Friday, August 29, 2008

Lời tố cáo lịch sử 78 năm tồn tại của Đảng CSVN gian trá và lưu manh


Phạm Khánh Toàn


Đảng CSVN ngày nay vẫn mang bản chất bảo thủ và tư tưởng đạo đức của Đảng CSVN lưu manh thời Hồ Chí Mịnh còn sống vậy. Thành phần của Đảng CSVN chủ yếu vẫn là lưu manh giặc cỏ khi xưa thời tiền kỳ có Đảng. Nay tuy có thêm một số người có chút xíu lương tri làm người đứng trong đội ngũ Đảng CSVN lưu manh. Song số người này lại không nhiều có lập trường quan điểm tiến bộ. Họ không có bản lĩnh để chứng tỏ rõ thái độ và quan điểm của chính bản thân là không đồng tình với chủ trương đường lối chính sách: “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh. Mà họ hết thảy cũng đành nhắm mắt làm ngơ để cho Đảng CSVN lưu manh duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít đó và quyết đi theo con đường chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh mà thôi !!!

Bản chất thành phần của Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ, là lũ cùng đinh vô học nên đầu chúng ngắn tủn và chỉ nghĩ được mỗi một điều đơn giản là giành quyền lực với đủ mưu mô, thủ đoạn bằng mọi giá ngu hèn nhằm duy trì bảo lưu quyền lực làm chủ nô độc tài phát xít. Còn với đất nước, với dân tộc Đảng CSVN lưu manh lại ngu và đểu tận cùng của sự đểu cáng làm hại lớn cho đất nước VN, cho dân tộc VN chúng ta.

Đó là việc Đảng CSVN lưu manh đã ngu lâu ký ngay 2 hiệp ước Biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 để giao 1694 km vuông đất trên biên giới cho Trung Quốc và hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho cũng cho Trung Cộng. Đây là việc làm ngu hèn tột độ của Đảng CSVN lưu manh đã làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm.Vì sao là người thảo dân, dân đen tôi lại ngang ngược xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh đến thậm tệ như vậy, vì tôi là một dân thường, một phụ nữ lại tàn tật tay không dám ngang ngửa đấu đá với tất cả Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi đến thắng lợi huy hoàng. Cuối cùng Đảng CSVN lưu manh phải chịu thua cuộc không cướp được tấc đấc nào của má tôi.

Vậy mà Đảng CSVN lưu manh dương dương tự đắc với cả thế giới rằng: Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh “tài giỏi” lắm đã lừa đảo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh lại qua mắt dân VN để đi đêm “Tàu ô cộng sản” làm việc vụng trộm với chúng để giao 1694 km đất biên giới và 11000 km lãnh hải cho Tàu Cộng đại Hán. Việc này làm này là nỗi ô nhục muôn kiếp không rửa sạch cho đảng cướp CSVN !!!.

Bây giờ tôi xin kể tỉ mỉ chi tiết việc Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi không thành cho cả nhân loại trên thế gian này rõ ngọn nguồn câu chuyện nhé.

Đất của ba má tôi nằm trên địa phận Giáp Bát gần trục đường quốc lộ 1A. Vào năm 1986 nhà nước CSVN mở rộng đường quốc lộ này, nên 756 mét vuông đất của má tôi bị mất một phần cho việc mở rộng đường, phần còn lại trở thành mặt đường lại là trục đường chính quốc lộ 1 A đẹp đẽ đầy lợi nhuận. Bầy lũ Đảng CSVN lưu manh tham lam, tối mắt tối mũi đã dùng quyền lực của Đảng CSVN lưu manh cậy thế đàn áp gia đình má con tôi mưu toan cướp đất Giáp Bát. Ngày 19/6/1987 tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch quận Hai Bà Trưng thay mặt Đảng CSVN lưu manh ký ngay một cái quyết định phá nhà của má tôi đang ở.

Mấy tháng sau khoảng sau ngày quốc khánh của CSVN, mùng 2/9/1987 và sau ba ngày Đảng CSVN lưu manh họp bàn mưu tính kế phá nhà cướp đất của má tôi xong, là Đảng CSVN lưu manh mang một lực lượng lớn khoảng sáu, bảy trăm tên công an mang sắc phục súng ống chỉnh tề và hàng trăm lũ chính quyền các cấp từ thành phố xuống phường, các ban bệ các ngành giao thông tư pháp vv…. dải dày đặc suốt từ Cống Trắng tới cổng làng Tám khoảng chừng 500m chiều dài trục đường Giáp Bát. Và còn rất nhiều xe ôtô các loại, như xe cứu thương xe cứu hỏa, xe cảnh sát, xe thùng bịt kín, xe ben, xe tải vv… được chúng điều đến nữa. Chỉ thiếu mỗi xe tăng thiết giáp là Đảng CSVN lưu manh không huy động đến phá nhà cướp đất của má con tôi thôi.

Đảng CSVN lưu manh huy động một lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp dân lành trong tay không tấc sắt. Vậy mà trong khi đó gia đình má tôi chỉ vẻn vẹn chỉ có 5 người. Má tôi thì gần 70 tuổi, còn tôi thì bị tàn tật, cậu em trai sát tôi bị bại liệt cả hai chân không đi được, 2 cô em gái đang bước sang tuổi thanh niên. Đảng CSVN lưu manh chúng bắt đầu ngăn cản nội bất xuất, ngoại bất nhập để dân tình hàng xóm láng giềng làng nước không ai tới giúp má con tôi được. Tôi trực tiếp dùng dằng đấu lý về pháp luật với tên Thế Phong chủ tịch phường Giáp Bát nhằm kéo dài thời gian để kịp cho người có quyền lực và có lương tri tới kịp thời cứu giúp má con tôi khỏi bị phá nhà. Nhưng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chúng cố tình phá nhà cướp đất của má con chúng tôi. Chúng không cho kéo dài thời gian thêm nữa và chúng tiến hành thu giữ tài sản đồ đạc gom vào UBND phường để chúng phá nhà má con tôi tan hoang bằng sức mạnh vũ lực rất thô bạo.

Trời sui sao khiến vậy, thương má con tôi cảnh mẹ già, con tàn tật nên bí thư thành ủy Nguyễn Thanh Bình điện ngay xuống quận Hai Bà Trưng xem xét việc Đảng CSVN lưu manh phá nhà cướp đất của má tôi ra sao để báo cáo lại cho thành ủy biết.

Ông Dương bí thư quận ủy cộng sản quận Hai Bà Trưng phải thân trinh xuống tận số nhà 87 phố Làng Tám ( ngày nay là số nhà 587 và 589 đường Giải Phóng, Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội ) để chứng kiến thực hư cảnh Đảng CSVN lưu manh huy động lực lượng lớn đến đàn áp ức hiếp 5 má con tôi đều cảnh đàn bà và có tôi là phụ nữ bị tật nguyền để phá nhà cướp đất lúc đó. Năm má con tôi bị quây lại giam ngồi trong sân nên không tận mắt thấy ông Dương bí thư quận ủy cộng sản Hai Bà Trưng xuống, mà chỉ đột nhiên thấy lũ hung hăng đang phá nhà dừng hết cả lại.

Còn tất cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chạy toán loạn như vịt cả lượt, rồi bỗng vắng tanh không người. Lúc đó dân xóm giềng sang báo cho má con tôi biết ông Dương bí thư quận ủy Hai Bà Trưng xuống quan sát tình hình. Lúc đó nhà chúng tôi mới bị chúng phá tan được cả mái nhà, má con tôi chắc mẩm sẽ lợp lại mái để ở. Vậy mà khi ông Dương quay về quận, bầy lũ Đảng CSVN lưu manh lại tiếp tục quay lại phá nốt nhà của mà tôi tới chân móng rồi chúng mới chịu ra về, chiều hôm đó công an CS quận Hai Bà Trưng bắt anh trai tôi lên quận vô cớ vì anh tôi ở nơi khác mà không có mặt tại nhà má chúng tôi khi chúng cướp phá.

Là người dân lại là phụ nữ tàn tật tôi không đủ sức chống đỡ lại với lực lượng lớn hùng hậu đồ sộ của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ngay lúc đó chỉ còn biết chờ cho xong việc ngày hôm phá nhà đó là hôm sau tôi “nhẩy xếch” tố cáo lên trên Trung ương Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo đã dùng lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp ức hiếp 5 người vừa già vừa tàn tật lại là phụ nữ để tịch thu tài sản phá nhà cướp đất, bắt người vô cớ gây ra cho dân cảnh “màn trời chiều đất” cho má con tôi.

May sao sự việc của má tôi xảy ra lại rơi vào đúng dịp bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư Đảng CSVN với khẩu lệnh “Những việc cần làm ngay", cô Ba Định, bác Nguyễn Hữu Thọ phó chủ tịch Hội đồng nhà nước (phó chủ tịch nước), bác Trần Kiên trưởng ban kiểm tra trung ương Đảng, bác Mười Hương trưởng ban nội chính trung ương, bác Trần Độ ra tay cứu giúp giải oan cho má con tôi.

Vì thế nên quận Hai Bà Trưng đã phải xin lỗi anh tôi bằng văn bản và ngày 23/9/1990 sẽ bắt chủ tịch thành phố Hà Nội thay mặt Đảng CSVN lưu manh phải ra quyết định số 3484 DS/UB công nhận quyền sống ở của má tôi ở số nhà 87 phố Tám là hợp pháp được tồn tại trên đất đó. Kể từ ngày 23/8/1990 Đảng CSVN lưu manh không dám đem lực lượng xuống đàn áp dân Giáp Bát để phá nhà cướp đất như những lần trước nữa, nhưng chúng quay vào đàn áp và ức hiếp bản thân tôi đủ mọi đường suốt từ năm 1990 cho đến tận ngày nay 2008 này hòng cướp đất Giáp Bát lần nữa.

Chúng ép buộc tôi phải bán hoặc đổi đất Giáp Bát của má tôi ở cho chúng thực hiện chính sách phá nhà của má tôi rồi Đảng CSVN lưu manh lớn tiếng rằng bà Cao Lệ Thu ( tức má tôi ) thua kiện phải phá nhà là lũ Đảng CSVN lưu manh sẽ cướp không đất của dân Giáp Bát - Cống Trắng đến cổng làng Tám rồi. Đảng CSVN lưu man cướp đất theo kiểu cuốn chiếu xuống tận đường khoảng chừng 1 km chiều dài trục đường 1A.

Thế nhưng tôi quyết không đổi, không bán đất của má tôi cho lũ Đảng CSVN lưu manh này. Thế là cả lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này đã và đang dùng mọi thủ đoạn dã man độc ác thậm tệ để đàn áp bản thân tôi mọi kiểu. Đảng CSVN lưu manh sai khiến bọn tay chân bên dưới cắt điện cúp nước của gia đình má tôi làm tất cả dân Giáp Bát cũng bị ảnh hưởng theo gia đình tôi. Đảng CSVN lưu manh lưu manh dùng trò ảo thuật làm cho vô tuyến nhà tôi bị nhiễu mất sóng. Thậm trí Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sai khiến cả bọ lưu manh đầu gấu đời thường đâm vào xe tôi để tôi ngã lăn trên đường nhựa trước cổng trường Đại học Bách Khoa - Hà Nội ba vòng vv…. và nhiều vô kể các kiểu đàn áp ức hiếp dã man khác.

Vậy mà cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này vẫn không sao cướp nổi đất Giáp Bát với tôi. Nhưng cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo vẫn thường dương dương tự đắc là Đảng cầm quyền lãnh đạo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh đầu óc như vịt lại ngu hèn đi đêm vụng trộm ký 2 hiệp ước biên giới Việt Trung và Vịnh Bắc bộ giao 1694 km vuông đất và 11000 km vuông lãnh hải cho Tàu Ô một cách mù quáng, nhục nhã.

Khi quân Tàu Cộng giết chết ngư dân Việt nam để cướp đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sợ bọn Tàu Cộng dúm tứ túc không dám có phản ứng gì với Tàu để bảo vệ dân VN vì thế nên tôi mới ngang ngửa xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo là thế. Cả cái Đảng CSVN lưu manh há miệng mắc quai rồi nên tất cả chúng thấy hành vi tàn ác, vô nhân đạo của bọn Trung Cộng mà không dám, nói gì về việc tôi xỉ vả Đảng CSVN lưu manh. Đấy là nói về chuyện giang sơn đất nước mà cả cái Đảng CSVN lưu manh ngu hèn vô nhân đạo làm hại đất nước.

Nói về tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch CS quận Hai Bà Trưng là thủ phạm đã ký để phá nhà tôi năm ấy ( nay khu vực nhà tôi ở được gọi là quận Hoàng Mai) thì nhà riêng của nó là một biệt thự đẹp, sang trọng thời Pháp số nhà 13 thuộc ở vị trí ngã tư phố Hai Bà Trưng và Nguyễn Khắc Cần, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó khoảng năm 2004 hắn bán đi một đợt nhà lần đầu là hơn 10 tỷ nằm trong khuôn viên biệt thự, năm 2006 hắn bán nốt căn liền kề với giá 17 tỷ đồng VN, tất cả có số tài sản trên dưới 30 tỷ đồng VN thời giá năm 2006 trở về trước là tương đương với trên 2 triệu đô la Mỹ. Vậy thử hỏi các triệu phú Mỹ, Pháp, Nhật … có giàu có bằng những thằng quan cộng sản của đảng cướp này không ? Bây giờ tôi được biết gia đình nó chuyển lên gần Tây Hồ sống trong một Vila nguy nga tráng lệ hơn cung điện vua chúa thời trước.

Còn bây giờ tôi lại nói tiếp về Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cùng Hồ Chí Minh cầm quyền lãnh đạo đưa dân tộc Việt Nam quay lại thời kỳ mọi rợ nguyên thủy và nghèo nàn lạc hậu nhất nhì trên thế giới từ năm 1946 tới nay nhé.

Đảng CSVN lưu manh đồng tình với Hồ Chí Minh đi sang Pháp nhằm giành quyền lực với vua Bảo Đại đầu năm 1946, từ đó chúng đã gây ra 2 cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, thật không đáng có xảy ra làm cho dân VN máu chảy đầu rơi nhiều vô kể, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Lại còn cảnh Nam Bắc Việt Nam người cùng dân tộc tương tàn chém giết lẫn nhau để giành quyền lực cho ĐCSVN lưu manh mất hết cả đạo lý làm người, hủy hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam suốt một thời gian dài gần 30 năm.

Năm 1954 Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN lưu manh vừa mới có quyền lực trong tay nhờ từ dân VN giúp cho, khi có được rồi vội quay lại cắn dân ngay trong đợt cải cách ruộng đất làm cho trên dưới 30 vạn người dân vô tội chết oan. Với 30 vạn người dân chết oan này cũng đã từng đóng góp cả sức người lẫn tiền của trong công cuộc giành quyền lực cho Hồ Chí Minh và Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo để chúng lên nắm quyền bính.

Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cướp hết tất cả ruộng đất của nông dân và cướp hết tất cả tài sản, nhà cửa, nhà máy công xưởng nơi thành thị

Hồ Chí Minh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lừa hết tất cả dân VN từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng cho đến đồi núi phải làm công, làm nô lệ cho Hồ và cho Đảng CSVN lưu manh. Chúng không cho phát triển dân trí mà chúng đẻ ra chủ trương đường lối chính sách hà khắc, cay nghiệt dã man là “ngu dân để trị dân”.

Chẳng thế mà tất cả dân VN sống như mọi rợ nguyên thủy vậy, đến nỗi ăn không đủ no, gạo thì gạo hẩm, gạo mốc, mặc dù không đủ ẩm, nhà ở như hang hũ ổ chuột chẳng ra nhà, điện thắp sáng không có, nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày cũng không. Ngay TP - Hà Nội mang tiếng là thủ đô của đất nước mà chỉ có 36 phố phường là có điện của Pháp để lại cho dân dùng là có thôi còn xung quanh 36 phố phường tiến ra ngoại ô Hà Nội dân phải dùng đèn dầu thắp sáng, ăn uống nước giếng đất tự đào, rửa tay tắm giặt nước ao tù.

Năm 1986 bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư CSVN mới mở cửa để cởi trói cho dân chưa được bao lâu thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lo sợ không gĩư được độc quyền « chủ nô độc tài phát xít » cho Đảng CSVN lưu manh. Cho nên Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo dùng thủ đoạn đê hèn ám sát bác Nguyễn Văn Linh ở bên CHDC Đức suýt chết. Hết nhiệm kỳ bác Nguyễn Văn Linh từ chức, tất cả các bác Nguyễn Hữu Thọ, Trần Kiên, Mười Hương cô Bá Định cũng từ chức. Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại đưa những tay đầu ngu như vịt dốt nát ngu xuẩn, nhưng có nhiều mưu mô thủ đoạn làm tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh cầm quyền lãnh đạo trị vì dân, như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh .... lên nắm quyền cai trị dân.

Nói về Đỗ Mười là một tay nông dân vô học không có bất cứ một cái tài nào lên làm tổng bí thư CSVN. Đỗ Mười chỉ chăm chú tâm vào những việc cho bản thân y và con cái gia đình ăn cắp tiền tỉ làm giàu cho bản thân chứ không có tài để đưa đất nước phát triển lớn mạnh. Thậm trí Đỗ Mười còn là « học trò xuất sắc » của Hồ Chí Minh cũng đàn áp cướp bóc của dân không kém gì Hồ. Tên này biết quay quắt lừa đảo với cả thế giới để thế giới mất lòng tin vào đường lối mở cửa của Đảng CSVN lưu manh nên bị các nước họ mới cảnh cáo cho.

Công trình Cửa hàng bách hóa tổng hợp Hà Nội bị bỏ hoang gần chục năm ngay giữa lòng trung tâm thủ đô, cái nhà to lớn nguy nga đẹp là thế của Pháp xây dựng để lại cho dân VN dùng thành đống đất hoang sơ gần cả chục năm trời. Chẳng là thế này : Đảng CSVN lưu manh quen với lối sống quay quắt lừa đảo với dân VN thế là cũng lừa đảo với cả các đầu tư nước ngoài. Nhiều nước đầu tư xong mà đất nước không phát triển tiền chảy vào túi cá nhân của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh. Nên thấy vậy nước ngoài họ ký hợp đồng với chính phủ Việt Nam xây dựng Bách hóa tổng hợp thành trung tâm siêu thị cao tầng lớn nhất Hà Nội.

Họ chờ cho chính phủ CSVN phá xong tòa nhà cao tầng lớn nhất Hà Nội thành đống đất hoang sơ họ phá hợp đồng không xây dựng trung tâm siêu thị cho VN. Vậy rồi chính phủ VN phải tự xây dựng lấy thành cái nhà 3 tầng thấp lè tè như lô cốt ngay giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Đỗ Mười ngu dốt nên phá là chính, chỉ phá không xây, phá mọi mặt, đất nước lại xộc xệch tồi tệ đi xuống, phẩm chất đạo đức của bọn công quyền triều đại Hồ + đảng CSVN lưu manh tụt dốc thảm hại. Các quan đua nhau ăn cắp, quan lớn ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp bé. Đám quan lại CSVN từ Trung ương đến địa phương bảo nhau đua tranh ăn cắp và đàn áp ra sức bóc lột nhân dân.

Về Lê Khả Phiêu gốc vốn cũng là một thằng nông dân Thanh Hóa tham gia kháng chiến giành quyền lực cho Hồ mà lên làm tổng bí thư CSVN. Khả Phiêu u mê nghe theo Đảng CSVN lưu manh chỉ đạo rắp tâm triệt hại những nhà kinh doanh giỏi giàu có ở miền Nam, chẳng thế mà khi Lê Khả Phiêu vừa mới lên ghế tổng bí thư đã chỉ đạo ngay cho ngành tòa án buộc án gán tội cho các vụ Tân Trường Sanh và vụ Ép Cô Minh Phụng để tử hình họ và cướp tiền bạc, tài sản của họ nữa.

Thật là một chế độ chính sách dã man độc ác thậm tệ của Đảng CSVN lưu manh đối với dân VN. Đảng CSVN lưu manh đã và đang thực hiện đúng di chúc của Hồ Chí Minh là “ngu dân để trị dân” không cho dân tài giỏi phát triển giàu có. Chúng cố thủ đưa dân quay về thời kỳ đói nghèo lạc hậu để duy trì bảo lưu chế độ “chủ nô độc tài phát xít của Hồ Chí Minh với Đảng CSVN lưu manh”.

Với Trung Quốc thì Đảng CSVN lưu manh thật ngu hèn để mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm. Đảng CSVN lưu manh đã để cho Lê Khả Phiêu thay Đảng CSVN lưu manh ký ngay hiệp ước biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 giao cho 1694 km vuông đất biên giới cho Trung Quốc và Hiệp ước Vịnh Bắc bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho Trung Quốc để đất nước VN mất dần diện tích đất và biển cho Trung Quốc một cách ngu hèn tột độ. Cả thế giới phải phẫn nộ và phỉ báng với thái độ, việc làm ngu xuẩn hèn hạ của Đảng CSVN lưu manh. Nước Mỹ phải treo cờ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để phỉ báng Đảng CSVN vừa lưu manh lại ngu hèn.

Còn về Nông Đức Mạnh con rơi của Hồ Chí Minh mang đặc gien Hồ lên làm tổng bí thư CS cầm quyền lãnh đạo cũng chẳng có điểm gì thông minh xuất chúng để đưa đất nước tiến lên được. Ngược lại Mạnh có chút ít văn hóa hơn Hồ là bố Mạnh nên có phần Mạnh còn lưu manh hơn Hồ, lừa đảo nhân loại siêu nghệ hơn bố của Mạnh. Đó là khi Mạnh đắc cử vào ghế tổng bí thư CSVN lần thứ hai Mạnh thay đổi ngay bộ máy Trung ương, Mạnh đưa những người có chút ít trong sạch lên thay những phần tử có vết nhơ bị dân phát hiện như Nguyễn Minh Triết thay Trần Đức Lương, Nguyễn Phú Trọng thay Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng thay Phan Văn Khải vv...

Mạnh làm việc này là để phô trương với nhân loại, rằng bộ máy lãnh đạo của Trung ương cộng sản Việt Nam đã thực sự là người trong sạch. Nhưng thực tế Mạnh đưa họ lên chỉ làm bù nhìn coi dưa vậy thôi, còn Mạnh lấy quyền lực Đảng cầm quyền. Mạnh khống chế hết thảy mọi người phải tuân thủ theo quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh sai khiến. Quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh vẫn là phương thức không phát triển dân trí “ngu dân để trị dân” cốt để duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này. Chẳng thế mà Mạnh lớn tiếng hô hào toàn Đảng toàn dân sống và làm việc theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của bố hắn.

Về tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư tưởng bệnh hoạn của một kẻ nghèo kiết xác cùng đinh muốn nổi loạn dành quyền lực đổi đời cho bản thân và có quyền lực bắt tất cả hết thảy mọi người dân sống nghèo khổ cùng cực như Hồ khi xưa cho bõ tức cảnh nghèo khổ của bản thân Hồ mà thôi, còn y thì không cần nghĩ đến đất nước ra sao với cảnh VN nghèo nàn lạc hậu nhất thê giới !!!

Bản chất đạo đức Hồ thật đồi bại dã man hơn ác thú. Hồ Chí Minh làm tình với Nông Thị Xuân có con với Nông Thị Xuân vậy rồi Hồ cũng còn dã tâm giết chết Nông Thị Xuân và Nông Thị Vàng là chị gái Nông Thị Xuân để bịt đầu mối. Còn đứa con của Hồ với Nông Thị Xuân là Nguyễn Tiến Trung, thì Hồ bỏ rơi bỏ vãi cho Vũ Kỳ người hầu cận của Hồ nuôi. Với dân cả nước Hồ lừa đảo lợi dụng để dựa nhờ vào sức mạnh cuả toàn dân mà dành quyền lực cho bản thân khi có quyền lực Hồ quay cổ lại cắn dân luôn để trả ơn dân giúp Hồ dành quyền lực với vua Bảo đại vậy đó.

Hồ còn đẻ ra cái chủ trương chính sách không phát triển dân trí mà Hồ “ngu dân để trị dân ” để giữ vững ngai vàng làm “chủ nô độc tài phát xít ”. Vậy tất cả nhân loại trên thế gian xem đạo đức của Hồ có được bằng cầm thú không ? Vậy mà Nông Đức Mạnh cậy quyền lực Đảng CSVN lưu manh hô hào và bắt ép dân chúng cả nước phải sống và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vậy đó ?!

Chúng ta hãy nhìn vào thực tế đất nước xã hội và cuộc sống của người dân VN trong suốt thời gian Mạnh làm tổng bí thư để đánh giá tài năng của Mạnh cầm quyền lãnh đạo ra sao nhé.

Suốt 2 nhiệm kỳ Mạnh làm tổng bí thư CSVN dân không hề thấy Mạnh có hướng đưa dân VN tự phát triển ngành nghề sản xuất công nghệ thông tin điện tử, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay... để tăng lợi nhuận có giá trị thặng dư cao cho đất nước để giảm thiểu nhập khẩu những mặt hàng cao cấp này. Đây là một sự phát triển nội lực lớn mạnh cho VN như các nước phát triển tiên tiến trên thế giới, thế mà Mạnh lại cam tâm cúi đầu đưa dân VN đi lao động xuất khẩu ở các nước phát triển và mở cửa cho các nước vào VN đầu tư để dân là người làm công cho các đầu tư nước ngoài chỉ cốt để giảm đói nghèo trước mắt cho dân và thông qua dân lao động trong nước và dân lao động xuất khẩu bầy lũ Đảng CSVN lưu manh được hưởng nhiều lợi lộc về kinh tế mà thôi, khác nào mạnh bất tài chỉ vì miếng cơm manh áo đơn giản hàng ngày.

Mạnh cam tâm cúi đầu cùng dân VN làm nô lệ cho các nước phát triển trên thế giới. Thế mà Mạnh cùng bầy lũ CSVN lưu manh vênh váo gọi là phát triển đất nước VN lớn mạnh và Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như thế này ư ?

Khi các nước vào đầu tư VN thì cả họ cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh gây phiền phức nhiễu loạn nhiều mặt đời sống của dân VN, chẳng hạn như vụ thôn My Điền, xã Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang mới đây chẳng hạn.

Đảng CSVN lưu manh cắm đất cầy cấy của nông dân My Điền tỉnh Bắc Giang bán cho Tàu ô xây sân gôn. Đảng CSVN lưu manh thí cho người nông dân một cái giá bèo bọt 50 nghìn đồng một m2 ruộng, rồi thả nổi khi nông dân không còn ruộng đất cầy cấy. Nông dân My Điền không thể đáp ứng lòng tham vô nhân đạo của Đảng CSVN lưu manh được. Vậy là Đảng CSVN lưu manh thôn My Điền huy động một lực lượng lớn quân đội và công an đến đàn áp ức hiếp hàng trăm người nông dân thôn My Điền để cướp đất ruộng của người dân làm 60 người nông dân My Điền bị thương trong trận đàn áp cướp đất ruộng đó của Đảng CSVN phải vào bệnh viện và sau đó tất cả bị bắt vào trại giam Kế tỉnh Bắc Giang.

Nông Đức Mạnh thường xách cặp đi các nước, Mạnh tận mắt chứng kiến thấy dân các nước họ sống phong lưu khá giả, trình độ dân trí cao vậy sao Mạnh không thấy tự thẹn với lương tâm rằng : Hồ Chí Minh, cả Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cũng đội lốt người làm lãnh đạo mà để dân VN từ mọi rợ nguyên thủy rồi tiến tới nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới vậy sao ?

Vậy mà Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh cẫn vô liêm sỉ cố thủ duy trì bảo lưu chủ trương chính sách chế độ làm “chủ nô độc tài phát xít” của Hồ của Đảng CSVN lưu manh như thế.

Mạnh vô liêm sỉ cầm quyền lãnh đạo để dân nghèo đất nước nghèo rồi Mạnh ngửa tay nhận sự viện trợ của các nước trên thế giới khác nào Mạnh nhân danh một tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh lại là kẻ ăn mày ăn xin ngửa tay nhận sự bố thí của các nước trên thế giới mà Mạnh không thấy nhục sao ? Mạnh không hề có một tý tính tự tôn dân tộc nào sao ?

Đất nước VN không có những mặt hàng công nghệ cao, điện tử, điện máy, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay ... để xuất khẩu tăng nhanh giá trị thặng dư cao cho đất nước mà chỉ xuất khẩu dạng cò con những mặt hàng thủ công như dệt may, mây tre đan, hạt thóc, hạt gạo, hạt điều , cà phê, con tôm, con cá ... không có giá trị thặng dư lớn thì bao giờ đất nước mới giàu có được. Ngược lại VN phải nhập khẩu rất nhiều máy móc tối tân cho công nghiệp y tế, cho công nghiệp, nông nghiệp, máy bay vv... với giá thành rất lớn thì thử hỏi số tiền thu được từ xuất khẩu của VN có đủ để nhập khẩu hay không ?

Nói chung suốt 78 năm có Đảng CSVN lưu manh là 78 năm dân VN bị Đảng CSVN lưu manh lừa đảo, lợi dụng, đàn áp ức hiếp bóc lột thậm tệ đến tận xương tủy. Với 78 năm tất cả dân VN một nắng hai sương phải nai lưng è cổ ra nuôi cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ăn không ngồi dồi vô tích sự lại còn làm hại lớn cho đất nước, cho dân rồi quay cổ lại cắn dân liên tục suốt 78 năm trời.

78 năm Đảng CSVN lưu manh đưa dân tộc Việt Nam hết quay về với mọi rợ nguyên thủy lại quay về cảnh đói nghèo lạc hậu trên thế giới mức sống của dân rất thấp, nhiều hộ gia đình chỉ vay ngân hàng có hai hoặc ba triệu đồng thôi mà gần trục năm trời quần quật vật lộn với cuộc sống không kiếm đủ 2 hoặc 3 triệu để trả nợ ngân hàng vậy đó. Nông thôn VN vẫn nhiều nơi tiêu điều nghèo nàn 78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng con người VN bất cứ ai lên làm tổng bí thư CS VN cũng đều hư hỏng xấu xa cả từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh... Nhiều người trong hệ thống Đảng CSVN lưu manh của nhà nứơc VN đều hư hỏng cả. Chỉ trái có mỗi bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư là tạm giữ vững được phẩm chất đạo đức thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại ám sát giết hại bác suýt chết. Còn bác Ngyễn Hữu Thọ, Cô Ba Định, bác Mười Hương, bác Trần Kiên, bác Trần Độ cũng có đạo đức phẩm chất như bác Nguyễn Văn Linh thì Đảng CSVN lưu manh ép các bác các cô phải từ chức để cho bầy lũ mang bản chất lưu manh giặc cỏ nắm quyền trị vì dân chúng.

78 năm Đảng CSVN làm hỏng đất nước VN, đất nước Việt Nam bị mất dần diện tích đất và biển cho Tàu chỉ vì sự ngu hèn cả bầy lũ Đảng CSVN lưuu manh vô nhân đạo vậy đó. Đảng CSVN lưu manh làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống ngoại xâm.

78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng xã hội Việt Nam. Vì Đảng CSVN luôn quay quắt tráo trở, o ép dân mọi mặt trong cuộc sống đời thường để dân đói nghèo khổ sở, để dân thấp về mặt dân trí sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật sinh ra nghiện hút, siđa vv.....

78 năm Đảng CSVN Việt Nam lưu manh xây dựng và phát triển đất nước chẳng ra làm sao cả, đơn cử như Hà Nội thủ đô của cả nước mà tổng thể kiến trúc xây dựng Hà Nội không ra một hàng lối gì, nhà cao tầng, nhà thấp tầng đan xen lộn xộn, những khu định cư mơí mở đường xá vẫn theo lối mòn hẹp tỉ ti. Giao thông tuy có mở rộng hơn nhưng mới chỉ mở một vài trục đường lẻ tẻ chứ không phải mở rộng hết cả hệ thống giao thông trong nước. Mức mở rộng đường giao thông không có tầm nhìn lớn sau này nên tuy đường mở rộng và mức sống của dân VN vẫn mới chỉ là xe máy làm phương tiện mà thôi cũng vẫn ùn tắc đường liên tục rồi. Hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng của nông thôn còn tồi tệ hơn nhiều. Cấp thoát nước ở nhiều đô thị và thành phố lớn rất dở cứ mưa là ngập lụt tràn lan nhiều nơi.

Đảng CSVN lưu manh lãnh đạo và chỉ đạo các cấp các nghành không ra làm sao cả rất lủng củng lộn xộn đến mức độ các cấp địa phương lợi dụng sự bất tài của trung ương càng gia tăng dàn áp ức hiếp dân để bóc lột cướp đoạt của dân nhiều hơn.

78 năm Đảng CSVN lưu manh không có khả năng, không có tài năng và cũng không đủ đức độ để hướng cho học sinh, sinh viên VN học với tư duy biết sáng tạo biết tổng hợp kiến thức, biết thông thạo nhiều ngoại ngữ, biết luân thường đạo lý như ngành giáo dục của các nước phát triển trên thế giới mà chỉ nhồi sọ cho học sinh, sinh viên là phải yêu Đảng CSVN lưu manh mà thôi.

Xét về mặt phẩm chất đạo đức, tài năng trí tuệ của cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ cùng đinh vô học lại lưu manh lừa đảo bất tài thất đức theo kiểu cha truyền con nối mà lên cầm quyền trị vì dân chúng. Cho nên vẫn ở trạng thái Đảng CSVN lưu manh ngày nay không có đủ phẩm chất đạo đức, không có tài năng trí tuệ để phát triển đất nước mà vẫn cứ duy trì dân tộc VN muôn thuở không thể tiến lên được. Nếu cứ như đường lối hiện nay thì đất nước VN không thể phát triển tốt đẹp phồn vinh thịnh vượng được mà còn có nguy cơ bị bon Tàu ô xâm chiếm đô hộ VN lần nữa.

Vì đất nước phồn vinh thịnh vượng, vì lẽ sống thiêng liêng của cả dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm, nên cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo hãy tự động sống làm người có chút ít liêm sỉ để tự xóa bỏ ngay cái Đảng CSVN lưu manh này đi để khỏi hại nước chẳng có ngày nhân dân sẽ đào mồ quốc mả chôn sống cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo. Và nhất định lịch sử VN sẽ phỉ báng Đảng CSVN lưu manh đến muôn thuở mai sau đó.

Phạm Khánh Toàn

Thursday, August 28, 2008

Tuyên Cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, về Nhân quyền cho Người sống, Linh quyền cho Người chết và Dân chủ cho Xã hội Việt Nam



BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: http://www.blogger.com/ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net/






THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 27.08.2008

Tuyên Cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, về Nhân quyền cho Người sống,
Linh quyền cho Người chết và Dân chủ cho Xã hội Việt Nam

PARIS, ngày 27.8.2008 (PTTPGQT) - Từ khi Chúc Thư của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ủy thác Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vào ngôi vị lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), các cơ quan truyền thông, báo đài trong thế giới cũng như chính giới quốc tế trông chờ lập trường mới của GHPGVNTN dưới sự lãnh đạo của người kế tục Đức cố Đệ tứ Tăng thống.

Trong dịp Chung thất Đức cố Tăng thống vừa qua, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế cho phát hành sách Kỷ yếu Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang dày trên 200 trang. Qua tập Kỷ yếu này, lập trường và đường lối đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thông qua các Thông điệp, Giáo chỉ, Bản tự thuật về 3 cuộc Pháp nạn của Phật giáo từ năm 1945 đến nay minh xác con đường của Phật giáo Việt Nam rõ hơn bao giờ. Nhất là các thủ bút thư viết tay của Ngài gửi cho Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, v.v... cho thấy mối ưu tư thâm thiết của Ngài đối với tiền đồ Phật giáo và quê hương Việt Nam.

Hôm nay, với « Tuyên cáo về Nhân quyền cho Người sống, Linh quyền cho Người chết và Dân chủ cho Xã hội Việt Nam », mà Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ nhân danh Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo ban hành, là tập đại thành của một đường lối và lập trường bất biến của GHPGVNTN suốt 33 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và nay dưới sự lãnh đạo của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Người chết hay người sống đều bình đẳng trong mối ưu tư và bảo vệ của GHPGVNTN. Còn thêm mối ưu tư mất nước mà hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vết thương tấy máu trong tâm hồn người Việt hôm nay. Vì vậy mà Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cất lời kêu gọi :

« Toàn dân trong và ngoài nước mau chóng kết hợp thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống. Với trách nhiệm công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, GHPGVNTN sẵn sàng tham gia hậu thuẫn mọi công trình bảo vệ chủ quyền dân tộc ». (...) « Kêu gọi đồng bào các giới và đồng bảo Phật tử đem hết tâm lực tranh thủ Quyền Người, tuyên dương Quyền Sống và thiết lập Quyền Dân, làm nền tảng kết liên dân tộc hầu chen vai thích cánh cùng các quốc gia trên địa cầu bảo vệ an ninh và hòa bình cho nhân loại ».

Hòa thượng cũng kêu gọi Đảng Cộng sản và CHXHCNVN thực hiện 4 điều, mà trọng thiết nhất vẫn là :

« Triệu tập Hội nghị toàn dân bao gồm các cộng đồng tôn giáo và các đảng phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên tấn thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng. Bởi vì ba triệu đảng viên Cộng sản và nửa triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc tế, nên phải cần tới sự tham gia toàn diện, đồng đẳng và bình đẳng, của 85 triệu dân cùng khối lượng ba triệu Người Việt hải ngoại. Vì không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của toàn dân, lịch sử đã chứng minh điều đó.

« Nếu không dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước mà cứ nay chạy theo nước này mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ tay sai cho ngoại nhân mà thôi ».

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn Tuyên Cáo sau đây :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Phật lịch 2552 Số 01/VTT/XLTV

TUYÊN CÁO
CỦA HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN
về Nhân quyền cho người sống, Linh quyền cho người chết
và Dân chủ cho xã hội

Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang vừa ra đi về cõi Phật, nhưng hành trạng một đời Ngài, những văn kiện Ngài để lại thông qua các Thư yêu sách gửi Nhà nước Cộng sản, các Giáo chỉ, Thông bạch, Thông điệp chỉ đạo hướng đi cùng lập trường cố hữu của Giáo hội dân lập và lịch sử, là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), vẫn còn văng vẳng bên tai như nhắc nhủ, như sách tấn chư Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước hãy đứng dậy và bước đi làm tỏa chiếu nền Văn minh Vô úy và Trí tuệ Bát Nhã, hoàn thành sứ mệnh Hộ Dân, Hộ Pháp và Hộ Quốc mà lịch sử hai nghìn năm Phật giáo từng ghi dấu vẻ vang qua các thời đại huy hoàng của dân tộc.

Sự nhớ tưởng và đền ơn tri ngộ Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang không gì hơn là thực thi nguyện ước và ý chí Ngài, như chúng ta đã đồng tâm phát nguyện tại lễ cung nghinh Kim quan nhập Bảo tháp ở Tu viện Nguyện Thiều ngày mùng 9 tháng 6 năm Mậu Tý : « Tiếp tục đi theo con đường Ngài đã vạch, mặc dù còn rất nhiều chông gai chờ đón phía trước. Chúng ta quyết tâm điều hành Phật sự Giáo hội theo phương hướng của Hội đồng Lưỡng Viện đã hoạch định cho đến khi GHPGVNTN được tự do hoạt động thực sự như thời kỳ trước năm 1975, để hoàn thành chí nguyện của Ngài », và mới đây lại nhất tâm đồng thanh tương ứng tại lễ Chung thất, rằng chúng ta : « Nguyện đem hết sức mình trong cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN để giữ gìn bảo vệ Giáo hội truyền thống đã do lịch đại tổ sư, chư Thánh tử đạo và toàn thể Phật tử xây dựng nên. Nguyện thực hiện lời Ngài căn dặn để đem lại nhân quyền cho người sống, linh quyền cho người chết, dân chủ cho xã hội, làm nền tảng cho sự phát triển con người và đất nước, cũng như hợp quần với mọi nhân sĩ, trí thức, đoàn thể, tổ chức nhằm hậu thuẫn những công trình bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ, lẽ phải và tự do, hạnh phúc và giác ngộ cho mọi người ».

Các cuộc cách mạng lớn trong thế giới phương Tây là bài học cho thấy cải cách chính trị là nền móng cho việc phát huy con người và phát triển xã hội. Cách đây trên hai thế kỷ, vào lúc ba quốc gia Anh, Hoa Kỳ và Pháp chìm đắm trong một xã hội bất bình đẳng và suy thoái giữa một nền kinh tế nghèo thiếu, lạc hậu, thì cuộc Cách mạng Vinh quang tại Anh quốc năm 1688, cuộc Cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 đặt nền tảng trên sự thay đổi toàn triệt nền chính trị phá sản. Chứ không là đổi mới kinh tế. Nhờ vậy, ba quốc gia này phát triển thành cường quốc tiên tiến trên địa cầu.

Vì vậy mà trước sau như một, GHPGVNTN thực hành bồ tát đạo nhằm đem lại nhân quyền cho người sống, linh quyền cho người chết, dân chủ cho xã hội, làm nền tảng cho sự phát triển con người và đất nước. Thiếu nhân quyền và dân chủ, bất bình đẳng xã hội sẽ là thảm nạn khiến toàn dân, các thành phần xã hội và tôn giáo bó tay không thể tham gia kiến quốc, nhân tài không thể tự tiến cử, thần trí dân tộc không thể phát huy.

Cho nên GHPGVNTN kêu gọi đồng bào các giới và đồng bảo Phật tử đem hết tâm lực tranh thủ Quyền Người, tuyên dương Quyền Sống và thiết lập Quyền Dân, làm nền tảng kết liên dân tộc hầu chen vai thích cánh cùng các quốc gia trên địa cầu bảo vệ an ninh và hòa bình cho nhân loại.

Ngày nay, tổ quốc đang lâm nguy vì nạn xâm lấn đất và biển của ngoại bang, mà hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa là nỗi đau nhức nhối. Trong khi ấy chính quyền tại vị nhu nhược nếu không nói đồng lõa. Nên GHPGVNTN kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước mau chóng kết hợp thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống. Với trách nhiệm công dân, và trong cương vị một tôn giáo từng đóng góp vào công trình lập quốc suốt hai nghìn năm qua, GHPGVNTN sẵn sàng tham gia hậu thuẫn mọi công trình bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Cuộc đổi mới kinh tế của nhà cầm quyền Cộng sản 22 năm qua chỉ đem lại sự giàu có phiến diện cho các cán bộ Cộng sản cao và trung cấp, và một thành phần thiểu số thị dân. Nhưng 80% dân số nông dân và thợ thuyền vẫn sống trong cảnh nghèo thiếu, bị áp bức và bóc lột. Bản án chế độ thực dân, còn gọi là Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam, do giới sĩ phu yêu nước sống lưu vong tại Paris, là các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc... mang đến trao cho Hội nghị Quốc tế Versailles ngày 18.6.1919, thì nay chỉ cần thay chế độ Pháp thuộc thành chế độ XHCNVN, nguyên trạng xã hội và sự bóc lột người dân trong bản án, cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi dù 89 năm đã trôi qua.

Đổi mới kinh tế suốt 22 năm ròng chỉ mang lại và phát huy một nền Văn hóa sợ hãi và bạo động, nhưng chẳng thành công san phẳng hố giàu nghèo. Trái lại, chênh lệch giàu nghèo ngày càng đào sâu thăm thẳm. Không chênh lệch giữa quốc dân, mà chênh lệch giữa giới quan lại và quần chúng, gây ra cảnh « nước giàu dân nghèo » mâu thuẫn với các khẩu hiệu Nhà nước đề cao.

Ấy cũng vì bài học của ba cuộc cách mạng chính trị tại Âu Mỹ cách nay hơn hai thế kỷ không được Đảng và Nhà nước cộng sản học tập, rút kinh nghiệm.

Do đó, GHPGVNTN kêu gọi Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCNVN:

1. Thay đổi chính sách thù nghịch tôn giáo đối với các tôn giáo tại Việt Nam, thể hiện bằng sự công nhận sinh hoạt độc lập và phi chính trị của các tôn giáo, phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và các tôn giáo chưa được thừa nhận. Có như vậy, các tôn giáo với khối luợng quần chúng đông đảo mới có thể tham gia băng bó vết thương xã hội, tái hồi truyền thống đạo nghĩa Việt Nam, làm đà tiến thủ quốc gia, mang lại ấm no, hạnh phúc và an lạc cho quốc dân ;

2. Áp dụng triệt để Công ước quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ năm 1982, và tiêu chuẩn hóa pháp luật Việt Nam theo các Công ước quốc tế về nhân quyền, tự do, dân chủ của LHQ ;

3. Loại bỏ điều 4 trên Hiến pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc và kiến quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình tôn giáo và chính trị;

4. Triệu tập Hội nghị toàn dân bao gồm các cộng đồng tôn giáo và các đảng phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên tấn thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng. Bởi vì ba triệu đảng viên Cộng sản và nửa triệu bộ đội hiện tại chưa đủ thế và lực bảo vệ tổ quốc trên mặt quốc phòng, chưa đủ uy và dũng mở rộng mặt trận chính trị và ngoại giao quốc tế, nên phải cần tới sự tham gia toàn diện, đồng đẳng và bình đẳng, của 85 triệu dân cùng khối lượng ba triệu Người Việt hải ngoại. Vì không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của toàn dân, lịch sử đã chứng minh điều đó.

Nếu không dựa vào sức mạnh toàn dân làm nòng cốt để giữ nước mà cứ nay chạy theo nước này mai chạy theo nước khác cầu viện để bảo vệ quyền bính riêng tư của một nhóm người, thì hậu quả sẽ là mất nước và biến mình thành công cụ tay sai cho ngoại nhân mà thôi.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, tôi ngỏ lời cám ơn nhân dân yêu chuộng tự do, dân chủ và công lý trên thế giới, các Quốc hội Hoa Kỳ, Quốc hội Châu Âu, các chính phủ Âu Mỹ, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các cơ quan truyền thông, báo đài, đã không ngừng lên tiếng bênh vực cho GHPGVNTN và nhân quyền, dân chủ tại Việt Nam.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, tôi ngỏ lời cám ơn các Cộng đồng Người Việt tại Úc châu, Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu đã mạnh dạn lên tiếng hậu thuẫn GHPGVNTN kể từ Giáo chỉ số 9 của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành, nhằm kiện toàn Giáo hội trong lập trường đạo lý và dân tộc bất biến, mà các phản ứng hốt hoảng, hung bạo của đối phương càng làm cho chính nghĩa của GHPGVNTN nổi bật. Sự hậu thuẫn của Cộng đồng Người Việt trên năm châu vô hình trung đang làm bước ngoặt mới trong sự kết liên dân tộc mà Giáo hội và nhân dân trong nước mong đợi.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, tôi ngỏ lời tán thán chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước đã khâm tuân Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống để gìn giữ, bảo toàn và phát huy Giáo hội mở ra tiền đồ Phật giáo đặc thù Việt Nam.

Trong tư thế bát phong xuy bất động (1), chư liệt vị là chứng nhân cho nền Văn minh Vô úy và Trí tuệ Bát nhã, làm rạng ngời chính nghĩa giác ngộ và khiến cho những kẻ phi nghĩa không còn chốn dung thân, tác hại.

Con đường Phật không mở trên mây xanh mà trải dài trên mặt đất. Xin chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử trong và ngoài nước hành hoạt đạo cứu khổ và giác ngộ như thế nào, để nghìn năm sau nhìn lại thế kỷ nhiễu nhương, tranh chấp, thù hận này, còn thấy có Phật giáo như chiếc phao cứu độ.

Nam Mô Thường Tinh Tấn Dũng Cảm Bồ Tát Ma Ha Tát

Thanh Minh Thiền Viện, Saigon ngày 27.8.2008

TM. Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo

(ấn ký)

Sa môn Thích Quảng Độ

(1) Bát phong xuy bất động, có nghĩa là tám gió không làm lay động tâm can. Kinh Phật lấy gió dụ cho những sự yêu, ghét của người đời. Tám ngọn gió này gồm có: lợi ích, suy diệt, chê bai, khen ngợi, tán tụng, dèm pha, khổ ách, vui sướng. Nếu tâm của người có tu hành đạt tới tâm của Chánh pháp, thì không còn bị những sự yêu, sự ghét mê hoặc làm cho tâm thần loạn động. Ở vào tâm cảnh ấy, chẳng có gió nào làm tâm can xao động. Như Kinh viết: « Thân thể và tay chân lặng yên không động đậy, tám gió thổi chẳng lay ». (Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chú thích).


Chuyện phiếm. Thiền sư Thích-Ngất-Vẹm, giáo chủ giáo phái "Tu Ôm"


Trương Minh Hòa

"NGU TỒI, tâm động, giả NGỒI TU.
NGÁO BỊP chân tu, NGHIỆP BÁO từ.
TIỀN THU, thuyết pháp, TU THIỀN dạy.
CỘNG NGHIỆP dẫy đầy, KỊP NGỌNG ư?
NHÂN LÀNH, chân lý, NHANH LẦN đến.
CẢ QUÁI ma kia, CÁI QUẢ bù.
BAO DUNG phòng kẻ BUNG DAO giết.
BỊP NGHIỆT tạo đà, BIỆT NGHIỆP như"

Người Việt Nam hai phía Quốc gia, Cộng Sản và ngay cả một số người ngoại quốc, nhất là thành phần: "phản chiến khuynh tả" trong cuộc chiến tranh chống lại đại họa "khủng bố" Cộng Sản toàn cầu, mà điểm nóng khủng bố là tại miền nam Việt Nam, không lạ gì nhân vật mang tên THÍCH NHẤT VẸM.

Một người có nhiều huyền thoại từ ngày mới đi tu đến nay, nghe đâu đang được một số người, không loại trừ Việt Cộng, hay chính trong cơ sở tu học LÀNG-MÔN, không nên nói lái là: "LỒN-MANG", làm mất hay giảm đi ý nghĩa "đứng-đái" (hay còn gọi là đứng đắn) của một tông phái tu "hiện đại", được nâng cấp từ thiền sư đến Phật Sống một cách "không người lái", đang được Việt Cộng dùng làm con bài "ba lá Phật Giáo" lần nữa sau khi chiếm được miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì cái "danh hiệu Phật Sống" là Bồ Tát tại thế như Đức Đa Lai Đa Ma, vị lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng, dành cho thiền sư Thích Nhất Vẹm, được coi là "quân hàm Phật Sống", sự tấn phong "quân hàm" nầy được nhìn thấy qua nhân vật lừng danh Việt Nam là Dũng Lò Vôi, một trong những đứa con nuôi có tầm vóc "chiến lược" của Sáu Dân (Võ Văn Kẹt), đứa con nuôi rất là "trung với bác, hiếu với đảng" nầy, chính người có công xây dựng một "cơ sở KINH DOANH PHẬT GIÁO" với ngôi chùa Đại Nam Quốc Tự "hoành tráng" chiếm một diện tích hơn 500 mẫu tây ở tỉnh Bình Dương, có tấm vóc quốc tế không xa, như các tụ điểm du hý, du lịch ở nước "kẻ thù số một" như Disney land vậy; sau nầy Đai Nam Quốc Tự cũng dám dây dựng thêm khách sạn 5 sao, sân đánh golf, nhà hàng bán đủ thứ thứ ăn "đại đồng" là không phân biệt chay-mặn (tức là lằn ranh CHAY-MẶN bị xóa bỏ) và nếu muốn hướng dẫn "Đạo Phật Ngày nay" đi theo con đường "hòa hợp hòa giải" giữa Phật và Ma quái, thì cũng nên thành lập thêm "đội ngũ gái gọi" để phục vụ khách thập phương, nhất là các du khách nước ngoài, muốn tới nước Việt tìm hiểu đạo, có cái nhìn "cởi mở" với lối thực hành, qua ngôi chùa Phật được "định hướng và gắn liền theo xã hội chủ nghĩa".

Dũng Lò Vôi là người thay mặt đảng để thực hiện "chính sách tấn phong quân hàm Phật" cho tên "Đại Ác Quỷ Vương" Hồ Chí Minh, nên cái chánh điện ngôi chùa lắm bạc nhiều tiền với tượng Phật, Hùng Vương và Hồ Chí Minh, nơi nầy luôn túc trực đội ngũ công an trong lớp áo "nâu sòng" canh coi "như mắt khóm tai bèo", sẵn sàng báo cáo với các cơ sở công an khi "phát hiện" ra những Phật tử thuần thành nào có ý đồ chống đảng và nhà nước, có âm mưu lật đổ chế độ mà ra tay triệt hạ để "bảo vệ đạo pháp theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; công an mặc áo sư, chính là "giai cấp tu hành ưu việt, đỉnh cao trí tệ tu học, tu hành, tu đạo lẫn đạo tu", đang dắt tay những Phật Tử thuần thành, tu theo Tam Tạng lúc chưa thỉnh được kinh, cùng "dắt tay nhau đi theo tấm bản chỉ đường của đảng".

Ngài Thiền sư, sau nầy thu tiền trường kỳ, thu tiền không ngừng nghỉ và trở thành nhà triệu phú Mỹ Kim đáng được lên chức TIỀN-SƯ, nghe đâu sinh năm 1926 tại làng Minh Hương, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Từ năm 1942 đi tu ở chùa Bảo Quốc (Huế). Sự nghiệp tu hành trong "quá trình đạo tu" của Thích Nhất Vẹm cũng có nhiều huyền thoại, bí mật, chưa ai "bật mí", không ai biết Ngài đi tu, thọ giáo với sư nào? Cũng giống như huyền thoại nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký, vị thầy bí mật đã truyền dạy cho 72 phép thần thông, để sau nầy làm loạn thiên đình, khiến Phật Bà Quan Âm phải dùng mẹo để nhốt dưới Ngũ Hành Sơn suốt mấy trăm năm. Ảnh hưởng của thiên sư, trước đây là đại đức Thích Nhất Vẹm khá lớn tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đặc biệt là trong giới Phật Tử trẻ thời ấy, say mê những quyển sách do Ngài viết ra như quyển "TÃ HỒNG CÀI HÁNG" nghe nói là viết trong rừng, mật khu ở Tây Ninh vào năm 1961, cũng là cảm hứng của các nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ" động não ra âm" và sau nầy nghe nói đến quyển "Đường Xưa Mây Trắng"....

Đại đức Thích Nhất Vẹm là phát ngôn viên hải ngoại của khối Phật Giáo Ấn Quang, do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, Ngài nầy có "quá trình tu hành chất lượng cao" lắm, tục danh là Phạm Văn Bồng, tự là Kiều Tuấn Cương, gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1957 tại Sơn Tịnh, Quảng Ngãi ..... Thích Nhất Vẹm được Khối Phật Giáo Ấn Quang gởi ra hải ngoại hoạt động khuynh tả và đồng thời cũng tránh vụ Ngài Nhất Vẹm, một sư trẻ, có dạy vài giờ ở viện đại học Vạn Hạnh, đã có mối quan hệ HỮU CƠ khi mà nhiều phen HỞ-CU với một tín nữ trẻ đẹp có cái tên Tây là "Fleurette" tức là "Đóa Hoa Nhỏ". Chắc cái "CƠ DUYÊN" mà hai người đã cùng "dắt tay nhau tìm động hoa vàng" để cùng nhau tìm vào "õi non bồng nước nhược" tại thế, trở thành nguồn "triết lý" để sau nầy Thích Nhất Vẹm lấy làm "cơ sở tu đạo, đạo tu" (đừng nói lái mà sai ý nghĩa đạo tu) mà sáng tạo lẫn tối tạo ra một thiền tông hiện đại, sau nầy ai cũng biết là THIỀN TIẾP HIỆN, một trong những tông phái tu học HIỆN ĐẠI, vì tu theo lối nầy, khi mà hai người khác phái cùng nhau ngồi thiền trong bóng tối là mau đạt "chất lượng" và "công quả", nên khi tu là phải "tắt hết đèn" thế là không HẠI ĐIỆN, rất phù hợp với cao trào bảo vệ môi sinh toàn cầu mà thế giới đang quan ngại cái "tình huống" trái đất nóng dần cho lượng khí thải nhà kính "quá tải".

Tại hải ngoại, với chính sách do các sư khối Ấn Quang thời đó chỉ đạo, nhằm liên kết chặc chẽ với Phong Trào Phản Chiến khuynh tả, gây ồn ào, công tác "khẩn trương thời thượng" là nhằm ủng hộ cho phái đoàn Việt Cộng ở hội đàm Paris từ năm 1968 đến khi đại tướng ngố Văn Tiến Dũng giựt mình tưởng như nằm mơ về cái gọi là "đại thắng mùa xuân 1975" mà bản nhạc mang tên "Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh" diễn tả đúng tâm trạng chiến thắng bất ngờ, chó ngáp phải ruồi qua câu: "tuổi lớn rồi mà như ngây thơ, ba mươi năm ta mới gặp nhau, vui sao nước mắt lại trào?", Ngài Nhất Vẹm có cùng chí hướng với nữ tà tử Jane Fonda (người có huy chương Hồ Chí Minh, có biệt danh là Hà Nội Jane), với mục tiêu hàng đầu "chống Mỹ cứu nước" và "đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào", rất hồ hởi nghe theo lời dạy Hồ Chủ Địt "tiến lên chiến sĩ đồng bào" ....

Ngài được coi là "trí thức Phật Giáo" nặng ký như ngày nay các thứ trí thức Phật Giáo thuộc "Tứ Quái Già Lam, Về nguồn, về hang PÁC PÓ" vậy, được những người đồng hành "yêu chuộng hòa bình một chiều, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" biết đến; năm 1967, quyển sách mang tựa đề là "Lotus in the sea of fire" (Hoa Sen trong biển lửa) nhằm xuyên tạc chính quyền miền Nam đàn áp tôn giáo, nhất là thời đệ nhất Cộng Hòa, chụp mũ tổng thống Ngô Đình Diệm và cả "Buddha child" Cẩu Cao Cầy sau vụ bạo loạn năm 1966; với cái chết do sự tự thiêu của huề thượng Thích Quảng Đức, cho Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc .... theo tổ chức ACRP (Asia Conference on Religion and peace) thì quyển nầy được dịch ra nhiều ngôn ngữ, chắc chắn là tài liệu "cực kỳ quí giá và chất lượng cao" của phong trào phản chiến và Cộng Sản sử dụng trong công tác tuyên truyền xuyên tạc, cô lập chính phủ miền Nam tự do, gây áp lực đến các nước có mang quân sang giúp Việt Nam chống lại làn sóng đỏ, chủ nghĩa vô thần Cộng Sản đang đe dọa sự an bình trong khu vực ... một điểm cần lưu ý là: nếu miền Nam không có tự do tôn giáo, thì làm gì các sư, sải, ni ... Phật Tử biểu tình thoải mái từ đệ nhất sang đệ nhị Cộng Hòa?

Những hoạt động của Thích Nhất Vẹm thật ồn ào, được coi là "núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ" hay là "mượn áo cà sa, thờ ma Cộng Sản" từ lâu nhưng vì cái bình phong đạo giáo làm mờ mắt một số người có tập quán "trọng Phật Kính Tăng" một cách máy móc nên Thích Nhất Vẹm mới có môi trường, đám đông ủng hộ, núp bóng để tiếp tục làm lợi cho bọn quỷ đỏ vô thần Việt Cộng, nổi bật là tháng 10 năm 1972, tại Hội Nghị Phật Giáo ở Tokyo (Nhật Bản), Thích Nhất Vẹm lợi dụng diễn đàn để đòi Mỹ rút quân, thôi giúp miền Nam chống Cộng hầu miền Bắc dễ thôn tín.

Sau ngày 30-4-1975, lửa cháy nhà lòi ra mặt chuột, Khối Phật Giáo Ấn Quang huy động hơn 500 Phật Tử để nghinh đón "những đoàn quân rừng rú" về thành phố "nối vòng tay lớn ... có lông lá và móng nhọn" tay cầm súng A.K, mã tấu và một số chức sắc các tôn giáo đã xuất đầu lộ diện là tay chân của quỷ, khỏi cần dùng kiếng chiếu yêu cũng lộ diện hẳn từ đầu đến chân, họ rất ư "hồ hởi phấn khởi" nhập bọn; nên từ năm 1981, những chức sắc nầy hợp cùng Mặt Trận Tổ Quốc lập ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ (Hà Nội). Thích Nhất Vẹm cũng thôi không làm phát ngôn viên hải ngoại của Phật Giáo, vì "nhiệm vụ đã hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng", nên khối Phật Giáo chân chính do hòa thượng Quảng Độ, Huyền Quang giao cho ông Võ Văn Ái làm phát ngôn viên, mãi đến nay. Thích Nhất Vẹm trở thành "tịnh khẩu" trước sự đàn áp tôn giáo dã man của đảng Cộng Sản trong nước với các đồng đạo và Phật Tử của mình. Ngài đã từ bỏ chức sắc đại đức, thượng tọa, xưng Thiền Sư, và dạy Thiền, thu phục đệ tử, phát triển Business cho đến ngày nay, cơ nghiệp có phần vững chắc, thu nhập cao, là nghề không vốn và có thể khỏi đóng thuế qua những số tiền cúng dường của các đệ tử Việt, Tây hậu hỷ:

"Nhất Vẹm thật thật, lúc hư hư.
Khi thì thượng tọa, lúc thiền sư.
Áo giấy cà sa đi với quỷ.
Xa rời chánh đạo, lẫn Chân Như"

Trong thời gian bị giam cầm, trù dập, hòa thượng Quảng Độ đã gởi tất cả 300 bài thơ cho đồng đạo "thân thương" là Thích Nhất Vẹm ở Pháp để hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh bảo vệ đạo pháp, thế mà Nhất Vẹm nỡ lòng nào ém nhẹm, sau nầy mới biết, đúng là "giao trứng cho ác". Sự im lặng "có ý nghĩa" của Nhất Vẹm thật có lợi cho đảng, vì nếu Nhất Vẹm nêu lên sự đàn áp tôn giáo tại Việt Nam, thì chắc chắn có nhiều người ngoại quốc, Phật Tử gốc Việt thức tỉnh ủng hộ, gây khó khăn cho đảng. Ngài tạm "lùi một bước để chuẩn bị ba bước tiến" trong tương lai, là điều có thể nhìn thấy sau nầy. Cũng giống như tất cả các THẦY, ai cũng muốn có nơi tu hành ổn định là CHÙA, nên mới có tên gọi "THẦY CHÙA" tức là thầy là có chùa để ở và tu, thờ ... ngạn ngữ có câu: "đi tu mà lựa ngôi chùa lớn cho đỡ tấm thân" ai đi tu mà lựa chùa Bà Đanh là buồn lắm, khó đạt tới giác ngộ lắm! Nên Làng-Môn ra đời. Vì muốn phát huy đạo pháp lẫn cơ sở tôn giáo cho lớn, có nhiều người tới lui "còn đời, còn đạo, còn tăng, ta phát triển cơ sở gấp mười lần qua", trong tinh thần THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI:

"Tiền thu như nước sông Đà.
Tiền chi như thể giọt cà phê phin"


Nên sư nào cũng thành lập Chùa ở hải ngoại là điều dễ hiểu, ở Úc Châu (tiểu bang N.S.W) có hòa thượng Thích Phước Huệ là vị chức sắc cao cấp, nhưng không nằm trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước do hòa thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo; Ngài Phước Huệ được hòa thượng thượng thủ Thích Tâm Châu ghi trong quyển Bạch Thư, phát hành từ chùa Phật Quang năm, Victoria, Australia 1994, trang 41 có đoạn ghi sau đây:

"Chùa Phước Huệ của Giáo Hội, nhưng sau Hòa Thượng Tắc Phước (Phước Huệ) ngầm sang tên riêng cá nhân mình. Theo bản tường trình của thầy Thích Quảng Ba, viện chủ Tu Viện Vạn Hạnh tại thủ đô Úc, đề ngày 5-6-1993, gửi về Hòa Thượng Huyền Quang tại Việt Nam như sau: đế nghiệp Thích Tắc Phước đã vững chắc, vì chùa Phước Huệ xây xong, giá 3 triệu, đã lén-vì cả Giáo Hội không ai biết gì cả-đổi xong tên chủ quyền chùa từ của Giáo Hội qua cá nhân Thích Tắc Phước và đệ tử ruột đứng tên".

Được biết chùa Phước Huệ là nơi xuất phát từ thiện nhộn nhịp ở Úc Châu, có đài SBS dành nhiều thời giờ để quảng bá khắp nước Úc với qũy cứu tế Phật Giáo VABAT, có thể nói là phái đoàn bác sĩ Mắt Cườm là do nơi nầy chủ xướng, nên người cầm đầu phái đoàn thường là các Thầy, chứ không phải là bác sĩ. Từ nhiều năm qua, phái đoàn mổ mắt cườm về nước thoải mái, hợp cùng các viên chức nhà nước đi làm công tác từ thiện, đi đứng tự do nhiều nơi để đem ánh sáng cho những người bất hạnh với công thức: "tiền do dân tỵ nạn đóng góp, bác sĩ thực hiện, dưới sự hướng dẫn và phối hợp của viên chức nhà nước". Hy vọng phái đoàn nầy nên ra tận Hà Nội, mổ mắt CƯỜM ĐỎ cho mấy chục tên cán bộ trung ương đảng, để chúng sáng mắt, trả tất cả quyền sống cho người dân Việt Nam, thì đồng bào Việt Nam rất mang ơn phái đoàn.

Làng Môn qui tụ một số Phật Tử Việt, nhưng đa số là người Tây Phương, tỏ ra giác ngộ với lối Tu THIỀN TIẾP HIỆP, được Nhất Vẹm "sáng tạo lẫn tối tạo", coi là "cuộc cách mạng Phật Giáo thời thượng" mà Làng Môn cũng giống như các Cult (giáo phái) ở Mỹ, Nhật ... với giáo chủ là thần thánh, có quyền ép môn đệ làm theo bất cứ những gì mà mình muốn. Thiền Tiếp Hiện theo lối tu của Cult Làng Môn không phải mới lạ gì trong nhân loại, nhưng Phật Thích Ca đã bỏ hết tất cả để tìm con đường giải thoát, tuy nhiên những người ở các thế hệ sau nầy dù có người đã "chọn con đường của đức Phật" mà tâm vẫn còn vướng nợ phàm trần, họ tìm ra con đường khác để "tu đạo", làm cho những vị tu hành chân chính chán ngán. Đó là những vị CHÂN TU, nhưng sau nầy lại CHÁN TU mà đi theo con đường "đạo tu" để thường xuyên "tu đạo".

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, ở đàng trong do chúa Nguyễn Phước Chu thống lãnh, có một vị sư ở Trung Hoa tên là Thích Đai Sán, mang một thuyền lớn sang, không phải để hoằng hóa đạo pháp, nhưng Ngài Đại Sán dâng cho chúa Nguyễn một tập "Đồ hình Tố Nữ" với những hình vẽ sống động như hình 36 kiểu, đây là đề tài được các hãng phim ở Holliwood "động não" làm ra những cuốn phim R, để hướng dẫn con người "tìm đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần sầu". Chúa Nguyễn rất tâm đắc, nên cúng dường cho Ngài 5 ngàn lạng vàng và kêu gọi dân đóng góp những sản phẩm địa phương để cho sư mang về Tàu; có thể nói Thích Đại Sán là người đi trước, mở đường cho thiền Tiếp Hiện đấy!.

Ở Úc Châu, vài năm trước đây, có vài ngôi chùa, dường như bị ảnh hưởng thiền Tiếp Hiện nên trong hội chợ Tết có tổ chức cuộc thi Hoa Hậu Áo Dài ngay trong khuôn viên chùa, để cho các vị chân tu nhìn mà cảm thấy "thanh tâm trường an lạc" hầu dễ tiến tới "bến giác". Như chuyện bên Nhật, có vị thiền sư nọ tu mấy mươi năm, ngồi bên khung cửa sổ với cành đào như năm nào, một hôm ông nhìn thấy "cành hoa đào nở, bỗng nghe lòng giác ngộ". Cũng ở Úc Châu, tiểu bang NSW mấy năm trước có một vị sư ngoài tứ tuần, hình như cũng có "điều nghiên" môn thiền Tiếp Hiện rất kỹ và đã đạt tới "giác ngộ" cao, nên hôm nọ ông giả dạng "người phàm" đón một nàng tiên áo trắng đang mời khách ở bên đường để mời về để "tu đạo" có trả tiền thù lao "bán trôn", nào ngờ nàng tiên áo trắng ấy chính là một nữ cảnh sát Úc giả dạng, thế là vị sư nọ đành ra hầu tòa, báo đăng; nghe đâu vị sư nầy cũng được các thiện nam tín nữ góp tiền xây cho một ngôi chùa, tiếp tục "tu đạo" cho mau "đắc quả"...

Thiền Tiếp Hiện của Làng Môn do thiền sư Thích Nhất Vẹm sáng tạo, cũng không ngoài mục đích cho tâm, thân "trường an lạc lẫn khoái lạc" để mau đắc quả đấy! Ngày nay thiền Tiếp Hiện trở thành một "tông phái thời mạt pháp thời thượng" được phổ biến rất là rộng rãi, lan như "dịch cúm gia cầm", nên giới xem cõi đời là cõi tạm cũng biết thế nào là "đường vào thiền môn có trăm lần vui có vạn lần sầu", thế là phải tìm cách thoát khỏi vòng "khổ ải". Theo quan niệm của đức Phật với tứ diệu đế thì ai cũng thầm nhuần "ĐỜI LÀ BỀ KHỔ" nhưng tông phái Tiếp Hiện của giáo chủ Thích Nhất Vẹm khai sáng lẫn khai tối, nhằm hướng dẫn và biến "ĐỜI LÀ BỂ SƯỚNG", mới là tài. Thế nên các sư gốc công an trong nước cũng đã tạo ra "cái bề sướng" ngay trong chùa để mau đạt đạo; ở hải ngoại cũng có nhiều vị cao tăng đã âm thầm gia nhập và thực hành thiền Tiếp Hiện, như hòa thượng Thích Giác Nhôm, biệt danh ẤT CÁI VỒN, là người từng thực hành theo Tiếp Hiện ở Mỹ và cũng bị sư đệ là Thích Giác Ngỡi "phát hiện" lúc đang cùng với một người khác phái "thực hành thiền tiếp hiện" trong tịnh thất riêng ở chùa; được biết Ất Cái Vồn, là người cùng tỉnh với Sáu Dân (Võ Văn Kẹt), nổi tiếng là người biết quí trọng Trời, Phật, nên cái gì có dính tới tờ giấy in câu "THE GOD WE TRUST" là ngài quí lắm; năm nọ, trong cuốn lịch phát hành, Ngài có đề hai câu thật "chất lượng" như sau:

"Thiện nam tín nữ nơi nơi.
TIỀN mà nhận được, thầy MEO tới liền".

Hòa Thượng Thích Giác Nhôm (hiện đang chờ về chầu Diêm Vương vì bệnh nặng, bác sĩ chê , hao tổn quá sức khi đi dự Lể VESAK ở Việt Nam mới đây) bôn ba để "thu tiền" trong ta bà thế giái đại đồng, Ngài bôn ba từ nhiều nơi trên đất Mỹ, sang tận Úc Châu để thành lập những cơ sở, thay mượn thiền môn làm thương mại. Nghe đâu Ngài đang phối hợp với cánh Phật Giáo Việt Nam THỨC NHỐNG Phước Huệ Công Đức Tùm Lum, Tà La ... với sư Minh Hiếu (từ Việt Nam sang tu, vào năm 1997, có lần đi chu du cùng với ca sĩ Minh Hiếu, là phu nhân trung tướng Vĩnh Lộc, có qua Úc Châu, mở đường sang thế giới Tây Phương Cực Lạc), huy động Phật Tử "cúng dường theo lối đóng hụi chết" mà không bao giờ hốt hụi, là hình thức "CÔNG ĐỨC HIỆN ĐẠI"; theo đó, Phật tử nào đi chùa, ghi tên và được mời đóng tiền hàng tháng để cho ngôi chùa "mãi mãi xinh tươi, đời đời bền vững".

Thiền Tiếp Hiện là tông phái dễ tu, dễ học, dễ "giác ngộ", là môn tu "ĐẠI CHÚNG" khi gặp phải người khác phái, lúc mà cái "coup de foudre" tác động mạnh là giác ngộ "con đường tình ta đi", thì đưa đến "ĐỤNG CHÁY", và CHÚNG SANH khi thành đạt cái quả trở thành "CHÚNG ĐẺ" là cái quả đạt tới đỉnh cao, do thiền ông cùng với thiền bà, cùng nhau "tu đạo" ra thiền con".

"Tu đạo, đạo tu, tông phái dòng.
Tiếp Hiện Cao Tu nhập đít mông.
Đá bèo Nhất Vẹm, tu tu đạo.
Mù mù đợi đợi thích chân không".

Với lối tu "nhập thiền Tiếp Hiện" nầy, nên Làng Môn thu hút nhiều môn đệ Tây Phương gia nhập, do họ có tinh thần thực tiển hơn người Á Châu, rất phù hợp với môn tu nầy. Tu có đôi có cặp, cùng nhau "ngồi thiền" cũng dễ đắc đạo lắm, nên Thiền sư Tiếp Hiện cũng phải biết "động viên" người tương đắc để ngồi thiền. Do đó người viết có bài thơ nầy nhằm "ca tụng công đức" của Ngài Nhất Vẹm, bài nầy chỉ dành riêng cho Làng Môn và môn thiền Tiếp Hiện mà thôi, thành thật xin lỗi những vị chân tu, có cái tâm đạo quyết lòng đi theo bổn sư Mâu Ni Thích Ca Mâu Ni, nên không dám "ĐÙA CHI" đạo pháp giới "ĐI CHÙA". (bài thơ nầy đã đăng trên tuần báo Thời Báo trước đây trong mục thơ Cà Chua)

Thiền sư bảo vợ ngồi thiền.
Cho tâm khoái lạc, an miền Bồng Lai.
Nhập Thiền Tiếp Hiện ngồi dai.
Đêm ba, ngày bảy, lai rai ngồi hoài.
Ngồi Thiền bất kể đêm ngày.
Cùng nhau tu học miệt mài đạo tu.
Thiền nầy tạm bỏ phiền ưu.
Cho tâm xuất-nhập chu du non Bồng.
Đã là thân phận má hồng.
Ngồi thiền cho nhuyễn, thì chồng mến yêu.

Thời đại văn minh, điện tử, phi thuyền không gian, bom nguyên tử sinh hoạt xã hội cũng biến đổi, tốt xấu lẫn lộn, sắc sắc, không không, nên tu cũng biến đổi theo thời gian cho phù hợp. Thời trước 1975 ở miền Nam, nghề bán Bar, gọi là Bia Ôm bị người đời chê trách, nhất là bán bar cho quân đội đồng Minh; ngay cả Việt Cộng, khi vào tiếp thu sau ngày 30-4-1975, cũng dành nhiều từ ngữ mạt sát "lối sống đồi trụy" là "tàn dư chế độ Mỹ Ngụy để lại". Sau hơn 30 năm đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc theo lời Bác dạy, nên con đường BÁC ĐI thành BI ĐÁT, cuối cùng, họ phải gắn thêm cái đầu tàu của ĐẾ QUỐC TƯ BẢN CỰC KỲ PHẢN ĐỘNG, để kéo cái đuôi "tàn dư của thây ma Marx Lenin", nhưng cứu đảng chậm sụp đổ theo quan thầy Nga Sô "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Ngày nay, xã hội Việt Nam phát triển kinh tế là nhờ cái đầu tàu kinh tế thị trường, kéo theo cái đuôi xã hội chủ nghĩa nặng nề là tập đoàn đảng ăn bám, ngồi mát ăn bát vàng, họ không còn "BÓC LỘT" như thời địa chủ, phong kiến, thực dân phản động nữa, nhưng đảng ra tay ĐẬP LỘT dân, mới nguy to. Đảng và nhà nước có nhiều cơ sở khách sạn, giải trí khắp nơi, họ rất chuộng khách Mỹ chiếu cố, nên ngày nay có câu "lạy Mỹ cứu đảng"; do đó mà tình trạng buôn bán phụ nữ, mại dâm lan tràn hơn cả bịnh dịch cúm gà, do vậy mà năm 2005, tổng thống Hoa Kỳ George.W.Bush "đăng ký" tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào danh sách các nước cần giúp đỡ chống bịnh Aids, được coi là nước Á Châu đầu tiên được cái "chế độ" nầy, qua mặt luôn Trung Cộng. Từ "sự cố thời thượng" ấy, trong nước đang phát triển nhiều ngành nghề nào có chữ ÔM gắn liền, như: bia ôm, cà phê ôm, tắm ôm, nhậu ôm, internet ôm .... ngay cả con cháu của đảng viên, cán bộ, thuộc cậu ấm thời đại cũng mướn gái về nhà Ôm trong lúc đang trao dồi kinh sử, hầu thi đỗ cao và du học nước ngoài. Theo một bài viết của thượng tọa Thích H. Tôn, ở Melbourne, trả lời thư mời của Nhất Vẹm về nước trai đàng giải oan vào tháng 3 năm 2007, đăng trên tờ Nam Úc Tuần Báo, thì mới biết thiền Tiếp Hiện quả "cao siêu" lắm! phù hợp với thời đại và xã hội Tây Phương, có tập quán "Nịnh đầm" hay Anh có lối "Lady First".

" L.... MANG tu học LÀNG MÔN như
CU TIẾP tung hoàng, phỉ KIẾP TU
TU ĐẬM dục tình, bà TÂM- Đ....
CÁI GIẢ sư Ông, CẢ-D.... lù.
TU MÔN Tiếp Hiện, TÔN MU chắc!
NHƯ SẮC, không là .... khéo NHẮC SƯ.
NIẾT NÀN hỏa ngục, sao NÀNG BIẾT?
GIÁC ĐẠO kiểu nầy, GIÁO ĐẠT ư?

Thiền tông là một trong những pháp môn của Phật Giáo, là phương pháp hướng dẫn người tu tập tìm về "bến giác" để sau nầy khi viên tịch, hy vọng được nhập "Niết Bàn". Thiền không phải là phép thần thông, là chìa khóa mở cửa "thượng giới" hay thiền sư là người cầm trong tay tấm bản đồ lên thiên thai đương nhiên không giúp người ta thoát khỏi cảnh "lão, bịnh, tử". Người học thiền, kể cả thiền sư cũng khó thoát khỏi cảnh "trở về với cát bụi". Thiền thường được người dạy thiền quan trọng hóa, thành huyền thoại. Cộng Sản lợi dụng Thiền để làm công tác tôn giáo vận, vì họ biết cái tâm lý của những người Việt tỵ nạn, nay đã thành "tư bản" ở các nước tiên tiến, hùng mạnh nhất hoàn vũ. Người ta no đủ về mặt vật chất, thì muốn sống lâu để hưởng, trẻ mãi không già, ít bịnh tật và lỡ sau nầy có giã từ gác trọ, cũng hy vọng được gần gũi tòa sen.

Từ nhiều năm qua, Việt Cộng gởi một số tu sĩ quốc doanh, lợi dụng tình đồng đạo của các sư ở hải ngoại mà mượn chùa, huy động Phật tử để thuyết pháp, dạy thiền, ru ngủ, từ thiện, giám điệp, cài người điển hình là Việt Cộng cử hòa thượng, kiêm thiền sư Thích Thanh Từ sang hạ cờ vàng ba sọc đỏ, kinh tài (thu tiền qui y, như ở Western australia, ai muốn qui y với thầy, phải nộp 300 Úc Kim), gây phân hóa, giải độc cho đảng ... Thanh Từ mang theo cả băng Video dạy Thiền, được một số Phật Tử sao chép làm phước, nên bang thiền được phổ biến rộng rãi. Theo một số người tin tưởng Thiền, họ chỉ cần bỏ ra một số thời gian, ngồi hít thở cho nhuyễn theo đúng phương pháp, đến khi khi làm cho Nắp Nhạo ở đỉnh đầu mỏng dần, cuối cùng nổ nghe cái "Bóc" là hồn về Niết Bàn, thành Phật, dễ dàng như đi siêu thị mua đồ, chết là di chuyển từ cõi thế sang thượng giới dễ như chuyện đổi vùng từ Post Code nầy sang Post code khác trong hệ thống Bưu điện. Như vậy thì những tên giết người, cướp của như Hồ Chí Minh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh ... khỏi cần tu, hàng ngày chỉ cần ngồi thiền do các sư quốc doanh hết lòng chỉ dạy, thì cũng thành chánh quả hết cả hay sao?

Hòa Thượng H. Tôn còn cho biết là sư "Đóa Hoa Nhỏ" đã chửi một bà lão trên 70 tuổi vì bà nầy quá kính tăng mà niệm Phật, do Làng Môn không chủ trương gọi Phật như truyền thống Phật Giáo ngàn năm nay, dù họ vẫn mặc áo cà sa, dùng bình phong của Phật để hành nghề "bán Phật". Họ không chấp tay niệm Phật chào nhau như thói quen, nhưng các tín đồ có tác phong "đạo hạnh" khác là ÔM NHAU lúc gặp nhau, đây là lối sáng tạo, rập khuôn theo kiểu Liên Sô thời Cộng Sản, khi các "đồng chí thân thương, bầu bạn năm châu" gặp nhau, họ không bắt tay như lối cư xử cực kỳ lạc hậu, lỗi thời của "bọn đế quốc phản động" mà ôm nhau cho chắc, thì lúc nghịch cũng đâm cho mạnh tay hơn. Hình ảnh các tu sĩ Làng Môn ôm nhau lúc chào hỏi, không khác gì cảnh chủ ĐỊT Hồ Chí Minh ôm hôn đồng chí Stalin hay Mao Chủ Chí khi hai bên gặp nhau để ký kết tình hữu nghị đời đời bền vững, môi hở răng lạnh;

"HAY ÔN tu tập, mãi HÔN AI?
ĐỂ TU đủ cặp, ĐỦ TÊ hoài.
CÁI TU Nhất Vẹm, nên C... TÁI ....
LÀ BỔN chân không L... BẢ bày!
RỒNG LỘN không không L... RỘNG đấy.
BẮT CỌP sắc sắc BÓP C... ngay.
TU THIỀN Tiếp Hiện TIÊN THÙ Phật.
TỰ TẠI tà tâm tại TẠI TỤ ... Mai."

Sau cuộc khủng bố 11 tháng 9 năm 2001, Hoa Kỳ lãnh đạo các nước đồng minh mở cuộc tấn công vào sào huyệt của tổ chức Al Qaeda, dưới sự che chở của tập đoàn Taliban ở Afghanistan. Được biết, Việt Cộng là một trong số nước hiếm hoi ủng hộ Taliban, chống đối Hoa Kỳ. Lúc đó Nhất Vẹm hành động nhịp nhàng, ăn khớp như thời chiến tranh Việt Nam: từ Làng Môn bay sang Hoa Kỳ, chọn thành phố New York, nơi vừa xảy ra cuộc khủng bố để "thuyết pháp" Thiền Sư cho đăng trên báo chí, dám chi ra số tiền lớn đến 45.000 Dollars trên tờ New York Times, viết nhiều kỳ, với nguyên trang A 5 và A 22, trong đó Ngài tấn công Mỹ một cách có chiến lược qua việc: liên đới lúc Mỹ dội bom ở tỉnh Bến Tre, dội bom trên đầu 300 ngàn căn nhà, mà bên dưới có 7 du kích. Trên trang web của Ngài Thích Nhất Vẹm có bài phỏng vấn của Anne A Simpkinson, có tựa đề là: "what I would say to Osama Bin Laden?", được sư ông trả lời như sau: "When we learned of the bombing of the Ben Tre village in Vietnam. Where 300.000 homes were destroy, and the pilots told Journalists that they had destroyed the village in order ta save it. I was shoked, and (racked) with anger and grief".

(Người viết bài nầy tình cờ gặp một nhà báo thâm niên người Anh chánh hiệu, là ông Norman, hơn 40 năm là ký giả, phó chủ bút tờ The Western Australia, có số đọc giả hàng ngày lên đến 1 triệu; ông là người có đọc qua nhiều tác phẩm bằng tiếng Anh của tác giả "Tã Hồng Cài Háng" về thiền, sau khi đưa bản văn nầy, trích từ tờ Dân Văn, số 113, Quốc Dân Đảng Âu Châu, thì ông giựt mình, khi so sánh với lối hành văn trong các quyển sách trước và đoạn văn nêu trên, ông cho biết là: LỐI VIẾT NẦY SAI VÀ KHÔNG ĐÚNG THEO LỐI HÀNH VĂN CỦA NGƯỜI ANH. Được biết thiền sư nầy là "trí thức Phật Giáo" đấy, từng học đại học Mỹ, từ năm 1967 đến nay, viết nhiều sách bằng tiếng Anh, rất là đúng điệu, nên không ai thắc mắc. Năm 2001, với đoạn văn ngắn nêu trên, hình như đây là cái "chân như của Ngài" như cây kim để trong bọc lâu ngày bị lòi ra. Nên có nghi ngờ là những quyển sách từ trước đến nay của Ngài thiền sư LÀNG MÔN do ai đó sửa chữa, hay viết dùm gì đó ... cũng như quyển "Đóa Hồng Gai" cũng do ai đó viết dùm thôi")

Ai cũng biết tập đoàn Taliban là thủ phạm phá hủy tượng Phật ngàn năm, thế mà Nhất Vẹm lại ủng hộ bọn nầy. Vì bị dư luận phản đối nên Ngài đành chạy sang Cali, mở cuộc hợp ngày 14-10-2001, cũng luận điệu nầy. Hành vi của Nhất Vẹm bị tuyệt đại đa số dân phản tỵ nạn phản ứng, nhưng một số người Mỹ lại bị Ngài cho uống thuốc mê, nên trúc căm giận trong vụ khủng bố trên đầu người Việt, vì họ lầm tưởng Nhất Vẹm cũng là người Việt tỵ nạn; áp dụng câu "con sâu làm sầu nồi canh" nhằm đánh tan những thế lực chống Cộng hải ngoại một cách êm thấm, mượn tay người ngoại quốc để triệt hạ, như Ngài đã từng dùng phong trào phản chiến khuynh tả để tấn kích chính phủ miền Nam trước 1975. Ý đồ của Nhất Vẹm quá lớn, xuýt làm tan hết uy tín, cảm tình của dân Mỹ là kẻ "thừa nước đụt thả câu", luôn tìm đủ mọi cách để đâm sau lưng những nạn nhân Cộng Sản và cũng là nạn nhân của hắn, sống tha hương, thế mà vẫn bị theo đuổi để làm hại mãi; Thích Nhất Vẹm thù dai như Việt Cộng vậy. Nhất Vẹm đi tới đâu là làm lợi cho Việt Cộng đến đó, ngay cả xuất hiện trên băng nhạc Paris By Night 40 do trung tâm THÚI NGHE với Mc Nguyễn Nọc Nạn (nhà văn Ngã Ba Ông Tạ) và đám chủ nhân "văn nghệ quốc gia, thờ ma Cộng Sản" thực hiện, hình ảnh Nhất Vẹm giống cái chuông kiểu Nhật Bản, mở đầu cho những bản kinh cầu ru ngủ thân Cộng, sau đó là cảnh bôi nhọ quân lực VNCH trong pha dội bom, rồi bà mẹ chiến sĩ, bông lúa đỏ ... một thời gây chấn động dư luận.

Do đó sau thời gian "khổ nhục kế" với lý do đảng không cho về nước, năm 2005, Nhất Vẹm cùng với hơn 200 tăng ni Làng Môn, đa số là Tây về nước nhằm giải độc cho đảng qua những cuộc đàn áp tôn giáo dã man, chuẩn bị du luận quốc tế để đảng gia nhập WTO ... và tháng 3 năm 2007, được đảng bố trí để làm trai đàng, cầu siêu rần rội, nhằm đánh bóng đảng, cổ động chiêu bài "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Cho nên người ta không lạ gì thiền sư Nhất Vẹm, là cơ sở tôn giáo hải ngoại, có tầm vóc, ảnh hưởng một số người Tây Phương, nên người ta có thể cho là:

"Đảng cần, Nhất Vẹm có.
Đảng khó, có Nhất Vẹm".

Cũng giống như Hồ Chí Minh, dù đã từng là tay "dân chơi đại đồng" thưởng thức gái Pháp, Nga, Tàu,Việt, thiểu số ... mà vẫn được nhiều cán ngố tin là "bác vẫn còn Trinh", thế mới đúng như Nguyễn Du nói về nàng Kiều: "chữ trinh còn ở chỗ nầy". Đảng Cộng Sản tuyên truyền là: "một đời bác lo cho dân, cho nước, không nghĩ đến gia đình". Nhưng nếu Bác làm hôn thú như người dân bình thường, thì phải tốn rất nhiều "thủ tục hành chánh" để hoàn thành và văn phòng của Bác cũng không đủ chỗ để treo các "giấy hôn thú" (Marriage Certifcate). Thiền sư, tức là sư ông Thích Nhất Vẹm cũng thế, Ngài hết lòng lo cho tu đạo, lẫn đạo tu với sư bà "Đóa Hoa Nhỏ" nên cũng không có thời giờ để đi đến tòa án làm giấy hôn thú.

Bây giờ thì có một chuyện nữa là tác giả của hồi ký "ĐÓA HỒNG GAI" đang là một "chuyện giả nhưng viết y như thật", được các cơ sở đảng chống Cộng Dỏm Vịt Tiềm quảng bá, ra mắt sách nhiều nơi, sang tận Úc Châu ... tác giả nghe đâu có ăn học, đậu bằng "tú tài hưa", thật là "chi lọa rứa, chu choa nó ơi!", nhưng giọng văn là Bắc, mới LỌA; tác giả được cả trung tâm THÚI NGHE mời "phỏng giái thu hình" và nghe qua thì tội nghiệp cho "nhà văn", kiêm chiến sĩ phục quốc trong mặt trợn Hoàng Cơ Manh, hoạt động ngay tại Việt Nam trước khi xuất ngoại, cũng là nhân viên cao cấp trong kế hoạch Phượng Hoàng, tức là "Điệp viên KHÔNG, KHÔNG CÓ" là người hết lòng lo cho đất nước mà: "không có cơ hội lập gia đình".

Chắc là nhà văn nầy dù có học cao, nhưng chưa theo kịp đà văn minh nhân loại, ngày nay, người ta lên cung trăng lâu rồi (1963) và năm 2005, Trung Cộng mới bay vài vòng quỹ đạo, chưa gặp Hằng Nga, thua Đường Minh Hoàng thời nhà Đường ... Mỹ lên tới Hỏa Tinh, nên cái chuyện "vá, ghép, thay" cơ phận cơ thể là chuyện nhỏ; nếu tác giả "đóa hoa hồng gai" muốn tìm tu đạo theo "thiền Tiếp Hiện" thì trước tiên là đi tìm các bác sĩ giải phẫu thẫm mỹ, họ sẽ tân trang mặt mày, bom vú, độn mông, hút mỡ bụng, chẻ cằm .... và bên trong là "hiện đại CỬA MÌNH", nếu cần cũng "vá màng trinh như con gái "mười tém", thì các ông lé cả mắt, dám bỏ vợ lớn để cưới lắm chớ bộ (chuyện gái đẻ 5 con mà vẫn còn màng trinh, không cò là chuyện LỌA nữa). Đóa Hồng Gai nầy không phải là hồng có gai, mà là THÀI-LÀI được cắm bãi CỨT CHÓ là thứ Vịt Tiềm, nên sau thời gian "nở gai" như kế "thiết trụ khai hoa" trong tam thập lục kế, thì THÀI-LÀI cũng trổ mã, như là thứ cây tạp nhạp trong cái: "Một Vườn Hoa có nhiều hương sắc" của tác giả Nông Quốc Chấn (có thời là bộ trưởng Văn Hóa trong nước).

Đảng Cộng Sản có sách lược dùng tôn giáo để giữ đảng, tuyên truyền vì ngày nay không ai nghe đảng cướp Việt Cộng nói, nên họ cần những vị lãnh đạo tinh thần để nói dùm đảng, tiếp tục tuyên truyền láo khoét. Do đó vai trò của các tu sĩ quốc doanh, nhất là các sư, linh mục thân Cộng hải ngoại là công cụ đắc lực, có khả năng đắc dụng lắm. Vì thế mà Làng Môn và Thích Nhất Vẹm là mũi nhọn xung kích trong mặt trận tôn giáo, kinh tài, ngoại vận. Từ trước, ở trong nước đảng từng "phong quân hàm Phật Sống" cho Thích Thanh Từ. Ngày nay nghe đâu Thích Nhất Vẹm cũng trở thành "Phật sống" như đức Đai Lai Đa Ma Tây Tạng. Đây là vấn đề nguy hiểm, khi kẻ phá đạo được thành Phật qua thủ đoạn chứ không phải do tu hành, gian khổ, công phu, làm hoen ố đạo Pháp, ảnh hưởng không nhỏ cho uy tín Đức Phật.

Cho nên sự kiện trùng hợp về việc một nhà tỷ phú Ấn Độ đã "tâm đắc" trước quyển sách của thiền sư Nhất Vẹm, nghe đâu mới viết cách đây không lâu, tựa là "Đường Xưa Mây Tắng", theo đài phát thanh ẾCH BỊ ẾCH, do chính trưởng đài, dành khá nhiều phút để ca vấn đề nầy, đại ý đây là tin "cực kỳ hồ hởi phấn khởi" có tác dụng làm "rẻ rang rân Riệt" lắm! Vì một thiền sư Việt Nam mà được như vậy, quả là hiếm hoi, xứng đáng là "Phật Sống" lắm, đây là hợp đồng kỳ lạ, khi vị tỷ phú mang phim qua Holliwood đóng, các tài tử qua Làng Môn học một khóa thiền "Tiếp Hiện" để nhập vai cho linh hoạt. Thích Nhất Vẹm không lấy thù lao bản quyền cả bạc triệu. Tin nầy thật hấp dẫn, không biết cuốn phim đi tới đâu (tin nầy diễn ra trong thời gian Ngài chuẩn bị những đợt về Việt Nam).

Theo lịch sử, thì cuộc đời của Đức Phật hơn 2700 năm, tại Ấn Độ, Trung Hoa và các nước theo Phật Giáo như Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Nam Hàn, Nhật con số tín đồ hàng tỷ, có biết bao vị cao tăng, học giả Phật Giáo từ hàng ngàn năm, chả lẽ không ai viết về cuộc đời của đức Phật hay bằng Thích Nhất Vẹm? Nhất là vị tỷ phú Ấn Độ nầy chỉ đọc qua bản dịch từ tiếng Việt mà đã "giác ngộ" đến thế? Tuy nhiên cái quyển sách mang tựa đề "đường xưa mây tắng" của Nhất Vẹm ít thấy xuất hiện trong "các tàng kinh các" tại các tự viện hải ngoại, cũng không ai biết, chỉ trừ khi nghe vài cơ quan truyền thông như đài phát thanh quảng bá.

Qua những sự kiện nêu trên, thiền sư Nhất Vẹm đã làm gì cho đạo pháp, dân tộc? Nhưng dù sao thì Ngài là người khai "tiên phong" lập ra môn phái Thiền Tiếp Hiện, không niệm Phật mà vẫn dùng bình phong của Phật để phát huy môn phái, quả xứng đáng là GIÁO CHỦ GIÁO PHÁI TU ÔM; cũng như Việt Cộng đàn áp nhân dân, nhưng nhiều thứ được gắng liền với nhân dân như: quân đội nhân dân (không phục vụ quyền lợi nhân dân, chỉ làm công cụ ngoại bang và bảo vệ đảng cướp Cộng Sản), Công An Nhân Dân (công cụ đàn áp nhân dân), Ủy Ban Nhân Dân (cơ quan áp bức nhân dân) .... Do đó, những người đã biết mình lầm "kính tăng" mà tin tưởng Nhất Vẹm thì đã sáng mắt sau năm 1975, còn những ai chưa qua khỏi giấc ngủ Tam Tạng, tiếp tục quỳ lạy ma quái giả thành Phật thì nên tỉnh giấc càng sớm càng tốt, bằng không là có ngày bị ma quái xơi tái, hay lạc lối tìm về chánh đạo.

Trương Minh Hòa


Vạch mặt DÂM TĂNG là xây dựng hay đánh phá Phật Giáo?


Tuấn Phan

Nhân ý kiến của ông Sac Le về chuyện tình tội lỗi của ông sư Phước Huệ ở Úc và bà Dược sĩ có chồng ở Mỹ, tôi bèn nghĩ ra một số vấn đề sau đây:

1. Không ai đại diện cho tôn giáo.

Ông Sac Le suy diễn 6 mẫu tự ddpghh là “đại diện phật giáo hòa hảo” cũng còn êm dịu hơn một bà nọ trên net giải thích đó là “đánh đấm phật giáo hòa hảo“ (!). Đây là địa chỉ email của Diễn đàn Phật Giáo Hòa Hảo – một newsletter do tôi chủ trương suốt 8 năm (1998-2006). Xin ông Sac Le xem lại cuối bài viết để thấy cho rõ Tuấn Phan (một tín đồ PGHH), tự hậu đừng viết bậy nghe ông! Thêm nữa, theo tôi gọi ai đó là “đại diện” tôn giáo là sai nếu đồng ý rằng một tôn giáo cần hội đủ 3 yếu tố căn bản: Giáo Chủ (người sáng lập ra tôn giáo, Giáo Lý (kể luôn Giáo điều, Giới Luật), Tập thể tín đồ (đoàn ngũ hóa thành Giáo Hội hay một tổ chức tương đương).

Một tín đồ dù có phẩm trật cao cấp như Giáo Hòang, hay Tăng thống chỉ đại diện cho Giáo Hội (tức tập thể tín đồ được đoàn ngũ hóa) chứ không bao giờ đại diện cho Tôn Giáo (Công Giáo hay Phật Giáo), trừ phi có sự ủy nhiệm của ... vị Giáo Chủ! Sở dĩ chúng ta thấy trong các sinh hoạt cộng đồng có ông Linh Mục A, Thượng Tọa B, Hiền Tài C. Muc Sư D … đại diện Công Giáo, Phật Giáo Cao Đài, Tin Lành … là do chúng ta gọi tắt, chứ thực chất họ chỉ đại diện cho các tổ chức tín đồ có danh xưng khác nhau tùy thuộc mỗi tôn giáo.

2. Thế nào là đánh phá tôn giáo?
T
ừ quan điểm trên, tôi cho rằng một người hoặc nhóm người mang tội đánh phá một tôn giáo khi nào họ đụng chạm đến Giáo Chủ, Giáo Lý của tôn giáo đó. Thí dụ:

- Báo chí Đan Mạch vẽ hí họa châm biếm Giáo chủ Mohamed của Hồi Giáo.
- Công ty Mỹ chế tạo quần lót in hình Đức Phật Thích Ca.
- Tiến sĩ Lê Hiếu Liêm tức Lý Khôi Việt (vừa chết) đã bài bác nặng nề các tín điều Công Giáo ở trang 149 trong quyển Bồ Tát Hùynh Phú Sổ và Phật Giáo Thời Đại, và xúc phạm Đức Hùynh Giáo Chủ ở trang 10. Nhưng lạ thay quyển này lại được một số tín đồ PGHH tai to mặt lớn ở Nam California “phát tâm ấn tống” năm 2001!

Người đời thường nói “Nhân hư đạo bất hư”; các chức sắc tôn giáo dù cao cấp như Giáo Hoàng, Tăng Thống … cũng vẫn là người trần mắt thịt, không sao tránh khỏi lỗi lầm thường tình, thậm chí có người còn phạm những tội ác tày trời nhưng khéo che đậy. Do vậy khi báo chí Mỹ tố giác những scandal tình dục của các Linh Mục khiến Giáo Hội phải bồi thường hàng trăm triệu đô la cho nạn nhân nhưng họ không hề bị mang tiếng là đánh phá Công Giáo.

Khi giáo dân Nguyễn An Quý (Seattle), giáo dân Nguyễn Xuân Tùng (Diễn đàn Kitô Hữu , California ), LM Nguyễn Hữu Lễ ( New Zealand ) v.v… phê bình, lên án HY Phạm Minh Mẫn về vụ Cờ Vàng vừa qua chẳng lẽ họ bị tội đánh phá chính đạo Công Giáo của họ hay sao? Những kẻ không xứng đáng mang họ Thích như Nhất Hạnh, Giác Nhiên, Pháp Châu, Minh Tuyên và nhất là HT Phước Huệ ở Úc mới đây bị phanh phui tội lỗi gian dâm với một tín nữ trên Tuần báo Saigon Nhỏ nhưng bà Đào Nương đâu có bị mang tiếng là đánh phá Phật Giáo?

Bằng những chứng cứ không chối cãi để vạch mặt chỉ tên những kẻ tu hành giả dối, lừa tình, gạt tiền tín đồ là góp phần bảo vệ tôn giáo, chứ không phải “đánh phá tôn giáo” như ông Sac Le và một số người cố tình xuyên tạc. Kẻ “đánh phá tôn giáo” chính là đám “giặc thầy chùa” hay “quỷ nhà thờ” mà quý vị lại đi đổ tội cho người khác. Đúng là không lên án thằng đốt nhà mà than phiền cứu hỏa hú còi in ỏi trong đêm khuya!

Bà Đào Nương đã giúp Giáo Hội Phật Giáo thanh lọc hàng ngũ một dâm tăng Phước Huệ, - là một thứ sâu mọt đục ruỗng, phá hoại ngôi nhà Phật Giáo. Đồng thời bà Đào Nương cũng cảnh báo trước dư luận về chân tướng của một vị lãnh đạo tinh thần kiêm luôn lãnh đạo vật chất tín đồ bằng hành vi phạm giới tà dâm kéo dài tới 15 năm. Nếu bà dược sĩ lăng loàn (mà bà Đào Nương gọi là Phật tử thuần thành?!) không vì phẫn uất sự bội bạc của tình lang sư ông thì mọi người cứ mãi kính trọng một tên sư hổ mang dội lớp tu hành!

3. Tại sao công bố chuyện tình tội lỗi của ông sư và tín nữ?

Chuyện tình tội lỗi của HT Phước Huệ ở Úc và một nữ dược sĩ có chồng ở Mỹ đã công khai hóa trên hệ thống Tuần báo Saigon Nhỏ, phát hành rộng rãi ở Mỹ như là một tấm gương XẤU. Đây là mối quan hệ bất chánh, phi luân thường đạo đức không thể chấp nhận ngoài đời huống chi trong chốn thiền môn nên cần được nêu ra để mọi người không phân biệt tôn giáo biết mà tránh đi vào con đường tội lỗi nầy. Phật Giáo và PGHH là hai tôn giáo nhưng cùng một gốc nên tín đồ PGHH vẫn có mối ràng buộc tự nhiên với với chùa chiền, tăng ni. Do đó, Đức Huỳnh Giáo Chủ không quên dặn dò:

Đối đãi các tăng sư. – Tất cả bổn đạo nên cung kính các tăng sư tu hành chân chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều gì chánh lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân chính của Đạo Phật. Nếu các ông ấy vẫn tiếp tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.” (Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, trang 169, - Những điều được tránh hẳn hoặc được châm chế hoặc nên làm).

Tín đồ PGHH may mắn được Đức Hùynh Giáo Chủ truyền dạy tu hành trực tiếp giáo lý học Phật Tu Nhân, không qua trung gian giới tăng ni. Nhờ thế, tín đồ PGHH không mất nhiều tiền bạc, công sức xây chùa, đắp tượng, đúc chuông và cúng dường giới tăng ni mà ở thời mạt pháp, các vị chân tu thì hiếm, còn kẻ dối tu thì lềnh khênh đúng theo nhận xét của Đức Hùynh Giáo Chủ:

Thầy chùa như thể cây sơn,
Ngoài da coi chắc, trong thời mối ăn.
Buồn thay cho lũ ác tăng,
Làm điều dối thế cho hư đạo mầu.
Di Đà Phật Tổ thêm rầu,
Giận trong tăng chúng sao lừa dối dân.
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Tu như lối cũ mau gần Diêm Vương.

(Sđd, trang 31)

Những ai cho rằng nêu lên những việc xấu xa của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo là đánh phá tôn giáo nên bình tâm suy nghĩ, nếu các nhà tu hành nầy làm đúng giáo lý, giới luật của tôn giáo đó thì lấy đâu mà “đánh” họ? Chúa, Phật ngăn cấm giáo sĩ, tăng sĩ quan hệ tình dục bất chánh với con chiên, Phật tử nhưng họ làm ngược lại lời dạy của các Ngài mà ai cũng làm thinh có phải là đồng lõa với họ phá hoại nhà thờ, nhà chùa không?

4. Cố tật chụp nón.

Nhiều người Việt ở hải ngoại có cái cố tật là, về chính trị hễ ai đụng đến phe mình (tự nhận là Quốc Gia) thì chụp ngay người đó cái nón … Cộng Sản. Về tôn giáo, hễ ai đụng đến Quý Thầy, Quý Cha của mình thì bị họ chụp bừa cái nón … đánh phá Phật Giáo, Công Giáo, bất kể tình lý ra sao! Ngưỡng mong các vị thức giả khi gặp phải vấn đề chính trị, tôn giáo mà mình không ưng ý xin quý vị hãy bình tĩnh đừng vội vàng lên án nầy nọ cho người khác một cách vô cớ và vô lý.

Nếu thức giả là tín đồ PGHH thì đề nghị nhớ kỹ lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ: Điều thứ 7. Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.” (Lời Khuyên Bổn Đạo, hay gọi là Tám Điều Răn Cấm, Sđd, trang 176). Và:

Dầu việc người hay việc của ta,
Nên phán đoán cho tường cho tận.
(Sđd, trang 107)

Không rõ tôi có được minh lý soi sáng để phán đóan tường tận khi trình bày các vấn đề nêu trên như lời giáo huấn của Đức Hùynh Giáo Chủ không, xin nhờ ý kiến quý độc giả.

Tuấn Phan

Wednesday, August 27, 2008

Thông bạch của HT Quảng Độ gởi Tân văn phòng VHĐ 2

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 26.9.2007

Thi hành Giáo chí số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch thành lập cơ cấu mới của Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan gồm những thành viên trung kiên theo đường lối dân tộc và Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất


PARIS, ngày 26.9.2007 (PTTPGQT) - Từ Saigon, Văn phòng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang nhằm chấn chỉnh toàn bộ cơ cấu Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan.

Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống do Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 25.9. Đây là kết thúc sáng suốt chấm dứt tình trạng gây rối nội bộ Phật giáo nhằm tiếp tay với nhà cầm quyền Cộng sản trong âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN. Một tình trạng kéo dài gây hoang mang dư luận quần chúng Phật tử trong và ngoài nước suốt nhiều năm qua.

Thông bạch cho biết ba năm qua nhà cầm quyền Cộng sản đã thực hiện ba phương án nhằm tiêu diệt GHPGVNTN:

"một là chấp nhận danh xưng GHPGVNTN nhưng loại bỏ cá nhân Đức Đệ tứ Tăng thống và Viện trưởng Viện Hóa Đạo để thay thế thành phần mới chịu quy phục thế quyền phục vụ chính trị ; hai là bó buộc GHPGVNTN thay đổi danh xưng ; và ba là sáp nhập thực thể GHPGVNTN vào một hình thái thống nhất Phật giáo mới do Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chủ trương. Phương án thứ ba tái hồi âm mưu thành lập một Tổng hội Phật giáo làm công cụ chính trị theo mô thức năm 1981, cốt đáp ứng tình thế mới do sức ép quốc tế yêu sách Nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các điều kiện hội nhập Cộng đồng thế giới".


Nhằm tạo dư luận quốc tế thuận lợi cho việc tiêu diệt này, nhà cầm quyền cộng sản khẩn trương vận động rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC (danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo, một khi bị liệt kê vào danh sách này Hoa Kỳ sẽ sử dụng biện pháp chế tài trên phương diện tài chánh và kinh tế theo Đạo luật Bảo vệ tự do tôn giáo do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua năm 1998). Không thay đổi chính sách đàn áp tôn giáo nói chung và GHPGVNTN nói riêng, nhưng mở mặt trận tuyên truyền dối gạt, Hà Nội hai lần mời Sư Ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam (2005 và 2007) cho phép tự do thuyết giảng giáo lý Làng Mai từ Bắc chí Nam để chứng tỏ "có tự do tôn giáo". Tháng 7.2006 cho phép Giáo sư Lê Mạnh Thát mở Hội luận Phật giáo quốc tế tại Saigon, mời một số học giả quốc tế tham dự, một lần nữa chứng tỏ trước dư luận là "không có chuyện đàn áp Phật giáo tại Việt Nam". Đàn áp sao lại cho 200 Tăng thân Làng Mai và Sư Ông Nhất Hạnh tự do đi lại thuyết giảng ? Sao lại có chuyện tự do mở Hội thảo Phật giáo quốc tế tại Saigon ? Nhưng trong thực tế thì trái lại, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, vẫn bị quản chế khắc khe tại Tu viện Nguyên Thiều và Thanh Minh Thiền viện ; 20 Ban Đại diện GHPGVNTN tại các tỉnh miền Trung và miền Nam vẫn tiếp tục bị khủng bố, không cho sinh hoạt tôn giáo.

Hai sự kiện Phật giáo màu mè nói trên cộng với sự tiếp tay của một số "phong trào dân chủ cuội" rộ nở trước Thượng đỉnh APEC tháng 11.2006 ở Hà nội, đã làm cho Hoa Kỳ thấy đỏ tưởng chín, tưởng rằng Hà Nội thay đổi chính sách tôn giáo và mở cửa chính trị nên rút tên Việt Nam Cộng sản ra khỏi danh sách CPC, giúp Hà Nội gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và hưởng quy chế PNTR của Hoa Kỳ.

Tại hải ngoại, người ta chứng kiến một số Tăng Ni, Phật tử huyên truyền cho việc hợp tác với nhà cầm quyền Cộng sản theo chỉ thị của Nhóm Thân hữu Già Lam trong nước. Luận điểm của họ là : "Tranh đấu 30 năm qua được gì ? Chỉ như húc đầu vào tường mà thôi ! Nay phải thỏa hiệp với Nhà nước để có thể xây dựng chùa chiền "như bên Công giáo xây dựng Nhà thờ", để có thể "đào tạo nhân sự, Tăng Ni"". Tuy nhiên không bao giờ họ nghĩ rằng tiền nhân, trong có Tăng Ni, Phật tử, có lý luận theo kiểu đó suốt 10 thế kỷ đầu lệ thuộc Tàu hay không ? Nghĩa là đừng kháng chiến giành độc lập mà thỏa hiệp, đầu hàng Bắc phương, thì còn chi là đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam ? Lý luận như kiểu họ suốt 100 năm thuộc Pháp, nghĩa là chịu thỏa hiệp và làm nô lệ cho thực dân Pháp, thì còn chi là đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam với cái Dụ số 10 ?

Luận điểm tuyên truyền của họ là: "Nên làm văn hóa thuần túy, nên lo giáo dục thuần túy, nên tu học thuần túy". Đây là thứ lý luận đuổi chim để thủ tiêu tranh đấu. Trí tuệ họ để đâu mà không nghĩ ra rằng: Văn hóa Phật giáo là nền Văn hóa Cứu khổ, chứ không phải loại văn hóa "tao đàn mày hát", văn hóa ra báo tâng bốc thần tượng, miệt thị người đồng đạo nhưng lại đề cao kẻ thù. Còn Giáo dục ư ? Có chùa viện nào không là trung tâm giáo dục tăng tài và quần chúng Phật tử suốt hai nghìn năm qua ? Còn tu học thuần túy ư ? Có chư Tăng Ni, Phật tử nào mà không tinh tấn tu học hằng ngày đâu. Đạo Phật gọi là tu hành, tức là học Phật, tu Phật và thực hành đạo Phật trong đời sống xã hội. Làm gì có chuyện tu học trong tháp ngà, lánh xa quần chúng đau khổ ?

Cho nên luận điểm của một thiểu số Tăng Ni, Phật tử nói trên "nói vậy nhưng không phải vậy". Họ gọi kêu tu học, văn hoá, giáo dục ... thuần túy, nhưng kỳ thực là đang trá hàng và trá hình bằng thứ tư tưởng cà lăm của những kẻ xin làm tôi đòi cho chế độ phi dân tộc, phi đạo lý, là chế độ Cộng sản.

Hai nhà học Phật Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ, vốn có công trong việc trước tác, dịch kinh Phật giáo. Nhưng trên lĩnh vực chính trị thì hai ngài mắc phải sai lầm trầm trọng. Năm 1981, hai ngài cố vấn cho Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia Giáo hội Phật giáo Nhà nước, theo luận điểm thỏa hiệp với nhà cầm quyền cộng sản để có thể làm văn hóa thuần túy, làm giáo dục thuần túy và đào tạo Tăng Ni thuần túy. Nhưng 26 năm qua cái Giáo hội mà Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia làm được gì cho Phật giáo Việt Nam, ngoài vai trò làm công cụ chính trị cho Nhà nước và Đảng ? Cái Giáo hội Phật giáo Nhà nước với bao nhiêu là học viện cao cấp, trung cấp, sơ cấp Phật giáo được Ban Tôn giáo cho phép thành lập, đào tạo được bao nhiêu cao tăng ? đưa Phật giáo Việt Nam đi về đâu năm 2007 này ? Phật tử trong và ngoài nước tự hỏi vì sao hai ngài với nhóm Thân hữu Già Lam giẫm lại vết xe cũ đã đẩy Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ và Phật giáo Việt Nam vào nơi tử lộ ? Đáng buồn và khó hiểu, vì sao hai ngài có thể điềm nhiên tọa thị để cho nhóm đệ tử của hai ngài, còn mặc áo tu hay đã ra đời, mở chiến dịch đánh phá GHPGVNTN, đánh phá chư huynh đệ pháp lữ hay người đồng đạo một cách sỗ sàng, thô lỗ, thiếu văn hóa ? Nhất là tỏ lời bất kính và hỗn láo với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong nước ?

Ý thức hệ ngoại lai Cộng sản làm đảo điên xã hội truyền thống và văn hóa Việt Nam, khiến cho sự suy thoái đạo đức tràn ngập vào lời ăn, tiếng nói, viết lách của một số Tăng sĩ, một số Trang nhà gọi là Phật giáo, hay một số địa chỉ điện thư gọi là Tăng Ni Hải ngoại làm đau lòng người biết suy nghĩ. Truyền thống tranh luận để mở mang kiến thức hay tìm xem hư thực, nhường bước cho sự chửi bới khiếm nhã và chợ búa !

May thay, trong không khí ô nhiễm văn hóa và đạo đức làm hoang mang dư luận Phật giáo đồ và đồng bào các giới trong cũng như ngoài nước, Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 gióng lên tiếng đại hồng chung cảnh tỉnh. Và hôm nay, Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang do Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ công bố phân rõ chính tà trong nội bộ Phật giáo hải ngoại.

Sự chờ đợi quá lâu trong lòng người Phật tử hải ngoại đã đến : Cuộc cải tổ, chấn chỉnh sâu rộng và cơ bản toàn bộ cơ cấu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ và các châu lục bắt đầu. Không còn những con sâu làm rầu nồi canh nữa, mà là chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử trung kiên với lập trường dân tộc và Phật giáo sẽ đứng ra xây dựng lại Giáo hội tại hải ngoại để tiếp nối con đường của Phật giáo Việt Nam do tiền nhân giao phó, đồng thời đóng góp hữu hiệu vào công trình của Giáo hội nơi quê nhà trong công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn.

Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 ra lệnh giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại (GHPGVNTN-HN) tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây lan ra đời từ năm 1992 theo Quyết định số 27 nay đã hủy bỏ và thay thế bằng Giáo chỉ số 9, đồng thời giao phó cho Văn phòng II Viện Hóa Đạo thành lập các GHPGVNTN-HN mới tại các châu với thành phần trung kiên không chịu thỏa hiệp với thế quyền Cộng sản để bán đứng Gíao hội và phản bội dân tộc.

Thông bạch dẫn thượng chiếu theo điều 12 "có hiệu lực kể từ ngày Viện trưởng Viện Hóa Đạo ấn ký và cho phổ biến thông qua cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế có trụ sở đặt tại Paris, Pháp quốc".

* Sau đây là toàn văn Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT VIỆN HÓA ÐẠO

Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Phật lịch 2551 Số : 09/VHÐ/TB/VT

THÔNG BẠCH
Hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống

    Kính gửi: Hòa thượng Chủ tịch cùng chư vị Thành viên Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
    Kính bạch chư Tôn Đức,
    Kính thưa Liệt quí vị,
Tình hình Pháp nạn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) trở nên nguy kịch hơn bao giờ theo diễn biến gần đây, mà Đức Đệ tứ Tăng thống đã nêu rõ trong Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT ban hành ngày 8.9.2007 qua ba nhận định về hiện trạng Giáo hội từ năm 1981 cho đến 2007 :

- Nhận định rằng vì nhiều lý do nội tại hay khách quan, vô tình hay cố ý, một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ con đường cao rộng của Chánh pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng Bát chánh đạo và làm nghiêng ngửa Giáo hội;

- (...) Nhận định rằng chiến dịch đàn áp, vu cáo và khủng bố tinh thần hiện nay đối với GHPGVNTN báo hiệu một cuộc bắt bớ, đàn áp nước lũ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, bó buộc Giáo hội phải có biện pháp tự vệ cùng tiên liệu đối phó với tình hình;

- Nhận định rằng đồng thời với cuộc đàn áp trong nước nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế.

Trên đây là thực tế hiểm nghèo mà Giáo hội đang phải đương đầu suốt ba năm qua trước chủ trương mới của Nhà cầm quyền Cộng sản nhằm thanh toán GHPGVNTN theo ba phương án một là chấp nhận danh xưng GHPGVNTN nhưng loại bỏ cá nhân Đức Đệ tứ Tăng thống và Viện trưởng Viện Hóa Đạo để thành phần mới chịu quy phục thế quyền phục vụ chính trị ; hai là GHPGVNTN thay đổi danh xưng khác; và ba là sáp nhập thực thể GHPGVNTN vào một hình thái thống nhất Phật giáo mới do Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chủ trương. Phương án thứ ba tái hồi âm mưu thành lập một Tổng hội Phật giáo làm công cụ chính trị theo mô thức năm 1981, cốt đáp ứng tình thế mới do sức ép quốc tế yêu sách Nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các điếu kiện hội nhập Cộng đồng thế giới.

Do vậy, mà nhân danh Hội đồng Lưỡng viện và Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tôi đã hồi đáp câu hỏi làm sao thống nhất Phật giáo Việt Nam của Đại sứ Na Uy Kjell Storløkken đặt ra khi Đại sứ đến Thanh Minh Thiền viện thăm tôi hôm 2.7.2007, qua bốn điều kiện cơ bản và bất khả phân:

"Thứ nhất, CHXHCNVN phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ;

"Thứ hai, hoàn trả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tất cả các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện mà Nhà nước chiếm dụng sau năm 1975. Bước đầu, hoàn trả ngay cho Giáo hội hai cơ sở chính yếu là Việt Nam Quốc tự và Trung tâm Văn hóa Quảng Đức để Giáo hội có cơ ngơi đặt trụ sở cho Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo;

"Thứ ba, đưa Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Đảng và Nhà nước thiết lập năm 1981 ra khỏi Mặt trận Tổ quốc ; và

"Thứ tư, làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978".

Hiển nhiên khi bốn điều kiện nói trên được thực hiện thì chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử toàn quốc mới có thể ngồi lại với nhau, mà không bị chính trị chi phối, để chấn chỉnh Phật sự và thống nhất Phật giáo Việt Nam sau 60 năm chinh chiến làm cho đất nước và Giáo hội phân hóa và ly tan.

Tuy nhiên, việc khó thành khi Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền chưa chịu chấm dứt can thiệp chính trị vào sinh hoạt nội bộ Phật giáo, nhất là tiếp tục sử dụng một số chư Tăng và Phật tử nhẹ dạ, mất lập trường để gây rối và phân hóa nội bộ Giáo hội.

Thực tế này được Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống ghi trong Bản Phúc trình Phật sự viết từ Huế ngày 8.9.2007 gửi Hòa thượng Viện trưởng và Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo.

Ngoài việc thông báo bản thân Hòa thượng tại chùa Báo Quốc cùng tất cả chư Tăng thuộc GHPGVNTN Thừa thiên - Huế bị một lực lượng Công an hùng hậu bao vây, cản trở tín đồ đi chùa dự Lễ Vu Lan, không cho chư Tăng đi bái kiến đảnh lễ Đức Tăng thống ở Bình Định, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh cho biết các sự vụ trầm trọng đang xẩy ra cho Giáo hội trong và ngoài nước như sau:

"Một số Phật tử ở Úc và Hoa Kỳ gọi điện về thăm và bày tỏ sự bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất đang là thành viên các Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc và Hoa Kỳ lại đi vận động tách khỏi GHPGVNTN là vì sao ?".

"Điều mà Phật tử thắc mắc, chúng tôi thấy, đã được cụ thể qua quan điểm của anh Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc Đường. Hai anh hồi cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 2007 ; anh Trần Quang Thuận chê trách Hòa thượng Thích Quảng Độ. Bùi Ngọc Đường ngoài những lời lẽ như anh Thuận, còn chê bai Giáo hội. Sau hết Bùi Ngọc Đường khuyên chúng tôi từ chức Chánh Thư ký Viện Tăng thống để nghỉ ngơi, giống hệt như lời Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng thống thôi việc, nghỉ ngơi. Giọng điệu hai anh có vẻ như muốn thỏa hiệp (với Nhà nước) để được sinh hoạt, ý tưởng nầy còn được thấy rõ qua nhóm Thân hữu Già Lam.

"Chúng tôi được biết, ở Tu viện Quảng Hương Già Lam (Gò Vấp, Saigon) cách đây một năm đã hình thành một nhóm có tên gọi "Thân hữu Già Lam". Thành viên khoảng trên dưới 40 vị gồm các thành phần Tu sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất, có mặt trong nước, ngoài nước khắp các châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng già, chưa dám đứng hẳn vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981 (tức Giáo hội Phật giáo Nhà nước). Các vị quyên góp tiền gây quĩ xây dựng Đại học, Thư viện, Hội trường, làm Văn hóa, Giáo dục Phật giáo. Đứng đầu nhóm có Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát và học giả Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ.

"Nhóm Thân hữu Già Lam phần đông đang là thành viên chủ chốt của GHPGVNTN trong nước và hải ngoại. Nay vì một vài ý kiến bất đồng nào đó mà xây lưng lại với Giáo hội và vận động người khác chống lại Giáo hội, cô lập nhị vị Hòa thượng lãnh đạo Giáo hội thì chẳng hay ho gì ! Mà ai lại làm vậy bao giờ.

"Chúng tôi có đọc nội dung biên bản cuộc họp của các vị Thân hữu Già Lam qua hệ thống điện thoại có nhiều người tham dự từ Việt Nam, Úc, Canada, Mỹ. Phật Đản Phật lịch 2551 vừa qua, vùng Nam California, những vị thuộc nhóm Thân hữu Già Lam đã không tuyên đọc Thông điệp của Đức Tăng thống Đệ tứ GHPGVNTN khi cử hành Đại lễ Phật Đản.

"Chúng tôi nghĩ và hết sức ngạc nhiên, nếu các vị thấy sự nghiệp vận động để GHPGVNTN được phục hoạt, còn nhiều khó khăn nguy nan, không muốn hợp tác nữa thì các vị cứ tự nhiên rút lui khỏi Giáo hội. Có ai ngăn cản gì đâu. Nhưng đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ Giáo hội, cùng chung lý tưởng phục vụ Đạo pháp và Dân tộc, mà nay trở lại chống phá Giáo hội, rủ rê xui khiến người khác cùng nghỉ để cô lập hai vị Hòa thượng lãnh đạo tối cao của Giáo hội; đó là việc làm mà tự vấn lương tâm, kẻ đạo người đời, không ai chấp nhận.

"Thử hỏi giữa thập niên 90, nếu không có hai vị Hòa thượng mạnh dạn cất cao tiếng nói minh oan cho GHPGVNTN, đòi lại pháp lí sinh hoạt tôn giáo, để rồi phải chịu một nửa đời người tù đày, lao lý; thì có lẽ Phật giáo Việt Nam chỉ còn lại như một cái xác không hồn, vất vưởng lang thang, còn đâu nữa mà lập Đại học, xây Thư viện, hay tổ chức Phật Đản Tam hợp (theo lệnh Nhà cầm quyền Cộng sản trong năm tới 2008 để phục vụ tuyên truyền chính trị) ?!".

Sau các sự kiện trầm trọng của nội ma đang phụ tay với ngoại chướng nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống, đề ra 5 biện pháp chấn chỉnh mong Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo thực hiện:
    "1. Chấn chỉnh các Hội đồng Điều hành GHPGVNTN Hải ngoại tại các châu lục, lập lại kỷ cưong sinh hoạt tổ chức Giáo hội, lấy lại niềm tin cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước đang vọng hướng về Giáo hội.

    "2. Những thành viên trung kiên với Giáo hội lâu nay, hãy bảo vệ các vị với bất cứ giá nào trước những mưu mô, xuyên tạc hạ uy tín, mà Cộng sản Việt Nam đang cài người vào nội bộ chúng ta để quấy phá. Tạo điều kiện tốt để các vị tiếp tục phục vụ Giáo hội và Dân tộc.

    "3. Những cá nhân, hoặc nhân danh tập thể, không còn giữ được lòng trung kiên với Giáo hội, thì tạo điều kiện để các vị được rút lui, không nên cầm giữ làm gì. Ít cũng được, ít mà lòng trung thành, chí kiên hậu còn hơn nhiều mà bất trung, bất nghĩa. Thập niên 90 chỉ có hai vị Hòa thượng đơn độc. Ai bảo là nhiều ? Một thập niên sau, chung quanh hai vị Hòa thượng có thêm Hội đồng Lưỡng Viện, có thêm 22 Ban Đại diện các quận, huyện, tỉnh, thành. Ai bảo là ít ?

    "4. Đối với các vị Hòa thượng có tuổi cao, sức yếu, có ý định nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, thì xin cung thỉnh chư vị lưu lại cùng Giáo hội, trong lúc Giáo hội đang lâm nguy bởi nội ma, ngoại chướng.

    "5. Ở trường hợp bất khả kháng, không thể hội họp, không được đi lại, gặp nhau, bàn bạc, thảo luận như Hiến chương qui định, thì phải tính tới dùng Giáo chỉ, Quyết định, Thông tư... để điều hành Phật sự lúc nguy biến".

  • Do đó, nay

Chiếu tinh thần, nội dung, các qui định tại Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007; và các đề xuất trong Bản Phúc trình Phật sự của Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng thống, viết từ Huế ngày 8.9.2007 gửi Hòa thượng Viện trưởng và Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo;

Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo GHPGVNTN thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống theo 12 điều sau đây:

1. Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đại diện duy nhất của Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, tại hải ngoại trong nhiệm vụ liên hệ, xây dựng và chỉ đạo các Giáo hội Hải ngoại tại các châu lục.

2. Do đa số thành viên Văn Phòng II VHĐ cư ngụ tại Hoa Kỳ, trụ sở Văn phòng II Viện Hóa Đạo đặt tại Hoa Kỳ.

3. Giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại (GHPGVNTN-HN) tại Hoa Kỳ và GHPGVNTN-HN tại các châu được hình thành theo Quyết Định số 27-VPLV/VHĐ do Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo ban hành ngày 10.12.1992. Quyết định này đã hủy bỏ và thay thế bằng Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007.

4. Chủ tịch và các thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo cấp tốc triệu tập đại hội trong thời gian sớm nhất để thành lập Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Hoa Kỳ theo tinh thần Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 và theo nội dung Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống mang số 09/VHÐ/TB/VT do Viện trưởng Viện Hóa Đạo ký ngày 25.9.2007.

5. Chủ tịch và các thành viên Văn phòng II Viện Hóa Đạo kết hợp với các Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada triệu tập đại hội trong thời gian sớm nhất để thành lập Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada theo tinh thần Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 và theo nội dung Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09 của Đức Tăng Thống mang số 09/VHÐ/TB/VT do Viện trưởng Viện Hóa Đạo ký ngày 25.9.2007.

6. Sau khi thành lập GHPGVNTN-HN tại các châu lục quy định tại điều 4 và 5, thành phần nhân sự các Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành phải được trình lên Viện Hóa Đạo để duyệt xét và chuẩn nhận trước khi có hiệu lực hoạt động.

7. Chủ tịch Văn Phòng II VHĐ đồng thời là Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN-HN tại Hoa Kỳ.

8. Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada thuộc Văn phòng II Viện Hóa Đạo đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada.

9. Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành các GHPGVNTN-HN có nhiệm vụ thỉnh cử, bổ sung hay hoán chuyển nhân sự cho đầy đủ theo quy định của Hiến Chương Giáo Hội và trình về Viện Hóa Đạo duyệt xét và chuẩn nhận. Nếu Pháp nạn còn kéo dài, thì cứ 2 năm một lần cần xem xét lại toàn bộ nhân sự để bổ sung, hoán chuyển hoặc thay đổi theo đúng điều 3 Giáo Chỉ qui định.

10. Chủ tịch và các thành viên được thỉnh cử vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội Đồng Điều Hành các GHPGVNTN-HN không được tham gia hay giữ chức vụ gì trong các tổ chức, hội đoàn, đảng phái ngoài Phật giáo.

11. Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 để đối phó tình hình khẩn cấp, Giáo hội bị đàn áp khốc liệt, có hiệu lực cho đến khi hết Pháp nạn.

12. Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 09/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang có hiệu lực kể từ ngày Viện trưởng Viện Hóa Đạo ấn ký và cho phổ biến thông qua cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế có trụ sở đặt tại Paris, Pháp quốc.

Trong hoàn cảnh Giáo hội lâm tình thế bức bách, nguy nan, mong Chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức, Tăng, Ni và quí Phật tử hải ngoại hãy gạt bỏ mọi ý kiến dị biệt, riêng tư, cùng chung lòng với Giáo hội đem hết thân tâm và trí tuệ phụng sự Đạo pháp và Dân tộc kỳ cho đến ngày thành công, như ý.

Thanh Minh Thiền Viện
Saigon, ngày 25 tháng 9 năm 2007
Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


Tuesday, August 26, 2008

Trần Trường - Nguyễn Cao Kỳ


L.s. Nguyễn Văn Chức

Năm 1999, tôi gặp đại tá Matsuoko. Trong lúc mạn đàm, ông cho biết cha mẹ ông đã từ Nhật Bản sang Mỹ từ trước 1940.

Tôi tình cờ nhắc lại vụ Pearl Harbour năm 1941. Sau khi tuyên chiến với Nhật Bản, Tổng Thống Mỹ Roosevelt ký sắc lệnh di chuyển tất cả những Nissei, tức nguời Mỹ gốc Nhật, già trẻ lớn bé, từ bờ biển Đông Hoa Kỳ sang bờ biển Tây Hoa Kỳ, và nhốt họ trong những trại tập trung. Tôi hỏi ông Matsuoko: lúc đó có Nissei nào lên tiếng phản đối không? Ông Matsuko suy nghĩ rồi nói: theo ông biết, không có Nissei nào lên tiếng phản đối. Nhiều sách vở Mỹ cũng viết như vậy.

Tôi mong lời ông Matsuoko không phản ảnh sự thật. Tôi mong sách vở Mỹ không phản ảnh sự thật.

Nhưng, nếu đó là sự thật?

Chúng ta, Người Việt Tỵ Nạn khác với Nissei. Chúng ta không phải là di dân, mà là Ngưòi Tỵ Nạn cộng sản. Chúng ta bỏ nước ra đi không vì cơm áo, mà vì chính trị. Cho nên, chúng ta phải xử sự cho xứng với danh nghĩa Tỵ Nạn. Nếu không, Việt Cộng hôm nay và những thế hệ con cháu chúng ta sau này, có lý do để kết tội chúng ta đã ra đi vì miếng cơm manh áo.

Tôi gặp đại tá Matsuoko tại "nhà" Nguyễn Cao Kỳ, một villa ờ đường Belle Vue, tiểu bang Seattle. Chúng tôi uống trà, nói truyện Ông khoe: chính ông đã đưa từ Việt Nam sang Mỹ một "nhà thơ kiệt xuất" và một "nhà chính trị kiệt xuất", những tên - đây là xác tín của tôi - cán bộ Việt Cộng Dốt nát, đói ăn, và chuyện đi lừa.

Nguyễn cao Kỳ học khóa 1 Trường Sỹ Quan Trừ Bị Nam Định với tôi. Khoá này bắt đầu 30 tháng 9/ 1951 đến 31/ 5/ 1952.

Trong một quyển sách Việt Cộng, cán bộ HTD đã viết (nguyên văn): Nguyễn Cao Kỳ "sinh ra trong một gia đình chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp", và: Nguyễn Cao Kỳ "được bố mẹ cho ăn học đến nơi đến chốn".

Theo hồ sơ trường Nam Định, cũng như theo nhiều người biết Nguyễn cao Kỳ, thì Nguyễn Cao Kỳ chưa có bằng tú tài Việt Nam.

Nguyễn Cao Kỳ đã được Mỹ đưa lên tột đỉnh danh vọng, nhất là trong vụ hội nghị Honolulu tại Hawai . Tôi còn giữ hầu như tất cả hình ảnh.

Tôi mến Nguyễn Cao Kỳ khi anh ta và Nguyễn ngọc Loan mang quân ra Huế (tháng 5/ 1966) dẹp loạn Ấn Quang, bắt Thích Trí Quang mang vê nhốt trong bệnh viện đỡ đẻ của bác sĩ Nguyên Duy Tài, đường Duy Tân, Sàigòn. Tôi có nói điều đó với Dường Văn Minh, một tay sai Việt Cộng và một thằng hèn. Tôi cũng có nói điều đó với Vũ văn Mẫu của Liên Danh Hoa Sen, trong một chuyến đi họp Liên Hiêp Nghị Sĩ Quốc Tế tại Paris.

Tỵ nạn sang Mỹ, tôi vẫn mến Nguyễn Cao Kỳ.

Nhưng sau khi y về VN khúm núm truớc một tên Phạm Thế Duyệt và biểu diễn đánh golf với mấy tên Việt Cộng cu ly cu leo, tôi bắt đầu khinh y. Sau vụ y ngồi ăn tiệc cùng bàn với Nguyễn Minh Triết (năm 2006) và giữa bữa tiệc đứng lên đọc điễn văn nịnh bợ tên Nguyễn Minh Triết - chủ tịch nhà nước chó đẻ cờ đỏ sao vàng - tôi lại càng khinh y.

Năm 1999 tại Cali, Trần Trường quỳ lạy ảnh Hồ Chí Minh và cờ đỏ sao vàng. Y bị đồng bào tỵ nạn rượt đánh. Y đã đưa gia đình về sinh sống tại Việt Nam. Ít nhất, y cũng còn chút liêm sỉ.

Còn Nguyễn Cao Kỳ? Cựu Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, cựu Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Việt Nam Cộng Hòa, cựu Phó Tổng Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, và mang tham vọng là đối thủ với Nguyễn Văn Thiệu, khi mưu toan ra tranh cử Tổng Thống VNCH nhiệm kỳ 2, với cụ Trương Vĩnh Lễ là phó tổng thống.

Ôi, Nguyễn Cao Kỳ!

Vẫn ở Mỹ ăn nhậu phét lác, thỉnh thoảng mở mồm ca tụng nhà nước cờ đỏ sao vàng, và đi đón rước mấy tên Việt Cộng.

Tôi đã đọc ở đâu đó, hình như trong Darkness At Noon của Arthur Koestler: "Inalienable right to be ignorant "

Dốt nát, ngu đần, là quyền không thể nhượng lại hoặc đổi chác cho người khác. Tôi xin thêm: chúng ta nên thương hại những kẻ có cái quyền đó. Chúng nó vô học, vô iêm sỉ, và không thể cải hóa được ... Nguyễn Cao Kỳ là điển hình.

Quyển "Dấu Tuyết Năm Xưa" - tức quyển sách thứ 3 của tôi, sau cuốn "Việt Nam Chính Sử" (tái bản năm 1992), và quyển "Thế Kỷ" (tái bản năm 1999) - sẽ ra mắt độc giả một ngày gần đây.

Bốn chữ Dấu Tuyết Năm Xưa lấy ở câu Où Sont Les Neiges d'Antan" của Francois Villon.

Việt Cộng cho người móc nối tôi. Chúng nó muốn in cuốn sách. Chúng nó muốn cho tôi tiền. Chúng nó muốn tôi xóa đi những đoạn văn nói về đảng CSVN và bác Hồ chó đẻ của chúng nó.

Houston, Thứ Sáu 22/08/2008
Nguyễn Văn Chức

Người đi, người ở, người về


teolangthang dạo Net đọc một lá thư của một người lính VNCH bị tàn phế gửi cho một người bạn từ Việt Nam.

Bức thư có nhiều đoạn xin gởi đến những người lính, những sĩ quan QLVNCH đọc để suy nghĩ:
    "Các anh ạ! Bây giờ thì buồn quá!

    Các anh - những sĩ quan QLVNCH, những người anh của chúng tôi, những Ðại Bàng, những Bắc Ðẩu, Hắc Báo của ngày nào một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến trường các anh đã có một thời quang vinh và một thời nhục nhã, giờ đây sau 33 năm vẫn lặng lẽ, các anh cũng nhòa đi hình ảnh của ngày xưa?

    Các anh đã quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của các anh đã nằm xuống vĩnh viễn trên đất mẹ thiêng liêng quên những đồng đội còn sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ, sống lây lất ở đầu đường xó chợ. Xin cảm ơn các anh về những đồng đô la mà các anh gửi về cho chúng tôi trong chương trình giúp đỡ thương phế binh QLVNCH.

    Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần
    nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên nỗi nhục nhã mất nước!

    Chúng tôi cần ở các anh những chuyện khác, các anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không?

    Tôi đã hiểu vì sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đã từng tuân lệnh những Ðại Bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đã từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa tình chung thủy gửi vào tận chốn tù đày thăm các anh. Họ đã từng uống với các anh chung rượu ân tình ngày đưa các anh lên phi cơ về vùng đất mới. Họ từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng ngày về vinh quang của QLVNCH.
    Nhưng chính các anh đã làm họ oán ghét đến độ khinh bỉ khi các anh áo gấm về làng, chễnh chệ ngồi giữa nhà hàng khách sạn 5 sao tung tiền ra để tỏ rõ một Việt Kiều yêu nước.

    Các anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính VNCH đang lê lết ở ngoài cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống vui chơi, đang nhìn các anh với ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người lính là sự bội bạc, là sự phản bội!

    Không biết khi tôi kết tội các anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các anh hãy tự suy nghĩ một chút sẽ thấy rõ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các anh đã biến thái thành những tên Việt gian nhưng sự trở về như các anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đã phản bội lại Tổ Quốc và rõ ràng nhất các anh đã phản bội lại chúng tôi