Tuesday, August 26, 2008

Ma Lai Rút Ruột


Trương Minh Hòa

Theo tác giả Hoàng Phong, qua bài viết "có ma hay không?" với phần định nghĩa: "Chữ MA do chữ Phạn MÂRA mà ra, Tiếng Tây Tạng là Bdud, tiếng Nhật là Hajun, tiếng Hán là MO, nhưng người Trung Hoa thường âm tứ tiếng Phạn và gọi là MA-LA, vần "r" không có trong tiếng Trung Hoa, nên người Trung Hoa thường gọi là MA-LA, thay vì MA-RA ... theo sách định nghĩa, chữ MA (MÂRA) là "quỷ sứ cám dỗ", một thứ "quỷ tinh ranh" tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.

Người Việt Nam cũng gọi tiếng MA, theo tiếng Phạn, hình như xuất phát từ Phật Giáo, do các tín đồ Phật Giáo người Ấn Độ, là các thương buôn, truyền vào đất Việt, trước tiên là lưu vực sông Hồng ở miền Bắc từ thế kỷ thứ nhất, sau Tây Lịch, lan rộng hàng ngàn năm, ngày nay trở thành nước có đông Phật Tử ở Á Châu. Ma là cái gì ghê gớm, có người tự cho là thấy ma và bị ma nhát, nhưng cũng có người không tin; vì ma mơ hồ, huyền bí, sự xuất hiện của mà thì không kiểm chứng, tùy theo sự tin tưởng và người ta cho là "bóng vía" của từng người, mà ma có thể nhập, hiện ra cho người nào yếu bóng vía thấy, nên tục ngữ có câu: "ma bắt theo mặt người ta"; ai coi như hết thời, trở thành "hồn ma bóng uế" như đám Việt Cộng khủng bố trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam của luật sư Nguyễn Hữu Thọ sau 1975, bị đá văng ra khỏi các cơ quan quyền lực, phục viên. Người ta có câu "đi đêm có ngày gặp ma" để hù những người không tin và sợ ma; người được thế giới tặng danh hiệu: "vua đi đêm" là tiến sĩ Henry Kissinger, sau nhiều lần đi đêm ngang dọc từ Âu, Á, Phi ... để tính chuyện trục lợi cho nước Mỹ, thì năm 1972, trong một chuyến đi đêm lịch sử đã gặp phải "ma Trung Cộng" nên bị đưa vào mê hồn trận, tự ý gở tấm bùa "cấm vận" cho con ma Tàu, từ đó nó mọc thêm nanh, tác yêu tác quái thế giới. Những người "nặng bóng vía" hay là không tin ma, tự tin, thì thường là hổng thấy ma nhát, được giới sợ ma cho là:

"Cao tài long hổ phục.
Đức Trọng quỷ thần kinh".


Cao cấp hơn ma là quỷ, yêu, tinh, quái ... là những "đỉnh cao trí tuệ loài ma", nên nhiều khi lộng hành, hiện hình cả ban ngày, khiến giới sợ ma càng "hoảng vía, kinh hồn", nếu là yếu tim cũng dám bị "stroke" khi thấy quỷ, yêu, tinh hiện nguyên hình nhát, dù có niệm Phật, đọc kinh, đưa cây thánh giá, thì "tình hình không thể đảo ngược được". Tây cũng tin có ma, nổi tiếng là ác quỷ Dracular, hiện hình, hút máu, bay như dơi vào đêm tối nhưng ngoài đời thì có mấy ai được "đoàn tụ" với ác quỷ Dracular, chỉ thấy nó xuất hiện trên màng ảnh do Hollywood thực hiện mà thôi. Nhiều người Việt tin có ma, nhất là theo các tôn giáo, con nít vì không nhận xét, ngây thơ nên dễ sợ ma khi được cha mẹ, người lớn "nhát ma" để nín khóc, không dám đòi bánh kẹo; dần dần biến con nít trở thành "giai cấp sợ ma không người lái". Người ta đồn ma phá phách, tác hại, nhưng có ai thấy ma quỷ phá đâu, chỉ thấy học trò lý lắc, tinh nghịch: "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò".

Nhờ nhiều người tin có ma, quỷ nên một thời "hưng thịnh" nghề thầy Pháp, kiếm ăn được lắm. Tuy nhiên, thầy pháp bị "thoái trào" trước những tiến bộ khoa học, thuốc men, phương pháp trị liệu, khám phá bịnh lý, vi trùng nên giới bác sĩ đã "lấy hết job" của thầy Pháp từ lâu. Tuy nhiên thầy Pháp lại "quá độ" sang thầy bùa, ngải vẫn hoạt động âm thầm, tích cực, song hành với giới thầy bói; thầy bùa, nhất là bùa Lỗ Ban có "nghiệp chuyên" dùng âm binh thần tướng, với lối cúng kiến, đọc vẽ các "mật nhiệm, mật từ, mật âm" để giúp cho các thân chủ đang lâm vào "tình huống cực kỳ khó khăn" về làm ăn, tình duyên, gia đạo có nơi để "giải tỏa tâm tình người Hà Tĩnh", là chỗ dựa cuối cùng sau những vấn đề nan giải trong cuộc sống nhất là ngày nay, sau khi Việt Cộng ban hành "tà sách" đổi mới để cứu đảng và đồng thời cũng là "tương kế tựu kế" thu tiền, nhận cấp viện, cũng "quá độ" từ Cộng Sản sang tư bản đỏ .... ở hải ngoại, có một số ông chồng già, bỗng sinh tật "hồi xuân" bỏ vợ già, vợ cũ, về Việt Nam cưới vợ nhí, vợ tơ mơn mởn như bản nhạc "tình già trên đồi cỏ non" của lão già nhạc sỡi PHẠM DUI, "yêu nhau đi, màn đêm xuống rồi", nay là công dân "chân dép râu" của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, khi mà "bên cầu Biên giới giữa Quốc-Cộng vẫn còn ngăn cách" do chủ nghĩa vô thần, bọn bán nước vẫn còn đây, mà nhạc sĩ Phạm Dui lại vượt cầu biên giới để làm "tà lọt" tuyên vận cho kẻ ác, tiêu tan: "kiếp cầm ca" và trở thành: "kiếp cầm CU cho chó đái".

Một số bà bị thất bại sau khi dùng son phấn, mỹ phẫm thượng hạng để trang trí cho bộ mặt được "mãi mãi xinh tươi", thì cố gắng "dậy mà đi", dùng tiền để "khắc phục" những "mặt yếu cơ bản" về tuổi tác, nhan sắc úa tàn theo thời gian, bằng cách đi tìm những "đốc tờ" danh tiếng nhờ giải phẫu thẩm mỹ: cắt mí mắt, độn mũi, xâm chân mày, đốt tàn nhang, nhuộm tóc, bơm mặt, căng da, chẻ môi, hút mỡ bụng .... và hình như có bà còn "cụ thể" hơn là đi "vá cửa mình" để cho ông chồng già, có được một thời: "trở lại chuyện hai chúng mình, khi em với anh vừa biết đam mê", nhớ lại cái thuở chàng ngồi rách cả đáy quần, mơ mộng lẫn MƠ MÔNG ... đít: "ai biết ai vì đời, cùng ngược xuôi lối mòn, ngày tôi hai mươi tuổi, em đôi tám trăng tròn, ta cùng dìu nhau trên lối nhỏ, xuân nầy thôi bỏ lúc hẹn hò ..." và một thuở HỌA DƯỚI MÔNG khi mà người si tình mơ màn trong giấc MỘNG DƯỚI HOA.

Nhưng rồi "có tiền nào mua được hạnh phúc", những ông chồng già sau khi "ăn cỏ non" và từng: "đi qua vùng cỏ non" thì trong lòng động não: "ngỡ mùa xuân đang tới, bâng khuâng thời thanh niên ...", thế là các bà từng "bị chồng bỏ, chồng chê" bèn nghĩ đến cái phao cuối cùng là "các thầy bùa". Chính nhờ thời cuộc mà giới thầy bùa không còn "lạc hậu, lỗi thời", cứ ngồi nhà, lập bàn thờ tổ, đèn nhang nghi ngút, thân chủ ùn ùn kéo tới như "ba dòng thác cách mạng dổm" mà lượm tiền thoải mái, không cần lao động mà lại vinh quang, nhất là các bà ở nước ngoài về, thì coi như trúng mánh, phước chủ may bùa. Những thứ bùa yêu, bùa lá, bùa mê ... đôi khi có kèm theo thuốc LÚ, được cái thầy bùa tận tình hướng dẫn và có "chỉ đạo" cho giới âm binh Đại Càn, âm thầm trong bóng tối, phò trợ cho các thân chủ, rình mò như các tên "du kích Việt Cộng" làm công tác khủng bố dân lành trước 1975, thừa cơ bắn sẻ, giật mìn, đặt chất nổ, pháo kích vào nhà thương, trường học ... mà được coi là "cách mạng vùng lên để GIẾT NGƯỜI", chớ không phải "ĐỔI ĐỜI".

Thuốc Lú có nhiều loại, nếu các bà muốn cho chồng bị U Mê "không ngừng nghỉ" thì cứ tìm cách mua cho bằng được lá cờ đỏ, treo ở Lăng Hồ Chủ địt, lá cờ nầy còn linh hơn là thứ mà người phụ nữ hay "động viên hàng tháng", mang về nhúng trong ly cocacola, cho ông chồng uống là hy vọng u mê, nói gì nghe nấy, là đạt "chất lượng", hiệu nghiệp lắm mấy bà có thấy không, trẻ con ở Việt Nam chỉ: "quàng khăn đỏ" ở cổ thôi, cũng trở thành u mê cả đời, hãy thử "lá bùa tiết canh" xem sao!. Tuy nhiên nếu các thầy bùa giỏi thì sao không dùng phép thuật, âm binh để ếm, giết hết khoảng chừng vài trăm tên ác ôn, quỷ vương trong Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, ếm sập cái Lăng Hồ Chí Minh .... thì toàn dân Việt Nam tôn vinh là "anh hùng dân tộc", khỏi phải làm nghề vẽ bùa, ếm, giải bùa ... lúc đó nhân dân nuôi mãn đời, danh thơm cả con cháu.

Ma, quỷ, yêu, tinh ... ai hoảng kinh là hay bị nhát, lâu dần trở thành "truyền thống sợ ma" thế là ma càng lộng hành. Những thứ nầy chỉ có người yếu bóng vía, tin có ma thì mới thấy ma, quỷ hiện hình. Nên người ta tin có nhiều loại ma như: ma cà ròng, ma xó, ma da (ở dưới sông, là bà con với Hà Bá), quỷ nhập tràng .... nhưng MA LAI thì cũng có nhiều "nguồn tin", từng là "bạt vía kinh hồn" giới sợ ma. Ma lai là thứ ma giống như người, tức là cũng bình thường, Tam Cùng với người, như đám Hồ Chí Minh thời suy yếu phải ăn bám nhân dân và sau nầy hại chủ: "cùng ăn, cùng ở, cùng làm". Ma Lai sống bình thường, cũng lập gia đình và ba đêm là rút đầu ra đi ăn, món ăn "khoái khẩu chất lượng cao" của Ma Lai là "Cứt", người sợ ma tin là khi bị ma lai "xơi" cái "tàn dư tư bản quí báu của chủ tịch Hồ Chí Minh" là coi như trước sau gì cũng bị "rút ruột" và ngày giã từ gác trọ không xa.

Thời xưa, người ta hay dùng tre gai rào chung quanh các nhà cầu để ma lai ngán mà không dám "tiến quân trên đường dài". Ngày nay ở Việt Nam, thì cầu ỉa cũng phải rào, được dân cảnh báo qua câu tục ngữ: "xã hội chủ nghĩa, cầu ỉa cũng rào", vì sợ người khác ăn cắp "cứt" mang về bón rẫy cá thể, ruộng ... gia tăng sản xuất, đóng góp công sức "xây rựng xã hội chủ nghèo", đóng góp chỉ tiêu sản xuất tới 9% chớ bộ giỡn hay sao. Ma lai ngày nay hổng còn lén lút, dấu dím và sợ bị "phát hiện", tại Việt Nam, ma lai lộng hành, nhan nhản khắp nơi, ma lai đi xe du lịch hạng sang, ở nhà lầu, uống rượu Tây, nhà cửa có công an bảo vệ. Ma Lai bây giờ "hiện đại" lắm, cũng là "cùng sống, cùng bóc lột, cùng đè đầu cỡi cổ" dân chúng. Ma lai nầy thuộc loại cao cấp, biến thành "quỷ lai" với các "chính quỷ" thi đua hút máu nhân dân; ma lai gởi ma lai "hậu duệ" sang du học, ma lai, quỷ lai hút máu và rút ruột, ăn chận, róc xương, xẻ thịt, không chừa bất cứ ai, kể cả người nước ngoài.

Mới đây con "quỷ lai" Huỳnh Ngọc Sĩ, phó giám đốc sở công chánh, giao thông thành Hồ bị các báo chí Nhật đưa tên là người nhận hối lội từ 4 tay doanh nhân nước Nhật, lãnh đạo công ty PCI (Pacific Consultants International), gồm các tay "quan hệ với quỷ lai" là: cựu chủ tịch Massayoshi, cựu tổng giám đốc Hunio Takasu, Thành Viên trong ban quản trị Haruo Sakashita và cựu giám đốc văn phòng đại diện ở Hà Nội Tsuneo Sakano .... đưa tiền nhét lên đến hơn 800 ngàn Mỹ Kim để được "quỷ ma" cho trúng thầu xây dựng xa lộ Tây-Nam và đường hầm qua sông Thủ Thiêm.

Dù kẻ đưa hối lộ bị bắt, phỏng vấn theo luật pháp của môt quốc gia dân chủ, nhưng người nhận hối lộ tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vẫn bình an, trái lại còn được cả hệ thống "đảng, nhà nước" binh vực, bao che, cho là những tin tức đó "thiếu trung thực", nên chúng đề nghị báo chí Nhật nên biết điều mà ngưng đăng những "nguồn tin tiêu cực" đó, có khả năng là "sứt mẻ tình hữu nghị Nhật-Việt" cũng là thứ "túi hở, tiền chui mất" thôi. Vụ nầy đang gây nhiều "sự cố" đang gây xôn xao trong dân chúng và nước Nhật, thì thêm cá i vết nứt của các đường cống dùng làm đường hầm ngầm đặt qua sông Saigon" làm cho vấn đề càng gây chú ý hơn. Đường hầm dài 370 thướt, sẽ được lắp ráp với 4 đốt hầm, nhưng theo sự đánh giá của viên Cục Trưởng Cục Giám Định Nhà Nước là Lê Quang Hùng, thì từ tháng 3 năm 2008, "Cục" đã "phát hiện" ra các vết nứt có bề rộng mà 1 mm, dài từ 2 đến 3 thước, cục trưởng trấn an bằng những "thuật ngữ nghiệp chuyên", nghe qua thì dân chúng cảm thấy yên tâm, nhưng cũng phập phòng vì chuyện nhà nước nói là điều "đừng nên tin", bây giờ thì "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" mà thấy như vụ sập cầu Cần Thơ năm 2007, là coi như quá trễ, rồi các thứ cục như thanh tra, cục quản lý, cục giám sát .... cùng nhau "tranh cãi" bằng mồm, viết ra tràng giang đại hải những "tham luận", cuối cùng thì "bị chìm xuống" và các con ma lai tiếp tục "dậy mà đi" rút ruột, hút máu.

Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước cai trị, tuyệt đại đa số là "lũ khỉ ngồi trên bàn", tất cả những chức vụ lãnh đạo từ: tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch nhà nước, quốc hội, bộ trưởng, thứ trưởng ... đều do đảng đề cử, nên thuộc dạng chức dổm "không người lái" (tức là không phải do dân bầu). Bây giờ lại xuất hiện thêm nhiều CỤC, trước đây khi mới "phỏng dái" sau 1975, thì có cục đường sắt làm nhiều người dân miền Nam bỡ ngỡ như câu: "bâng khuâng chiều ba mươi tháng tư ...", tuy nhiên dân chúng thiếu các Cục đường cát, đường phèn, đường chảy, cục đường mống trâu, cục đường thốt nốt ... để ăn độn với bo bo, khoai mì, còn "cục đường đi" thì không ai chăm sóc nên thường gây ra tai nạn giao thông, rồi cũng bị đổ vào đầu "tàn sư chế độ Mỹ-Ngụy để lại", đúng là "trăm dâu đổ đầu tằm". Các Cục cứ phát huy, như cục thể dục thể thao, cục giám định, cục con nuôi quốc tế (do cục trưởng Vũ Đức Long lãnh đạo), cục nước thải, cục môi trường có thể có thêm nhiều Cục, như Cục Du đảng (do Nam Cam làm cục trưởng trước đây), Cục ma túy (được một số người Việt ở Úc gia nhập, có số tù khá cao) ... nhưng chắc chắn là các chủ Ao Cá Bác Hồ cũng luôn cần "CỤC-CỨT" để cho các đồng chí cá vồ lớn nhanh, lớn mạnh, lớn như thổi để bắt lên bán cho các công ty chế biến thành cá Basa xuất khẩu sang các nước "tư bản phản động".

Trung Cộng cũng như Việt Nam, là nơi sinh ra thế hệ MA LAI, được nâng cấp thành "đỉnh cao trí tuệ loài người". Ma Lai rút ruột các công trình xây dựng, nên cái gì của xã hội chủ nghĩa xây dựng là không "đảm bảo chất lượng" dù họ luôn dùng hai chữ "chất lượng" để nói về những thứ "không chất lượng" mà trấn an nhân dân, lừa đảo thế giới về "chất lượng" sản xuất; nhưng các sản phẩm có hàng chữ "Made in China" được coi là "kém chất lượng" đối với toàn thế giới. Trận động đất ở Tứ Xuyên vừa qua ở Trung Cộng là thành quả "chất lượng" của các công trình xây dựng: nhà cửa, cơ sở của bọn ma lai Trung Cộng thì vẫn bền vững; nhưng trường học, nhà thương, các cơ sở dành cho nhân dân thì SẬP LÁNG, gây chết chóc cho học trò, bịnh nhân ... thế mới biết trình độ rút ruột của đám ma lai Trung Cộng cao cấp lắm, là "đỉnh cao rút ruột loài người".

Ma Lai Việt Nam rút nhiều đoạn ruột trong thân thể Việt Nam, chúng muốn rút cả "những núm ruột nghìn dậm nối liền" từ "nghìn trùng xa cách, người vẫn quay về ... nộp tiền" qua du lịch, du hý, du dâm ... đám sư, linh mọp quốc doanh là thứ "ma lai" ngụy trang mặc áo tu sĩ, từ lâu nay cũng hăm hở sang "rút ruột" tín đồ, tín hữu mà vẫn còn nhiều kẻ u mê, đưa túi ra cho đám "ma lai đội lớp tôn giáo" hút thoải mái. Những con ma lai nằm trong các cộng đồng, cũng là thứ ma tam cùng: "cùng tỵ nạn, cùng sống trong nước, cùng sinh hoạt trong cộng đồng", đã và đang phối hợp với lũ ma, quỷ lai trong nước, hút máu người Việt hải ngoại qua chiêu bài "từ thiện", máu đã bị hút nhiều mà vẫn cứ cho chúng hút.

Do nhiều công trình bị ma, quỷ lai rút ruột từ "cơ sở, cơ bản" rút từ lúc mới có DỰ ÁN đến cả DẠNG Ứ được "qui hoạch" trên giấy, đến thực hiện, gói thầu ... nên các công trình xây dựng cầu đường, vận động trường, khu cư xá ... đều bị rút ruột nhiều lần, thì nào an toàn. Những ai về Việt Nam du lịch, thăm quê hương nên "đề cao cảnh giác trước những công trình bị rút ruột, do những âm mưu diễn biến tham nhũng" khi đi ngang qua cầu, đường hầm (nếu dự án đường hầm cầu Thủ Thiêm hoàn tất). Khi thành quả rút ruột xảy ra, thì hậu quả cũng nào tốt và hồ hởi phấn khởi cho dân chúng, và chắc chắn là đảng "MA LAI" không có cái "chế độ" bồi thường nạn nhân do các công trình nhà nước xây dựng, như các "nước tư bản phản động" có bảo đảm và bồi thường cho nạn nhân.

Trương Minh Hòa


Trương Minh Hòa

Monday, August 25, 2008

Tôi Vượt Biển Cùng Với Tác Giả «Đóa Hồng Gai»


Ngô Đông Cường

Vừa qua, tôi đã đọc thật kỹ về bài viết: Huyền Thoại «Hoạt Động Tình Báo Phượng Hoàng» của Nguyễn Thanh Nga tác giả «Đóa Hồng Gai» của Nhà bình luận Mai Vĩnh Thăng.

Tôi cũng như ông Mai Vĩnh Thăng, đã từ lâu tôi không muốn viết lên sự thật; bởi nghĩ rằng: Dưới ánh sáng mặt trời thì mọi sự không sớm thì chầy nó cũng sẽ được phơi bày một cách rõ ràng, nên không muốn nhắc lại chuyện xưa.

  • Nhưng, đến nay thì tôi tự thấy rằng mình cần phải nói tất cả sự thật, để ông Mai Vĩnh Thăng và đồng bào hiểu thêm về tác giả «Đóa Hồng Gai» là bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên và bây giờ là Nguyễn Thanh Nga.

  • Sau khi đọc cuốn «Hồi Ký Đóa Hồng Gai» ; tôi bỗng giật mình, bởi tôi nhớ lại những chương và những điều đã có ghi trong tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» của Việt Tân (bản photocopie) gồm 19 trang, đủ cả hai bản, một bản thảo viết tay và một bản đánh máy. Tôi vội vàng đem ra đọc lại; và bất ngờ tôi đã tìm ra đâu là sự thật.

    Trước khi nói đến tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» ấy. Trước hết, tôi xin tường thuật thật rõ ràng về chuyến vượt biển của tôi cùng bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, tác giả «Đóa Hồng Gai» như sau:

    Chúng tôi bước lên tàu và rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm 07/09/1977, tại bãi Khánh Dương, Vĩnh Lộc, Thừa Thiên- Huế.

    Chủ chiếc tàu này là ông Mai Văn Trúc, nhưng ông không đi vượt biển trong chuyến này, mà đã bán cho một người thân của gia đình ông, và là một người bạn thân của tôi. Chúng tôi đã đóng góp vàng để mua chiếc tàu này, đồng thời chúng tôi cũng đã mời ông Mai Văn Tre là em ruột của ông Mai Văn Trúc làm tài công và cùng đi với chúng tôi. Hiện nay ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre đang có mặt tại Cali, Hoa Kỳ.

    Trở lại với chuyến vượt biển trên. Sau khi rời bãi Khánh Dương, tàu bị lạc hướng và tấp vào đảo Trường Sa lúc 01 giờ sáng ngày 10/09/1977. Sau khi tát nước chúng tôi liền rời khỏi Trường Sa, định chạy về hướng HongKong; nhưng một lần nữa lại bị lạc vào đảo Hoàng Sa vào lúc 03 giờ sáng ngày 11/09/1977. Chúng tôi đã bị quân đội Trung Quốc bắt giữ cho đến ngày 15/09/1977, lúc 16 giờ chiều, chúng tôi mới được cho đi. Chúng tôi liền rời Hoàng Sa để đi đến Hải Nam. Nhưng vì gặp bão quá lớn nên tàu đã bị trôi dạt và tấp vào bãi Thừa Lưu, Lang Cô, Thừa Thiên-Huế; và đã bị Công an Biên phòng Thừa Lưu bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20/09/1977, tất cả những người đi trên tàu đều bị đưa về giam tại đồn công an biên phòng Thừa Lưu.

    Đêm 22/09/1977, lúc 20 giờ, tất cả bị đưa về giam tại Lao Thừa Phủ, Huế. Ngày 30/09/1977, tất cả bị giải giao về Đà Nẵng. Trong số này bị chia ra và bị giam hai nơi, một số giam ở «Đồn Công An Thành Phố Đà Nẵng» ở số 47, đường Trần Quốc Toản Đà Nẵng. Một số giam ở nhà giam Kho đạn, chợ Cồn ở số 15, đường Đào Duy Từ Đà Nẵng.

    Sau khi kết cung, tất cả lần lượt bị đưa vào các nhà giam: Hội An-Tam Kỳ và cuối cùng là Trại cải tạo Tiên Lãnh, Tiên Phước, Quảng Nam.

    Trên chuyến tàu vượt biển này gồm có tất cả là 26 (hai mươi sáu người). Trong đó có:

    Ông Nguyễn Văn Nhứt: Thuyền trưởng.
    Ông Mai Văn Tre: Tài công (Hiện gia đình ông Mai Văn Tre đang có mặt cùng gia đình người anh ruột là Mai Văn Trúc tại Cali, Hoa Kỳ, như đã nói ở trên).
    Ông Nguyễn Văn Bé: Thợ máy
    Và các vị : Nguyễn Quang Mỹ cùng con trai là Nguyễn Quang Vui (Sinh viên)
    Ngô Đông Cường - Giáo sư Trần Công Ngạn - Giáo sư Đào Nguyên Dương là Giáo sư Trường Trung Học Sao Mai, Đà Nẵng.

    Hồ Minh Trung và con trai tên Hồ Minh Trực 11 (mười một tuổi) Nguyễn Văn Tùng (Hiện đã định cư tại Cali, Hoa Kỳ - Nguyễn Văn Cẩm, Hạ sĩ quan Hải Quân ...

    Trong số này, phía người Hoa có hai thiếu nữ và bốn người nam, ông Lưu Khánh Trường làm thông ngôn Hoa-Việt. Phía nữ người Việt, có hai người là cô Quỳnh Nga (tức Café Nga) và người anh tên Dũng (sinh viên) và một thiếu phụ, đó là bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên, bà này là vợ bé của bạn tôi là ông thuyền trưởng; và bây giờ bỗng dưng trở thành Nguyễn Thanh Nga tác giả «Đóa Hồng Gai». Nên biết, trong gia đình của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, trừ hai người con đầu đã chết, chúng tôi không biết tên; còn tất cả đều mang tên theo thứ tự như: Nguyễn Thị Ba - Nguyễn Thị Bốn - Nguyễn Văn Năm và Nguyễn Thị Sáu.

    Phía gia đình của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga gồm có năm người cùng đi trên chiếc tàu vượt biển này...

    Có một điều nữa, nhân đây, tôi cũng xin minh xác để ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre hiện đang có mặt tại Cali, Hoa Kỳ, hiểu được về số vàng 10 (mười) lượng đã không được trọn vẹn trước khi vượt biển. Số vàng ấy do chúng tôi đóng góp và chính tôi đã trao mười lượng vàng này cho bà Nguyễn Thị Sáu - Liên -Thanh Nga, và hai ngày sau cũng chính tôi đã cùng đi với bà Sáu -Liên -Thanh Nga đến gặp bà Mai Văn Trúc và người em chồng là ông ông Mai vănTre tại điểm hẹn. Và chính bà Nguyễn Thị Sáu -Liên - Thanh Nga đã cầm trên tay số vàng mười lượng này để trao tận tay của bà Mai Văn Trúc. Tôi tin tưởng bà Sáu -Liên -Thanh Nga, bà là vợ bé của bạn tôi. Tôi cũng hiểu bà Mai Văn Trúc cũng đã tin tưởng bà Sáu -Liên -Thanh nga, vì bà này là vợ bé của người thân của gia đình họ Mai, nên bà đã không cần kiểm tra trước. Còn một ân tình nữa mà chúng tôi không bao giờ quên được; là ông bà Mai Văn Trúc chỉ lấy tượng trưng có mười lượng vàng, rồi giao tàu cho chúng tôi vượt biển; chứ thực ra chiếc tàu ấy nếu bán cho đúng giá thì ít nhất cũng phải gấp đôi hay gấp ba. Tuy nhiên, vì biết chúng tôi không làm sao có đủ số vàng đó, nhưng lại muốn thoát thân, nên ông bà Mai Văn Trúc cảm thông mà giúp đỡ cho chúng tôi có được phương tiện để vượt biển, mà không tính toán gì cả. Nhưng chẳng may, chúng tôi cùng ông Mai Văn Tre và bà Sáu -Liên - Thanh Nga và tất cả đều bị bắt và ở tù.

    Sau khi ra tù, tôi được biết bà Mai Văn Trúc có gặp vợ chồng bạn tôi. Theo bà Mai Văn Trúc kể, thì sau khi chúng tôi vượt biển, bà đã đến một người bạn là thợ kim hoàn để kiểm tra số vàng mà do chính tay của bà Sáu - Liên -Thanh Nga đã trao tận tay cho bà Mai Văn Trúc. Nhưng sau khi kiểm tra, thì người bạn của bà Mai Văn Trúc cho biết là trong số mười lượng vàng đó, có hai lượng là vàng giả. Chúng tôi cũng biết mục đích của bà Mai Văn Trúc đến gặp bạn tôi, không phải để đòi chúng tôi phải trả thêm hai lượng vàng nữa, để cho đủ mười lượng; mà ý của bà Mai Văn Trúc là chỉ muốn cho chúng tôi biết là bà chỉ nhận có tám lượng vàng mà thôi.

    Nhân đây, chúng tôi những người đã gom góp số vàng trên. Trước hết, chúng tôi chân thành xin gửi đến ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre với tất cả lòng biết ơn sâu xa nhất. Chúng tôi cũng hiểu rằng, hiện nay hai gia đình họ Mai đã định cư tại Hoa Kỳ rồi, thì cả hai gia đình ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre cũng không cần đòi chúng tôi phải trả tiếp hai lượng vàng đó. Song ngoài sự biết ơn, chúng tôi cũng muốn nói với bà Mai Văn Trúc là chúng tôi đều là những người chân thật, chúng tôi không bao giờ đem vàng giả để trao cho bà; bởi như thế là bất lương, là lường gạt. Nhưng chúng tôi có lỗi, vì trong thời gian ấy, chúng tôi là những người đang sống trong lo sợ nên không dám giữ vàng trong người; song chúng tôi vì thiếu suy xét, nên đem lòng tin cậy mà đã dại dột đem trao mười lượng vàng ấy cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga cất giữ cho đến ba ngày. Bởi vậy, chúng tôi không hiểu bà Sáu - Liên -Thanh Nga đã làm những điều gì, mà từ mười lượng vàng thật sau đó nó chỉ còn tám lượng với hai lượng vàng giả.

    Và vì thế, chúng tôi những kẻ đã thọ ân của hai gia đình họ Mai. Chúng tôi xin thành thật xin lỗi ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre. Mong hai gia đình cảm thông những điều thiếu sót đã qua.

    Khi nhắc lại những điều này. Chúng tôi muốn nhắc nhở cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga rằng bà đã từng đã gây nên những sóng gió. Trong đó có chuyện trước khi vượt biển, giữa lúc mưa bão mà bà đã dựng chuyện rằng:

    «Thằng Nguyễn VănTrường nó bị công an bắt rồi, nó đã khai hết tên họ của những người cùng đi với nó».

    Nên biết, suốt trong thời gian trước khi vượt biển, chúng tôi lúc nào cũng lo sợ sẽ bị công an đến bắt đi vào tù, nên không dám đi lại như những người bình thường. Chỉ có bà Sáu-Liên-Thanh Nga ở trong khách sạn Tao Nhã và khách sạn Đông Kinh tại Đà Nẵng. Chủ của hai khách sạn này là bạn của bạn tôi. Bà là đàn bà con gái nên chúng tôi đã tin cậy mà giao hết mọi việc cho bà. Đến khi nghe bà Sáu-Liên-Thanh Nga nói như thế, chúng tôi hoảng hốt ai cũng đòi xuống tàu đi ngay. Ông Nguyễn Quang Mỹ còn nói:

    «Thà chết dưới biển còn hơn là bị công an bắt bỏ tù».

    Sau đó, đa số đã đồng tình đòi xuống tàu vì sợ công an đến bắt. Khi chiếc tàu rời bãi Khánh Dương thì gặp bão, và khi thấy mạng sống của mọi người vô cùng mong manh, lúc ấy, bà Sáu-Liên-Thanh Nga mới nói thật với bạn tôi rằng:

    «Em xin lỗi anh, vì nôn nóng muốn rời Việt Nam, nên em đã nói dối là thằng Trường nó đã bị công an bắt và đã khai hết những người cùng đi; chứ sự thật thì thằng Trường nó không có bị bắt. Bây giờ, chắc chúng ta sẽ chết dưới đáy biển, nên em muốn nói thật với anh để xin lỗi anh và mong anh tha thứ ».

    Sau khi nghe những lời này, bạn tôi và chúng tôi nữa đã vô cùng hối hận vì đã dại dột đặt lòng tin cậy vào bà Sáu-Liên-Thanh Nga, để xảy ra nông nỗi ấy. Để rồi tất cả phải vào tù của cộng sản.

    1. Những ngày lênh đênh trên biển:

    Chúng tôi không bao giờ quên được những ngày lênh đênh với sóng bão; khi tàu bị ngập nước bà Nguyễn Thị Sáu tức Liên-Thanh Nga đã ỷ lại là vợ bé của bạn tôi, là người mà nhiều người trên tàu rất quý mến, bà đã nói mọi người phải tát nước, riêng mấy đứa cháu của bà là không tát nước. Nghe bà Sáu-Liên-Thanh Nga nói như vậy, Giáo sư Trần Công Ngạn đã lên tiếng phân giải rằng:

    «Nước đã tràn vào tàu nhiều quá, ai cũng phải góp một bàn tay tát nước, thì nước mới cạn, chứ không thì nếu chết thì phải chết tất cả».

    Giáo sư Trần Công Ngạn chỉ nói chừng đó thôi, như thế mà bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã nổi Tam bành - Lục tặc lên bà la hét mọi người, bà còn mắng nhiếc cả Giáo sư Trần Công Ngạn; nhưng ông vốn là người tu hành nên ông chỉ chép miệng thở dài chứ không hề nói một lời nào cả. Giờ này, chúng tôi biết Giáo sư Trần Công Ngạn Ông đang ở đâu đó nơi hải ngoại, chắc một lần nữa ông cũng chỉ biết thở dài mà thôi.

    Ấy vậy mà trên sân khấu Thúy Nga ông Nguyễn Ngọc Ngạn đã ca «CÔ Nguyễn Thị Thanh Nga» tức bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga như là một nữ thánh. Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga còn nói là bà «... không có cơ hội để lập gia đình ... » ( bà còn con gái). Mà kể cũng lạ, Bởi trước đây cũng trên sân khấu Thúy Nga, ông Nguyễn Ngọc ngạn trong trái phá B.40, ông từng tuyên bố:

    «Cuộc chiến cũ đã đi vào tiền kiếp».

    Trong chúng ta, có ai là người nhớ đến «Tiền kiếp» của mình. Như thế, tại sao ông Ngạn còn nhớ và nhắc đến cái «Tiền kiếp» vọng ngữ của bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Hay quả đúng như lời của cụ Gàn Bát Sách trước đây đã viết trên Văn Nghệ Tiền Phong:

    «Cái Tiền kiếp của Nguyễn Ngọc Ngạn, Tiền kiếp nghĩa là Kiếp làm tiền».

    Nếu chằng phải như thế, thì hà cớ ông Ngạn phải cải danh, từ cái Ruột Làng Hồng đỏ loét, trở thành cái vỏ Làng Mai ?

    Nên biết, trong những cuốn «Niên giám» và tài liệu cũ mà nhiều người còn lưu giữ, thì cái vỏ Làng Mai bây giờ nó đều ghi rõ ràng là Làng Hồng. Song cho dù có thay đổi cách gì chăng nữa, thì cái ruột của nó đời đời nó vẫn Đỏ loét. Hay Nguyễn Ngọc Ngạn cũng như Trịnh Công Sơn: «Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẽ loi …»

    Trên đây, là những chuyện ông Nguyễn Ngọc Ngạn đã từng gắn bó với những người trong «Tiền kiếp». Còn ở kiếp này, thì ngoài công việc đứng trên sân khấu Nguyễn Ngọc Ngạn cũng là người đứng trên đài «Tiếng Nước Tôi» mà nếu ai muốn biết thì xin hãy vào Diễn Đàn Mẫu Tâm (http://www.mautam.net/). Mục «Tin Tức Văn Nghệ Sĩ Hải Ngoại»; sẽ thấy có người đưa lên diễn đàn cho biết «Nguyễn Ngọc Ngạn trên đài Tiếng Nước Tôi». Nhiều người bạn của tôi, khi thấy hình ảnh Nguyễn Ngọc Ngạn trên cái «đài» này họ đã nói: Tưởng là ai chứ Nguyễn Ngọc Ngạn, thì bất kể thứ nước nào cha Ngạn này cũng chơi hết, chứ chẳng riêng gì cái nước tôi.

    Mà ai muốn nói đến Nguyễn Ngọc Ngạn thì «Đánh chó cũng phải ngó chủ nhà»; Nghĩa là phải xem chừng đến «ông» Thầy của Nguyễn Ngọc Ngạn là Nhất Hạnh. Trong trái phá B.40, Nguyễn Ngọc Ngạn đã cung kính gọi Nhất Hạnh là Thầy, và xưng Con; Nhất Hạnh là Thầy cũng là Sư Phụ của Nguyễn Ngọc Ngạn. Vì vậy, Nguyễn Ngọc Ngạn cũng có bà Sư Mẫu là Cao Ngọc Phượng, nên ai muốn «Đánh» … Nguyễn Ngọc Ngạn, thì «cũng phải ngó chủ nhà» là sư phụ và sư mẫu Nhất Hạnh-Cao Ngọc Phượng.

    Còn một điều nữa là bà Nguyễn Thị Sáu – Liên - Thanh Nga đã viết trong cuốn tạp nhạp «Đóa Hồng Gai» cũng như từng nói trên sân khấu Thúy Nga và nhà báo Vi Anh trên đài SBTN rằng «Công an Đà Nẵng đã vào Hố Nai bắt tôi vào năm 1976». Trong khi sự thực thì bà và chúng tôi đã bị Công an Biên Phòng Thừa Lưu bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20-9-1977, như đã nói ở trên. Điều này, chỉ đúng độc nhất là việc liên quan đến đứa con trai tên Dương của bà Sáu-Liên-Thanh Nga tại Hố Nai mà thôi. Chuyện liên quan này rất dài dòng nên khó kể hết; chúng tôi có thể kể ở những bài sau.

    Chúng tôi không biết những kẻ nào đã đạo diễn và viết cho bà những điều bịa đặt ngu xuẩn ấy. Vì một khi đã bị công an Việt Nam bắt giam thì bất kể là ai, cũng đều phải tự tay viết và ký «Bản Tường Thuật – Bản Sơ Yếu Lý Lịch - Bản Kiểm Điểm …; và đều phải chụp hình với hai tay nâng cái tấm bảng màu đen, có số tù màu trắng trước ngực. Bà Nguyễn Thị Sáu – Liên -Thanh Nga cũng không ngoại lệ. Hiện nay, tất cả các tư liệu do chính tay bà Sáu-Liên-Thanh Nga viết và ký, cũng như những tấm hình chụp có mang số tù, chắc chắn đều còn lưu giữ trong «Hồ sơ phạm nhân» tại các cơ quan công an Thừa Lưu - Lang Cô, Thừa Thiên - Lao Thừa Phủ, Huế, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Hội An - Ty công an Quảng Nam-Đà Nẵng và trại cải tạo Tiên Lãnh, Tiên Phước, Quảng Nam, cũng như tất cả những tù nhân khác.

    Một lần nữa, chúng tôi khẳng định rằng bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên, tức Nguyễn Thanh Nga, tác giả «Đóa Hồng Gai» đã cùng đi với người chồng mà bà là vợ bé và cùng chúng tôi trên chuyến tàu vượt biển, trong đó có các vị mà tôi đã nói ở trên, đã rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm tại bãi Khánh Dương, Vĩnh Lộc, Thừa Thiên-Huế. Đã bị Công an Biên phòng Thừa Lưu bắt giam. Sau đó bị giam tại lao Thừa Phủ, Huế, rồi bị giải giao về Đà Nẵng. Cưối cùng là Trại Cải Tạo Tiên Lãnh như đã kể ở trên. Chứ không hề có chuyện công an Đà Nẵng đã đi vào tận Hố Nai để bắt bà như những lời bịa đặt, dối trá của bà Sáu-Liên-Thanh Nga.

    Ngoài những chuyện đối trá đó, bà Sáu-Liên-Thanh Nga không bao giờ dám nhắc đến chuyến vượt biển cùng chúng tôi ngày nào. Bà cố tìm cách để giấu kỹ, vì bà sợ mọi người sẽ biết là bà đã từng làm vợ bé. Nhưng tai hại thay, là chúng tôi những người cùng vượt biển, cùng bị công an biên phòng Thừa Lưu bắt, tất cả hiện vẫn còn sống. Chúng tôi là những người bạn của người mà đã lấy bà làm vợ bé; đa số đang có mặt tại hải ngoại; đông nhất là tại Hoa Kỳ. Chúng tôi có dự tính sẽ tổ chức một ngày họp mặt thân hữu, để cùng chia xẻ những buồn vui vượt biển. Lúc ấy, trên mạng lưới toàn cầu, chúng tôi sẽ mời tất cả những người cùng đi trên chuyến tàu vượt biên ngày ấy, chúng tôi còn nhớ tên, còn liên lạc với nhau. Bây giờ biết được tin tức của bà Sáu-Liên-Thanh Nga; chúng tôi cũng sẽ mời bà để cùng nhau ôn lại những ngày lênh đênh trên biển cả, cũng như những năm tháng bị đưa vào các nhà giam và tù cải tạo. Và chúng tôi cũng sẽ mời nhiều người đã cùng đi trên chuyến tàu vượt biển, đã rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm tại bãi Khánh Dương. Họ sẽ viết lại những gì đã xảy ra trên chuyến đi đầy sóng gió này. Sau đó sẽ cùng chọn tên để in thành Tuyển Tập Vượt Biển. Tôi biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga suốt đời sẽ không bao giờ quên được những gì đã xảy ra trên chiếc tàu vượt biển năm xưa, cũng như vẫn khó quên được cái tên Ngô Đông Cường này.

    Trở lại với cuốn «Hồi Ký Đóa Hồng Gai». Sở dĩ tôi quả quyết là có những kẻ đạo diễn và đã viết theo lời kể dối trá của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, vì tôi biết một cách chắc chắn là bà này không hề bước vào cái thềm của bậc Trung Học, chứ đừng nói đến Đệ Nhất Cấp hay Tú Tài. Tôi cam đoan, nếu bất ngờ, không có đạo diễn trước, mà có ai chỉ cần đọc cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga một đoản văn nào đó và bảo bà chép lại, thì chắc chắn bà sẽ viết sai chính tả ít nhất cũng quá năm lỗi. Hoặc có ai bất ngờ hỏi bà về một môn nào đó của chương trình Trung học, thì tôi biết chắc bà sẽ kêu nhức đầu rồi xỉu cho qua ải.

    Còn một điều khác là trong cuốn «Đóa Hồng Gai» tác giả là người Quảng Nam, nói tiếng Quảng Nam đặc như mọi người đã nghe thấy. Như vậy mà những từ ngữ trong cuốn «Hồi Ký» thì lại viết những từ rất Bắc như dùng từ «buồng giam», trong khi người Quảng Nam đều gọi là phòng giam ; về chế độ ăn uống của tù nhân bà đã viết: "…gồm một ít khoai, sắn, hay ngô …". Nên nhớ, là người Quảng Nam không bao giờ gọi là ngô mà gọi là bắp. Từ ngô là của người Bắc. Và trong cuốn «Hồi ký» này cũng đã viết từ Bố của người Bắc nhiều lần, trong khi người Quảng Nam ai cũng đều gọi đấng sinh thành của mình là Cha hoặc Ba chứ không bao giờ gọi bằng Bố.

    Chúng tôi vẫn nhớ rõ ràng lúc đi thẩm cung ở lao Thừa Phủ, Huế. Bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Thanh Nga khi một «Cán bộ Chấp pháp» hỏi đến phần trình độ học vấn bà đã nói nguyên văn là: «Dạ tui đã đậu Tú Từa Hưa». (Tôi đã đậu Tú Tài hai). Nhưng đến khi nộp «Bản tường thuật» thì «Cán Bộ Chấp Pháp» tay cầm «Bản tường thuật» miệng la lớn tiếng với bà mà ai cũng nghe cả, nguyên văn như sau:

    «Chị tưởng cộng sản là ai cũng dốt hết phải không ? Chị có biết tôi là ai không ? Chị khai là đã đậu Tú tài 2, mà chị viết một bản tường thuật chỉ ba trang giấy mà đã sai chính tả hết hơn hai chục lỗi à. Chị nói đã đậu Tú tài 2, thì tôi yêu cầu chị cho tôi biết là chị đã học ở Trường Trung Học nào, ban nào và các niên khóa, tên những ông Giáo sư chị đã học ? Chị cũng phải khai rõ chị thi Tú tài ngày tháng nào và ở đâu ?

    Tôi cho chị biết tôi đã từng sống và đã dạy ở nhiều trường Trung Học tại Đà Nẵng, Chị không biết tôi, nhưng nhiều học sinh Trung Học ở Đà Nẵng biết tôi đấy. Tôi cho chị biết, chị sẽ ở tù vì cái tội phét lác của chị, chị hãy ghi nhớ lấy lời của tôi nói hôm nay đấy nhé».


    Mà quả đúng như vậy. Không phải chỉ với «Công an Chấp pháp» mà ngay cả bây giờ bà Sáu-Liên-Thanh Nga cũng không trả lời được những câu hỏi ấy.

    Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đã kể rằng, nhờ bà có tiền đưa cho công an Đà Nẵng, nên bà đã sao lục lại được các giấy tờ, thì bà cũng phải biết, người khác, nếu họ có tiền, thì họ cũng sao lục được những tư liệu của bà ở các cơ quan công an vậy. Song theo tôi nghĩ không cần phải có tiền, nhưng nếu có ai đó họ muốn làm sáng tỏ mọi việc, họ nêu ra những điều hợp lý, thì công an Việt Nam cũng sẽ cho họ những bản photocopie của những gì mà họ cần.

    Tất cả những điều tôi đã viết ra đây, không phải chỉ những người trên chuyến tàu vượt biển ngày nào, mà cả trại cải tạo Tiên Lãnh ai cũng biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã từng làm vợ bé.

    … Bà Sáu-Liên-Thanh Nga có muốn chúng tôi viết lên những gì đã xảy ra tại Hố Nai và đứa con trai tên Dương của bà hay không ?


    Tôi vẫn nhớ, có một lần trong trại cải tạo, khi đội nhà 10 do Thiếu tá Trương Quang Dõng làm đội trưởng khi đi lao động ngang qua trại nữ, lúc đó bà Sáu-Liên-Thanh Nga đang nhóm rác ở tổ vệ sinh trước trại; và Thiếu tá Trương Quang Dõng đã bị bà Sáu-Liên-Thanh Nga chửi mắng và đòi tát vào mặt vì cái «tội» nói bà là vợ bé của bạn tôi đến nỗi «cán bộ dẫn giải» phải đứng ra can thiệp. Anh Trương Quang Dõng và vợ là chị Tuyết cùng các con hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ.

    Tôi hiểu được tâm trạng đau khổ, hối hận của bạn tôi vì đã trót lầm lỡ lấy bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đến có con. Bây giờ bạn tôi đã sống ấm êm bên vợ và một đàn con cháu. Vì thế, nên bạn tôi không muốn các con của ông biết đến chuyện sai lầm của cha mình. Nhưng tôi nghĩ rằng các con của bạn tôi nay đã trưởng thành, có trình độ Đại Học, thì các cháu ấy sẽ không có sự trách móc gì đến chuyện sai lầm của cha mình trong quá khứ. Về phần người vợ của bạn tôi là một người rất rộng lượng, cảm thông. Nên tôi nghĩ rằng, đến một ngày nào đó, bạn tôi sẽ lên tiếng để nói lên mọi sự thật. Tôi đang chờ ngày ấy.

    Trong trại cải tạo ai cũng biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga có biệt danh là «Con Liên Bẹc» «Bẹc» là một tiếng lóng trong trại có nghĩa là láo-phét, để chỉ người hay nói phét. Chính trong cuốn «Đóa Hồng Gai» bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã viết: «Liên là tên thường gọi của tôi». Và ông Phạm Hồng khi ngồi bên cạnh bà Sáu-Liên-Thanh Nga trên đài SBTN để trả lời phỏng vấn của nhà báo Vi Anh, ông Phạm Hồng cũng xác nhận là: «Đã nghe những lời của công an trại nữ nói về cái con Liên - Liên, cái con Liên-Liên đó».

    Bà Sáu-Liên-Thanh Nga chắc không bao giờ quên được cái tên Nguyễn Thị Liên từ đâu mà có chứ ???

    Cũng trong cuộc phỏng vấn này bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã nói với nhà báo Vi Anh:

    "Tôi làm cả Tham Mưu và cả Hành Chánh. Tôi có quyền quyết định tất cả mọi việc …"

    Nghe những lời nói trên đây của bà Sáu-Liên-Thanh Nga, có nhiều người bạn của tôi đã nói là chắc bà này hoặc là điên, hay là «Điếc không sợ súng». Bởi bà không biết một điều sơ đẳng nào cả, không biết Tham Mưu và Hành Chánh là như thế nào nên mới nói càn, nói ẩu, hoặc phát cơn điên, nổi cơn hứng mới dám phát biểu một cách đại ngôn như vậy.

    Chẳng những Đại ngôn đâu, mà bà Sáu-Liên-Thanh Nga còn lòi đến tận cùng của cái dốt khi lập đi, lâp lại với nhà báo Vi Anh rằng:

    «Tôi muốn cuốn hồi ký (Đóa Hồng Gai) được quay thành PHIN …».

    Tôi nhớ hôm đó, có mấy người bạn tôi ngồi xem, đến khi bà cứ nói PHIN …PHIN … PHIN thì ai cũng cười hết.

    2. Những hành vi của Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga trong trại "cải tạo":

    Lúc còn ở trong trại cải tạo, có lần tôi bị bệnh được đưa về nằm tại bệnh xá Trại 1. Tôi có quen biết nhiều nữ tù; trong đó có cô Hoàng Thị Ký An, là Ái nữ của Trung Tá Hoàng Nguyên Chỉ huy trưởng Quân lao Quân Khu 1, ông cũng ở cùng trại tù với con gái ruột là cô Ký An ; và tôi cũng thường gặp cô Ký An và nhiều nữ tù khác, mỗi lần họ vào bệnh xá trại nam để nhổ răng hay khám bệnh, vì trại nữ không có Bác sĩ. Vì vậy, nên tôi đã biết nhiều về những việc làm bất nhân của bà Sáu-Liên-Thanh Nga, kể ra thì nhiều lắm nhưng tôi chỉ nói qua một số ít như sau:

    Phải nói cho đúng là trong thời gian đầu kể từ ngày bị bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20/09/1977, tại đồn công an biên phòng Thừa Lưu cho đến tháng 05 năm 1981, ở trong trại cải tạo bà Sáu-Liên-Thanh Nga vẫn được nhiều người trong trại thương mến.

    Tại trại cải tạo hàng năm «Ban Giám Thị» đã nói có ba đợt tha tù đó là: «Sinh nhật Bác Hồ - Lễ Độc Lập 2-9 và tết Nguyên Đán, nếu ai học tập cải tạo tốt thì sẽ được tha».

    Bà Sáu-Liên-Thanh Nga, đã được tha vào dịp 19/05/1981. Bà đã vào hội trường trại nam cùng một số người khác học tập nội quy lần cuối, đã làm «Tờ kiểm điểm» để xuất trại. Nhưng bất ngờ đến buổi sáng ngày ra trại khi bà cùng một số nữ tù ra cổng để báo cáo xuất trại thì đã bị nghe đọc «Lệnh Câu Lưu Của Ban Giám Thị ».

    Thực ra bà không có tội gì lớn mà phải bị câu lưu, mà đã vì cái tội nói phét. Bà Sáu đã bị bà Nguyễn Thị Ngân một cán bộ can tội «Tham ô» hại bà. Bởi trong thời gian ở trại giam Tam Kỳ lúc đó Bà Sáu-Liên-Thanh Nga còn được gia đình thăm nuôi, còn bà Ngân thì không có ai thăm nuôi cả. Vì thế, bà Ngân vì thiếu thốn nên hàng ngày phải múc nước cầu thay cho bà Sáu mỗi phiên vệ sinh, ngoài ra phải rửa chén, giặt áo quần cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Bà Sáu-Liên-Thanh nga cũng cần một người như vậy, nên đồng ý cho bà Ngân ăn chung. Tại các trại tạm giam như Đà Nẵng-Hội An- Tam Kỳ thì các «Phạm nhân» đều bị giam chung một phòng. Nhưng khi bị giải giao lên trại cải tạo Tiên Lãnh, thì các tù nhân đều bị chia ra. Vì thế, bà Sáu-Liên-Thanh Nga không ở chung phòng với bà Ngân. Tại trại cải tạo ai cũng phải biết một trong «35 điều nội quy» của trại là:

    « Điều 27: Nghiêm cấm mọi trại viên không được bắt người khác phục vụ cho mình ».

    Biết «Nội quy» là như vậy, mặc dù hai người ở riêng hai nhà, nhưng hàng ngày bà Ngân cứ đến xin thức ăn của bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Lúc bấy giờ, thấy không thể bắt bà Ngân phục vụ cho mình như trước nữa, vì sợ «Vi phạm Nội quy» nên bà Sáu không chịu giúp đỡ bà Ngân. Chính vì thế, bà Ngân đã làm một «Tờ trình» nghĩa là tố cáo bà Sáu-Liên-Thanh Nga lúc ở dưới trại tạm giam ở chung với nhau bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã nói với bà rằng:

    «Ngày xưa tui làm lớn lắm, mỗi lần chính quyền ở quê tui mà bắt được Việt Cộng thì họ phải trói lại để dưới gốc cây đa, rồi cho người mời tui về nhìn mặt rồi mới đem ra xử bắn».

    Những lời bà Ngân tố cáo này tôi nghĩ cho đến nay cũng còn lưu giữ tại trại cải tạo Tiên Lãnh. Theo tôi, thì bà Sáu-Liên-Thanh Nga chỉ nói phét, chứ không bao giờ có cái chuyện chính quyền nào mà có những việc làm như vậy. Vả lại, bà Sáu-Liên-Thanh Nga là cái thá gì mà quyền hành ghê gớm như thế ? .

    Chính vì vậy, mà bà bị «câu lưu» để điều tra. Cái miệng nó hại cái thân, bà bị đi thẩm cung nhiều lần. Nhưng không hề bị cùm giờ nào cả. Nên biết, nhà cùm biệt giam ở bên trại nam, trại nữ không có nhà cùm, nhà cùm này nằm ngay cạnh nhà 12, góc Hội trường của trại, gần cổng trại nam nhìn xuống nhà cấp dưỡng (nhà bếp). Trừ những người cựu tù trong trại cải tạo này đã và đang là đồng Đảng với bà Sáu-Liên-Thanh Nga, còn tất cả các vị khác đều công nhận những điều tôi nói là hoàn toàn đúng với sự thật. Cũng nên biết, mỗi lần đi thẩm cung, mọi người đều thấy bà Sáu-Liên-Thanh Nga, luôn luôn ngồi giữa thanh thiên bạch nhật trên chiếc ghế cạnh chiếc bàn được «Trật tự» trại đem kê sẵn ở ngay Hội trường, để bà Sáu-Liên-Thanh Nga ngối viết «Tường thuật». Nên biết là Hội trường trống trơn không có vách, nên ai cũng nhìn thấy cả. Mà chính vì nói phét nên bà viết «Tường Thuật» hoài mà «Cán bộ An ninh» chẳng hiểu một điều gì ; bởi vậy, nên bà cứ phải viết nhiều lần, chứ không có bị công an tra tấn, đánh đập gì cả. Nên biết, những «Cán bộ An ninh» này đều có «Trình độ nghiệp vụ» hẳn hoi, nên không dễ gì khai gian, nói dối. Khi tôi viết những điều trung thực này tôi biết rằng sẽ có người chụp mũ tôi là cộng sản hoặc bênh vực công an trại. Nhưng tôi không sợ, vì cộng sản mà biết nói những lời trung thực hay sao ? Và tại trại cải tạo này, tôi thấy chỉ có «Cán bộ dẫn giải» tức công an vũ trang là có quyền đánh tù nhân, có khi đánh đến trọng thương, nếu «Vi phạm Nội quy» như: Trốn trại, không chịu lao động ... còn «Cán bộ Quản giáo» và «Cán bộ Trực trại»thì không bao giờ đánh tù; nhưng lại có quyền lập biên bản mỗi lần tù nhân có những lời nói khinh thường «Các cán bộ» hay «Nói xấu chế độ» ... những «Tội» này một khi bị lập biên bản và đưa lên «Ban Giám Thị» thì chắc chắn sẽ bị vào nhà cùm hoặc bị «Câu lưu». Thời gian «câu lưu» tùy theo mức độ «Vi phạm».

    Sau một thời gian bị thẩm cung, có một lần bà Sáu-Liên-Thanh Nga bị cúp thăm nuôi. Và từ đó, suốt thời gian bị câu lưu từ tháng 5 năm 1981, cho đến ngày bà rời trại cải tạo, không có ai đi thăm nuôi bà một lần nào nữa cả. Trong thời gian này, phải nói là bà sống trong cảnh rất thiếu thốn. Hàng ngày với phần ăn của tất cả tù cải tạo đều chỉ được chia cho một chén sắn độn cơm (loại chén nhôm mà ngày xưa bộ đội miền Bắc thường dùng, nó lớn bằng cái bát uống nước loại nhỏ) và một tô canh rau muống hoặc đậu, bí, bầu … do tù sản xuất. Chỉ đến các ngày lễ như: Lễ Độc Lập 2-9, hay Tết Nguyên Đán … thì tù cải tạo mới được ăn «Bồi dưỡng» bằng cơm trắng và mấy lát thịt heo.
    Và cũng chính vì những sự thiếu thốn, gia đình không thăm nuôi vì bà chị đi buôn Sài Gòn bị tai nạn gãy tay. Cộng thêm với tánh tình và lời nói khiếm nhã, nên đã khiến các bạn tù mà từ lúc đầu mới nhập trại họ từng thương mến, nhưng sau đó họ bắt đầu xa lánh. Nên biết, có nhiều người trong trại không bao giờ có thăm nuôi, vì gia đình nghèo hoặc vợ đã bỏ đi lấy người khác, song họ vẫn được các bạn tù chia xẻ nên không quá thiếu thốn.

    Riêng bà Sáu-Liên-Thanh Nga, từ lúc bị câu lưu có thể vì quá sợ nên quẩn trí, tinh thần của bà mỗi ngày càng khác lạ. Rồi đến một ngày bà nổi điên, bà không làm ăng-ten lén lút, mà bà công khai trước mắt mọi người, hễ thấy trong trại có chuyện gì được cho là «Vi phạm Nội quy» là bà công khai gọi «cán bộ trực trại» đến để trình ; dù là chuyện nhỏ nhặt như đổi áo quần lấy quà thăm nuôi … bà trình tuốt luốt. Trình đến nỗi có những lần «Cán bộ trực trại» chán quá nên khi bà gọi: «Thưa cán bộ … Thưa cán bộ ...» là «Cán bộ trực trại» đã giả vờ không thèm nghe và bỏ đi không quay nhìn lại. Bởi thế, nên suốt ngày, đêm; suốt những tháng năm cuối trong trại, bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã bị các tù nhân đồng lòng cô lập; không một ai nói chuyên với bà, dù chỉ một lời thôi. Tôi còn được các bạn trong trại đã kể nhiều chuyện lắm, như chuyện bà đã đem lòng yêu say mê các Sĩ quan như anh Mai Chiến Hạ, Giáo sư Nguyễn Văn Phùng, anh Đỗ Phạm Hiển … trong khi họ chỉ xem bà như là bạn tù, chuyện đó dễ hiểu, bởi họ đều biết bà là vợ bé của bạn tôi và cũng là bạn tù của họ. Có lẽ sau khi đọc bài viết của tác giả Mai Vĩnh Thăng, tôi nghĩ rồi sẽ có nhiều bài viết của nhiều người cùng trại nữa, để mọi việc sẽ được rõ ràng hơn.

    Nhưng tôi biết chắc có một nạn nhân của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đã bị «Kỷ luật» nặng nhất đó là bà Nguyễn Thị Cương, bà là vợ của ông Đặng Chua; nhà ở Phường Thanh Bồ, Đà Nẵng. Bà can tội đưa người vượt biển, vì bà đã đưa người em gái ruột cùng ba đứa con nhỏ đi vượt biển, để đoàn tụ với người chồng là một thông dịch viên ở trong quân đội Hoa Kỳ; ông đã di tản trước khi đất nước rơi vào tay của cộng sản. Vì vậy, mà bà đã bị kết án ba năm tù ở, khi vào trại bà Nguyễn Thị Cương cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga ăn chung một thời gian. Nhưng không hiểu tại sao sau đó bà Cương không cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga ăn chung nữa. Có người nói: Lý do là vì bà Sáu-Liên-Thanh Nga không có thăm nuôi, cũng có người cho rằng cái tánh tình của bà Sáu «Ưa làm bà nội người ta» nên bà Cương không chịu nổi, nên không cho ăn chung.

    Song, dù vì lý do nào đi nữa, thì bà Sáu-Liên-Thanh Nga cũng đã làm bà Cương phải bị câu lưu ba tháng. Đó là nhân ngày lễ giảm án hàng năm tại hội trường trại nam, vào tháng 5/1984. Bà Nguyễn Thị Cương đã được đọc tên là trại viên được giảm án sáu tháng. Nhưng đến ngày mãn án, bà Cương chuẩn bị để ra trại, thì bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã làm «Tờ trình» với «Ban Giám Thị» nội dung nói bà Cương đã kể với bà Sáu-Liên-Thanh Nga là do chồng bà Cương chạy vàng cho tòa án nên bà được giảm án sáu tháng. Chuyện này hư thực ra sao, chồng bà Cương là ông Đặng Chua có chạy vàng hay không thì chẳng ai biết. Nhưng «Ban giám thị» đã gọi cả hai người, cả bà Cương lẫn bà Sáu-Liên-Thanh Nga đều phải vào Hội trường trại nam để viết «Bản Tường Thuật». Phần bà Cương đã viết là không hề nói chuyện đó với bà Sáu-Liên-Thanh nga; còn phía bà Sáu-Liên-Thanh Nga thì lại khai là chính bà Cương đã kể chuyện đó. Nhưng ai cũng hiểu, cho dù ông Đặng Chua có chạy vàng cho vợ được giảm sáu tháng tù thì cũng vì lòng thương vợ. Riêng về phía «Ban Giám Thị» cho dù có biết chuyện chạy vàng có thật, thì cũng ở dưới Tòa Án Thành Phố Đà nẵng, chứ công an tại trại cải tạo chắc chẳng có xơ múi gì. Nhưng «Ban Giám Thị» trại đã tuyên bố:

    «Trại viên Nguyễn Thị Cương đã bôi bác chế độ, chứ nhà nước XHCN luôn luôn trong sạch không bao giờ nhận tiền, vàng hối lộ. Vì vậy, chúng tôi quyết định câu lưu trại viên Nguyễn Thị Cương ba tháng và chịu phạt lao động công ích một tháng».

    «Lao động công ích » , nghĩa là phải lao đông 12 giờ một ngày, không được nghỉ trưa; và bà Nguyễn Thị Cương đã phải chịu đủ hình phạt ấy trước khi rời trại.

    Sau khi ra tù vì quen biết với ông Đặng Chua, tôi đã đến thăm viếng gia đình ông bà; đến lúc tôi định chào ông bà xin cáo từ, thì bỗng đâu có hai cháu, là con gái của ông bà xuất hiện trước mặt tôi, đó là cháu Đặng Thị Vinh và cháu Đặng Thị Hiển. Hai cháu đều nói với tôi:

    «Tụi con nghe nói bác cùng đi vượt biển với bà Liên, vậy tụi cháu xin bác chỉ cho tụi con biết cái mặt của bà Liên (tức Sáu-Thanh Nga) để tụi con coi thử cái mặt bả ra làm sao mà bả ác quá vậy ?».

    Tôi chưa kịp trả lời hai cháu Vinh- Hiển, thì bà Nguyễn Thị Cương liền kéo tay tôi ra hiên nhà nói nhỏ:

    «Tui xin ông, ông đừng có chỉ cho hai đứa nó biết mặt con Liên, vì tui sợ hai đứa nó tức giận, lỡ tụi nó đánh hay nó thuê người đánh con Liên là tui khổ lắm đó».

    Tôi hỏi: Sao chị lại khổ ?

    Bà Cương trả lời: «Vì nếu như vậy, công an mà bắt ra họ khai thác, họ sẽ biết hai đứa này là con gái của tui, thì họ sẽ bắt tui, họ sẽ nói tui thù con Liên, nên tui trả thù, mà tui sợ ở tù lắm ông ơi ! Một lần tui tởn tới chết. Vậy, tui xin ông đừng bao giờ chỉ cho tụi nó biết mặt con Liên nghe ông».

    Nghe những lời bà Cương nói như vậy, tôi đã hứa là không cho hai cháu Vinh-Hiển biết mặt bà Sáu-Liên-Thanh Nga; mặc dù lúc đó tôi cũng như nhiều người từng ở trong trại cải tạo Tiên Lãnh, đang sống tại Đà Nẵng, đều biết hàng ngày bà Sáu-Liên-Thanh Nga vẫn đạp xe đạp đi đến ngồi bán thuốc lá lẽ ở ngã tư Chợ Cồn, Đà Nẵng.

    Sau một thời gian, tôi lại nghe những người cựu tù nói lại là bà Sáu-Liên-Thanh Nga đã bị mấy người phụ nữ lạ mặt đánh cho một trận đòn chí tử, đi không nổi, phải bò, đến nỗi phải bỏ đất Đà Nẵng ra đi. Không ai biết người nào đã đứng đàng sau mấy người phụ nữ lạ mặt đã đánh bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Bởi lúc ở trong tù, bà đã gây thù chuốc oán quá nhiều.

    Trong lần thăm viếng này tôi có hỏi lại chuyện chạy vàng cho tòa án; thì ông Đặng Chua trả lời:

    «Tôi chẳng có chạy vàng, tiền gì cả. Chỉ vì bà vợ tôi, vì thương em ruột của bả nên đã đưa mẹ con nó đi vượt biển, để cho vợ chồng con cái đoàn tụ, còn vợ tôi không có vượt biển mà phải ở tù, trong khi các con tôi gồm năm đứa, chỉ có cháu Vinh và Hiển là lớn, còn ba đứa sau còn nhỏ, từ bốn tuổi, năm tuổi và bảy tuổi, mà thiếu mẹ; nên tôi đã làm đơn xin cứu xét gửi đến Tòa Phúc Thẩm Đà Nẵng. Vì thế, họ đã cứu xét và giảm án sáu tháng».

    Đó là chuyện thiên hạ sự. Hư thực như thế nào tôi cũng không cần biết. Chỉ thấy tội bà Cương phải bị câu lưu ba tháng tù, mà còn bị phạt «Lao đông công ích» nữa.

    Về những «Bản Tường Thuật» và những lời tố qua, tố lại do chính tay của hai người là bà Nguyễn Thị Cương và Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đã viết và đã ký, tôi chắc hiện vẫn còn lưu giữ tại trại cải tạo Tiên Lãnh.

    3. Những Hoạt động trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh của tác giả «Đóa Hồng Gai»:

    Từ trang số 216, bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, đã kể rất nhiều về những hoạt động của bà và đã nhận tiền của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (tức Đảng Việt Tân) khi còn ở trong nước vào tháng 4 năm 1991; nhưng vì quá dài dòng nên tôi không thể trích hết vào đây. Tuy nhiên, tôi cũng phải trích vài đoạn ngắn như sau:

    «Về Sài Gòn được ít lâu, anh Nuôi đến tận Bàu Nai gặp tôi và hẹn tôi tới một tiệm ăn ở gần chợ Hòa Hưng, để gặp một đại diện của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh mới ở Mỹ về.

    Trước đây, tôi đã nghe tên Mặt Trận Hoàng Cơ Minh khi đài BBC và báo chí trong nước tường thuật về cái chết của Tướng Hoàng Cơ Minh … Tôi nghĩ rằng đây là một tổ chức dám làm nên rất phấn khởi (từ phấn khởi này sao nghe giống Việt Cộng quá vậy ?) khi được gặp đại diện của Mặt Trận …. Anh Nuôi giới thiệu với tôi người lạ mặt đó là ông Phạm Trung Bửu, (Bí danh) Tổng Vụ Phó Quốc Nội của Mặt Trận…

    Trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai này, ngoài tôi, anh Nuôi và ông Bửu, còn có thêm anh Trung tá Tấn (hiện cũng đang ở Mỹ). Trong buổi cơm chiều hôm đó, ông Bửu đã trình bày cho tôi biết sơ qua về tổ chức của Mặt Trận và mục tiêu mà Mặt Trận muốn đạt tới. Ông nói ông có nhiệm vụ thiết lập thêm nhiều cơ sở hoạt động ở trong nước và hướng dẫn tôi về các phương thức xây dựng các cơ sở hạ tầng tại địa phương. Sau đó ông trình bày về các công tác mà Mặt Trận muốn giao cho tôi thực hiện. Ông hỏi tôi có thể đảm nhận những công tác đó không. Tôi bảo đảm với ông tôi thừa can đảm và kinh nghiệm để làm những chuyện đó. Ông liền giao cho tôi một số công tác để thử. Tôi đã hoàn thành không có gì khó khăn.

    Một thời gian sau, Mặt Trận có giao cho tôi những công tác khác và gởi cho tôi một số tiền để thực hiện các công tác đó. Tôi cũng đã hoàn thành một cách tốt đẹp ….

    Đến trang 232, chương Chân Trời Mới- Ra Hải Ngoại.

    «Khi tôi báo tin cho đại diện của Mặt Trận biết tôi được phái đoàn phỏng vấn … ông Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội đã yêu cầu tôi ở lại Việt Nam và hứa sẽ giúp tôi đầy đủ phương tiện để sinh sống và hoạt động, nhưng tôi từ chối, vì muốn đến Hoa Kỳ để chữa bệnh … Tôi có hứa tôi sẽ hoạt động trở lại sau khi chữa bệnh xong.

    … Mặt Trận cũng quan tâm đến tôi. Tôi mới đến Detroit mấy ngày đã nhận được thiệp chúc mừng của Vụ Tổ Chức và Huấn Luyện. Đại diện của các cơ sở Mặt Trận ở Canda và Chicago cũng đến thăm tôi. Cơ sở Chicago mua vé máy bay cho tôi đi Chicago ăn Tết. Tại đây, tôi được đón tiếp rất niềm nở. Cơ sở đã tổ chức một buổi tiệc tân niên lớn, có đông đủ đoàn viên đến tham dự. Trong buổi tiệc này, tôi được giới thiệu đứng lên kể lại cuộc sống trong trại tù cộng sản …Sau đó, Bác sĩ Trần Xuân Ninh, Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại, và phu nhân mời tôi dùng cơm riêng tại tư thất của ông bà … Sau đó, Giáo sư Vũ Quý Kỳ, Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại, và phu nhân đã mời tôi ăn cơm thân mật tại tư thất của ông bà…

    Tôi rời Michigan để về Cali vào ngày 10.3.1993, khi đang có những trận bão tuyết dữ dội. Trên đường đi, máy bay phải đổi giờ bay hai ba lần. Mãi đến hai giờ sáng, tôi mới tới phi trường Los Angeles. Người đón tôi tại phi trường là anh Đỗ Hoàng Điềm, Xứ Bộ Trưởng Nam Cali. Anh đưa tôi về nhà anh nghĩ qua đêm. Sáng hôm sau, anh Bùi Huy, Chi Bộ Trưởng, đến đưa tôi tới một căn phòng ở trên đường Kedge mà họ đã thuê sẵn của một gia đình người Việt Nam cho tôi ở, đồng thời hướng dẫn tôi về cách sinh sống và di chuyển trong vùng. Tôi rất mừng vì được sống trong một gia đình Việt Nam …

    Sau khi nơi cư trú của tôi tạm ổn định, những anh em trong Mặt Trận đưa tôi đến sinh hoạt với Tổ Chức Liên Minh Tự Do. Hàng tháng Mặt Trận có trợ cấp cho tôi một số tiền để mua sắm những vật dụng cần thiết …»

    Như tôi đã nói ở trên, bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Nguyễn Thanh Nga, đã kể lê thê về những hoạt đông của bà với Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, (Việt Tân) nếu phải trích, phải đọc cho hết, thì chắc các con cháu tôi phải kêu xe cấp cứu của bệnh viện, vì tưởng tôi bị bệnh thổ tả.

    Vì vậy, tôi xin dừng lại nơi đây; để trích qua đôi điều trong cái tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» gồm 19 trang ấy. Trong đó, có đầy đủ các phương thức trong toàn bộ sách lược hoạt động. Để mọi người thấy được phần nào về cái mặt thật của Tổ chức này và cũng từ đó cứ «Lấy trong ý tứ mà suy … » để hiểu thêm tại sao trong tổ chức này lại có vô số cái giả .

    Tài liệu này cũng đã có ghi nhiều tên đảng viên cộng sản thuộc hàng cao cấp nhưng tôi chỉ nêu lên một số ít như sau:

    Nguyễn Hộ - Hồ Hiếu - Dương Thu Hương …….

    Đến đây, chúng tôi lại xin phép được ngưng trích, và xin nói thêm là cái tên của một người, mà tôi đành phải để ba chấm ở trên mà không thể nêu đích danh; mặc dù trong tập «Tài Liệu Tuyệt Mật» đã có ghi rõ họ tên. Chúng ta hãy chờ xem. Hỡi những kẻ bất nhân trong môt băng đảng gian manh, tàn ác, chắc các ngươi không thể nào ngờ được «19 trang của cái gọi là Tài Liệu Tuyệt Mật» cùng toàn bộ sách lược đã nằm gọn trong tay của một người xa lạ ???.

    Chúng tôi cũng thừa hiểu, khi biết chúng tôi đã có trong tay những tài liệu này, thì những tên đầu đảng phải tìm hướng đi cho khác với những gì đã ghi trong cái «Tài Liệu Tuyệt Mật».

    Nhưng cho dù có thay đổi bằng cách nào đi nữa, thì những nhân sự đã ghi đầy đủ ấy, không sao thay đổi được. Chúng tôi cũng tiên liệu được mọi điều. Vì thế, chúng tôi không công bố sớm, vì làm như vậy, chúng tôi xét thấy không có lợi. Nên cho đến bây giờ mới đem ra công bố một phần rất nhỏ để cho đồng bào được biết .

    Và bây giờ, tôi xin trở lại với tác giả «Đóa Hồng Gai». Trong thời gian qua bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Nguyễn Thanh Nga, đã được băng đảng này đưa đi diễn lắm trò, từ Mỹ, đến Úc, rồi sẽ đến Pháp và còn nhiều nơi nữa … Trước đây, tại Nam Cali bà ta đã lập ra cái gọi là «Hội Của Những Người Vợ Của Cựu Tù Trại Cải Tạo Tiên Lãnh». Bây giờ lại lòi thêm ra một màn «Đoàn ngũ hóa nhân dân». Mà có điều thật khôi hài, lố bịch là khi kéo nhau đi sinh hoạt, cho đến lúc đứng chụp hình chung với các bà trong cái hội này lại có «ông Nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh. Và suốt trong buổi sinh hoạt đó Hồ Văn Sinh luôn có mặt bên cạnh bà Sáu-Liên-Thanh Nga tác giả «Đoá Hồng Gai». Sao lạ vậy ? Hội của các bà mà lại có «ông» Hồ văn Sinh ? Sao không dám nói Hồ Văn Sinh là cố vấn hay đạo diễn.

    Tôi biết đa số các bạn cựu tù của trại cải tạo Tiên Lãnh đang có mặt ở hải ngoại. Tôi nghĩ dù không nhớ hết, nhưng ít ra cũng biết và nhớ đôi câu trong một bản nhạc do "Nhạc sĩ" Hồ Văn Sinh sáng tác. Tôi còn nhớ khi mới nhập trại, tôi gặp Hồ Văn Sinh làm «Kỹ thuật».

    Nên biết, Hồ Văn Sinh làm kỹ thuật tại trại cải tạo; nhưng không phải là làm kỹ thuật máy móc, điện tử … mà làm kỹ thuật lao động. Nghĩa là ngày đêm phải «nghiên cứu» tức là phải nghĩ ra những cách nào để bắt tù cải tạo phải «lao động cho đúng kỹ thuật».

    Thí dụ, khi nam tù nhân thay trâu cày, cuốc cho nữ cấy thì phải đúng «kỹ thuật» là cày sâu, cuốc bẩm; còn nữ cấy thì phải thẳng hàng, với kỹ thuật là 4x4. Nghĩa là cây mạ nầy cách cây mạ kia phải đều nhau 4 cm và phải «đạt chỉ tiêu ba người 500 m2 (năm trăm mét vuông) một ngày. Khi nam đốn củi cho nữ tù vác xuống chất thành mét khối, thì phải «đạt chỉ tiêu chung bốn người 6m3 (sáu mét khối) trong ngày …. Còn nhiều thứ «kỹ thuật lao động» lắm mà chẳng làm sao kể cho hết được. Ngoài ra, Hồ Văn Sinh còn kiêm chức «Thường Trực Thi Đua» của Trại 1.

    «Thường Trực Thi Đua». Nghĩa là phải «khuyến khích» đội này «Thi đua» với đội khác. Đội nào kém hơn thì khi họp đội phải bị ghi trong biên bản là «Lao động chây lười» ; Mà trong những lần họp toàn trại «Ban giám thị» của trại luôn nói với tù cải tạo rằng: « Lao động là thước đo của thời gian cải tạo », thì mọi người đã hiểu «Lao động chây lười» thì cái thước đo ấy nó sẽ dài đến bao nhiêu ? Sau đó, Hồ Vãn Sinh được chuyển lên phân trại Thôn 5 để phụ trách đội văn nghệ; thì tôi cũng được chuyển lên phân trại Thôn 5 cùng trại với Hồ Văn Sinh.

    Ngay thời gian đầu mới phụ trách phần văn nghệ của trại; Hồ Văn Sinh đã sáng tác ra liền được một bản nhạc để ca tụng Đảng - Bác - Ca tụng trại cải tạo và để khuyên tù cải tạo đừng trốn trại. Bản nhạc này đã được lệnh của «Ban Giám Thị Trại» bắt buộc tù cải tạo mỗi lần sinh hoạt đội, hoặc sinh hoạt toàn trại, tất cả tù nhân nam, nữ đều phải vừa vỗ tay vừa hát. Nếu ai không vỗ tay, không hát sẽ bị vào nhà cùm kỷ luật. Dù thay đổi bao nhiêu lần «Giám Thị Trưởng» cũng như cả «Ban Giám Thị» Nhưng lệnh này vẫn không thay đổi. Nhân đây, tôi xin chép lại để mọi người thấy «ông nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh này còn vô liêm sỉ hơn cả Trịnh Công Sơn.

    Trong cuốn «Hồi ký Đóa Hồng Gai» ở trang số 131, tác giả có kể:

    «Sau những giờ lao động, tù nhân còn bị bắt buộc phải học tập chính trị, nghe đọc báo, tập hát … »

    Vậy, tôi xin chép lại nguyên văn bản nhạc mà tất cả các tù nhân ở trại 1 cũng như các phân trại khác thuộc trại tù Tiên Lãnh ai cũng bị bắt buộc «chấp hành mệnh lệnh của Ban Giám Thị» phải vừa vỗ tay, vừa hát, lời nhạc như sau đây:

    «Tiên Lãnh hôm nay sao mà đẹp thay, từng đồng lúa chín thơm ngát vầng trời mây … Ai tham gia lao động trên đất nầy … Ôi vinh quang thay … người lao động hôm nay… Ai … đến nơi đây mà lòng không thấy ngất ngây… Những cánh đồng thẳng cánh cò bay … những hương thơm cỏ cây ngan ngát … Nghe như chừng có Bác về đây … Ai biết chăng ai … ta hãy cùng nắm lấy bàn tay … quyết một lòng thi đua xây đắp … trên vùng đất này … để ta cùng dâng lên Đảng - Bác … những tấm lòng son sắt hôm nay.
    …………………………………………………………………………………………………. Tiên Lãnh mê say Thiên Đường là đây, từng đàn bướm trắng bay khắp từng ngàn cây ... Ôi như mơ như mộng bao tháng ngày ... Ta không ra đi ... ta ở lại nơi đây… Ta … ngắm mây bay mà lòng mê đắm ngất say … Những sớm chiều mây lững lờ bay … những nương khoai vườn rau xanh mát … Ôi bao đời mới có hôm nay … Mây biết chăng mây … ta đã tìm đến chốn nào đây… biết một lần muôn sau ôm ấp … trong lòng rất đầy … để ta về đêm đêm tỉnh giấc … vẫn nhớ hoài năm tháng hôm nay».

    Đó là những lời nhạc của «Nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh người đã ở trong trại cải tạo vì tội Vượt Biển và là người phụ trách «Kỹ Thuật kiêm Thường Trực Thi Đua» và là «Trưởng Ban Văn Nghệ» của trại tù Tiên Lãnh.

    Ngoài những điều đã nói ở trên, Hồ Văn Sinh còn là một đệ tử thân cận của ông Võ Đại Tôn; mà trước đây từng tham gia trong cái gọi là «Hội Nghị Liên Kết Trong Ngoài». Tôi vẫn thuộc lòng bốn câu thơ của cụ Gàn Bát Sách đã viết tặng cái «Hội Nghị» này, và một lần nữa tôi xin phép Cụ để trích lại bốn câu thơ đó để mọi người đọc cho vui lời thơ như sau:

    «Chẳng thà nó nhỏ nó thong,
    Còn hơn nó lớn, nửa trong nửa ngoài.
    Chẳng thà nó nhỏ nó dài,
    Còn hơn nó lớn, nửa ngoài nửa trong».


    Rồi cụ viết tiếp: «… Đã vào thì phải vào tuốt ở trong, thì mới đã. Bằng không thì ở hẳn bên ngoài chứ cứ ở nữa trong nữa ngoài thì đâu có sướng ». Đó là những lời của cụ Gàn Bát Sách, cụ còn viết nhiều lắm, mỗi khi có thì giờ tôi lại lục tủ báo Văn Nghệ Tiền Phong, để đọc lại những bài viết vô cùng giá trị, của những cây bút đã từng nỗi tiếng mấy chục năm qua.

    Cuối cùng, để thấy được mọi việc một cách rõ ràng hơn nữa. Chúng tôi xin gửi đến quý vị đồng hương một đoạn ở trong tập «Nội San Việt Tân» nơi trang 9, số 38, tháng 7-8/1999, nguyên văn như sau:

    «Việt Tân xác nhận tính toàn dân của cuộc cách mạng tháng 8-1945 và tính tự chủ của chính quyền được hình thành vào tháng 9-1945; - Hai đặc tính Cách Mạng và Dân Chủ của Đảng Việt Tân».

    Đến đây, tôi thấy không cần phải viết thêm một điều gì nữa. Bởi, chừng ấy thôi. Ngoại trừ những kẻ đang theo đuổi bả Lợi-Danh. Còn đối với những người dân lương thiện, cho dù chỉ là một người dân quê ít học, với bộ óc bình thường nhất, họ cũng thấy rõ ràng cái bộ mặt thật của băng đảng này rồi. Chẳng có cách nào để biện minh cho những việc làm của đảng Việt Tân.

    Cuối cùng, với bài viết này, chúng tôi xin đề nghị quý vị cựu tù tại Trại cải tạo Tiên Lãnh; cả hai trại Nam và Nữ, ai còn nhớ về những bản nhạc của «ông Nhạc sĩ» Hồ Văn Sinh; cũng như những hành vi của hai Nhân-Vật nầy; nếu hiện nay không là Đồng Đảng với Hồ Văn Sinh và bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên, tức Nguyễn Thanh Nga, tác giả «Đóa Hồng Gai» thì xin hãy vui lòng liên lạc với Tin Paris để bổ sung thêm những gì còn thiếu sót mà chúng tôi chưa ghi chép đầy đủ.

    Ngô Đông Cường

    Lấy từ: http://tinparis.net/vn_index.html



    Trở Về

    Tri Gỉa, Tri Gỉa Và Tri Gỉa Trong Thời Đại "Đồ Giả"


    Trương Minh Hòa

    Trong giới "khoa bảng ... lề" tại Việt Nam, theo giới chức "bình dân học vụ" quan niệm y chang như chuyện "báo cáo thủy văn, khí tượng" tin chắc chắn như bắp là những người có trình độ cao cấp, cao đẳng, cao cẳng, cao giò ... mà gốc gác ngày xưa phải được xuất phát từ cái nôi từ: "Văn minh miệt vườn" và sau 1975 có nền văn minh thời thượng thuộc: "Văn hóa Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây", với nhiệm vụ tối cao là đem ánh sáng "văn minh BỘ LẠC" vào miền Nam để khai hóa nhằm: "Biến người thành vượn chỉ mất 3 năm"; đó là những đỉnh cao trí tệ, thuộc loại trí thức Háng thâm, Háng rộng, Háng dài, Háng Sâu, Háng đen, Háng Trắng, háng lát, háng ghẻ, háng lác, háng lan ben .... nếu là phái yếu thì không nên "Hở Háng" mà can tội: "Công súc tu sĩ" mà vô tình "để lộ cả khung vàng dưới đáy khe" như bà bán gạo, vì sơ ý, bị ông già Tàu cảnh báo giữa chợ với âm mưu diễn biến hòa bình rằng: "nị TẺ LỘN ra" mà chưa "nhận thức" được cái "sự cố" cực kỳ nghiêm túc, có chiều sâu "kách mạng" nầy, sau cùng "giác ngộ" ra khi ông già Tàu cầm cầy gậy chỉ trúng ngay vào "hang Pác Pó" thì bà ta mới thực sự "giác ngộ cách mạng" mà khép giò lại và sau đó tìm mọi cách "khắc phục cái mặt yếu" nầy.

    Những người tài ba lổi lạc "hậu" ấy được đảng và nhà nước "nhất trí" nâng cấp thành: "Đỉnh cao trí tệ nòi người", biến nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành LÒ xuất khẩu ra loại quân hàm học vụ: "Tiến sĩ Cầu Muối, Bác Sĩ Lò Heo Chánh Hưng, Kỷ Sư Đồng Ông Cộ, cử nhân Cầu Bông, dược sĩ từ trường thuốc rê Gò Vấp ..." đầy đường, sát cánh cùng với: "Anh hùng khủng bố" công an nhăn răng, cà chớn đầy đường, quân hại nhân dân, các cấp QUỶ từ quỷ ban nhân dân xã đến thành quỷ. Đó là lối đào tạo nhân tài theo tiêu chuẩn QUỐC TÉ (tức là thành phần nầy được đi du học, thường bị TÉ trước các kỳ thi trắc nghiệm trình độ ở các trường đại học do bọn "tư bản phản động" điều hành và chấm điểm): "Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức", nên văn bằng cũng lạm phát như đồng bạc mang hình Hồ Chí Minh mất giá mãi mãi, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy cũng hổng bao giờ thay đổi.

    Người ngoại quốc nào khi vào Việt Nam lần đầu du lịch, có dịp đi từ phường khóm, làng xã đến trung ương, ngay cả những người đảm trách công tác như: "giữ xe, quản lý cầu xí công cộng, Ao Cá Bác Hồ, canh gác động đĩ ..." nếu có văn phòng làm việc thì cũng có treo văn bằng với mộc đỏ như màu vải của lá cờ đảng Cộng Sản, hay cũng là màu mà giới phụ nữ "phát hiện" ra hàng tháng được nhuộm qua tấm băng, khi hang Pác Pó ra báo cáo khẩn trương: "nghiêm túc cấm Bác Hồ không được vào đây hội ý hay làm cách mạng giải phóng với bất cứ tình huống nào" tức là đâu đâu cũng thấy cán bộ treo bằng cấp đầy cả văn phòng làm việc, nên tưởng nước nầy có nền văn hóa cao lắm mà thán phục. Ngay cả thằng "tưởng thú" tức là thủ tướng không người lái Nguyễn Tấn Dũng với trình độ lớp 7, bây giờ nghe đâu có tới 2 bằng cử nhân, nhưng đi công du, cũng phải nhờ thông ngôn tiếng Anh để "quán triệt" những ngôn từ: "cực kỳ phản động" của đế quốc Mỹ; có thể nói thủ tướng VẸM Nguyễn Tấn Dũng còn cao hơn Háng Học, nay được nâng cấp thành "nhà NÁCH HỌC" vĩ đại, là nhà lãnh đạo kiêm lãnh tiền hối lộ mà trở thành tỷ phú đô la Mỹ, thế mới thấy được thế nào là: "tri giả, tri giả, tri giả ... và tri giả".

    Những nhà thuộc giai tầng Háng Học nêu trên, nhất là sau 1975 khi mà những cán ngố, cán dốt, cán khờ, cán ác, cán ngáo tay cầm Cáng mã tấu, súng Ak:"Tiến vào Sàigon, trận cuối chưa phải là trận nầy" đã ngơ ngác như những anh chàng Tarzan lần đầu được nhìn thấy tận mắt cái: "Nền văn minh cực kỳ phản động, lạc hậu, lỗi thời của tàn dư chế độ Mỹ Ngụy để lại" nhưng cực kỳ chất lượng, nên ai cũng quơ quào đi tìm những: "thứ vật chất phản động" như truyền hình, đài, tủ lạnh, xe hơi, vàng .... để mang về "cải tạo" thành: "tài sản định hướng theo xã hội chủ nghĩa", được sáng tạo, tối tạo thành: "lấy công cho tư". Tuy nhiên, nhiều tên Tarzan "thời thượng" đã bị những tay làm hàng nhái, hàng giả, mà đa số là những: "Đồng hương thân thương" của Ngài Mao Chủ Tịch và Trung Quốc vĩ đại, với truyền thống là, đô giả, hàng nhái vô địch: "đã từng bao phen làm bạt vía kinh hồn nhiều gã: "Giặc từ RỪNG RÚ vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào" ngậm bồ hòn, dậm chân khi bị mua nhằm "hàng giả" thế mới đúng là: "tri giả, tri giả, tri giả ....", tức là"mua rồi mới biết hàng giả" thì làm sao kiếm được kẻ bán hàng giả mà đòi trả lại .

    Nếu dùng chữ Háng, giải thích theo nghĩ ĐÙI cho dễ hiểu và được toàn thể nhân dân chấp nhận rằng: "tri giả, tri giả, tri giả ... tức là biết ĐỒ GIẢ thì đừng mua". Do đó, khi nhắc đến hàng hóa giả, dổm, nhái ... thì cái câu: "Made in China" cũng nên "đề cao cảnh giác trước những âm mưu diễn biến hòa bình của các hãng xưởng từ Trung Quốc", từng có thành tích: làm biết bao người "tiền mất, của bỏ" mà đau như thiến, dĩ nhiên là sau khi trao tay là không có chuyện "REFUND" hoặc: "money back guarantee" như các hàng hóa sản xuất từ các nước "tư bản phản động". Đỉnh cao trí tuệ nòi đười ... sau 1975 cũng từng thấm thía những hàng giả, nhưng làm y như thiệt: "Đồ Hồng Kông, làm bên hông Chợ lớn", ngoài ra còn bị hố khi đem đổi những chiếc đồng hồ mắc tiền (do ăn cướp khi mới vào) như Omega, Rolex, Longine .... lấy các đồng hồ điện tử, mà những Tarzan nầy vô cùng "hồ hởi phấn khởi" lúc đầu khi nhìn thấy chiếc đồng hồ điện tử quá ư là hiện đại và "không người lái" lúc còn pin chạy. Sau nầy khi hết pin, mới hiểu thế nào là "tri giả, tri giả, tri giả ..." khi đổi nhằm thứ đồ "cao cấp hơn cả đồ giả" mà trở thành "tá hỏa".

    Tri giả, tri giả, tri giả ... là điều mà nhân loại, hay là "loài người tiến bộ thứ thiệt" chớ không phải "nòi người tiến bộ, đỉnh cao trí tệ Việt Cộng "quan niệm" ăn cướp vùng lên để đổi đời "theo cái chủ thuyết dạy làm ăn cướp là chủ thuyết Marx Lenin. Do đó toàn thể thế giới lẫn "thế giái, thế háng, thế hang" ngày nay phải luôn luôn đặt trong "tình huống" để cao cảnh giác từ cao độ đến độ thấp nhất, tất cả mọi thứ: "Trước những âm mưu diễn biến làm hàng giả, có cầu chứng MADE IN CHINA "tràn ngập cả thị trường từ các châu lục, đó là" các thế lực làm đồ giả, luôn đe dọa lòng "tín nhiệm "của những người ham mua đồ vừa rẻ, vừa đẹp và bền" dễ bị bực mình khi biết đó là những sản phẩm, mà Việt Cộng goi là "chất lượng cao" với tiêu chuẩn BA-TÊ ( Thứ-Thiệt-Tệ).

    Cái Giả không bị giới hạn trong vấn đề hàng hóa, mà hầu như mọi thứ giả lan tràn như "bịnh cúm gia cầm" trên toàn cầu; nhân loại trải qua những quá trình lịch sử như: thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt ... sau 1975 thì ở miền Nam dân chúng "quá độ" sang thời kỳ "chà đồ nhôm" và sau nhiều thập niên tại Việt Nam cũng như thế giới đang "kinh qua" thời đại ĐỒ GIẢ, có tầm vóc "toàn cầu", cái giả ngày nay trở thành "thế giới đại đồng giả", tức là "giả không người lái"; giả từ hàng hóa, bằng cấp, tôn giáo, con người, từ thiện, tổ chức giả .... khắp nơi nơi đều là "đồ giả" thì người ta phải: tri giả, tri giả, tri giả ..... khi nhìn thấy giả là tránh xa. Có nhiều thứ giả, lẫn lộn vào thứ thiệt, vàng thau lẫn lộn, khiến cho nhiều người bị lầm; do đó bất cứ lúc nào, mọi người nên: "dò xét ít nhất là bảy lần trước khi mua, hàng, tham gia tổ chức, đóng góp từ thiện ...", nhất là những gì xuất phát từ các nước thuộc "đỉnh cao trí tệ nòi người" thì xác xuất giả "vượt chỉ tiêu" hơn những nước "tư bản phản động, lạc hậu lỗi thời".

    Kỳ Thế Vận Hội Bắc Kinh được tổ chức đúng 8 giờ ngày 8 tháng 8 năm 2008, với 5 cái còng số 8 do Hội Nhà Báo Không Biên Giới đặt đúng cái tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Mao Trạch Đông là nếu khối Cộng Sản thắng thế thì "năm châu đều bị còng"; tuy nhiên, cái ngày bế mạc thì lại đúng 8 giờ tối, mà ngày là 24 tháng 8, trật bài bản "hẩu, hẩu, hẩu", là điều mà các quan chức lãnh đạo Bắc Kinh cũng không thấy hài lòng, nếu ngày 28 thì coi như "toàn số 8" mới đủ bộ, đảng Cộng Sản Trung Cộng tin cái điều "duy tâm siêu hình" dù họ tự nhận là "duy vật". Đây là kỳ tranh tài thể thao, thể tháo đẳng cấp "thế giái" lần thứ 29 (nếu lần 28 thì hay biết mấy), là kỳ Ố LIỀM- BÚA (Olympic) theo tinh thần thế vận hội được "nhốt" trong trại cải tạo "ổ chim sắt" vĩ đại dưới biển máu là "cờ đỏ" của nước Cộng Sản tràn ngập cả vận động trường từ lúc mới khai mạc đến chấm dứt; cuộc tổ chức thế vận lần nầy, thật bất thường, được coi là kết quả của hai bên chỉ THÔNG mà không CẢM: Ủy Ban tổ chức thế vận IOC gồm đa số là các thể tháo gia, thể tháo già, không rành về chính trị, chính em và những mưu đồ gian manh của Cộng Sản Trung Quốc, dễ trở thành những kẻ "ngây thơ già" nên lầm tưởng là nhờ thế vận mà Trung Cộng sẽ cải thiện tình trạng nhân quyền, có tự do, dân chủ như các nước mà họ đang sinh sống.

    Trái lại, Trung Cộng muốn nhân cơ hôi nầy để phô trương một nước Trung Hoa vĩ đại, giàu mạnh là nhờ "áp dụng thành công chủ nghĩa Cộng Sản" và cũng để rửa mối thù mà từ hơn 100 năm qua, bọn "Bạch quỷ" đã lấn lướt, coi thường, vây hãm, chiếm đất; một điều lý thú là năm 1997, Anh Quốc trao trả thuộc địa Hồng Kông lại cho Trung Cộng, thì năm 2008, Trung Cộng lại trao ngọn cờ thế vận cho Anh, gần một con giáp. Hai bên "đồng sàn dị mộng" gặp nhau tại Bắc Kinh, thì thế giới và cái ủy ban Thế Vận mới tá hỏa là Trung Cộng vẫn thờ Mao Trạch Đông (thủ phạm tàn sát hơn 65 triệu người mà vẫn được các lãnh tụ các nước dân chủ không đá động tới), Trung Hoa Lục Địa vẫn "đông phương hồng" và chế độ không thay đổi, khiến báo chí nước ngoài bị giới hạn. Tuy nhiên IOC đã lỡ trao thế vận cho kẻ gian đăng cai, đành phải:

    "Cũng đành nhắm mắt đưa chân.
    Thử coi Thế Vận tiến dần tới đâu?".


    Một thế vận hội mà từ lúc rước đuốc với con đường "vạn lý trường chạy" theo đúng kế thứ 36 trong tam thập lục kế "tẩu vi thượng sách", hình như cây đuốc thế vận nầy cũng nhằm ghi nhớ là cái ngày mà Mao Chủ Tịch cùng hàng trăm ngàn "đồng chí" chạy thụt mạng về phía Bắc, trốn chui trốn nhủi trong hang núi Diên An, trong cái gọi là "vạn lý trường chinh" vì bị quân của Tưởng Giới Thạch truy rượt. Vừa tổ chức thế vận và cũng vừa sợ bị biểu tình từ các du khách Tây Phương, người Tây Tạng và các bộ tộc, giáo phái Pháp Luân Công đòi nhân quyền, tự do tôn giáo; cho nên Trung Cộng đành cắn răng chịu lổ, giả vờ hết vé, để dành cho ưu tiên cho những người "Hán Tộc", theo đài truyền hình số 7 ở Úc, thì trong ngày khai mạc Thế Vận, Trung Cộng dành hơn 5 sư đoàn công an, bộ đội, mặc thường phục, giả làm khách xem, ngồi kín cả vận động trường "trại cải tạo tổ chim" có sức chứa 91 ngàn, tức là số "phe nhà" chiếm phân nửa, thì có ai dám trương cờ Tây Tạng, ủng hộ tự do tôn giáo .... hó hé là lực lượng công an, quân đội đàn áp và đưa đi mất ngay. Do đó, đi dự thế vận hội Bắc Kinh rất là an toàn, an ninh như bất cứ trại tù cải tạo nào ở Hoa Lục.

    Ông chủ tịch IOC là Jaque Rogue, gốc Bỉ, đã ngậm phải "củ cải muối" mà vẫn khen ngọt, không dám nhăn mặt, ông cho là "nhờ thế vận hội mà thế giới mới hiểu biểu nhiều về Trung Quốc ...", đúng vậy, thế giới từng biết Trung Cộng là nước Cộng Sản khát máu, ma đầu, tác ác, gian hiểm, là nơi chuyên làm hàng nhái, giả, dổm, đồ ăn Trung Cộng có nhiều độc chất, quần áo, đồ chơi cũng không an toàn .... bây giờ thì tay nầy bắt, nhưng tay kia thủ sẵn con dao, thừa cơ hội đâm lén, như câu: "nhất đẳng huyền đai, không bằng dao phay chém lén". Trung Cộng giúp cho Sudan diệt chủng, Miền Điện, Bắc Hàn, đô hộ Việt Nam qua tập đoàn Thái Thú gốc Việt ... thò bàn tay lông lá cho các tổ chức phiến loạn Maoist .... trên thị trường thì hàng hóa có đề câu "Made in China" là khỏi cần phải nói: dổm, không bền, độc hại ... "hàng Trung Quốc có vất bỏ cũng đừng lấy". Do đó, cái bản chất giả, dổm vẫn là truyền thống của Trung Cộng, nên cái tổ chức Thế Vận Hội Bắc Kinh được coi là: thế dị hội, thế dổm hội, thế gian hội cũng đâu có sai. Ngay trong lễ khai mạc, đồ giả tung ra ngay: bắn pháo bông giả, em bé nhép môi cho giọng hát em bé thật ca, trong cuộc tranh tài thì lực sĩ khai gian lận tuổi ... và hy vọng rồi đây sẽ tìm thấy những cái giả khác, khi mà thế giới đã nhận biết Trung Cộng là thứ có "nghiệp chuyên" giả.

    Thế giới ngày nay cũng không thiếu gì chuyện giả, như ở Nam Hàn, nhà sư Phật Giáo (chắc là trí thức Phật Giáo) là Ji-Gwang, vào ngày 18-8-2007 đã lên tiếng xin lổi vì đã xài bằng tiến sĩ giả do đại học quốc gia cấp ở Hán Thành, gây chấn động trong giới "khoa bảng" thứ thiệt và cũng làm giảm uy tín của hệ thống trường đại học quốc gia nầy.

    Ở Iran, bộ trưởng nội vụ tên là Ali Kordan, tự nhận có bằng tiến danh dự ở đại học Oxford, London (Anh Quốc), khi quốc hội Iran "phát hiện" mới đây ngày 08 tháng 08 năm 2008, gây xôn xao trong dân chúng. (http://www.nowpublic.com/world/iranian-ministers-oxford-degree-fake)

    Ở Canada cũng có cái vụ "mục sư giả", một số tín hữu Tin Lành muốn "về nước chúa" sau nầy, hay là có ý đồ đen tối ở thế gian mà tự phong "mục sư" dù chưa được đào tạo ở các trường đại học Tin Lành. (http://www.benedictionblogson.com/2008/07/25/more-canadian-religious-leaders-with-connections-to-diploma-mills-and-unearned-doctorates/

    Trở lại người Việt, thì "thời đại đồ giả" cũng tác động không ít vào "môi trường hàng giả toàn cầu"; có nhiều người trước 1975, không hề đi lính (trốn lính là chắc), khi sang đến trại tỵ nạn, khai lính Việt Nam Cộng Hòa để sớm định cư; một số bộ đội, cán bộ Việt Cộng lấy giấy tờ quân nhân để đi tỵ nạn; nên thời ông thủ tướng John Howard ở Úc, ông bộ trưởng Cựu Chiến Binh Bruce Scott kêu gọi cộng đồng người Việt Tự Do hảy tố cáo những tên Việt Cộng len lõi, hưởng tiền cấp dưỡng của bộ Cựu Chiến Binh (Veteran affairs). Sĩ quan giả cũng "mọc lên như nấm" là thứ "sĩ quan không người lái" lính, hạ sĩ quan .... tự nhiên "vinh thăng tại bàn nhậu", chớ không phải "vinh thăng tại mặt trận"; một số sĩ quan thì tự động thăng cấp, nên có ông thiếu úy, bây giờ lên thiếu tá, trung sĩ y tá thành "trung tá y sĩ" là giả đấy.

    Tuy nhiên, quân lực Việt Nam Cộng Hòa có chính nghĩa nên mới có nhiều người giả danh, giả quan, giả lính; chớ bộ đội Cộng Sản, có ai giả là thượng úy, thượng tá, tỉnh ủy để hù và lấy oan với người Việt tỵ nạn hải ngoại bao giờ?. Tại các nước có quân tham chiến, một số người chưa hề sang Việt Nam, vậy mà giả làm cựu chiến binh đồng minh, mang huy chương giả đi diễn hành. Con người cũng giả nhiều thứ, nhất là sau thời kỳ Việt Cộng mở cửa để tồn tại trong tương kế tựu kế", nhiều bà bị chồng đá đẹp, về Việt Nam cưới vợ nhí, thế là các bà vợ từng "biết nhau từ thuở mười ba, năm em mười tám, thiếp đà 5 con" trở thành "quá date", bị chồng thay lòng đổi dạ sau khi Việt Cộng Đổi mới, bèn "biến ghen tuông hành động", dùng tiền đi sửa sắc đẹp, mua các loại mỹ phẫm hảo hạng; nên nhiều bà có tuổi "đáng bà nội, bà ngoại" mà nhìn mặt tưởng là "gái mười tém" sau khi được các bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ ra tay cứu giúp, nhưng không phải giúp chùa, trả tiền cao như câu "bánh dừa đi, bánh tét lại", có bà còn nắm vững cả những "nguyên tắc chỉ đạo chiến lược thời thượng" nghĩ đến việc tân trang cả ngoài lẫn trong để cho các thứ "vũ khí ta mang" đều hiện đại "chất lượng cao", có sáng kiến nhờ các bác sĩ "vá cửa mình" để cho Bác Hồ ra vào hang Pác pó mà: "lòng phơi phới một tương lai nên hồ hởi phấn khởi, thể bám trụ, bám chốt, bám hang nầy đến khi giã từ gác trọ" mà vẫn còn hẹn "kiếp sau" xin được đầu thai lại, gặp nhau để hát bài "tiếng chày trên sóc Bam Bo" với câu: "giã gạo ban đêm", giã gạo hoài mà không ngừng nghỉ "đêm bảy ngày ba, ra vô không đăng ký hộ khẩu". Tuy nhiên, nếu các bà không nắm vững câu: "tiền nào của đó" cứ ham rẻ về Việt Nam để biến cải thành "Tây Thi", có ngày trở thành "Chung Vô Diệm" khi gặp phải bác sĩ giả đầy cả nước, dụng cụ thiếu vệ sinh, mang luôn Sida ... thì mất cả chồng lẫn tiền và nhiều khi vong mạng như chơi.

    "Phụ nữ ngày nay sửa mệnh trời.
    Cải lão hoàn đồng, cũng dễ thôi.
    Cô đặng mũi cao nhờ nhựa độn.
    Bà căng vú thẳng, tợ xuân thời.
    Trong vá cửa mình, căng âm đạo.
    Ngoài thì giải phẫu, mặt dễ coi.
    Đề phòng bác sĩ y khoa giả.
    Mặt mày biến dạng, xấu như chơi"


    Bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ, đúng là cái phao cuối cùng để giúp các bà bị lâm vào cái "tình huống" cực kỳ bi đát, di "tàn dư của tà sách ĐỔI MỚI" của Việt Cộng; cũng tại lũ Việt Cộng mà gia đình tan nát, bỏ nước ra đi, nay thì cũng Việt Cộng mở cửa, gia đình cũng "mở luôn cửa trước lẫn sau" ra tòa ly dị, chia của thì các bà nào bị tan nát gia đình nên thù Việt Cộng, là nguyên nhân chính đấy. Nhưng xin đừng lo, có tiền là có thể đảo ngược tình hình:

    "Từ cuộc giải phẫu hôm nay.
    Ta trẻ đẹp gấp mười lần xưa"

    Ngoài ra, tại hải ngoại còn có nhiều loại thần dược như: đông trùng hạ dế, Linh chi, yến sào, nhất là sửa con ong chúa 63 (con ong thường có mật nhưng có sữa mới là chuyện khó tin nhưng có thiệt), nhưng đừng xài sữa con VẸM chúa 36 là có ngày" thân bại danh liệt; điển hình là nhà béo Vũ Ngọc Ém dùng sửa con Vẹm chúa 36 lâu năm, bỗng bị "phát hiện" mà tên tuổi đi tuốt xuống Ao Cá Bác Hồ, ban biên tập tờ Vẹm Weekly, tờ nhật báo Người Vẹm, cũng từng xài sữa con Vẹm Chúa 36; sữa nầy do Việt Cộng sản xuất, cũng là sữa giả đó, ở hải ngoại có đại lý bán, do Cẩu Cao Cầy, nghe nói muốn mua thì lên lạc với trang web: www.kỳnhônghouse.com (liên lạc không được ráng chịu nghe, đừng chửi là chỉ tầm bậy)

    Nước ngoài cũng có ĐỐC TƯA-GIẢ, mà lâu nay, người ta tưởng thiệt, như trường hợp của Mông Xừ TRẦN TÊ-TÊ, nay lừng danh là Đốc-Tưa TRẦN ĐẠI SỠI, bắt đầu sự nghiệp "ăn học thành tài" từ năm 1959, đậu bằng tú tài toàn năm 1959 với hạng THỨ (theo kinh nghiệm thì muốn vô học bác sĩ y khoa, đòi phải đậu tú tài 2 từ hạng bình đến ưu, chắc là không đủ tiêu chuẩn), học ban B mà đi theo Hán văn thì coi như "học lộn xòng", đáng lẽ phải đi ban khoa học chính xác mới trúng địa chỉ văn hóa, nên chuyện bất thường là cậu sinh viên Trần Đại Sỡi bèn nhảy qua học sư phạm ban Hán Văn (chớ không phải HÁNG VĂN, học Háng Văn không cần bằng tú tài, bất cứ ai cũng học được, miễn là có BÁC HỒ còn tốt là có thể học mau lắm), tốt nghiệp năm 1963, thì đúng là học trình sư phạm 4 năm. Nhưng năm 1965, tức là 2 năm sau thì có bằng "BÁC SĨ Y KHOA", thế mới là bằng giả, có trường đại học y khoa miền Nam hay thế giới tự do nào có học trình 2 năm mà làm bác sĩ? Hoặc vừa học Sư Phạm vừa học Y Khoa cùng lúc. Quả thật đó là "bậc thiên tài Lường Gạt có Bằng CẠP"! Ấy vậy mà có những thằng "bác sĩ thiệt " lại tôn hắn làm tôn sư bên Tàu qua dạy đó ! Ngoại trừ các trường đại học ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, với nguyên tắc học: "dốt như chuyên tu, ngu như tại chức" thì bằng nào mà không có. Một điều ngoại lệ, khó tin nhưng có thật là: thời Việt Cộng khủng bố trước 1975, ở các mật khu thường hay có mở các khóa đào tạo "bác sĩ, quân y sĩ", sinh viên hổng cần bằng tú tài, biết đọc biết viết tiếng Việt và được vô đảng Cộng Sản là đủ tiêu chuẩn, chương trình vừa học lý thuyết và vừa thực tập trên thân thể du kích bị thương, chỉ mất 6 tháng là tốt nghiệp, gọi là Bác sĩ mật khu; bác sĩ nầy giỏi về tài dùng nước dừa xiêm thay cho serum, cấy nhao theo phương pháp Filotov, sau nầy được dân truy tặng danh hiệu: "lương y như đồ tể".... nếu bác sĩ Trần Đại Sỡi học thời đó thì dư thời gian, nói thiệt thì không ai "thét méc", thật thà khai báo là được nhân dân khoan hồng. Tiến sĩ giả cũng không thiếu như P. V. Song.

    Người giả, bằng giả là chuyện xảy ra, thì làm văn hóa giả cũng thấy như trường hợp nhà văn NGUYỄN MẠT-GIỐNG, nhà thơ DÊ - TỬ - LU, thẩm phán nhà văn xạo Vẹm TÁN-GÙ (Lãng Giư), nhạc sĩ VÃNG-THÀNH-U với các bài "không tên" như: "Người con gái không cần ĐI ĐÁI, chuyện ăn ten làm nhiều đau thương ...", Nhạc sĩ PHẠM DUI, trung tâm băng nhạc THÚI-NGHE với MC kiêm nhà văn Ngã Ba Ông Tạ NGUYỄN NỌC NẠN .... một số trang Web giả danh tỵ nạn, kết bạn Cộng Sản như Giáo Điếm, đài phát thanh SRBS, Diễn đàn PHẮNG-NỐ ... tu sĩ giả thì nhiều lắm, điển hình như Thích TRÍ XIU, TỆ SĨ ... các tu sĩ "về nguồn Pác Pó", linh mọp C. Đ. Minh, mọp sư Huỳnh.Q Bình .... Tổ chức chống Cộng giả như Mặt Trợn phở bò (sau đổi thành quán Vịt Tiềm), hai cánh Vịt Tiềm đều là giả chống Cộng cả. Tổ chức có đám THÔNG LỒN, đổi thành Tạp Nhạp Dân chủ Điên Ngoa với kỹ sư Nguyễn Diễn Ca; phản tỉnh cũng GIẢ, Việt Cộng đưa hàng giả phản tỉnh như: cu đại tá BÌNH TÚI, Huỳnh Minh Chán (đã tiêu diêu nơi miền Lê-Mác) ....v..v...

    Tu giả cũng là cái phong trào "thời thượng", nên tại Việt Nam, công an được biên chế vào tu, trở thành chức sắc, xuất ngoại dễ dàng như đi chợ; tu giả sinh ra "từ thiện giả" được những kẻ "giả nhân giả nghĩa" lợi dụng lòng hảo tâm để thu tiền; ngày nay thì vấn đề từ thiện trở thành "vở kịch lói vô duyên" tại hải ngoại, khi khám phá ra những kẻ "ăn cơm nhà HÀNG vác ngà voi" cũng là kẻ vác luôn túi tiền để làm "từ thiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Ngay cả vấn đề thương tâm là giúp đỡ các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, cũng nên cẩn thận, vì những kẻ "lừa thầy phản bạn thường hay giả dạng kẻ nhân từ" lợi dụng lòng tri ơn đối với những anh hùng dân tộc, hy sinh một phần cơ thể cho đất nước, họ quyên tiền, giúp cho cả những tên khủng bố Việt Cộng bị quân ta trừng trị trong lúc gây tội ác; đó là những tấm lòng ĐẠI-BÁC, thì những người muốn tri ân các chiến sĩ cũng nên "chọn tổ chức gởi tiền" chớ lầm tổ chức giúp phế binh Việt Cộng mà sau khi đưa tiền là hối tiếc; thương binh liệt xịu sĩ Việt Cộng là những tên từng đuổi thương phế binh quốc gia để cướp nhà trong các trại gia binh, cư xá phế binh; chúng được đồng đảng ban nhiều đặc quyền, đặc lợi, được cấp dưỡng, và còn vênh mặt là "yêu nước", nay có người lại quá nhân đạo, làm dùm công tác cho bộ thương binh xã hội Việt Cộng, trong khi lính quốc gia đáng giúp hơn. Tốt hơn hết là các quân nhân biết trong đơn vị, quân trường, còn ai ở lại, giúp đỡ là không bao giờ sai lầm, đó mới là "tri giả, tri giả, tri giả ..." còn biết tổ chức giả mà cứ nhắm mắt đóng góp là sai lầm, tiền mất mà lại "bức xức" khi biết mình không tri giả trước khi làm từ thiện mà lầm thứ giả.

    Trong nước thì bằng cấp giả là "chủ yếu" nâng cao trình độ dân chí, dân rận, dân rệp Việt Nam là nơi đào tạo nhiều giới khoa bảng đạt tiêu chuẩn: "nhỏ không học, lớn có bằng tiến sĩ", cái bằng tiến sĩ kiếm dễ như câu "có tiền mua tiên cũng được" chỉ cần có 5 nghìn Mỹ Kim, là các khoa trưởng đại học sẵn sàng cấp bằng tiến sĩ, thì ra các khoa trưởng "độc hại" ở Việt Nam cũng biết "kinh doanh" chỉ có một tờ giấy đáng giá vài xu, thêm cái mộc và chữ ký mà bán được 5 ngàn Mỹ Kim, thì có thương vụ nào làm ra nhiều tiền bằng?.

    Nhờ vậy mà trong nước có giới khoa bảng: tiến sĩ Cầu Muối, Bác Sĩ Cầu Chữ Y, dược sĩ trường thuốc rê Gò Vấp, kỹ sư nông nghiệp rừng U Minh, bác sĩ thú y trường lò heo Chánh Hưng ngoài ra có các trường đào tạo "nghiệp chuyên" cho ra lò những "tiến sĩ may-mặc" (không lẽ may vụt), tiến sĩ thể dục thể thao dưới tiến sĩ phải là PHÓ TIẾN SĨ, nghe qua cũng oai lắm. Với một đất nước sản xuất ra "quá tải" tiến sĩ thì đây mới đúng là "thiên đàng trí tệ", trong tương lai, từ anh nông dân, đạp xe xích lô, chị bán hàng rong đều có ít nhất là bằng cử nhân và cao hơn là tiến sĩ, thì chắc chắn là nước Việt Nam đáng được thế giới đổ về để học, trao dồi văn hóa, kiến thức.

    Thời đại đồ giả ngày nay lên đến "đỉnh cao" có tầm vóc toàn cầu, nên ngay cả các tu sĩ Phật Giáo, khi đi thuyết pháp, đăng báo, thường có kèm theo hai chữ TÊ-ẾCH (TS) mới oai, nhất là các bằng tiến sĩ tốt nghiệp từ viện nghiên cứu LÀO, thì càng có giá trị cao hơn là các trường đại học các nước "tư bản phản động" như Harvard, Cambridge, Oxford ... từ những thứ giả coi như "khắp nơi nơi đều là đồ giả" Tuy nhiên, những người, tổ chức thứ THIỆT yên tâm, do từ nhiều cái giả chung quanh mà cái thiệt mới tăng giá trị, nhờ ánh sáng mà phân biệt được bóng tối, tức là: "vàng thiệt không sợ lửa", và những thứ giả, từ từ cũng lòi ra như cây kim để trong bọc, thế gian không ai mù cả, chỉ có những kẻ gian chủ quan tài "gian lận" mà làm ra nhiều thứ giả, thì mặt giả, hàng giả, tổ chức giả ... lần lượt bị lộ ra, đó là hậu quả của những thứ giả phải trả vậy.

    Trương Minh Hòa



    Sau đây là những site web làm bằng cấp giả từ cử nhân đến tiến sĩ mọi ngành
    http://www.nd-center.com/Samples.html
    http://www.diplomamakers.com/
    http://diplomacompany.com/

    http://www.boxfreeconcepts.com/download/index.html
    http://www.diplomasandtranscripts.com/

    Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch không công nhận


    BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
    PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
    Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
    B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
    Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

    Fax: Paris (331) 45 98 32 61
    E-mail: http://www.blogger.com/ubcv.ibib@buddhist.com
    Web: http://www.queme.net/




    THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 25.08.2008

    Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch không công nhận
    các tổ chức Phật giáo tiếm danh GHPGVNTN tại Canada, Úc châu và Âu châu

    PARIS, ngày 25.8.2008 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được Thông bạch của Viện trưởng Viện Hóa Đạo về việc tiếm danh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tại hải ngoại do Viện Hóa Đạo trong nước gửi ra để phổ biến.

    Kể từ Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007 nhằm thiết lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo và kiện toàn GHPGVNTN tại hải ngoại theo lập trường, đường hướng của Giáo hội trước tình thế mới, bỗng xuất hiện một số chư Tăng và Cư sĩ nổi lên chống đối Giáo chỉ số 9. Tuy rằng những kẻ chống đối này vẫn luôn miệng tuyên bố là họ trực thuộc và trung thành với GHPGVNTN và « tuân lệnh » Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.

    Lập luận như thế khác nào nhóm công dân nào đó nói rằng tôi tin tưởng và tôn kính Tổng thống Hoa Kỳ, nhưng không công nhận Hiến pháp và Luật pháp Hoa Kỳ ?

    Do đó mà sau Giáo chỉ số 9, có một số chư Tăng và Cư sĩ tại Hoa Kỳ ly khai đường lối và lập trường của GHPGVNTN để cho thành lập tổ chức mới mang tên « Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ ». Trường hợp này không có gì đáng nói, vì các vị này sử dụng quyền dân chủ để chọn lựa chính kiến họ theo, nên xuất hiện dưới một danh xưng khác với GHPGVNTN.

    Tuy nhiên, tại Canada, tại Úc châu – Tân Tây Lan và Âu châu thì không như thế.

    Thượng tọa Thích Bổn Đạt ở Canada, Hòa thượng Thích Như Huệ, Hòa thượng Thích Bảo lạc, Thượng tọa Thích Quảng Ba, v.v... tại Úc châu – Tân Tây Lan, và Hoà thượng Thích Minh Tâm tại Châu Âu tuyên bố trên văn bản hay trong hoạt động không khâm tuân Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, không tuân hành các Thông bạch, Thông tư của Viện Hóa Đạo. Nhưng vẫn tiếp tục tiếm danh GHPGVNTN. Động thái này gây hoang mang dư luận trong Cộng đồng Người Việt Hải ngoại nói chung và Cộng đồng Phật giáo nói riêng. Lựa chọn hay theo đuổi một chính kiến là quyền tự do của mỗi cá nhân hay đoàn thể trong các quốc gia dân chủ. Nhưng không thể bắt cá hai tay hay lập lờ đánh lận con đen giữa chính kiến và danh xưng. Nhất là đối với một giáo hội dân lập và lịch sử có hai nghìn năm thực chứng, như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

    Vì vậy, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo ban hành Thông bạch số 31 ký ngày 24.8.2008 về việc tiếm danh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại hải ngoại. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn Thông bạch ấy như sau:

    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT VIỆN HÓA ÐẠO
    Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu,
    Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh

    Phật lịch 2552 Số 31/VHÐ/VT

    THÔNG BẠCH
    CỦA VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO

    về việc tiếm danh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại hải ngoại

      Kính gửi: Chư Tôn Giáo Phẩm thuộc Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN,
      Ban Điều Hành Văn Phòng II Viện Hoá Đạo,
      Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất các cấp.
    Kính bạch chư Tôn giáo phẩm,

    Kể từ ngày Giáo chỉ số 9 do Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành nhằm thiết lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo và kiện toàn nhân sự cùng lập trường GHPGVNTN tại hải ngoại, bỗng nhiên xuất hiện một số chư Tăng và Cư sĩ tỏ ý bất khâm tuân Giáo chỉ của Đức Tăng thống.

    Từ sự bất khâm tuân Giáo chỉ số 9, chư vị nói trên hoặc đứng ra tổ chức Giáo hội dưới danh xưng khác, hoặc tiếp tục tiếm danh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đó là trường hợp của Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Canada của Thượng tọa Thích Bổn Đạt, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan của các vị Hòa thượng Thích Như Huệ, Hòa thượng Thích Bảo Lạc, Thượng tọa Thích Quảng Ba, v.v... và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Âu châu của Hòa thượng Thích Minh Tâm.

    Chiếu Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bản Đại hội GHPGVNTN khóa V tu chính ngày 12.12.1973, và tại các điều 18, 19, 20 và 36 ;

    Chiếu Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống ban hành ngày 8.9.2007 nhằm thiết lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo ;

    Chiếu Thông bạch của Viện Hóa Đạo ban hành ngày 25.9.2007 hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống ;

    NAY VIỆN HÓA ĐẠO QUYẾT ĐỊNH

    Điều 1: Không thừa nhận và không chịu trách nhiệm bất cứ tổ chức nào sử dụng danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), khi tổ chức này không tuân thủ Hiến chương GHPGVNTN bản Đại hội GHPGVNTN khóa V tu chính ngày 12.12.1973, cũng như không khâm tuân Giáo chỉ số 9 cùng các Thông điệp, Thông bạch, Thông tư của Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN. Mọi sử dựng danh xưng GHPGVNTN trong trường hợp này chỉ là sự tiếm danh.

    Điều 2: Căn cứ vào điều 1 trên đây, Hội đồng Lưỡng Viện không thừa nhận là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất các tổ chức tiếm danh sau đây:
      - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Canada của Thượng tọa Thích Bổn Đạt ;

      - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan của các vị Hòa thượng Thích Như Huệ, Hòa thượng Thích Bảo Lạc, Thượng tọa Thích Quảng Ba, v.v..., và

      - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Âu châu của Hòa thượng Thích Minh Tâm.
    Điều 3: Khuyến thỉnh chư Tăng, Ni, Phật tử tại các châu lục nói trên tùy cơ duyên và hoàn cảnh đứng ra thành lập GHPGVNTN chính thức và trực thuộc Viện Hóa Đạo, chiếu điều 36 của Hiến chương GHPGVNTN bản Đại hội GHPGVNTN khóa V tu chính ngày 12.12.1973, cũng như triệt để khâm tuân và thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống ban hành ngày 8.9.2007 và Thông bạch của Viện Hóa Đạo ban hành ngày 25.9.2007 hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống .

    Kính khẩn thông tri đến Chư Tôn Giáo Phẩm thuộc Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, Ban Điều Hành Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất các cấp, và chư vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức thành viên Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo chiếu nhiệm thi hành.

    Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 24.8.2008
    Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
    kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
    (ấn ký)
    Sa môn Thích Quảng Độ

    Nói về Mục sư "giả mạo" Huỳnh Quốc Bình



    LTS. CSVN tung ra nhiều đòn đọc hiểm nghèo, nhằm chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại , nhất là cài người trong các tôn giáo, thiếu tổ chức chặt chẽ. Bài viết nầy có nhiều dữ kiện chính xác nên đăng lên đây để dư luận hiểu rõ vấn đề .

    TÀI LIỆU: Mục sư (Mục súc) Huỳnh Quốc Bình (HQB). ??
    Quỷ Kiến Sầu


    Huỳnh Quốc Bình còn có tên Huỳnh Văn Giai gốc Quãng Nam, nhờ chính sách Dinh Điền của Đệ I Cộng Hòa nên được di dân vào ở CaMau. Hồi nhỏ từng học tiểu học Quản Long, sau theo học trườùng trung học Bán công Nguyễn Hiền Năng thuộc tỉnh Cà Mau (An Xuyên). Học tới lớp Đệ Ngũ thì y xin vào Địa Phương Quân của Biệt khu Hải Yến cho tới tháng 4-1975.

    Lúc mới tới Mỹ, y định cư tại thành phố San José, quen biết được một viên sĩ quan cấp Trung Úy thuộc Quân Cảnh QLVNCH tên là Trần Minh Hoàn, một đoàn viên của Mặt Trận HCM. Qua T/U Hoàn, Huỳnh Quốc Bình được giới thiệu vào Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Sinh hoạt với Trần Minh Hoàn một thời gian ngắn, thì HQB lại giờ trò láu cá qua mặt Hoàn nhiều việc, khiến Hoàn cáu giận; chẳng may Trần Minh Hoàn ngã đùng ra chết, HQB lại nhờ tài điếu đóm đã bắt mối được với Phan Công Chánh, người gốc quận Đơn Dương tỉnh Tuyên Đức, (gốc Quảng Nam) một sinh viên du học và là đảng viên CSVN trước năm 1975.

    Sau khi ra trường, Phan Công Chánh được ở lại dạy học tại P.S.U. tức Porland State University. Lúc ở đây, Phan Công Chánh đem cờ đỏ sao vàng của CSVN treo lên trường đại học PSU nên bị đồng bào VN ở Porland biểu tình phản đối, vì thế Phan Công bị đuổi không còn được dạy buộc phải dời cư về Bắc California.

    Huỳnh Quốc Bình nhờ Phan Công Chánh viết thư giới thiệu với anh ruột là Mục sư Phan Công Văn, thuộc Giáo hội Tin Lành ở Oregon nên từ đó HQB mới dời về sinh sống tại Salem thủ phủ của bang Oregon và gia nhập Hội thánh Tin lành của Mục sư (MS) Phan Công Văn. Do HQB vì lẻo mép và quá mất nết bị lật tẩy nên MS Văn phải đuổi ra khỏi giáo hội; hắn bèn chạy theo MS Trịnh Văn Hạnh, lại do hành vi đốn mạt và lừa bịp hắn cũng bị khai trừ.

    Cuối cùng y chạy qua nhà thờ Tin lành của Mỹ tên là Nazarette ở đường Sandy, Portland bang Oregon; ở đây Giáo hội cho HQB mượn trụ sở để sinh hoạt trong các ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật; thay vì lo việc thờ việc Chúa thì trái lại Bình không những chỉ lo tụ tập đám MT/Việt Tân tuyên truyền có lợi cho VC mà còn viết bậy sửa đổi Thánh Kinh, đăng trên tờ Phương Đông Times, một tờ báo của MT nên bị các giáo dân công giáo trong khu vực thưa MS Quản nhiệm nên bị đuổi.

    Đảng Việt Tân biết mục súc Huỳnh Quốc Bình là một tay đại bịp rất thích hợp với MT Phở Bò nên vớ lấy y, cho nhập đảng rồi phong cho làm Mục sư bịp để giảng Thánh kinh trên đài Tiếng Nước Tôi.

    Giảng dạy Thánh kinh theo lối Tự biên Tự Diễn của CSVN nên bị nhiều giáo dân chũi là cương ẩu và nói bậy vì thế đi đến đâu cũng bị đuổi nhưng vẫn trơ tráo tự nhận mình là Mục Sư.

    Tin tức chính xác từ Oregon cho biết Huynh Quốc Bình chưa bao giờ tốt nghiệp một trường Thần Học nào, cũng như chưa từng được thụ phong chức Mục Sư, nhưng đi đâu y cũng tự xưng mình là Mục sư, tỉ như trên tờ báo Phương Đông Times số 672 ngày 24-6-05, một tờ báo của Phở Bò VT tại vùng tây-bắc, trong một bản tường thuật về một cuộc biểu tình chống Phan Văn Khải, Huỳnh Quốc Bình cũng mạo nhận là Mục sư.

    Tuy chỉ mới học tới lớp Đệ Ngũ, nhưng được mô tả là một tay lanh lợi hoạt đầu và lẻo mép, lại thích nổ nên bọn Việt Tân đã bơm cho nó làm chức Chánh Chủ khảo để chấm giải cho một cuộc thi viết văn do MT/Phở bò tổ chức trong dịp 30-4-05 vừa qua.

    Chỉ cách đây hai tuần, trong một buổi tổ chức hội luận trên đài Tiếng Nước tôi, HQB bị một Đại Úy Quân Cảnh tên Lương Văn Nhựt chất vấn như sau:

    1-/ Phần lớn các Mục sư ở đây, không mấy ai lớn tiếng chống cộng mà riêng ông thì có vẻ ra mặt chống VC. Xin hỏi, ông học trường Tin Lành nào? Thụ phong ở đâu và vị chức sắc nào truyền chức cho ông? HQB ú ớ rồi phớt lờ không trả lời câu hỏi của ông LVN.

    2-/ Tại sao chỉ có Ông và Trần Diệu Chân mới có thẻ báo để chất vấn PVK mà người khác không có? Ai là chủ tịch hội báo chí VN; và ai là người cấp thẻ ký giả cho ông? Ông lên án tên Phan Văn Khải là đồ nói láo, nhưng chính ông cũng là cá mè một lứa, vì ông không phải MS mà tự xung MS, thiếu học mà xưng là kỹ sư, ký giả là nói láo, vì vậy báo Góp Gió mới gọi ông là đồ Mục Súc vậy có đúng không?.

    Một điều quan trọng, trước đây khi còn sinh hoạt cộng đồng ở Porland, Huỳnh Quốc Bình đã dẫn Tổng Lãnh Sự Việt Cộng Nguyễn Xuân Phong tới giới thiệu chính quyền tiểu bang ở Salem để xin cho VC được gửi một chiếc xe hoa có cắm cờ đỏ sao vàng để tham dự, nhưng chính quyền tiểu bang vì tế nhị đã từ chối lời yêu cầu của Lãnh sự quán VC ở San Francisco, do đó tên Nguyễn Xuân Phong đã bị thất bại.

    Một năm sau khi HQB bị bay chức không làm chủ tịch cộng đồng nữa thì ông Ái lên thay thế ; ông Ái bèn đem chuyện HQB dẫn NXP tới Salem để vận động cho Lãnh Sự Quán CSVN được trình diễn một xe hoa có cắm cờ đỏ sao vàng. Sự tố cáo của ông Ái trước mặt gần 200 đồng bào Việt Nam, trong đó có cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần và Mục Sư Dương Sáu. Ông Võ Văn Sáu, chủ nhiệm bóp Góp gió WA thách thức ông HQB đối chất về vấn đề nầy, nhưng hắn ta đã lời đi.

    Lúc ông Ái, chủ tịch cộng đồng chất vấn Huỳnh Quốc Bình vấn đề nầy, Bình không trả lời Có hay Không , mà chỉ trả lời, đây là một kiểu chống cộng theo cách thức mới.
    Hành động này cũng như của Nguyễn Đình Xài là sui gia với Hoàng Cơ Định nói là : Đừng chống CSVN nữa, mà phải giúp CSVN mạnh để chống Trung Quốc.

    Nghe thật quá hay, những chứng tỏ dốt bỏ mẹ, Trung Cộng & Việt Cộng cùng một lò mà.

    VT, một đảng bịp, một tổ chức mafia, lẽ dĩ nhiên phải dùng những tên đại bịp như Huỳnh Quốc Bình, Nguyễn Đình Xài thì cũng phải thôi.

    Thử hỏi, một tên vô loại như tên Huynh Quốc Bình thì biết gì mà bàn đến chuyện Đâm sau lưng chiến sĩ . Phải chăng bọn Việt Tân / Phở Bò vì muốn cứu bồ , giúp bọn tay sai VC thoát khỏi cơn lốc của Cộng Đồng Người Việt đang phá nát kế hoạch Liên Kết Trong Ngoài bịp của CSVN nên mới xui Huỳnh Quốc Bình, một tay đại bịp ra đánh trống khua chuông để giải toả cho cái được gọi là Bàn Tròn Ba Bên của tay cò mồi Hoàng Minh Chính.

    Huỳnh Quốc Bình mà lạm bàn đến những chuyện yêu dân, yêu nước và chống CSVN và xiên xỏ chụp mũ cho những ai phê bình những thằng Việt Gian phản động cò mồi là Đâm Sau Lưng Chiến Sĩ thì không khác gì cũng như mụ tú bà bô bô cái mồm để lo chuyện bảo vệ trinh tiết cho mấy cô điếm trong lầu xanh -

    Lấy từ: http://tinparis.net/vn_index.html