của Bác Hồ. Vụ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đàn áp bác Hồ 2 năm trước khi bác chết, cũng có thật. Cựu tổng bí thư Đỗ Mười còn cho biết : Lê Duẩn đã có lần nói hỗn với Bác, xô Bác té trên giường. Tội nghiệp cho Bác.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn nói : trong bản chúc thứ số 2 này, Bác tạ lỗi với đứa con gái lai Pháp, vì đã không làm bổn phận một người cha. Địt mẹ, làm như Bác chỉ có môt đứa con hoang. Theo cựu tổng bí thư Đỗ Mười, thì con rơi con rụng của bác, trắng đen, vừa trắng vừa đen, bạch tạng, rỗ chằng rỗ chịt, mắt toét mắt lồi, Marốc, Mễ, Tiêm La, Tầu, Việt Nam, Kampuchia, đếm đuợc cả trung đội.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cũng nhắc đến chuyến đi Phát Diệm của Bác thăm Giám Mục Lê Hữu Từ năm 1946. Năm đó, Võ Nguyên Giáp có đi theo Bác, khi về đã kể chuyện lại.

Võ Nguyên Giáp kể rằng : giữa đám đông tụ tập trước Phương Đình Phát Diệm, Bác giơ cao tay hô to “Hoan Hô Đức Chúa”. Đồng bào công giáo Phát Diệm ôm bụng cười. Thật là vô lễ với Bác. Bác còn lớn tiếng xin Giám Mục Lê Hữu Từ làm phép rửa tội ngay cho Bác, để Bác trở thành người của đạo Chúa. Nhưng Giám Mục Lê Hữu Từ bảo Bác phải học đạo 6 tháng mới được chịu phép rửa. Đồng bào có mặt đã vỗ tay hoan hô Giám Mục. Thật là vô lễ.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn kể : Tết Giáp Ngọ (1954) Bác Hồ gửi biếu Giám Mục Lê Hữu Từ một cành đào và khuyên Giám Mục nên ở lại Phát Diệm, đừng di cư vào Nam. Nhờ Đức Chúa chuẩn bị tư tưởng, Giám Mục Lê đã lãnh đạo con chiên bổn đạo di cư vào Nam. Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười quả quyết : Giám Mục Lê mà ở lại Phát Diệm thì thế nào cũng bị Bác cho đi trại cải tạo Lý Bá Sơ hoặc Đầm Đùn, để trả thù về vụ đồng bào Công Giáo Phát Diệm làm nhục Bác năm 1946.

Cự Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn nói : chúng tôi đã đi theo Bác thì thằng đéo nào mà chả gian ác lưu manh cu ly cu leo tổ mẹ. Nhưng so với Bác thì vẫn còn thua xa.

* Chương Mười

Kết luận

Quyển tiểu sử Hồ Chí Minh của tôi, đến đây là hết. Nhưng cần một kết luận.
Trước khi kết luận, tôi thấy cần phải minh xác với bạn đọc, nhất là các bạn trẻ.

Tôi không phải là sử gia. Sử gia phải khách quan, không được viết theo cái chủ quan của mình.

Riêng tôi, tôi đã viết theo lập trường chủ quan của tôi, lập trường của một cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cộng với lập trường của một kẻ suốt đời ôm hoài bão được bước theo gót người xưa : Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu ...
*
Viết về Hồ Chí Minh, tôi dựa trên hai loại tài liệu.

Tài liệu của LỊCH SỬ VIẾT HOA, tức tài liệu của ngoại quốc.

Và tài liệu của LỊCH SỬ KHÔNG VIẾT HOA, tức tài liệu của Việt Cộng. Phần lớn những tài liệu hiếm có này đã do người bạn trẻ của tôi, nhà văn Nguyễn Thế Khanh, cung cấp.

Bây giờ, tôi xin trở lại cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh của tôi.
*
Một kẻ xuất thân từ gia đình nghèo mạt, đi ăn xin, thất học cu ly cu leo lưu manh đểu cáng, đã trở thành chủ tịch một nước và được nhiều sách vở Tây Phương ca tụng.

Đó là Hồ Chí Minh.

Phải nhìn nhận : Hồ Chí Minh thông minh và mưu lược. Rất tiếc : y là một tên vô lại, lưu manh, và cuối cùng phản bội dân tộc.

Quyển Le Prince của Machiavel và quyển Sử Ký Tư Mã Thiên ám ảnh tôi. Lưu manh, vô lại, đểu cáng tàn bạo là phương tiện. Và cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Quyển Les Mains Sales của J. P. Sartre cũng một triết lý đó. Muốn thành công trong chính trị – nghĩa là muốn cướp được chính quyền – phải biết để cho bàn tay mình nhơ bẩn.

Quyển Les Mains Sales nói về trí thức trong hành động. Tôi nghĩ : Les Mains Sales có thể áp dụng cho bất cứ ai bước vào chính trị quyền lực, thứ chính trị bất chấp luân lý đạo đức. Có học cũng như vô học.

Hồ Chí Minh là một kẻ vô học, có lẽ vô học nhất trong hàng ngũ lãnh tụ trên thế giới. Nhưng lưu manh, đểu cáng tàn bạo, có lẽ cũng vào bậc nhất trên thế giới. Y đã chấp nhận để cho bàn tay của mình nhơ bẩn. Chẳng những nhơ bẩn, mà còn đẫm máu đồng bào ruột thịt. Mục đích : để đạt cứu cánh.

Câu hỏi đựợc đặt ra : y và đảng CSVN của y đã đem lại đuợc gì cho đất nước ?

Ba cuộc chiến tranh Đông Dương không cần thiết – đánh Pháp dành độc lập 1947-1954, chống Mỹ cứu nước 1969-1975, đánh Pol Pot 1979 – với hàng triệu người Việt Nam chết thê thảm và bị tàn phế. Hai cuộc đấu tố ruộng đất cực kỳ dã man, và một chế độ cai trị tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc. Chưa kể cả một giang sơn gấm vóc bị tàn phá khủng khiếp. Chưa kể đời sống dân Việt Nam nghèo khổ nhất thế giới. Chưa kể con người Việt Nam bị xuất cảng làm lao nô ở nuớc ngoài. Chưa kể hàng trăm phụ nữ và em bé gái Việt Nam được xuất cảng đi làm nô lệ tình dục ở nuớc ngoài. Chưa kể cắt đất dâng biển cho Trung Cộng. Chưa kể một chế độ cai trị vô cùng tàn bạo đểu cáng trộm cắp mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Và chưa kể : hiện nay, Việt Nam vẫn là mảnh đất nghèo khổ nhất trên thế giới, với bọn cu ly cu leo Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải, Phạm Thế Duyệt Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, giầu có vào bậc nhất Đông Nam Á. Nhờ tham nhũng bóc lột.

Đó là công nghiệp của Hồ Chí Minh và đảng CSVN của y đối với Tổ Quôc VN.
*
Hồ Chí Minh là một tên đại lưu manh, đại bịp, đại đểu cáng. Và có bàn tay nhơ bẩn.

Ngoài ra, y còn là một tên hề mặt trơ trán bóng, cái mặt trơ trán bóng không tìm thấy nơi bất cứ một lãnh tụ nào trên thế giới, kể cả những tên tồi tệ nhất.
Quyển “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” của Trần Dân Tiên làm cho người đọc buồn nôn. Trần Dân Tiên là y, Hồ Chủ Tịch là y. Y kể chuyện Hồ Chủ Tịch, tức y kể truyện chính y. Y ca ngợi Hồ Chủ Tịch, tức y ca ngợi chính y. Sao trên đời lại có đưá vô liêm sỉ đến thế. Câu trả lời là : y là một tên vô học.

Tôi đã đọc tiểu sử Gandhi, Nehru, Tôn Dật Tiên, Ngô Đình Diệm ... Tôi cũng đã đọc tiểu sử Lenine, Staline, Hitler, Mao Trạch Đông.

Chính hay tà, đạo đức hay vô đạo đức, những tên tuổi nói trên không làm trò hề như Hồ Chí Minh. Dù sao họ cũng có học. Đang khi đó, Hồ Chí Minh là một đứa vô học.
*
Từ vô học đến đểu cáng vô nhân đạo vô ơn bạc tình bạc nghĩa, không xa. Tôi muốn nói đến vụï y đối xử với những người đàn bà đã hiến thân cho y, hoặc đã cưu mang y.

Vụ nàng Nguyễn Thị Xuân – hiến trinh cho y, và có con với y, bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp cực kỳ dã man nhiều lần, rồi sau đó bị giết thê thảm – đã không thể xẩy ra, nếu không có sự đồng tình mặc nhiên của Hồ Chí Minh.

Rồi vụ cụ Vũ Đình Huỳnh. Và vụ nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả “Đêm Giữa Ban Ngày – quyển sách gối đầu giừơng của tôi từ nhiều năm nay, cùng với quyển “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ” của Hà Sĩ Phu.

Thời Pháp thuộc, cụ ông và cụ bà Vũ Đình Huỳnh đã nuôi Hồ Chí Minh trong nhà, bất chấp những hiểm nguy có thể xẩy ra. Riêng nhà văn Vũ Thư Hiên lúc bé từng được ngủ chung giuờng với Bác.

Và Hồ Chí Minh đã trả ơn như thế nào ?

Năm 1967, cụ ông Vũ Đình Huỳnh và nhà văn Vũ Thư Hiên bị còng tay đưa vào khám Hỏa Lò, người cha đi trước người con đi sau. Hồ Chí Minh đã không có được một lời hoặc một cử chỉ, can thiệp.

Cụ bà Vũ Đình Huỳnh đã không thèm đến kêu oan với Hồ Chí Minh, vì biết rằng kêu oan với một đứa vô ơn cũng vô ích.

Lịch sử nằm ở đó. Cái đẹp nằm ở đó. Và cũng nằm ở đó, cái tồi tệ đểu cáng mất dậy vô học mang tên Hồ Chí Minh.
*
Rất tiếc, Hồ chí Minh đã được một số chính khách tên tuổi ngoại quốc tiếp tay.

Tôi muốn nói : TT Hoa Kỳ John F. Kennedy, kẻ đã chủ mưu cuộc tạo phản ngày 01/11/1963 của bọn Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim. Cuộc tạo phản ấy đã giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và dọn đường cho Việt Cộng thôn tính Miền Nam.

Và tôi muốn nói : cựu tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon, kẻ đã cùng với tên lưu manh Kissinger trao Miền Nam VN cho cộng sản Bắc Việt năm 1975.
Phản bội, gian manh, lá mặt lá trái, phải chăng đó là truyền thống của chính trị Mỹ ?

Riêng tôi, cũng đã học bài học thấm thía. Trong bức điện tín 25/04/1969 gửi về Toà Bạch Ốc, đại sứ Mỹ Bunker đã viết về tôi như sau :

“Những nhà lãnh đạo như Trần Văn Hương và vị trưởng khối Độc Lập tại Thượng Nghị Viện, Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức, tuần này đã công khai bầy tỏ lòng tin tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi Việt Nam” Nguyên văn : Leaders such as Tran Van Huong and the Head of the Senate’s Independance Bloc, Senator Nguyen van Chuc, this week publickly expressed confidence that the US would not abandon Vietnam. (The Bunker Papers, Reports to the President from Vietnam, vol. 2, page 419).

Bunker đã hoàn toàn bịa đặt. Tôi, Nguyễn Văn Chức, không hề tuyên bố như vậy. Có cần phải nói thêm ? Thời Saigon, Bunker nhiều lần mời tôi đến tư dinh, nhưng tôi đã cáo lỗi.
*
Ngoài những tên tuổi chính trị nói trên, những kẻ đã phản bội Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và tiếp tay cho Hồ Chí Minh thôn tính Miền Nam Viêt Nam, còn những kẻ tự nhận là nhà văn hoá, là nhà viết sử. Họ cũng ca tụng và tiếp tay cho Hồ Chí Minh.

Tôi muốn nói : những Jean Lacouture, William J. Duiker, Bernard Fall, David Hamberstam, Stanley Karnow, William Burchett ..
.
Tôi đã đọc họ. Họ ca tụng Hồ Chí Minh. Tôi không trách họ. Nhưng tôi trách họ sau này không đủ trí tuệ để thấy mình sai và nhất là không đủ liêm sỉ để nhìn nhận mình sai.

Họ không đáng xách dép cho Nguyễn Mạnh Tường của “Un Excommunié”, cho những Arthur Koesler, Ignazio Silone, Louis Fisher của “The God That Failed”, cho Trần Dần của “Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ”, cho Hà Sĩ Phu của “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Những Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ”, v.v...

Riêng Jean Paul Sartre, một thời đã cùng với Merleau Ponty, Raymond Aaron và Simone de Beauvoir hết lời ca tụng con đường cứu rỗi nhân loại của Liên Sô. Sau vụ Budapest (Hungary) 23/11/1956, Sartre đã tỉnh ngộ. Câu nói để đời của ông “Un anticommuniste est un chien” (thằng nào chống cộng sản, thằng đó là con chó) đã mặc nhiên trở thành “Un pro communiste est un chien”. (Thằng nào đi theo cộng sản, thằng đó là con chó).
Trí thức là ở đó.
*
Tôi đã từng tranh luận tại nhiều diễn đàn Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế (Union Interparlemen- taire), trên thế giới. Tôi đã từng lớn tiếng nói lên chính nghĩa đấu tranh của Người Quốc Gia Việt Nam, đồng thời vạch mặt bọn chó đẻ cộng sản quốc tế và tay sai, trong đó có bè lũ Hồ Chí Minh.
*
Đêm nay, tóc bạc và xa quê hương, tôi viết tập sách nhỏ bé này, để lột mặt nạ Hồ Chí Minh và đảng CSVN của y. Đồng thời nói lên chính nghĩa đấu tranh của dân tộc Việt Nam, trước đây cũng như bây giờ.

Chính nghĩa đó, là : thiết lập một chính quyền mà cựu tổng thống Liên Sô Gorbachev đã định nghĩa là : “nảy sinh từ một cuộc tổng tuyển cử hợp pháp (legal) chánh đáng (legitimate) và lương thiện (honest).” Dĩ nhiên, cuộc tổng tuyển cử ấy phải được đặt dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc, với sự hiện diện của báo chí quốc tế.

Đó là giải pháp duy nhất và cũng là điều kiện tiên quyết để đem dân tộc vào ổn định và đưa đất nước tiến lên.
*
Tôi viết xong tập sách nhỏ này đêm nay. Mái tóc bạc đối diện với lịch sử.

Trước mặt tôi là hai tấm ảnh đã cũ.

Tấm ảnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm bên cạnh ba người chiến sĩ QLVNCH hải lục không quân. Với lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Và tấm ảnh các vị anh hùng đã tuẫn tiết cuối tháng Tư 1975 : tướng Lê Văn Hưng, tướng Phạm Văn Phú, tướng Trần Văn Hai, tướng Nguyễn Khoa Nam, tuớng Lê Nguyên Vỹ. Và đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Với lá cờ vàng ba sọc.

(Riêng đại tá Cẩn, theo tôi được biết, đã bị Việt cộng đem ra xử bắn trước công chúng, vì bất khuất và nặng lời thoá mạ Việt Cộng).

Houston tháng 05/2006
Tháng kính Đức Mẹ Maria
Nguyễn Văn Chức


Nói Chuyện Với Bùi Tín - Vũ Lâm -

Vũ Lâm

(Trích đăng từ Nguyệt San Con Ong Việt số 81 tháng 4, 2007)

Đã hơn 7 năm, từ năm 1999, khi Con Ong Việt mới chập chững tập bay, một trong những số báo đầu tiên có bài “Thư Gửi ông Bùi Tín” của Đồ Nhọ. Bài viết ấy bây giờ đã mất thời gian tính, mặc dù, những nhận định đầu tiên của Con Ong Việt về Bùi Tín đến nay không có gì thay đổi. Từ đó đến nay, hình như Con Ong Việt (C.O.V) đã không nhắc gì đến ông nữa! Vậy mà Con Ong và ông vẫn còn “hữu duyên tương ngộ”.

Số báo tháng vừa qua, trong mục “Tin Hay Không Tin”, Luật Sư Nguyễn Văn Chức, một cây viết thường xuyên trên C.O.V đã có vài dòng đề cập đến ông, xếp ông vào hàng những Kiệt-Xuất. “Kiệt Xuất Thành Tín” với những lời ca tụng Hồ Chí Minh. Nguyên văn đoạn văn ấy dưới đây:

- “Người có lòng nhân ái sâu đậm ... Người chủ trương đại ân xá, xoá bỏ hận thù, hoà hợp dân tộc vì đại nghĩa ... Trước hết và sau cùng, Người là con người yêu nước...”.

Trên đây là những lời Bùi Tín ca tụng tên chó đẻ Hồ Chí Minh. Những lời ca tụng kiệt xuất ấy đã được ghi lại trong bản văn mang tên “Toàn Văn Cuộc Phỏng Vấn Nhà Báo Thành Tín Của Đài BBC Tháng 9 Năm 1990. Những lời ca tụng kiệt xuất ấy cũng đã được ghi lại trong cuộc phỏng vấn của tờ Đoàn Kết tại Paris tháng 12/1990, trang 12, 40 và 42.

Cũng trên những làn sóng và trang giấy đó, Bùi Tín tiếc cho “Người đã không được nhập vào lòng đất mẹ của Tổ Quốc.”. Người đây, là tên chó đẻ Hồ Chí minh.

Chúng ta nên nhớ: xác Hồ chí Minh không được chôn trong lòng đất, mà được đặt nằm trong lăng tẩm, mặt mũi phấn son như con đĩ về già. Thập niên 1980, mỗi chiều thứ bẩy, các em học sinh phải xếp hàng nối đuôi nhau đến viếng xác y, để được lãnh một khúc bánh mì. Thập niên 1980, dân ta đói lắm. Nhiều anh em tù cải tạo, lúc ra tù đói lắm, nhưng cũng phải đến viếng xác y. Để nhớ mãi lời ca của thế kỷ:

Gặp Bác, ta sướng quá trời.
Tụt quần ta iả hát đời ấm no.

Nếu không có “Vài lời đáp lễ ông KK. Nguyễn Văn Chức” của ông, gửi đăng trên điện báo Ánh Dương và Thông Luận thì có lẽ, Con Ong Việt vẫn coi Bùi Tín như gió thoảng mây trôi, chẳng đáng gì để phí phạm thời giờ, giấy mực, và tôi cũng chẳng có dịp để nói chuyện với ông.

Hai bài viết, bài của Ông Nguyễn Văn Chức và bài của ông đã gây tranh cãi sôi nổi trên nhiều điện báo, diễn đàn, cả hai phía đều có người bênh, kẻ chống. Lẽ ra, để công bình, khi đăng đoạn văn “Kiệt Xuất Thành Tín” của ông Chức thì cũng phải đăng bài “Đáp lễ ...” của ông ở đây, nhưng vì bài viết khá dài so với số trang được hạn định cho bài viết này và nghĩ rằng, những người theo dõi câu chuyện đều đã được đọc bài đáp lễ của ông, nên Vũ tôi xin miễn đăng.

Bài viết này, không phải là bài viết để trả lời bài “đáp lễ ...” thay cho ông Nguyễn Văn Chức. Con Ong Việt không phải làm việc ấy, trả lời ông Bùi Tín hay không tùy thuộc vào phán xét, nhận định và quyết định của ông Chức. Hai ông đều là bậc lão thành, cả về tuổi tác và trường đời, cả hai đều là người có chức phận, nổi danh, nên trực tiếp nhận lời khen, chê, trực tiếp nhận những phê bình, cả về quan điểm, nội dung, hình thức, cho đến ngôn từ sử dụng trong bài từ phía công luận. Báo chí, các diễn đàn điện tử chỉ là phương tiện giúp chuyển đạt bài viết đến đọc giả, không liên hệ gì đến những lời khen chê ấy.

Ví như, trong tương lai, nếu có những bài đối thoại, lời qua tiếng lại giữa ông Chức và Bùi Tín, C.O.V. sẽ làm đúng chức năng của một cơ quan truyền thông, nghĩa là sẽ công bình, đăng bài của cả hai phía, không cắt xén, sửa chữa dù là một dấu phẩy.

Bài viết này, Vũ tôi xin được trình bày vài nhận xét về bài viết của ông, “Vài lời đáp lễ ông KK. Nguyễn Văn Chức” đang được nhiều người chú ý và bàn luận, người khen cũng có mà người chê cũng nhiều. Sau đó, Vũ xin được đóng góp ý kiến về đề tài đang tranh cãi trên diễn đàn điện tử cả tuần lễ nay: Ông Bùi Tín “Đào-tị”, “Đi Công Tác Dài Hạn”, “Quy-Hàng”, “Trá-Hàng” hay “Phản-Tỉnh”?

1- Nhận xét về bài “Vài lời đáp lễ ông KK. Nguyễn Văn Chức”.

Nhóm chủ trương Con Ong Việt luôn luôn coi Hồ Chí Minh là tội đồ của dân tộc, phản bội tổ quốc, đi làm nô bộc cho Cộng Sản Quốc Tế, đem tai họa đến cho quê hương, biến đất nước thành một nghĩa trang khổng lồ, đưa nước Việt tuột dốc xuống vực thẳm của nghèo đói, chậm tiến. Hồ Chí Minh là người vô đạo đức, là một tội đồ man rợ, bán nước cầu vinh, dâm đãng, hãm hại người ái quốc, giết vợ, bỏ con.

Đoạn văn “Kiệt Xuất Thành Tín” của Nguyễn Văn Chức nhắc đến Hồ Chí Minh bằng từ ngữ khinh miệt “Chó Đẻ” đối nghịch với lời ca tụng Hồ Chí Minh như thần thánh của Bùi Tín:

- “Người có lòng nhân ái sâu đậm ... Người chủ trương đại ân xá, xoá bỏ hận thù, hoà hợp dân tộc vì đại nghĩa ... Trước hết và sau cùng, Người là con người yêu nước”.

Cái mâu thuẫn giữa hai thái cực ấy làm Con Ong Việt thích thú nên đã chạy đăng “Kiệt Xuất Thành Tín” trên Con Ong Việt số báo tháng vừa qua. Thích thú không phải vì đề cập đến Bùi Tín, Bùi Tín chỉ là con số không ... bao nhiêu năm nay, đề tài Bùi Tín không hấp dẫn với Con Ong.

Chưa nói đến chuyện Bùi Tín phản tỉnh thực hay cuội, hàng hay trá hàng. Nhưng, cái yếu huyệt của ông với cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại là ở những câu ca tụng Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Văn Chức ác lắm! Cứ cái yếu huyệt này mà chọt thì hỏi làm sao Bùi Tín không nổi giận mà văng ra “Vài lời đáp lễ ông KK. Nguyễn Văn Chức”. Nhưng, Giận quá mất khôn! So với nhiều bài viết khác của ông, bài viết này dở tệ, ấu trĩ, nông cạn và nhiều hớ hênh. Giận quá mất khôn! cả bài viết 3 trang khổ giấy ‘computer’ ông không trình bày, phản bác hay ‘đáp lễ’ được điều gì trong “Kiệt Xuất Thành Tín” của Nguyễn Văn Chức, mà ông cứ loay hoay phân trần là, những câu nói ca tụng Hồ Chí Minh ấy là của ngày xưa, bây giờ tôi đổi khác rồi, và ông tìm đủ mọi tĩnh từ hằn học nhất, tàn tệ nhất, đầy ngập cả ba trang giấy để biếu ông Nguyễn Văn Chức như: cố chấp, kiêu ngạo, mù quáng, hiếu thắng, thô bỉ, bẩn thỉu, lưu manh, trí thức dỏm, điên dại ... rồi ông dùng đến chiêu pháp bẩn nhất, hạ cấp nhất, giống như khi giao đấu, bí quá phải sử dụng đến ngón “cẩu quyền” cắn ông Nguyễn Văn Chức một phát bằng cách đem chuyện ông bố vợ của ông Nguyễn Văn Chức ngày xưa làm tài xế lái xe cho bố Bùi Tín ra nói. Trong thuật viết lách, bút chiến, muốn chắp ghép một sự kiện hay một nhân vật nào đó vào câu chuyện của bài viết, ít ra tác giả cũng phải tìm được mối liên hệ, tình tiết, giữa sự kiện hoặc nhân vật ấy với nhân vật trong bài viết để làm đoạn chuyển tiếp hay dẫn nhập. Thí dụ như, trong một bài viết Vũ tôi được đọc trên ‘Net’, khi tác giả muốn lôi cụ thân sinh của Bùi Tín vào bài viết, tác giả đã khéo léo chuyển tiếp, khởi đầu dương danh ông Bùi Tín xuất thân từ một gia đình nho giáo, bố ông là thượng thư Bùi Bằng Đoàn, rồi kể tình tiết quanh co, cuối cùng mới vào chủ đích là mẹ Bùi Tín lại không phải là bà thượng thư, mà là nàng hầu đấm bóp cho cụ Thượng Thư, rồi, trong một lúc hứng tình, cụ Thượng Thư đã không kìm giữ được thú tính, để xẩy ra tai nạn và tai nạn đó là ‘sự hiện hữu của Bùi Tín trên cõi trần này’. Cũng trong bài viết đó, tác giả khéo léo dắt đi một vòng rồi dừng lại ở câu chuyện, bố của Bùi Tín, ông Bùi Bằng Đoàn thuở mới ra đời “Làm cho Tây”, là một viên thông dịch tại tòa án, ông đã hỗn xược chỉ tay gọi cụ Phan Bội Châu, một nhân sĩ mà cả nước đều kính trọng bằng «mày» . . .

Viết về Bùi Tín thiếu gì cái hay cái dở, cái tốt cái xấu để viết mà lại phải lôi cả bố ông ta ra để nói, thì cũng chẳng hay ho gì!. Nhưng ít ra, tác giả cũng khá hơn ông trong bài “Đáp Lễ” ở chỗ, câu chuyện có đầu có đuôi, có dẫn nhập liên tục hợp lý. Còn việc bố vợ ông Chức làm tài xế, chẳng ăn nhập vào đâu cả, chẳng làm xấu được ông Chức, cũng chẳng dính dáng gì đến “Kiệt Xuất Thành Tín”, đến Bùi Tín và “tên chó đẻ Hồ Chí Minh”. Đoạn viết này, ông viết gượng ép, trẻ con và vô duyên hết sức. Không lẽ Đại tá Quân đội Nhân Dân, phó tổng biên tập nhật báo Nhân Dân mà trình độ yếu kém, ít học đến thế sao?

Ông kết tội Nguyễn Văn Chức viết về ông với thái độ hằn học, nhưng tôi đọc đi đọc lại “Kiệt Xuất Thành Tín” không thấy có câu nào hằn học với Bùi Tín mà chỉ thấy ông Chức hằn học với Hồ Chí Minh bằng từ ngữ “Chó Đẻ”.

Giận quá mất khôn! ông rớt vào cái bẫy sập, ông chỉ vào trái tim ông: - Hồ Chí Minh ở đây này, ở trong trái tim tôi, trong não bộ của tôi, tôi vẫn còn tôn thờ người. Tôi phải lên tiếng. Tôi phải bênh, phải mắng nhiếc những ai đụng đến người, đụng đến thần tượng bác Hồ của tôi. Dẫn chứng bằng hai đoạn viết dưới đây:

1. “Ông có quyền gọi ông Hồ Chí Minh là con chó ghẻ, là hồ cáo, là tên Việt gian bán nước, là quỷ xa tăng… đó là quyền của ông, nhưng thái độ ấy đối với đông đảo đồng bào trong nước chưa am hiểu tình hình chỉ làm hạ thấp nhân cách và tiêu hủy sức thuyết phục trong lập luận của ông. Chửi bới, ngọa ngôn, dùng từ ngữ bẩn thỉu chỉ phơi bầy sự bất lực thảm hại của chính ông. Người trí thức tự trọng không ai làm thế.

2. “Tất nhiên tôi cũng không bao giờ chửi rủa thô bỉ một con người từng vào tù ra tội vì hoạt động chống thực dân, từng bị mật thám Pháp bám chặt, từng bị truy nã và bị dọa án tử hình, từng đọc Tuyên ngôn độc lập, từng đứng đầu chính phủ kháng chiến 9 năm thắng lợi bằng những từ ngữ của ông Chức dành cho súc vật”.

Trong bài “đáp lễ . . .” của Bùi Tín, đoạn viết số (1) ở trên, tôi nghĩ, nếu thay đổi chủ từ, hoán đổi nhân vật giữa Bùi Tín và Nguyễn Văn Chức sẽ hợp lý, hợp tình, hợp cảnh hơn nguyên tác. Giả dụ đoạn văn ấy được Nguyễn Văn Chức viết đối lại như dưới đây:

- Để bênh vực cho Hồ Chí Minh không phải là chó đẻ, ông Bùi Tín chửi bới, ngọa ngôn, mang cả bố vợ ông Nguyễn Văn Chức ngày xưa làm tài xế ra nói chỉ làm hạ thấp nhân cách ... chỉ phơi bầy sự bất lực thảm hại của chính ông. Người trí thức tự trọng không ai làm thế. . .

Khi đang viết bài này thì có một độc giả gọi đến, cũng phiền trách ông Nguyễn Văn Chức về hai chữ “Chó Đẻ”, nhưng không giống như Bùi Tín, ông ta phản đối Nguyễn Văn Chức là đã ca tụng Hồ Chí Minh bằng lý luận: Ở Mỹ này, Chó là loài vật được yêu quý, được xếp hàng trên đàn ông. Ai nuôi chó cũng công nhận rằng, con chó là một ‘thành-viên’, một “member” trong gia đình, nó được săn sóc chiều chuộng ngang như con cái. Con chó như người bạn trung thành, thân thiết, gần gũi, quấn quýt với chủ, con chó không cắn chủ, không phản chủ, không chê chủ nghèo, chó không cắn chết vợ, không bỏ con, và chó không ăn thịt chó, thịt đồng loại. Hồ chí Minh được “chó đẻ” ra là sai, sai vì như thế là ông Nguyễn Văn Chức đã xếp Hồ Chí Minh vào loài có những đức tính tốt, được mọi người yêu quý! Ông Nguyễn Văn Chức người miền Bắc mà không phân biệt được con Chó và con Má, con Má mới là loài chó hoang, chó dại, loài chó ngu, ăn bẩn và ăn cả thịt chó, thịt đồng loại. Người miền Bắc khi chửi một người ghê tởm đáng khinh bỉ họ chửi là “đồ chó má”. Nếu, theo như Bùi Tín: “ chửi Hồ Chí Minh là con chó ghẻ, là hồ cáo là tên Việt Gian ... chỉ làm hạ thấp nhân cách”. Thì, Vũ tôi cũng xin được hạ thấp nhân cách. Vũ sẽ chửi đúng hơn ông Nguyễn Văn Chức: “Hồ Chí Minh, đồ chó má”. Chỉ nội một việc, Hồ Chí Minh, chơi cho sướng “con chim”, rồi giết cả chị em thân thuộc cô Nông Thị Xuân để bịt miệng, Hồ cũng đáng bị chửi là “Đồ Chó Má”, Vũ chửi mà không thấy ngượng mồm! không sợ bị hạ thấp nhân cách. Có chăng, Bùi Tín, người vì được ân sủng một đời mà không còn lương tâm để phán xét, còn bênh vực cho Hồ mới bị hạ thấp nhân cách và cũng ngang hàng với “Đồ Chó Má”.

2- Bùi Tín Đào-tị , Đi Công Tác Dài Hạn, Quy-Hàng, Trá-Hàng hay Phản-Tỉnh ?

Cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài gần hai mươi năm, kết quả, người Quốc Gia ở miền Nam đã thua trận. Thua không phải vì tinh thần chiến đấu, thua không phải vì khả năng tác chiến mà thua vì chính trường quốc tế, vì đồng minh thay lòng đổi dạ, và thua vì người Quốc Gia có nhiều khuyết điểm, trong những khuyết điểm ấy, những khuyết điểm ảnh hưởng nặng nhất vào sự thất trận là:

- Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tổ chức theo khuôn mẫu của quân đội các nước văn minh, quân nhân các cấp có trình độ văn hóa và hiểu biết cao hơn, văn minh hơn Quân Đội Nhân Dân của Cộng Sản Bắc Việt, không phải là văn minh vật chất, vũ khí mà là văn minh về tri thức, nhân bản.

- Thể chế Dân chủ làm giảm tiềm năng chiến tranh so với thể chế độc tài, đảng trị của Cộng Sản Bắc Việt. Lãnh đạo và điều hành quốc gia, quân đội bằng luật pháp phân minh khó đạt được hiệu quả hơn bằng: tuyên truyền nhồi sọ một chiều, bằng bắn giết, thủ tiêu, cải tạo, nhà tù . . .

- Guồng máy Lãnh đạo chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đạo đức hơn guồng máy đảng và quân đội nhân dân Cộng Sản. Quý trọng nhân mạng hơn, kém tàn ác, kém mưu mô xảo quyệt hơn quân đội nhân dân và giới lãnh đạo của Cộng Sản. Miền Nam không biết dùng cứu cánh biện minh phương tiện nên không giết hại, khủng bố dân lành, không có thảm sát Tết Mậu Thân, không có thảm sát trên quốc lộ Kinh Hoàng, không có pháo kích bừa bãi vào đô thị, không có lùa dân đi trước để công đồn, không có chiến thuật biển người.

Nghịch lý thay! Những khuyết điểm ảnh hưởng đến sự thua trận của người miền Nam kể trên, lại là những điểm son, đáng được ca ngợi trong văn minh xã hội loài người ở thế kỷ thứ 21. Cộng Sản đã khai thác triệt để những khuyết điểm ấy nên miền Nam chịu thiệt thòi, bị vướng tay vướng chân trong cuộc chiến. Cũng chính những khuyết điểm ấy đã nuôi dưỡng Trịnh Công Sơn, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh, Huỳnh Tấn Mẫn, Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ vân ... vân. để họ đâm những nhát dao chí mạng sau lưng quân dân miền Nam.

Mặc dù bản tính của người Việt Quốc Gia là mềm lòng, dễ tha thứ, mau quên, nhưng bài học về sự gian trá, xảo quyệt của bộ máy cai trị và con người Cộng Sản trong cuộc chiến vừa qua vẫn còn đậm nét, nhất là những người Việt đã phải bỏ nước ra đi, nên Vũ tôi nghĩ rằng: cách đối xử hợp lý của người Việt hải ngoại với Bùi Tín là mở cửa đón ông, tiếp đón ông, nhưng với sự dè đặt, giữ khoảng cách với ông và phải có biện pháp đề phòng. Vũ tôi khuyên ông nên thông cảm, nhẫn nhục và chấp nhận sự hoài nghi đó, thái độï hung hăng, búa bổ như trong bài viết “Đáp Lễ . . .”, chỉ tạo thêm phẫn nộ với những người vốn đã nghi ngờ, khinh ghét ông. Cũng đừng lạc quan khi có những nhóm người ở hải ngoại, như bọn Việt Tân, họ muốn quay về xí-phần, nên họ trở cờ, họ ngả sang mầu hồng hồng. Vì chủ đích quay về, tiếp cận với Cộng Sản nên họ tung hô, xưng tụng ông là một người yêu nước, vì quốc dân mà đào-tị, bất đồng với Đảng, chống đối chính quyền Hà Nội. Giao tiếp thân thiện với bọn này chỉ mang họa đến cho ông.

Trong một bài nào đó trước đây, Vũ tôi đã viết rằng: “người ta săn con chim Trĩ thì dùng chim trĩ làm mồi, người săn hươu dùng con hươu làm mồi”. Bây giờ, dù cho ông có chửi cộng sản, có căm hận đảng, ngay cả nếu như ông bêu xấu ông Hồ, phanh phui những bí mật thâm cung của ông Hồ, câu hỏi phải được đặt ra là: Bùi Tín đang săn cái gì đây?

Không hiểu tại sao, Trước khi bắt đầu bài viết, Vũ tôi nghĩ đến hai câu thơ trong truyện Kiều lúc Từ Hải quyết định về hàng Triều đình:

Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra sao.

Vũ tôi mường tượng đến nét “Lơ láo” của Bùi Tín, dù rằng ông chỉ là loại hàng thần ý thức hệ. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, có nhiều hàng thần quy chính từ phía bên kia, được các minh quân trọng dụng vì tài giỏi và tư cách, sau làm nên sự nghiệp. Nhưng cũng có nhiều hàng thần vì tham sanh úy tử, hèn mọn, cố bôi bác cố chủ để lập công, lại bị các minh quân chém chết, chém để răn dạy quan tướng: -Người này là loài phản phúc, người này có cốt phản, phản được chủ cũ, bôi xấu chủ cũ thì sau này cũng sẽ phản được ta, cũng có ngày bôi xấu ta ...

Vũ lại liên tưởng đến hai câu luận ngữ về cương thường thời xưa:

Trung thần bất sự nhị quân
Tiết nữ bất giá nhị phu.

Và, Vũ loay hoay phản kháng với những ai có ý tưởng ‘xua đuổi’ ông:

Đánh kẻ chạy đi, ai nỡ xua đuổi người chạy lại.

Rồi thì, Vũ lại lục vấn chính Vũ: Có nên hoài nghi? Ông là người “chạy lại” hay là người “xâm nhập”?.

Đọc “Hoa Xuyên Tuyết”, đọc “Mây Mù Thế Kỷ”. Ông gián tiếp đề cao lòng yêu nước của ông bằng:“ . . Băn khoăn, lo lắng cho cuộc khủng hoảng về mọi mặt, dai dẳng đè nặng lên cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân, từ trẻ em, phụ nữ, người già, người nghỉ hưu, người tàn tật để các thương binh trong chiến tranh ở các phía . . .”

Ông mong: “. . . đất nước sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn, chậm tiến về chính trị, kinh tế và đời sống thoát khỏi hỗn loạn và bất công xã hội.. . .”.

Nhưng ông tránh né, không dám khẳng định, đào sâu tận gốc rễ cái nguyên nhân làm băng hoại xã hội, tàn phá đất nước, làm mất đất mất biển chính là cái chế độ Cộng Sản, và cái chủ nghĩa vô nhân đạo ‘Mác-Lê”. Ông vẫn viện dẫn loanh quanh để không phải chỉ thẳng mặt Hồ Chí Minh, kết án ông Hồ là tội đồ của dân tộc vì đã làm tôi tớ cho Cộng Sản Quốc Tế, đem cái chủ nghĩa ‘Mác-Lê”, đem cái chế độ tàn ác, vô nhân đạo Cộng Sản về áp đặt lên đất nước Việt Nam.

Đọc “Hoa Xuyên Tuyết”, đọc “Mây Mù Thế Kỷ”: Thấp thoáng thấy ông xỏ xiên tỏ thái độ khinh bỉ chính quyền, quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông khôn khéo đề cao Bùi Tín và cái Quân Đội (phản) Nhân Dân. (Khi nào có dịp, Vũ tôi sẽ luận vềø hai chữ “Nhân Dân”, Quân Đội Nhân Dân, Tòa Án Nhân Dân, chính phủ Nhân Dân, Nhật Báo Nhân Dân, . . . cái gì cũng nhân danh nhân dân, ăn cướp của dân cũng nhân danh nhân dân. Nhà Nước, Đảng Cộng Sản, Cán Bộ Cộng Sản, có cả Bùi Tín trong đó, đã, đang và vẫn tiếp tục Hiếp Dâm từ ngữ Nhân Dân)

Đọc “Hoa Xuyên Tuyết”, đọc “Mây Mù Thế Kỷ” người Việt tị nạn Cộng Sản, dù là người dễ tính nhất cũng phải dè dặt nghi vấn: - ông là người “chạy lại” , ông là người “xâm nhập” hay chỉ là một cán binh Cộng Sản chiêu hồi cứng đầu?

Gần đây nhất, Vũ tôi có được đọc bài “Hồ Chí Minh, Cuộc Tước Đoạt Lòng Yêu Nước”, ông dịch từ nguyên tác của J.F.Revel, bài viết rất chính xác, phơi trần sự thật, đạp đổ thần tượng và lòng yêu nước của Hồ Chí Minh. Tiếc rằng, gần 17 năm ông đào tị tại Pháp. Dư thừa vật chất, bánh mì, bơ, sữa, dư thừa cả tựï do, ông mới chỉ dám dịch mà chưa dám viết . . . nếu ông thực sự là người “chạy lại”, Vũ tôi tin rằng với hơn 40 tuổi đảng, leo lên đến đại tá quân đội Cộng Sản, ông có thể viết hay hơn J.F.Revel nhiều! Đụng đến “cấm địa” bác Hồ, ông phải ráo đầu cho nhẹ tội:

Lời người dịch: Một số bạn trong nước khuyên tôi không nên đụng đến ông Hồ, vì đó vẫn còn là thần tượng, là khu vực cấm, số đông trong nước còn chưa tỉnh. Tôi nghĩ khác.

Sự thật luôn cứng đầu và có sức thuyết phục. Sau khi nước ta vào WTO, sự công khai minh bạch trong sáng là nếp sống mới. Đã đến lúc không thể tiếp tục lừa dối nhân dân.

Phải nói lên sự thật, dù với ai đó, đó là những sự thật đau lòng, chua chát, cay đắng. Phục vụ đảng hay nhân dân? trung thành với đảng hay với nhân dân? Tôi đã lựa chọn, tôi đã dứt khoát chọn nhân dân, cho dù bộ máy công an và tư tưởng của đảng CS lại sẽ chụp mũ tôi là phản bội.

Tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả bài này J.F.Revel, một trí thức chân chính, đầy trí tuệ và nhân cách.

Vũ tôi đọc “Lời Người Dịch”, thấy thoải mái hơn đọc những bài viết của ông trước đây, mặc dù vẫn khó chịu với lối viết vòng vòng, không dám nói ngay, nói thẳng, vẫn sử dụng cách viết ngụy trang . . . chàng hảng, phẩy phẩy bác Hồ như phủi bụi, ông vẫn còn sợ, chưa dám nắm bóp bác Hồ. Vũ tôi là dân nhà banh chính hiệu con nai vàng, thích ăn ngay nói thẳng, khi lụi lưỡi lê là thẳng tắp, một phát xuyên từ trước ra sau, nên đọc xong “Lời Người Dịch”, Vũ tôi chỉ thở dài, than rằng: 17 năm đào tị, sống trên xứ sở tự do dân chủ, tiếp cận với người Quốc Gia, chỉ giúp Bùi Tín nhích được một vài phân trên đoạn đường từ “người Xâm Nhập” đến “người Chạy Lại”. Cũng vì ông nhập nhằng, khi xanh khi đỏ, thay đổi như da con tắc kè, lại còn có hơn 40 tuổi đảng với dầy đặc kinh nghiệm tráo trở, lưu manh của con người Cộng Sản, nên nhiều người không dám tin ông. Mong ông thông cảm cho, đừng trách những người “Đánh kẻ chạy đi, đánh luôn cả ông . . . chạy lại”.

Vũ tôi ngồi gõ ki-bo để nói chuyện với ông, lâu lâu ngừng tay, nhìn bức hình ông chụp mặc quân phục với quân hàm đại tá Quân Đội (phản) Nhân Dân. Nhìn để tìm những nét phá tướng trên gương mặt ông, cố tìm xem tướng nào là tướng của một gian thần, cái mắt hay cái miệng, hay cái mặt bành ra, mà người miền Bắc thường gọi là ‘mặt thớt’? Nét nào là nét lơ láo, của một hàng tướng? Và, nét nào là nét của một người tráo trở, hai mặt?..

Ngày bé Vũ tôi thường hay đùa giỡn với các bạn: “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại. Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn!”

Câu nói ấy ngẫm thấy đúng với ông, ông đúng là loại “quân tử khôn”, bởi vì ông biết nói đi và nói lại. Con Ong ghi lại một đoạn văn trong bài “Thư Gửi ông Bùi Tín” đăng trên Con Ong Việt năm 1999, đoạn văn ấy cóù ghi hai câu nói của ông: “nói đi” khi ông còn là phó tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân và “Nói Lại” khi ông là hàng tướng xin tị nạn tại Pháp:

- Năm 1976 ông đến thăm một trại tù cải tạo của quân cán chính VNCH, để rao giảng về âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ trong chính sách thực dân mới. Âm mưu thâm độcvà tàn nhẫn của Mỹ, Ngụy, chế độ ưu việt của xã hội chủ nghĩa v..v . . . . . Bỗng trong lúc bất ngờ nhất, . . . Trong lúc ông đang nói về nền kinh tế , và xã hội miền Nam trước khi “Quân Giải Phóng vào cứu”. Ông đập tay xuống bàn, chỉ xuống dưới tù nhân, tay ông xòe ra, quét một vòng cung từ trái sang phải, rồi từ phải sang trái. Ông gằn giọng: - Theo điều tra sơ bộ của chính quyền cách mạng, miền Nam có tới năm trăm ngàn gái điếm. Trong đó có vợ con các anh.

- Tháng 9 năm 1990, khi ông sang Pháp dự hội hàng năm của báo Nhân Đạo, ông quyết định ở lại xin tị nạn, khi được phỏng vấn về lý do ông xin ở lại tị nạn, ông trả lời:

. . . Những lý do tôi đào thoát là nhiều bất đồng với đảng và chính quyền Hà Nội. Một trong những bất đồng ấy là chính sách của nhà nước, là thái độ của họ đối xử với sĩ quan chế độ cũ . . .

Cuối cùng, Vũ tôi chưa tìm được nét cá biệt nào trên gương mặt ông là nét của một người gian hùng, tráo trở. Nhưng nhìn tướng mặt tổng quát, sự kết hợp giữa con mắt nho nhỏ hạt cau, cái mũi thẳng, bự, đầu mũi tròn và hơi quắp xuống, đi với cái miệng hàm trên vẩu ra, rộng, cặp môi dầy và gương mặt bành ra loại “mặt thớt”. Vũ tôi hình dung đến gương mặt của một đao phủ thủ. Có thể là tôi đã có định kiến bởi những câu chuyện giết người của ông. Ông mang quân hàm đại tá trong “Quân Đội (phản) Nhân Dân”ù, nhưng trong tiểu sử không ai thấy đề cập đến chiến trận, chiến công của ông. Nếu như ông là người của chiến trận thì, giết nhau ngoài chiến trường là chuyện bình thường, bởi vì mình không giết địch thì địch cũng giết mình. Nhưng, trường hợp của ông, không phải là giết nhau trên chiến trường mà là ... “giết người”, “Murder” . Trong những năm 1947-1948, ông là “Đại Đội trưởng, Đại Đội Địch Hậu Chính” là đại đội chuyên ám sát, bắt cóc và thủ tiêu dân lành và các thành phần đảng phái quốc gia thuộc 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Trong những người ông giết có cụ Võ Bào là cụ thân sinh ra cụ Võ Tư Đản hiện cư ngụ tại California, Hoa Kỳ.

Lời kết luận, rất chân tình cho Bùi Tín:

1. Vũ tôi thương ông, vì ông là con bài rác không cần thiết nữa trong một ván bài Đảng và Nhà Nước Cộng Sản đã sắp.

Năm 1990, khi dàn dựng cho ông ra nước ngoài, Nhà Nước Cộng Sản đã đánh giá thấp trình độ nhận thức của người Việt tị nạn ở hải ngoại, và đánh giá ông cao hơn trình độ và khả năng hiện hữu của ông. So với trí thức miền Nam, ông được xếp hạng i tờ, chỉ học được những mánh lới ngoài đời để leo từ “Thằng” lên đến “Ông”. Ông chỉ là con lừa, con ngựa, bị bịt mắt đi theo cái dây cương là cái chủ thuyết đã lỗi thời Mác-Lê và cái roi của đảng. Họ nghĩ rằng, trong thời gian vài năm ông sẽ xâm nhập và sẽ thành lãnh tụ của khối người Việt ở hải ngoại. Bây giờ họ thất vọng. Ôâng còn thua cả loại điệp viên nằm vùng trước năm 1975 ở miền Nam như Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ.

Sau ông, Đảng và Nhà Nước vẫn còn tiếp tục binh những ván bài dở ẹc, “mậu đầu, mậu nhĩ, cù-lũ-nhí” như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Chính Kết. Đảng và Nhà Nước ơi! úp bài đi, không ăn ai được đâu!

Tội nghiệp ông! không làm được “người xâm nhập” thì xin được làm “người chạy lại”. Mong bà con cô bác người Việt tị nạn Cộng Sản đừng nỡ xua đuổi “người chạy lại”.

2. Vũ tôi thương ông, bây giờ ông phải hứng chịu cả hai lằn đạn.

Phía chính quyền Cộng Sản trong nước, nguyền rủa ông như một kẻ phản bội.

Phía người Việt Quốc Gia, đa số không tin ông thực sự phản tỉnh, họ nghĩ rằng: ông chỉ có mục đích chống đối những người đang cầm quyền trong nước để trả thù việc ông bị thất sủng, ông chống đường lối của Cộng Sản nhưng không chống con người Cộng Sản, ông vẫn là người Cộng Sản, vẫn tôn thờ chủ nghĩa Mác Lê và vẫn đội trên đầu Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp.

Những người "Quốc Gia cực đoan" thì phê phán mạ lị ông vì cho là ông “Nằm Vùng”, ông đang thi hành khổ nhục kế, tận dụng khả năng viết (và lách) để vào sâu, bám chặt, để giải độc, bôi xoá lằn ranh Quốc Cộng trong sinh hoạt chính trị của người Việt ở hải ngoại.

3. Vũ tôi thương ông vì, ở cái tuổi cổ lai hy, gần đất xa trời mà ông phải “bước thêm bước nữa”. Ông như người đàn bà sống với chồng đến gần cuối đời, con cái đầy đàn mới khám phá ra mình đã sống với một thằng ăn cướp giết người. Cái can đảm đáng khen của người đàn bà ấy, cũng như cái can đảm của ông là đã bỏ đi. Muốn rũ bỏ bụi trần, mà đời vẫn vướng bụi hồng trần! Người đàn bà ấy, giống như ông đã ‘bước thêm bước nữa’, tái giá ở cái tuổi 60, 70 khi xuân sắc không còn, gượng gạo sống với người chồng mới, dù có bào chữa, có cố sức chăm lo gia đình, hiền thục đến đâu đi nữa, cũng vẫn mang tiếng thị phi, cũng chịu tiếng đời: “Bà ấy hai đời chồng . . . chồng cũ của bà ấy là thằng giết người, là kẻ cướp . . .” .

Vũ Lâm


Thursday, December 18, 2008

Đọc thư minh oan của ông Bùi Tín - Đỗ Văn Phúc


Đỗ Văn Phúc

Vừa qua, ông cựu đại tá CS Bùi Tín lại tung ra lá thư đề ngày 26-11-2008 để phân trần, minh oan về việc cụ Võ Tử Đản tố cáo ông Tín đã hạ sát thân sinh ông Đản là cụ Võ Bào một cách man rợ tại Triệu Phong, Quảng Trị cách đây hơn 60 năm.

Thư ông Tín viết rành mạch có 5 điểm. Từ điểm một minh xác về tên tuổi ông ta là Bùi Thành Tín (bí danh Lê Hoà) thay vì Bùi Bằng Tín như ông Đản đã nêu ra. Điều hai về các địa danh Quảng Ngãi mà ông Tín chưa hề đi qua, nhưng ông Đản đã gắn vào miệng ông Tín: ”Tao từ QuảngNgãi ra tìm mày.”

Hai điều trên thì người viết không dám có ý kiến, vì không nắm rõ thực hư mà cũng không dám phỏng đoán, suy luận.

Duy có hai điều 3 và 4 thì lập luận của ông Bùi Tín chỉ có thể thuyết phục được những người ít hiểu biết về Cộng Sản, nhất là về phương diện quân sự.

Chúng tôi, những người lính từng đối đầu với Cộng quân trong thời chiến tranh chống xâm lược CS Việt Nam, chúng tôi đã từng lầm lẫn và học được rất nhiều điều về tổ chức (phiên chế) của quân Việt Cộng lẫn Bắc quân.

Một thí dụ cụ thể: Đơn vị chúng tôi trấn nhậm khu miền Đông Nam phần, nơi có nhiều đơn vị VC cấp Trung Đoàn, Tiểu Đoàn tuy còn tên nhưng không còn đủ lực. Một lần, khi đơn vị chúng tôi phát giác được các khẩu bích kích pháo (mortar) nòng 82 li tại trận địa, các sĩ quan ban 2 liền cho rằng có đơn vị Cộng quân cấp tiểu đoàn đang hoạt động trong vùng. Vì theo cấp số của Quân Lực VNCH, chỉ có cấp tiểu đoàn mới được trang bị súng cối 81 li. (mà bên phe CS thì xài nòng 82 li). Do đó, chúng tôi đã nhiều lần phí phạm trong việc tổ chức cấp tiểu đoàn để truy lùng; trong khi lực lượng địch chỉ có hai người: một ôm nòng súng, một mang đạn. Và họ hoạt động kiểu du kích giờ này ở đây, giờ sau đã ở cách 5, 10 cây số. Điều này cũng xảy ra khi trên bản đồ trận liệt, ban 2 ghi rằng Trung đoàn Phú Lợi đang hoạt động tại khu vực X, Tiểu đoàn Đồng Nai xuất hiện ở khu vực Y. Và cấp trên đã bắt chúng tôi hành quân cấp đại đội để tìm địch. Chúng tôi đã thắc mắc về tương quan lực lượng bất cân xứng; và được ban 2 giải thích rằng “thực ra quân số của cái gọi là trung đoàn chỉ có vài chục tên. Họ chỉ còn danh xưng mà không có thực lực.”

Vì vậy trong điểm 3, ông Bùi tín lý luận rằng “Một đại đội trưởng chính quy sao lại dẫn 6 anh tự vệ đi ám sát” không đánh lừa được chúng tôi. Quân đội CS các anh những năm đó còn rất thô sơ và mang tính du kích, chưa hề có một chút chính quy hoá với đầy đủ quân số trang bị. Ngay cả hang chục năm sau, những thập niên 60, các anh vẫn chưa hoàn chỉnh kia mà. Vì thế, ông Đại đội trưởng Bùi Tín của năm 1947 có dẫn 3, 4, 5, hay sáu anh du kích thì cũng là điều dễ hiểu.

Điểm 4, ông Bùi Tín viết “Sao lại ám sát kiểu sân khấu vậy: ‘mấy tay tự vệ mỗi người đâm 5 nhát dao, rồi họ chắt xuống 5 lưỡi kiếm, rồi Bùi Tín lên cò khẩu Sten, bắn 5 phát vào người, rồi sau đó bắn một loạt rồi bỏ đi.’ Ám sát kiểu gì mà kỳ vậy?”. Điểm này thiếu trung thực, vì trong thư của ông Võ Tử Đản viết "Thoạt đầu hai tên tự vệ chém ông thân tôi hai nhát vào mặt làm toạc sống mũi. Hai tên kế tiếp chém vào cổ, ông thân tôi liền ngã sập xuống, hai tên còn lại chém vào lưng. Xong đâu đó, chính Bùi Tín đã dùng báng súng Sten đánh vào người ông thân tôi năm cái rồi đá ông thân tôi xuống bờ sông. Trước khi ra đi, Bùi Tín bắn 5 phát thị oai và dẫn toán tự vệ vào xóm trong để bắt ông Lê Ngô.”

Kiểu giết người vì thù hận, đầy thú tính của Cộng Sản như ông Võ Tử Đản kể lại thì chẳng lạ gì ngay trong thời chiến tranh Việt Nam, mỗi khi cộng quân bắt được các quân nhân VNCH, và ngay cả với thường dân mà chúng cần thị uy. Những cách giết người dân vô tội ở Huế trong Tết Mậu Thân là những bằng chứng hùng hồn nhất về sự man rợ của Cộng Sản cho những ai còn nghi ngờ điều mà ông Đản viết ra.

Giữa hai người đối chất nhau, thì chúng tôi, người Việt quốc gia sẽ phải tin người không Cộng Sản hơn. Không phải vì phủ binh phủ, huyện binh huyện; cũng không phải vì người chống cộng không có những điều dối trá. Chúng tôi cũng có người xấu, rất xấu; dối trá, rất dối trá. Nhưng rõ ràng như một với một là hai rằng nguời Cộng sản dối trá từ bản chất; dối trá từ cấp lãnh tụ cho đến cấp thừa hành; dối trá từ Nga cho đến Tàu, cho đến Việt; dối từ thời Lê Nin cho đến thời Nông Đức Mạnh. Bác sĩ Fred Schwarz trong quyển "You Can Trust The Communist" viết: "Cộng sản chủ nghĩa quả thực vô địch về những hành động anh em trong nhà giết lẫn nhau, về những hành động sát nhân, diệt chủng. Lòng coi thường tính mạng cá nhân của cộng sản thật là vô giới hạn. Dù người bị hy sinh là bạn hay là thù đối với cộng sản, cũng chẳng thành vấn đề". Ai tin người Cộng Sản thì chỉ từ chết tới bị thương, thân tàn ma dại mà thôi.

Vậy thì giữa hai ông Võ Tử Đản và Bùi Tín, chắc chắn chúng tôi tin ông Đản hơn. Lý do đơn giản là vì ông Bùi Tín là một đảng viên CS cao cấp, có hàng chục năm tuổi đảng, là con một vị Thượng Thư nhà Nguyễn – mà CS coi là thành phần phản động nhất - lại leo đến cấp đại tá, giữ trọng trách Tổng biên tập báo đảng là vai trò mà chỉ có đảng viên thuần thành, đáng tin cậy nhất. Trong khi ngược lại, ông Đản là người không Cộng Sản, chắc ông có một tín ngưỡng và hấp thụ văn hoá nhân bản của dân tộc Việt Nam. Dù ông Đản là người Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, hay ngay cả nếu ông không theo đạo nào, thì văn hoá đạo đức nhân bản của chúng ta coi việc vu khống người khác là một tội ác không thể tha thứ. Nhất là vu khống người khác trọng tội giết người một cách man rợ.

Ông Bùi Tín, có thể vì bị giáo dục của đảng CS mà căm thù các giai cấp khác để đi đến việc giết người man rợ - như từng xảy ra thời cải cách ruộng đất (1953-1956) Cha mẹ họ mà họ còn giết được nữa là người dưng? và sau này liên tiếp diễn ra tại miền Nam, thậm chí sau 30-4-1975 đối với thành phần đối kháng. Ông Đản thì không có lý do gì thù hằn ông Tín để vu khống một tội tày đình như trên.

Cứ tạm cho rằng ông Võ Tử Đản bị tâm thần mà nẩy sinh ra trí tưởng tuợng phong phú để lên án ông Bùi Tín; thì cũng chẳng thể nào còn kéo thêm vài ba người “tâm thần” khác vào làm chứng nhân, như ông Võ Di (là người theo lệnh ông Bùi Tín đã dẫn Tín đến bắt ông Võ Bào) và ông Trần Cận (là người du kích trong toán của ông Bùi Tín năm xưa).

Ông Võ Tử Đản năm nay 73 tuổi, vào lứa tuổi ôn cố tri tân, có thì giờ ngồi quay lại các khúc phim trong đời mình. Và cũng là tuổi mà người ta dễ tha thứ hơn cáo buộc. Nhưng thù cha là hệ trọng. Con cái mà không trả được thù cha thì thật bất hiếu. Vì hoàn cảnh mà nhiều người Việt Nam đã phải ôm mối hận cho đến cuối đời – trong đó có bản thân người viết. Vì thế, dù không hề biết ông Võ Tử Đản là ai, tôi cũng dám tin rằng điều ông Đản viết ra là sự thật.

Thưa ông Bùi Tín,

Vì ông không có tín ngưỡng, nên chúng tôi cũng khó nói với ông về những tín niệm đạo đức tâm linh. Nhưng ông nên hiểu rằng, không có gì che lấp dưới ảnh sáng mặt trời. Con người không phải ai cũng trong sáng, vô tội. Trước pháp luật huyền diệu của Thượng Đế, chỉ bị phán xét khi có tội mà vẫn không thức tỉnh sám hối. Giờ đây, chưa ai có khả năng và chưa có phiên toà nào bắt các đao phủ Tết Mậu Thân, Cải cách Ruộng Đất ra đền tội. Nhưng toà án lương tâm trong họ sẽ phán xét quyết liệt vào phút lâm chung của họ, khi mà linh hồn họ sắp sửa rời cái thể xác ngập ngụa tội lỗi để về một miền khác trong đó sự bình an hay đọa đày đang đón chờ họ.

Đỗ Văn Phúc
Austin Dec. 18, 2008


Tuesday, December 16, 2008

HT Thích Thiện Hạnh trao 9 điểm thỉnh nguyện và nói với PÐS Hoa Kỳ: VN chưa hề có nhân quyền và tự do tôn giáo


PARIS, ngày 16.12.2008 (PTTPGQT) - Hôm nay Viện Hóa Đạo vừa chuyển đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bản Tường trình về cuộc gặp gỡ tại chùa Báo Quốc, Huế, giữa Bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh và Thượng tọa Thích Chí Thắng. Hòa thượng Thích Thiện Hạnh là Chánh Thư ký Viện Tăng thống, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tỉnh Thừa Thiên - Hưế ; Thượng tọa Thích Chí Thắng là Phó Đại diện GHPGVNTN Thừa Thiên - Huế kiêm Đặc ủy Thanh Niên.

Cùng đi với Bà Virginia E. Palmer, Phó Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Phái đoàn còn có ông Christian Marchant, Tham tán Chính trị tòa Đại sứ và một thông dịch viên.

Cuộc hội kiến kéo dài từ 15 giờ đến 16 giờ 30 ngày 10.12.2008. Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội đã lấy hẹn từ hôm 6.12, và được Phòng Hợp tác quốc tế sở Ngoại vụ Thừa thiên - Huế của nhà cầm quyền Cộng sản xác nhận hôm 9.12.

Theo bản Tường trình của Hòa thượng Thích Thiện Hạnh cho biết, thì Phái đoàn Hoa Kỳ đã đặt những câu hỏi thiết cốt nhằm tìm hiểu hiện trạng của GHPGVNTN cũng như lưu tâm đến tình trạng sức khỏe và tự do đi lại của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Sau đây là những câu hỏi đáp tiêu biểu :

Bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ: Xin quý Thầy cho biết hiện nay chính quyền Việt Nam có gây những khó khăn gì cho GHPGVNTN ? Và thời gian qua, có ghi nhận được những thành quả nào mới mẻ ?

Hòa thượng Thích Thiện Hạnh: Câu hỏi này, không phải lần đầu tiên Bà Phó Đại Sứ đặt ra cho chúng tôi. Mà trước đây trong nhiều năm, rất nhiều cơ quan đoàn thể nhân quyền, tôn giáo, chính trị, ngoại giao đã từng đặt ra. Nhất là Toà Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã nêu lên với chúng tôi và đã được chúng tôi trình bày cặn kẽ nhiều lần.

Hôm nay chúng tôi xin được tóm tắt cùng Bà Phó Đại Sứ rằng, GHPGVNTN chúng tôi đang bị chính quyền Cộng sản Việt Nam tước đoạt hết mọi đất đai tài sản, pháp lý sinh hoạt, các cơ sở Tôn giáo vật thể, phi vật thể, văn hoá, giáo dục, trung học, đại học, từ thiện, y tế... Tất cả đã bị đoạt hết từ sau năm 1975, kể cả quyền được làm người ! Chúng tôi đã bày tỏ nỗi bất bình của chúng tôi với chính quyền Việt Nam, với các quốc gia yêu chuộng hoà bình tự do, dân chủ nhân quyền trên thế giới. Chúng tôi cũng đã được chính phủ Hoa Kỳ và nhiều chính phủ khác quan tâm can thiệp.

Nhưng, kết quả mong muốn, cho đến hôm nay, 10.12.2008, ngày kỷ niệm 60 năm bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế, vẫn còn là một con số không to tướng, chưa thấy một tia sáng nào, dù chỉ là le lói, ở cuối đường hầm Chủ Nghĩa Xã Hội hiện nay. Công ước quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc, công bố năm 1966, đến nay đúng 42 năm ; Việt Nam kí kết công ước này năm 1982 và bội ước đã 26 năm qua.

Hoa Kỳ bang giao toàn phần với Việt Nam đã trên một thập niên. Nhưng hình như Hoa kỳ chưa có quyết tâm đủ mạnh, để thúc đẩy lãnh đạo nhà nước Việt Nam chịu quan tâm giúp nhân dân Việt Nam có được Quyền sống và Quyền làm người mà họ đã ký kết với quốc tế.

Bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ: Xin quý thầy cho biết vì sao quý thầy không đăng ký để xin cho GHPGVNTN hoạt động ?

HT. Thích Thiện Hạnh: GHPGVNTN không phải là tổ chức chính trị, mà là một tổ chức Tôn giáo, có giá trị tinh thần và thiêng liêng, tồn tại khách quan, có mặt giữa thế gian vì sự an lạc của sinh dân. Không lệ thuộc bất cứ một thể chế chính trị nào, nên không chịu chung số phận còn mất của các thể chế chính trị thế tục. Kinh nghiệm hơn 2000 năm lịch sử truyền thừa Phật giáo Việt Nam và thế giới, đã cho thấy như thế.

Cho nên sau ngày 30/4/1975, GHPGVNTN vẫn đã tồn tại và sinh hoạt bình thường cho đến năm 1981, và không hề bị giải thể bởi bất cứ văn kiện nào của bất cứ chế độ chính trị nào, trong đó có chế độ Cộng sản Việt Nam. Cho đến nay cũng vậy, chúng tôi chưa hề bị giải thể. Vì lý do đó mà chúng tôi không xin đăng ký sinh hoạt.

Cũng như đất đai và tài sản của Tôn giáo, của nhân dân là do tổ tiên, thầy tổ của họ để lại, gọi là “của hương hỏa”, để lo nhang khói cho ông bà tổ tiên, để làm nơi thờ phụng, xây dựng cơ sở Tôn giáo trang nghiêm làm nơi khách tham quan du lịch, cho nhà nước thu lợi. Sau 1975, Cộng sản vào, chiếm đoạt của họ làm của riêng một cách bất hợp pháp, thì nay, nếu biết tàm quý (1) thì phải trả lại cho các tôn giáo, cho nhân dân ; mắc gì phải xin, phải đăng ký xin ? Không trả lại thì đấu tranh đòi lại, thế hệ này chưa được thì thế hệ mai sau, 5 năm, 10 năm, 50 năm, ngàn năm... người này chết, người khác thay. “Tài phi nghĩa bất thủ” chứ !

Bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ: Chúng tôi đề nghị quý thầy cứ xin thử xem ?

HT. Thích Thiện Hạnh: Xin lỗi quý vị, “xin thiệt” chúng tôi còn không xin huống là “xin thử”. Của cải vật thể và phi vật thể của tôn giáo, của nhân dân mà chính quyền chiếm đoạt tịch thu bất hợp pháp, thì chính quyền phải trả lại. Mắc gì phải xin thử ? ! Xin mà họ không cho thì tính sao ? Còn gì tủi nhục hơn ! Một số nhỏ Phật tử cũng từng đề nghị như thế, nhưng Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời rằng: “Xin mà người ta không cho thì thầy trò mình mất luôn cả chì lẫn chài”.

Trở lại câu hỏi trước đây, thì thưa bà Phó Đại sứ, nhằm thể hiện tinh thần hợp tác xây dựng đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn; sau khi đất nước thống nhất hai miền Nam Bắc, cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN, đã trực tiếp đến gặp ông Nguyễn Văn Hiếu, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

Hòa thượng đề nghị thống nhất Phật giáo cả nước, thì ông Bộ trưởng trả lời Hòa Thượng chúng tôi rằng: “Thống nhất thì tốt, nhưng thống nhất các tổ chức Phật giáo Yêu nước chứ Thống nhất làm gì với Phật giáo phản động ?” Hòa Thượng chúng tôi hỏi: “Phật giáo phản động là Phật giáo nào ?” ông Nguyễn Văn Hiếu không trả lời.

Nhưng đến năm 1981 thì Nhà nước lại lợi dụng vài ba cá nhân thành viên cao cấp của Giáo hội chúng tôi đứng ra vận động Thống nhất Phật giáo dưới sự chỉ đạo của Bộ chính trị đảng Cộng sản, Bộ nội vụ và Ban tôn giáo chính phủ. Rồi cuối năm 1981 họp đại hội tại Hà nội để thành lập “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” của nhà nước hiện nay, mà người dân thường gọi là Giáo Hội Quốc Doanh.

Mặc dầu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chúng tôi không tham gia vào Đại hội này, nhưng trong Hội trường của Đại hội vẫn có tên các thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tham dự, không biết họ từ đâu ra ? Hiển nhiên họ là những cá nhân bị Đảng và Nhà nước tiếm dụng và tiếm danh Giáo hội chúng tôi.

Hội Đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng Thống, Viện Hóa Đạo) Giáo hội chúng tôi cực lực phản đối việc làm độc đoán, sai nguyên tắc xen vào nội bộ Giáo Hội chúng tôi. Kết quả, Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, bị bắt và đưa về quản thúc lưu đày tại Quảng Ngãi và Thái Bình. Một số thành viên khác trong Hội Đồng Viện Hóa Đạo thì vượt biên tỵ nạn. Thế là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đánh phá tan tành.

Mười năm sau, vào năm 1992, cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống, viên tịch, Hòa thượng Thích Huyền Quang từ nơi quản chế tại Quảng Ngãi về chùa Linh Mụ quỳ nhận lãnh Di chúc và dấu ấn Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống, lãnh đạo và phục hoạt GHPGVNTN trước giác linh Ngài. Và từ đó Giáo Hội chúng tôi liên tục bị đàn áp và đánh phá cho đến tận hôm nay.

Bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ: Giáo hội quý vị có bị chiếm dụng đất đai tài sản gì không ?

HT. Thích Thiện Hạnh: Có chứ, mà có nhiều lắm ! Khắp nơi trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau: Một hệ thống cơ sở giáo dục Bồ đề từ cấp tiểu học đến đại học Phật giáo Vạn Hạnh. Một hệ thống cơ sở văn hoá Phật giáo. Một hệ thống cơ sở Từ thiện, Cô nhi, Ký nhi, Dưỡng lão. Một hệ thống cơ sở y tế, trạm xá, Tuệ tĩnh đường. Một hệ thống cơ sở tổ chức sinh hoạt Tôn giáo... Từ sau năm 1975, tất cả các hệ thống cơ sở vật chất mang tính Phật giáo trên đây của Giáo hội chúng tôi đều bị nhà nước chiếm dụng phi pháp.

Nhất là hai cơ sở lớn tại Sài Gòn là: khu đất Việt Nam Quốc Tự toạ lạc tại số 16 đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2) thuộc quận 10 Sài Gòn và khu đất Trung Tâm Văn Hoá Quảng Đức, toạ lạc tại số 294 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 8 quận 3 Sài Gòn. Hai cơ sở mà GHPGVNTN đang đòi lại nhưng Nhà nước chưa chịu trả.

Bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ: Theo quý Thầy, bằng cách nào hiệu quả để chúng tôi có thể giúp quý thầy và GHPGVNTN ?

HT. Thích Thiện Hạnh: Trước khi trả lời, xin quý vị cho chúng tôi biết có bao nhiêu Hội Thánh Giáo hội Tin Lành tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ ? Bà Phó Đại sứ cười và trả lời “Có hàng trăm”. Vậy thì theo ý của riêng tôi, ở Việt Nam có được thêm một Giáo hội, là GHPGVNTN, sinh hoạt song song với Giáo hội của nhà nước thì có sao đâu ?

GHPGVNTN có làm gì vi phạm luật lệ nhà nước đâu, mà hễ cứ mở miệng là Nhà nước vu cáo chúng tôi đủ thứ, nào là phản động, nào là chống phá nhà nước, lật đổ chính quyền, bắt tay với các thế lực thù địch chống phá cách mạng ..v.v…

Lại nữa, chúng tôi thấy rằng, Hoa Kỳ chưa có quyết tâm đủ mạnh, thông qua các hiệp ước bang giao quốc tế, để ràng buộc Việt Nam phải thi hành nghĩa vụ quốc tế, tuân thủ nghiêm chỉnh các Công ước quốc tế về dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết ; thì tất nhiên, nhân dân Việt Nam, các Tôn giáo tại Việt Nam chưa được thừa hưởng các Quyền làm người cơ bản. Do chính quyền Việt Nam không tuân thủ các công ước và nghĩa vụ quốc tế mà nhân dân Việt Nam mới khốn khổ như ngày nay, khiến quý vị cứ phải mất công tìm hiểu.

Sau một giờ rưởi đồng hồ gặp gỡ trao đổi, trước khi chia tay Hòa thượng Thích Thiện Hạnh đã trao bà Phó Đại sứ Hoa Kỳ bản tóm gọn về tình hình của GHPGVNTN ngày nay. Nguyên văn như sau:

Bản ghi nhớ về hiện tình Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Bao nhiêu lần rồi, quí vị đã quan tâm đến vấn đề tự do tôn giáo ở Việt nam nói chung và GHPGVNTN nói riêng. Chúng tôi bày tỏ lòng tri ân về mối quan tâm của quí vị ở Toà Đại sứ quán Hà Nội và Tổng lãnh sự quán ở Sài Gòn. Nhưng sự quan tâm của quí vị trong thời gian qua, chúng tôi thấy không đủ quyết tâm và chưa đủ mạnh cần thiết để phía Việt nam đáp ứng tích cực nghiêm chỉnh nhằm cải thiện vấn đề tôn giáo ở Việt nam.

Việt nam Cộng sản chưa bao giờ thật lòng với chính nhân dân Việt nam, mà còn với cả chỉnh phủ Mỹ, và quí vị nữa. Họ chỉ làm vừa lòng và hứa hẹn qua loa mỗi khi phải đối diện với quí vị, rồi sau đó đâu lại vào đó. Họ chỉ nói mà không bao giờ làm.

Cho nên ở Việt nam có một câu nói: “Đừng bao giờ nghe Cộng sản nói, hãy nhìn những gì Cộng sản làm.” Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, cũng từng nói “Cộng sản “nói hay” đến độ rắn trong hang cũng phải bò ra !” Thực tế cho thấy điều đó đã diễn ra từ bao lâu nay nhằm đánh lừa toàn thế giới, mà người dân Việt nam ai cũng thấy. Cho nên tình trạng tôn giáo bị bách hại, nhân quyền, dân chủ bị chà đạp, tự do ngôn luận bị bóp miệng.

Các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nhân sĩ vận động ôn hoà cho tự do tôn giáo, cho dân chủ nhân quyền tại Việt nam, các nhà văn, nhà báo đấu tranh bài trừ tham nhũng... tiếp tục bị giam giữ, tù tội, ra toà, lãnh án, một cách hết sức tuỳ tiện, phi lí... Đó là việc diễn ra hằng ngày, bất chấp dư luận phê phán, Nhà nước Việt Nam chỉ âm mưu sao cho có nhiều tài trợ, viện trợ.

Sách lược mà Nhà nước Cộng sản Việt Nam đang sử dụng để đàn áp, bách hại tôn giáo hiện nay là :

- Đối với các Tăng Ni tham gia sinh hoạt GHPGVNTN: Công an mời đến đồn, khuyên dụ đầu hàng, hứa hẹn giúp đỡ chùa. Không được thì cho Công an gác trước cổng chùa, ai đến ghi số xe, khi về soát xét xách tay và doạ dẫm, vu cáo chùa phản động, lần sau không đựơc đến, không tuân sẽ bị xử lý. Ngoài ra các chùa còn bị làm khó dễ đủ các loại giấy tờ hành chánh, hộ khẩu, chúng điệu (2) học hành thi cử phải xuất trình liên tục giấy tạm trú tạm vắng...

- Đối với tín đồ Phật giáo: Công an mời đến đồn hay đến nhà hăm doạ, khủng bố, cấm không được đến chùa, khủng bố công việc làm ăn sinh nhai, con cái học hành thi cử, sinh kế tương lai.

- Đối với tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam: Khủng bố các cấp Huynh trưởng không thành công, nay Công an đang mở chiến dịch “vì an ninh tổ quốc” cấm đoàn sinh không được sinh hoạt theo GHPGVNTN, ai không nghe sẽ bị xử lý.

- Luật pháp Việt nam tùy tiện đặt ra để bắt buộc nhân dân tuân thủ, hà hiếp nhân dân. Việc thi hành luật pháp từ trung ương đến địa phương không nhất quán, nơi nầy một đàng, nơi khác một ngã.

- Bão lũ dân khốn khó, GHPGVNTN đi cứu trợ, Công an làm khó dễ, ngăn chận không cho đến cấp phát phẩm vật cho nạn nhân, buộc phải nạp cho Mặt trận Tổ quốc.

- GHPGVNTN bị cướp đoạt hết tài sản đất đai, giam giữ, quản thúc lãnh đạo, tước đoạt pháp lý sinh hoạt và quyền tự chủ tôn giáo của một dân tộc đã có hơn 2000 năm lịch sử truyền thừa Phật giáo.

- Cộng sản Việt Nam đưa các tôn giáo vào dưới quyền kiểm soát của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc. Quy chế đối với Phật giáo khắt khe nghiệt ngã hơn cả Dụ số 10 trong thời thuộc địa phong kiến.

- Cộng sản Việt Nam là kẻ phản quốc vì để mất hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào tay Trung Cộng.

Từ những sự kiện bức xúc trên đây, chúng tôi xin được đạo đạt đến quí Phái đoàn Đại sứ quán Hoa Kỳ chín ý kiến sau:

1. Chúng tôi không chống phá ai hết, cũng không tranh giành quyền lợi của ai. Chúng tôi đấu tranh ôn hoà, muốn Nhà nước Cộng sản Việt Nam trả lại tài sản, pháp lý sinh hoạt bình thường, và nhất là quyền tự chủ của chính tôn giáo chúng tôi.

2. Tại Vịêt nam, cho đến hôm nay là ngày 10/12/2008, chúng tôi xác nhận dưới chế độ Cộng sản tại Việt nam, nhân dân chưa hề có tự do tôn giáo thực sự, nhân quyền chưa hề được cải thiện. Tất cả mọi lời rêu rao của Cộng sản Việt Nam về vấn đề tự do tôn giáo đều là những lời tuyên truyền lừa bịp hòng đánh lừa dư luận thế giới.

3. Chúng tôi, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng như các tôn giáo bạn, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài giáo, Thiên Chúa Giáo Việt Nam, Hội Thánh Tin Lành Cao Nguyên, v.v... đang là nạn nhân của đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đàn áp, khủng bố, sách nhiễu tín đồ hành đạo, vu khống, lăng nhục hạ uy tín các vị lãnh đạo tôn giáo trên mọi phương tiện truyền thông đại chúng, trong các buổi họp dân... không chừa bất cứ một thủ đoạn thấp hèn, đen tối nào !

4. Chúng tôi cương quyết vận động ôn hoà cho tự do tôn giáo, cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam không ngừng nghỉ, cho đến khi nào đạt được kết quả mong muốn. Dù có phải hy sinh thân mạng.

5. Xin đề nghị quí vị nên có biện pháp chế tài, nếu Việt Nam không thi hành các công ước Quốc tế về tôn giáo, về nhân quyền, về thương mại mà Việt Nam đã kí kết tham gia.

6. Yêu cầu Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, là danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo. Ngoài ra, buộc Việt Nam phải nhanh chóng thay đổi cụ thể và thực tế trên các lĩnh vực tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền thực sự, trước khi đặt bút ký các hiệp ước hợp tác với Việt Nam.

7. Trả tự do cho tất cả các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nhà dân chủ, đấu tranh ôn hoà đòi tự do tôn giáo, tự do dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, hiện đang bị giam giữ, đang chịu án tù, cũng như xử lý công minh cho 8 giáo dân thuộc Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội, vì đòi hỏi đất đai thờ phượng của tôn giáo.

8. Buộc Việt Nam phải có công văn cụ thể, thông báo các tôn giáo tại Việt Nam được tự do sinh hoạt theo đạo giáo của mình mà không bị ràng buộc, kiểm soát hay bất cứ ngăn cấm nào.

9. Riêng trường hợp GHPGVNTN chúng tôi xin gửi đến quí vị bản lập trường 4 điểm của Viện Hóa Đạo đề xuất và theo đuổi từ gần 30 năm qua, để xin quí vị quan tâm giúp đỡ:

Thứ nhất: Nhà nước CHXHCNVN phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN.

Thứ hai: Hoàn trả lại GHPGVNTN toàn bộ đất đai tài sản, các cơ sở Chùa viện, Văn hoá, Giáo dục, Từ thiện, Viện Đại học... mà nhà nước CHXHCNVN đã chiếm dụng của GHPGVNTN sau năm 1975. Bước đầu là giao trả hai cơ sở: Việt Nam Quốc Tự và Trung tâm Văn hoá Quảng Đức tại Sài Gòn.

Thứ ba: Đưa “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, mà Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCNVN thiết lập năm 1981, ra khỏi Mặt trận Tổ quốc, một cơ quan ngoại vi của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ tư: Làm sáng tỏ cái chết của Hoà Thượng Thích Thiện Minh, Cố vấn Chỉ đạo của Viện Hóa Đạo, tại trại giam Hàm Tân thuộc tỉnh Bình Thuận năm 1978.

PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
-----------------------------------------------------

Chú thích của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế:

(1) Tàm quý: thuật ngữ Phật giáo là hổ và thẹn. Tàm là khi mình phạm tội dù không ai biết lòng vẫn cảm thấy hổ thẹn. Qúy là cảm thấy hổ thẹn khi bày tỏ lỗi mình với người khác.

(2) Chúng điệu là những học tăng khi mới vào chùa.


Thiếu Tử Tế Hay Quá Tử Tế - Tiểu Bảo


Tiểu Bảo


Xin kính chào chư-vị

Một bảng danh-sách những người thiếu tư-tế đối với nhà lãnh-đạo chống cộng Nguyễn Chí Thiện do Đảng đệ-nhất chống Cộng = Việt-Tân yểm-trợ đã làm bức-xúc = bực-bội và vô-cùng ngao-ngán trong hàng ngũ người Việt-tỵ nạn chống Việt-cộng.

Ba chữ Thiếu Tử-Tế trong bảng danh-sánh nầy cũng có nghĩa là đã Còn Tử-Tế đối với một người; một tổ-chức hay một đảng mà nhânđân (nói chung) hay tập-thể Người Việt Hải-Ngoại Tỵ-Nạn Việt-Cộng (nói riêng) không cần phải tử-tế với họ.

Thí dụ:

Người Việt-tỵ nạn có nên tử-tế với ông Nguyễn Cao Kỳ hay không?

Chắc-chắn câu trả lời của đại-đa-số sẽ là không. Và những ai còn một chút thương-hại nên luôn luôn thiếu tử-tế với ông Kỳ tức là đã luôn luôn còn một chút tử-tế đối với ông Nguyễn Cao Kỳ rồi vậỵ

Một người có thành-tích nhục-mạ ông Hồ Chí Minh và đòi tiêu diệt Đảng Cộng-Sản Việt-Nam; vậy mà đã có thể nộp hồ-sơ lý-lịch** xin Việt-Cộng đi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước, và đã được nhà-nước Việt-cộng cấp visa chánh-thức thoải-mái làm Phi-nhân Xuất-ngoại để đi du-thuyết chống cộng. Khi phi-cơ đáp xuống phi-trường thì đã có sẵn sự đón tiếp ân-cần nồng-hậu và cũng đã có sẵn một phong-trào chống cộng dạt dào tình yêu dân-tộc đang chờ người lãnh-đạo đi du-huyết! Thử suy-nghĩ xem người Việt-tỵ nạn có nên tin-tưởng tuyệt-đối vào đương sự Nguyễn Chí Thiện hay không?

Đồng-bào Việt-tỵ nạn bản-chất lương-thiện nên ít khi đề-phòng với người tích-cực hô-hào chống Việt-cộng; rất ít ai thèm suy-nghĩ sâu-xa cho nên rất dễ dàng gởi con tim của mình theo định-hướng chống Việt-cộng

Thời-gian thắm-thoát trôi mau và khi thời-cơ vừa hội đủ điều-kiện thì Nguyễn Chí Thiện đã bộc-lộ rõ bản-chất của mình; của một người chống cộng có dự-mưu, chống cộng để chiêu-mộ người Việt-tịỵ nạn hướng về tổ-quốc thương yêu; hướng về quê-hương Xã-Nghĩa chùm khế ngọt, và đã khuyên người Việt-tỵ nạn đừng nên biểu-tình nữa; mà nên theo chánh-sách hòa-giải hòa-hợp = đầu-hàng Việt-Cộng, cũng như cần đối-thoại = xin-cho để thực-hiện đại đoàn-kết dân-tộc theo đúng nghị-quyết 36 của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam và nhà-nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam.

Bây giờ câu hỏi được đặt ra ngay lúc nầy là: Thành-phần Việt-tỵ nạn có cảm-nhận được rằng ông Nguyễn Chí Thiện và ông Nguyễn Cao Kỳ có những hành-động cùng một mục-đích giống nhau hay không?

Tất nhiên câu trả lời của đại-đa-số là: Đích-thực y-chang về tình; về lý cũng như về tư duy Việt-gian đã đồng dạng 100% rồi

Vậy thì Người Việt Hải-Ngoại Tị-Nạn Việt-Cộng có nên luôn-luôn tử-tế đối với ông Nguyễn Chí Thiện hay không?

Dĩ-nhiên, câu trả lời của đại-đa-số vẫn là Không cũng như là câu trả lời Không cần phải tử-tế đối với ông Nguyễn Cao Kỳ vậy. Như vậy thay vì cần phải không tử-tế đối với ông Thiện; những ai thiếu tử-tế đối với ông Nguyễn Chí Thiện tức là đã quá tử-tế đối với ông Thiện rồi. Tại sao? Vì những người thiếu tử-tế nầy đã có tồn một chút tử-tế căn-bản nhân-sinh; đã thể-hiện lòng từ-thiện của Mẹ Việt-Nam trải dài sự thương yêu, sự thương-hại đến với đứa con quá hư-đốn nầy vậy!

Còn những người vẫn luôn luôn giữ LòngTử-Tế tuyệt-đối đối với ông Nguyễn Chí Thiện qua mọi phương-cách bảo-vệ thì sao? Có phải chăng là ngưu tầm ngưu, mã tâm mã. Đồng-chí cần phải bảo-vệ đồng-chí với nhau để cùng nhau xóa sạch lằn ranh Quốc-Cộng trên căn-bản triệt-hạ Cờ-Vàng nhỉ.

Nếu chúng ta đã bất chợt cảm thấy mình bị say vì ly rượu chống Cộng quá độc nên đã có những bước chệnh-choạng giữa lằn ranh Quốc-Cộng thì xin quí-vị hãy một lần suy-nghĩ lại; xin hãy nhớ lại câu: Hồi Đầu Là Ngạn. Hãy quay về với Chính-nghĩa Quốc-gia và hãy thắp một nén hương trên bàn thờ Tổ-Quốc để cho những giọt lệ thảm sầu của Mẹ Việt-Nam được từ-từ không còn rơi nữa!

Trân-Trọng
Tiểu Bảo

** Hồ-sơ lý-lịch: Muốn chấm dứt nghi-án đạo thơ chỉ có Việt-Cộng mới có thể chứng-minh và chấm dứt được mà thôi.

*Chống Cộng: Chống Đảng Cộng-Sản, Chống Nhà-Nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam

*Chống Cộng: Chống Cọng lông của Việt-Cộng
------------ --------- --------- --------- ---

Xin kính chào chư-vị

Nếu Ông Ngyễn Chí Thiện đã phát-biểu theo chiều-hướng cần đối-thoại với Việt-Cộng để tiến đến hòa-giải hòa-hợp với tập đoàn Việt-gian buôn dân bán nước, thì nghi-án đạo thơ của nghi-can Nguyễn Chí Thiện, xin phép được đề-nghị nên tạm gác lại để hậu xét vào một dịp thuận-tiện khác.

Vì ở hiện-tại nghi-án đạo thơ đâu có quan-trọng bằng chuyện Ông Thiện xúi dân Việt-tỵ nạn đối-thoại = xin-cho, và tự nạp mình đầu hàng = chấp-nhận hòa-giải hòa-hợp với bọn Việt-Cộng tham-tàn buôn dân bán nước. Ông Thiện đang giúp Việt-Cộng thi-hành nghị-quyết 36 hầu nhuộm đỏ Cộng Đồng Việt-Nam hải-ngoại tỵ-nạn Cộng-sản.

Trời ơi! Chuyện đời thật là bí-ảo đảo điên! Từ người tích-cực chống Cộng lại trở thành tên tích-cực chống Cộng. Đáng buồn thay! Đáng giận thay!!

Cảm-tác

    Thiện-Ác _ Hòa-Giải Hòa-Hợp

    Trung cùng Đảng-Cộng có ai hay
    Tâm-sự trở-cờ lý đổi-thay
    Của chuyện khuyên người đối-thoạ i đấy
    Cơn ghiền dục kẻ xin-cho này
    Bão mời hòa-giải theo cơn lốc
    Nguyễn giúp tham-tàn giấu đọa đày
    Chí Quốc-Cộng đôi đàng khác biệt
    Thiện ơi! Hòa-hợp họa vô ngay

    Tiểu Bảo
    23-10-2008



Monday, December 15, 2008

NGỤY BIỆN - Ý Nga

Ý Nga
    NGỤY BIỆN

    Cướp nhà đảng giết “ngụy quân”
    Chết đói đảng gọi “ngụy dân” gửi tiền
    Làm hư đảng chửi: “Ngụy quyền!”
    Bán nước thời đảng tuyên truyền nhố nhăng
    Bán dân miệng đảng hung hăng
    Mua về quốc nhục ai bằng “tam vô”!
    Lòng dân tức nước vỡ bờ
    Đảng còn chưa sợ, phớt lờ ăn chơi

    “Ma cô, đĩ điếm…” nặng lời
    Rồi khen: “Khúc ruột…” gọi mời về thăm
    “Ngụy” nào là chữ đảng lầm?
    “Ngụy” nào là chữ đảng cầm trên tay?
    Giàu sang hưởng thụ: một “bầy”
    Nghèo nàn bán máu lất lây: dân hiền

    Đọc thơ nếu có ai điên
    Xin đừng tin đảng đem tiền về… dâng
    Bài thơ khóc với điệu vần
    Viết trong tức tưởi ngại ngần nhắc nhau
    Nhắc ai tâm còn biết đau
    Từ ngày rời nước, đồng bào vẫn thương!

    Ý Nga, 28.6.2007