Tuesday, September 23, 2008

Thủ Tướng Phan Huy Quát

Bài viết tưởng niệm cựu
Thủ Tướng Phan Huy Quát nhân ngày giỗ thứ 28

Cố thủ tướng Phan Huy Quát.
Hình chụp khoảng năm 1954.

Nguyễn Tú

LTS: Nhân ngày giỗ thứ 28 (27 Tháng Tư, 2008) của Bác Sĩ Phan Huy Quát (1908-1979), cựu thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa (1965), nhật báo Người Việt xin đăng tải bài viết của Nguyễn Tú, trích từ nguyệt san Khởi Hành số 138, Tháng Tư 2008, để tưởng niệm vị cựu thủ tướng miền Nam tự do đã bỏ mình trong lao tù Cộng Sản sau ngày 30 Tháng Tư 1975.

Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại "như một nén hương chiêu niệm chung."

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.

Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam - có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông - bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.

Chí Hòa, Sài Gòn
Một ngày cuối Tháng Tư 1979

Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không "vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi" dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.

Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.

Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là "trại viên" Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần - một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế - mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.

Tôi khẽ lên tiếng:
"Anh Quát! Anh Quát!"

Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: "Anh Quát! Anh Quát!" Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.

Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản động" nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự "đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng" nên được Việt Cộng tận tình "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: "Anh Quát! Anh Quát!"

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: "Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?" Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: "Anh Tú!" Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: "Anh mệt lắm phải không?" Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: "Anh có nhắn gì về gia đình không?" Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: "Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!" Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: "Thôi! Anh Tú ạ." Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: "Nói đi! Anh Quát! Nói đi!" Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! "Thôi! Thôi! Bỏ đi!" Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.

Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: "Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?"

Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.

Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!" Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì "xấu máu." Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu "Phương đầu bạc." Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: "Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!" Ông Châm bèn bảo: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!" Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: "Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?" Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: "Ðâu?" Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: "Ðây, cán bộ!" Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.

Phương "đầu bạc" dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! "Lấy cơm!" Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: "Bác Sĩ Quát chết rồi!" Cả phòng nhao nhao: "Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?" Một anh đáp: "Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải."

Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: "Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!" Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: "Nhớ làm bản kê khai, nghe không!" Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ "trại viên" nào.

Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.

Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ "nghi vấn." Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là "rất căng." Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau "đại thắng Mùa Xuân" của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác "ăng ten," tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng "dư" lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần "nhìn thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.

Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu "thật tâm cải tạo tốt." Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất "siêu" về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.

Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối "chính quy," trong "đường lối chính quy." Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp "lời mời" ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả "ngụy quân, ngụy quyền". Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời "du mục" trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn "trụ" hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống "tự nhiên cái đã". Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.

Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.

Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm "kẻ bỏ chạy" vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.

Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.

Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có "khách hàng". Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. "Ăng ten" cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc "phiêu lưu" của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

"Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi."

Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: "Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? - Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết."

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: "Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?" Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: "Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng." Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu "tên phản bội, tên lừa bịp", ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: "Thôi! Bỏ đi!" để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã "được" Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.

***

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là "Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát." Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.

Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

***

Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.

Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.

Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây "Anh hùng nhất mực" và "ra ngõ là gặp anh hùng" lại sợ đủ thứ!

Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!

Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết "thần giao cách cảm" với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là "nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng".
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.

***

Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:

"Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây..."
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.

Nguyễn Tú

Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.


Từ thiện cho cộng sản Việt Nam

From: huong saigon
Date: Friday, September 19, 2008, 2:55 PM

Kính thưa quý vị,

Hương SG xin đồng ý với nhận định dưới đây của tiền bối Hoàng Nguyễn. Hương cũng xin phép được bày tỏ một vài ý kiến thô thiển của mình.

Nếu việc "TỪ THIỆN" theo đúng ý nghĩa của nó thì đó là điều tốt và nên làm. Tuy nhiên, vấn đề "từ thiện cho VN" cần được xét lại: "Từ thiện" nầy có đúng theo ý nghĩa thật sự của nó hay không hay chỉ đơn thuần là tiểu xảo làm tiền của cộng sản ? Ai tổ chức gây qquỹ từ thiện nầy ? Và số tiền thâu được có đến tay những nạn nhân thật sự cần đến những món quà từ thiện nầy hay không ?

Hưong đưa những nghi vấn trên dựa vào những sư kiện đã và đang xảy ra trước mắt:

Những năm gần đây cs đưa ra hải ngoại các nhà sư và các ông cha quốc doanh, lợi dụng sự ngoan đạo của phật tử và con chiên để làm kinh tài cho cộng sản dưới chiêu bài "Từ Thiện" . Ngoài ra có những đơn vị cộng sản trá hình "hội từ thiện" này nọ để kinh tài cho cs. Đây là những hoạt động đem ngoại tệ về cho nhà nước cs chứ không phải là TỪ THIỆN đúng theo ý nghĩa của nó.

Trên thực tế, trong kỳ bão lụt vừa qua, nạn nhận phải hối lộ cho cán bộ thì mới nhận được món quà viện trợ từ nước ngoài. Hương được biết điều nầy khi gọi điện thoại về thăm một người bạn là nạn nhân bão lụt.

Xin quý vị suy nghĩ: Tại sao có những ông sư ông cha đi ra nước ngoài như đi chợ để quyên tiền, trong khi đó có những nhà sư và linh mục chân chính bị cầm tù hoặc bị theo dõi từng bước di chuyển, đừng nói chi đến việc xuất ngoại ?

Mánh khóe lưu manh của cs là dùng những danh từ hoa mỹ, êm tai để lường gạt, dụ dỗ hoặc kết tội người Việt tỵ nạn hải ngoại.

Khi chúng muốn ta đầu hàng, không chống cự và ngoan ngoản phục tùng chúng thì chúng kêu gọi "hoà hợp hoà giải".

Khi chúng muốn ta về Việt Nam, mang ngoại tệ cho chúng thì chúng "hồ hởi " tiếp đón "khúc ruột ngàn dặm" !

Khi chúng ta nói lên tiếng nói của lương tâm, vạch ra hành động buôn dân bán nước, tham nhũng, dành nhà cướp đất của chúng thì chúng gọi ta là lũ người "quá khích", "phản động", "lực lượng thù nghịch" hay "bọn người chống lại quê hương"!

Khi chúng quyết tâm đánh chiếm Miền Nam VN, thì chúng hô hào "trường kỳ kháng chiến". Khi chúng có toàn quyền thống trị, thì chúng kêu gọi "bất bạo động và phi chính trị".

Khi chúng chiếm được Miền Nam thì chúng thù hận, thẳng tay đày đọa tàn sát quân, dân, cán, chính VNCH. Khi chúng ngồi trên ngai toàn trị chúng kêu gọi "khép lại quá khứ và xoá bỏ hân thù"!

Nếu quý vị đọc kỹ những emails của những tên cs lộ diện trên net phỉ nhổ người Việt QG ở hải ngoại hoặc chửi rủa thậm tệ các lãnh đạo và chính thể VNCH, qquý vị sẽ rõ cộng sản "khép lại quá khứ" như thế nào!

Nếu quý vị đọc kỹ những bài viết của nhóm Giao Điểm phỉ nhổ VNCH hoặc nhục mạ tôn giáo, thì quý vị cũng sẽ thấy rõ bản chất vô thần, hận thù tôn giáo, oán ghét người QG yêu chuộng dân chủ, tự do và nhân quyền như thế nào.

Vấn đề trước mắt không phải là có nên làm việc "từ thiện cho VN " hay không mà là có nhận rõ được thủ đoạn gian xảo lừa bịp của bọn ngụy quyền cộng sản hay không.

Xin thành thật cám ơn quý vị đã bỏ thì giờ quý báu để đọc những dòng viết vội thô thiển trên đây.

Kính chúc quý vị và gia đình luôn an khang.

Kính,

Hương Sài Gòn

Trích từ: http://canhthep.com/modules.php?op=modload&name=Forum&file=view&bn=70a_vinuoc&key=1221993532


Thông Cáo Báo Chí Của Gia Đình Mỹ Việt Dallas



Dallas, Texas
Ngày 22 tháng 9 năm 2008

Thông Cáo Báo Chí Của Gia Đình Mỹ Việt Dallas
Kính Gởi đến Cộng Đồng Việt Nam DFW, Texas
Kính Gởi đến Qúy Hội Đoàn, Đoàn Thể
Kính Gởi đến Qúy Đồng Hương và Qúy Anh Chị Em Lai

Chiếu theo biên bản của cuộc họp GĐMV Dallas ngày 21 tháng 8 năm 2008. Nay Gia Đình
Mỹ-Việt Dallas chúng tôi xin trân trọng thông báo đến hai Cộng Đồng, các Hội Đoàn, Đoàn Thể, cùng qúy Đồng Hương và quý Anh Chị Em Lai về hai việc:

Thứ Nhất

Gia Đình Mỹ Việt chúng tôi chính thức tuyên bố: Không tham gia và hợp tác dưới bất cứ hình thức nào của ngày Hội Ngộ Cựu Tù Nhân Chính Trị do Bà Khúc Minh Thơ tổ chức vì ba lý do:

1. Gia Đình Mỹ Việt là một tổ chức độc lập, không đứng dưới bất cứ một ô dù nào, và cũng không là công cụ cho bất cứ một Tổ Chức hay một một Cá Nhân nào.

2. Trong thời gian vừa qua Ban Tổ Chức của bà Khúc Minh Thơ chưa từng hội ý với chúng tôi, mà đã đưa lên báo chí một cách không rõ ràng bằng những từ ngữ “một nhóm Việt Mỹ”, hoặc “Gia Đình Việt Mỹ”, nên chúng tôi cho rằng đây là một cách làm việc thiếu tôn trọng và không trong sáng.

3. Cuối cùng, ông Trần Ngọc Ký đã tự ý tuyên bố là Gia Đình Mỹ Việt “hoàn toàn ủng hộ và sẵn sằng tiếp tay cho bà Khúc Minh Thơ” mà điều này chưa có thông qua với ban đại diện (Board of Director) của Gia Đình Mỹ Việt. Vì lý do trên, lời tuyên bố của ông Trần Ngọc Ký không có hiệu lực cho tất cả thành viên tại Dallas nói riêng và tất cả anh chị em toàn quốc nói chung.

Thứ Hai

Ông Trần Ngọc Ký là cựu thành viên của Gia Đình Mỹ Việt-Dallas, nhưng hiện nay đã dọn nhà qua tiểu bang Oklahoma, và không còn sinh hoạt bình thường với chúng tôi. Cho nên, chúng tôi yêu cầu ông đến ngân hàng để rút tên ra khỏi tài khoản của gia đình Dallas và hoàn trả số tiền quỹ của hội mà ông hiện đang giữ, cũng như thanh toán nợ nần của những cá nhân anh chị em trong Gia Đình Mỹ Việt Dallas. Chúng tôi đã nhiều lần gọi phone đến ông, và thậm chí đã gởi emails nhưng vẫn không nhận được sự hồi báo nào của ông. Khi ông nhận được lá thư này, chúng tôi yêu cầu ông trong thời gian 15 ngày phải vui lòng giải quyết mọi sự yêu cầu kể trên.

Nay chúng tôi xin ra thông cáo này gởi đến quý Cộng Đồng Việt Nam, quý Hội Đoàn, Đoàn Thể của thành phố Dallas/Fort Worth và vùng phụ cận để kính tường. Chúng tôi toàn thể thành viên Gia Đình Mỹ Việt Dallas, TX sẽ không chịu trách nhiệm về lời nói và hành vi của ông Trần Ngọc Ký nói riêng, và những gì ông tự tuyên bố cho Gia Đình Mỹ-Việt toàn quốc nói chung.

Đại Diện Gia Đình Mỹ Việt Dallas và vùng phụ cận



Monday, September 22, 2008

Sự Độc Hại Khôn Lường Của "Đóa Hồng Gai Dỏm"


Trương Minh Hòa

"Hoa nào không tàn.?
Tình nào không phai.?
Rượu nào uống không say?"

Đó là ba câu "đối vui để nhậu" thường được các tay "chưởng môn, thủ trưởng, tổng bí thư, chủ tịch ... của đảng De Chai "mang ra" thảo luận" góp ý, phê bình, tự phê và có thưởng, phạt với những "chất cay" có tốn tiền. Tuy nhiên các bà thì hổng "hồ hởi phấn khởi" khi mà các ông cùng nhau làm "cách mạng" biến bàn tiệc thành "đại hội đảng De Chai" cùng nhau nói những điều lúc tỉnh hổng ai dám nói:

"Ai uống rượu mà chưa hề say xỉn.
Ai say sưa mà hổng la lối bao giờ.
Dậy mà đi, dậy mà đi.."

Trở lại câu hỏi, xin được trả "nhời" rằng: - Hoa ny long, làm bằng giấy mới hổng tàn - Tình mẫu, phụ tử, yêu nước hổng bao giờ phai - Rượu nào uống cũng say, nhưng chỉ có những người không biết uống rượu và không rớ tới rượu là "đảm bảo" hổng bao giờ bị say, xỉn như cái tên của Tổng bí Thư đảng Cộng Sản Lào được dịch sang tiếng Việt "Say Xỉn Đâm Ra Sảng", sớm trở thành cái tên lừng danh tại Việt Nam, nhất là giới bình dân học vụ .

Nói về Hoa, thì hoa hồng là cũng có gai, ngụ ý nói là "gái đẹp thì khó cua" hay những phụ nữ thuộc thành phần "Can Trường Trong Chiến Bại" cũng là "hồng gai" đấy. Do đó, người phụ nữ tên Nguyễn Thanh Nga, nghe đâu có tên Nguyễn Thị Liên và tên cúng cơm Nguyễn Thị Sáu, sinh quán ở Quảng Nam, quận Thường Đức, xã Lộc Vĩnh, nay "trú quán" ở Hoa Kỳ, viết cuốn sách "Đóa Hồng Gai", được tác giả mang đi ra mắt nhiều nơi ở Mỹ, Úc ... có người tò mò mua thử về xem để biết "Đóa Hồng xứ Quảng có gai như thế nào?", đó có phải là "Đóa Hồng Goy" hay có điều chi "Lọa rứa?" chứa đựng trong 246 trang giấy, được tác giả giải bày tâm sự trong "một phút tâm tình người Hà Tỉnh".

Đọc những bài viết phân tích rất hay trên Tinparis về quyển sách có tựa đề là "Đóa Hồng Gai" của Nguyễn Thanh Nga, tình cờ mượn được một quyển, thoạt đầu nhìn bìa in màu với hoa hồng vàng (một nở, một búp) và cái hậu là cảnh núi non xanh đen, chân trời bàng bạc mây, kỹ thuật in ấn tiên tiến, giá bán chỉ có 15 Đô Mỹ thôi. Đặc biệt bên dưới cái bìa sách có hàng chữ lớn: "HỒI KÝ của một nữ cựu tù nhân chính trị, TÁI BẢN LẦN THỨ 5. Với một số chương và đoạn được bổ túc 2007", sách lại in tại California, nơi có nhiều người Việt tỵ nạn, thuộc loại sách có giá trị theo một số người thường nghĩ. Nhìn cái tựa thôi, bỗng giựt mình và "giựt luôn con mắt" vì không ngờ sách nầy lại bán chạy "như thịt chó ở Việt Nam trong thời cao điểm dịch cúm gia cầm, heo tai sanh, bò lông mồm lở móng" khi mà: "chó lên bàn, gà xuống hố". Bên trong, tác giả có cho biết là rời Việt Nam 1992, và sách xuất bản đầu tiên tại California vào mùa xuân năm Tân Tỵ, 2001. Đến 2007, đã có tới "5 lần tái bản" thì quả là sách hay chớ bộ!

Những ai từng viết, xuất bản sách, biết ngay cái thị trường sách ở hải ngoại như thế nào. Nhất là các "nhà thơ" bỏ tiền túi in, lại bỏ thêm tiền đãi nhà hàng, vừa bán vừa cho, thế mà vẫn chưa giải quyết được tập thơ, cuối cùng phải xây nhà kho để chứa. Một sự thật phủ phàng là hầu hết các tác giả, nhà văn, nhà báo, từng có tên tuổi trước 1975 đều "ngậm ngùi" như Huy Cận: "vườn hoang Trinh nữ khép đôi là sầu" khi mà:

" Sách xuất bản nhiều mà người đọc chẳng bao nhiêu.
Khi người ta vẫn thờ ơ ngày ra mắt"

Một quyển sách hay như: Tôi phải sống của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, cũng chưa chắc tái bản tới 5 lần như "Đóa Hồng Gai", thì đây là cuốn sách hay "quá cỡ thợ mộc" nên mới có nhiều người mua và tái bản, và sau nầy sách có thể in câu lớn ở bìa trước "tái bản lần thứ một ngàn" cũng chẳng sao, vì đây là "tác giả giữ bản quyền". Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, khi mới "khởi nghiệp kháng chiến dỏm" để thu được nhiều tiền, đầu tư món hàng "lòng yêu nước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản" nên mới có cái màn nói láo như: chiến khu có quay phim phổ biến như món chào hàng, nhiều kháng đoàn số 72, 81 ... (làm thế nào để cho danh số các đơn vị kháng chiến với hai số cộng lại là 9 mới hên và làm ăn khá) ... có tới 10 ngàn tay súng, có Phong Trào yểu trợ kháng chiến thu tiền khắp nơi, rần rộ ... nhưng sau nầy khi biết là dỏm, nên cái tổ chức nầy đã tiếp tay với Việt Cộng trong việc "đánh sập lòng tin của dân chúng" trước các tổ chức chống Cộng thiệt, làm suy yếu, phân hóa ở hải ngoại. Tác giả Nguyễn Thanh Nga tiết lộ trong quyển hồi ký là có từng tham gia kháng chiến Hoàng Cơ Minh ở Việt Nam, nhằm đánh bóng và xác nhận những chuyện "nay đánh chiếm xã nầy, mai quận kia, làm thiệt hại nhiều đơn vị Việt Cộng" là có thiệt, chứ không phải là thứ "tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển" hoặc "báo cáo khí tượng thủy văn" từng được báo kháng Chiến đăng tải, một thời toàn dân "hải ngoại" rất ư là "hồ hởi phấn khởi" để đóng tiền, với lòng tin là trước sau gì Mặt Trận Hoàng Cơ Minh cũng "làm nên lịch sử" như Hồ Chí Minh, chỉ với một nhóm nhỏ, ngồi dưới gốc cây đa Tân Trào mà sau nầy chiếm hết nước Việt Nam. Nhất là nhìn thấy hai tấm hình của "Bác Hồ" và "Bác Hoàng" na ná giống nhau từ cách ăn mặc, quàng khăn rằn, để râu ... và lừa đảo cũng giống nhau luôn.

Trang thứ hai, bên trong có ghi hàng chữ, mới đọc qua, có cảm tưởng như đây là quyển sách được "Thiên Chúa Giáo" hỗ trợ mạnh, với hàng chữ: "Library of Congress Cathologing –in-Publication data Txu-321-856" và bên dưới có một đoạn tiếng Anh, đại khái như các sách vở, phim, video ... với "tác giả giữ bản quyền"; như vậy là sách nầy do chính tác giả in và bán, chứ không phải do nhà xuất bản thực lo hết. Nơi Lời Tựa lần tái bản thứ năm, tác giả tiết lộ là được nhà đạo diễn hãng phim "Principal" của Anh Quốc là bà Beccie Eve phỏng vấn nên mới viết thêm nhiều chi tiết.

Theo đó, có thể là trong tương lai, quyển sách nầy cũng có thể "được đóng thành phim" tiếng Anh, được phổ biến toàn cầu, dự tranh giải Oscar không chừng và tác giả thu bạc triệu cũng không có gì quá đáng. Giống như thiền sư Thích Nhất Hạnh, từng được báo Người Việt của đám Đỗ Ngọc Yến đánh bóng như là "Phật sống" tầm cỡ như Đức Đa Lai Đa Ma Tây Tạng, và được Ngọc Hân (lúc còn làm trưởng đài, nay nghỉ việc), đài SBS Úc Châu dành một bài đọc khá dài từ báo Người Việt, về một tác phẩm mang tên: "Đường Xưa Mây Trắng" được một tỷ phú Ấn Độ tâm đắc, động não, khởi trí, giác ngộ và có "DỰ ÁN" đóng thành phim ở Hồ Ly Vọng (Mỹ quốc), theo đó, tác giả thiền sư Thích Nhất Hạnh hổng thèm nhận thù lao "bạc triệu", coi tiền là "đồ bỏ" nhưng lại in 2 lần sách của Hoàng Hoa mà không cho tác giả biết. Việc thực hiện cuốn phim "Đường xưa mây trắng" được tác giả ra điều kiện là các diễn viên nào muốn đóng vai, chỉ cần qua Làng Mai học một khóa "Thiền Tiếp Hiện" là nhập vai thần kỳ, chỉ "giản đơn" thế thôi. Sau thời gian được đánh bóng, ồn ào, không biết cái vụ đóng phim đi tới đâu, nhưng thiền sư Nhất Hạnh được tiếng thơm với cái "hợp đồng kỳ lạ", vị "phật sống Làng Mai chất lượng" như thế ấy..

Tác giả Nguyễn Thanh Nga viết thêm về cái ngày ra mắt sách tại San Jose, Bắc California vào cuối tháng 9 năm 2001, ký giả Nguyễn Dương đã viết một bài tường thuật rất cảm động đăng trên tờ báo Dân Việt với tựa đề "đó không phải là buổi ra mắt sách mà trí tưởng tượng của tôi có thể nghĩ đến, mà là một buổi khóc thương cho quê hương, cho mình và cho đồng bào ruột thịt. ..". Tác giả còn hãnh diện được "lăng Xê" do Trung Tâm Thúy Nga, nơi từng bắn quả B 40 vào tập thể quân lực VNCH với cảnh "gióng chuông ru ngủ" của thiền sư Nhất Hạnh và Mc kiêm nhà văn Ngã Ba Ông Tạ: "cuộc chiến nầy là tiền kiếp"; tức là "chúng ta đang sống ở kiếp sau, thì nên quên kiếp trước để "hòa hợp hòa giải" với Cộng Sản ... Nguyễn Thanh Nga viết tiếp: "Tôi đã được mời lên trong chương trình Paris By Night 90 của Trung Tâm Thúy Nga trình diễn ở Long Beach, California, trong hai đêm 15 và 16 tháng 9 năm 2007, với đề tài Chân Dung Người Phụ Nữ Việt Nam. và cũng là một trong những phụ nữ Việt Nam được tuyên dương". Như vậy là tác giả tự đánh bóng mình sau khi được trung tâm Thúy Nga đưa lên tận mây xanh, đúng là "tự biên tự diễn", cũng là thứ "nữ anh hùng không người lái". Ngày nay sao lắm anh hùng, nhất là ở Việt Nam, anh hùng đầy đường, trên đồng ruộng và đương nhiên là bất cứ anh hùng chống Pháp, đánh Mỹ, dũng sĩ diệt chuột ... đều phải ngồi Ao Cá Bác Hồ đề góp công xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa "giàu đẹp, rừng vàng bạc biển".

Nội dung cuốn sách cũng như bản nhạc Trịnh Công Sơn "Mỗi ngày như mọi ngày" với nhiều chương như: Quê tôi ở vùng xôi đậu, Vào Đời, Đà Nẵng trong cơn hỗn loạn, Cuộc hành trình gian khổ, Bị bắt và bị thẩm vấn (hoạt động phục quốc), Trại tù Tiên Lãnh, Những ngày lưu vong trên chính quê hương mình, Chân Trời mới và phụ bản (tiểu sử tác giả và Bằng tưởng lệ). Như vậy, thì sách cũng không có gì gọi là:

"Rằng hay thì thật là hay.
Đọc qua mới biết sách nầy dỏm ghê"

Cuốn sách nầy không thể sánh với "thép đen" của Đặng Chí Bình, Tắm Máu Đen của Võ Đại Tôn, Ó Đen của Lý Tống, Tầng Địa Ngục của Đổ Văn Phúc, Đoạn Trường Bất khuất của Phạm Trần Anh ... hoặc nhiều tác giả khác viết về tù đày, di tản. Nhưng lại tái bản tới NĂM LẦN thật là "LỌA" nhỉ! Không biết tác giả có học qua lối nói láo của Việt Cộng qua các tài liệu xuất bản "in lần thứ ..." của nhà xuất bản Sự Thật về các quyển sách của đảng và có bị ảnh hưởng lối nói láo của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nay là Việt Tân?. Tuy nhiên "gần mực thì đen", được tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga "thành thật khai báo trong sách" là người từng có hoạt động kháng chiến trong Mặt Trận ngay tại Việt Nam, và có mối quan hệ hữu cơ với Mặt Trận khi ra hải ngoại, nên cũng lây luôn cái" ruyền thống nói láo" của Việt Tân .

Phần "Vào Đời" lúc mới 19 tuổi, không nói rõ là có đậu bằng "Tú tòi hưa" hay là "chứng chỉ học trình lớp đệ tứ" (ngay cả phần bổ túc sau nầy về sơ yếu lý lịch cũng không bổ túc thêm văn bằng) ... tác giả tả cảnh nghèo gia đình, bỏ học đi tìm việc làm. Nhờ bà mẹ là cán sự y tá, thường tới nhà chích thuốc chửa bịnh cho gia đình Đại Tá Nguyễn Bính Thuần, là Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Bình Định Phát Triển Quân Khu 1, nên nhờ đại tá kiếm việc làm. Rồi được đại tá giới thiệu, được nhận vào làm việc ở Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn Quân Khu 1. Nếu tác giả Nguyễn Thanh Nga ngừng tại đây thì hay biết mấy, hổng có ai "théc méc". Nhưng tác giả viết: "ngày 15 tháng 5 năm 1971, tôi đến Nha nầy trình diện. Tôi được dẫn vào gặp Đại Tá Hà Thúc Sanh ..." và phần cuối với VÀI HÀNG VỀ TÁC GIẢ, có viết: "vì lý lịch đáng tin cậy, tháng 9 năm 1971, tôi được Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn Quân Khu 1 cử làm đại diện Nha tại Văn Phòng Thường Trực Ủy Ban Phượng Hoàng Quân Khu 1 ....". Theo lời của tác giả, thì quả đây là "thiên tài" của phụ nữ nói riêng và đất nước nói riêng, chỉ mới nhận việc mà đã lên chức mau như "bong bóng gà thổi bằng ống đu đủ". Bình thường, khi vào làm công chức, nếu không tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, ở ngoại quốc, có bằng cấp cao .... các nhân viên có bằng trung học, kể cả tú tài cũng phải có ngạch trật và làm một thời gian mới "thăng tiến" nếu làm việc đàng hoàng và có khả năng. Nhất là trong ngàn tình báo, phản gián Phượng Hoàng, mà có một "đại diện cấp quân khu của Nha Đại Diện Bộ Phát Triển Nông Thôn" làm việc, mà nhân viên nầy lại mới vào chưa đầy 5 tháng, chưa quen việc văn phòng và non nót trong lãnh vực tình báo, thì làm sao đảm nhận công việc rất quan trọng, cần đòi hỏi chuyên môn, kinh nghiệm.

Do đó chỗ làm việc nầy đâu phải dễ dàng vào, nhưng Nguyễn Thanh Nga nhờ "lý lịch tốt" mà leo lên, tác giả có muốn "bôi nhọ chính quyền miền Nam à!". Việt Cộng có nguyên tắc thu nhận người và cả học đường, dựa theo "lý lịch", còn tài cán, khả năng là không thành vấn đề "Hồng hơn chuyên". Như vậy tác giả "Đóa hồng Gai" nầy cho là miền Nam cũng thu nhận người theo "lý lịch, quen biết" cũng như Việt Cộng, chớ không theo khả năng. Như vậy cơ quan Phát Triển Nông Thôn, Phượng Hoàng là coi như "đồ bỏ" nên mới thu nhận nhân viên cao cấp qua cách đó.

Nói về hoạt động "phục quốc", tác giả từng gặp linh mục Trần Ngọc Hiệu, thành hình tổ chức Phục Quốc vùng Hố Nai, tác giả viết ở trang 88: "Sau khi hỏi thăm, tôi mới biết địch đã có một kế hoạch rất tinh vi để thanh toán tổ chức Phục Quốc. Được tin linh mục Hiệu cho đi tuyển mộ người tham gia kháng chiến, địch cho một số cựu quân nhân VNCH xâm nhập vào để theo dõi và hình thành một tổ chức phục quốc giả tuyển mộ người cho Phục Quốc để lùa bắt những người tham gia kháng chiến vào rọ và xúc trọn".

Quân lực VNCH bị bức tử do người lãnh đạo Nguyễn Văn Thiệu phá nát quân đội trước khi ra đi an toàn qua các lịnh lạc bất nhất làm mất quân khu 1 và 2, đồng minh qua cái đảng Dân Chủ Mỹ chứa quá nhiều thành phần phản chiến, ỡm ờ, cấp tiến dỏm. Sau này 30 tháng 4 năm 1975, Việt Cộng trả thù hèn hạ, tập trung hàng trăm ngàn chiến sĩ bị tù đày. Tuy nhiên, trong nhiều tổ chức phục quốc, kháng chiến, giới quân nhân được coi là nồng cốt và họ bị bắt, hành hạ, giết hại khá nhiều. Nhưng tác giả "đóa hồng gai" lại chụp mũ "cựu quân nhân VNCH" phản bội, trở thành tay sai Việt Cộng, giả vờ tổ chức phục quốc kháng chiến để bắt những người tham gia. Như vậy, quân lực VNCH sau 1975 đã "trở thành cò mồi cho Việt Cộng" hay sao?.Thật là đau lòng cho những người từng sống chết cho quê hương, bị tù đày nghiệt ngã, nay còn bị chụp mũ làm tay sai cho Việt Cộng sau 1975. Đây là những điều mà Cộng Sản Việt Nam muốn bôi nhọ quân lực từng giáng lên đầu bọn giặc, tay sai ngoại bang Nga Tàu những đòn chí tử trên khắp chiến trường từ Quảng Trị đến mũi Cà Mau qua những chiến tích: Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ... từng làm bạt vía kinh hồn nhiều sư đoàn chánh qui Bắc Việt, những đơn vị du kích cấp huyện đến miền.

Sau 1975, đòn thù "tắm máu khô" qua hệ thống trại tù cải tạo đã giết chết hàng chục ngàn chiến sĩ. Việt Cộng thù dai, nên năm 1976, chúng vội xuất bản quyển "Bộ Mặt Thật Tướng Ngụy", rồi trung tâm Thúy Nga với B40 .... Tuy nhiên những hình ảnh hào hùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa sống mãi trong lòng mọi người "anh không chết đâu anh" khiến bọn Việt Cộng, tay sai, đón gió căm tức, tìm mọi cách bôi nhọ hình ảnh "trung thành với tổ quốc" thành "phản bội tổ quốc" mà cái tác phẩm "Đóa Hồng Gai" của tác gỉa Nguyễn Thanh Nga bằng cách bôi nhọ quân lực VNCH lần nữa, nhưng lại nhân danh là một "nữ cựu tù nhân chính trị" thì quả là điều không thể chấp nhận được.

Chương chót với "chân trời mới", trước khi được phỏng vấn, Nguyễn Thanh Nga có báo cho ông tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội của Mặt Trận, được khuyên ở lại Việt Nam với hứa hẹn cung cấp đầy đủ phương tiện sống, điều nầy tác giả muốn tuyên truyền là: Mặt Trận trước đây mạnh lắm, có thiệt, chứ hổng phải dỏm ... và ngày nay đảng Việt Tân đúng là tổ chức có tầm vóc lớn ở quốc nội. Tuy nhiên tác giả từ chối và muốn "QUI MÃ" để chữa bịnh và trước khi sắp qua Mỹ, được Mặt Trận đề nghị đến San Jose để được giúp đỡ, nhưng tác giả liên lạc với bạn bè ở Michigan, nên tháng 11 năm 1992 đi Mỹ trong danh sách H.O 10 và sau đó liên lạc, Mặt Trận, Liên Minh Việt Nam Tự do ... và hàng tháng được cấp một số tiền để tiêu dùng.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác có câu nói chí lý: "đọc sách biết được điều hay là tốt, nhưng biết được cái dở là tốt hơn". Đọc "Đóa Hồng Gai", mới nhìn cái tựa là biết ngay "dỏm", nhưng sách nầy trở thành cái "hay" cho những người "dỏm", khi họ dùng sách như một tài liệu về cuộc đời của một phụ nữ, là nhân viên "cao cấp" nhưng" thiếu hay không nói đến trình độ học vấn "như Việt Cộng chủ trương: "nhỏ không học lớn làm tổng bí". Đóa Hồng Gai nầy đâm vào quân lực VNCH bởi cái gai có thuốc độc của kẻ thù vẫn luôn nhắm vào một lực lượng dù tan hàng trên hình thức nhưng "nghĩa vụ đấu tranh, diệt Cộng cứu nước vẫn tồn tại mãi mãi trong lòng mỗi quân nhân, qua ba đề cương: tổ quốc-danh dự-trách nhiệm".

Nếu trong tương lai, những người có bằng cấp cao thuộc thành phần "khoa bảng" trong Hội Chả Giò Việt Nam dịch "đóa Hồng gai" bằng Anh, Pháp ngữ (họ có khả năng làm được) thì đây là đại họa cho dân tộc, khi người ngoại quốc đọc sách, họ không hiểu gì nhiều về cuộc chiến, nên tin tác giả là "người thật, việc thật" hiện đang sống tại Mỹ và nếu sách phổ biến, trở thành tài liệu cho nhiều thế hệ, thì quả là nguy hiểm vô cùng. Đọc sách, biết ngay tác giả là người có nhiều tham vọng, muốn nổi tiếng như cồn, và có thể trở thành một bình phong cho những tổ chức tay sai Việt Cộng khai thác, đầu độc tiếp; biết đâu sau nầy nhờ Hội Chả Giò Việt Nam trong đảng Vịt Tìm, sách được dịch ra ngoại ngữ, là điều đáng cảnh báo.

Trương Minh Hòa


Khi niềm tin chưa chết


Lê Hùng Bruxelles

Hai chữ « niềm tin » có ý nghĩa rất mơ hồ trong hai con người có tâm lý khác nhau. Người nhút nhát thiếu đức tính kiên cường thì thụ động, co cụm, và tiêu cực. Tâm lý nầy đẻ ra số người « ăn đi trước, lội nước đi sau », chỉ muốn kẻ khác đổ mồ hôi cho mình thụ hưởng. Người gan dạ có tính dũng cảm thì sẵn sàng xã thân tranh đấu cho mục đích quần chúng mong muốn. (Trong xã hội Việt nam, nhất là lớp mang danh trí thức và bọn chóp bu Việt Cộng, hiện tại nổi bật hai lớp người mang tâm lý đó). Tôi nghĩ rằng trong hàng chức sắc cao cấp Thiên Chúa Giáo, các Hồng y, các Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh Mục không có thái độ nhút nhát, khiếp sợ vì các Ngài đã có « niềm tin ».

Thử nhìn lại trước thời năm 1975, Việt cộng đã đánh chiếm miền Nam, ngoài việc nhờ khối cộng sản quốc tế yểm trợ súng đạn, chúng ta phải nhận rằng Việt Cộng đã tạo được « niềm tin » trong khối các đảng viên và đồng bào miền Nam thiếu đức tính kiên cường. Đồng bào miền Bắc, ai lại không tin Việt Cộng nói rằng bà con miền Nam Saigon đang đói khát, thiếu ăn, thiếu uống, vì bị Mỹ Ngụy cưóp bóc, nên đã vội vàng theo quân chiếm đóng vào Nam để tiếp tế từng long gạo gói trà. Sự thật ê chề lối tuyên truyền Việt Cộng thế nào, hẳn đồng bào miền Bắc đã nhận thức rõ và người viết chẳng cần bàn thêm.

Trước đây thế giới đã nhầm lẫn tin vào những điều mà bọn phãn chiến được Việt Cộng mua chuộc, quy tội các chính quyền miền Nam Saigon đã đem « voi Mỹ về hiếp chế dân lành ». Nhưng qua hơn 30 năm cai trị, thế giới đã bừng tỉnh và dân cả nước đã sáng mắt thấy Việt Cộng là một tập đơàn « ma nớp », lừa phĩnh và cướp bóc của cải nhân dân !.

Hôm nay các nước tự do ngày càng nhận rõ mọi sự chống đở của Việt cộng trước dư luận trong và ngoài nước, chỉ là những lời phản biện vu vơ, không trả lời được những bằng cớ buộc tội. Cứ lấy vụ toà án bịt miệng cha Nguyễn Văn Lý, vụ công an khủng bố đánh đập giáo dân Thái Hà, xịt thuốc cay vào mặt đàn bà trẻ con và nhứt là tuần qua vụ việc công an đánh ký giả ngoại quốc AP bể đầu chảy máu. Để trả lời cho vụ nầy, phát ngôn viên chính quyền Việt Cộng, Lê Dũng, lên tiếng phản biện cho rằng « không có chuyện đánh ký giả Ben Stocking »! Ăn nói kiểu hồ đồ trước hình ảnh như vậy, chỉ có thú vật không óc mới tin được !

Hơn 30 năm cai trị đất nước, Việt Cộng đã làm thui chột « niềm tin » mọi mặt của nhiều thành phần quần chúng, kể cả công chức, bộ đội, công nhân, và những người từng là đảng viên quan trọng của đảng. Nhìn chung, mọi người thấy rất rõ sự đoàn kết giữa đảng viên với nhau đã nứt mẻ, giữa nhân dân với nhau đã nhiều đố kỵ trầm trọng. Những cuộc múa may hôm nay tại khu đất Thái Hà của công an và côn đồ do Việt Cộng dàn dựng chỉ là sự hù dọa chống chế để chờ thời gian chính quyền và đảng tìm cho ra một lối thoát. Đây chỉ là sự ngăm nghe miễn cưởng, kiểu dọa con nít, chứ không phải là một chiến thuật vĩnh viễn trong một chế độ pháp trị. Mỗi khi đuối lý, Việt Cộng chỉ áp dụng chiến thuật « kêu qua mời lại » các giám mục, tu sĩ và giáo dân « lên quận làm việc » để dằn mặt nhân dân. Chuyện ông phó thủ tướng Trương Vĩng Trọng đến « tham quan » chiến trường Thái Hà đủ nói lên chuyện « cù cưa » mà Việt Cộng đang câu giờ để nói chuyện với Giáo Hội và Giáo dân. Thâm ý của Việt Cộng hiện thời là đợi đến trung tuần tháng 11/2008, sau cuộc bầu cử Tổng Thống tại Mỹ hầu có phản ứng thuận tiện hơn.Vì vậy hôm nay Việt Cộng chỉ tăng cường lớp thanh niên Hồ Chí Minh trong sắc phục mầu xanh đến gây rối loạn các buổi cầu nguyện của Giáo dân, chứ không dám ra tay làm mạnh như thuở nào. Nhưng đó cũng là một sự tính toán sai lầm của Việt Cộng. Tình trạng Thái Hà giữa chính quyền và Giáo Hội ngày càng không tìm ra lối thoát và hiển nhiên sự kiện nầy không thể kéo dài mãi mà phải có thời gian dứt điểm và kết cục, nghĩa là cuộc cách mạng xã hội Việt Nam ắt phải xẩy ra.

Đức Giáo Hoàng Jean Paul ll đã nói câu bất hủ: « Nếu cần, tôi sẵn sàng cởi áo Giáo Hoàng để về Balan chiến đấu với cộng sản ». Có gì trong câu nói đó nếu không phải là niềm tin mãnh liệt sự tất thắng Thiên Chuá của nhà lãnh đạo Giáo Hội hoàn cầu? Trong lời nói nầy, đức Giáo Hoàng không dùng hai chử « cầu nguyện » để khuyên nhủ con cái Chuá, mà Ngài lại dùng hai chữ « chiến đấu » đủ nói lên ẫn ý của Ngài trong cuộc khôi phục Công lý và Tự do cho nhân loại. Dụng ý hai chữ « chiến đấu » đã làm cho thế giới thiết kế một xã hội mới, cho người Thiên chúa giáo biết quây quần bắt tay nhau kiên trì và cầu nguyện liên lĩ. Qua lời nói của Ngài, cả thế giới yêu chuộng công lý và tự do đã làm cho khối cộng sản toàn cầu sụp đổ.

« Chiến đấu » là cách mạng, là có thể gây ra máu chảy thành sông và người chết chất thành núi. Nhưng cuộc « chiến đấu » của đức Giáo Hoàng Jean Paul ll, ngay trên đất quê hương của Ngài trong lúc đang nằm dưới bàn tay của ông Chủ Tịch thoát thân từ Quân đội, tướng Jaruzelski, tương đối đã không xẩy ra nhiều thảm khốc nhân dân. (Xin nhắc lại từ năm 1981 khi ông Walesa cầm đầu nghiệp đoàn công nhân Solidarité nổi dậy đòi quyền mức sống tối thiểu. Liên Sô Viết đã hăm dọa cho quân đội đến đàn áp, và tướng Jaruzelski chủ tịch đảng đã ra lệnh thiết quân luật toàn quốc. Tuy nhiên, các cuộc đình công trong ôn hoà vẫn tiếp diễn cho đến 1989, buộc tướng Jaruzelski phải mời người trong nghiệp đoàn, ông Tadeusz Mazowiecki, làm thủ tướng liên hiệp. Tình hình Balan biến chuyễn mau lẹ và đến năm 1990, tháng 12, nhân dân đã bầu anh thợ máy truyền tin Waleça, -chiếc bóng của Giáo Hoàng Jean Paul ll-, làm tổng thống đầu tiên của Cộng hoà Balan). Vì sao ? Việc nầy chỉ có thể giải thích là trong nước Ba Lan các vị Tổng Giám Mục, Giám Mục và Giáo Dân đã được ánh sáng Chúa soi sáng, cùng nhau tề tựu sau lưng ông Thợ Máy Waleça để sẳn sàng « chiến đấu » cho Tự Do và Công Lý, niềm tin mãnh liệt của Giáo Hội Công Giáo.

Nay nhìn lại quê hương chúng ta về các cuộc cầu nguyện tại Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, như tôi đã trình bày trong các bài viết trước, cũng là cuộc tranh thủ cho Tự Do và Công Lý thuộc về Luân Lý. Cuộc tranh đấu nầy đã mớm đầu một cuộc cách mạng xã hội, nó có thể trở thành những cuộc bạo động tương tự cuộc cách mạng Pháp 1789. Xưa kia, trong các nước Âu Châu, chỉ có nhân dân Pháp nổi dậy lật đổ được chế độ hà khắc quân chủ, nhưng nay DCCT, ngoài sự ủng hộ của nhân dân trong nưóc, còn có sự hổ trợ tích cực của tất cả các nhà dòng trong hệ thống DCCT trên toàn thế giới. Nhà dòng Chúa Cứu Thế không muốn dẫm chân lên hàng Giáo phẩm Việt Nam đang cầu nguyện cho Tự Do Tôn Giáo và để nhà cầm quyền Việt Cộng thức tỉnh trả lại những lạm dụng bất công, những đất đai cơ sở cho Giáo Hội. Khi Nghiệp đoàn Solidarité của Balan tranh đấu cho quyền sống dưới một chính quyền cộng sản thuộc khối Liên Sô Viết, thì DCCT đã tranh đấu cho Công Lý và Tự Do dưới quyền của bàn tay Việt Cộng. Balan đã thắng cuộc, thì không thể nào Việt Nam thua cuộc. Đó là viễn kiếng mà DCCT đã thấy trong cuộc « tranh đấu » hôm nay.

Qua tin tức báo chí và diễn đàn, thì tối ngày 21/09/2008,Việt Cộng lại sai Công An vào Tu Viện DCCT Thái Hà để kiểm soát số nhân khẩu. Thật là chuyện buồn cười, vì khi giao dân từ khắp nới đã đổ về Hà Nội ngày càng đông đảo, thì chuyện kiểm soát hộ khẩu tại DCCT cũng bằng thừa. Nếu Việt Cộng muốn biết thì tất cả những người dân đang hiện diện trong giáo khu Thái Hà đều không có trong sổ nhân khẩu DCCT, đâu cần phải khám xét mất thì giờ và tốn tiền công quỷ ! Nhưng đây cũng là một chuyện « khủng bố tầm thường » đối với kẻ có tâm lý nhút nhát, co cụm. Chuyện thật là cuộc cầu nguyện tại Thái Hà hôm nay đã đi ra ngoài sự sợ hãi của người Công Giáo mà Việt Cộng đã đề xướng. Giáo sĩ và giáo dân đã có niềm tin vào sự tất thắng của cuộc cách mạng tìm Công Lý và Tự do hướng dẫn bới lớp « linh mục trung lưu » toàn Giáo phận Hà Nội. Hẳn các tu sĩ là những người đã có « niềm tin trong Chúa » nay lại được sự hổ trợ của nhân dân và thế giới, thì « niềm tin » đó lại càng mạnh hơn đủ sức tạo ra các tia sáng chọc thủng tất cả mọi bức tường ngăn cản của thế gian.

Nay Giáo Phận Hà Nội, từ đức TGM Ngô Quang Kiệt đến các Giám Mục Địa Phận miền Bắc đã biết rõ mục đích cuộc nổi dậy do DCCT hướng dẫn và hàng trăm « linh mục trung lưu » tham gia nên đã đồng lòng cùng đứng trong luồng gió cách mạng. Bằng chứng là TGM Ngô Quang Kiệt đã công khai tuyên bố: « Tự do tôn giáo là QUYỀN chứ không phải là cái ân huệ XIN CHO » như chính quyền rêu rao. TGM Hà Nội đã gián tiếp nói rằng « chính quyền Hà Nội không bao giờ cai trị theo « luật pháp », đã dối gạt dư luận về phần đất 42 khu phố Nhà Chung. TGM Ngô Quang Kiệt đã dám lên tiếng chê trách ông chủ tịch Đống Đa « nói ra ngoài vấn đề pháp lý » không cư xử nguyện vọng của ít nhất « 15 lá đơn của Toà Tổng Giám Mục Hà Nội và Hội đồng Giám Mục ». Nói khác, toàn thể các chức sắc và giáo dân miền Bắc cầu nguyện cho Tôn Giáo nay đã « sát nhập » với cuộc cách mạng vì Công Lý và Tự Do hướng dẫn bởi nhà DCCT. Cuộc cách mạng sẽ như vũ bão khi các cuộc cầu nguyện của Giáo Dân tại hai Tổng Giáo Phận Huế và Saigon chuyễn về. Vì vậy chúng ta cần biết trước và thận trọng suy xét những lời vu khống và tai hoạ của Việt Cộng sẽ gieo lên đầu các vị Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, Linh mục và giáo dân khác.

Có gì đơn sơ và tình nghĩa thiết tha cho bằng khi TGM Ngô Quang Kiệt đã thú nhận rằng không bao giờ Ngài mong muốn « tranh chấp với nhà nước. Bằng chứng đó là, như ông chủ tịch có nói đó, trong tờ kê khai của linh mục Nguyên Tùng Cương, lúc đó là quản lý tòa Tổng Giám Mục, có 95 cơ sở. Chúng tôi có đòi cơ sở nào đâu, vì những cơ sở đó thực sự dùng vào những lợi ích chung. Chẳng hạn như cái trường Hoàn Kiếm, chúng tôi không bao giờ nói tới. Bệnh viện Xanh Pôn chúng tôi không bao giờ giám nói tới. Bệnh viện Bài Lao không bao giờ chúng tôi giám nói tới, vì sử dụng vào lợi ích chung. Nhưng khách san Láng Hạ chúng tôi sẽ nói tới, bởi vì sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và cái Tòa Khâm Sứ đã thành cái nơi sàn nhảy, đã thành cái nơi kinh doanh buôn bán, đã có cái dấu hiệu buôn bán chia chác để làm cái trung tâm thương mại. Chúng tôi nói tới bởi vì nó rơi vào tay tư nhân thế nên chúng tôi nói, thế nên chúng tôi không tranh chấp với nhà nước. Nhưng chúng tôi nói lên cái tiếng nói của công lý. Bằng chứng cái trường Hoàn Kiếm bên cạnh, chúng tôi có bao giờ dám đòi đâu. Bởi vì nó phục vụ lợi ích chung, các bệnh viện nó phục vụ lợi ích chung. Do đó, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc ».

Ngọn gió « tranh đấu » càng thổi về Thái hà trong ngày 21/09/2008, qua bức thư « Phát động của Cha Giám Tỉnh DCCT Saigon ». Một phát lệnh « Tiến chứ không Lùi » như sau:

Kính thưa Anh Em

Với tất cả những gì đang diễn ra tại Hà Nội, ở cả hai nơi Toà Khâm Sứ và Thái Hà, nguy cơ đổ vỡ rất có thể xảy ra và hậu quả không thể lường được. Vì thế, tôi xin anh em, bằng mọi cách chúng ta gia tăng lời cầu nguyện, sao cho nền công lý và hoà bình được sáng tỏ.
Vậy tôi xin:

- Mỗi cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế hãy làm tuần Cửu nhật kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, gia tăng lần chuỗi Mân Côi.

- Mỗi nhà thờ do anh em Dòng Chúa Cứu Thế coi sóc, hãy tổ chức tuần Cửu nhật kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và lần chuỗi Mân Côi.

- Anh em hãy tìm cách liên lạc với gia đình mình, xin gia đình làm tuần Cửu nhật kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và lần chuỗi Mân Côi.

- Anh em xin các nhóm, các cộng đoàn, các cá nhân những ai có liên hệ thiêng liêng với anh em, làm tuần Cửu nhật kính Đức Mẹ và lần chuỗi Mân Côi.

Chúng ta tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta tin tưởng rằng Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp sẽ cứu giúp chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội Công giáo Việt Nam, cho Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, cho Giáo phận Hà Nội, cho Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, cho cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà - Hà Nội và cho dân Chúa Thái Hà.

Xin anh em thu xếp với thời gian nhanh nhất để thực hiện lời yêu cầu này.

Nguyện xin Chúa Kitô Cứu Thế, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Cha Thánh Anphong, các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam ban nhiều ơn lành cho anh em.

Lm. Vinhsơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R
Giám Tỉnh

Chính trị có khi cần phải uyễn chuyễn, người lãnh đạo phải xem xét lại hành động thuộc cấp hay cần dập tắt ngay những chủ trương bất lợi. Chuyện gì đang xẩy ra cho Thái Hà và Giáo Dân nếu cứ tiếp tục, Việt Cộng tự đào hầm để chôn chế độ cộng sản, nếu chính quyền trung ương và bộ chính trị không tìm nhanh một biện pháp khác hơn là biện pháp khủng bố của Công An hiện nay. Việt cộng sẽ không thắng nổi cuộc tranh đấu vì Công Lý và Tự Do nầy, bởi lẽ, sức mạnh súng đạn không bao giờ diệt nổi sức mạnh « Niềm Tin », nhất là niềm tin chưa chết nơi người công giáo.

Lê Hùng Bruxelles



Ngày tàn của chế độ cộng sản


Trần Thanh
Giới thiệu tóm tắt nhân vật:
- Ông Khải: Cựu đại tá việt cộng đã về hưu trên 20 năm, đảng viên cộng sản nhưng đã xin ra khỏi đảng từ khi về hưu. Ông đang là ủng hộ viên cho các phong trào đấu tranh dân chủ.

- Anh Tý cu li: Cháu đích tôn của ông Khải, công nhân hãng sản xuất xe gắn máy của Trung Quốc. Anh là thành viên của phong trào đấu tranh dân chủ tại Hà Nội.

Sáng nay chủ nhật, ngày 21 tháng 9 năm 2008, lúc 9 giờ sáng, ông Khải nhờ anh Tý đèo (chở) ông đi xem tình hình đấu tranh của giáo dân giáo xứ Thái Hà và tòa Khâm Sứ đang bị bọn chó săn công an việt cộng bao vây và đập phá. Tất cả các ngã đường dẫn đến hai khu vực nói trên đều bị ngăn chận. Bọn chó săn hai chân lẫn bốn chân dày đặc. Dân chúng từ khắp mọi miền đất nước cũng đang đổ đến để ủng hộ cuộc đấu tranh tại giáo xứ Thái Hà. Số lượng người có thể lên đến hàng trăm ngàn. Hai ông cháu không thể nào đi xe vào khu vực cấm nên đành phải gởi xe từ xa và đi bộ len lỏi vào. Mặc dù trời mưa tầm tã nhưng các giáo dân vẫn đổ về tòa Khâm Sứ để đọc kinh mỗi lúc mỗi đông. Đến 12 giờ trưa thì số người đã lên đến khoảng 10 ngàn người!Sau khi bỏ ra chừng ba tiếng đồng hồ để tham quan và lén chụp một số hình ảnh, ông Khải cùng với đứa cháu ra về. Tuy đã tám mươi tuổi nhưng ông vẫn còn rất cứng cáp, khỏe mạnh, đi đứng nhanh nhẹn, không cần phải chống gậy. Trên đường lái xe về nhà, anh Tý không quên ghé vào tiệm bán bia, mua một két bia lon để đến chiều hai ông cháu lai rai nhậu, bàn chuyện quốc sự. Khi vừa về đến nhà, chuông điện thoại nhà reo liên tục. Ông Khải vừa trả lời điện thoại vừa xem và trả lời e-mail trên máy vi tính. Bạn bè từ khắp nơi trong cũng như ngoài nước tới tấp liên lạc với ông để trao đổi tình hình chính trị và vấn kế. Anh Tý cũng vội phóng xe đi đến các "cơ sở cách mạng" đang hoạt động bí mật để cùng với các bạn hữu tiếp tục công cuộc đấu tranh xóa bỏ bạo quyền cộng sản.

Đến chiều tối thì anh Tý lại trở về nhà ông nội. Hai ông cháu vừa lai rai nhậu bia với .... thịt chó vừa bàn chuyện quốc sự. Ông Khải chỉ vào dĩa thịt chó nướng:

- Đây là thịt con chó cái màu vàng. Nhất mực nhì vàng, tam khoang tứ đốm. Tiếng Ăng Lê người ta gọi là "gold dog", quý lắm. Có tay bộ đội phục viên, trước đây là đặc công ở cùng trung đoàn với ông, hắn quý ông lắm. Thường cứ đến cuối tuần là hắn thể nào cũng có một món nhậu gì đó biếu ông. Tuần này hắn biếu ông món chó nướng và tiết canh chó.

Anh Tý vui ra phết. Đến nhà ông nội chơi bao giờ anh cũng được ăn những món ăn ngon và được ông truyền thụ lại cho những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong lãnh vực hoạt động cách mạng. Anh sốt sắng:

- Vâng, xin cảm ơn ông. Để cháu rắc thêm một ít lạc rang (đậu phộng) cho nó bùi. Kỳ này cháu mua loại bia lon của Hàn quốc (Nam Hàn), tuy hơi đắt nhưng uống nó bốc mà không sợ bị tiêu chảy như uống bia do việt gian cộng sản chế tạo!

Thế là hai ông cháu vui vẻ nhậu với nhau. Hạnh phúc thật là đơn sơ, thắm tình ông cháu và tình .... đồng chí! Ông Khải làm một ngụm bia rồi hỏi:

- Cháu có thắc mắc gì không?

Anh Tý:

- Cháu thấy tình hình có vẻ căng thẳng. Như vậy là bọn chúng nhất quyết biến khu đất tòa Khâm Sứ để làm công viên? Bọn công an đông quá, cháu ước tính khoảng hai ngàn thằng, đó là chưa kể những thằng công an chìm. Không biết liệu rồi "phe mình" có chịu nổi không? Ý kiến ông ra sao?

Ông Khải khề khà một cách thoải mái:

- Bọn chúng nó sắp chết đến nơi rồi. Chúng nó đập bỏ cái tòa Khâm Sứ thì cũng không khác gì bọn chúng đập bỏ cái lăng của thằng Hồ! ĐM ... Mả tổ của bọn chúng mà bị đập thì làm sao cái chế độ của bọn chúng có thể còn tồn tại? Đó chính là cái điềm gở mà những thằng chó trong bộ chính trị lúc bị lâm vào thế trận triệt buộc, đầu óc u tối, đã tự lấy dao cắt cổ mình! Đụng đến tôn giáo là đụng đến toàn dân. Người dân sẽ không để cho bọn chúng yên đâu! Con giun bị xéo lắm cũng phải quằn. Người dân đã nhẫn nhục chịu đựng hơn 60 năm nay rồi. Hơn 60 năm chịu khổ nhục như Chúa bị thọ nạn mới có một Thái Hà như ngày hôm nay. Thời đại ngày hôm nay đã khác xa rất nhiều so với thời của tên bạo chúa Lê Duẩn, không phải bọn chúng muốn làm gì thì làm!

Anh Tý vẫn còn nghi ngại:

- Nhưng liệu rồi vụ đấu tranh Thái Hà có bị chìm xuồng như vụ tòa Khâm Sứ hồi tháng mười hai năm ngoái hay không? Hồi năm ngoái chính bản thân cháu cũng tham gia những buổi cầu nguyện rất nhiều lần, mặc dù cháu là người ngoại đạo! Lúc ấy cháu tràn trề hy vọng, tham gia cầu nguyện đến bị cảm lạnh mấy lần. Thật là đáng tiếc, khí thế đang lên rất cao rồi bị bỏ dở nửa chừng!

Ông Khải:

- Giả sử như vụ Thái Hà có bị "thua" đi chăng nữa nhưng đó chẳng qua chỉ là lớp sóng đi trước tạm lắng để chuẩn bị cho lớp sóng kế tiếp tràn lên mạnh mẽ hơn. Khi giặc Pháp vào xâm chiếm đất nước ta rồi đô hộ trong suốt 100 năm thì trên toàn quốc đã nổ ra hàng trăm cuộc kháng chiến chống Pháp. Thất bại là mẹ của thành công. Qua nhiều lần rút kinh nghiệm đấu tranh, toàn dân ta cuối cùng đã đánh đuổi được giặc Pháp. Ông hoàn toàn tin tưởng những giáo dân tranh đấu sẽ có đủ sáng suốt và sự can đảm để chiến thắng. Những kẻ ác nhất định sẽ bị trừng phạt!

Anh Tý gắp một miếng dồi chó nướng chấm vào bát nước mắm. Men bia như chất xúc tác làm cho những thắc mắc về chính trị tiếp tục tuôn ra:

- Thưa ông, cháu thấy có một điều lạ như thế này: ở hải ngoại, hầu như các tổ chức đấu tranh đều kiêng kỵ mấy chữ "lật đổ chính quyền". Họ chỉ dám nói là "thay đổi chính quyền" hoặc "canh tân chính quyền" mà thôi. Một số người còn giải thích rằng "lật đổ chính quyền" là tội hình sự, sẽ bị cảnh sát Mỹ FBI bắt nhốt. Có người còn nói rằng "lật đổ chính quyền" tức là "khủng bố", cũng sẽ bị cảnh sát FBI bắt nhốt! Vậy theo ý ông quan niệm như vậy có đúng hay không?

Ông Khải:

- Trước hết ta phải xác minh một điều là "lật đổ chính quyền" nào mới được chứ? Ví dụ một nước bên Phi Châu có một chính quyền rất tồi tệ, rồi người dân nổi dậy lật đổ chính quyền đó thì mắc mớ gì đến chính quyền Mỹ mà đi bắt nhốt những người dân của nước đó? Cảnh sát liên bang FBI chỉ hoạt động trong phạm vi nước Mỹ. Họ không có quyền gì thò bàn tay ra nước ngoài để bắt nhốt những kiều dân của các nước khác.

Người dân Mỹ có quyền lật đổ chính quyền bằng lá phiếu. Họ không cần dùng bạo lực vì luật pháp đã cho họ một khí giới rất hữu hiệu, đó là lá phiếu, dùng để trừng phạt những vị dân cử hoặc chính quyền vô trách nhiệm. Đó là sân chơi có luật chơi phân minh, rõ ràng. Còn như ở Việt Nam hiện nay thì chỉ có luật rừng của kẻ cướp. Như vậy thì người dân phải dùng đến các biện pháp khác để tống cổ bọn cướp ra khỏi hệ thống quyền lực. Không thể đem trường hợp của nước Mỹ (lá phiếu) để áp dụng cho Việt Nam.

Một trường hợp khá cụ thể, ông có thể nêu cho cháu thấy rõ: - trường hợp bà nghị viên Madison Nguyễn ở San Jose nước Mỹ. Hiện nay các cử tri người Việt đang làm thủ tục để truất phế bà Madison vì bà này là người không xứng đáng, lừa dối và phản bội cử tri, đi ngược lại nguyện vọng của người dân. Đây cũng là một hình thức "lật đổ". Như vậy thì "lật đổ chính quyền" có gì là xấu? Nó là khủng bố ở chỗ nào? Nếu một chính quyền thực sự là tốt, do dân và vì dân, người dân hài lòng thì mắc mớ gì họ phải nhọc công để lật đổ cái chính quyền đó? Ai rỗi hơi đâu để đi làm những chuyện rất phức tạp và mất thì giờ như vậy?

Còn nếu có một chính quyền nào mà bị người dân than phiền quá nhiều và họ đòi lật đổ chính quyền đó thì chắc chắn là cái chính quyền đó phải là chính quyền ăn cướp, thổ phỉ! Nói trắng ra là cái chính quyền của bọn việt gian cộng sản hiện nay.

Hoặc như cái chính quyền của thằng Sadam Hussein của nước Iraq. Người Mỹ đã đem quân vào để lật đổ cái chính quyền đó. Như vậy việc làm này của người Mỹ cũng là "khủng bố" và là "tội hình sự" hay sao? Tại sao cảnh sát FBI không tới bắt ông tổng thống Mỹ vì "tội" lật đổ chính quyền nước Iraq?

Nói tóm lại, những lập luận mà cháu nghe nêu trên chỉ là những liều thuốc độc do bọn việt gian cộng sản chế tạo ra, rồi nhờ bọn tay sai Việt Tân đem tiêm vào đầu óc của những người quốc gia chống cộng tại hải ngoại. Nhiều người đã bị nhiễm độc nặng, đầu óc lú lẫn, trở nên hèn nhát và ngu xuẩn, chống cộng mà không dám chủ trương tiêu diệt bọn chúng, lại bưng bọn chúng để lên bàn thờ để thờ!

Một số những tên chó săn tại hải ngoại do lười biếng và dốt nát, không dám đi làm nghề rửa chén trong tiệm phở hoặc đi chùi cầu tiêu trong các khách sạn vì đã quen thói ăn bám nên đành phải chọn "nghề" làm việc từ thiện, đi quyên tiền đem về Việt Nam để nuôi .... việt cộng! Một số tên khác thì chọn cho mình làm "nghề" .... việt gian, đi bưng bô cho việt cộng sống qua ngày! Những thành phần này không bao giờ muốn cho chế độ cộng sản bị sụp đổ, cho nên bọn chúng luôn luôn đem "luật pháp" của nước Mỹ ra để hù dọa những người chống cộng! Chẳng hạn như bọn chúng thường rêu rao: - đấy, coi gương ông tướng Vàng Pao của Lào, muốn lật đổ chính quyền cộng sản Lào bằng bạo lực, đã bị cảnh sát FBI bắt nhốt và đưa ra tòa!

Anh Tý gật đầu tỏ vẻ tâm đắc với sự giải thích của ông nội. Anh đưa ra câu hỏi tiếp theo:

- Cháu thấy một số người khác chủ trương rằng: - không nên lật đổ chế độ cộng sản mà chỉ nên đòi họ cải tổ và canh tân chế độ dần dần từng bước. Nếu mình đòi "lật đổ" thì sẽ làm cho chính quyền Mỹ ghét mình, COI MÌNH NHƯ KHỦNG BỐ, cũng như làm cho thế giới họ ghét mình! Ông nghĩ sao?

Ông Khải:

- Đây là một liều thuốc độc của bọn việt gian cộng sản, thông qua băng đảng Việt Tân, tiêm vào đầu những người đấu tranh chống cộng tại hải ngoại. Chúng ta đã bị việt cộng cướp mất đất nước đã hơn 60 năm rồi, chớ không phải là chuyện mới xảy ra vài ba năm nay. Cả thế giới họ thừa biết. Cháu thấy các tổ chức tranh đấu của người Palestine họ công khai nói thẳng ra là họ phải đòi lại cả vùng đất mà người Do Thái đang chiếm đóng, chớ họ không có XIN-CHO hay đòi chổi cùn và rế rách! Còn nếu như chuyện "lật đổ" là "khủng bố" thì chính ông tổng thống Bush là "khủng bố" vì ông ta đã lật đổ tên độc tài Sadam Hussein!

Đấu tranh chính trị là phải tách bạch, rõ ràng. Mục tiêu đấu tranh của mình là đòi lại toàn thể căn nhà thì mình phải nói rõ cho cả thế giới biết chớ tại sao lại chỉ hạn chế trong việc đấu tranh để đòi chổi cùn, rế rách, cối đá, nồi niêu, xoong chảo? Con có khóc thì mẹ mới cho bú. Phải có can đảm để nói lên rằng toàn thể người dân Việt trong cũng như ngoài nước không chấp nhận cái chế độ cộng sản và họ muốn xóa bỏ để làm lại từ đầu. Nước nào trên thế giới đồng ý ủng hộ thì chúng ta cám ơn, còn không ủng hộ thì cũng được, không sao hết! Chính quyền Mỹ nếu không ủng hộ thì chúng ta kiên nhẫn tiếp tục vận động hoặc chờ đến nhiệm kỳ của vị tổng thống kế tiếp. Hơn nữa, chính sách của họ có tính cách linh hoạt. Có thể năm nay họ không ủng hộ nhưng nhờ tích cực vận động, sang năm họ lại thay đổi lập trường!

Rất nhiều người do bị việt gian cộng sản đầu độc cho nên họ đã biến thành những con thú hết sức ngu xuẩn và hèn nhát, cứ thấy bóng việt cộng là sợ co rúm người lại, trốn sâu trong hang Bắc Pó, không dám thò mặt ra ngoài để được thấy ánh sáng mặt trời. Đấu tranh mà XIN-CHO thì đấu tranh để làm gì? Cái trò hề Tiểu Diên Hồng là một sự nhạo báng của bọn việt gian cộng sản đối với cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Bọn chúng bày ra cái trò đó là để diễu cợt chúng ta mà nhiều kẻ ngu đần ở hải ngoại không hiểu, cứ tưởng bở, lao đầu vào để làm trò cười cho bọn chúng!

Anh Tý:

- Thưa ông, có người cho rằng nếu chúng ta muốn lật đổ bọn cộng sản thì phải giữ bí mật, không lộ âm mưu của mình ra ngoài. Bề ngoài thì mình giả vờ XIN-CHO nhưng thật sự là mình đang tìm cách lật đổ bọn chúng! Đó mới là đấu tranh khôn ngoan! Còn nếu như nói thẳng ý định "lật đổ" cho việt cộng biết thì chúng nó sẽ đề phòng, mình sẽ bị thất bại! Xin ông cho biết ý kiến?

Ông Khải:

- Cái kiểu lập luận .... ngu và lưu manh điếm đàng này xuất phát từ đám tay sai của thằng việt gian Phạm Minh Mẫn, "hồng y" của cái tổ chức tôn giáo quốc doanh của việt cộng! Thằng Mẫn đã phỉ báng cờ vàng, kêu gọi giáo dân hải ngoại loại bỏ cờ vàng. Nếu người ta nghe theo lời nó thì sau đó nó sẽ kể công với bộ chính trị của việt cộng. Còn nếu không có ai nghe theo thì nó cho cái đám tay sai của nó "chữa cháy" bằng cách giải thích: đó là "khổ nhục kế" của "đức" hồng y! Việc này làm cho chúng ta nhớ đến truyện Tam Quốc Chí: - khi Tào Tháo đến bên giường của Đổng Trác định giết Đổng Trác nhưng chẳng may lúc đó Đổng Trác chưa ngủ. Hắn nhìn vào tấm "gương" bằng đồng treo trên tường, thấy Tào Tháo đang cầm cây đao tuốt trần. Đổng Trác vội quay lại hỏi:

- Nhà ngươi làm gì đó?
Tào Tháo lanh trí, vội tâu:
- Bẩm tướng quân, Tháo có thanh đao rất quý xin dâng biếu tướng quân!

Sau đó, Tào Tháo vội lui ra và nhảy phóc lên ngựa, bỏ chạy trối chết! Mãi một hồi sau, Đổng Trác mới nghĩ ra vấn đề: Tào Tháo dâng đao mà đó lại là thanh đao .... tuốt trần, không bỏ trong vỏ, nghĩa là nó muốn giết mình! Lập tức, Đổng Trác cho người truy nã Tào Tháo nhưng lúc ấy Tháo đã cao bay xa chạy rồi!

Đám tay sai của tên Mẫn đã giải thích rằng sở dĩ "hồng y" Mẫn cố ý phỉ báng cờ vàng là để thực hiện "khổ nhục kế". Đó là cái kế sách kích thích tinh thần yêu nước và lòng tự ái của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, làm cho người ta phản ứng, đem theo một rừng cờ vàng chào đón Đức Giáo Hoàng! Vì vậy cho nên cộng đồng người Việt phải biết ơn "hồng y" Mẫn, cũng giống như lập luận của một số tên bưng bô cho việt cộng nói rằng những người được đi định cư tại Mỹ theo diện H.O phải biết ơn việt cộng: - nhờ bị việt cộng giam trong các trại cải tạo trên ba năm nên những người này mới được đi định cư tại Mỹ!!!

Bây giờ ông trở lại vấn đề "giữ bí mật". Việt cộng đã cai trị chúng ta trên 60 năm. Trong suốt quá trình 60 năm đó, nhiều cuộc nổi dậy của các tổ chức để lật đổ bọn chúng đã bị thất bại. Bây giờ có thể nói hai bên đang chơi bài lật ngửa. Việt cộng nó chỉ cần nhìn vào những cái bản mặt của những thằng "chính trị gia" là nó biết những thằng đó thuộc hạng người nào và đang muốn mưu cầu cái gì. Thằng nào đang xin được bưng bô, được liếm đít, liếm gót giày, bọn việt gian cộng sản nó biết rất rõ. Những thằng nào thuộc thành phần việt kiều lưu manh, sống bằng "nghề" đấu tranh chống cộng dởm, bọn chúng cũng biết. Và những người nào đang quyết liệt đấu tranh chống cộng, quyết tâm một mất một còn với cộng sản, bọn chúng cũng biết rất rõ.

Đồng thời về phía chúng ta, cộng sản nói gì và âm mưu gì, chúng ta cũng biết rất rõ. Chúng ta biết rất rõ những lời nói ngon ngọt như chùm khế của bọn chúng chỉ là những cạm bẫy, nói như vậy mà không phải như vậy. Đó là lý do vì sao hơn 20 năm nay, bọn chúng đã kêu gọi việt kiều đem tiền về đầu tư mà chỉ đạt được kết quả rất ít.

Hai bên đều rành biết tẩy của nhau quá rồi. Hơn 60 năm rồi chớ đâu phải là một chuyện gì mới mẻ, mới xảy ra cách đây một vài năm? Tình hình chính trị thay đổi theo từng giai đoạn. Thời điểm bây giờ là thời điểm hai bên đánh bài lật ngửa, không cần phải che dấu "âm mưu" gì nữa. Mình không cần nói ra tụi nó cũng biết rất rõ những "âm mưu" của mình và ngược lại, những kiểu nói dương đông kích tây, nói như dzậy mà hổng phải như dzậy của cộng sản thì chúng ta cũng đã rành sáu câu quá rồi. Nếu chúng ta không sáng suốt tỉnh táo thì bọn chúng đã treo cờ máu và hình của thằng chó Hồ tràn ngập ở hải ngoại rồi. Cháu để ý thấy, ở hải ngoại hễ ở chỗ nào có treo cờ máu thì sớm muộn gì lá cờ đó cũng bị người dân đấu tranh dẹp bỏ, phải quăng vào thùng rác!

Nói tóm lại cái lập luận "giả vờ" XIN-CHO để âm thầm hoạt động lật đổ cộng sản là một sự lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, do bọn việt gian cộng sản chủ xướng và bọn tay sai chó săn tích cực ủng hộ.

Anh Tý:

- Thưa ông, có người cho rằng đấu tranh ở trong nước chỉ nên dừng lại ở mức độ đòi đa nguyên đa đảng, đòi nhân quyền, dân quyền hoặc đòi công lý. Không nên đòi xóa bỏ cái chế độ cộng sản vì nếu đòi như vậy thì bọn việt cộng sẽ thẳng tay đàn áp giống như vụ Thiên An Môn, vài ngàn người sẽ bị chết! Ông nghĩ thế nào?

Ông Khải:

- Vấn đề đấu tranh của giáo dân ở giáo xứ Thái Hà là một bản anh hùng ca, kết hợp giữa trí tuệ, lòng can đảm và đức tin tôn giáo. Một khi họ đã quyết định ra quân tức là họ đã có những sự tính toán rất kỹ càng rồi. Mỗi một giáo dân là một chiến sĩ, chiến đấu anh dũng trong vòng kỷ cương trật tự, được sự đồng tình ủng hộ của toàn dân. Họ có những chiến lược và chiến thuật đấu tranh riêng của họ. Chúng ta không cần phải "dạy khôn" họ và đừng có đem cái trò hề Thiên An Môn ra để hăm dọa họ!

Các tổ chức chính trị và các phong trào đấu tranh ở trong nước cũng có những phương thức và kế sách đấu tranh riêng của họ. Chúng ta có thể đóng góp ý kiến nhưng nếu cứ đem cái Thiên An Môn ra để làm ông kẹ hù hè những người đấu tranh thì coi thường họ quá! Đấu tranh mà sợ chết thì đấu tranh để làm gì? Trong vụ đấu tranh Thiên An Môn, bạo quyền Trung Cộng đã giết chết khoảng năm ngàn sinh viên và thường dân nhưng không phải vì thế mà chúng ta sợ, phải chùn bước. Ví dụ như vụ dân oan đấu tranh, việt cộng đã thuê bọn giết mướn đâm chết hai người dân oan ở tỉnh Đồng Nai, máu me tùm lum rồi đưa lên trên internet để hù dọa những người đấu tranh. Không phải vì thấy có hai người bị giết mà những người dân oan chùn bước, ngược lại họ vẫn tiếp tục đấu tranh ngày càng mạnh mẽ hơn và số người tham gia ngày càng đông đảo hơn. Cái trò "sát kê hách hầu" (giết con gà để dọa con khỉ) này xưa lắm rồi! Khi vụ giết người này xảy ra, ông đã nhận định: - bọn chúng mới giết có hai người để dằn mặt chớ nếu bọn chúng có giết hai triệu người hoặc giết hết cả tám mươi triệu người, chúng ta cũng nhất quyết không sợ! Vấn đề là bọn chúng có dám làm hay không và có đủ sức để làm hay không? Cứ làm thử coi rồi sẽ biết! Súng đạn AK, chó săn hai chân, chó nghiệp vụ bốn chân không là cái thá gì hết!

Nếu việt cộng dám biến vụ Thái Hà thành ra Thiên An Môn thì ngày tàn của bọn chúng đã tới rồi đó! Chúng nó cứ làm đi rồi sẽ biết!

Trong vụ đấu tranh này, kẻ đang run sợ chính là bọn việt gian cộng sản chớ không phải là người dân. Sự phô trương bạo lực chính là biểu hiện một sự run sợ của kẻ ác không có chính nghĩa!

Hiện nay người dân trong nước không còn sợ việt cộng như hồi thời của những tên bạo chúa như Hồ tặc và Lê Duẩn nữa. Tình hình thế giới đang thuận lợi cho những cuộc đấu tranh nhờ phương tiện truyền thông internet, e-mai và các tờ báo điện tử. Cháu cứ nhìn xem:

Ngay tại thủ đô Hà Nội, những người dân oan đã dám chửi thẳng vào mặt bọn công an như vầy:

- Tụi bay là đồ ăn cướp. Tụi mày bắn tụi tao đi! Đù má tụi bay!
- Có phải thằng Lê Hồng Anh sai tụi bay tới đây không? (Lê Hồng Anh là bộ trưởng công an. Họ gọi tên này là "thằng")

Sự việc này đã được quay video và đưa lên trên internet, ai muốn nhìn tận mắt và nghe tận tai thì cứ tìm mà xem. Đó là những bằng chứng cụ thể bằng hình ảnh và âm thanh chớ không phải là những lời đồn.

Một biến cố khác là việc một người đàn bà dân oan đã tụt quần cởi truồng ngay trước văn phòng thanh tra trung ương của việt cộng tại Hà Nội. Chuyện này cũng đã được quay video và đưa lên internet.

Như vậy thì ngay tại thủ đô Hà Nội người dân có quá khiếp nhược trước bạo quyền không? Họ có sợ Thiên An Môn Hà Nội hay không? Họ dám thách bọn công an bắn họ, bọn công an có dám bắn hay không? Họ đã chửi thẳng "đù má" bọn công an và đứng ngay trước mặt những thằng công an mà chửi chớ không phải chửi lén lút. Riêng người đàn bà dân oan thì tụt quần, cởi truồng 100% và kêu tên những thằng Triết, thằng Dũng ra MÀ ĂN ....lồn! Bà ta xưng "tao" với bọn giặc và gọi bọn chúng là "tụi bay"!

Những người dân đen trong nước mà dám dũng cảm đấu tranh như vậy và đấu tranh ngay trước họng súng của kẻ thù, trong khi đó một số những kẻ "đấu tranh" ở hải ngoại thì rất hèn, lúc nào cũng nghĩ đến Thiên An Môn, sợ chết, nội thấy chó bẹc giê "nghiệp vụ" của công an là đã sợ muốn vãi đái ra quần; đấu tranh thì chỉ mong đòi lại được chổi cùn và rế rách chớ không bao giờ dám nghĩ tới việc phải đòi lại nguyên căn nhà đã bị cướp cách đây hơn 60 năm!!! Thật là nghịch lý khi những người trong nước đang đứng trước họng súng của kẻ thù thì không sợ chết, trong khi đó những kẻ đang sống bên Mỹ, được luật pháp bảo vệ rất kỹ về quyền tự do ngôn luận và được bảo vệ nhân quyền thì hèn nhát, sợ chết hơn cả những người trong nước!

Chính những thằng hèn ở hải ngoại đã làm cho những cuộc đấu tranh của chúng ta thêm khó khăn!

Anh Tý:

- Thưa ông, có người cho rằng Thiên An Môn chính là một tấm gương để cho chúng ta soi chung. Ông nghĩ như thế nào về quan niệm này?

Ông Khải:

Vấn đề này có hai khía cạnh. Đối với chúng ta, đó là tấm gương tốt để cho mọi người noi theo, nghĩa là năm ngàn sinh viên Trung Quốc đã dám hy sinh tánh mạng để đấu tranh cho tự do dân chủ, và đó là điều đáng để cho hậu thế ngưỡng mộ, noi theo tấm gương dũng cảm của họ. Cũng ví như mười ba vị anh hùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng, trong đó có đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã bị giặc Pháp xử chém năm 1930. Dù cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại nhưng tên tuổi của những vị anh hùng vẫn mãi mãi được lưu danh hậu thế, với câu nói nổi tiếng của Nguyễn Thái Học "Không thành công cũng thành nhân". Chính nhờ có nhiều vụ Yên Bái như vậy, mới có cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh đuổi được hoàn toàn giặc Pháp ra khỏi đất nước.

Tuy nhiên, đối với bọn việt gian cộng sản và bọn chó săn thì khi chúng nêu ra vụ Thiên An Môn là nhằm vào ý nghĩa khác. Ý bọn chúng muốn hăm dọa những người dân đang đấu tranh, biểu tình rằng: - chúng bay liệu hồn, nếu chúng bay đòi lật đổ chính quyền chuyên chính vô sản thì lũ chúng bay sẽ bị chết thê thảm như năm ngàn thằng sinh viên Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn! Đây là tấm gương để lũ chúng bay soi chung!

Tóm lại, đây là ý kiến của những thằng CHÓ ĐẺ đi làm tay sai cho việt gian cộng sản, muốn đem vụ Thiên An Môn ra để hù dọa đồng bào. Cái trò hăm dọa trẻ con này xưa lắm rồi, hỡi các con chuột cống đang lẩn trốn trong hang Bắc Pó! Bọn chúng bay sẽ bị đền tội trong năm 2009!!!

Anh Tý:

- Thưa ông, có người cho rằng chúng ta phải bắt chước sự đấu tranh của các giáo dân Ba Lan năm 1989. Họ đã kiên nhẫn đấu tranh liên tiếp chín năm và đấu tranh bất bạo động nên cuối cùng đã chiến thắng cộng sản. Chúng ta cứ làm như vậy thì chắc chắn sẽ thành công, có phải như vậy không?

Ông Khải:

- Chúng ta có thể dùng trường hợp Ba Lan để tham khảo chớ không thể bắt chước giống y hệt. Chính trị vốn dĩ rất phức tạp. Khi chúng ta giải một bài toán đại số, chỉ với hai ẩn số là 'x' và 'y' thôi, chúng ta đã thấy nhức đầu rồi, huống chi, các vấn đề chính trị có cả hàng trăm ẩn số và biến số. Trường hợp Ba Lan có một số điểm giống ta nhưng cũng có rất nhiều điểm khác biệt, quan trọng nhất là tình hình thế giới đã đổi khác nhiều và sự ra đời và phổ biến của internet.

Đừng có bao giờ ghim trong đầu mấy chữ đấu tranh "ôn hòa, bất bạo động". Đấu tranh như vậy là đấu tranh ngu! Người đấu tranh phải biết áp dụng linh hoạt tất cả mọi hình thức để giành thắng lợi. Ví dụ như không có xe đạp thì chúng ta phải đi bộ, nhưng nếu có xe đạp thì chúng ta phải tận dụng nó, và nếu có thêm xe gắn máy hoặc xe hơi thì chúng ta phải tận dụng phương tiện tối ưu nhất khi tình hình cho phép. Đánh địch, chúng ta phải biết dùng nhiều thế võ khác nhau hoặc kết hợp chớ không thể lúc nào cũng chỉ áp dụng có một miếng võ "ngồi tọa thiền"!

Sẵn đây, ông khuyên cháu một điều này: - ĐỪNG CÓ BẮT MÌNH PHẢI GIỐNG NHỮNG NGƯỜI KHÁC!

Mấy thằng thầy đời thường hay nói "đừng có bắt người khác phải giống mình" nhưng ông thì nói ngược lại. Đừng có "người ta sao mình vậy, người ta làm bậy mình làm theo" Nói cho rõ hơn, đừng có chạy theo số đông. Đừng có thấy số đông, ai cũng làm như vậy hoặc nghĩ như vậy mà nếu mình làm khác, nghĩ khác, thì mình là SAI LẦM! Chưa chắc như vậy. Mình phải có sự suy nghĩ độc lập và niềm tự tin của chính mình. Bọn việt gian cộng sản, với bạc tỷ đô la, bọn chúng đã mua chuộc được khoảng 90% phần trăm giới truyền thông ở hải ngoại. Chúng đã thuê mướn những thằng to mồm, thuộc những truyền thông lớn, tổ chức lớn, la lối ồn ào lên mấy điều như thế này:

- Người khôn ngoan là người đấu tranh bất bạo động
- Người văn minh là người đấu tranh bất bạo động
- Phương pháp đấu tranh DUY NHẤTHAY NHẤT là đấu tranh bất bạo động, bằng cách đối thoại và làm thỉnh nguyện thư gởi lên cho chính quyền (việt cộng) cứu xét!!!

Giả sử như nhiều người và tổ chức trong cộng đồng ca ngợi ông Nguyễn Chí Thiện là thi sĩ thiên tài, tác giả của tập thơ Hoa Địa Ngục nhưng nếu cháu thấy có một số điểm gì đó có vẻ mờ ám, đáng nghi ngờ thì cháu cứ mạnh dạn lên tiếng. ĐỪNG BẮT MÌNH PHẢI GIỐNG NHỮNG NGƯỜI KHÁC. Đừng sợ vì ai cũng nói như dzậy mà mình nói khác, không giống ai, tức là mình "đánh phá cộng đồng"! Đừng sợ ý kiến của mình lẻ loi tức là mình SAI LẦM!

Chính vì cái mặc cảm bắt mình phải giống những người khác cho nên khi ông Thiện "sáng tác" ra tập Hạt Máu Thơ 2 thì một số kẻ xu thời đã vội vàng dịch ra nhiều thứ tiếng, tổ chức nhiều buổi ra mắt sách và giới thiệu nó đến thi đàn thế giới! Nhiều kẻ ngu ngốc đã mua cái đống cứt chó đó đem về nhà và để lên bàn thờ để thờ! Vì sao ông gọi nó là "đống cứt chó"? Bởi vì nó dở một cách tàn nhẫn vô nhân đạo*, so với tập thơ Vô Đề của tác giả vô danh, đã bị việt cộng giết chết. Nó còn tệ hơn là vè nữa. Nó chỉ là một mớ từ ngữ hổ lốn trộn chung vào với nhau, vô nghĩa, vô duyên trơ trẽn như Thị Nở, đọc lên thấy muốn phát ói! Thế cho nên, theo ông nghĩ, nếu có ai gọi ông Thiện là vè sĩ tức là vẫn còn tử tế với ông ta lắm đấy!

Những thằng lưu manh chính trị đã quá coi thường cộng đồng người Việt tại hải ngoại cho nên bọn chúng đã cho xuất bản cái đống cứt chó (Hạt Máu Thơ 2), ghi tên "thi sĩ" tài ba là Nguyễn Chí Thiện! Rồi đây những tên lưu manh đó sẽ phải trả lời trước công luận và luật pháp về những trò láo bịp, lưu manh của mình! Hiện nay, đang có nghi vấn ông Thiện không phải là nhà thơ và cũng chẳng phải là nhà văn. Ông ta là nhà .... xạo ke! Quyển tiểu thuyết "Hỏa Lò" của ông có lẽ là do Bùi Tín và Vũ Thư Hiên viết giùm!!! Từ từ, theo thời gian rồi tất cả sự thật sẽ được phơi bày, không có gì có thể che dấu mãi được. Dĩ dzãng dễ dầu gì dấu diếm!

Anh Tý:

- Thưa ông, có người cho rằng cách mạng có nghĩa là đổ máu và giết chóc, vì vậy cho nên chỉ có những người cộng sản mới chủ trương làm cách mạng, còn những người quốc gia thuộc thế giới tư bản văn minh, dân chủ thì không bao giờ làm cách mạng để lật đổ chế độ. Họ chỉ "canh tân" hoặc "sửa chữa" chế độ mà thôi. Có đúng như vậy không?

Ông Khải:

- Thằng nào lý luận như vầy là ngu như con bò. Nếu không phải là con bò tót thì những tên này phải là cán bộ của cộng sản hoặc Việt Tân đang cố gắng tiêm nọc độc của rắn hổ mang vào đầu những người quốc gia ngây thơ khờ khạo. Cách mạng đã xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới và thuộc nhiều thời đại, kể cả từ triều đại phong kiến cho đến bây giờ. Cháu có thể tìm ra nhiều trường hợp cách mạng trong lịch sử nước Tàu cũng như lịch sử của nước ta.

Anh Tý:

- Thưa ông, vì lý luận như vậy cho nên HỌ đã nói rằng ai mà chủ trương làm cách mạng để lật đổ chế độ bác Hồ thì người đó chính là .... cộng sản!!!

Ông Khải:

- Đây là đòn chụp nón cối của việt cộng và Việt Tân. Theo ý bọn chúng, cứ ngoan ngoãn quỳ lạy, XIN-CHO thì đó mới là người quốc gia đấu tranh khôn ngoan!!! Muốn đấu tranh kiểu gì cũng được miễn là đừng có .... lật đổ chế độ cộng sản, để bọn chúng còn tiếp tục ngồi trên đầu chúng ta để bóc lột xương máu của người dân!

Anh Tý:

- Thưa ông, có người đã trích dẫn ra một câu nói của Lê Nin, đại khái như vầy:" .... cách mạng không phải là một âm mưu, mà là sự vùng dậy của giai cấp tiên phong. Âm mưu có nghĩa là một kế hoạch được xếp đặt và có những tính toán trước. Còn sự vùng dậy là một hành động bất chợt khi những điều kiện khách quan và tâm lý đã chín mùi"

Như vậy có nghĩa là nếu mình muốn làm cách mạng để lật đổ bọn cộng sản thì mình phải làm đúng y như những lời dạy này của ông thầy Lê Nin, phải không ông?

Ông Khải:

- Có chắc đây là câu nói của thằng Lê Nin hay không, hay là do một thằng chó nào nó phịa ra rồi lại cứ cắm đầu vào mà học? Mà giả sử rằng đúng là thằng chó Lê Nin nó có nói như vậy thì lời nói của nó có xứng đáng để cho mình học hoặc noi theo hay không? Thế giới này có sáu tỷ người, không lẽ chỉ có một mình thằng Lê Nin mới biết cách làm cách mạng?

Cái thằng chó nào đó nó không hiểu hai chữ "cách mạng" hay sao mà phải trích dẫn câu nói của Lê Nin? Mà nếu nó có hiểu thì liệu nó có thể viết ra định nghĩa hai chữ "cách mạng" theo sự hiểu biết riêng của nó không hay là lại lật tự điển Webster ra chép?

Trong tiếng Việt, hai chữ "âm mưu" thường được dùng với ý nghĩa xấu, ví dụ như âm mưu ám sát, âm mưu chiếm đoạt tài sản, âm mưu ăn cướp tiệm vàng ..v..v.. Còn nếu như hiểu hai chữ "âm mưu" như là một kế hoạch, một sự chuẩn bị thì bất cứ việc làm gì ở trên đời cũng phải có một sự chuẩn bị, một kế hoạch hành động thì mới mong có kết quả tốt. Ví dụ, ông chỉ nói một điều hết sức đơn giản là việc nấu một nồi cơm. Trước tiên cháu phải chẻ củi, nhóm lửa rồi sau đó là vo gạo, khi cơm đã cạn thì bớt lửa và gắp than để lên nắp vung.

Cháu thấy không, một việc rất bình thường là nấu cơm cũng cần phải có sự chuẩn bị, nếu hết củi thì phải đi kiếm củi, nếu hết rơm thì phải đi kiếm rơm, huống hồ gì sự việc rất quan trọng, lớn hơn rất nhiều là làm cách mạng mà không cần phải có "âm mưu"? (sự chuẩn bị)

Tóm lại, đây là câu nói, nếu đúng là của Lê Nin thì câu nói này cực kỳ ngu xuẩn. Và càng ngu xuẩn hơn nữa khi có những thằng ngu sao chép lại những lời "vàng ngọc" này để "dạy" những người khác làm cách mạng!

Anh Tý:

- Thưa ông, có người cho rằng phải chờ tình hình thế giới thuận lợi thì trong nước mới nên phát động những cuộc đấu tranh. Còn khi tình hình chưa thuận lợi thì nên kiên nhẫn nằm chờ thời! Ông có ý kiến gì không?

Ông Khải:

- Tình hình thế giới KHÔNG BAO GIỜ THUẬN LỢI ĐỐI VỚI NHỮNG KẺ HÈN NHÁT VÀ BỊ VIỆT CỘNG MUA CHUỘC! Lúc nào những thằng hèn nó cũng tìm ra một lý do gì đó để kết luận rằng tình hình thế giới chưa thuận lợi! Không lẽ chúng ta cứ nằm chờ cho đến khi nào 162 nước trên thế giới đồng lên tiếng:"thưa các ông đấu tranh, cả thế giới chúng tôi đã sẵn sàng ủng hộ các ông rồi đây. Xin mời các ông thức dậy để tranh đấu, để lật đổ cộng sản!" Bọn việt gian cộng sản đã mua chuộc một số tên cò mồi chính trị ở hải ngoại để những tên này dùng thế võ "câu giờ", kéo dài sự cai trị cho bọn cộng sản!

Anh Tý:

- Thưa ông, thế còn cái gọi là "tâm lý chín mùi"?

Ông Khải:

- Đã 63 năm rồi mà tâm lý chưa chín thì đến bao giờ mới chín? Tâm lý nó đã chín mùi tới mức một người đàn bà dân oan đã dám ra trước trụ sở thanh tra trung uơng của việt cộng, tụt quần, cởi truồng 100% rồi kêu tên thằng Triết và thằng Dũng ra ăn ... lồn của bà!

Và mới đây nhất, trong buổi họp với ủy ban "nhăn răng" thành phố Hà Lội ngày 20 tháng 9 năm 2008, đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã phát biểu những câu tuy nhẹ nhàng, lịch sự nhưng rất đau cho bọn đầu gấu việt cộng:

- Tự do tôn giáo là cái QUYỀN chớ không phải là cái ân huệ XIN-CHO! (ví dụ như được nhà nước cho phép tổ chức lễ Giáng Sinh. Đó là cái "ân huệ" của đảng và nhà nước ban cho giáo hội Công Giáo!)

- Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong cho đất nước mình mạnh lên.

Hai câu nói này chứng tỏ sự dũng cảm của đức Tổng Giám Mục, dám mặt đối mặt, trong một buổi họp công khai, giữa bá quan văn võ, nói thẳng ra vấn đề với bọn đầu gấu việt cộng! Cái hộ chiếu của việt cộng là một sự nhục nhã! Một thùng nước lạnh dội lên đầu những thằng trong bộ chính trị! Tự do tôn giáo là một cái QUYỀN đương nhiên người dân phải được hưởng, cớ sao phải đi XIN để được CHO? Một thùng nước lạnh khác tạt vào mặt những thằng đầu gấu!

Nhưng có lẽ bọn chúng không biết nhục vì da mặt của thằng nào cũng dày hơn da trâu, đạn AK bắn không thủng!!!

Nói đến đây, ông Khải tạm ngưng để tiếp tục uống bia và nhậu tiết canh chó. Ông nói với thằng cháu đích tôn:

- Ông cháu mình thanh toán hết dĩa tiết canh này đi. Phải thừa nhận tay bộ đội phục viên này có tay đánh tiết canh chó. Cháu xắt thêm một ít củ giềng để cân bằng âm dương. Thịt chó cái vàng rất bổ âm, chữa được bệnh yếu thận và bệnh .... vãi đái ra quần! Mấy thằng đấu tranh dân chủ ở hải ngoại, sở dĩ hay vãi đái ra quần khi nghe nói tới Thiên An Môn là vì bọn chúng không được ăn thịt chó mực hoặc chó vàng!

Anh Tý vui vẻ cùng ông nội thanh toán sạch sành sanh món tiết canh chó ngon tuyệt vời. Uống hết ba lon bia, anh hơi ngà ngà nhưng vẫn còn tỉnh táo và rất hăng say, tha thiết với bài học chính trị. Thế là anh lại hỏi tiếp một câu hỏi nữa:

- Thưa ông, cho phép cháu hỏi ông một câu cuối cho buổi học chính trị ngày hôm nay. Cháu nghe người ta xì xầm bàn tán về ông "giám mục" Nguyễn Văn Sang, thuộc giáo phận Thái Bình. Ông có ý kiến gì về nhân vật này không?

Ông Khải bắn một bi thuốc lào kêu ro ro thật êm tai, nhả khói dày đặc, thơm phức rồi mới khề khà nói:

- Cái thằng đó là việt gian cộng sản đấy. Nó được kết nạp vào đảng từ hồi chín năm kháng chiến đấy, được hơn 50 tuổi đảng rồi! Lúc ấy ông đang ở trong quân đội, ông biết nó rất rõ. Hiện giờ nó là con rắn độc hai đầu, đang khoác áo "giám mục". Trong vụ đấu tranh đòi tòa Khâm Sứ hồi năm ngoái, chính nó đã đóng vai trò "hòa giải", góp phần dập tắt cuộc tranh đấu của giáo dân Hà Nội! Bây giờ nó lại xuất hiện, lại bổn cũ soạn lại, tình nguyện đóng vai trò "hòa giải" Nó lại còn vờ vịt tuyên bố "chào các bạn, tôi đi tù" hoặc "chữ tu liền với chữ tù một vần" Người nào không biết cứ tưởng nó là vị chăn chiên thực lòng tranh đấu, đi theo nó là chết! Ghê gớm thay con rắn độc làm cò mồi chính trị!

Thôi bữa nay ta tạm ngưng nơi đây. Khi tình hình có những biến chuyển mới, cháu cứ lại đây, ông cháu mình sẽ tiếp tục thảo luận.

Lúc này đã gần nửa đêm vậy mà lúc anh Tý đạp xe đạp ra về, anh vẫn còn nghe những tiếng cầu kinh của hơn 10 ngàn giáo dân từ xa vọng lại. Nếu không bị bọn công an cản đường và bị trời mưa thì buổi đọc kinh hôm nay có thể lên đến khoảng 100 ngàn người! Một con số kỷ lục chưa từng có! Cơn đại hồng thủy sắp đến rồi. Nó sẽ quét sạch cái chế độ việt gian cộng sản xuống dưới địa ngục!

Trần Thanh
ngày 21 tháng 9 năm 2008