Tuesday, October 7, 2008

Góp ý với Ông Nam Nhân

Về Thi Sĩ Phan nhật Nam

Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Bài viết dưới đây, “Nhà Văn Phan Nhật Nam viết bậy rồi” là của tác giả Nam Nhân.

Tôi chỉ xin đóng góp thêm một chút ý kiến về bài thơ của ông Phan nhật Nam để bạn đọc có thêm dữ liệu về những gì người ta thường kênh kiệu gọi là nền Văn học Nghệ Thuật miền Nam từ 1954-1975.

Lẽ dĩ nhiên, tôi không vơ đũa cả nắm và không đồng hóa tất cả họ “cá mè một lứa” nhưng cái tâm thức kiêu căng ngạo mạn và ngu dốt của một số vẫn tự xưng là Nhà văn, Nhà thơ, học giả, học thiệt, đến nay vẫn còn di căn, không thể cứ để thành dòi bọ hôi thối làm ô nhiễm cả không gian được. Buộc lòng phải nói!

Khi bài thơ của ông Phan nhật Nam (PNN) mới ra, tôi đã đọc sơ qua và nhận ra nhiều khuyết điểm nhưng vì đang bận với loạt bài: ”Ông Hoàng du nguyệt điện” www.vnfa.com nên thôi cho qua luôn, nhưng nay ông Nam Nhân nêu ra, tôi muốn bổ khuyết những gì tôi suy nghĩ về Văn học miền Nam để bạn đọc có thêm ý kiến. Nếu những ý kiến của tôi là sai, tôi sẵn lòng nghe lời chỉ giáo của các bậc cao minh. Xin cứ dùng Diễn Đàn Hoa Tự Do để trao đổi. Tôi vô cùng thâm tạ.

Đại cương nhiều nhà thơ miền Nam:

1. Viết những câu Thơ, câu Văn vô nghĩa, chỉ cốt cho kêu.

Quý bạn giở những bài thơ của ông Du tử Lê, Thanh tâm Tuyền, Cung trầm Tưởng, Tô thùy Yên cả Đinh Hùng, Vũ hoàng Chương, và nhiều ông khác, trước 1975, (thơ vô nghĩa có cả Bùi Giáng mặc dù BG là một nhà thơ có tài) vẫn thường vỗ ngực và nhờ bạn bè thổi ống đu đủ và mặc áo thụng vái nhau, đọc sẽ thấy ngay.

Du tử Lê thì nhiều nhưng chẳng ai nhớ một bài thơ của ông ta làm gì. Chỉ ca tụng đàn bà, ái tình, dang dở, từa tựa như ông Nguyên Sa tuy ông Nguyên Sa còn có vần có điệu, có chất thơ hơn một tí (Nhưng em đi mà không bảo gì nhau, ngay giữa lúc Trung tá Nguyễn đình Bảo, Nhảy Dù, trúng đạn thù ở Khe Sanh, ngã xuống!). Du tử Lê chỉ thơ tự do, lẩm cà lẩm cẩm: ”Và em/và mẹ/ và anh v.v.......” ba lăng nhăng chẳng ra cái kiểu gì, hay là cái kiểu dốt nói chữ, ngu làm tàng.

Quí bạn vào www.vienxumagazine.com và Trang Thơ, đọc bài “Nhịp ba” của ông Thanh tâm Tuyền tặng cho ông Doãn quốc Sỹ, thời trước 30-4-1975, đọc thử bài thơ xem ông ta nói cái gì?

Một bài thơ vô nghĩa, không ai hiểu tác giả muốn nói cái gì nhưng ông Doãn quốc Sỹ thì khen lấy khen để như thần thi, thánh tứ. Câu đầu: ”Ngực anh thủng lỗ đạn tròn” vừa đọc, cứ nghĩ sẽ là lục bát, nhưng câu hai lại là tự do làm người đọc chưng hửng. Nếu ông Doãn quốc Sỹ ngực bị thủng lỗ đạn tròn thật thì ông ấy chết rồi đâu còn ngồi đó mà đọc bài thơ này để mà khen gẫy lưỡi. Mà ông DQS có ra trận ra mạc gì đâu mà bảo rằng ngực ông ấy thủng lỗ đạn tròn hay lỗ đạn vuông? Các ông trong Nhóm Văn, Sáng Tạo vẫn cùng ông Mai Thảo “tối xâm banh, sáng sữa bò”, còn ông Mai Thảo thì ngồi viết (ra vẻ) hiện sinh, nâng bi vài tác giả ngoại quốc như Albert Camus, Francoise Sagan, Jean Paul Sartre v.v... để loè thiên hạ. Trong tùy bút của ông ta sặc mùi whisky, son phấn ca ve, nhẩy đầm, ngoại tình, chán đời trong khi những người chiến sĩ vô cùng gan dạ như tôi đã viết trong “Sau bức màn nhung Hạ Nghị Viện/VNCH” hy sinh đến giọt máu cuối cùng để lấy lại cổ thành Đinh công Tráng, treo được lá cờ vàng ba sọc đỏ lên ngọn tháp thì vài, ba chục chiến sĩ đã kiêu hùng ngã xuống.

Hưởng thụ, chè chén say sưa, sa đọa trụy lạc trong khi hàng trăm ngàn người phải đối đầu với giặc CS xâm lăng hàng ngày, quan tài hàng chục, hàng trăm đưa về Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa và Hạnh Thông Tây liên tục như thế là một bất công xã hội!

Những câu thơ cố ý làm dáng trong bài này của ông Phan nhật Nam cũng tương tự như những câu thơ của các ông Du tử Lê, Thanh tâm Tuyền ... nghĩa là nó chỉ kêu to như cái thùng tô-nô nhưng ý nghĩa zéro, có khi lại phản nghĩa nữa. Thử lấy một câu:

Cuộc hành quân xẻ dọc Trường Sơn cuối cùng ra thất bại.

Tôi thiển nghĩ, một thằng ngu mới viết câu này.

“Cuộc hành quân xẻ dọc Trường Sơn” là của Cáo Hồ Đại Việt gian khi y lùa quân dân miền Bắc vào cưỡng chiếm miền Nam cho chủ tướng của y là Nga Tàu. Nó đã vô nghĩa ngay từ khi Cáo Hồ Đại Việt gian cướp công của toàn dân, cướp quyền cai trị từ ngày 19-08-1945. Viết như thế có nghĩa mới đầu thì nó thắng lợi (vì có chính nghĩa) nhưng cuối cùng nó thành ra thất bại. Người miền Nam không có “xẻ dọc Trường Sơn” những từ ấy của cáo Hồ, nên trả lại cho y. Xuẩn thi đến thế là cùng! Tôi nghĩ ông Phan nhật Nam chưa có già lắm, chưa lẩm cẩm mà ở nhiều chỗ, ông vẫn cứ tự cho ông là Nhà văn cơ, gọi khác ông không bằng lòng. Tiếc rằng những cái rơm rác, bẩn mắt ấy (những lời ông viết), tôi lưu giữ (để chứng minh) làm gì cho rác nhà rác cửa. Ông ta cũng như những bạn bè của ông ta trước 30-4 mà thôi!

Tự vệ thành nổ lựu đạn tan thân
gục đầu lên giao thông hào chống xe tăng Pháp.

Ông Phan nhật Nam (PNN) có biết rằng những tự vệ thành này, bắt đầu từ ngày 26-12-1946 và tiếp tục cho đến 20-7-1954, (khi ông PNN không biết đã ra đời chưa) chứ đã có bố tôi, anh tôi là những Tự vệ thành chống Pháp để đuổi Pháp ra khỏi VN giành lại Độc lập cho nước nhà, còn tôi lúc đó là một liên lạc viên cho các tiểu đội, trung đội Tự Vệ thành ở thành phố Hải phòng, bố tôi đi cướp súng của Pháp ở Sáu Kho bị thương, 3 người đồng chí của ông (VNQDĐ) tử thương, 2 người khác bị thương nặng nhưng chỉ cướp được 1 khẩu Thompson và dăm khẩu Garant của Pháp.

Tự vệ thành đó, ở khắp nơi, Hà Nội, Hải Phòng, chiến đấu cho Tổ quốc chứ không cho Việt Minh CS. Tự vệ thành nổ lựu đạn tan thân là nghĩa làm sao, ông Phan nhật Nam? Tự vệ thành tự tử hay Pháp ném lựu đạn bị tan thân. Câu thơ tối nghĩa, mà làm dáng làm chi cho tối nghĩa?

Loại thơ vô nghĩa chỉ cốt kêu to bằng những danh từ vá víu ấy cứ luân lưu khắp miền Nam trước 1975, những ông nhà báo như Phan nhật Nam, Mai Thảo, Dương nghiễm Mậu, Nguyễn ngu Í, Nguyễn sĩ Tế v.v... cứ thế mà ca tụng bạn bè, bốc lên tới mây xanh. Còn văn thì ngoài ông Mai Thảo (Mười đêm ngà ngọc) phải kể thêm vài tác giả khác như Lê Xuyên với Cậu chó, chú tư Cầu, Lệ Hằng với Ngựa hồng, Nguyễn thị Hoàng với Vòng tay học trò, Nguyễn thụy Long với Loan mắt nhung, Thụy Vũ với Mèo đêm .... Tôi chỉ kể sơ, không có thì giờ nói hết, nhưng tóm tắt là một cái thùng rác hôi thối làm cản trở những bước chân của các chiến sĩ Quốc gia đang ngày đêm tử thủ, một còn một mất với Việt gian Cộng sản có khối CS quốc tế yểm trợ (và bây giờ chúng trả nợ bằng cách cắt đất, dâng biển của cha ông đấy!).

2. Suy luận nông cạn.

Khi tên đặc công đại Việt gian CS nằm vùng Thích trí Quang cho đàn em dìu Hoà thượng Thích Quảng Đức ra ngã tư Phan đình Phùng - Lê văn Duyệt, đổ xăng lên người, châm lửa để ngụy trá một cuộc tự thiêu để giặc Hồ lấy cớ đó mà hạ bệ Tổng thống Ngô đình Diệm (nguyên nhân mất miền Nam) thì đại thi hào Vũ hoàng Chương vừa rời bàn đèn thuốc phiện, mắt nhắm mắt mở, chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện, vội làm bài thơ “Lửa từ bi” để lên án nhà Ngô, a tòng với giặc tự chặt chân chặt tay mình trong khi ông Vũ hoàng Chương (VHC) hưởng biết bao ơn mưa móc của miền Nam, không hề một ngày phải vào quân trường, suốt ngày chỉ Mây với Say, huýt ky với thuốc phiện. Tự chặt mình bởi vì chẳng bao lâu sau, Việt gian CS vào Sàigòn, ông VHC phải vào tù cải tạo, VGCS còn mỉa mai bảo:

“Thứ thơ đồi trụy của anh chỉ làm sa đọa quần chúng”

Ông đói thuốc (phiện) quá và ông đã chết ở trong tù, cái hậu quả mà ông tự chặt chân chặt tay khi xưa, khi a tòng với CS Thích trí Quang hạ bệ nhà Ngô. (Mời đọc thêm:” Bốn mươi ba năm miền Nam lạc hướng” cùng tác giả, www.vnfa.com )

Đây là vài câu thơ vô nghĩa, vớ vẩn của nhà đại thi hào, trong bài ”Chúng ta mất hết chỉ còn nhau”:

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy linh đinh!
Vũ hoàng Chương

Những nhà thơ, nhà văn làm cái gì để quê hương phải ruồng bỏ, giống nòi khinh? Tại sao làm văn học nghệ thuật kiêu căng ngạo mạn mục hạ vô nhân như thế mà lại là lũ lạc loài, đầu đường xó chợ? Mình tự khinh mình vậy thì quê hương coi mình thua con chó ghẻ là đúng! Suy nghĩ nông nổi, lập dị, kiêu căng, nhiều anh học hành không có, ngu dốt, dăm ba chữ nhảy ra làm báo, viết văn nhưng ngạo mạn (cái kiểu Du tử Lê, đưa thơ tình về VN xin CS cho in, báo chí CS chửi) chính là cái “cốt” của những anh tự xưng làm văn học nghệ thuật thời đó và cả thời nay ở hải ngoại này! (Ngày nay sang đến hải ngoại vẫn chưa mở mắt, cộng với những anh mù mở, tự cho mình là quan Ngự sử ngồi phê bình, viết khen tưới, mèo khen mèo, để dựa hơi).

Nhiều trăm ngàn chiến sĩ VNCH từ xã ấp, Nhân Dân Tự Vệ đến Nghĩa quân, Địa phương quân, Hải, Lục, Không quân ngày đêm chống giặc CS, đem cái chết trả nợ non sông, mua sự yên vui no ấm cho đồng bào, trong đó có các ông nhà văn, nhà thơ, nhà báo này nhưng chưa bao giờ các ông này viết một bài báo, bài văn trong các tạp chí, nhật báo, tuần báo của các ông thông cảm và khích lệ các chiến sĩ ta nhưng chính các ông lại thừa dịp chỉ trích QLVNCH, hùa theo bọn CS nằm vùng là các tờ Đại Dân tộc (Võ long Triều), Tia sáng (Ngô công Đức, đã qua đời) và Điện tín (Lý quý Chung, đã qua đời, viết Hồi Ký để lại vô cùng ân hận đã đi theo CS) nhưng ông tướng Trần văn Trung thì vẫn nằm ngủ không biết gì!

Vài hàng sơ lược đó là nền Văn học NT miền Nam, Dân chủ, Tự do thề không đội trời chung với miền Bắc Việt gian bán linh hồn cho Nga Tàu.

Còn miền Bắc dưới sự cai trị “đỉnh cao trí tệ” của giặc Hồ, Duẩn, Đồng, Chinh, Giáp, thiến heo Đỗ Mười, cai phu chột Lê đức Anh thì sao?

Xin trích một đoạn trong bài “Sau bức màn nhung số 4”:

Trong khi miền Nam văn nghệ sĩ phản chiến, sa đọa như vậy thì ở miền Bắc:

Giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!

Thương biết mấy khi con học nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-Lin
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình, thương một, thương ông thương mười!
Xít ta lin đời đời cây đại thụ!
(Tố Hữu)

Lấy tâm thức của một người VN biết suy nghĩ, chúng ta thấy gì khi nhìn vào hai hình ảnh VHNT tồi tệ của hai miền Nam-Bắc tôi vừa thô thiển mô tả bên trên? Một bên là hình ảnh những thằng nô lệ rạc rài đói khổ, khom lưng cúi đầu, liếm trôn hai ông chủ Nga-Tàu, dâng hết biển đất ông cha để lại, chỉ cốt được làm chức Thái Thú tức Việt gian đè đầu cỡi cổ đồng bào, vinh thân phì gia, cha truyền con nối.

Bên kia là hình ảnh những thằng nghiện oặt ra, trốn lính, ăn chơi trác táng, sa đọa trụy lạc, hết nằm ở bàn đèn thuốc phiện thì vào vũ trường uống huýt ki, quay cuồng với bọn gái nhảy rồi làm thơ, viết văn ca tụng nhục thể. Suốt đời là Thơ tình ái, anh anh em em, dang dở, nhung nhớ (Sao xa nhau mà không bảo gì nhau, Nguyên Sa; Em ơi lửa tắt bình khô rượu, Đời vắng em rồi vui với ai, VHC)thất tình, rượu mạnh, thuốc lá, trụy lạc, sa đọa, không lý tưởng, trốn lính ...c hứ không hề sáng tác được một bài thơ nào nói lên cái đẹp của quê hương, của tình người, lòng yêu nước, ra đi bảo vệ quê hương v.v...

Cả hai nhóm trông cùng tởm cả, chẳng thằng nào còn là người mà đã thành khỉ vượn, đười ươi!!.

Vì vậy cả nước phải nô lệ và lạc hậu thế kỉ này qua thế kỉ khác cũng đúng thôi! Và hiện nay, không một dân tộc nào trên hành tinh này khổ cực, nghèo túng, lầm than, điêu đứng đến mất cả nước vào tay ngoại bang như người dân Việt Nam! Xin chớ tự hào 4 với 5 ngàn năm văn hiến nữa! Nó mỉa mai lắm!

Và cũng chớ bao giờ viết rằng “người Việt đáng yêu” nữa, nó sai toét loét và hợm hĩnh vô cùng. Người Việt như bọn giặc Hồ, xuống đến con nó là Nông Bất Hạnh, tôi nói thiệt, chưa một giống dân nào trên hành tinh này chịu khổ sở như dân Việt Nam, chưa một dòng họ vua chúa nào tham quyền cố vị và độc tài sắt máu như bọn giặc Hồ! Chính cá nhân người viết, nhờ phúc ấm tổ tiên, đã tránh được bom đạn do Hồ mang từ miền Bắc vào, suýt chết mấy lần. Chính bạn đọc rất nhiều người cũng như thế! Còn bè bạn cùng Khóa 13 Thủ đức với tôi thì chết nhiều rồi!

Tôi đã rất bực mình với cái bộ máy Chiến tranh Chính trị của tướng Trần văn Trung. Người thanh niên nào còn muốn ra trận, muốn xung phong đầu quân khi nghe:

“Trả lại em yêu .... Anh sẽ ra đi về miền cát nắng. Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về...Uống môi em ngọt.”(Phạm Duy).

“Tôi có người yêu chết trận Pleime, nằm chết như mơ ...” (Trịnh công Sơn).(Hết trích) mà một đám ca sĩ vô ý thức hát ra rả cả ngày cả đêm trên hai đài Quân đội và Sàigòn.

Trở lại với bài thơ của thi sĩ Phan nhật Nam:

Có còn không Bộ Đội vây trận Điện Biên? (2)
Quân lực Cộng hòa đã thật gẫy tan nòng pháo

Ông PNN viết câu này đúng là một thứ khôn nhà dại chợ! Bộ đội vây trận Điện Biên, mặc mẹ nó việc gì ngày nay ông phải khơi ra làm chi? Chúng là những tên lính đánh thuê ngoại trừ những người bị Hồ tặc lừa, ông hiểu chưa? Giờ này chúng vẫn là lính đánh thuê cho Nga-Tàu đấy! Ông có biết tên nào tổng chỉ huy trận này không? Nó là tướng Cheng Ghai của Trung cộng, Võ nguyên Giáp chỉ đi theo hầu bưng bô. Tên tướng CS này, đâu có chết người Tàu mà nó cần. Nó đánh biển người, hi sinh hàng trăm nghìn vừa quân, vừa dân công Bắc Việt để lấy tiếng với quốc tế mà chia hai nước Việt Nam. Ông PNN đọc lại sử xem biết bao nhiêu dân công nam nữ VN đã bỏ thây vì đưa những khẩu đại bác Trung cộng nhiều chục tấn lên những ngọn núi cao xung quanh Điện biên Phủ để tướng Tàu sử dụng.

Một thanh niên Việt đã hy sinh lấy thân mình làm cái cản không cho khẩu đại pháo tuột dốc (nếu có thật chứ không phải do VGCS ngụy tạo như chuyện Lê văn Tám), anh ta làm vì Tổ quốc VN chứ anh ta đâu đã biết CS là gì, mà ngày nay bọn Hồ tặc bán biển dâng đất cho kẻ thù dễ dàng như thế! VGCS đã là những thằng phét lác, một tấc đến trời, luôn mồm ca tụng “chiến thắng thần thánh Điện Biên” nay ông PNN lại viết như thế thì chúng viết báo trong nước bảo: “Coi đấy, thằng nhà văn PNN của Ngụy cũng còn ca tụng chiến thắng thần thánh của XHCN chúng ta”.

Ngay sau câu bốc thơm CS, ông viết quá tệ hại cho QLVNCH:

“Quân lực Cộng hòa đã thực gẫy tan nòng pháo!”

Quân lực Cộng hòa gẫy tan nòng pháo bao giờ, ông Phan nhật Nam? Có ông gẫy tan khẩu súng cá nhân tự mình ông chứ QLVNCH chưa bao giờ và không bao giờ gẫy tan nòng pháo như ông nói. Ông cường điệu một cách bậy bạ nếu không vậy thì là ngu dốt. Chúng tôi vẫn tranh đấu cho một ngày cắm lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ trên nóc Văn miếu Hà Nội! Thế nào cũng có ngày đó, ông tin tôi đi, miễn là những đại thi hào như ông, Du tử Lê, Vũ hoàng Chương, Đinh Hùng, Thanh tâm Tuyền, Tô thùy Yên, Cung trầm Tưởng v.v... đừng có viết những câu thơ xuẩn động đó nữa. Người ta bảo “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe” không ai giỏi mọi phương diện, nhưng đừng viết ngu kẻo kẻ thù lưu manh chúng lợi dụng, chúng chửi hết mọi người Quốc gia và đau lòng cho các cụ như Phan bội Châu, Phan thanh Giản, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn thái Học, Phan Khôi ... mà thằng giặc Hồ thì nằm ở Ba đình cười mỉm, khoái trá đấy ông Phan nhật Nam!

Nếu phân tích bài thơ này thì còn nhiều cái đáng nói nữa nhưng nói thêm chỉ làm rác tai bạn đọc. Thí dụ “Hốt phân thối ...” phân nào thơm vậy ông PNN, có lẽ ông đã kinh nghiệm một loại phân thơm như Tố Hữu, Xuân Diệu khen thằng giặc già Xít?? “Mặt trời mọc ở phương Đông vô hồi vĩnh cửu” là cái quái gì?” Phải vô nghĩa và chỉ muốn nổ thôi không? Thơ của nhiều người trong các ông là vô nghĩa như vậy, ngay từ ngày còn Sàigòn! Giở ra đọc lại là biết ngay, như cái kiểu “Tổ quốc ăn năn” cách dùng từ ngu dốt của Nguyễn gia Kiểng! Tổ quốc việc gì phải ăn năn? Chỉ có những bọn bồi bút viết bố láo và những bọn giặc buôn dân bán nước phải ăn năn thôi! Tổ quốc vẫn kiên cường ngẩng mặt nhìn năm châu bốn biển!

Kết luận: Một bài thơ vào loại phản nghĩa, ngu dốt, tự bôi đen mình (cái xấu mà QLVNCH không hề có) muốn dùng chữ cho kêu nhưng chẳng hiểu ý nghĩa của từ được dùng, ngay cái tiêu đề “Tổ quốc chúng tôi không là chế độ các anh”, loại thơ này là loại thơ “Lá diêu bông” của Hoàng Cầm, chỉ đáng vứt sọt rác trong khi anh nhạc sĩ mất nết họ Phạm kì cạch ngồi phổ nhạc! Quá tởm!

Cựu Sĩ Quan QLVNCH
BX Trần đình Ngọc

Nhà văn Phan Nhật Nam viết bậy rồi

Nam Nhân

Cách đây độ hơn một tuần lễ, trên các diễn đàn có một bài viết của ông Phan nhật Nam, được giới thiệu là “thơ” với tên bài là: “Tổ Quốc Chúng Tôi Không là “chế độ các anh””

Ngay từ cái tên của bài được giới thiệu là “thơ” này, đã làm tôi ngạc nhiên về khả năng dùng chữ của một “nhà văn”, lại còn là “nhà thơ” nữa !!! Không hiểu ông Phan nhật Nam hiểu các khái niệm “Tổ Quốc” và “Chế Độ” (tức chế độ chính trị) ra làm sao mà lại có cách dùng giống Nguyễn gia Kiểng thế. Định lập dị chăng?

Nêu việc trên để thấy rõ hơn về trình độ “chơi chữ” của ông nhà văn họ Phan. Cái cần nói là trong bài gọi là “thơ”nói trên, Phan nhật Nam đã nhập nhằng QUẢNG CÁO cho cái gọi là LẬP TRƯỜNG HÒA GIẢI HÒA HỢP khi hạ bút:

……. “Giữa vùng nước phương Nam nầy chiến hạm
Hải Quân 10 Nhật Tảo,
Hòa máu Ngụy văn Thà đổ xuống đậm sắc biển xanh.(1)
Có còn không Bộ Đội vây trận Điện Biên? (2)
Quân lực Cộng Hòa đã thật gẫy tan nòng pháo!
…………………………………………………………..

Sử Việt không viết nên từ “Cách Mạng Mùa Thu,Tuyên Ngôn Tháng Chín”,(3)
nNưng bởi giòng máu lệ kiên cường chung phần độc dược
Phan thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc
Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng Cúm, Him lam (4)
Nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Đinh Công Tráng.(5)
Để Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây
Để Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người
Và Độc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh
Việt Nam
Tên gọi đến ..
Rưng rưng nước mắt cảm xúc." (Hết trích )

Ông Phan nhật Nam muốn hòa chung máu của riêng ông với máu của lũ ngụy binh Việt gian cộng sản chết ở Điện Biên phủ, vì âm mưu bành trướng của đế quốc đỏ Nga-xô và Tàu cộng, là việc lựa chọn của ông. Thuở đó, tướng Phạm văn Phú cùng đồng đội, thuộc lực lượng vũ trang của Chính phủ Bảo Đại, cũng có nhiều người hy sinh để chống sự bành trướng đỏ đấy. Và, cái lực lượng đó chính là tiền thân của Quân lực VNCH, mà ông từng lấy làm vinh dự đeo lon đại úy. Chẳng lẽ thực sự ông ĐÃ bị cải tạo qua những năm tháng ở nhà tù của Việt gian cộng sản, đến nỗi lú lẫn Không biết rằng: Kể từ 1947, nhiều người trong Chính phù Liên Hiệp Kháng chiến Đã nhìn ra phần nào dã tâm bán nước của tập đoàn Hồ chí Minh, nên đã tụ hội lại Quanh Quốc trưởng Bảo Đại, để chống lại sự xâm lược đỏ Nga-xô, Tàu cộng bằng ngụy quân Việt gian cộng sản. Cái lực lượng chính trị và vũ trang ấy chính là tiền thân của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa sau này cũng như của Quân lực VNCH vậy.

Ngay sau 1949, khi Tàu cộng làm chủ lục địa Tàu thì tên Đại Việt gian Hồ chí Minh đã bò sang Tàu triều kiến , xin chỉ thị của hai mẫu quốc Nga-Tàu. Và việc làm đầu tiên của Hồ khi về nước là bằng mọi cách, bằng mọi giá cướp quyền lãnh đạo và sử dụng lực lượng vũ trang. Và thế là sau cái gọi là “Rèn cán, chỉnh quân” và “đấu tố chính trị” cũng như tiếp tục mở cửa thu nhận ồ ạt người, chủ yếu trong lực lượng vũ trang, vào đảng Việt gian CS và đoàn thanh niên cứu quốc (một tổ chức cho lớp trẻ chuẩn bị bổ xung cho lực lượng của dảng Việt gian Hồ chí Minh). Sau đó, thằng Hồ chí Minh cho đổi danh xưng từ Quân đội Quốc gia của Chính phủ Liên Hiệp thành cái gọi là “quân đội nhân dân “hay tên khác là “bộ đội “cụ Hồ””. Và cái tôn chỉ lúc còn là Quân Đội Quốc Gia là “Trung với Nước, Hiếu với Dân “ bị đổi thành: “trung với đảng (tức đảng Việt gian cộng sản), hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hòan thành, khó khăn nào cũng vượt qua , kẻ thù nào cũng đánh thắng “.

Trận Điện Biên phủ xảy ra như thế nào, ai chỉ huy, ai viện trợ cả vũ khí, cả binh lính, quân nhu thì đến nay đã rõ ràng do chính cả Tàu cộng, Nga-xô và người ở các nước khác viết ra rất rõ và rất nhiều cũng như rất chi tiết. Cho nên làm gì có “Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng cúm, Him lam (4)” Đó là lũ ngụy quân Việt gian cộng sản. Phan nhật Nam đừng gỉa khùng mà nhai lại nhưng bài học trong trại cải tạo của VGCS nhé !!!

Tôi là một sỹ quan của Quân lực VNCH. Tôi không cho phép ông Phan nhật Nam đem máu của những quân nhân VNCH để hòa chung với máu của mọi loại Việt gian, đặc biệt là máu của lũ Việt gian công sản.

Từ khi Phan nhật Nam ra hải ngoại thì đã có nhiều tin đồn không hay lắm về Phan nhật Nam. Nhưng thời gian gần đây, Phan nhật Nam đã có những việc làm không giúp gì cho cuộc đấu tranh của người VN trong và ngoài nước nhằm loại bỏ sự thống trị của Tập đoàn VGCS. Thí dụ, qua hệ truyền hình SBTN, đã thổi ống đu đủ, tô son trát phấn cho những tên kiểu như Du tử Lê.

Mọi người không lươn lẹo như ông đâu, ông Phan nhật Nam. Ông đáng được liệt vào loại: Nhà văn Đà điểu.

Nam Nhân

Chú ý: Xin quý vị đọc toàn bộ bài “thơ” ở bên dưới:

Tổ Quốc Chúng Tôi
Không là “chế độ các anh”

Gởi Kim Phượng,
Bằng Hữu Úc Châu nơi Phương Nam

Hãy thống hận khi Đất cha ông cướp đoạt mất
Hãy gào uất buổi Biển, Trời tổ tiên giặc chiếm, cắt
Hãy biết xót đau,
Hãy biết hờn căm,
Thấm đê nhục..
Dân Tộc cúi đầu, nín thinh, khinh miệt ...

Nơi quan ải phía Bắc xa một lần Nguyễn Phi Khanh bật khóc,
nước mắt lắng sâu mạch đất.
Giữa vùng nước phương Nam nầy chiến hạm Hải Quân 10 Nhật Tảo,
hòa máu Ngụy Văn Thà đổ xuống đậm sắc biển xanh.(1)
Có còn không Bộ Đội vây trận Điện Biên? (2)
Quân lực Cộng Hòa đã thật gẫy tan nòng pháo!
Xé không gian nghe âm vọng bao lần người lính giữ nước xung phong
Tát cạn đáy bày ra vạn cốt xương
lớp lớp dân oan di tản
Trời Nam bàng hoàng khốc tang
Biển Đông lềnh loang bi phẫn..

Hoàng Sa, Trường Sa..
Hãy trải rộng Nhất Thống Toàn Đồ..
Hẳn thấy lớn dài mênh mông biên cương Đại Việt
Lẽ nào bộ chính trị, ban bí thư, chủ tịch đảng, đoàn không hề hay biết?
Sử Việt không viết nên từ “Cách Mạng Mùa Thu, Tuyên Ngôn Tháng Chín”,(3)
nhưng bởi giòng máu lệ kiên cường chung phần độc dược
Phan Thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc.
Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng Cúm, Him Lam(4)
Nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Đinh Công Tráng.(5)
Để Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây
Để Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người
Và Độc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh
Việt Nam,
Tên gọi đến..
Rưng rưng nước mắt cảm xúc.

Tất cả nay đã là vô ích!
Với một chữ ký!
Hợp thức hóa một lần dâng giặc cướp!
Hoàn tất trọn một lần xong bán nước!
Đồng thuận mưu sâu Quốc Vụ Viện Bắc Kinh
Mậu Tuất, Năm “Một-ngàn chín-trăm năm-mươi-tám”.(6)
Các Vua Hùng nơi đâu?
Cuộc hành quân xẻ dọc Trường Sơn cuối cùng hóa ra thất bại
Tự Vệ Thành nổ lựu đạn tan thân,
gục đầu lên giao thông hào chống xe tăng Pháp,
Chết giữ hùng khí Thăng Long.(7)
Đảng khinh miệt gạch phăng, bôi bẩn!
Trang lịch sử linh thiêng viết bởi máu vô vàn
Vạn, triệu trái tim lẫm liệt Việt Nam yêu nước.
Tất cả nay đã là vô ích!
Không bớt lằn roi đau rạch nát tấm lưng..
Đám sinh viên oằn người trên đất cũ cha ông
Thảm nhục hứng đòn thù công an Hà Nội,
nơi “Thủ Đô Phẩm Giá Con Người”!(8)
Rùa thiêng ngượng mặt lặng sâu..
Cương thổ ngập hàng lậu thuế
Made in China.

Made in China
Đỗ Mười giữ ghế tổng bí thư thêm nhiệm kỳ
Địa giới Nam Quan cắt phăng một phần cửa ải.
Ba mươi năm hơn sau ngày “giải phóng Miền Nam”
Đà Nẵng nhìn ra bóng Hồng Kỳ đỏ ngầy mặt nước.
Chính danh, quốc sĩ mất lý nghĩa linh thiêng,
“Tình Hữu Nghị”, món hàng tuỳ nghi miệng lưỡi,
Trung Quốc mặc tình cung cấp.
Mười năm hơn xẻ dọc Trường Sơn đánh Mỹ kiên cường
Cuối đoạt thắng..
Quê hương dầm sâu vũng bùn hôi tanh ô nhiễm
Phanh thây Dân bằng nanh vuốt sói lang
Xây dựng Nước với giấy, tiền giả mạo
Ấn chứng từ Bắc Kinh.

Nỗi đau kinh dị làm khô sôi tròng mắt,
Ôi giá như các anh còn chút lương tri,
Đôi phần trí nhớ..
Ở đâu nên “độc lập/hạnh phúc/tự do”?(9)
Họa chăng chỉ trên báo đảng
Cơ quan trung ương, món hàng cũ xưa, hư mòn, phế thải
Xứng đáng vất thiêu bãi lửa
Giải hạn oan hồn vất vưỡng cõi nghiệt Việt Nam
Để Mát-xcơ-va nên thành “thánh đô” thiện mỹ huy hoàng
Để Bắc Kinh kết tụ “chiếc nôi hòa bình” tuyệt vời thế kỷ
Âm u cặn máu cờ đỏ vàng sao
Vấy bẩn màu Bồ Đề hai ngàn năm trăm hơn Đại Phật!
Tưởng như một chuyện đời xưa..
Người chết hiện nguyên hình/râu/tóc/răng/mắt..
Theo dõi em thơ bới rác, lội cống, ngập sình
Hốt phân thối theo kế hoạch ngũ niên, quy trình tuổi nhỏ
Hoàn thiện mô hình “hạnh phúc”,
tiến lên thời kỳ quá độ.
“Khăn quàng đỏ” không đủ lau khô giòng lệ ứa!
“tự do” nào?!..
tự do, báo được phép đưa tin từ một nguồn kiểm duyệt
tự do, giết cướp giữa ban ngày không thể tìm ra dấu vết
tự do, phí tiêu bạc tỷ, triệu của dân
tự do, hủy phá đền, chùa, ruộng, rừng.. không cần nhận lệnh
tự do, phán quyết con người không quyền được sống..
Từ chứng tích, tội danh lý lịch quá khứ ngụy quân,
xếp nên hạng tiện dân,
phận ngặt lưu đày trên quê cha, đất tổ!

Ba mươi-ba năm sau lần “Đại Thắng Mùa Xuân”(10)
Đất nước đi lên bằng hai chân giấy, gỗ
Với khẩu hiệu ngây ngô,
Nghị quyết hàm hồ,
Kết tinh trọn vinh hoa, “Tư Bản Đỏ”.
Giai cấp (cách mạng) mới
Tổng hợp phương trình quỷ ma: “Thực dân/Vô sản”,
Nhìn xuống “bọn Sàigòn mất tên” ứ tràn khinh miệt!
Với trí hiểm tiếm danh, “Người Ái Quốc”
Với hãnh tiến tự tuyên công, “Cha Già Dân Tộc” (11)
Thây xác nằm nơi Ba Đình luôn mở mắt,
Sống tráo trở đổi tên,
Chết không hề che mặt.
Hiển hiện toàn phần chước quỷ/tính ma.
Quái thai hậu nhiên phẩm chất, khối lượng rặt ròng..
Quốc hội biểu quyết “chín-chín-phầm trăm” hơn nhất trí,
Ngàn đại biểu dùng chung một miếng khẩu trang!

Mỗi buổi sớm mai..
Mặt trời mọc nơi phương Đông vô hồi vĩnh cửu
Cũng muôn đời ô nhục
Loang thấm dần từ vết máu Hoàng, Trường Sa..
Để nhớ,

19 tháng 1, 1974-2008
Phan Nhật Nam




Du sinh "SỰ" từ Việt Nam hay khi Việt Tân "láu cá" bắt tay với CSVN!


Trương Minh Hòa

Từ ngày có mặt của đảng siêu cướp Cộng Sản Việt Nam và tên đại quốc tặc Hồ Chí Minh, đưa người Việt Nam luôn đặt trong tình trạng "đối đầu" với một băng đảng cướp tàn ác, thủ đoạn. tất cả các thành viên đảng cướp từ "hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc" luôn muốn móc cạn túi, bắt dân làm nô lệ từ đời cha đến con cháu, như câu nói của tên Nguyễn Hộ, với hơn 50 năm theo đảng cướp, thấm nhuần "chủ thuyết vừa ăn cướp vừa làm thầy đời do Karl Marx đề ra", lúc mới vào Saigòn tiếp thu nói với đồng bọn răng: "nhà chúng ta ở, vợ chúng ta lấy, con chúng ta bắt làm nô lệ"; sau nầy tên Nguyễn Hộ tranh giành quyền lực với các đồng đảng, bị thất bại nên bất mãn và được các tổ chức râu ria của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh như Hội chuyên Gia, Liên Minh Việt Nam Tự Do, tâng bốc là phản tỉnh với cái "quan điểm và cuộc sống" là người yêu dân mến nước; nhưng cuối cùng thì Nguyễn Hộ làm cho đám người nầy HỐ to, khi hắn tuyên bố: "chỉ ủng hộ cho Sáu Dân mà thôi".

Người dân sống dưới chế độ Cộng Sản luôn phải đối diện với bộ máy cai trị tham tàn nhà nước, đảng gian ác lãnh đạo, cuộc sống xã hội muôn ngàn khốn khó. Ngay trong trong các tôn giáo, tín đồ, phải đương đầu với các tu sĩ quốc doanh, luôn dòm ngó túi tiền lẫn tư tưởng để báo cáo với công an; trong học đường, cha mẹ trước đây sợ những "mầm non tình báo nhân dân mắt khóm tai bèo" và sau nầy luôn gặp những sách nhiễu "tiên học phí, hậu học văn" của hệ thống trường học do các "kỷ sư tâm hồn" xã hội chủ nghĩa "sáng tạo lẫn tối tạo" ra nhiều thứ tiền, coi đội ngũ phụ huynh là "nơi phát lương" lý tưởng của giáo chức, để "cải hoạt" và bổ sung thêm tiền lương chết đói. Trong xã hội đen cũng gặp bọn du côn, du đảng được đảng đỡ đầu, làm ăn bất chính như đám Năm Cam, Dương Hà ... tác động của băng đảng cướp Cộng Sản toàn diện đối với dân chúng, đảng cũng là nguyên nhân nghèo khổ, chết chóc tù đày; làm cho hàng triệu gia đình ly tán sau năm 1954 và 1975.

Ngay tại hải ngoại, dù không có mặt một cách chính thức của băng đảng cướp Cộng Sản Việt Nam, nhưng bàn tay lông lá nối dài qua các thành phần: gián điệp nằm vùng, tỵ nạn gian, đón gió làm xáo trộn các cộng đồng và ngay cả du học sinh từ trong nước, ngoài việc trao dồi kinh sử, còn có nhiều vấn đề phức tạp khác, làm cho tập thể người Việt tỵ nạn xào xáo không ít từ khi có mặt của chúng tại các cộng đồng tỵ nạn, gây ra nhiều tranh luận: kẻ muốn chiêu hồi, người thì e ngại những hạt giống đỏ nầy có khả năng lây lan nọc độc Cộng Sản đến thế hệ sau nầy. Do đó cái "mặt trận du sinh vẫn chưa yên tĩnh", nhất là trong cộng đồng tỵ nạn vẫn có một số người, tổ chức chủ trương thân thiện, cải hóa hay "cải tạo tư tưởng" mầm non đỏ, thuộc gia đình nằm trong diện "đỉnh cao trí tệ nòi người" và chủ trương dùng thành phần du học nầy để biến đất nước từ độc tài sang dân chủ, là con đường không tốn kém, đổ máu; nghe qua như chuyện "Tây Du Ký" vậy.

Ngày xưa, trước 1975, nước Việt Nam Cộng Hòa đã từng có chương trình gởi du học sinh sang các nước để mai sau mang tài năng về giúp nước; trong số nầy, có một số sinh viên được Việt Cộng cài vào, trở thành "du học quốc gia, thờ ma Cộng Sản" mà không hay biết, nhất là một số du học chương trình Colombo. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, là lúc "lửa cháy nhà lòi ra mặt chuột" một số sinh viên du học quốc gia, vứt bỏ lá cờ vàng ba sọc đỏ một cách dứt khoát, đồng thời họ treo cờ đỏ sao vàng, ăn mừng "đại thắng mùa xuân" hòa nhịp với nổi vui mừng khôn tả cái chiến thắng thời cơ của bọn giặc Cộng "từ miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào"; bên cạnh đó cũng có một số sinh viên quốc gia cảm thấy đau lòng trước lòng người đổi trắng thay đen và chính quyền miền Nam đã lầm khi đưa những kẻ nầy sang du học.

Điển hình như tại Úc Châu, đám du học sinh miền Nam thành lập cái gọi là "Hội Sinh Viên Đoàn Kết" sau 1975, chúng nhảy múa ăn mừng chiến thắng và vô cùng hồ hởi phấn khởi. Nhờ được du học, có trình độ, Anh ngữ lưu loát, ban đầu họ chiếm một số đài phát thanh sắc tộc địa phương, đưa những chương trình tuyên truyền của Việt Cộng vào; mặc dù lúc đó con số người Việt tỵ nạn không đông, nhưng cũng quyết tâm "diệt trừ mầm mống đỏ" nên cái Hội Sinh Viên Đoàn Kết khuynh tả bị lột mặt, chúng đành bỏ chạy, mai danh ẩn tích từ thập niên 1980. Như ở Tây Úc, có một số sinh viên khuynh tả, nổi bật hai chị em Thái Thị Tuyết, Thái Thị Sương, chiếm đài phát thanh, khi làm thư viện đưa sách báo của Việt Cộng vào và sau cũng đành bỏ chạy, nên từ đó, địa phương nầy mới có đài phát thanh nằm trong tổ chức cộng đồng Người Việt Tự Do.

Thời gian sau nầy, hai chị em họ Thái chuyển sang công tác "tôn giáo vận" lập ra thiền viện Tuệ Căn, bị thất bại chua cay sau vụ rước tên sư quốc doanh Thích Thanh từ. Sinh viên khuynh tả khác là Hồ Triệu Ngọc Luân cũng lặn mất sau thời gia hoạt động trong Hội Sinh Viên Đoàn Kết, nghe sang ở các tiểu bang miền Đông và hình như gia nhập Hội Chuyên Gia của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh?. Thành công nhất trong đám sinh viên huynh tả là tên Nguyễn Thành Châu, sau nầy được bổ nhiệm làm đại sứ của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ở Úc, hắn tuyên bố là: "dẹp cộng đồng tỵ nạn trong vòng một năm". Năm 2003, tiến sĩ Mai Thanh Triết cho là: cộng đồng Úc Châu thoát thai từ hội Sinh Viên Đoàn Kết và khuyên cộng đồng nên thay đổi cách đấu tranh với Việt Cộng, được hiểu là "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Dù là tiến sĩ, học vị cao, nhưng đâu phải có bằng cấp mà muốn nói gì thì nói:

"Kỹ sư, tiến sĩ, danh đề.
Nói năng bậy bạ, chúng hè chửi cha"

Sinh viên du học từ miền Nam gởi ra, mà còn bị "trở mặt" huống chi là các du học sinh từ trong những gia đình cán bộ nồng cốt gởi sang. Một câu hỏi đặt ra: có khi nào đứa con ruột của mình lại đi tố cáo cha mẹ trốn thuế, làm những chuyện phi pháp? Điều nầy rất ít khi xảy ra, dù cho đứa con mất dại, ngố nghịch, nên trong tục ngữ có câu: "có ai chịu cha ăn cướp". Du học sinh có gia đình thuộc thành phần giàu có trong cái xã hội nghèo khổ Việt Nam; trong khi tuyệt đại đa số học trò, học sinh phải vật lộn với học phí, ngoài ra còn phải nay lưng chi trả thêm hàng chục loại tiền do các trường, ban giám hiệu, đảng bộ, sáng tạo "tự biên tự diễn" mà đảng và nhà nước làm lơ, ngầm khuyến khích các trường cứ ra nhiều thứ thu khác, để kiếm chác; vì đó là cái biến thể "thời thượng" của chính sách "thanh lọc học đường hiện đại" mà trước đây gọi là "học tài thi lý lịch", là lối đào tạo thế hệ đỏ, xuất phát từ cái chủ trương "Hồng hơn chuyên" nhằm ngăn chận những thành phần "phản động" hay thuộc các gia đình ngoài đảng, trong việc củng cố cái thế độc quyền cai trị của đảng, theo phương cách phong kiến "cha truyền con nối"; đó là thủ đoạn của cán bộ cha, làm thế nào để truyền ghế, địa vị cho cán bộ con, cứ thế mà phát huy từ "hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc" nên tại Việt Nam, từ ngày "có đảng, có Bác mới có ngày nay" thì nhiều thế hệ con cháu đảng viên đã kế tục sự nghiệp "bốc lột, bốc lộc, đại bốc lột-Cỡi cổ, cỡi cổ, đại cỡi cổ", còn tuyệt đại đa số dân thường thì không vượt qua được "bức tường lửa NGHÈO", nên con cái phải đành "xếp bút nghiên theo nghiệp lao nô". Chính sách học phí cao, sách nhiễu học đường cũng bằng tiền, làm mai một nhiều thế hệ, tài năng đất nước; trái lại đảng đưa con cháu đi du học, cũng nhằm để duy trì thế độc đảng mãi mãi như câu tục ngữ:

"Con vua thì đặng làm vua.
Con sải ở chùa, đi quét lá đa".

Thời thuộc địa Pháp, con nhà nghèo hiếu học còn có thể tiến thân nếu có tài và thời đó, có nhiều người nghèo thành danh. Trái lại thời Cộng Sản cai trị, thì thành phần tiến thân thường xuất phát từ gia đình đảng viên, cán bộ, phe cánh mà họ tự xưng là "thành phần gia đình cách mạng" và cũng có danh xưng "đỉnh cao trí tuệ loài người" dù họ học dốt, thi lậu. Du học sinh là người mà đảng mong cho mai sau, chớ không phải "tổ quốc trông chờ", mỗi du học sinh "đi một ngày đàng, học sàng khôn" phải tốn hàng năm hàng chục ngàn Mỹ Kim học phí ở các trường, chưa kể để ăn ở, vui chơi, bài bạc ở các sòng Casino, để cho các cô chiêu, cậu ấm giải trí trong lúc "traoudồi kinh sử" học hỏi kiến thức tại các nước "tư bản phản động". Do đó, mỗi một chữ mà sinh viên "tiếp thu" thì dân chúng "đổ một giọt máu, một vũng mồ hôi". Ngoài thành phần 5 C tức là "con cháu các cụ cả", du học sinh còn xuất phát từ gia đình những người có quan hệ làm ăn "dây dưa rễ má" ăn chia với đảng, cán bộ, giàu có, nên thành phần nầy cũng rất "hài lòng" với chế độ, họ rất sợ chế độ sụp đổ, thì công việc làm ăn khó khăn và không chừng tài sản bị nhân dân hạch hỏi nguồn gốc, nên con cháu của họ du học không ngoài củng cố địa vị gia đình, chứ không giúp ích gì cho đất nước và những gì mà tuyệt đại đa số dân chúng mong chờ. Thành phần ít khác là những gia đình có người ở nước ngoài, có khả năng giúp cháu đi du học.

Tóm lại, du học sinh từ Việt Nam đa số là thành phần "ưu ái" được đảng gởi sang các nước tự do để học hỏi, trao dồi kiến thức, hầu sau nầy "kế tục" địa vị ăn trên đầu dân chúng; do đó, người Việt Nam không nên trông chờ vào thành phần nầy, họ cũng chỉ là "phản ánh" quyền lợi của cha ông mà thôi. Du học sinh Việt Nam sang từ hàng chục năm qua, có mấy người "phản tỉnh" yêu nước, thương dân, dám đứng lên tố cáo cha mẹ, giòng họ là "quân ăn cướp" để trả lại dân chủ, tự do, cho dân? Đây là đáp số đã được nhìn thấy trước khi làm bài toán. Tuy nhiên đa số thuộc thành phần "liu điu lại nở ra dòng liu điu" cứ tiếp tục cho con du học, trở về và được đặt ngồi những chiếc ghế quyền lực từ bộ máy nhà nước đến ngành nghề chuyên môn. Có thể nói là nhờ hệ thống các nước dân chủ mà Việt Cộng hưởng được "chế độ" đào tạo, nên đảng có một đội ngũ "chuyên gia" dù không đủ, nhưng cũng đáp ứng phần nào nhu cầu "chiến lược", khi cần có ngay; đó là trường hợp mới đây, khi các "chuyên gia" thiết kế hệ thống máy móc để theo dõi nhà thờ ở Thái Hà, khỏi cần công an tới mà vẫn biết hết. Nhờ những du học sinh nầy, mà đảng và nhà nước mới có khả năng lập ra các hệ thống kiểm soát, kiểm duyệt internet, giúp cho công an trấn áp dân chủ, ngăn chận những nguồn thông tin trung thực từ bên ngoài và các trang báo điện tử cá nhân (Blogger). Cho nên, du học sinh không thể tin cậy, trái lại chúng còn tác hại cho các cộng đồng người Việt hải ngoại không nhỏ qua việc:

- Mang những từ ngữ chuyên môn, tư tưởng của Cộng Sản để ảnh hưởng đến con cháu người Việt tỵ nạn, khi chúng học chung trong các trường đại học.

- Được đào tạo kỹ về chính trị, quàng khăn đỏ từ tiểu học đến đại học, ảnh hưởng truyền thống "bất lương" từ gia đình, khó có được tấm lòng và bản chất lương thiện. Đó là thành phần: "Ngày nay du học, ngày sau hại đời".

- Không coi lá cờ vàng ba sọc đỏ là cờ của họ, trái lại, du học sinh còn muốn lá cờ máu phất phới tại toàn thể các nơi có người Việt định cư. Vụ Trung Cộng mới đây, đã làm lộ ra cái ý đồ thâm độc, được một số kẻ đón gió, nằm vùng muốn nhập chung cờ vàng và cờ đỏ để chống Trung Cộng là bước đầu; đảo, đất chưa thấy đâu, mà Việt Cộng có co hội treo lá cờ máu ở hải ngoại và dần dần thì cờ máu xuất hiện công khai, được các sứ quán hỗ trợ qua chính sách ngoại giao. Do đó du học sinh là mầm mống đỏ, cần đề cao cảnh giác.

- Tư tưởng không bao giờ biến cải, thứ chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã mọc rễ trong óc, đa số coi Hồ Chí Minh là thần tượng và đương nhiên là những bài học chính trị nhồi sọ ăn sâu vào tư tưởng, trở thành định kiến: coi người Việt quốc gia là ngụy, là xấu và gia đình chúng là "cách mạng, yêu nước".

- Trong hàng ngũ du học, cũng có cả gián điệp được cài vào, chúng hoạt động âm thầm và tìm cách ở lại, là những con siêu vi trùng Cộng Sản nguy hiểm, nằm mai phục, chờ thời cơ vùng lên.

- Du học sinh là những người có học, nếu là có đầu óc, nhìn lối sống, sinh hoạt dân chủ của các nước mà "giác ngộ" thì nước Việt Nam chắc là có dân chủ từ lâu. Trái lại, họ chỉ học hỏi kiến thức, bỏ ngoài tai, mắt các sinh hoạt dân chủ và đồng thời "điều nghiên" những khe hở để tìm cách đánh phá, tiêu diệt bọn "tư bản phản động" là lý tưởng của ông cha, đồng thời dựa vào các luật lệ có sẵn của các nước để "điều phối" với luật rừng tại Việt Nam, làm ra luật "buôn bán lao nô, phụ nữ" sang các nước khác để lấy tiền. Do đó, từ ngày có nhiều sinh viên du học, thì tình trạng buôn bán phụ nữ gia tăng vượt chỉ tiêu và có vẻ phù hợp với "luật di trú các nước" qua chương trì di dân theo diện hôn phối, ngoài ra còn có luật nhân con nuôi ... là những cách buôn người "hợp pháp" để lấy tiền. Đây là những thứ luật "buôn bán nô lệ thời thượng" là thành quả mà các du học sinh mang về để giúp đảng và nhà nước thu thêm nhiều lợi nhuận, làm giàu, trong đó có gia đình du sinh.

Từ lâu nay, các quốc gia Tây Phương đã sai lầm khi cho là: nhờ các du học sinh, mang kiến thức và sinh hoạt dân chủ về phổ biến, dần dần biến nước Cộng Sản thành dân chủ, là một điều không tưởng. Hàng năm tại Trung Quốc, Việt Nam, biết bao du học sinh sang tận các quốc gia hùng mạnh, dân chủ nhất thế giới để học và từ mấy mươi năm qua, Trung Quốc, Việt Nam vẫn "trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Cộng Sản". Nhưng một điều chắc chắn có lợi lớn cho đảng là các du học sinh trở thành thành phần nòng cốt, thay thế ông cha, tiếp tục lãnh đạo theo con đường độc tài. Một điều nguy hiểm khác là thành phần "độc tài" có trình độ văn hóa, kiến thức đại học, từng du học nước ngoài và từng "đi hết biển" cai trị độc địa, thâm sâu hơn thành phần "độc tài dốt", chúng bóc lột khéo léo, ăn chận tinh vi, giết người có phương pháp khoa học ... Năm 2007, khi tân đại sứ Hoa Kỳ là ông Michael Michalak có ý định tăng gấp đôi số học bổng cho Việt Nam, là một sai lầm nghiêm trọng, tiếp tục đào tạo cho đảng Cộng Sản Việt Nam một thế hệ "độc tài mới, độc tài có trình độ" và khôn khéo hơn, biết khai thác luật quốc tế, khe hở thị trường, kinh tế để làm giàu cho cá nhân, dòng họ, thì biết bao giờ Hoa Kỳ mới giao thương làm ăn, bảo đảm với một chính quyền dân chủ như họ?.

Có người chủ trương là cần chiêu hồi thành phần du học sinh để hướng dẫn họ đi theo con đường dân chủ; xin cảnh báo là: còn lâu mới được. Chủ trương "dùng gậy ông đập lưng ông" chỉ là chiêu bài của những thành phần "đón gió trở cờ" và gián điệp nằm vùng, tay sai, muốn dọn đường để thả bầy rắn đỏ du học sinh vào cắn "giới trẻ" con cháu người tỵ nạn. Từ lâu, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh qua cái tổ chức râu ria là Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia Việt Nam chủ trương "chiêu hồi du học sinh" để từ đó nhờ những mầm non đỏ nầy lật đổ chế độ Cộng Sản; tức là con của cán bộ, đảng viên nồng cốt, giàu có, đầy quyền lực, sau khi đi du học về, bèn "giác ngộ dân chủ" mà đứng dậy "đấu tố" cha mẹ là tham nhũng, tàn ác ... để đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đến cái đỉnh "dân chủ đa nguyên".

Lối lý luận, ru ngủ nầy, một thời làm một số người ngây thơ, tưởng thiệt, nên nhào vô ủng hộ cho Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tin tưởng là rút ngắn ngày về, lật đổ chế độ Cộng Sản êm như đi chợ vậy, khỏi tốn một viên đạn. Kế đến, Liên Sô, Đông Âu sụp đổ, càng làm cho đám Mặt Trận Hoàng Cơ Minh có thêm được "cơ sở luận lý cơ bản", tìm được liều thuốc "ăn thần" để tiếp tục chủ trương làm lợi cho Việt Cộng. Tuy nhiên, chuyện "con cái đấu tố cha mẹ" chỉ thấy ở chế độ Cộng Sản kích động, gây hận thù, đe dọa nên con cái tố cha mẹ để được an toàn; như trường hợp của Nguyễn Khắc Viện, người có ăn học, vỗ tay reo hò khi nhìn thấy cha là cụ Nghè Hương Sơn Nguyễn Khắc Niêm đang bị đám nông dân dốt bắt nhốt trong cũi, chờ ra tòa án nhân dân để lãnh án chết. Chủ trương "chiêu hồi" của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và ngày nay là đảng Việt Tân, là chính sách "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chuyện làm tay sai cho Việt Cộng là không bao giờ thay đổi", chỉ khi nào Việt Tân giải thể, mới chấm dứt cái chính sách nầy.

Tại tiểu bang Queensland, Úc Châu, tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tự Do, với chủ tịch là bác sĩ Bùi Trọng Cường, là thành viên "kỳ cựu" của băng đảng Việt Tân, thì cái chuyện "đi đêm, bắt tay với Việt Cộng qua đại diện "cánh tay nối dài của đảng" là đám du học sinh, điều nằm trong "chủ trương" của đảng Việt Tân.

Qua vụ nầy, thì rõ ràng là băng đảng Việt Tân đã "thấm nhuần" bài học tráo trở "cơ bản chủ yếu" của Hồ Chí Minh, tên Việt gian nầy đã từng lợi dụng chức vụ chủ tịch chính phủ lâm thời, sang Pháp dự hội nghị ở Fontainbleau, rồi bí mật bán đứng cả dân tộc bằng cách mời thực dân Pháp trở lại cai trị lần nữa, qua hiệp ước sơ bộ 4-6-1946. Lần nầy thì "chi bộ băng đảng Việt Tân" ở Queensland, lợi dụng bình phong tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tự Do Queensland để móc nối với đám "con đảng cháu bác", nay những kẻ ấy hết đường chối cãi qua việc làm hai mặt đã bị "phát hiện": khi hợp với các hội đoàn thì phản ứng biểu tình, mặt khác đi đêm với các sinh viên con đảng, cháu bác trong cái tổ chức "Vietnam Student Festival 2008" để làm cái đề tài: "Taste Vietnam" ngày 3 tháng 10 năm 2008 tại trường College Queensland Arst, qui tụ hàng trăm du học sinh. Bị khám phá, những kẻ trong đảng Việt Tân cho là: "thỏa hiệp và nhượng bộ" với sinh viên du học, theo họ thì sinh viên nhường bộ là không treo cờ đỏ và bên Việt Tân thì vẫn sinh hoạt chung, đúng là "hòa hợp hòa giải" tức là hình thức Quốc-Cộng đề huề mà đảng Việt Tân và đảng Cộng Sản cùng nhau thực hiện trong tinh thần: "lao tư lưỡng lợi".

Như vậy, một nhóm "chi bộ băng đảng Việt Tân" có tư cách gì để làm chuyện nầy?. Người của băng đảng Việt Tân biện minh là "thắng lợi" nhưng đây là mưu đồ bán đứng cộng đồng, tạo điều kiện "bắc nhịp cầu" để cho đám rắn độc đỏ có nơi làm hang ổ và công khai sinh hoạt với cộng đồng. Do đó, hành vi của băng đảng Việt Tân đã rõ ràng là núp bóng quốc gia, la cà với Cộng Sản; tức là: "Việt Gian, Cộng Sản là một, băng đảng Việt Tân và Việt Cộng là một, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi". Một điều cần quan tâm là; cái chuyện nầy có quan hệ đến lập trường tỵ nạn chính trị, sinh hoạt cộng đồng, thế mà đài phát thanh sắc tộc SBS bưng bít y như trong nước, nếu không nhờ có các cơ quan truyền thông khác, thì ngay cả người dân Việt ở Úc Châu cũng không hề biết chuyện nầy (*)

Một điều cần cảnh báo là thành phần du học có "gốc gác" ảnh hưởng ngược lại những kẻ "chiêu hồi", khi chúng mang quyền lợi kinh tế, tiền bạc để biến những kẻ chiêu dụ thành đầu hàng. Hiện tượng một số người làm sui gia với cán bọ Cộng Sản, tướng tá .... được bên kia giúp đỡ làm ăn, trở thành phản bội, là những cái loa tuyên truyền cho đảng, tức là đã bị "ăn phải bã mía" mà tự động làm công cụ cho đảng.

Một số cơ quan truyền thông của người Việt tỵ nạn, không biết là thành phần tỵ nạn chính trị, kinh tế hay gián điệp chen chân vào, họ chủ trương dùng "từ ngữ Việt Cộng" để phổ biến, họ cho là "để tạo nhịp cầu thông cảm với các du học sinh". Nhưng đây là việc là nguy hiểm, chiêu hồi đâu không thấy, trước mắt là thế hệ trẻ hải ngoai bị đầu độc từ ngữ và dần dần dễ "tiếp thu" sách báo, tài liệu của Việt Cộng xâm nhập các thư viện. Một số đài phát thanh tiếng Việt do chính quyền các nước tài trợ, với chính sách đa văn hóa, đã dùng tiền thọ thuế của dân, trong đó có sự đóng góp của người Việt tỵ nạn. Thay vì phục vụ cho những người đóng thuế, thì đài phát thanh lại dành nhiều ưu ái cho những du học sinh, làm vừa lòng sứ quán. Do đó, ở mọi nơi, khi gặp phải các cơ quan truyền thông như thế, các cộng đồng tỵ nạn nên lưu ý, nếu cần cũng phải hành động như ở Úc Châu, từng xuống đường hàng chục ngàn người phản đối đài truyền hình SBS cho trình chiếu chương trình Thời Sự của Việt Cộng.

Như thế, du học sinh từ Việt Nam cũng là mối đe dọa sự an bình của các cộng đồng tỵ nạn, từng là nguyên nhân gây ra các cuộc tranh cải về lợi và hại của những mầm đỏ được đưa sang, không phải để sau nầy xây dựng đất nước, mà là để đào tạo thế hệ đảng viên kế tiếp. Băng đảng Việt Tân chính là tổ chức bắt nhịp cầu "giao liên" cho du sinh con đảng, cháu bác từ hàng chục năm qua, không loại trừ trong băng đảng nầy đã có nhiều du sinh trở thành đảng viên, điều hành và chỉ đạo những "đảng viên" khắp nơi gốc tỵ nạn; nên không ngạc nhiên khi đảng Việt Tân đưa ra những kế hoạch có lợi cho Việt Cộng như: biến ngày quốc hận thành ngày diễn hành cho tự do (tức là ăn mừng đại thắng mùa xuân mới diễn hành), biến ngày giỗ tổ Hùng Vương thành ngày quốc khánh. Do đó, người Việt hải ngoại cần biết một điều "đừng tin những gì Việt Tân nói, hảy nhìn kỷ những gì Việt Tân làm" để khỏi bị lầm lần nữa. Tin Việt Tân chẳng khác nao tin Việt Cộng vậy.

Tin tưởng vào đám du học sinh từ trong nước, sau nầy mang về dân chủ, tự do là điều vô cùng ngây thơ, chỉ trừ thành phần có quan hệ mới ngụy biện là "chiêu hồi" du học sinh, chớ tuyệt đại đa số dân tỵ nạn không bao giờ tin du học sinh có tấm lòng với đất nước, ngoại trừ quyền lợi tối thượng của gia đình và sự sống còn của đảng. Từ nhiều năm qua, hàng chục ngàn sinh viên du học, chỉ thấy có một vài "con nhạn" phản tỉnh như Nam Phương Đổ Nam Hải, nhưng cũng chưa chắc là "phản tỉnh thiệt" sau thời gian chống đảng, thì đừng nói đến những sinh viên du học, mà cha mẹ chúng có nhiều tài sản, luôn luôn phập phòng lo sợ chế độ sụp đổ, túi tiền có còn hay không?. Người Việt hải ngoại không" kỳ thị" du học sinh từ Việt Nam, nhưng cũng phải đề cao cảnh giác và nhất là biết họ là ai?

Ghi Chú.(*) Đối với các thính giả nghe đài thường, thì Đài phát thanh Việt ngữ SBS Úc Châu được coi là diễn đàn của Thích Nhất Hạnh, Nguyễn Gia Kiểng ... thỉnh thoảng có mời "cán bộ cao cấp", nhà văn, thơ, phản tỉnh ... trong nước phát biểu, chia sẻ. Đài từng cộng tác chặc chẻ với "Tiệm Phật Phước Huệ Công Đức Tùm Lum "với những buổi" thuyết pháp, hoằng đạo "trong những ngày lễ, vía và làm từ thiện với quỷ Vabat, mổ mắt cườm, cứu trợ "thoải mái" ra vào Việt Nam. Đài nầy kỵ đọc thông báo mời đồng bào Úc đi biểu tình, chống văn hóa, tôn giáo, đầu lãnh Việt Cộng sang Úc, hình như là vì ngại làm" phương hại đến tình hữu nghị Úc-Việt đời đời, túi hở tiền viện trợ giảm". Tuy nhiên, thời bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến làm chủ tịch cộng đồng Người Việt Tự Do Liên Bang, nghe đâu muốn vận động chính phủ Úc tăng thêm giờ phát thanh cho đài, để làm công tác truyền thông, thường phổ biến những "từ ngữ Việt Cộng" để cho người Việt hải ngoại "tiếp thu". Hình như đài nầy có bịnh "Viễn Thị" nên mời các cộng tác viên từ xa như: Hoàng Dung là du học sinh Việt Nam tại Liên Sô, du học từ 1988- Đỗ Thông Minh từ Nhật-Kiều Mỹ Duyên từ Hoa Kỳ (tháng 5, 2008, bà nầy cho là bầu cử cho John Mc Cain như là bầu cử cho Việt Cộng, nên bà xác định lập trường là bầu cho Obama, mặc dù bà tự cho là đảng Cộng Hòa và bà cũng thường ca tụng công đức của các thầy, như bà cho là tro của hòa thượng Mẫn Giác sau khi viên tịch, lấp lánh như ngọc xá lợi). Tuy nhiên, đài không nhìn thấy cái gì "gần" là tại Úc Châu, chắc là vì bị Viễn Thị. Nên không phổ biến vụ sinh viên Việt Cộng cấu kết với băng đảng Việt Tân ở Queensland.

Mới đây, ngày 2 tháng 10 năm 2008, trong buổi phát thanh với tiết mục "Việt Nam Quê Hương Mến yêu" do trưởng đài Quốc Việt cùng với Phượng Hoàng, phần cuối chương trình là một bản nhạc khá quen thuộc, từng một thời với các bản "kết đoàn, nam bộ kháng chiến, đoàn giải phóng quân ..." hình như tựa là "lên đường?" Từng được hát vang dưới thời Trần Văn Giàu làm chủ tịch ủy Ban Hành Chánh kháng chiến Nam Bộ. Bản nhạc nầy được hát ở mật khu Việt Cộng trong thời kỳ chiến tranh trước 1975 và sau 1975 thì được hát rất nhiều trên các đài phát thanh, truyền hình, các đoàn thanh niên xung phong, bộ đội nghĩa vụ sang Miên .... lời hát như: "nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường .... ta nguyền đồng lòng điểm tô non song từ nay, ra sức anh hào ...". Hy vọng nay mai, đài cũng cho hát bài "mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh" hay là "như có bác trong ngày vui đại thắng".... trong tinh thần "văn nghệ phi chính trị", phục vụ du sinh từ Việt Nam sang cho đỡ nhớ nhà ....

Trương Minh Hòa


Monday, October 6, 2008

Bút Vàng ChíThiện Nhéo Tai Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh


Nam Nhan
(Quân nhân QLVNCH)

Lừa sĩ Nguyễn chí Thiện đang bị bóc mẽ. Báo Sài-gòn Nhỏ cũng vào cuộc, mục đích để cho cả những người muốn tìm sự thật quanh kiệt tác Vô Đề, lẫn Nguyễn chí Thiện cùng có dịp như nhau đặt câu hỏi và trả lời, và trọng tài sẽ là bạn đọc khắp nơi. Từ chỗ Nguyễn chí Thiện cư ngụ đến Sài-gòn Nhỏ cũng rất gần, nhưng Nguyễn chí Thiện không đến (hay không dám đến) mà lại đến "mạn đàm với Hoàng Vân" (một bút danh khác của Thị Thuấn) về đề tài nói trên. Ai cũng biết một cách dễ dàng là từ Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Trần mạnh Hảo, cho đến những Hoàng minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn thanh Giang cho đến Nguyễn khắc Toàn… đều được Thị Thuấn cho ngồi lên đầu với đầy tự hào, kể cả những loại như Đỗ ngọc Yến, Đỗ hoàng Điềm, Nhật Tiến, Chu thất Tiến, Phan nhật Nam …và đặc biệt là Nguyễn chí Thiện và Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh. Cho nên cuộc mạn đàm này, giữa Hoàng Vân và Nguyễn chí Thiện, chủ đích Thị Thuấn tạo điều kiện cho Nguyễn chí Thiện múa gậy vườn hoang. Vài tên lâu la chạy cờ hiệu đã hỉ hả kêu gọi trên các diễn đàn "nhào dzô, nhào dzô mà nghe "Ts Nguyễn chí Thiện" ra chiêu hóa giải.

Theo lời rao hàng đó, Nam Nhân tôi, vội mở trang web Ánh dương ra để nghe cuộc mạn đờm của hai quới nhân đó: một lừa sĩ với một nhà báo … hại, nổi tiếng sủa bậy và nâng bi, thò mặt ở Diễn đàn nào là hoặc bị chửi hoặc làm trò cười cho bà con thành viên Diễn đàn đó (kể cả thời gian Thị Thuấn còn thò cổ trên các Diễn đàn Paltalks).

Nghe cuộc mạn đàm, từ nội dung cho đến ngôn ngữ và cách thể hiện, Nam Nhân tôi phì cười vì cái giọng "nhà quê" của cả hai, như tác giả Trọng Tín, ở Nhật, mới viết bài nhận xét. Nó na ná như cảnh Thị Nở và Chí Phèo đang vừa nhậu vừa tán tỉnh nhau.

Qua cuộc mạn đàm này, xin quý bạn đọc lưu ý những chi tiết sau, mà Nam nhân xin được tóm lược:

Thứ nhất: Nguyễn chí Thiện xác nhận sinh năm 1939. Xác nhận trình độ học lực: đỗ TÚ TÀI PHẦN MỘT, tại Hà-nội vào năm 1956.

Thứ hai: Nguyễn chí Thiện xác nhận là học ở nhiều trường tại Hà-nội, như trường Minh Tân, và học thêm Pháp văn nhiều người, như giáo sư Nguyễn Giang (con học giả và dịch giả Nguyễn văn Vĩnh), và nhiều năm học Anh văn với giáo sư Lê bá Công (Lê bá Khanh). Năm 1954, cộng sản vào Hà-nội, nhờ thày cũ, là giáo sư Nguyễn Giang, được Pháp thuê làm hiệu trưởng trường Albert Sarraut, nên 1955 Thiện được vào học A. Sarraut với tư cách auditeur libre (tức dự thính viên), và học nhảy (lớp) thi đậu tú tài phần một.( Tức là Thiện tự nhận NÓI THẠO CẢ PHÁP LẪN ANH VĂN, NHƯNG GIỎI PHÁP VĂN HƠN ANH VĂN RẤT NHIỀU).

Thứ ba: Nguyễn chí Thiện trả lời câu hỏi của Thị Thuấn, đã khẳng định rằng thời gian đó (tức 1956) chế độ thi cử vẫn như cũ (nghĩa là vẫn có thi tú tài), vẫn học theo hệ 12 năm, vài năm sau (tức sau 1956) mới đổi thành hệ 10 năm.

Thứ tư: Nguyễn chí Thiện cho biết, đến giữa 1956 bị ho lao, có khi ho ra hàng cốc máu, bố mẹ có cái nhà ở phố Lò Đúc, phải bán đi "chữa bệnh hết MẸ nó cả tiền" (nguyên văn câu nói của Thiện). Cho nên 1957 phải xuống Hải-phòng chữa bệnh ho lao ở bệnh viện Việt-Tiệp. Nhưng khi bị tù thì tự nhiên hết bệnh!

Thứ năm: Nguyễn chí Thiện nói không hề liên quan gì đến nhóm Nhân văn - Giai phẩm, khi vào tù mới biết những người đó. Việc đi tù lần đầu là do: ở Hải-phòng, Thiện chơi với một số trí thức(!), lớn hơn Thiện cả dăm sáu tuổi. Trong đó có người dạy học ở TRƯỜNG Bổ túc văn hóa cho công nhân viên. Thiện cho biết, TRƯỜNG đó chỉ có MỘT LỚP HỌC, LÈO TÈO VÀI CÁI BÀN. Và Thiện dạy hộ có hai tiếng đồng hồ thôi. Người bạn có đưa tài liệu cho dạy nhưng Thiện không dùng mà dạy ứng khẩu thôi. Theo sự hiểu biết từ trước 1954, rằng nhờ Mỹ ném hai quả bom nguyên tử nên Nhật phải đầu hàng, trong khi đó thì tài liệu của cộng sản viết là nhờ Liên-xô đánh tan đạo quân Quan đông của Nhật. Vì không tham khảo tài liệu nên việc nói "nhờ 2 quả bom nguyên tử của Mỹ là VÔ TÌNH, chứ biết thì: "bố bảo cũng CHẲNG DÁM" (nguyên văn câu Thiện nói) để bị đi tù. Bị học sinh báo cáo, nhưng công an chưa bắt vội mà theo dõi, 2 tháng sau, tức đầu 1961 mới bị bắt. Lý do: thời kỳ đó Thiện có làm một số thơ, đọc cho bạn bè nghe và tụ họp đấu láo. Bạn bè lại đọc cho người khác nghe và cứ thế truyền đi, công an theo rõi nghi Thiện là tác giả, cùng việc dạy học nói ở trên, nên mới bị bắt. Chuyện làm thơ, Thiện chối, không chứng cớ nên công an chịu, còn sự việc dạy học thì không thể chối được. Vì thế không thể xét xử được, cộng sản đành cho Thiện đi cải tạo 3 năm, nhưng 3 năm rưỡi mới được về. Đó là TÙ LẦN ĐẦU, vào năm 1961.

Thứ sáu: Thị Thuấn cho Thiện biết "CHÚNG NÓ" cứ lôi chuyện của anh ra. Thiện hỏi là ai, thì Thị Thuấn cho biết là Tôn nữ Hoàng Hoa và Hoàng dược Thảo. Thiện cười và nói "lũ đó à, không thèm để ý" và cũng không cần trả lời.

Chẳng cứ Nam nhân, mà tin rằng chuyện ở miền Bắc VN từ 1975 về trước, chắc ít ai biết hoặc còn nhớ đầy đủ, cho nên việt-gian-cộng-sản và lũ đặc công đỏ tha hồ bịa đặt, phét lác, trong đó có cả Nguyễn chí Thiện. Vì thế khi nghe xong "cuộc mạn đờm của Thị Nở-Chí Phèo" này, Nam Nhân đã phải cất công đi London trực tiếp hỏi nhà báo Việt Thường, một người vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng sống về các tội ác cũng như những thủ đoạn lưu manh của tập đoàn việt-gian-cộng-sản, và ông cũng là người gốc Hà-nội, sống ở miền Bắc từ 1954 đến giữa năm 1976 và đặc biệt ông để tâm nghiên cứu về mọi mặt của việt-gian-cộng-sản, cả người lẫn việc.

Ô. Việt Thường cho biết: "Trong cuộc mạn đàm với Hoàng Vân (tức Thị Thuấn), tại sao Nguyễn chí Thiện đã NÓI SAI SỰ THẬT tất cả mọi chuyện mà không sợ sẽ có ngày lòi đuôi:

Thứ nhất: Sau khi việt-gian-cộng-sản vào Hà-nội từ 9-10-1954, thì chúng chiếm ngay các trường Albert Sarraut, làm văn phòng cho các ban của trung ương đảng lao động (tức cộng sản), còn nơi cũng gọi là văn phòng kiêm nhà khách của trung ương là tòa biệt thự của nguyên tổng đốc thời vua Bảo Đại, là Vi văn Định , bố vợ các bộ trưởng giáo dục ngụy quyền Hà-nội là Ts Nguyễn văn Huyên; là giám đốc trường đại học y dược Hà-nội,Gs thạc sĩ Hồ đắc Dzi; và là ông vợ của Bs Tôn thất Tùng, thứ trưởng y tế ngụy quyền Hà-nội kiêm giám đốc bệnh viện Việt-Đức. Còn trường nữ học của Pháp, xưa là Felix Faure, làm trụ sở cho sứ quán Nga-xô. Các trường học vẫn cho các nhà giáo cũ được tiếp tục dạy với tư cách lưu dụng, nhưng hiệu trưởng là đảng viên cộng sản vào nắm quyền, cùng một số giáo viên từ vùng cộng sản tạm chiếm vào, bảo đảm ít nhất mỗi trường lúc đó có 3 đảng viên để hình thành một chi bộ cộng sản. Và cũng có ngay các phân đoàn, chi đoàn thanh niên cứu quốc (tức thanh niên cộng sản hồ chí minh sau này) trong học sinh và giáo viên còn trong lứa tuổi thanh niên. Đồng thời chúng cho lập công đoàn, gồm tất cả giáo viên của trường với hầm bà làng, lao công quét dọn vệ sinh, gác trường, tạp dịch … Thư ký có thể là một giáo viên ngoài đảng, nhưng do chi bộ việt-gian-cộng-sản lựa chọn và chỉ định cho bầu và lãnh đạo. Trong ban chấp hành công đoàn, nhất thiết phải có lao công là thường vụ hoặc phó thư ký. Nếu có dăm giáo viên nữ trở lên thì chúng cho thành lập tổ phụ nữ. Về chuyên môn, chúng cho lập hội đồng giáo viên và các tổ bộ môn để soạn chung giáo án, theo dõi giúp nhau giảng dạy đúng chương trình, có nghĩa không được giảng ngoài giáo án qui định. Và, ở Hà nội, trước khi việt-gian-cộng-sản tạm thời quản lý, thì các trường Pháp như Albert Sarraut, là hệ phổ thông 13 năm (nhiều người hay lẫn là 12 năm). Lớp thấp nhất là Lớp 12 cho đến Lớp Đệ nhất thì thi Tú tài phần 1, học thêm một năm Lớp Kết thúc (classe terminale) thì thi Tú tài phần 2 (còn gọi là toàn phần).

Sau khi việt-gian-cộng sản vào Hà-nội 1954, chúng chiếm trường A.Sarraut cho nên trường phải chuyển về trường Rollandes ở ngã tư Hai Bà Trưng-Phan chu Trinh. Năm 1955, hiệu trưởng (tức Proviseur) là ông Reihms. Năm đó ông Nguyễn Giang mới được tuyển vào dạy lần đầu, do thiếu giáo viên cũ ở Pháp không sang. Chương trình có chút thay đổi. Đó là chỉ dạy bằng Pháp ngữ các môn Pháp văn và Toán. Còn lại bắt đầu dạy bằng tiếng Việt. Pháp vẫn được giữ cái tên trường là Albert Sarraut và chi trả mọi phí tổn bảo trì trường lớp và lương bổng của giáo viên, nhân viên tạp dịch. Việt-gian-cộng-sản quản lý nội dung giảng dạy và cho hình thành các tổ chức đoàn thể như công đoàn, phân đoàn và chi đoàn thanh niên cứu quốc (tức thanh niên cộng sản) và thiếu niên quàng khăn đỏ, chỉ chưa ra mặt chi bộ đảng việt-gian-cộng-sản mà thôi. Ngoài bậc đại học, xưa nay dù ở ngay các nước tự do cũng CHƯA BAO GIỜ CÓ HỌC SINH DỰ THÍNH (auditeur libre) ở bậc trung học phổ thông!!! Đây là ĐIỀU PHỊA ĐẠI LIỀU của Nguyễn chí Thiện! Nên nhớ trong tay việt-gian-cộng-sản, KHÔNG CÓ CHUYỆN CHO NHẢY LỚP và TRONG THI CỬ KHÔNG HỀ CÓ THÍ SINH TỰ DO. Bộ công an ngụy quyền việt-gian-cộng-sản cho hình thành một bộ phận chức năng để giám sát toàn bộ sinh viên các trường đại học và các học sinh hệ phổ thông, nhất là ở cấp 3, kể cả các trường lớp bổ túc văn hóa, vì chúng sợ tụ họp tuyên truyền chống chế độ. Cụ thể, Dương hồng Xương, giáo dân toàn tòng, con thượng thư Dương văn Am, em ruột Ls Dương văn Đàm, cựu chủ tịch (mà cũng là người đầu tiên) hội những người công giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình, có trụ sở thời đó ở ngã tư Ngô Quyền--Hai Bà Trưng, lúc đó là phó phòng quản lý giáo dục của sở công an Hà-nội của ngụy quyền việt-gian-cộng sản.

Hệ thống giáo dục của việt-gian-cộng-sản ở ngoài vùng chúng tạm chiếm, trước khi vào Hà-nội, chỉ có 9 năm là thi tốt nghiệp cấp 3. Khi tạm quản lý miền Bắc tới vĩ tuyến 17, các học sinh của chúng học 9 năm phổ thông là được vào học đại học. "Viện sĩ" Nguyễn thanh Giang, dòng sông xanh của đài Chân trời mới, cũng được ưu tiên như vậy. Vì thế khi vào Hà-nội, một số nào đó học sinh trong thành phố học xong Đệ tam chuyên khoa (được coi như hết hệ 9 năm) cũng được trám vào chỗ trống ở các trường đại học. Vì sao? Vì việt-gian-cộng-sản chỉ cần số lượng để lòe bịp miền Nam VN và quốc tế, chứ không coi trọng chất lượng (cái tội số lượng đó cho đến nay vẫn vậy, có phần trầm trọng hơn). Nhưng khi vào đại học thì những học sinh loại 9 năm đó còn thua cả học sinh mới hết đệ tam chuyên khoa, thế là phải đẻ ra trò mở lớp dự bị đại học cho họ, và vào học chính khóa thì kéo dài thời gian học từ 9 tháng/niên học lên thành 11tháng/niên học, tháng còn lại đi lao động chân tay. Cho nên từ năm 1956 không hề có cái gọi là thi tú tài, dù là phần 1 hay toàn phần, mà thay vào đó là thi hết cấp 3 phổ thông! Nguyễn chí Thiện đã NÓI SAI SỰ THẬT trong thi cử của mình, cũng như nhờ ông Nguyễn Giang mà là auditeur libre (học sinh dự thính) của trường Albert Sarraut. Cụ Nguyễn văn Vĩnh có sống lại năn nỉ giùm, chắc ông Nguyễn Giang cũng vừa khóc vừa vái lạy mà từ chối, bởi phải giữ niêu cơm cho gia đình vì Pháp trả lương cao gấp chục lần việt-gian-cộng-sản trả, chưa kể các chế độ đãi ngộ khác cho giáo viên của Pháp, trước khi việt-gian-cộng-sản vào Hà-nội!

Thứ hai: Về chuyện "TRƯỜNG bổ túc văn hóa cho công nhân viên (ở Hải phòng) mà Nguyễn chí Thiện dạy hộ bạn 2 giờ đồng hồ, mà chỉ có MỘT LỚP với lèo tèo vài cái bàn" và thời điểm là cuối 1960, ông Việt Thường nghe xong phá lên cười và giải thích như sau:

Ông Việt Thường cũng có thắc mắc về chuyện dạy học hộ bạn của Nguyễn chí Thiện, được Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh đưa ra trong bài giới thiệu quyển Hỏa Lò của Thiện, khi trả lời phỏng vấn của Tường Thắng, chủ web VietnamExodus, và có giải thích về hệ thống tổ chức về giáo dục bậc phổ thông của việt-gian-cộng-sản. Từ đó ông Việt Thường đã hoàn toàn coi điều dạy học hộ bạn bị ốm của Thiện là BỊA ĐẶT. Tháng 11 năm 2007, nhân cuốn Hỏa Lò được trường đại học Yales cho dịch và in, ông Bùi văn Phú có cuộc nói truyện với Nguyễn chí Thiện. Nguyễn chí Thiện mượn cơ hội đó để thanh minh thanh nga rằng đấy là "DẠY ở trường bổ túc văn hóa", chắc Thiện nghĩ ở nơi đó sự quản lý lỏng lẻo chứ không chặt chẽ như sự quản lý ở hệ phổ thông chính quy. Bài phỏng vấn đó của ông Bùi văn Phú khi chuyển sang văn viết (trên web Talawas) thì bị xóa bỏ đoạn Thiện nói về dạy học hộ bạn và bị tù có sự xét xử của tòa án (hì, hì…?!), hiện bản viết có trên web Hưng Việt! Sự hiểu biết của Thiện về cộng sản rất hời hợt, nên tự Thiện thụt chân xuống hố sau sâu hơn hố trước.

Theo ông Việt Thường thì nếu không cố tình tìm hiểu thì cũng dễ tin vào trò bịa, sai lầm của Thiện. Nhờ để tâm nghiên cứu về việt-gian-cộng-sản, đồng thời có nhiều năm trực tiếp làm công việc bổ túc văn hóa, nên ông Việt Thường giải thích rằng: Về tổ chức bộ máy quản lý, bộ giáo dục của ngụy quyền việt-gian-cộng-sản có hình thành một bộ phận chuyên môn gọi là Vụ bổ túc văn hóa. Hệ thống dọc có phòng bổ túc văn hóa ở các sở, ty giáo dục và có cán bộ trong biên chế. Ở các khu phố, thị trấn, huyện đều có cán bộ bổ túc văn hóa trong biên chế của ngành giáo dục. Hệ thống ngang thì các công đoàn ngành, tỉnh, thành, nhà máy lớn hoặc khu công nghiệp, cũng có cán bộ công đoàn chuyên trách về bổ túc văn hóa, có thể thêm cả việc về cái gọi là văn hóa quần chúng. "Viện sĩ" Nguyễn thanh Giang có khoe được giải nhất đơn ca nam chính là theo hệ văn hóa quần chúng này (đừng lẫn với các ca sĩ chuyên nghiệp). Các đoàn thể khác như nông hội, thanh niên hoặc phụ nữ cũng có cán bộ theo rõi hoạt động về bổ túc văn hóa và văn hóa quần chúng. Cho đến cấp tiểu khu cũng có đại biểu khu phố phụ trách về bổ túc văn hóa, nhưng chính là để xóa nạn mù chữ. Sự quản lý, có vẻ rườm rà đó, đều xuất phát từ mục tiêu quản lý hoạt động di chuyển hàng ngày và hoạt động tư tưởng của người dân, phục vụ cho cái gọi là an toàn xã hội, an ninh chính trị, và giáo dục con người xhcn. Một người nào đó vắng nhà vài đêm trong tuần không thể mượn cớ bận đi học bổ túc văn hóa ban đêm hay ngày nghỉ, vì công an và các đoàn thể liên quan, qua sổ sách của các trường lớp bổ túc văn hóa, có thể biết người đó có đi học đêm đó, ngày đó thực không. Nên lưu ý, là vì học viên bổ túc văn hóa là cán bộ, công nhân viên, lớn tuổi, không quản lý di chuyển, hoạt động, hội họp,học tập của họ, lỡ họ bất mãn tụ họp "làm phản động" thì sao. Và việc khuyến khích họ đi học bổ túc văn hóa cũng như tham gia hoạt động văn hóa quần chúng chỉ cốt làm cho họ bận, không có thì giờ nghĩ về thân phận là trâu hay chó, đồng thời qua học tập còn nhồi sọ đầu óc nô lệ cho họ theo phương pháp Paplov: về văn thơ thì của Tố Hữu, Nguyễn đình Thi, Huy Cận, Xuân Diệu, Sóng Hồng (tức Trường Chinh) và đặc biệt của Hồ việt-gian; ngoài ra là của Nga-xô và Tàu cộng. Còn khoa học tự nhiên thì toàn Mendeleev, Butlerov, Lychenco…,còn cái tên Lavoisier thì bị vứt sọt rác!

Vì thế, các trường bổ túc văn hóa (ban đêm và ngày nghỉ), bị quản lý cũng chặt chẽ y hệt các trường phổ thông, nếu không muốn nói rằng nó bị công an ngụy quyền việt-gian-cộng-sản luôn lưu ý đến, chưa nói đến thành phần là học viên, qua Hiệp định Geneve 1954, tập kết từ miền Nam ra, nhất là số ở Khu 5, lập trường "vô sản" và "lý sự cùn, suy diễn chụp mũ" hết xảy luôn. Giáo viên sai một chút là bị ĐẤU TỐ tại chỗ, chứ làm gì có chuyện lén báo công an theo dõi. Và cũng nên nhớ, các phòng học của bổ túc văn hóa là CHÍNH TẠI CÁC PHÒNG HỌC CỦA CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG, hoặc HỘI TRƯỜNG, PHÒNG HỌP CỦA CÁC CƠ QUAN, NHÀ MÁY, và HỌC VIÊN LẪN GIÁO VIÊN RA VÀO PHẢI CÓ THẺ KIỂM TRA CỦA TRƯỜNG BỔ TÚC VĂN HÓA VỚI TÊN, TUỔI, ĐỊA CHỈ RÕ RÀNG. Nhà trường cũng có Ban Giám Hiệu, Ban Giáo Vụ, chuyên trách hoặc bán chuyên trách, cho nên nếu có một giáo viên vì lý do nào đó mà phải tạm nghỉ thì Giám hiệu hoặc Giáo vụ sẵn sàng dạy thay hoặc điều người dạy thay, CHỨ KHÔNG THỂ TỰ Ý NHỜ NGƯỜI QUEN DẠY HỘ!!! Vì thế càng không bao giờ có chuyện, như Nguyễn chí Thiện bịa ra, là TRƯỜNG CHỈ CÓ MỘT LỚP và LỚP THÌ CHỈ CÓ LÈO TÈO MẤY CÁI BÀN.

Cũng xin lưu ý quý bạn đọc là, cái khoảng thời gian mà Nguyễn chí Thiện xuống ở tại Hải-phòng, thì sinh hoạt ở Hải-phòng có thể nói là ngột ngạt nhất miền Bắc. Vì bí thư thành ủy việt-gian-cộng-sản là thằng hoạn lợn Đỗ Mười, giám đốc sở công an là đại tá Mai văn Mạc, do đích thân Hồ việt-gian kết nạp vào đảng việt-gian từ khi cả Hồ và Mạc còn ở Thượng hải, lúc đó Mạc là nhân viên phòng nhì của Pháp, làm việc ở tô giới Pháp. Vì thành tích ác ôn uống máu dân ngon lành như ăn tiết canh heo và ra công trấn lột, dựng đủ các trò gọi là của phản động, gián điệp cho thực dân Pháp và "can thiệp" Mỹ cài lại, cho nên năm 1960, Hồ cho gọi Đỗ Mười về phụ trách cái gọi là "cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh", và Mai văn Mạc về làm cục trưởng cục 78 (tức bảo vệ văn hóa) của bộ công an ngụy quyền việt-gian (xếp trực tiếp của Dương Thông và Quang Phòng). Mạc còn được cho giữ chức quyền chánh văn phòng bộ công an (vì Lê Hồng Hà bị thất sủng) và kiêm viện trưởng viện nghiên cứu bộ công an ngụy, sau được thăng thiếu tướng. Thay thế vị trí của Mười là một đệ tử ruột của Mười, tên là Trần Kiên (còn gọi là Kiên què, khi Mười lên tổng bí thư, đã cho Kiên làm ủy viên ban bí thư việt-gian) cũng ác ôn tàn bạo không thua gì Mười. Trong các gia đình, vợ chồng còn che giấu tư tưởng với nhau, bạn bè thân cũng chẳng dám họp mặt thì làm sao có chuyện Nguyễn chí Thiện tụ họp bạn bè đấu láo và … ngâm thơ (phản dộng cho nhau nghe).

Lại nữa, theo Thiện, thì công an nghi Thiện là tác giả các thơ đó. Tại sao công an nghi? Có nghĩa công an PHẢI NGHE từ một ai đó đọc những thơ đó. Cứ đường dây đó mà lần đâu có khó gì. Giả dụ bọn họ không khai báo ra Thiện thì công an căn cứ vào đâu mà nghi Thiện? Tại sao chỉ mình Thiện bị bắt mà không có ai khác? Thiện không đọc những thơ đó cho công an nghe thì làm sao công an biết có sự xuất hiện của những thơ đó? Đúng là "BỊA DỞ" như đặc công đỏ Vũ thư Hiên từng nhận như vậy!!!

Một số nào đó ra công bào chữa cho Thiện, theo kiểu cãi chày cãi cối. Còn Thiện thì từ đó đến nay, hễ mở miệng là lần sau mâu thuẫn với lần trước. Còn số theo đít Thiện thì nói ngu nhất là Thị Thuấn. Cụ thể cuộc mạn đàm ngày 2-10-2008 vừa xong, Thị Thuấn và Nguyễn chí Thiện đã (có thể là vô tình) nhéo tai lật tẩy Toàn Phong là cây bút vừa nâng bi quá đáng vừa vô trách nhiệm với bạn đọc. Xin dẫn chứng: Trong bài giới thiệu "tát phẩn" Hỏa Lò, Toàn Phong đã trịnh trọng viết là dựa vào tài liệu "chính xác nhất" (của Jean Libby) để hạ bút bốc thơm Thiện, trong buổi dạy học hộ bạn, "đã hào hùng của tuổi trẻ, nói lên sự thật". Nhưng khi mạn đàm với Thị Thuấn thì Thiện thú nhận là vô tình không xem giáo trình mà nói quen như được học từ trước 1954, "nếu không bố bảo cũng chăng dám"(nguyên văn lời Thiện). Vậy là đâu có hào hùng để bảo vệ sự thật!!!??? Truyện tiếu lâm có kể một anh lính lệ đứng hầu quan, nghe quan đánh cái "bủm", anh lính lệ đưa tay bốc gió cho lên mũi hít hà khen thơm. Nghe vậy, quan buồn rầu nói rằng "Dắm thì phải thối, nay của ta mà thơm thì chắc ta bệnh sắp chết mất. Nghe vậy anh lệ hoảng hồn vội bốc gió một lần nữa đưa lên mũi hít thật sâu và hớn hở la lên: dạ thối rồi, thối lắm lắm rồi, chắc quan lớn phải thọ trăm tuổi." Nay nghe câu "cải chính"của Thiện qua mạn đàm với Thị Thuấn vừa xong, không hiểu cái "ông đại tá" Nguyễn xuân Vinh này ăn nói với bạn đọc ra sao đây, vì anh lính lệ mà còn đủ bản lãnh sửa sai, vậy thì ông đại tá lâu năm nghĩ sao??? Còn Thị Thuấn và Nguyễn chí Thiện mau quên câu nịnh của ông Toàn Phong đến thế, để không "ê-đít" lại cái audio mà đã vội tung ra cho bàn dân thiên hạ ngao ngán tư cách của Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh. Đúng là khôn ba năm, dại "một dòng chữ"!

Người thứ hai nữa cũng thật là dại, tự dưng thòng lọng cổ mình. Đó là Lm Phan văn Lợi, từ trong nước phóng ra một lá thư mà lý luận coi không được. Ông ấy khuyên không nên chống phá Thiện, có hại cho đấu tranh chung, và cũng như một số lèm nhèm khác, KHẲNG ĐỊNH rằng Thiện lúc nào cũng đi khắp nơi "chửi cộng sản và vạch tội ác của cộng sản" mà thôi. Các vị nói đúng mới có một nửa, đó là chỉ mô tả cái lớp phấn son của Thiện, như phấn son chửi cộng sản của lũ Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Trần Khuê, Nguyễn thanh Giang, Hà sĩ Phu và v.v…Các vị đó không biết hay cố tình quên cái việc Thiện khuyên nên để cho văn nghệ, ca sĩ, văn công cộng sản được tự do biểu diễn ở hải ngoại. Thiện cũng khuyên nên chờ một Gorbachev và không chỉ khuyên bằng mồm, mà còn bò vào núi họp Tiểu Diên hồng. Thiện nói và hành động như trên có lợi hay hại cho việt-gian-cộng-sản? Còn việc Thiện hăng hái chống VietWeekly, là thứ tép riêu, nhằm làm mệt lực lượng biểu tình, phân tán lực lượng, vào lúc đó ta đang phải chống phái đoàn nào của việt-gian-cộng-sản??? Còn cái gốc của truyền thông nằm vùng, là tập đoàn báo Người Việt, thì Thiện lặn đâu mất tiêu.

Còn lý luận như Lm Phan văn Lợi là người cho rằng việt-gian-cộng-sản có nhiều người tốt, và phải chờ một Yeltsin VN, xin lỗi phải nói thật là Lm thật thà cả tin quá sức tưởng tượng. Làm ĐƠN XIN ĐƯỢC LÀM ĐIẾM TRONG ĐỘNG thì không thể nào là hiền lương, chưa nói đến là NHẤT ĐỊNH KHÔNG CHỊU RA KIẾM NGHỀ KHÁC!!! Phải chăng Lm Lợi lo nếu Thiện bị lật mặt, không có ai kêu gọi chờ đợi một Gorbachev nữa. Mà nếu chưa có Gorbachev xuất hiện dọn đường thì bao giờ Yeltsin mà Lm Lợi, ngày đêm mong đợi, mới có thể xuất hiện được???

Còn một nhân vật, trong đám xin được chạy cờ hiệu cho Thiện, vừa ngu, vừa hỗn, bản chất thùng rỗng, thích cuộc đời ký sinh trùng, đó là Trần viết đại Hưng. Hắn cho rằng những người muốn ĐI TÌM SỰ THẬT về tác giả tập kiệt tác VÔ ĐỀ, và nghi vấn về nhân vật Nguyễn chí Thiện, vì những ăn nói bất nhất và CỰC KỲ MÂU THUẪN của Thiện, là ẾCH NHÁI!!!???

Hôm nay, Nam Nhân tôi, xin phép quý bạn đọc, được trưng ra 2 dẫn chứng (có kèm theo bài này) để bạn đọc có thể nhận diện chân tướng và trình độ của Trần viết đại Hưng có đáng cầm bút ti toe viết nhăng viết cuội không?

Thứ nhất: Trên web Hưng Việt (tìm trong saigonbao.com, ở cột thứ nhất); bấm vào mục tác giả, sau đó sẽ tìm tên Nguyễn chí Thiện, quý bạn đọc sẽ thấy phần giới thiệu với những nét quan trọng như sau: Nguyễn chí Thiện tốt nghiệp cử nhân văn chương tại trường đại học Hà-nội; năm 1958 bị bắt tù trong vụ Nhân văn-Giai phẩm cùng với Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm, Phan Khôi, Bùi quang Đoài, Hữu Loan … bị kết án 2 năm tù khổ sai và được thả đầu năm 1961. Tháng 11-1961 lại bị bắt không hề biết tội trạng và không đượcxét xử và đến 9-1964 được phóng thích. Lại bị bắt 10-1965 đến 6-1978 được phóng thích. Tháng 7-1979 bị bắt vì đưa tập thơ vào sứ quán Anh và được thả năm 1991.

Trong khi đó thì cuộc mạn đàm với Thị Thuấn vào 2-10-2008, Thiện nói chỉ ĐẬU TÚ TÀI 1. Thiện không hề dính dáng gì đến Nhân văn-Giai Phẩm và đi TÙ LẦN ĐẦU là ĐẦU NĂM 1961.

Thử hỏi Hưng Việt lấy tài liệu này ở đâu. Không từ mồm Thiện ra thì từ ai? Ngay về lời giới thiệu cuốn Hỏa Lò, do Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh viết, CHẮC CHẮN Thiện phải đọc qua và PHẢI CHO LÀ ĐÚNG (nếu không đã yêu cầu sửa lại), và trong cuộc mạn đàm với Thị Thuấn về việc dạy học hộ bạn đưa đến bị tù lần đầu, đã mâu thuẫn rồi. Tại sao? Chưa nói đến từ năm sanh cũng dăm cái nói khác nhau! Cho nên đã là NGƯỜI ĐỌC thì PHẢI THẮC MẮC (cho dù là vì cá nhân), còn với NGƯỜI CẦM BÚT VIẾT ĐỂ KHEN HOẶC BÌNH PHẨM, nếu có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm với bạn đọc CŨNG PHẢI THẮC MẮC ĐỂ THAM KHẢO TÀI LIỆU TÌM RA SỰ THẬT. Chỉ có lũ BÚT NÔ được thuê hay bị ra lệnh PHẢI VIẾT thì mới không QUAN TÂM ĐẾN SỰ THẬT, cộng thêm lũ kí sinh vào Thiện, hoặc ti toe dăm chữ đã tưởng oách hơn A Q (nhân vật của Lỗ Tấn), y như Trần viết đại Hưng, nếu không chịu khó học tập, chú ý lương tâm ngòi bút, coi chừng từ Viết Đại Hưng lại thành Viết Đại Bại (chắc cũng chẳng ai tội nghiệp cho tư cách BÚT NÔ đâu)!

Nếu Nguyễn chí Thiện còn một chút liêm sỉ, thì hãy TỰ TAY viết bước đầu về lý lịch của mình và tuyên bố phủ nhận những thông tin trước đây. Như thế đàng hoàng hơn. Chứ để thì giờ đấu láo với Thị Thuấn, lại còn "tôi nể chị", thì đúng là trâu ngựa tìm nhau.

Phải chăng cái lý lịch bị rối rắm vì tội danh khác mà đi tù lần đầu và lần thứ hai, không dính dáng gì đến chính trị chính em???

Anh-quốc, ngày 5 tháng 10 năm 2008
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)



HẢI NGOẠI HUYẾT THƯ


HẢI NGOẠI HUYẾT THƯ số 1


CHIẾU THEO HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, LINH MỤC NGUYỄN VĂN LÝ VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: AI LÀ NGƯỜI ĐANG VI PHẠM HIẾN PHÁP QUỐC GIA?

Nguyễn Anh Tuấn, Đại diện Nhóm Nghiên cứu Khoa học Chính trị cho Dân chủ Việt Nam (The Polotical Science Study Group for VietNam Democracy) - www.tiengnoigiaodan.net phát hành.

Nơi nhận:

- Tổ chức Liên Hiệp Quốc

- Lãnh tụ các Quốc Gia yêu chuộng Hòa bình và Công lý trên toàn thế giới

- Các nhà Lãnh đạo Tinh thần các Tôn giáo, tầng lớp Trí thức và toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.

Kính thưa toàn thể Quý Vị và toàn thể Đồng Bào,

Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt từ ngày 30-4-1975 đến nay đã hơn 32 năm. Chiến tranh đã chấm dứt, nhưng những xung đột hận thù vẫn chưa bao giờ chấm dứt trên bi kịch của Việt Nam. Bi kịch này đã đến lúc cần chấm dứt bằng mọi giá đúng như tinh thần của Bản Tuyên Ng ôn Độc Lập của Hoa Kỳ do Thomas Jerfferson đã viết ra ngày 4-7-1776: "Đấng Tạo Hoá đã sinh ra con người và ban cho họ những quyền không thể chối bỏ được. Đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc." Và Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc lên ngày 2-9-1845 tại miền Bắc Việt Nam đã sao chép nguyên văn của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Nhưng đã 62 năm qua đi (1945-2007) HCM và Đảng CSVN đã tước đoạt quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của toàn dân VN. Tại sao? Đã đế lúc đảng CSVN phải trả lời trước lịch sử. Ở đâu có tước đoạt, ức chế và đàn áp con người, ở đó có sự tranh đấu để đòi lại quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của họ. Đó là quy luật sinh tồn và tiến hóa của tự nhiên.

Và linh mục Nguyễn Văn Lý và các nhà tranh đấu cho dân chủ VN đã từ lâu đứng lên đòi lại tự do dân chủ và tự do tôn giáo cho người dân Việt. Đây là cuộc tranh đấu không chỉ xẩy ra mới đây, nhưng nó đã kéo dài 145 năm, kể từ ngày cụ Trương Định nổi lên tại Chợ Lớn, Tân An và Gò Công vào năm 1862 để chống thực dân Pháp (1862-2007) để đòi tự do dân chủ và độc lập cho Việt Nam. Và dòng lịch sử ấy đang được tiếp nối bởi những con người VN trong thời đại toàn cầu hóa. Tranh đấu để làm gì hay chỉ đòi lại quyền sống, quyền tự do và quyên mưu cầu hạnh phúc của con người mà bản Tuyên Ngôn Độc Lập do HCM đã long trọng đọc lên 62 năm qua, cũng như bốn bản Hiến Pháp đã được đảng CSVN viết ra đều đã quy định và cam kết đảm bảo, thì nay đã đến lúc người CSVN phải tôn trọng và thực thi.

Vì thế chúng tôi mạo muội gửi tới toàn thể Quý vị và Đồng Bào VN trong và ngoài nước bức tâm thư này, để mong tất cả Quý Vị tiếp tay với chúng tôi, cùng với linh mục Nguyễn Văn Lý và các nhà tranh đấu cho dân chủ tại VN chấm dứt bi kịch đẫm máu đã kéo dài suốt 145 năm qua, bằng cách buộc nhà cầm quyền VN phải tôn trọng tinh thần bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc mà VN là một thành viên, cũng như tôn trọng và thực thi các luật lệ quốc tế của tổ chức WTO mà VN mới là thành viên; và đồng thời tôn trọng tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tôn trọng Hiến Pháp năm 1945 do HCM và đảng CSVN đã viết ra từ 62 năm qua. Đã đến lúc đảng CSVN phải chấm dứt tất cả mọi hình thức lừa đảo gạt gẫm để nhìn vào sự thật, để thấy chính họ là những kẻ đã gieo bao cái chết đắng cay cho dân tộc Việt Nam.

Vụ bắt bớ và kết án linh mục Nguyễn Văn Lý và các nhà tranh đấu dân chủ của nhà cầm quyền CSVN đang gây nên những cơn sốt chính trị và tạo ra những làn sóng phẫn uất trào dâng khắp nơi. Tại sao kẻ cướp không bắt, không kết án mà lại đi bắt và kết án thầy tu? Tất cả những hành vi đàn áp, khống chế, khủng bố và vây hãm linh mục Nguyễn Văn Lý và các nhà tranh đấu cho dân chủ và tự do tôn giáo có hợp hiến và hợp pháp không? Ai có quyền viết hiến pháp quốc gia, toàn dân hay đảng phái chính trị? Tại sao nhà nước VNDCCH và nhà nước CHXHCNVN lại có tới bốn bản hiến pháp? Nội dung bốn bản hiến pháp này nói gì về quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền, cũng như nói gì về quyền hạn và trách nhiệm của mỗi công dân? Vị trí, quyền hạn, bổn phận và trách nhiệm của các công dân do hiến pháp quy định có được những nhà nắm giữ quyền hành chính trị tôn trọng không? Nếu những người cầm quyền không tôn trọng các quyền căn bản của dân hay vi phạm hiến pháp thì quyền tài phán (jurisdiction) và quyền xét xử thuộc về cơ quan nào? Nếu các luật lệ của quốc hội và chính phủ làm ra không phù hợp với hiến pháp thì dân phải theo luật nào? Luật tối cao của quốc gia hay luật của quốc hội và chính quyền? Nếu quyền lãnh đạo quốc gia thuộc về đảng và đảng lại vi phạm hiến pháp thì ai xét xử đảng? Quốc Hội Việt Nam được thành lập để làm gì?

1. Về LẬP PHÁP

Làm luật cho quốc gia hay làm luật cho một đảng Cộng sản? Cơ quan có quyền hành tối thượng (sovereignty) trong chính phủ đó là quyền lập pháp, nhưng lập pháp là cái gì, trong khi quyền hiến pháp của người dân không bảo vệ được thì lập pháp cho ai? Quốc hội là nơi đại diện cho dân, nhưng lại đi phục vụ quyền lợi cho đảng chính trị, như thế quyền lập pháp còn xứng đáng với quyền tối thượng của mình nữa không?

2. Về HÀNH PHÁP

Cơ quan hành pháp (Executive branch) của một quốc gia nắm quyền hành lớn lao là thi hành luật pháp quốc gia (enforcement of laws). Luật đó do quốc hội làm ra hay luật đó là luật của một đảng chính trị? Có quốc gia văn mình nào tự xưng mình là cộng hoà dân chủ mà lại để một đảng chính trị viết luật cho quốc gia không? Cơ quan hành pháp gồm có thủ tướng, phó thủ tướng và nội các gồm có các tổng bộ trưởng thi hành luật mà để người của một đảng chính trị tác yêu tác quái, nhởn nhơ trong vòng tội lỗi và tội ác khắp nơi, tại sao cơ quan hành pháp không nhân danh luật pháp quốc gia để truy tố những phường trộm cắp đó mà lại đi bắt và kết án thầy tu đang tranh đấu cho quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của toàn dân?

3. Về TƯ PHÁP

Tòa án Tối cao (the Supreme Court) của một quốc gia là cơ quan tối cao của ngành tư pháp (juridicial branch) quốc gia. Bổn phận và trách nhiệm của tòa án tối cao này là bảo vệ hiến pháp, giải thích hiến pháp và duyệt tất cả luật lệ của quốc hội làm ra có hợp hiến pháp không? Và đồng thời quan sát thật kỹ xem cơ quan hành pháp có thi hành đúng hiến pháp không? Như vậy từ ngày VN có tòa án tối cao này, tòa án có khám phá ra các vụ vi hiến của quốc hội, hành pháp và đảng CSVN không? Và tòa án tối cao này đã xét xử được mấy lần? Ngoài ra nếu một đảng phái chính trị vi hiến và vi phạm luật pháp quốc gia thì toà án tối cao này làm gì, xét xử ra sao? Đặc biệt là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân là quyền đã được hiến định, những quyền này phải được tòa án tối cao ưu tiên bảo vệ (first priority). Toà án tối cao không bảo vệ trật tự hiến pháp thế thì trật tự quốc gia còn ai bảo vệ và duy trì đây? Chẳng lẽ toà án tối cao không hiểu được luật pháp quốc gia hay sao?

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Trên đây là một số các thắc mắc mà chúng tôi xin được phép gửi tới tất cả quý vị và đồng bào với ước mong và hy vọng quý vị giúp chúng tôi làm sáng tỏ những vấn nạn chung của đời sống con người, không chỉ tại VN mà còn ở khắp các quốc gia đệ tam trên thế giới. Ở đó con người sống không chỉ thiếu cơm, thiếu áo, thiếu thuốc men, thiếu không khí trong lành, thiếu những giọt nước tinh khiết. Ở đó con người sống quằn quoại trong bóng tối tội lỗi mịt mùng vây phủ tư bề. Ở đó những trẻ thơ côi cút, những người già yếu run rẩy trong quạnh hưu nghèo khổ. Ở đó những goá phụ tan nát cuộc đời vì người chồng đã bỏ xác trong chiến tranh. Đến nay những khổ đau vẫn còn đó. Trước đây họ là nạn nhân thê thảm của chiến tranh và bây giờ họ vẫn là nạn nhân của xã hội cường quyền và bạo lực giai cấp trong thời bình. Như thế bi kịch của VN không chỉ có trong bom đạn hận thù của chiến tranh cách mạng, mà hòa bình lại khai sinh ra bao thảm kịch khác nữa cho nạn nhân chiến tranh thuở nào.

Con người đã bỏ rơi con người để bom đạn lạnh lùng của hận thù nổ tơi bời trên lưng con người Việt Nam bằng một cuộc chiến đầy lầm lạc và tội ác. Và bây giờ con người cũng nhắm mắt làm ngơ trước những khổ đau của đồng loại sao đành? Ở những xã hội đó, những đô thị đó, con người đang chờ đợi chút ánh sáng của tự do, chờ đợi những vùng ánh sáng tuyệt vời của đạo đức vĩnh cửu, chờ đợi những tia sáng của công lý dẫn đường con người thoát ra để tìm được quyền sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu phúc lợi như HCM và đảng CSVN đã sao chép từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập và bản Hiến Pháp của Hoa Kỳ, nhưng bất hạnh thay, họ đã dùng đó như trò trí trá gạt gẫm chứ không phải để thi hành.

Từ "đô thị trên đồi cao" của Washington DC, ánh sáng của tự do và dân chủ tưởng đã thành sự thật nơi bản Tuyên Ngôn Độc Lập của VN từ 1945 do HCM đọc lên và bản Hiến Pháp đầu tiên cũng đã được công bố ngày 9 tháng 11 năm 1946 hầu như đã phản ánh tinh thần cộng hòa dân chủ cao quý ấy. Nào ngờ chính vì tinh thần cao quý đó mà các nhà ái quốc chân chính của VN đã về ngồi chung với HCM và đảng CSVN, những con người đó đã giải tán đảng CS Đông Dương để khoác chiếc áo mang nhãn hiệu Việt Minh và phát động kháng chiến chống thực dân nhằm giải phóng dân tộc. Ngoài các tầng lớp trí thức và đông đảo quần chúng ủng hộ, còn có sự tham gia của một số lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, và Quốc Dân Đảng như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam, Chu Bá Phượng và Vũ Hồng Khanh... đều đã ngồi chung trong chính phủ Liên Hiệp. Lợi dụng cơ hội này, HCM và đảng CSVN đã tìm cách chia rẽ, ly tán, khủng bố, và giết hại các nhà ái quốc để dành lấy độc quyền kháng chiến từ đó.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Vì độc quyền kháng chiến nên mới có chiến tranh VN đẫm máu như thế. Đúng như Sir Acton đã từng nói: "Quyền hành thường làm cho con người sa đọa. Quyền hành tuyệt đối sẽ đưa con người đến chỗ sa đọa tuyệt đối." Ngày nay nếu VN muốn gia nhập vào trật tự mới của thế giới và cộng đồng quốc tế, đầu tiên họ phải xây dựng trật tự quốc gia, và trật tự của quốc gia phải là trật tự của hiến pháp (constitutional order). Muốn có trật tự hiến pháp thì phải bảo vệ hiến pháp quốc gia. Bảo vệ hiến pháp quốc gia là bảo vệ quyền hiến pháp của toàn dân (constitutional rights). Mặc dù VN có tới bốn bản hiến pháp nhưng nhân quyền luôn luôn bị xúc phạm và tước đoạt. Như thế thì làm gì còn trật tự hiến pháp và trật tự quốc gia nữa? Đã không có trật tự quốc gia thì làm sao tham gia vào trật tự của thế giới để sống còn và phát triển được?

Đó là tất cả lý do đã dẫn đến các cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ và tự do tôn giáo tại VN. Lm. Nguyễn Văn Lý đã từng công bố như Patrick Henry thuở nào: "Give me liberty or give me death!" - "Hãy cho tôi tự do hay cho tôi cái chết!" Và tinh thần đó đã thể hiện trọn vẹn khát vọng tự do dân chủ của toàn dân VN từ 145 năm qua. Nếu HCM và đảng CSVN thực sự đi giải phóng dân tộc của họ thì tại sao họ lại tước đoạt quyền tự do và dân chủ của toàn dân mà chính HCM và đảng CSVN đã cam kết và bảo đảm trong Tuyên Ngôn Độc Lập và trong cả bốn bản hiến pháp do chính họ đã tự ý viết ra từ 62 năm qua?

Lm. Nguyễn Văn Lý và các nhà đấu tranh dân chủ tại VN có đòi hỏi gì đâu ngoài tất cả những gì bản Tuyên Ngôn Độc Lập và các bản Hiến Pháp đã ghi nhận. Nhà cầm quyền CSVN nhân danh gì để không thi hành hiến pháp mình đã viết ra?

Theo truyền thống hiến pháp của Hy Lạp, La Mã, Âu Châu, Anh quốc và Hoa Kỳ, thì hiến pháp là luật tối cao của quốc gia. Nếu quyền hành quốc gia thuộc về toàn dân như các bản hiến pháp nước CHXHCNVN đã xác nhận, thì chỉ có toàn dân mới có quyền viết hiến pháp mà thôi. Quốc Dân Đại Hội sẽ tập họp tất cả các đại biểu của các địa phương để quyết định về hiến pháp cho quốc gia. Quyền viết hiến pháp và lập pháp hoàn toàn khác nhau. Mặc dù quốc hội có quyền lập pháp, nhưng quốc hội chỉ có thể lập pháp, hay làm các chính sách khi họ có bản chỉ dẫn của luật tối cao (the supreme law of the land) của quốc gia, tức hiến pháp do Quốc Dân Đại Hội đã viết ra mà thôi. Hiến pháp phản ảnh luật đạo đức vĩnh cửu rút ra từ các luật của các dòng đạo lý và luật tự nhiên, và phán ảnh nền tảng căn bản cho công lý xã hội. Hiến pháp vì thế là nền tảng căn bản cho trật tự chính trị quốc gia và cộng đồng chính trị sẽ được tổ chức, sắp xếp các chức năng, vai trò, bổn phận, trách nhiệm và quyền hạn của các viên chức chính quyền ra sao. Đặc biệt là mục tiêu của chính quyền, tức những người được dân chọn để trao quyền hành là gì, phục vụ toàn dân và phục vụ quốc gia, chứ không phải phục vụ đảng CS.

Hiến pháp dân chủ sẽ chỉ rõ chính quyền sẽ được thành lập như thế nào? Làm sao hình thành một quốc hội lưỡng viện? Hiến pháp cũng cho biết các vai trò và quyền hạn cũng như trách nhiệm của cơ quan hành pháp ra sao, sẽ tuỳ thể chế chính trị theo hình thức dân chủ nghị viện, tổng thống chế hay liên bang, để tổ chức cộng đồng chính trong quốc gia.

Trong tất cả các bản hiến pháp dân chủ, kể từ bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và ngay cả bốn bản hiến pháp của nước VNDCCH và CHXHCNVN đều đã nói đến các quyền hạn của dân, tức "the Bill of Rights" đã viết ra tại Anh quốc năm 1688. Tại sao HCM và đảng CSVN cũng đã viết ra mà không bao giờ chịu thi hành?

Kinh thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Vì guồng máy chính quyền được lập nên từ những nguyên tắc hiến pháp dân chủ, nên chính quyền là chính quyền của dân, bởi dân và vì dân. Truyền thống dân chủ từ khắp nơi cho thấy muốn có một chính quyền của dân, bởi dân và vì dân thì hiến pháp quốc gia phải giới hạn quyền hành của chính quyền bằng những nguyên tắc nhân quyền giữa quốc hội, hành pháp và tư pháp và áp dụng nguyên tắc kiểm soát và chế tài lẫn nhau giữa ba cơ quan công quyền đầu não của quốc gia (separation of powers and checks and balances), nhất là quyền hành của chính quyền trung ương và quyền hành tối thượng tại các địa phương cần phải thật minh bạch, để buộc các cấp chính quyền trung ương phải bảo vệ quyền lợi của dân và bảo vệ quyền lợi quốc gia tại các địa phương. Đây là cấu trúc quyền hành theo hình kim tự tháp. Hoa Kỳ luôn luôn vững mạnh và ổn định nhờ cấu trúc quyền hành theo hình kim tự tháp này (grass-root democracy).

Vì hiến pháp là luật tối cao của quốc gia và là ánh đuốc dẫn đường cho các cấp chính quyền và toàn bộ xã hội sống và hành xử như thế nào cho đúng với tinh thần đạo đức quốc gia và công lý xã hội mà hiến pháp đã được viết ra. Hiến pháp thường được coi là một KHẾ ƯỚC XÃ HỘI (social contract) theo quan niệm của J.J. Rousseau, Thomas Hobbes, hay John Locke. Nhưng Việt Nam có thể gọi là QUỐC ƯỚC (national convenant) thì hợp với truyền thống văn hóa của Việt tộc hơn. Quốc hội cũng tương tự Mười Điều Răn của luật Giao Ước (Ten Commandments) của Kinh Thánh để làm nền móng căn bản cho đạo đức vĩnh cửu cho Hoa Kỳ và các quốc gia Kitô giáo và Do Thái giáo. Luật đạo đức này đã được chấp nhận và thực hành cho đến ngày nay. Theo giáo sư Donald Very, những lề luật đó đã được công nhận sâu rộng là một nền tảng đạo đức vững chắc để làm nền tảng luật pháp cho rất nhiều quốc gia.

Kính thưa Quý vị và toàn thể đồng bào,

Nhà nước CHXHCNVN đã nhân danh nhà nước pháp quyền (legal national governmental authority) để khủng bố, truy lùng, kết án Lm. Nguyễn Văn Lý và các nhà tranh đấu dân chủ tại Việt Nam. Nhưng nhà nước pháp quyền là gì, nhà nước của con người (government of men) hay nhà nước của luật pháp (government of law)? Khi nhà cầm quyền CSVN nhân danh nhà nước pháp quyền thì có nghĩa là nhà nước của họ là nhà nước của luật pháp. Nhưng luật pháp là gì? Phải chăng luật pháp là hàng loạt các luật lệ (rules) hay những nguyên tắc pháp lý (legal principles) do hiến pháp đề ra hay do quốc hội viết ra để hướng dẫn không chỉ người dân, nhưng còn cho tất cả chính quyền sống và hành xử cho đúng với vị trí và bổn phận của mỗi người.

Luật pháp cho con người biết họ được làm gì hay không được làm gì. Thí dụ như trong luật đạo đức: "Ngươi không được giết người - ngươi không được trộm cắp - ngươi không được tham lam muốn chiếm đoạt nhà cửa của anh em ngươi - ngươi không được thèm muốn vợ của anh em ngươi - ngươi không được chiếm đoạt đầy tớ trai và gái của anh em ngươi - ngươi không được tước đoạt trâu bò của anh em ngươi - ngươi không được lấy đi vật gì của kẻ dại khờ, và ngươi không được lấy bất cứ thứ gì thuộc về anh em ngươi" (Ten Commandments - Xh 20:3-17).

Đây là luật đạo đức vĩnh cửu của Hoa Kỳ đã dùng làm nền tảng để xây dựng con người, xây dựng gia đình và xây dựng quốc gia của họ - một quốc gia tự do nhất, thịnh vượng nhất, hùng cường nhất, văn minh nhất, thực tế nhất, thực dụng nhất, nhưng cũng lý tưởng nhất trong suốt 6000 năm lịch sử nhân loại. Đây là bài học lịch sử quá lớn lao cho VN và cho các quốc gia đệ tam để xây dựng đất nước.

Từ bài học thực tế đó cho thấy xã hội VN từ 62 năm qua không còn mấy ai để ý đến đạo đức quốc gia, đạo đức xã hội và công lý nữa! Cách mạng CS thất bại vì thiếu căn bản đạo đức quốc gia và đạo đức xã hội. Công bằng xã hội chỉ có được từ đạo đức của hiến pháp và đạo đức chính trị của quốc gia. Tại VN, nếu muốn người dân tôn trọng nhà nước pháp quyền thì pháp quyền đó phải tượng trưng cho đạo đức quốc gia và công lý trong xã hội. Muốn có pháp quyền thì phải bảo vệ hiến pháp. Bảo vệ hiến pháp là bảo vệ đạo đức quốc gia. Bảo vệ đạo đức quốc gia là bảo vệ quyền sống của dân, tự do của dân và bảo vệ quyền mưu cầu hạnh phúc của dân. Đó là luật hiến pháp và luật của đạo đức mà chính quyền phải tuân thủ.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Khi duyệt xét lại nội dung của bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1945 và cả bốn bản hiến pháp của VNDCCH và CHXHCNVN, chúng tôi nhận thấy có bốn điều khoản nói về quyền tự do của người dân như sau:

* 1- Chiếu theo chương 5, điều 10 của Hiến Pháp VNDCCH năm 1946 thì: "Các công dân VN có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp, tự do tín ngưỡng và tự do đi lại trong và ngoài nước."

* 2- Chiếu theo Hiến Pháp VNDCCH năm 1959, ở chương 3, điều 25 đã ghi: "Các công dân VNDCCH có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng những quyền đó."

* 3- Chiếu theo Hiến Pháp VNDCCH năm 1980, ở chương 5, điều 67 đã xác nhận như sau: "Các công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình phù hợp với lợi ích của XHCN và của nhân dân."

* 4- Chiếu theo Hiến Pháp năm 1992, chương 2, điều 68 cũng xác nhận rõ rệt như sau: "Các công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của luật pháp."

* Về tự do tôn giáo thì điều 10 cũng công nhận là: "Các công dân có quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật - Những nơi thờ tự của các tôn giáo, các tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ - Không ai được xâm phạm tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng hoặc lợi dụng tôn giáo và tín ngưỡng để làm trái luật và chính sách nhà nước."

* Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1946 đã công nhận quyền tự do dân chủ như sau: "Đảm bảo các quyền tự do dân chủ."

* Trong Hiến pháp năm 1959 , chương 1 điều 7 còn nói rõ: "Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất đất nước."

* Trong Hiến Pháp năm 1980 , chương 1 điều 6 đã minh định như sau: "Ở nước CHXHCNVN, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân."

* Trong Hiến Pháp năm 1992 , chương 1 điều 2 lại nhắc lại: "Nước CHXHCNVN là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả nhà nước thuộc về nhân dân."

Bên cạnh bốn bản Hiến pháp trên đây, trong Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1945 cũng ghi lại y như bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ: "Đấng tạo Hoá đã sinh ra con người và ban cho họ những quyền không thể chối bỏ được, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc."

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Vì hai chữ "tự do dân chủ" và "nhân quyền" , dân tộc VN đã liên tục chiến đấu suốt 145 năm. 80 năm chiến đấu với thực dân Pháp và 65 năm chiến đấu với Cộng Sản vô thần. Sau cuộc khởi nghĩa của Trương Định vào năm 1862, biết bao thế hệ các nhà ái quốc và hàng hàng lớp lớp thanh niên đã đứng lên cầm gậy tầm vông và gươm giáo đối đầu với bom đạn xâm lăng để viết lên những trang sử quá đẫm máu và kinh hoàng. Nhưng những trang sử chống thực dân không làm cho dân tộc VN đau đớn tủi nhục bằng những năm tháng sống dưới chế độ Cộng sản vô thần của HCM và đảng CSVN!

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân Việt bị tước đoạt đã đành. Nhưng bản Tuyên Ngôn Độc Lập đọc lên năm 1945 và cả bốn bản Hiến pháp đã viết lên bao lời hứa hẹn tốt đẹp của HCM và đảng CSVN với dân tộc khổ đau của họ để làm gì, hay tất cả chỉ là những chiếc bánh vẽ thật đẹp, thật sắc sảo, nhưng chẳng ai được ăn miếng thật bao giờ cả! Giờ đây mỗi người nhìn lại những chiếc bánh vẽ đang để lại cho lịch sử và con người thấy được tất cả chỉ còn là những lời nguyền rủa của thiên thu. Tại sao? Tại vì trên thực tế, tất cả quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu và quyền mưu cầu hạnh phúc của toàn dân Việt đều đã bị HCM và đảng CSVN tước đoạt, chiếm đoạt một cách dã man, tàn bạo gấp trăm lần hơn thực dân xưa kia.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Ngày nay Lm. Nguyễn Văn Lý và các nhà đấu tranh dân chủ cho tự do tôn giáo và nhân quyền tại VN, nếu chiếu theo các điều khoản mà cả bốn bản hiến pháp của nước VNDCCH và CHXHCNVN đã minh định, thì tất cả những hành động tranh đấu trên đều hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp.

Khi Hiến pháp đã công nhận mọi người dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tôn giáo và tín ngưỡng và tự do đi lại, thì không ai có quyền xâm phạm hay vi phạm quyền đó của dân, kể cả Quốc Hội, tổng thống, thủ tướng, các tòa án và tất cả các viên chức chính quyền.

Bởi vì tất cả các quyền tự do ấy là nhân quyền của toàn dân (the Bill of Rights). Người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, đều là quyền tự nhiên (natural rights) do Đấng Tạo Hóa, Thượng Đế, hay Thiên Chúa đã ban cho tất cả con người. Nếu chính quyền được lập nên từ những nguyên tắc dân chủ (democratic principles) thì chính quyền ấy được lập nên để bảo vệ những quyền tự nhiên thiêng liêng ấy của con người, chứ không phải chính quyền được thành lập để ban phát hay không ban phát những quyền tự do ấy cho dân như nhiều chính quyền lầm tưởng từ trước tới nay.

Toàn dân đều có nhân quyền được ghi trong bản hiến pháp của tất cả các quốc gia, kể cả Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Mục đích để giới hạn quyền hành của chính quyền xen vào đời sống và quyền tự do của người dân. Lịch sử cho thấy khi quyền hành của chính quyền không được kiểm soát thì rất nguy hiểm cho quyền tự do của dân. Nhân quyền còn cung cấp cho người dân những cơ chế pháp lý để người dân có thể dùng luật tranh cãi với các viên chức chính quyền tại tòa án nếu họ vi phạm quyền tự do hay tài sản của dân.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và bốn bản hiến pháp của CSVN đều có ghi những quyền tự do ấy, nhưng lại thòng vào đó một câu: "... Tự do... theo luật định." Luật định đó là luật nào, do cơ quan chính quyền làm ra và các luật ấy có đi ngược với tinh thần hiến pháp quốc gia không? Nếu có những luật làm ra vi hiến thì tòa án tối cao và ngành tư pháp có độc lập để xét xử không?

Bởi vì chính hiến pháp của nước VNDCCH và CHXHCNVN đều đã công nhận là: "Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, là cơ sở cho việc xây dựng và ban hành các đạo luật khác". Vì thế tất cả các luật lệ do chính quyền đưa ra vi phạm tới quyền tự do hay tài sản của dân đều vi hiến cả; kể cả quốc hội hay các cơ quan hành pháp và cả hệ thống tư pháp phải bảo vệ hiến pháp. Nếu một trong ba cơ quan trọng yếu này vi hiến, thì cơ quan còn lại phải ngăn chặn lại ngay, bởi vì quyền tự do của dân là quyền hiến pháp (constitutional rights) nên bảo vệ hiến pháp là bảo vệ quyền sống của dân, tự do của dân, tài sản của dân và quyền mưu cầu hạnh phúc của dân.

Từ những nguyên tắc hiến pháp đó cho thấy những cơ quan bắt Lm. Nguyễn Văn Lý và các nhà tranh đấu dân chủ đều đã vi phạm hiến pháp hay luật hiến pháp quốc gia. Sự vi phạm này rất nguy hiểm cho trật tự quốc gia và trật tự chính trị, bởi vì trật tự hiến pháp không duy trì và bảo vệ được thì quốc gia và xã hội không thể nào ổn định được.

Vì lẽ đó chính quốc hội, các cơ quan hành pháp và các tòa án tối cao muốn bảo vệ nhà nước pháp quyền thì phải có những hành động tích cực để bảo vệ Lm. Lý và các nhà đấu tranh dân chủ. Nếu muốn người dân tôn trọng nhà nước pháp quyền và tôn trọng luật pháp quốc gia thì những người nắm quyền hành và quyền lực quốc gia phải thượng tôn hiến pháp và luật pháp quốc gia trước. Việt Nam cũng như các quốc gia đệ tam thường có một chính quyền của con người, chứ chưa thực sự có được một chính quyền của luật pháp. Ở đó những người cầm quyền thường không tôn trọng luật pháp và đứng trên luật pháp quốc gia. Việt Nam không thoát tình trạng non kém và ấu trĩ về chính trị, vì vẫn chưa có được một quan niệm chín chắn về con người và chưa có ý thức về luật đạo đức cần thiết như thế nào với xã hội con người.

James Madison nói với người dân Hoa Kỳ khi sửa soạn viết hiến pháp cho quốc gia này:

"Nếu chúng ta là những thiên thần thì chúng ta không cần có chính quyền. Nếu con người cần một chính quyền và các thiên thần nắm chính quyền, thì con người sẽ không có vấn đề gì cả. Nhưng vì tất cả chúng ta đều là con người và không phải là thiên thần, nên chúng ta phải xây dựng chính quyền trên luật pháp."

Những trang sử của VN và của thế giới đã ghi lại để con người thấy lịch sử thế kỷ 20, với bao lần các đế quốc thực dân đã tạo ra bao lầm lỗi, sa đọa đối với con người. Làn sống thực dân, Đức Quốc Xã, Phát xít và Cộng sản, dù đã sụp đổ, nhưng vẫn còn để lại bao hậu quả lớn lao tại VN và khắp nơi.

Đứng nhìn thế giới vào năm 1913, một thế giới đầy những đế quốc thực dân tranh dành xâu xé và làm tình làm tội các quốc gia nhỏ bé, trong đó có VN, Tổng thống Wilson đã nói: "Chúng ta phải làm cho thế giới này thành nơi an toàn cho nền dân chủ."

Lời nói đó đã 94 năm rồi. Các đế quốc đều đã sụp đổ hay đã phải trả lại độc lập cho gần 60 quốc gia. Và trật tự mới đã thành hình để xây dựng nên một thế giới hòa bình và ổn định. Trong đó hơn 70 quốc gia đã xây dựng nên nền dân chủ pháp trị. Nhưng tại VN, Hiến pháp năm 1980, trong lời nói đầu vẫn ghi: "Nắm vững chuyên chính vô sản."

Đất nước đã chấm dứt chiến tranh và có tuyên ngôn độc lập và hiến pháp, tại sao không nắm vững những nguyên tắc hiến pháp mà lại đi nắm vững chuyên chính vô sản để gieo rắc bao nỗi sợ hãi kinh hoàng cho toàn bộ xã hội?

Đúng như Hegel đã có lần nhận định rằng con người đã trải qua một thời gian dài trong tình trạng ấu trĩ và non kém, và họ đã trở thành nạn nhân của thiên nhiên và của xã hội, và ngày nay con người đã và đang trở thành chủ thể tự lực tự cường, tự quản và phát huy những tiềm năng cao đẹp vốn từ lâu bị đè nén và vùi dập. Từ đó những xã hội mới được tạo thành trên nền tảng của luật đạo đức và công lý, để tất cả mọi người đều được sống tự do và hạnh phúc.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào

Người dân Việt đã trở thành nạn nhân của thực dân Pháp 80 năm và sau đó là nạn nhân của chính mình hơn 60 năm qua. Đó là một dân tộc rất kiên cường, can đảm, thông minh và giầu tình cảm, lại có khuynh hướng hướng thượng, nhưng vì sống quá lâu trong thân phận của kiếp nô lệ ngoại tộc: một ngàn năm của giặc Tầu, tám mươi năm với giặc Tây và hơn 60 năm tranh chấp rùng rợn và đẫm máu từng ngày với những thù hận giả tạo, vì những nguyên do không có thật để gà nhà "bôi mặt đá nhau," do đó con người VN bất hạnh thay, luôn luôn bị xô đẩy vào cảnh đói khát, thiếu thốn bần cùng từ thế hệ này đến thể hệ khác và thừ thời đại này truyền cho thế hệ khác.

Trước đây, con người bị ngoại thù dị địch xích hóa và có thể phá tan xiềng xích. Nhưng thê thảm thay, dù đã thoát được ngoại xâm, phần đông lại trở thành nô lệ của chính mình. Mới đây một lãnh tụ của một tổ chức chính trị đã cao niên hỏi chúng tôi hai câu hỏi: "Tại sao một dân tộc có một lịch sử chống ngoại xâm rất hào hùng như VN, lại trở thành khiếp nhược trước người CS?" Và "Tại sao các nỗ lực chống CS của các tổ chức tranh đấu tại hải ngoại đã thất bại?" Đây không phải là sự khiếp nhược của con người, nhưng là sự đầu hàng trước quyền năng của ma qủy. Hay đây là sự phục tòng tạm thời của những con người quá lương thiện trước những con thú man rợ đội lốt người trong lịch sử. Những người CS rất đáng được truy tặng một tước hiệu của thời đại, đó là: "Những con thú man rợ của lịch sử cận đại," hay "ma vương trong vương quốc bóng tối."

Tại sao con người thất bại? Bởi vì những người chống CS đã đánh giá sai kẻ thù và đã đánh giá sai chính mình vì quá chú tâm tới kẻ thù, nên con người thường quên nhìn lại chính mình, do đó không biết mình là gì, là ai. Khi nhìn kẻ thù thì phải nhìn ra "chân dung của những con thú man rợ, " hay "ma vương trong vương quốc của bóng tối." Khi nhìn thấy chân tướng ấy và nhìn thấy sự thật đúng như sự thật thì phải nhận ra cách mạng cộng sản đang vận hành trên một tiến trình tự hủy - bởi vì trước khi thành những con người CS, phần đông con người vẫn là những con người với trọn vẹn dễ thương và khả kính của nhân tính, và chủ nghĩa duy vật CS vô thần đã biến những con người đúng là con người thành "những con thú man rợ của lịch sử cận đại" và là "lũ ma vương trong vương quốc của bóng tối."

Khi con người còn thực sự là con người, hay con người vẫn còn trọn vẹn nhân tính thì không bao giờ đối xử độc ác và tàn tệ với anh em của họ như CSVN đã đối xử với dân tộc của họ. Chính những hành động man rợ đó đã tự đào hố chôn "lý tưởng" cách mạng vô sản. Đây là những con người cưu mang nhiều ảo tưởng về cách mạng và đã đến lúc phải đánh thức họ dậy để tìm lại giá trị nhân bản của chính họ. Bởi vì sau khi chiến tranh VN chấm dứt năm 1975, đó là ngày những kẻ "chiến thắng" bước vào một xiềng xích nô lệ của chính họ. Họ như con thiêu thân lao vùn vụt vào con đường tranh danh đoạt lợi, ngụp lặn trong tội ác. Vì tranh danh đoạt lợi, say sưa đắm đuối trong tranh danh đoạt lợi, bây giờ đang chết trong tranh danh đoạt lợi. Những chủ nhân ông của một giang sơn gấm vóc lại trở thành những kẻ tôi đòi và khiếp nhược trước danh và lợi. Những kẻ như thế mà gọi họ là những nhà cách mạng của VN hay sao?

Còn các người trong các tổ chức chống cộng khác, một số vẫn không thoát được bản chất chung của những con người thường tình trước danh lợi. Phần lớn cũng rất thông minh, can đảm và kiên cường, nhưng dù CS đã lầm lạc, tội lỗi và thất bại, nhưng vẫn không tìm ra được một đường hướng lý tưởng, và thường bị người khác chỉ trích là thiếu nội dung cho một cuộc tranh đấu.

Vấn nạn lớn lao nhất của dân tộc VN và của những con người thời đại là chia rẽ, và chia rẽ đã đi vào bản chất con người, biến con người thành nạn nhân của chính mình. Đây là hậu quả đau thương của lịch sử mà người VN phải hứng chịu từ mấy ngàn năm qua - bởi vì khi con người bị xô đẩy vào cảnh sống luôn luôn bị đe dọa bởi nghèo đói bần cùng, thì miếng cơm manh áo và danh lợi trở thành sức hút không ai cưỡng lại được. Đó là số phận thê thảm của kiếp nô lệ mà con người đã gánh chịu từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác. Đến nay vẫn chưa thoát ra được. Vì thế tất cả các tiềm năng và các giá trị cao quý của con người đã bị vùi dập, đã bị mất mát và đổ vỡ não nề.

Dân tộc VN không thiếu văn minh, văn hóa, đạo lý, không thiếu những đầu óc lớn, những tâm hồn lớn, những chí khí lớn, những dũng lược lớn, những tư tưởng lớn và những viễn kiến sâu xa, nhưng tất cả đã bị vây hãm, khống chế và đè bẹp từ thời này đến thời đại khác. Trước những thực tế lịch sử đớn đau đó, những con người thời đại hôm nay phải tìm mọi cách thoát ra khỏi dòng sử mệnh kinh hoàng đó, để thấy rằng truyền thống lịch sử của dân tộc Việt là những cuộc chiến đấu không ngừng cho lý tưởng, cho đạo lý, cho quyền sống, cho tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho con người đã và đang bị các ma vương trong vương quốc bóng tối vây hãm.

Muốn chiến thắng trận chiến khốc liệt này, con người phải phục sinh lại nhân tính và thiên tính đang bị mất mát và vùi dập trong kiếp người VN, để có những tâm hồn và trí tuệ lớn. Từ đó dẫn đến nền tảng đạo đức và công lý cho hiến pháp dân chủ cho quốc gia để mọi người đều bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong các cơ hội kinh tế và giáo dục để mọi người phát triển tài năng của họ.

Trật tự hiện hành được tái tổ chức lại. Chủ nghĩa độc tài chuyên chế vô thần và phong kiến đã đến lúc phải dẹp bỏ vĩnh viễn để xây dựng một trật tự mới - đó là trật tự của đạo đức và công lý. Đó là nển tảng của toàn cầu hóa mà đảng CSVN không thể cưỡng lại được.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Lịch sử của VN và thế giới đã để lại cho nhân loại những bài học quá kinh hoàng, ở đó biết bao lầm lạc và tội lỗi của con người gây ra cho đồng loại từ Đông qua Tây. Từ đệ I, đệ II Thế chiến, Chiến tranh Lạnh và trước đó là các phong trào thực dân, các quốc gia nhỏ bé luôn luôn bị đối xử như những thành phần hạ đẳng. Hitler, Mussolini, Lenine, Staline, Mao Trạch Đông, HCM, Fidel Castro, Kim Nhật Thành, hay Pol Pot - đều là những kẻ chống lại con người, chống lại đạo lý, chống lại văn minh tinh thần và văn hóa của các dân tộc, để xây dựng thành những triều đại đầy máu, nước mắt và xác người vô tội. Tất cả những kẻ độc tài đã nằm xuống. Mussolini bị dân Ý giết như con vật rồi treo xác trên cây. Hitler tự kết liễu cuộc đời man rợ của hắn, rồi xác bị thiêu rụi trong ngọn lửa thành Bá Linh. Người ta cho rằng cả hai đều sinh ra từ chỗ hạ đẳng, không có đầu óc và rất tồi bại. Số còn lại là các tên quốc xã, Phát xít Đức-Ý-Nhật đều bị đưa ra tòa xét xử để nhận những cái chết bi thảm. Đây là những con người đã hướng dẫn các quốc gia của họ vào con đường đầy lầm lạc, đổ vỡ, đầy tai vạ, nhục nhã.

Tại Đức, tiếng nói của lương tâm đã cất lên, "Không có luật pháp và công lý... quyền năng độc tài sống trên sự khổ đau quằn quoại của con người. Tinh thần dân tộc Đức cũng tàn tạ như cuộc sống."

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Theo chủ trương vương đạo của Đông phương như thời Nghiêu Thuấn và Tây phương như thời Plato, Đức và chủ trương vương đạo (idealism) đã thành tựu lớn lao tại Hoa Kỳ, thì văn hóa của nền chính trị vương đạo không bao giờ tách khỏi luân thường đạo lý và Cựu Ước cũng như Tân Ước. Đó là những vương quốc của đạo đức vĩnh cửu, của chân-thiện-mỹ, của tự do và công lý. Vì thế, tự do và đạo đức là hai con đường song song không thể tách nhau được. Martin Luther đã dặn dò những người Đức đang sống trong quằn quoại khổ đau dưới quyền năng của độc tài "Phải có tự do tư tưởng trước khi có tự do trong hành động, phải có luân lý đạo đức trước khi có đời sống xã hội."

Và HCM cũng như các nhà độc tài khác của Quốc xã, Phát xít và CS đã dẫn dân tộc của ông đi vào con đường đầy lầm lạc, đầy tai vạ, đầy nhục nhã từ hơn 60 năm qua. Ông đã luồn cúi như kẻ tôi đòi trước quyền năng của đế quốc Nga-Tầu, và đảng CSVN đã hèn hóa tất cả những ai đi theo họ và hèn hóa cả dân tộc của họ. Họ đã xô đẩy cả một dân tộc luôn luôn phải sống trong đói khổ bần cùng để dùng miếng cơm manh áo và danh lợi làm cha con người - một là mất hết lương tri lương năng; hai là khiếp nhược bại hoại để bắt con người tung hô vạn tuế những kẻ hành hạ mình và bắt họ ca bài con cá "Bác Hồ kính yêu. Muốn biết cây là gì thì cứ nhìn vào quả sẽ thấy sản phẩm cách mạng vô sản của HCM và đảng CSVN đang để lại trước mắt mọi người đủ nói lên rằng "Bác Hồ kính yêu" chỉ là "Một lão già điên trong lịch sử cận đại." Ông nằm xuống nhưng đã để lại một "lũ ma vương trong vương quốc của bóng tối" cho đến ngày nay.

Từ hơn 60 năm qua HCM và đảng CSVN đã đội lốt dân tộc, đội lốt cộng hòa dân chủ, đội lốt cách mạng XHCN, nhưng cuối cùng tất cả mọi chiếc mặt nạ đã rơi xuống để lộ nguyên hình "những con thú man rợ trong xã hội con người,” được thể hiện nguyên hình trong tấm hình BỊT MIỆNG Linh mục Nguyễn Văn Lý. Những con người này không chỉ ăn thịt người khác, mà họ thường ăn thịt lẫn nhau. Chưa có giai đoạn lịch sử nào mà con người lại nhiều thú tính như trong thời đại CS.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Chúng tôi gửi bức thư này là hải ngoại huyết thư bởi vì đây không chỉ là những giọt máu, nước mắt và mồ hôi nhỏ xuống dòng đời để khóc cho những con người VN; mà cho tất cả những con người vô tội, những con người bất hạnh, nghèo khổ bần cùng trong thế giới đệ III với bao triệu con người đã đổ máu ra và gục chết trong chiến tranh, trong hận thù cách mạng vô sản và bao quốc gia nhỏ bé, nghèo nàn lạc hậu mà vẫn phải sống trong bàn tay của những tên độc tài giống như Mussolini và Hitler.

Bài học trầm luân của kiếp người trên mặt đất này đang để lại cho nhân loại những kinh nghiệm thật lớn lao, đó là xã hội con người không có luật đạo đức vĩnh cửu và luật pháp quốc gia công minh và nghiêm minh để kiểm soát và điều hướng, xã hội đó sẽ luôn luôn là những đấu trường đẫm máu giữa người và người, hay cá lớn nuốt cá bé.

Truyền thống dựng nước của Hoa Kỳ cũng là một kinh nghiệm lịch sử của những con người đã từng bị tước đoạt quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc khi những con người đó vẫn còn sống trên nước Anh, nơi đó cha anh của họ đã chịu những cái chết kinh hoàng trên những dàn hỏa của quyền hành độc đoán.. Vì thế những con người đau khổ này đã sáng suốt nhận ra rằng, ”XÃ HỘI CON NGƯỜI MUỐN CÓ QUYỀN SỐNG, QUYỀN TỰ DO, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC THÌ PHẢI CÓ KHẢ NĂNG XÂY DỰNG QUỐC GIA TRÊN LUẬT ĐẠO ĐỨC VĨNH CỬU (eternal ethics). Những người cha khai sinh ra quốc gia này cũng vô cùng minh triết khi nhận ra rằng tất cả con người không ai là thiên thần cả, nhưng con người vẫn là những con người hay sa ngã (fallen men) nên muốn xây dựng chính quyền thì đừng xây dựng chính quyền của con người (government of men), mà phải xây dựng chính quyền trên luật pháp (government of laws). Trong khi ấy nhiều quốc gia vẫn còn thần thánh hóa các lãnh tụ -- đó cũng là những con người sa ngã, nhưng lại để họ nắm giữ quyền hành tuyệt đối, và toàn dân đã trở thành nạn nhân thê thảm của những người lãnh tụ này -- đó cũng là trường hợp đã và đang xẩy ra tại VN từ hơn 60 năm qua. Ở đó người dân đã để cho đảng CSVN nắm giữ tất cả quyền hành quốc gia một cách tuyệt đối và con người luôn luôn sống đau khổ quằn quoại trong những bàn tay độc đoán của đảng CS.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Và trên bi kịch nhân sinh não nề đó, tiếng nói của lương tâm con người phải cất lên từ đáy mồ của khổ đau và tuyệt vọng để nói về số phận đen tối của đồng loại anh em và nói về đồng bào ruột thịt của mình trước con người và trước lương tâm của thế giới. Muốn xây dựng một cộng đồng nhân loại để mọi người có thể sống xứng đáng như những con người thì phải đem đạo đức và công lý đến với cộng đồng nhân loại.

Chính vì những lý do đó, năm 1913 Tổng thống Woodrow Wilson đã đưa ra đề nghị với các quốc gia cùng với HK đặt lại nền móng hoà bình cho thế giới và xây dựng sự hợp tác quốc tế trên tinh thần tôn trọng quyền tự do và quyền tự quyết của các dân tộc trên toàn thế giới. Tự do dẫn đến sự giải phóng gần 60 quốc gia đang bị thực dân Tây phương và Đông phương chiếm đóng. Tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập và bản Hiến Pháp của HK đã được đón nhận như những nền tảng thiết yếu để xây dựng tự do dân chủ và xây dựng trật tự mới của thế giới.

HCM và đảng CSVN cũng đã sao chép những bản tuyên ngôn và hiếp pháp này ngay từ năm 1945 và viết luôn bốn bản hiến pháp trong 62 năm qua. Nhưng họ viết ra không phải để thi hành, nhưng viết ra để lừa dối dân tộc VN và lừa dối cả thế giới. Vì thế những con người này đã nắm lấy độc quyền kháng chiến, độc quyền yêu nước, và độc quyền lãnh đạo quốc gia cho đến ngày nay để gây ra chiến tranh VN đẫm máu và xô đẩy dân tộc vào con đường quá nhiều lầm lẫn, quá nhiều hận thù và quá nhiều nhục nhã với bao cái chết đắng cay. Nhưng ngày nay dân tộc đó đang sống dậy từ đáy mồ tăm tối và sợ hãi để nói với đảng CSVN rằng: ĐẢNG CSVN PHẢI HIỂU RẰNG CON NGƯỜI MUỐN CAI TRỊ CON NGƯỜI THÌ PHẢI XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN TRÊN LUẬT PHÁP VÀ CÔNG LÝ. Muốn có luật pháp và công lý thì phải xây dựng hiến pháp trên luật đạo đức vĩnh cửu như Mười Điều Răn của Luật Giao Ước, Ngũ Giới của Phật Giáo và luân thường đạo lý trong Nho Giáo, hay luật thiên nhiên của Lão Giáo. MUỐN CÓ ĐẠO ĐỨC QUỐC GIA VÀ CÔNG LÝ, XÃ HỘI PHẢI BẢO VỆ QUYỀN SỐNG CỦA DÂN, QUYỀN TỰ DO CỦA DÂN VÀ QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC CỦA HỌ.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Muốn xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc thì đừng trông cậy vào người khác, trái lại phải tìm cách để tự cứu lấy chính mình, hay tự đốt đuốc lên mà đi giữa đêm tối bão bùng này. Đó là những ánh lửa thiêng từ trời cao rơi xuống lòng những con người thời đại, để con người có thể tìm thấy sự thật và chính sự thật ấy sẽ giải phóng con người khỏi những đau khổ triền miên từ bao năm qua, để sống lại như Phù Đổng Thiên Vương thuở nào, không phải để xua đuổi giặc An, nhưng xua đuổi giặc Hồ, và giặc của tà thần ngụy thuyết ngoại lai, và để cho ánh sáng của các dòng đạo lý đến từ trời cao sống lại trong lòng người và sống lại trong xã hội con người. Chủ nghĩa CS vô thần không phải là một chính thuyết cho cuộc cách mạng xã hội. Đây là một hũ độc dược của tư tưởng đã làm băng hoại ý thức nhân bản và ý thức đạo đức của con người.

Ngày nay những con người VN chính thống đã phục sinh lại từ những cái chết muôn vàn đắng cay của dân tộc suốt dòng sử mệnh quá bi thương và trầm hùng từ bao ngàn năm qua. Chiến tranh VN là một cuộc chiến không cần thiết và hoàn toàn phí phạm. Những con người VN đã làm khổ mình, gieo bao tang tóc đau thương cho chính mình, hành hạ sâu xé mình, sung sướng hân hoan đón mừng "chiến thắng" trên chính sự chết chóc của dân tộc mình và nòi giống mình, và đã choàng xiềng xích nô lệ vào tay chân anh em của chính mình. Tất cả những hành động điên rồ đó đã kéo dài hơn 60 năm, thế mà cho đến nay vẫn còn thiêm thiếp ngủ trên sự điên rồ đó mãi hay sao? Đúng như Michel Tauriac đã nhận xét năm 2001, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và đang lãnh đạo để cai trị đất nước như một con tầu chập chờn trong sương đem vì lạc lối. Và định hướng XHCN như một thằng điên lái chiếc xe nhấn lút ga để nhắm tới cái hố thẳm mà lao tới. Đó là hình ảnh của nước VN hiện nay, nhưng những người bên ngoài không thể nào thấy được khi họ quan sát bề mặt của đời sống.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào,

Đứng trước những sự thật lịch sử đó, con người phải thấy rằng, nếu không có một quan niệm chín chắn và chính xác về con người, thì tất cả mọi nỗ lực xây dựng đều xôi hỏng bỏng không. Tại sao Karl Marx dám chắc chắn rằng những người vô sản sẽ giải phóng thế giới khi họ đều là những con người chưa thoát khỏi bản chất thường tình của những con người trước những cám dỗ của danh lợi? Tại sao lại để những con người tầm thường như thế nắm giữ quyền hành tuyệt đối, để cai trị bao nhiêu triệu con người mà không có luật đạo đức và luật pháp nghiêm chỉnh kiểm soát. Tại sao làm cách mạng mà để cho tầng lớp lãnh đạo cách mạng sa đọa nhiều đến như thế? Marx bây giờ ở đâu, ông có nghe chúng tôi hỏi ông không, trả lời chúng tôi đi, hỡi người cha đẻ ra cách mạng vô sản thế giới. Từ những nhận thức đó, con người có thể thấy rằng kinh nghiệm lịch sử của CS và Tư Bản quá hữu ích cho lịch sử con người. Nếu những người nắm giữ quyền lực quốc gia không được kiểm soát thì chắc chắn họ sẽ bước vào sa đọa.

Đây là bức thư quá dài, nhưng cũng lại quá ngắn, nếu so với bi kịch triền miên của con người trong bàn tay của các chế độ độc tài. Xưa Chúa Giêsu có nói: "Anh em hãy tìm lấy sự thật và sự thật sẽ giải phóng anh em" (Ga 8:32). Nguyễn Trường Tộ cũng đắn đo: "Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không hết là bất nghĩa." Vì thế Hải Ngoại Huyết Thư số 1 này chỉ xin được trình bầy sự thật với tất cả quý vị. Tương lai của nhân loại và của toàn dân VN nằm trong tay quý vị, nhất là các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo và tầng lớp sĩ phu, trí thức của quốc gia. Đó là những ánh đuốc soi đường cho muôn người thoát khỏi những kẻ độc tài với đầu óc vị kỷ, hẹp hòi, sa ngã lại ham mê qưyền lực và quyền lợi mà không có luật đạo đức và luật pháp nghiêm minh và công minh kiểm soát và giới hạn quyền hành tuyệt đối đó thì trật tự mới của thế giới đến bao giờ mới thành tựu? Vì vậy để xây dựng hoà bình và công lý cho cộng đồng nhân loại, thì phải giúp các quốc gia xây dựng luật đạo đức và công lý xã hội cho mỗi quốc gia. Muốn có đạo đức quốc gia và công lý xã hội thì phải tôn trọng quyền sống của dân, quyền tự do của dân và quyền mưu cầu hạnh phúc của họ.

Đó là tất cả những ước vọng và hy vọng của bức thư này gửi đến tất cả quý vị và toàn thể đồng bào trong và ngoài nước. Xin hồn thiêng sông núi của Tổ Tiên đất Việt phù trợ và soi sáng cho tất cả những con người thời đại. Xin Thượng Đế toàn năng đem mọi ơn phúc đến cho tất cả quý quốc và cho toàn thể chúng ta.

Đại diện Nhóm Nghiên Cứu Khoa Học Chính Trị cho Dân Chủ Việt Nam

Nguyễn Anh Tuấn

Đề nghị: Sau khi đọc xong Lá Huyết Thư đầy trăn trở và thực tiễn này, chúng tôi xin mời tất cả quý vị thức giả, quý độc giả muốn đóng góp ý kiến tham gia, xin gửi về cho chúng tôi theo địa chỉ:

- Tiengnoigiaodan@yahoo.com
- Hoangquy40@yahoo.com