Friday, May 16, 2008

Phạm Duy, Ông Là Ai?

Tâm bút: Trần Thị Bông Giấy

I. Mối giao thiệp giữa giáo sư Lê Hữu Mục và tôi tuy chỉ ngắn ngủi qua một lần gặp nhau chớp nhoáng tháng 1/1996 tại Santa Ana và các cuộc trò chuyện viễn liên California & Montréal, nhưng tình thân bác cháu, hơn nữa, một bậc tiền bối và một hàng đàn em, có thể gọi là đáng nhớ. Ông hay cho tôi những lời khuyên hữu ích về cuộc sống, về văn chương, và ngay cả những lời chân tình về nỗi đau khổ riêng trong đời sống tôi. Ông là một trong rất ít người thuộc văn giới hải ngoại đã tạo được nơi tôi lòng kính trọng thật sự. Khi biết ra ông là bạn thân vị giáo sư violon tôi theo học từ bé cho đến khi tốt nghiệp trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn, thầy Tạ Văn Toàn, tình cảm quý nói trên càng thêm mạnh mẽ.

Một sáng tháng 1/1997, tôi gọi qua Montréal thăm ông. Vẫn giọng nói vui vẻ của lần đầu gặp gỡ tại Santa Ana, ông hỏi han rất ân cần về tình hình tờ Văn Uyển, và cả đời sống tôi. Khi nhận biết từ tôi một vài dấu nét chán nản nào đó, ông an ủi: - "Dẫu gì, Bông Giấy cũng đừng bao giờ nên để mất niềm tin về cuộc đời. Sức mạnh chính là nằm ngay trong niềm tin ấy. Đánh mất niềm tin có nghĩa tự mình hủy diệt. Với Bông Giấy, bác luôn nghĩ Bông Giấy là người có được cái sức mạnh vừa kể."

Đây là lời nói đầy chia xẻ của một người cha. Tôi cảm ơn ông.

Trong câu chuyện, ông cho biết là vừa ở Cali về: - "Bác chờ dịp lên San Jose thăm Bông Giấy mà mãi chẳng có. Phải ở lì Santa Ana. Rốt cuộc tới ngày về, cứ tiếc mãi."

Tôi nói qua điện thoại: - "Lúc này cháu tu bác ạ. Đóng cửa đọc sách, không giao tiếp thiên hạ. Nhân tình thế thái làm cháu chán ngán. Bác qua Santa Ana thấy có gì vui?"

Ông đáp: - "Vui thì vui nhưng cũng lắm chuyện kỳ cục."

"Cali là đất luôn nảy ra những điều kỳ cục", tôi đồng ý.

"Nhưng theo bác, kỳ cục thế nào?"

Giọng ông sôi nổi: - "Kỳ cục nhất là các câu tuyên bố của ông Phạm Duy."

Tôi cười:- "Tưởng ai, té ra ông Phạm Duy! Ông ấy vốn ăn nói bậy bạ từ khuya, cả nước đều biết!"

Ông Lê Hữu Mục la to: - "Lần này khác. Trong một buổi gặp nhau tại nhà ông ấy có mặt bác, ông Cao Tiêu, Đại tá Chiến Tranh Chính Trị và ông Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hoạch, giáo sư khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sàigòn thời cũ, Phạm Duy đã nói lên những điều vô cùng kỳ cục. Ví dụ ông ấy bảo: "Chúng nó sao cứ thích nhạc của tôi mà không biết rằng các ca khúc trước kia, tôi đều chỉ sáng tác trong chuồng xí! Bây giờ tôi làm nhạc opéra, sang hơn nhiều. Opéra của tôi mà về Việt Nam thì tôi có tới 8 Ái Vân hát chứ không phải một Ái Vân như ở hải ngoại. Chỉ Việt Nam mới có nền nhạc chân chính, còn nhạc hải ngoại chỉ là nhạc tào lao'!"

Tôi kêu lên: - "Qua tư cách bác và cả 'tư cách' ông Phạm Duy, cháu tin lời bác là thật. Ông ta là một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam, cháu khó thể nghĩ được lối nói ông ta lại hồ đồ như vậy."

Ông Lê Hữu Mục tiếp: - "Một câu khác: 'Người ta cứ bảo tôi chống Cộng nhưng thật thì tôi chống gậy!'"

Nói xong, ông Lê Hữu Mục cười to.

Tôi nhớ nhanh ba chữ "tên dâm tặc" một lần Nguyễn Tất Nhiên đã dùng khi nhắc đến Phạm Duy trước mặt tôi và Trần Nghi Hoàng. Tôi cũng nhớ đến câu của Mai Thảo bình về Phạm Duy trước một số đông người tại nhà Như Hảo: 'Phạm Duy già như thế còn làm được cái chuyện ấy thì nó không phải người, mà chính là quỷ!'"

[Đầu tháng 9/1995, trong một buổi tiệc tại nhà tôi, có mặt Văn Thanh và vợ chồng Như Hảo, khi nói về cuốn Một Truyện Dài Không Có Tên, Văn Thanh nhận định: "Trong đêm Hai Mươi Nam Văn Học Hải Ngoại do Du Tử Lê tổ chức tại Santa Ana, tôi gặp gần 150 văn nghệ sĩ nhưng nhận xét rằng chẳng ai có được cái Dũng của Bông Giấy trong ngòi viết, kể cả tôi nữa. Này nhé, bây giờ nói cụ thể về buổi họp mặt tại nhà chị Như Hảo, ông Mai Thảo nói cũng hay và ông Phạm Duy nói cũng hay, bao nhiêu người đều nghe rõ. Vậy mà khi tôi tươm lên báo những gì hai ông ấy nói thì ông Phạm Duy nhảy chồm chồm lên, đe là sẽ cho cái tụi đàn em nó đánh tôi. Rồi ông ấy gọi cho chị Như Hảo bảo không được đăng bài viết của tôi trên báo chị. Ông nói thẳng rằng không muốn có tên Mai Thảo đứng chung với tên ông ấy. Phạm Duy là một nghệ sĩ lớn mà tâm địa hẹp hòi quá! Tôi ca ngợi Phạm Duy thì phải để cho cuộc đời ca ngợi Mai Thảo, sao lại đòi đập tôi?"

Và Văn Thanh kể:- "Hôm đó, tôi định tổ chức ra mắt cuốn Gái Hà Nội Khóc Ai, có mời cánh Mai Thảo & Du Tử Lê và cánh Phạm Duy lên San Jose. Thì cả hai cánh, trừ Du Tử Lê, đều có mặt, luôn cả Khánh Trường các thứ. Cuộc tổ chức không thành, cả bọn kéo nhau đến nhà Như Hảo chơi. Tôi ngồi giữa Mai Thảo và Phạm Duy, nhưng không rõ chút gì chuyện hai người này rất ghét nhau. Mai Thảo biết tôi là dân miền Bắc nên hỏi thăm tôi về các văn nghệ sĩ miền Bắc, lại bảo rằng rất thân với Hữu Loan. Phạm Duy mới kêu tôi ra riêng mà nói: 'Cái thằng Mai Thảo thì biết chó gì. Chỉ có tôi mới là thân với anh em ngoài ấy.'

Xong, Phạm Duy tiếp: "Này, tôi bảo cho chú nghe, một người nếu không có tài thì đừng nên làm nghệ sĩ để mà phải đi xin. Như tôi đây, cả đời tôi sống bằng tiền tôi làm ra. Cho đến bây giờ tôi vẫn sống bằng nhạc của tôi chứ không đi xin của ai để mà sống hết. Bây giờ về Việt Nam bảo Văn Cao, Hoàng Cầm lên sân khấu hát xem có ai thèm đi nghe không? Nhưng tôi về hát, vẫn có nhiều người đến dự. Như vậy chứng tỏ tôi được nhân dân yêu vì tôi có tài."

Khi ấy tôi đâu hiểu câu nói của Phạm Duy là muốn ám chỉ Mai Thảo, lại cứ tưởng ông ấy mắng mỏ mình. Ừ thì thôi mình là đàn em, các ông ấy đàn anh, có mắng cũng được đi. Nào dè sau mới hiểu. Khi Như Hảo kể cho Mai Thảo nghe chuyện đài Mẹ Việt Nam của chị phải bị dẹp tiệm vì sở hụi chi ra quá nặng, Mai Thảo nói câu nghe rất cảm động: "Ở đời này không có tiền thì không làm gì được."

Lúc Mai Thảo đã ra về, anh em còn ngồi lại với nhau. Nguyễn Bá Trạc mới bảo Phạm Duy: "Nãy giờ anh tra tấn anh em nhiều rồi (ông ấy bắt anh em xem cuốn hồi ký của ông ấy đến hai tiếng đồng hồ) thì bây giờ anh em bề hội đồng lại anh. Tôi đề nghị mỗi người có quyền hỏi anh vài câu, anh đồng ý chứ?"

Phạm Duy đồng ý. Nguyễn Bá Trạc xin hỏi trước hai câu. Câu 1/: "Anh luôn luôn hô hào dân chủ. Mấy chục năm nay anh bắt anh em yêu anh nhiều quá, giờ vẫn muốn anh em yêu anh. Vậy thì anh là độc tài hay dân chủ?"

Phạm Duy trả lời câu rất hay: "Bây giờ các anh bảo Đỗ Mười yêu tôi xem nó có yêu không?"

Câu hai của Trạc: "Lúc nãy, trước khi Mai Thảo ra về, tôi có nghe ông ấy nói: Phạm Duy già như thế còn làm được cái chuyện ấy thì nó không phải người, mà chính là quỷ! Anh nghĩ sao về câu nói đó?"

Phạm Duy đáp: "Có những điều tôi làm được mà Mai Thảo không làm được. Một trong những điều là chuyện cái ấy ấy."

Khánh Trường đang ngồi cạnh Lê Thị Thấm Vân, la to: "Anh Phạm Duy bảo làm cái ấy ấy là cái gì vậy?"

Phạm Duy đáp tỉnh bơ: "Muốn biết thì về hỏi bà xã tôi, bả trả lời cho mà nghe!"

Sau đó, tôi viết bài ký sự về buổi này. Như Hảo đọc, tâu bẩm sao với Phạm Duy, ổng bèn bắt tôi fax xuống miền Nam Cali cho ông ấy đọc ngay. Đọc xong, ổng fax ngược lên cho tôi một bài dài 9 trang, trong ấy cắt đi gần trọn các đoạn nói về Mai Thảo. Nghĩa là Phạm Duy không muốn cho tên Mai Thảo đứng cạnh tên ông ấy. Tôi vẫn đăng, cứ để tên Mai Thảo có mặt trong buổi đó, chỉ bỏ những đoạn Mai Thảo nói mà Phạm Duy buộc phải cắt đi. Bài tung ra, Phạm Duy giận lắm, gọi xuống tôi đe dọa: "Tao bảo cho mày biết, không phải chỉ mỗi mày mới là người cầm cây viết. Mày mà xuống Santa Ana, tao sẽ cho tụi đàn em chúng nó đánh mày nát xương!"]

Bấy giờ, tôi hiểu ra chữ "chống gậy" của Phạm Duy và cái cười to của ông Lê Hữu Mục qua điện thoại.

Lại nghe ông tiếp: - "Tuy nhiên, một câu nữa của Phạm Duy làm bác phẫn nộ hơn cả: "Tôi không đồng ý với anh về chuyện anh viết Ngục Trung Nhật Ký chống Hồ Chí Minh. Nếu bây giờ tôi về Việt Nam mà Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la, bảo tôi ca tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình."

Ông Lê Hữu Mục thở ra: - "Hôm sau, anh Cao Tiêu mời bác và một số anh em gồm anh Nguyễn Sỹ Tế, anh Lê Văn Khoa (khoa trưởng trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn), chú Lê Ngọc Linh (em của bác, Trung tá Chiến Tranh Chính Trị), đến dùng cơm ở quán Nguyễn Huệ. Ông cũng điện thoại mời ông bác sĩ Trần Ngọc Ninh, ông này nói cố gắng tới nhưng cuối cùng không tới được. Đưa vấn đề ra trước anh em, ai cũng đều khó chịu. Phạm Duy là một khuôn mặt lớn của nền ca hát Việt Nam. Lập trường chính trị của ông phải rõ rệt, không thể lèng èng như thế. Anh em bàn với nhau là cần phải có người lên tiếng về những gì Phạm Duy đã tuyên bố. Nhưng cái khổ là ai cũng già, tánh hay cả nể, thành ra không biết sự việc sẽ đi đến đâu?"

Tôi hỏi: - "Xin bác cho biết tại sao bác tin mà kể cháu nghe những điều như vậy? Bác không sợ cháu sẽ viết cả ra trên giấy trắng mực đen sao?"

Ông Lê Hữu Mục la to: - "Thật thì bác cũng đã có ý đó. Bác nói chuyện này với một ông bạn Tiến Sĩ Toán ở Montréal. Ông ấy bảo: 'Chúng mình đều lớn tuổi, há miệng mắc quai. Cái tâm Bông Giấy sáng hơn nên cô ấy dám viết ra mọi sự thật. Mình thua Bông Giấy điểm đó."

Và ông Lê Hữu Mục kể: - "Vài tháng trước, vợ chồng ông Hà Thượng Nhân qua Canada, có tìm đến thăm bác. Trong câu chuyện, bác hỏi: "Tôi thấy anh vẫn ưu ái Bông Giấy. Vậy, nơi Bông Giấy có gì đặc biệt để anh phải đối xử như thế?". Ông Hà Thượng Nhân trả lời: "Bông Giấy là người làm được cái việc mà đám già như chúng mình chẳng ai dám làm cả. Đó là viết ra những sự thật dơ bẩn của giới văn nghệ Việt Nam. Bông Giấy hơn chúng mình điểm ấy."

II.
Câu chuyện điện thoại với ông Lê Hữu Mục để lại trong tôi một ấn tượng khá nặng nề, kéo dài suốt nhiều tháng ngày kế tiếp. Đúng, Phạm Duy là một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam từ thời Kháng Chiến chống Pháp trở lại đây. Nhưng có một điều đúng hơn mà ít người biết: "Kể riêng về mặt âm nhạc, Phạm Duy không thật sự lớn như quần chúng đã ưu ái suy tôn ông."

Tôi là một được người sinh ra và lớn lên trong cái nôi âm nhạc truyền thống của gia đình. Tôi tốt nghiệp violon nhạc cổ điển Tây Phương trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn năm 1967, dưới quyền giám đốc của ông Nguyễn Phụng, trực thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa thời ông Mai Thọ Truyền. Từ đó đến nay, tôi vẫn tiếp tục học và nghiên cứu âm nhạc qua nhiều hình thức và với nhiều vị giáo sư khác nhau, từ Việt Nam đến Âu Châu. Trên lãnh vực âm nhạc, được giao tiếp với nhiều người tài giỏi, nhìn lại ông Phạm Duy, tôi không cho rằng ông xứng đáng với ba chữ “khuôn mặt lớn” của nền ca hát Việt Nam.

Một nhạc sĩ sáng tác lớn phải hội đủ những điều kiện sau:

1/ Thông Suốt Ký Âm Pháp.
Trong nhạc Đông Phương, nói về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã viết: "Cung, Thương làu bậc ngũ âm", thì phía nhạc Tây Phương, Mozart, Beethoven, Schubert... khi viết các symphonie, concerto, opéra, và nhiều thể loại khác, đã chứng tỏ được sự siêu đẳng của mình trên phần ký âm pháp.

Cá nhân Phạm Duy cho thấy không có được trình độ như vậy. Sáng tác của ông chỉ quanh đi quẩn lại là các ca khúc rất đơn giản, âm sắc bình thường, bài nào cũng giống nhau một cách đơn điệu nhàm chán. Phần kỹ thuật chẳng đưa ra được tính phá cách cần thiết trong nghệ thuật sáng tạo. Nói cho đúng, ca khúc của ông thành công là do thinh điệu phong phú của tiếng Việt, hay do sự đẩy đưa ngân nga trong cách trình bày của ca sĩ. Nếu che đi hết phần lời trong các ca khúc, chỉ tấu lên phần mélodie bằng âm thanh một nhạc khí nào đó, người ta sẽ dễ dàng nhận ra sự nghèo nàn trong âm nhạc Phạm Duy.

2/ Điêu Luyện Nhạc Khí.
Trong khi Thúy Kiều của Nguyễn Du "Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương", thì các soạn nhạc gia quốc tế, từ cổ sang kim, từ Beethoven, Chopin, Mozart, Schubert ... đến John Lennon, Nat King Cole, Ray Charles... đều là những tay instrumentiste chuyên nghiệp, mỗi người có thể sử dụng vững vàng từ một đến hai, ba thứ nhạc khí. Riêng Phạm Duy, thử hỏi ông thông làu được nhạc khí nào, nếu không chỉ là các hợp âm guitare loại "son đố mì" ông có từ thời còn làm nghề hát dạo? Hơn nữa là vài ngón dương cầm võ vẽ học lóm được trong một lớp dự thính tại Conservatoire de Paris nhờ sự quen biết của ông anh Phạm Duy Khiêm gửi gấm, ông mới được có mặt? Dạo về sau ông cũng biết sử dụng chút ít keyboard, loại nhạc khí thời trang mà mọi phần hòa âm phối khí trên ấy (viết ra và ghi lại từ tài năng kẻ khác) đều đã được lắp ráp sẵn?

3/ Sáng Tác.
Sáng tác đây đề cập ở hàng giá trị thật sự và có tầm vóc lớn. Giống như lời ông Hàn Vĩ từng viết ca tụng và đăng trong tác phẩm Bầy Chim Bỏ Xứ của Phạm Duy: "Tác phẩm của anh Phạm Duy phần lớn mang thể loại ca khúc, dù là những tác phẩm có tầm vóc lớn như những thể loại trường ca và tổ khúc cũng đều mang tính chất của loại nhạc có lời ca...", thì rõ ràng các sáng tác của Phạm Duy, dẫu dựa trên nhiều đề tài, từ tình yêu trai gái đến tình tự dân tộc, chỉ đều là những sáng tác phải cần đến lời ca mới tới được gần quần chúng. (Rất nhiều bài phổ từ thi ca của các thi sĩ). Giá trị âm nhạc thật sự hoàn toàn thiếu, đừng nói gì đến những từ ngữ sáo rỗng như "vua nhạc" (lời Đào Mộng Nam), "đại tác phẩm", "đệ nhất nhạc sĩ trong làng nhạc Việt Nam", "một điểm 'chúng ta' (sic!) có thể khẳng định là không ai, cho tới hằng trăm năm sau có thể làm được những lời hát tuyệt vời như một Phạm Duy" (lời Nguyên Thi) v.v.. và v.v... được đa số các người mà "một note nhạc bẻ làm đôi cũng không biết" đã trơ trẽn gán cho ông ta. Có lẽ chính ngay tác giả của những từ ngữ đó khi đặt bút thành bài ca tụng Phạm Duy, cũng chẳng biết mình đang viết cái gì nữa!

Giống như các trường ca khác, trong trường ca Hàn Mặc Tử (khiến Phạm Duy rất đắc ý), sự hợp nhất của tư tưởng âm nhạc hoàn toàn hỏng khi mà phần hòa âm lại do Duy Cường, con trai ông soạn, dựa theo phần ca khúc của ông. Ngoài ra, phần basse trở thành què quặt. Chant de basse không có.


Riêng với Minh Họa Kiều, hòa âm cũng do Duy Cường soạn, chèo cổ không ra chèo cổ, ả đào không ra ả đào, tân nhạc chẳng ra tân nhạc, ngâm thơ chẳng ra ngâm thơ. Có thể gọi đó là một loạt âm thanh tạp-pí-lù, vô hồn, trộn lẫn giữa tiếng vang của các nhạc khí dân tộc với tiếng vang của âm nhạc điện tử. (Âm thanh vô hồn có nghĩa rằng âm thanh được cấu tạo bằng MÁY mà không là truyền đạt từ trái tim và đôi bàn tay người nhạc sĩ trình diễn). Có nhiều đoạn chát tai vì tiếng rít của cái keyboard được vặn lên ở mức độ cao. Ngồi nghe suốt một cuốn băng cassette dài 60 phút, thấy phần hát (rút từ lời thơ của cụ Nguyễn Du) quá nặng so với phần đàn, Minh Họa Kiều chỉ gợi cho tôi cảm giác đơn điệu buồn nản, chẳng chút rung động và không thể tìm ra được điều gì mới lạ.

Tóm lại, qua nhạc phẩm Phạm Duy, nhất là ở các trường ca, chủ đề Đông Phương không ăn khớp với phần hòa âm cóp nhặt của Tây Phương, làm nên một kiểu âm nhạc "ông nói gà bà nói vịt", tạo cho người nghe cảm giác khó chịu và giả tạo. Mozart khi viết một symphonie hay một opéra, đâu chỉ viết riêng phần violon hay soprano thôi, mà còn viết các phần khác bằng chính ngay tư tưởng và tài năng ông có. Do đó, bản sáng tác mới thống nhất được cái tuyệt diệu của nó, trở thành một khối âm thanh diễn tả sự thuần nhất tư tưởng và tình cảm của tác giả.

4/ Nhạc Lượng (valeur musicale)
Nói về tài đàn của Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:

"Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên Bạc Mệnh lại càng não nhân."

Sự rung động đánh ngay vào tâm hồn thính giả là điều rất cần thiết trong âm nhạc. Xưa, nghe Prélude N.5 cung Ré bémol Trưởng của Chopin, người ta đâu cần ông phải viết thành lời mới có thể cảm thấy buồn rười rượi theo từng note phát ra từ chiếc dương cầm, vang lên như tiếng mưa rơi ngoài hiên lạnh; hay cùng ông tưởng tượng tiếng mưa đang rớt xuống từng giọt trên nắp chiếc quan tài? Nghe đoản khúc Le Cygne trong sáng tác Carnaval des animaux của Saint Saens, đâu cần có lời mới biết được sự giẫy chết đau đớn cuối cùng của con thiên nga trên chiếc hồ rộng? Nghe Ouverture Egmont của Beethoven, đâu cần lời mới hình dung ra được sự hùng tráng của một cuộc chiến ngoài trận địa?

Đọc Nguyễn Du, thấy tài âm nhạc của Thúy Kiều đã lên đến hàng tột đỉnh:

    "Khúc đâu Hán Sở chiến trường
    Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
    Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
    Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
    Kê Khang này khúc Quảng Lăng
    Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
    Quá quan này khúc Chiêu Quân
    Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia
    Trong như tiếng hạc bay qua
    Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
    Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
    Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa."
    Tài âm nhạc này đã làm cho Kim Trọng
    "... phải ngơ ngẩn sầu
    Khi tựa gối khi cúi đầu
    Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày."
    Hay khi đàn cho vợ chồng Thúc Sinh nghe, thì:
    "Bốn giây như khóc như than
    Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng."
    Tài đàn đã đến độ:
    "Một cung gió thảm mưa sầu
    Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay
    Ve ngâm vượn hót nào tày"
    đến khiến Hồ Tôn Hiến phải "nhăn mày châu rơi!"

Thử hỏi, trong quá trình nhạc Phạm Duy, có bài nào gây được trong tâm hồn thính giả những rung động đích thực và dữ dội như các nhà soạn nhạc kia, và cả Thúy Kiều, đã tạo?

5/ Chủ Đề.
Nguyễn Du khi viết về tài âm nhạc của Thúy Kiều đã không chỉ đóng khung trong việc Thúy Kiều tài ba trên ngón đàn thôi, còn là tài ba trên cả sự sáng tác và chủ đề sáng tác. Thiên Bạc Mệnh của Thúy Kiều, cũng như Symphonie Pathétique của Tchaikovski, Revolutionnaire của Chopin, Symphonie Inachevée của Schubert, Marriage de Figaro của Mozart, Symphonie số 5 của Beethoven. v.v đều dựa trên những chủ đề lớn của nhân loại (Thiên Nhiên, Định Mệnh, Con Người). Trong Symphonie số 9, dẫu chủ đề là Niềm Vui hay Tình Bạn, và có cả lời ca, nhưng lời ca này đã được Beethoven viết ra bằng một trong những thể loại cao của âm nhạc là choeur (đồng thanh).

Chủ đề trong âm nhạc Phạm Duy không nói lên được tính chất vĩ đại của nhân loại, mà chỉ quanh đi quẩn lại với cái tôi của những cặp tình nhân (Nếu Một Mai Em Sẽ Qua Đời, Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Nghìn Trùng Xa Cách...), cái tôi của chính ông (các bài Tục Ca). Riêng các bài dân ca, ông luôn luôn "lập lờ đánh lận con đen" khiến thính giả cứ ngỡ phần lời là do chính ông soạn chứ không phải rút từ ca dao. Ví dụ bài Cái Trống Cơm. Thảng hoặc có bài phô bày một bối cảnh xã hội, như Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà thì ông cũng phải mượn từ bài thơ nổi tiếng của Hữu Loan mới hoàn thành được sự nổi tiếng cho phần nhạc. Hoặc tệ hơn, bài Kỷ Vật Cho Em vẽ ra phần nào hình ảnh tang thương của cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam, ông đưa phần nhạc thê thiết vào với những lời thơ ủy mị tang tóc (mà ông cố ý "cầm nhầm") của tác giả Linh Phương, tạo nên một ảnh hưởng vô cùng bất lợi cho phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi ấy đang ở vào giai đoạn chiến tranh sôi bỏng nhất.

Riêng những ca khúc được giới sinh viên học sinh yêu thích như Em Hiền Như Ma Sơ, Thà Như Giọt Mưa, Năm Năm Tình Lận Đận, Phạm Duy phổ từ thi ca Nguyễn Tất Nhiên, lại là kết quả của một vụ kiện tác quyền đầu tiên mà ông ta phải đền cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên. Vụ kiện này xảy ra vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị mất vào tay Cộng Sản, và cho đến nay các nhà văn, nhà báo hải ngoại vì nể nhà nhạc sĩ "lớn họng" mà quên đi luôn tâm huyết của một thi sĩ "bé miệng" đã quá cố. Vào thời điểm ấy, Nguyễn Tất Nhiên yêu cầu Phạm Duy phải ghi tên mình vào trên những bản nhạc đã lấy từ thi ca Nhiên mà phổ, nhưng Phạm Duy vẫn lờ đi, lại còn cả tiếng mắng rằng "Không có tao thì ai biết đến mày!" Lúc đó Nguyễn Tất Nhiên còn rất trẻ nhưng gia đình ông uất ức vì thái độ xấc xược của Phạm Duy nên đâm đơn kiện ông ta. Kết quả, Phạm Duy phải đền cho Nguyễn Tất Nhiên một khoản tiền không nhỏ! (*)

Trên phương diện chủ đề, chưa kể các nhạc sĩ tiền chiến khác, so với Phạm Đình Chương hay Trịnh Công Sơn, Phạm Duy cũng đủ bị xếp vào hàng DƯỚI.

Năm 1960, trong một buổi đại hội, giới sinh viên Văn Khoa Sàigòn từng tuyên bố: "Phạm Duy đã chết!" Báo chí phỏng vấn điều này, sinh viên trả lời: "Nhạc Phạm Duy bây giờ ủy mị quá; ông chỉ viết theo thị hiếu quần chúng mà chẳng nói lên được tư tưởng nào mới, không còn lành mạnh như những bản trong thời Kháng Chiến ông đã làm ra."

Năm 64-65, Trịnh Công Sơn được bạn hữu tổ chức buổi ra mắt đầu tiên trước quần chúng tại khu đất trống sau lưng trường Văn Khoa Sàigòn cũ (nay là Thư Viện Quốc Gia). Trước mặt đám đông đến mấy nghìn người gồm đủ thành phần văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên, học sinh, Trịnh Công Sơn xuất hiện với cây đàn guitare trên tay, cất lên giọng hát mình trong hai mươi ca khúc nói về quê hương, ước mơ hòa bình. Những bản nhạc về sau được mệnh danh là "nhạc phản chiến". Buổi hát rất thành công, để lại một ấn tượng tốt đẹp cho người trình bày lẫn người nghe. Trong phần giải lao, Phạm Duy xuất hiện trên bục gỗ, xin hát một bài góp vui. Trong không khí đang trầm lắng sau những bài hát nói về bom đạn và những vết thương trên thân thể quê hương, Phạm Duy đã cùng khoảng vài chục đệ tử trong nhóm Du Ca của ông đồng hát bài Sức Mấy Mà Buồn, một bài nhạc mang đầy tính khôi hài và giễu cợt một cách thiếu đứng đắn. Về sau, trên tạp chí Văn lúc ấy có tường thuật buổi trình diễn của Trịnh Công Sơn và cũng đã nghiêm khắc lên án trò đùa và phá phách không đúng chỗ của một người đã quá nổi tiếng lúc bấy giờ.

Tôi cũng được nghe một câu chuyện từ giáo sư Lê Hữu Mục: "Phạm Duy một lần nói với ông Tiến sĩ Trần Văn Đoàn, giáo sư trường Đại Học Đài Loan: 'Nếu tôi ở Nhật, người Nhật sẽ nuôi tôi suốt đời vì tài âm nhạc của tôi.' Ông Trần Văn Đoàn hỏi lại: 'Thế anh có biết chính phủ Nhật đã nhiều lần mời Trịnh Công Sơn sang Nhật và trả cho Sơn một giá rất hậu chăng? Anh bảo anh có tài, tại sao họ chẳng mời anh?"

III. Trình bày 5 tiêu chuẩn tiêu biểu trên, tôi chỉ muốn đưa ra một chứng minh nhỏ rằng Phạm Duy chưa xứng gọi là khuôn mặt lớn NHẤT của nền âm nhạc Việt Nam như ông luôn luôn huênh hoang tự nhận và như lời ca tụng của nhiều người bạn ông. Ở đây, tôi không hoàn toàn chối bỏ khả năng âm nhạc của Phạm Duy, nhưng cái khả năng đó CHƯA THỂ GOÏI LÀ ĐỦ để tạo cho ông một chỗ đứng xứng đáng trong làng âm nhạc quốc tế. Địa vị mà ông đạt được hiện nay trong riêng Miền Nam trước 1975 và cộng đồng người Việt hải ngoại, phải kể rằng phần lớn nảy sinh từ tính dễ dãi của quần chúng Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam vốn nổi tiếng hiếu hòa; dưới cái nhìn quốc tế, người Việt Nam thường được xem là biểu tượng của sự vui vẻ và rộng lượng. Sự rộng lượng này được chứng minh trên nhiều hình thức, cơ hội. Điển hình, trong một cuốn vidéo tape bày bán công khai, quay buổi trình diễn tái ngộ của bà ca sĩ Thái Thanh với thính giả Việt Nam hải ngoại, tổ chức tại Santa Ana, Thái Thanh lên sân khấu hát bản Dòng Sông Xanh, một nhạc phẩm của J. Strauss, Phạm Duy phổ lời Việt. Bản này vốn cung Ré Trưởng, có những note rất cao dành cho phần premier violon. Qua giọng Thái Thanh, nhạc sĩ phải chuyển xuống thành Si bémol Trưởng; giọng hát bà ở vào thời kỳ tàn tạ, không lên đúng cao độ, nên nghe rất "phô". Thế nhưng khi dứt bản nhạc, gần như toàn thể khán giả đều bắt chước đám quan khách thân cận cò mồi của gia đình Phạm Duy, ngồi ở hàng ghế đầu, đứng bật cả lên để vỗ tay ca ngợi bà. Điều này cho thấy tinh thần người Việt Nam, ngay cả những người đang ở nước ngoài, vẫn tỏ ra dễ dãi và rộng lượng trước nghệ thuật và nghệ sĩ.

Song song với cái nghèo và sự chậm tiến truyền đời của dân tộc, những đức tính kể trên của quần chúng Việt Nam đã tạo được cho Phạm Duy một chỗ đứng rất cao từ biết bao chục năm qua. Cuộc sống cá nhân và gia đình ông cũng được ưu đãi từ đó. Nhưng thử hỏi, ông đã trả lại được những gì cho quần chúng? Tên tuổi ông nổi lên nhờ quần chúng thì ông lại bảo các bản nhạc quần chúng yêu thích xưa nay của ông chỉ là làm trong chuồng xí! Quê hương rơi vào tay Cộng Sản, gần hai triệu người phải bỏ ra đi, sống lây lất khắp nơi trên thế giới, có những người rất cùng túng, trong khi ông và gia đình vẫn phè phỡn trong một cảnh sống sung túc ở miền Nam Cali, thì ông lại bảo: "Nếu Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la mà bảo tôi ca tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình!"

Đó là những cái tát phũ phàng của Phạm Duy vào mặt quần chúng miền Nam Việt Nam, những người đã đưa tên tuổi ông lên từ mấy chục năm qua.

Sĩ khí là điều rất cần thiết cho một nghệ sĩ, nhất là với một nghệ sĩ lớn. Nhưng đáng tiếc thay, điều này không có trong ông Phạm Duy. Ông luôn luôn tự hào, và được bạn bè ông bốc thơm, rằng ông là một "đại nghệ sĩ", nhưng ông sẵn sàng ngửa tay nhận 5,000 đô la một cách khúm núm, để rồi vào đêm 29/12/1996, cùng với một số ca nghệ sĩ "lớn" (?!) của thủ đô tị nạn Nam Cali làm cái hành động đứng giữa sân khấu Long Beach Convention Center, xưng tụng một mụ đàn bà điên khùng không ra gì như bà Thanh Hải bằng những danh từ vô cùng bóng bẩy. Khoảng hơn một tuần sau, ông lại lên một đài phát thanh Việt ngữ ở Nam Cali, ca ngợi không tiếc lời những dòng "thi ca" trác tuyệt của bà này, điều dễ dàng làm đỏ mặt bất cứ ai còn có chút tự trọng trong mình.

Và nghệ sĩ vốn thường mang cá chất cao ngạo. Nhưng với ông Phạm Duy, chữ cao ngạo này trở thành tự cao tự đại một cách hợm hĩnh, giả trá. Có lần tôi được giáo sư Lê Hữu Mục kể: "Trong một buổi trình diễn ở Đức, Phạm Duy tuyên bố giữa nhiều người: "Nhạc của tôi không thua gì các symphonie của Bee-thoven." Ông giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Đoàn bèn hỏi Phạm Duy: "Anh bảo nhạc của anh không thua gì các symphonie của Beethoven. Vậy xin hỏi, anh có phân biệt nổi thế nào là một symphonie và thế nào là một concerto không?" Phạm Duy cứng họng không trả lời được." Cũng theo lời ông Trần Văn Đoàn, lần khác, có mặt Đặng Thái Sơn, dương cầm thủ đoạt giải nhất Chopin ở Nga năm 1983, Phạm Duy hỏi Sơn: "Tại sao cháu chỉ đàn nhạc Chopin mà không đàn nhạc của bác (là Phạm Duy)?" Đặng Thái Sơn ngoảnh mặt bỏ đi, không thèm trả lời.

Những điều trên, ông Trần Văn Đoàn kể lại cho giáo sư Lê Hữu Mục nghe nhân dịp gặp nhau mới đây giữa hai người tại Đại Học Hè Thụy Sĩ 1997. Ông Trần Văn Đoàn phê bình: "Phạm Duy hỗn! Đến ngay quê hương Beethoven mà lại dám bảo nhạc của mình không thua gì nhạc Beethoven!"

Cách đây ba năm, trong một buổi trình diễn nhạc Phạm Duy tại Texas, đa số khán giả đã phẫn nộ khi nghe Phạm Duy tuyên bố giữa sân khấu: "Văn Cao sao bằng được tôi?" Hôm ấy có tin nhạc sĩ Văn Cao từ trần tại Hà Nội. Hình ảnh nhà nghệ sĩ chân chính sống trong nghèo túng, không có đất đứng, bước đi xiêu vẹo giữa xã hội Cộng Sản qua những cuộn băng vidéo phổ biến tại hải ngoại đã khiến cho mọi người thật ngậm ngùi khi nhìn lại khuôn mặt trâng tráo bóng nhẫy đầy vẻ xôi thịt của Phạm Duy. Họ đứng lên ra về ngay. Tiếc thay, điều ấy hình như cũng chẳng dạy được cho Phạm Duy bài học nào!

IV. Nói về sự tự cao tự đại của Phạm Duy, không bút mực nào viết cho hết. Tuy nhiên, khi sự tự cao tự đại lên đến hàng tự nhận "Các ca khúc quần chúng yêu thích và tôn vinh xưa nay của tôi đều chỉ được viết ra trong chuồng xí!" thì quả thật tôi không còn ý kiến. Ngày xưa Cao Bá Quát lừng lẫy về thi tài lẫn cả nỗi cao ngạo, nhưng thật sự, đối tượng cho nỗi cao ngạo của Cao Bá Quát chỉ hạn chế trong giới vua chúa cầm quyền chứ không là quần chúng. Chưa một bài thơ, một lời nào của Cao Bá Quát lưu lại trong sử sách cho thấy rằng ông có chút nhỏ lòng khinh miệt hay chống lại quần chúng. Phần Beethoven, khi nghe tin Napoléon tự phong mình là Hoàng đế, đã nổi giận giẫm nát bản Symphonie No. 3 lúc trước được đề tặng cho Napoléon. Thế nhưng, trong suốt dòng nhạc vĩ đại của Beethoven, chẳng bất cứ sáng tác hay tư tưởng nào cho thấy có sự phản bội lại quần chúng đã yêu thích ông.

Như đã nói, quần chúng Việt Nam vốn dễ dãi và rộng lượng. Người dân Việt Nam, dẫu ra tới hải ngoại rồi, vẫn còn lưu giữ trong tâm hồn cái truyền thống trọng Kẻ Sĩ của người xưa. Dưới mắt họ, Phạm Duy điển hình cho một Kẻ Sĩ. Chỉ một điều buồn là Phạm Duy không đạt được tới chút nhỏ giá trị cao quý của hai chữ Kẻ Sĩ. Ông không phải là một Kẻ Sĩ trên đủ mọi mặt. Ông không có được cái Dũng, cái Chân, cái Nhân và cái Thiện rất cần thiết cho một nghệ sĩ chân chính. Ông chỉ biết tôn thờ cái Tôi của chính ông. Ông khai thác tối đa cái Tôi ấy trên nhiều hình thức. Đó là quyền của ông. Nhưng ông không có quyền phản bội lại quần chúng đã ưu ái ông, đem miếng ăn, đem cả hào quang cho ông để mà tự hãnh. Ông không có quyền chà đạp lên sự đau khổ của nhân dân miền Nam bằng một câu nói rất là ít hiểu biết và vô trách nhiệm so với tên tuổi ông: "Nếu Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la mà bảo tôi ca tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình."

Ngoài tính dễ dãi và rộng lượng của quần chúng Việt Nam trong cái nhìn về nghệ thuật, phải nhấn mạnh thêm về sự THIẾU HIỂU BIẾT của những người chung quanh gần cận Phạm Duy; do đó, danh vọng ông mới có và đứng vững được suốt mấy chục năm qua. Mới đây, tôi được đọc một bài báo đăng trên tờ nguyệt san Việt Nam, xuất bản tại Canada, số 11 tháng 8/1997, có đoạn như sau: "Minh Họa Kiều thật sự là một symphonie Việt Nam có khả năng tạo thêm sinh lực đưa Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đi xa hơn vào tương lai trong thế giới văn minh kỹ thuật hiện đại..." (Trích bài Phạm Duy Trung Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa và Lời Cảm Ơn)

Đọc câu trên, những ai có lòng tự trọng không khỏi khó chịu và nổi giận thầm. Nguyễn Du là người duy nhất đã dám đi ngược lại và đương đầu với phong trào tư tưởng Nho giáo suy đồi thời đó để xây dựng một nền tư tưởng có tính Việt Nam; người đã một mình canh tân thể thơ lục bát, làm mới tiếng Việt. Bây giờ những gì ông đưa ra cách đây hơn 200 năm vẫn hợp thời, và ông được cả thế giới công nhận là đại thi hào. Tác phẩm Truyện Kiều của ông, năm 1967, đã được UNESCO xếp vào hàng một trong 7 tác phẩm lớn của thế giới.

Còn Phạm Duy? Thử hỏi ông đã làm gì để rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam trước cái nhìn quốc tế? Những ca khúc hay trường khúc được ông tự nhận và bạn bè ông ca tụng là sự "xây dựng một nền âm nhạc mới cho Việt Nam", điều đó có đúng chăng? Có nên kể rằng những bản nhạc lai căng nửa Tây nửa Việt, cóp nhặt chỗ này một ít ngũ cung, chỗ kia một ít hợp âm Âu Mỹ, là độc đáo, mang bản sắc dân tộc, hoặc là một nghệ thuật mới? Tôi khẳng định KHÔNG!

Vì vậy, đọc những lời ca tụng đại loại như trên, tôi thật rất buồn cho chữ nghĩa Việt Nam và cái "sĩ khí" của những người còn biết cầm cây viết để viết lên những dòng chữ bằng tiếng Việt Nam! Ở dây, khoan kể đến câu "Hiểu thế nào là một sym- phonie?" như ông Trần Văn Đoàn đã hỏi Phạm Duy một lần ở Đức, nội cái việc đưa tên tuổi Phạm Duy đứng cạnh tên tuổi cụ Nguyễn Du cũng đã là một việc nhục nhã và chẳng nên làm chút nào đối với những ai còn chút liêm sỉ trong người.

V. Chuyện ông Phạm Duy là một loại truyện dài Nhân Dân Tự Vệ. Tôi là một người Việt Nam 100% nên cũng có tinh thần dễ dãi truyền đời trong máu huyết. Từ lâu tôi chán không muốn nghĩ đến, và cũng cả chán không muốn nghe các bản nhạc từ 1960 trở đi của ông. Nhưng đến một lúc nào, tôi ngạc nhiên tự hỏi, một người đã quá già như thế (ông tự nhận là bạn cùng thời phiêu bạt với ông thân tôi, đã chết cách đây 40 năm) sao tư cách lại còn có thể làm cho đám hậu sinh như tôi phải đặt vấn đề như thế?

Thật sự, tôi không phủ nhận sự đóng góp của ông Phạm Duy đối với dân tộc trên lãnh vực âm nhạc. Việt Nam là một quốc gia nghèo nàn, chậm tiến. Tất cả các đóng góp của mọi người dân đều cần thiết. Thì với Phạm Duy, tuy rằng khả năng ông (tôi dùng chữ "khả năng" mà không là "tài năng") chỉ thu hẹp trong một giới hạn nào đó, cũng là điều đáng hoan nghênh. Nhưng nếu ông chịu nhận biết mình đang ở mức độ nào trong sự đóng góp và vị trí nào trong thế giới âm nhạc phong phú, là điều đáng quý; quần chúng và cả tôi nữa, sẵn sàng hết lòng ủng hộ ông. [Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, có những ngôi sao xuất hiện không lâu trên bầu trời ca khúc, nhưng không ai chối bỏ rằng các ngôi sao ấy đã sáng và sẽ còn sáng mãi -như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Chuẩn, Từ Linh..v.v..] Nhưng bởi vì Phạm Duy tự đem mình so sánh với Beethoven, và có những người đặt ông cao bằng Nguyễn Du thì ông phải có bổn phận chứng minh cho quần chúng thấy được cái "vĩ đại" của ông một cách cụ thể. Bài viết này không đi ra ngoài mục đích đó.

VI. Nhìn lại dòng thời gian từ 1954 trở đi, Việt Nam có cái gì mới đáng để hãnh diện với thế giới? Và từ 1975 trở lại đây, vô số người Việt Nam đã đặt chân được tới bến bờ tự do, tiếp xúc biết bao trào lưu văn học nghệ thuật mới của thế giới, nhưng nói riêng về ngành âm nhạc và nói chung về các ngành nghệ thuật, miền Nam Việt Nam có được sự tiến bộ nào chăng?

Xin trả lời KHÔNG!

Trong một buổi họp mặt âm nhạc do giáo sư Tạ Văn Toàn tổ chức năm 1985 tại Montréal, có cả sự hiện diện của giáo sư Lê Hữu Mục, một vị khách ngoại quốc đã đưa ra câu hỏi: "Tại sao trong nhạc Việt Nam chẳng thấy có sáng tác nào lớn ngoài những ca khúc không quá hai trang giấy nhỏ?" Giáo sư Tạ Văn Toàn trả lời: "Việt Nam chỉ có các ca khúc chứ đâu đã thực sự có âm nhạc. Vì vậy nhạc phẩm lớn làm sao xuất hiện được?"

Lỗi này do ai? Tôi cho rằng phần lớn là do những người có cơ sở, có thế lực, địa vị trong các lãnh vực này. Quần chúng Việt Nam hải ngoại ưu đãi, tôn vinh họ, dành cho họ những chỗ đứng xứng đáng, nhưng đáp lại, họ chẳng làm gì để trả lại cho quần chúng ngoài sự vinh thân phì gia của chính họ và những cái tát phũ phàng nào đó trong sự bắt tay NGẦM hay CÔNG KHAI với phía ngoại bang hay với Cộng Sản.

Thực sự, tôi không tin ông Phạm Duy là một người thân Cộng, nhưng ông cũng không phải là người chủ trương chống Cộng. Ông từng tự nhận mình chỉ là người “chống gậy!” mà không chống Cộng! Theo như ông Lê Hữu Mục nhận định, đường lối chính trị của Phạm Duy rất lèng èng, không rõ rệt. [Trong tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ, Phạm Duy phân biệt hai loại chim hiền và chim ác, ví như hai phía quần chúng quốc nội (trong có các người Cộng Sản thứ thiệt) với quần chúng hải ngoại. Chim ác ở lại. Chim hiền bỏ tổ bay đi. Nhưng đến một hồi, ông Phạm Duy lại kêu gọi hai bầy chim vầy họp lại với nhau!]

Cá nhân tôi nghĩ, do bởi trình độ tư tưởng chính trị thấp kém và bởi không có kiến thức về các danh từ chính trị và ngoại giao mà Phạm Duy đã vô tình bị Cộng Sản lợi dụng bằng chính những danh từ. Ví dụ, đối với người Quốc Gia, Hòa Bình có nghĩa là chấm dứt chiến tranh. Nhưng đối với Cộng Sản, Hòa Bình phải là chấm dứt tư bản, làm tư bản tan rã. Cộng Sản đề ra chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, nhưng thật sự đó chỉ là những cái mặt nạ che giấu mưu đồ tồi tệ, làm lợi cho lực lượng cầm quyền Cộng Sản và mở rộng quan điểm xã hội chủ nghĩa của họ. Còn trên thực tế Việt Nam từ xưa đến nay chỉ có lý tưởng dân tộc chứ làm gì có chủ nghĩa dân tộc?

Tính dân tộc thuần túy trong lòng người Việt Nam và chủ nghĩa dân tộc do Cộng Sản đề ra, khác nhau xa. Một người mang tính dân tộc thì lúc nào cũng nghĩ đến dân tộc, điển hình qua các hình ảnh thân thiết của quê hương. Nhưng chủ nghĩa dân tộc lại được giải thích theo Duy Vật sử quan, và các khái niệm về dân tộc đã bị bóp méo hoàn toàn. Cộng Sản thường đưa ra những hình ảnh dễ đi vào lòng người, dựa trên Truyện Kiều, trên ngũ cung, trên dân gian. Cộng Sản hay nói đến hình ảnh người nông dân, nhưng trên thực tế có bao giờ thấy họ đề cao dân quê? Đối với họ chỉ có công nhân là quan trọng, còn dân quê bị liệt vào hàng có tội với nhân dân vì đã sản xuất lúa gạo cung ứng cho giặc, cho tư bản. Muốn được nhìn nhận, người nông dân phải vào hợp tác xã do nhà cầm quyền làm chủ.

Cũng vậy, lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước khác nhau. Một người mang lòng yêu nước thì lúc nào cũng mong làm sao cho đất nước tiến lên trên đủ mọi mặt. Nhưng trong chủ nghĩa yêu nước mà Cộng Sản đề ra là đã có sự giết người, khát máu. Dân tộc Việt Nam vốn tính hiếu hòa, nhưng khi có ngoại xâm thì cũng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Tuy nhiên, qua lối phân tích của Cộng Sản, người Việt Nam bao giờ cũng hiếu chiến (chống Tàu, chống Pháp, chống Mỹ, thậm chí chống luôn tất cả những ai cùng màu da huyết thống, nếu không là Cộng Sản thì phải là Ngụy!). Kiểu nói của Cộng Sản là kiểu nói khích động quần chúng, khai thác triệt để lòng hiếu chiến của quần chúng.

Phong trào quần chúng cũng bị Cộng Sản giải thích sai. Trong quần chúng, có những nhóm ô hợp nhưng cũng có những nhóm nổi lên vì chính nghĩa. Tất cả những việc lao động của dân đều mang tính chất góp phần vào lực lượng sản xuất chung; thì tinh thần này lại bị Cộng Sản cho là phục vụ kẻ bóc lột.


Phạm Duy không hiểu những điều như vậy, không am tường ý nghĩa các danh từ mà Cộng Sản đã đề ra. Ông cứ ngỡ Cộng Sản nghĩ về Dân Tộc hay Lòng Yêu Nước cũng giống như những người Việt thuần túy đã nghĩ. Ông không biết rằng Cộng Sản chỉ muốn đánh lừa người dân Miền Nam, nhất là người Việt hải ngoại, bằng các hình ảnh rất dân tộc, mà thật thì chỉ là muốn tiêu diệt người Quốc Gia. Vì vậy, ông bị lầm và bị lợi dụng một cách vô tình hay hữu ý. Ông đưa ra trong âm nhạc của ông những hình ảnh như Truyện Kiều, Mẹ Việt Nam, người dân quê... Ông kêu gọi mọi người ngồi lại với nhau (Việt Nam Việt Nam! Bầy Chim Bỏ Xứ) [Cũng có thể ông Phạm Duy tự cho mình là thiên tài, nên có quyền vượt lên trên tất cả mọi chính kiến. Nhưng ông quên một điều, dẫu cho có là thiên tài thật chăng nữa thì ông vẫn là một con người có xứ sở, quốc gia, chứ không thể giống như con khỉ Tôn Ngộ Không, từ đất từ núi mà nảy sinh trong cuộc đời!]

VII. Ở đây, tôi đồng ý rằng đến một lúc nào trên cái nhìn chung về dân tộc, vấn đề hợp lưu cần được nêu lên. Nhưng hợp lưu có nghĩa là NGỒI LẠI VỚI NHAU MỘT CÁCH NGANG HÀNG, chứ không là van xin quỵ lụy một chiều. Phạm Duy đã viết ra những lời nhạc không bằng lòng yêu nước hay bằng tinh thần người Việt Quốc Gia chân chính, mà là bằng lối suy nghĩ của Cộng Sản hay của một thế lực ngoại bang. Quần chúng bị ông lôi cuốn vào sự suy nghĩ sai lầm riêng nên cũng suy nghĩ theo lối suy nghĩ của Cộng Sản hay ngoại bang hồi nào không biết.

Thực hơn hết, theo tôi, Phạm Duy chỉ là người "chống chống Cộng" đúng đường lối của Mỹ. Trước kia, Mỹ là quốc gia chống Cộng hàng đầu thế giới, nhưng bây giờ, chính sách ngoại giao của Mỹ đã thay đổi. Những người Việt Nam làm việc và ăn lương của Mỹ cũng phải thay đổi luôn. Có nên nghi ngờ Phạm Duy cũng là một trong những người của số Việt Nam này chăng?

Mới đây, tôi được nghe giáo sư Lê Hữu Mục kể rằng: "Phạm Duy có nhắn lời với một người bạn bên Tây của bác và cũng với chú Lê Ngọc Linh em trai bác rằng sẽ kiện bác ra tòa và sẽ bảo đàn em tìm bác mà đập cho một trận."

Đây cũng là một điều làm tôi phải suy nghĩ. Tự hỏi, Phạm Duy, một nhạc sĩ nổi tiếng và đã lớn tuổi, sao lại tỏ ra côn đồ thô bạo như thế, hết đe đánh Văn Thanh vì một bài viết, tới đòi đập giáo sư Lê Hữu Mục vì những lời tố cáo. Tư cách văn nhân nghệ sĩ của ông ở đâu? Quần chúng liệu có nhìn ra điều ấy? Hay là ông dựa vào một thế lực nào ghê gớm mới có thể phô bày sự hống hách ngay chính trên một đất nước rất tôn trọng nhân quyền và luật pháp như xứ Hoa Kỳ?

Đọc lịch sử Việt Nam, thời thực dân, thấy có ba nhân vật ra hợp tác với Tây là Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ. Mỗi người đều có thái độ và ý nghĩ khác nhau trong hành động của mình. Nguyễn Trường Tộ chỉ trong mấy tháng ra làm việc mà về sau cứ hối hận mãi theo điều ấy. Ông chuộc lỗi với dân tộc bằng cách cố lòng tranh đấu cho Việt Nam, viết 150 bản điều trần dâng lên vua Tự Đức với ước nguyện mong thay đổi khá hơn cho đất nước. Trương Vĩnh Ký hợp tác với Tây hoàn toàn trên phương diện văn hóa, cũng mang lòng hối hận khôn nguôi. Riêng Tôn Thọ Tường chẳng những đã vênh váo vì cơm no áo ấm trong khi đồng bào rất đói khổ, lại còn hết lòng hết dạ ca tụng sức mạnh văn minh của bọn thực dân.

Tôi tự hỏi, không biết ông Phạm Duy thuộc hàng nào trong số ba con người lịch sử hợp tác với ngoại bang, ở trên tôi vừa kể?

Trần Thị Bông Giấy
(San Jose, 30/9/1997)

(*) Viết theo tài liệu của Hoàng Dược Thảo, báo Sàigòn Nhỏ, Nam Cali.
(**) Viết theo bài "Phác Thảo Chân Dung Tôi" của Trịnh Công Sơn, in trong cuốn Nhạc Và Đời, NXB Tổng Hợp Hậu Giang, 1989.

Câu chuyện 16 tấn vàng tháng 4-1975

TT - 16 tấn vàng - đó là khoản dự trữ nằm trong Ngân hàng quốc gia vào tháng 4-1975. Và báo chí thời đó đã đưa tin về kế hoạch tẩu tán số vàng ấy ra nước ngoài. Sự thật ra sao?

Kỳ 1: Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?

Trụ sở Ngân hàng quốc gia
(nay là Ngân hàng Nhà nước VN tại TP.HCM)
- nơi cất giữ 16 tấn vàng vào tháng 4-1975 - Ảnh: N.C.T.

16 tấn vàng - đó là khoản tài sản dự trữ còn lại của chính quyền Sài Gòn vào tháng 4-1975, trị giá khoảng 120 triệu USD vào lúc đó, tức khoảng 320 triệu USD thời điểm hiện nay.

Có khá nhiều "dị bản" xung quanh câu chuyện 16 tấn vàng suốt hơn 30 năm qua kể từ khi báo chí Sài Gòn đầu tháng 4-1975 đưa tin: tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tìm cách tẩu tán 16 tấn vàng thuộc tài sản quốc gia ra nước ngoài. Đặc biệt, vào đầu năm 2006, Đài BBC đã "xới" lên câu chuyện này bằng một bản tin dẫn từ nguồn tài liệu của Bộ Ngoại giao Anh.
Sự thật ra sao? Tuổi Trẻ lật lại hồ sơ vụ việc này, 31 năm trước...

Từ một bản tin trên BBC

Ngày 29-12-2005, trong chương trình phát thanh Việt ngữ và trên trang web BBC, hãng thông tấn này đã loan một bản tin đáng chú ý về chuyện ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu vào tháng 4-1975 sau khi từ chức tổng thống VN cộng hòa. Bản tin khá dài nói trên, theo BBC, được trích từ hồ sơ mới công bố của Cục Văn khố quốc gia Anh:

"Chính phủ Anh hôm thứ năm đưa ra các văn bản cho biết về chuyến bay rời khỏi Sài Gòn của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cách đây hơn 30 năm. Theo phóng viên BBC Rick Fountain từ Cục Văn khố quốc gia Anh, ông Thiệu được máy bay trực thăng chở tới một tàu chiến của Mỹ, và sau đó ông tới Đài Loan cùng với vợ và phụ tá của mình. Cuối cùng ông Thiệu bắt đầu cuộc sống mới không phải ở Mỹ như nhiều người tưởng, mà ở London.

Các tường thuật của báo chí nói ông Thiệu đã bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố quốc gia của chính quyền Nam VN".

Mặc dù trong bản tin này BBC có phỏng vấn một nhân chứng là tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Mỹ), phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu vào năm 1975, nhưng vẫn không ngăn được làn sóng tranh luận ngay trên trang web BBC và các diễn đàn khác trên mạng. Bởi TS Hưng đã bay sang Mỹ công cán từ giữa tháng 4-1975 và kẹt luôn ở đó, nên ông không phải là nhân chứng trong câu chuyện 16 tấn vàng tại Sài Gòn vào cuối tháng 4-1975 được.

Do vậy, chi tiết về 16 tấn vàng tài sản quốc gia tháng 4-1975 đã dẫn tới cuộc bàn thảo trên mạng xung quanh câu hỏi: có hay không kế hoạch tẩu tán số lượng vàng khá lớn nói trên? Chẳng hạn, một bạn trẻ tên Hưng đã đặt câu hỏi trên trang web BBC: "Từ trước tới nay người ta đều nói ông Thiệu mang theo 18 tấn vàng (chính xác là khoảng 16 tấn) ra nước ngoài. Giờ đây lại có thông tin ông ta không mang theo vàng ra nước ngoài. Vậy số vàng ấy có tồn tại hay không và nếu có thì đã nằm trong tay ai?".

Tin đồn về việc "ông Thiệu cuỗm 16 tấn vàng tài sản quốc gia" ngày càng lan rộng vào thời điểm ấy. Trong khi đó, báo chí Sài Gòn, vì nhiều lý do khác nhau, đã không có thông tin gì rõ ràng, và dân chúng hoàn toàn không biết thực hư câu chuyện đó như thế nào cho đến ngày 30-4-1975.

Trong khi đó, một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Mai nhớ lại bản tin 31 năm trước của BBC rằng: "Hồi ông Thiệu đi Đài Loan, BBC tường thuật là có nghe tiếng kim loại lẻng xẻng trong vali, ám chỉ ông Thiệu đã mang 16 tấn vàng trong ngân hàng quốc gia đi...".

Bản tin cuối năm 2005 của BBC do vậy đã gây sự chú ý của nhiều người. Thứ nhất, nó liên quan đến khoản tài sản lớn của quốc gia. Thứ hai, nó khiến nhiều người đặt dấu hỏi về sự chính xác của những "hồ sơ Anh" vừa được giải mật. Vậy chuyện gì đã xảy ra 31 năm trước?

"Lời bác bỏ" gây nghi vấn

Tìm đọc lại những nhật báo Sài Gòn tháng 4-1975, thấy trên mặt báo tràn ngập tin tức chiến sự và di tản. Đột nhiên, nhiều báo ra giữa tháng tư đã đồng loạt đăng một bản tin đáng chú ý về 16 tấn vàng. Như tờ Chính Luận ngày 16-4 đã đăng như sau:

“Phát ngôn viên chính phủ: Hoàn toàn bác bỏ tin 16 tấn vàng.

Sáng nay, được hỏi về vụ có 16 tấn vàng của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Kampuchia Lon Nol chở từ Việt Nam ra ngoại quốc do Hãng AP (Mỹ) loan tin (chi tiết hóa tin của đài BBC loan tải trước đây), phát ngôn viên chính phủ tuyên bố: “Hoàn toàn là tin thất thiệt, đầy ác ý, cố ý bôi lọ”. Phát ngôn viên nhấn mạnh: “Tình trạng loan tin thất thiệt và cố ý bôi lọ của các hãng thông tấn và báo chí ngoại quốc loan đi không phải mới xảy ra mà đã kéo dài từ lâu”.

Lời bác bỏ nói trên dường như xác nhận một điều là vào lúc đó, nhiều hãng tin nước ngoài và các tờ báo lớn có phóng viên thường trú tại Sài Gòn đã cùng đưa tin “tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị mang 16 tấn vàng ra khỏi VN”. Không chỉ BBC, AP mà nhiều tờ báo lớn khác ở Mỹ như Los Angeles Times lúc đó đã đăng tin như sau: “Công ty vận chuyển đường không Balair của Thụy Sĩ vào hôm thứ hai đã xác nhận rằng: họ đã từ chối chở 16 tấn vàng, dường như thuộc quyền sở hữu của tổng thống Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu, từ Sài Gòn sang Thụy Sĩ”.

Những thông tin có dẫn nguồn rõ ràng như thế đã tạo ra nhiều nghi vấn, dù nó đã bị chính quyền Sài Gòn lúc đó bác bỏ. Có lẽ giới báo chí quốc tế ngày ấy đã biết sơ qua về một kế hoạch bí mật từ dinh Độc Lập, và kế hoạch bí mật đó dường như đã bị “xì” ra ngoài “Radio Catinat” - tức các quán cà phê Givral, Brodard... (trên đường Đồng Khởi ngày nay), nơi tụ tập thường xuyên của các nhà báo, dân biểu, chính khách Sài Gòn lúc bấy giờ.

Trong khi dư luận còn bán tín bán nghi thì báo Độc Lập ngày 28-4 đã đăng một bản tin về chuyến ra đi bí mật của ông Nguyễn Văn Thiệu với chi tiết như sau: “Theo tin UPI, Bộ Ngoại giao Đài Loan cho biết cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã đến Đài Bắc bằng phi cơ quân sự Mỹ vào lúc 4 giờ sáng thứ bảy 26-4 với 16 viên chức Việt Nam cộng hòa cùng thân nhân tháp tùng. Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”.

... Có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975. Trong một cuốn sách khá nổi tiếng đã được tái bản khá nhiều lần trong hơn 20 năm qua, người ta đọc được một đoạn “có vẻ chắc chắn” như sau: “Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang còn làm đại sứ (tức ông Nguyễn Văn Kiểu - NV). Thiệu mang theo năm vali chứa đầy đôla. Trước đó, Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi VN 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quí mà gia đình y đã vơ vét được sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống”.

Còn trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia trên mạng Internet, một “sử gia” nào đó đã cung cấp những thông tin “giật gân” hơn nữa: “Martin (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - NV) giúp gia đình Thiệu ra đi, nhưng chỉ cho mang theo đồ vật cá nhân nhỏ. Thế là tay cựu tổng thống và bà vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh (vợ Thiệu) đã xoay xở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng quốc gia bằng cách ép dọa thuộc cấp. Bà ta cho chuyển phần lớn số vàng thỏi ấy lên một chiếc máy bay thuê của Hãng hàng không Thụy Sĩ. Nhưng các phi công, sau khi khám phá ra đó là vàng, đã hỏi sứ quán Thụy Sĩ và cuối cùng từ chối không chở nữa. Lý Long Thân (chồng em nuôi vợ Thiệu) nhảy vào cứu nguy. Thân ra lệnh chở vàng bằng tàu Trương Tinh đi Pháp, để sau này Thiệu nhận lại ở đó”.

Có khá nhiều “dị bản” như thế xung quanh chuyện ra đi và tẩu tán vàng của ông Nguyễn Văn Thiệu năm 1975. Trong đó, “dị bản” của BBC là mới nhất và bị phê phán nhiều nhất.

BÙI THANH


Vậy chuyện gì đã xảy ra với 16 tấn vàng tài sản quốc gia? Những nhân chứng sẽ cho biết về chuyến ra đi đầy bí mật của ông Nguyễn Văn Thiệu do CIA tổ chức vào một đêm cuối tháng 4-1975.

Kỳ 2: Chuyến ra đi bí mật

Ông Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức và chửi Mỹ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo" - Ảnh tư liệuTT - Kỳ trước, chúng tôi đã thuật lại tin tức trên báo chí Sài Gòn và những “dị bản” về chuyện 16 tấn vàng tài sản quốc gia. Những thông tin đó vào cuối tháng 4-1975 đã gắn chặt với chuyến ra đi bí mật của ông Thiệu. 16 tấn vàng đã lên máy bay cùng ông Thiệu? Vào lúc đó không ai được biết.

Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?

Ông Thiệu đã từ chức ra sao?

Vào đầu tháng tư, sau khi quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng và hành quân thần tốc về phía Nam, chiếc ghế tổng thống của ông Thiệu đã bắt đầu lung lay.

Lúc đó, người Mỹ, kể cả những người Pháp ở sứ quán Sài Gòn, đang toan tính về một giải pháp thương lượng với Hà Nội. Ông Thiệu trở thành vật cản lớn cho những toan tính đó. Theo hồi ký của nhân viên CIA tại Sài Gòn Frank Snepp, ngày 13-4 trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar đã gửi về Washington một bản tường trình có chủ ý: "Nhiều sĩ quan cao cấp và nhân vật chính trị muốn tổng thống Thiệu từ chức để tránh một thất bại quân sự hoàn toàn". Bản tường trình đó có nhắc đến hai từ "đảo chính".

Và tấm bia mộ chính trị của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã được tạc vào chiều 17-4 khi đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin quyết định đề nghị với Nhà Trắng một phương án: Thiệu phải ra đi! Theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (người sau này đã phỏng vấn Martin nhiều lần tại Mỹ), đại sứ Martin đã gửi mật điện cho ngoại trưởng Kissinger như sau: "Tôi sẽ cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu xuống thì các tướng lĩnh dưới quyền ông ta sẽ bắt buộc ông ta làm điều này. Có một cách rút lui êm đẹp nhất là tự ý ông từ chức…".

Ba ngày sau, đại sứ Martin đến gặp ông Thiệu để nói thẳng điều đó, trong cuộc trò chuyện căng thẳng kéo dài hơn một giờ rưỡi.

... Tối đó (tức ngày 20-4), tổng thống Thiệu quyết định từ chức. Và trưa ngày hôm sau, ông ta triệu tập phó tổng thống Trần Văn Hương và tướng Trần Thiện Khiêm đến dinh Độc Lập, báo cho hai người đó biết ông ta sẽ tuyên bố từ chức tối nay. Thiệu chỉ có một yêu cầu: việc chuyển giao quyền lực được thực hiện theo đúng hiến pháp để tránh lộn xộn...

Tại sao Frank Snepp biết chính xác nội dung cuộc gặp đó và thuật lại như trên trong cuốn Decent Interval (đã được dịch ra tiếng Việt với tựa đề Cuộc tháo chạy tán loạn)? Câu trả lời thật đáng kinh ngạc: máy nghe lén của CIA đặt bí mật trong phòng làm việc của tổng thống Thiệu tại dinh Độc Lập đã truyền đi từng lời nói về trụ sở CIA tại Sài Gòn.

Tối 21-4, sau khi tuyến phòng thủ quan trọng nhất của quân đội Sài Gòn là Xuân Lộc đã bị quân giải phóng chọc thủng, ông Nguyễn Văn Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức tổng thống. Trong cuộc diễn thuyết kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ, ông ta vừa khóc lóc bảo vệ mình trước lịch sử, vừa lên án gay gắt sự phản bội của chính quyền Mỹ:

... Nếu tôi không nói rằng các ông đã bị cộng sản đánh bại ở VN thì tôi cũng xin thưa rằng các ông cũng không thắng được họ. Nhưng các ông đã tìm được một lối tháo lui trong danh dự. Và bây giờ khi quân đội chúng tôi thiếu súng ống, đạn dược, trực thăng, phi cơ và B52, các ông lại bắt chúng tôi làm một việc như lấp cạn bể Đông, tỉ như các ông cho tôi ba đồng bạc mà bắt chúng tôi lấy vé máy bay hạng nhất, thuê phòng ngủ 30 đồng một ngày, ăn bốn năm miếng bít-tết và uống bảy tám ly rượu vang một ngày. Thật là phi lý !... (trích nguyên văn)

Và trong cuộc diễn thuyết cuối cùng trên tivi đó, ông Thiệu cũng đã chửi thẳng Hoa Kỳ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo".

Giây phút "nồng ấm" của ông Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Mỹ Lyndon Johnson - Ảnh tư liệuÔng Thiệu đã ra đi như thế nào?

Sau khi từ chức tổng thống, ông Thiệu dọn về ở nhà quốc khách trong khu Hải quân (nay là đường Tôn Đức Thắng). Tài sản riêng của gia đình ông đã được chuyển đi trước đó. Dù không còn quyền hành gì, nhưng sự có mặt của ông Thiệu tại Sài Gòn trong những ngày căng thẳng nhốn nháo đó không phải là một điều hay ho đối với nhiều người.

Theo lời kể của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong cuốn The Palace File (Hồ sơ mật dinh Độc Lập), tân tổng thống Trần Văn Hương đã gọi điện thoại khuyên ông Thiệu nên sớm rời khỏi VN. Ông Hương cũng đề nghị đại sứ Mỹ Martin dàn xếp giùm cho chuyến ra đi của ông Thiệu.

Cùng lúc ấy, ông Nguyễn Văn Kiểu, em ông Thiệu, cũng bay về nước khuyên ông Thiệu sớm ra đi và địa chỉ đến an toàn nhất là Đài Loan (vì ông Kiểu đang làm đại sứ VN cộng hòa tại Đài Loan). Cũng theo tiến sĩ Hưng, để sự ra đi của ông Thiệu được hợp pháp, tổng thống Hương đã ký quyết định cử ông Thiệu làm đặc sứ của VN cộng hòa đi Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (ông Tưởng Giới Thạch mất ngày 5-4).

Ngày 25-4, ông Thiệu ra đi lặng lẽ không cờ không trống. Và cũng không có một quan chức người Việt nào tiễn đưa ông cựu tổng thống hết thời. Trớ trêu thay, những người đưa ông ra sân bay lại là các nhân viên CIA Mỹ tại Sài Gòn, trong đó có Frank Snepp. Frank Snepp chính là người lái xe đưa ông Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhất.

Đó là một chuyến ra đi bí mật trong đêm. Nhưng ông Thiệu có mang theo 16 tấn vàng không? Theo lời Frank Snepp thuật lại trong cuốn Decent Interval, vào chiều 25-4, nhóm CIA tại Sài Gòn bất ngờ nhận được lệnh đưa cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra nước ngoài trên một chuyến bay đặc biệt của quân đội Mỹ.

...Khoảng 20g30, bốn người chúng tôi (tức bốn tay nhân viên CIA tại Sài Gòn: Charles Timmes, Thomas Polgar, Joy Kingsley và Frank Snepp - NV) đi ba xe đến bộ tổng tham mưu Nam Việt Nam. Nhà Khiêm nằm trong khu vực này. Chúng tôi không thể không tính đến việc tái diễn cuộc ám sát như đã xảy ra đối với anh em Diệm - Nhu trước đó. Chúng tôi vạch kế hoạch: nếu có những sĩ quan trẻ nào đó trong quân đội Sài Gòn ngăn chúng tôi lại trên đường đi và có ý định bắt, tức thì chúng tôi sẽ nổ súng…

Hơn 21 giờ, đoàn xe CIA dừng trước nhà ông Khiêm, đợi ở đó. Một lát sau, chiếc Mercedes đưa đến "một người tầm thước, tóc bạc và chải lật ra sau, mặt bôi kem, quần áo chỉnh tề". Đó là ông Nguyễn Văn Thiệu, mà theo Frank Snepp, trông giống một người mặc quần áo quảng cáo trên một tạp chí châu Á hơn là một nguyên thủ quốc gia.

...Ít phút sau, có mấy người lực lưỡng, mỗi người xách một vali nặng đi đến chỗ xe chúng tôi và xếp vali vào.

Tiếp đó Thiệu, Khiêm, Polgar, Timmes cùng một vài nhân vật người Việt (phụ tá và cận vệ) bước nhanh ra khỏi cửa nhà Khiêm rồi chui vào xe. Thiệu ngồi xe tôi, ở ghế đằng sau, giữa Timmes và một người Việt. Timmes khuyên ông Thiệu: tổng thống ngồi thấp xuống để được yên ổn!

Đoàn xe lao nhanh về phía sân bay Tân Sơn Nhất. Trên đường băng, một chiếc máy bay bốn động cơ C118 của không quân Mỹ đang đậu ở đấy. Đại sứ Mỹ Martin và các tay súng thủy quân lục chiến Mỹ mặc thường phục đã có mặt ở đó từ lâu. Ông Thiệu và ông Khiêm rời xe, lặng lẽ lên máy bay. Những nhân viên tùy tùng theo sau, tay xách vali…

Như vậy, theo Frank Snepp, chuyến bay đặc biệt đêm 25-4 chở ông Thiệu qua Đài Loan không mang theo 16 tấn vàng. Bởi không thể nào nhét số lượng vàng thỏi khổng lồ ấy vào mấy chiếc vali xách tay được. Còn trước đó một ngày, bà Mai Anh, vợ ông Thiệu, cũng đã bay sang Bangkok (Thái Lan) trên một chuyến bay thương mại bình thường.

BÙI THANH

Vậy 16 tấn vàng ở đâu? Hay chuyện tẩu tán tài sản quốc gia vào thời điểm Sài Gòn lộn xộn đó chỉ là tin vịt trên báo chí?
Không, đó là một kế hoạch có thật, được vạch ra bí mật tại dinh Độc Lập từ đầu tháng 4-1975. Kế hoạch đó được vạch ra nhằm tìm kiếm một chút ánh sáng cuối đường hầm.

Kỳ tới: Không có ánh sáng cuối đường hầm

Wednesday, May 14, 2008

Sự Liên Quan Giữa Phan Huy Đạt

Sự Liên Quan Giữa Phan Huy Đạt - Trần Chung Ngọc - Hà Dương Dực và Phan Huy Lê

Ảnh ông Phan Huy Lê.
Take2Tango Weekly sẽ minh chứng sự liên quan giữa 4 nhân vật "cộm cán" Phan Huy Đạt (chủ nhiệm nhật báo Người Việt) - Trần Chung Ngọc - Hà Dương Dực và Phan Huy Lêtrên trong số báo phát hành ngày 22 tháng 5 năm 2008. Trong bài viết online hôm nay, chúng tôi xin tải đăng để độc giả rỏ hơn về "mặt thật" của một trong 4 nhân vật nàỵ

TRẦN CHUNG NGỌC - SỰ NGÂY THƠ CỦA MỘT MẸ MÌN

Trước khi được hầu chuyện với Ông Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc, tôi xin nói rõ tôi là một Phật tử; theo Phật vì tính nhân bản của đạo Phật; vì đạo Phật đã gắn liền với dân tộc. Sỡ dĩ phải nói lên điều nầy trước tiên vì để tránh bị gán ghép là "hiếu sát, hiếu chiến, cuồng tín".

Ðã từ lâu tôi có ý viết một số nhận xét của mình về ông Trần Chung Ngọc. Tôi cũng đọc một số bài viết và sách của ông - ông viết về Kitô giáo rất công phu, công trình nghiên cứu tìm tòi tài liệu nghiêm túc. Thế nhưng những ý kiến, luận cứ có tính cách chính trị, nhận thức văn hóa của ông thì nhiều khi ấu trĩ ; tôi sẽ đề cập đến sau đây.

Ðầu tiên về bài "Vạch trần âm mưu đánh phá Phật giáo ở Nam Cali" của ông đăng trong Phật Giáo Việt Nam của sư Mãn Giác. Mở đầu ông viết "... Nhiều nhà lãnh đạo tinh thần thuộc các tôn giáo đã được mời để nói lên tiếng nói của mình cho người Mỹ và đất nước Mỹ biết quan điểm tôn giáo của họ về cuộc khủng bố". Ông nói đến thiền sư Nhất Hạnh cùng được mờị Tuy nhiên ông không cho biết rõ là chính phủ hay tổ chức nào mờị Riêng ông Nhất Hạnh thì theo tin trên báo là do một nhóm tàn dư phản chiến Mỹ mời và ông đã bỏ ra hàng chục nghìn đô la để đăng bài trên New York Timẹ Chung Ngọc lại còn nói thêm- một cách móc méo-là không thấy mặt các vị chức sắc bên Kitô giáo hay những người nổi tiếng chống Cộng và "Hòa Thượng tự phong và tự do liên tôn ve vuốt Thánh giá" "hay hòa thượng tự phong và tự tung tự tác ở cổng Như Lai". Ðương nhiên nhóm phản chiến Mỹ sẽ không bao giờ mời những vị mà ông đã kể vì họ sẽ không bao giờ đứng về phe khủng bố mà lên án Mỹ như Nhất Hạnh đã làm.Ông Chung Ngọc đã tỏ ra lỗ mãng khi nói đến hai Hòa thượng mà ông gọi là "tự phong". Xin hỏi ông Chung Ngọc, bài "Vạch trần âm mưu ..." của ông tôi đọc ở tập san Phật Giáo Việt Nam của sư Mãn Giác và ông nầy đã thường xưng là Hòa thượng; đồng thời đứng dưới danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Tại Hoa Kỳ và Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai công nhận, ai bầu ,ai tấn phong hở ông Chung Ngọc. Riêng hai Hòa Thượng mà ông gọi là "tự phong" đó xin ông chứng minh cho chúng tôi thấy các vị ấy "tự phong" ra làm sao?

Ông dẫn chứng sai bài "Kẻ thù Ta" là một bài Tâm ca của Phạm Duy chứ không phải của Trịnh Công Sơn đã viết; dù đây là việc nhỏ nhưng cũng cho biết kiến thức tổng quát của ông chẳng có là bao nhiêụ Câu mở đầu của bài hát là "Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với aị Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là vô lương , tên nó là hờn căm, tên nó là hận thù ..." khi trích dẫn nên trích trọn ý của tác giả muốn nói xin đừng cắt xén để bóp méo theo ý mình .Ông viết "...con người đúng nghĩa là con người, chứ không phải là những kẻ đầy thú tính , hiếu chiến, hiếu sát, mang thân hình con người". Theo như ông viết thì bọn Cộng Sản, phát xít, bọn khủng bố trong tổ chức của Bin Laden chỉ "mang thân hình con người " chứ đâu có phải là "con người đúng nghĩa có phải thế không? Nếu đúng như thế thì trừng trị bọn chúng đâu có phải là "giết người ".

Nói về ông Nhất Hạnh, gọi ông ta là Thiền sư thì chưa ổn, ông ta từ lâu đã không phải là một vì tăng của Phật giáo; nói cho chính xác ông ta đang là giáo chủ của một tôn giáo mới, thứ tôn giáo tạp pín lù pha trộn giáo lý KiTô giáo vào Phật Giáo mà tôi xin tạm gọi là đạo Kitô Bụt. À, có một điểm lạ đáng ghi nhận là ông Chung Ngọc chống lại Kitô giáo rất hăng hái nhưng lại bênh vực cho người có công pha trộn Kitô giáo với Phật Giáo thành môt giáo lý tạp nham. Ông Chung Ngọc dẫn bài của Nhất Hạnh đưa ra con số 40.000 trẻ em chết vì suy dinh dưỡng, vì đói trên thế giới mỗi ngày và quy tội cho Mỹ có phần lớn. Trong số 40.000 trẻ em nầy tôi chắc là không thiếu gì trẻ em Việt Nam.Thế thì số trẻ em Việt Nam chết vì đói, số trẻ em lang thang làm đủ các nghề như ăn xin, dắt mối, đánh giày, bươi rác, trộm cắp ... hiện nay ở trong nước chắc cũng là do "đế quốc Mỹ" chứ không phải là do chính sách cai trị ác ôn của bọn Mafia CS Việt Nam gây ra - có phải thế không ông Chung Ngọc ?

Ông chê nhiều người dốt tiếng Anh nên dịch lời của Tiền sư (tôi xin được bớt đi một chữ "h") VÔ HẠNH (từ đây trở đi tôi xin gọi thế vì theo tinh thần Bát Nhã thì Nhất Hạnh hay Vô Hạnh cũng là một không khác) không đúng. Trong nguyên văn của Vô Hạnh Bến Tre được viết là city và ông đã dịch là Tỉnh. Chi tiết nầy đã cho chúng ta thấy cái dốt của ông Chung Ngọc. Dốt hoặc cố ý lấp lửng để người đọc hiểu sai lạc. Ngày trước 75 Bến Tre là một thị xã nằm trong Tỉnh Kiến Hòa, do đó nếu nói vài du kích xâm nhập thị xã Bến Tre là đúng nhưng nói xâm nhập tỉnh Bến Tre (phải gọi là tỉnh Kiến Hòa) là sai. Vì Kiến Hòa ngày trước là một trong Tam Kiến (Kiến Phong, Kiến Tường, Kiến Hòa) lực lượng cơ hữu của CS hoạt động rất mạnh, có không ít hàng tiểu đoàn địa phương chưa kể du kích. Số cư dân được thổi phồng quá đáng một cách cố ý. Ông Ngọc biện hộ là sự sơ sót của ThầỵTheo tôi thì đây không phải là một sự sơ sót mà là một sự cố tình.Tại saỏ Tiền sư Vô Hạnh không phải là một trẻ con, một người vô não để không biết suy nghĩ chín chắn khi trích dẫn một nguồn tài liệu đưa ra trước công chúng. Thứ hai, ông dạy "Giáo pháp tỉnh thức'' cho mọi người nhưng tự thân tâm ông vẫn còn mê muội, đầy dẫy vô minh thì ông đâu xứng đáng làm thầy thiên hạ, ông chỉ là một tên bịp có tầm cỡ mà thôị Nâng một con số - con số về những con người chứ không phải là con vật hay đồ vật- lên 400 % sai sự thật mà ông gọi chỉ là một sơ xuất thì chỉ có miệng lưỡi của Vẹm mới nói, mới nghĩ vậy thôi.

Ở đoạn ông Chung Ngọc làm cái loa tuyên truyền gỡ tội cho bọn CS trong vụ thảm sát Tết Mậu thân ở Huế. Khi ông bảo là Mỹ ném bom bừa bãi gây thương vong cho 5, 6 nghìn thường dân. Sự dốt nát và nhận thức ấu trĩ- nếu không nói là sự cố tình nhắm mắt lặp lại những lời chối tội của CS do ông Chung Ngọc đưa ra đã cho ta thấy rõ Ông Chung Ngọc đang phục vụ cho ai. Tất cả những người sống ở miền Nam có chút tuổi đời để nhận thức đều biết tội ác của bọn CS trong vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế. Cái chết của những người bị chôn sống, bị đập đầu bằng dao, rựa, cuốc, bị xỏ xâu bằng dây kẽm từng chùm trong các mồ chôn tập thể được khai quật không lâu sau khi thành phố được giải tỏa không thể giống với những vết tử thương do bom đạn và người Mỹ cũng không có công sức nào gom xác lại và đào hố chôn như thế. Ðây cũng chính là một trong những chứng tích để minh định số nạn nhân trong vụ thảm sát là do ai gây nên. Ông nên tìm đọc tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của nhà văn Nhã Ca để tìm hiểu thêm. Ông hỏi những con số của VNCH đưa ra có chính xác không thì ông căn cứ vào đâu mà bảo là những con số của CS, của các tên phản chiến Mỹ là chính xác. Thưa ông Ngọc, chẳng lẽ những con số nào ông thấy nó phù hợp với ý đồ nối giáo cho CS là đáng tin cậy còn ngoài ra thì không?

Viết đến đây tôi cũng xin đề cập đến một bài viết của Ông Tiểu Huyền "Tiêu diệt khủng bố mà vẫn có hòa bình ?" đăng trên cùng số báo với bài của ông Chung Ngọc để so sánh . Ông Tiểu Huyền đề cập đến lời nhận xét của Ðức Ðạt Lai Lạt MạNgài đúng là bậc chân tu đạt đạo, các lời khuyên bảo của ngài thể hiện đúng tinh thần từ bi của Phật Giáo; không phân biệt, không kết tội, không nhìn một chiều như của Tiền sư Vô Hạnh. Cùng một sự kiện ngài không lên án Mỹ cũng không khuyến khích Mỹ phải trả thù mà chỉ bày tỏ lòng mong muốn là chính phủ Mỹ hãy thận trọng, tự chế, tìm giải pháp hợp tình hợp lý nhất; sau khi ngỏ lời chia buồn cùng nhân dân Mỹ. Ðó mới chính là những lời xuất phát từ sự thức tỉnh thật sự, còn những lời bóng bẩy, văn hoa nhưng chất ngất gươm đao của ngài Vô Hạnh thật không xứng đáng tư cách một đạo sư. Thành ra sự lên án Mỹ một cách thiếu căn cứ vững chắc và không phải lúc của Vô Hạnh là một âm mưu, cố tình rõ rệt không thể biện hộ.

Tôi cũng xin nhắc lại là tiền sư Vô Hạnh không phải là một vị sư Phật Giáo, ông ta là giáo chủ của cái gọi là Kitô Bụt giáo, xin đừng cố tình áp đặt để mập mờ đánh lận con đen; bản thân ông Vô Hạnh hay bất cứ một vị sư nào cũng không phải là Phật giáo, đừng bao giờ bắt chước Bin Laden mà bảo rằng "Ðụng đến Bin Laden là đụng đến Hồi Giáo". Ðồng thời tôi cũng nói ra đây mục đích của Trần Chung Ngọc và nhóm của ông là : Thứ nhất : Gây chia rẽ trong cộng đồng Phật Giáo; hóa giải các nỗ lực tranh đấu vì tự do tôn giáo, nhân quyền của những Tăng Ni và Phật Tử . Thứ hai : Gây chia rẽ, phá vỡ sự đoàn kết giữa các tôn giáo Việt Nam trong công cuộc đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản.Vì sự đoàn kết của các tôn giáo chính là nỗi lo sợ của Cộng Sản.Tôi sẽ chứng minh chỗ đứng của ông Trần Chung Ngọc từ một số các bài viết của ông sau đây.

"Bài vài nhận xét về vấn đề tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo ở hải ngoại" đăng ở Giao Ðiểm số 39-40.Vào câu mở đầu Ông Ngọc viết "dù rằng trên thực tế chủ nghĩa Cộng Sản đã không còn từ hơn 10 năm nay". Ông bảo chủ nghĩa CS đã không còn, điều nầy có lẽ đúng nhưng người Việt tự do chống lại là chống cái chế độ độc tài CS phi nhân và dù chế độ ấy có ngụy trang bằng thứ chủ nghĩa nào, có đổi tên gọi là gì đi nữa mà thực chất không đem lại tự do,no ấm, dân chủ thực sự cho quê hương Việt Nam thì chúng tôi chống lại, thế thôi.

Ông chê những người tranh đấu cho nhân quyền chưa để tâm nghiên cứu và chưa bao giờ về thẳng Việt Nam - như ông đã về - để thu thập những dữ kiện chính xác làm căn bản vững chắc cho việc tranh đấụ Ông còn nói đến đạo đức cá nhân, và bản chất tay sai, do vô minh hoặc vô tình của những người nầy. Ông còn bảo các quốc gia phương Tây lạm dụng bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và xã hội Ðông Phương khác với Tây Phương. Những điều ông đề cập đến có đúng, nhưng chỉ phiến diện và ông đã dùng những nhận xét ấy để phê phán các cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ của Việt Nam.Thứ nhất cuộc đấu tranh cho mục tiêu nhân quyền thực chất là đấu tranh cho dân quyền, là những quyền căn bản của mỗi một công dân trong một nước mà nếu tôi không lầm thì trong bản Tuyên ngôn Ðộc Lập đọc trước Hội Trường Ba Ðình do Hồ Chí Minh và trong Hiến Pháp của nhà nước CS Việt Nam đều có đề cập đến. Trên các tiêu đề văn thư của chính quyền Cộng Sản Việt Nam luôn có khẩu hiệu: ÐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC, thế nhưng sau gần 30 năm sau 75, đất nước vẫn chưa có tự do, độc lập và hạnh phúc thực sự. Theo tôi các giá trị về quyền công dân thì dù ở Ðông hay Tây phương thì cũng đều có giá trị như nhaụ Ðông Phương và Tây Phương có những khác biệt về văn hóa, phong tục, tập quán nhưng những khát vọng của con người về một cuộc sống an bình, hạnh phúc, một xã hội thuần lương thì đều như nhaụ Những kết quả có được qua bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là một quá trình hao tốn biết bao nhiêu máu xương tranh đấu của nhiều thế hệ nhân dân đã viết nên. Vấn đề là ở các ý nghĩa tốt đẹp - có thể chưa toàn hảo- của bản Tuyên Ngôn đã tán dương, đã khẳng định, còn các nước Tây Phương có lợi dụng, có gây ra nhiều bất công cho các nước nhược tiểu thì đó không phải là lỗi của những người đã dựa vào nó làm một cái thước đo để căn cứ vào làm mục tiêu tranh đấu.

Ông sai lầm khi viết rằng "Truyền thống dân tộc Việt Nam ghét nhất những kẻ nào mượn thế người ngoại quốc để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam . Ông đã đồng hóa chính quyền với nhân dân, với đất nước; trong trường hợp Ðảng CS, chính quyền đang ở vị thế đối lập với nhân dân, khi chính quyền đàn áp nhân dân thì chưa bao giờ nhân dân lại đi bênh vực cái chính quyền ấỵ Ðiểm nữa, chính quyền ấy đã lệ thuộc vào CS quốc tế và đang là nô lệ cho Trung Hoa - việc nhượng biển, nhượng đất, lệ thuộc trong bang giao đã cho thấy thì nhân dân đâu có đứng về phía họ.Ngoài ra, hiện nay chính quyền CS cũng đang muốn mượn các thế lực ngoại bang như Mỹ, Nhật ... để củng cố quyền lực hầu cai trị lâu dài hơn.

Theo như lời ông nói Nhân quyền theo quan niệm của Mỹ là ở bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền; thế thì nhân quyền theo như quan niệm của Việt Nam hiện nay ra sao ông có thể minh định để mọi người cùng mở mang kiến thức. Có phải nhân quyền theo kiểu Việt Nam là bắt bỏ tù không cần án lệnh, xét xử, tuyên án; chính sách hộ khẩu trói buộc, các cấp xã ấp đã có thể bắt giữ người; lập pháp, hành pháp, tư pháp đều do Ðảng thâu tóm, chính quyền mọi ngành, mọi cấp thi đua tham nhũng còn đại đa số nhân dân -ở các vùng nông thôn - thì nghèo khó. Trẻ con thì không được học hành đầy đủ, ăn xin, móc túi, lê lết đầy đường, phụ nữ thì bán thân nuôi miệng, thanh niên sống không biết ngày mai, người già thì không được an dưỡng ... tất cả là thể hiện tính ưu việt của nhân quyền kiểu Việt Nam ?

Khi ông phê bình bản Nhận định của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ và bảo rằng đây là bản văn ngụy tạo đồng thời ông dẫn chứng một số các câu châm biếm mà ông cho rằng không hợp tinh thần đạo đức Phật Giáo và không nên có ở miệng một cao tăng. Thưa Ông Chung Ngọc, có lẽ ông ở nước ngoài quá lâu nên đã quên, đã không hiểu được đặc tính khôi hài một cách chua cay là phản ứng của đa số nhân dân thấp cổ bé miệng dưới sự áp bức của bạo quyền. Thành ra, chỉ những người đã từng sống ở trong nước và đi sát với cuộc sống nhân dân mới biết được những câu nói đó mà thôi và những câu nói nầy Hòa thượng Quảng Ðộ chỉ ghi lại chứ Hòa Thượng đâu có sáng tác ra. Thêm nữa, những câu nói nầy đã lột tả được hết cái bộ mặt trái của nông thôn Việt Nam trong chế độ CS, là sự thật chua cay, đâu có vu oan, nói láo mà ông chê là không đúng với tư cách một vị cao tăng.

Ông lại dẫn chứng để phê phán 2 câu thơ của Nguyễn Chí Thiện:

Ôi thằng Tây mà khi xưa người dân tốn bao xương máu đánh đuổi
Nay người dân xao xuyến luyến tiếc vô cùng .

Ông bảo đây là tư tưởng bán nước cầu vinh, là "phủ nhận công ơn của ông cha chúng ta trong công cuộc dành độc lập cho đất nước, tôi nghĩ hai mươi mấy năm ông Nguyễn Chí Thiện nằm ngâm thơ cho muỗi và rệp nghe kể cũng đáng". Thưa ông Ngọc, trí óc hẹp hòi và thiên Cộng của ông đã để lộ rõ ở câu nầy. Dưới thời Pháp thuộc vì nước nhà bị nô lệ, thực dân Pháp cai trïi áp bức nên nhân dân lầm than, trong trí tưởng của những nhà ái quốc và nhân dân thời đó đều đã nghĩ rằng hễ nước nhà được độc lập thì nhân dân tức khắc được no ấm. Họ đã đồng hóa độc lập với tự do, dân chủ. Cộng Sản đã lợi dụng tâm lý ấy nên dấu kín bộ mặt CS mà dương cao ngọn cờ "Ðộc lập dân tộc" để lừa gạt toàn dân. Thực sự độc lập không phải là điều kiện duy nhất ắt có và đủ để một đất nước có tự do, dân chủ và no ấm. Ðánh đuổi thực dân Pháp tốn biết bao nhiêu máu xương của nhân dân để thiết lập nên một chính quyền đàn áp càng khốc liệt hơn, tàn bạo hơn, dã man , thâm độc hơn và máu xương của nhân dân còn tiếp tục chảy nhiều hơn thì sự hy sinh xương máu ấy còn có ý nghĩa gì.Tôi nghĩ sau nầy lịch sử sẽ phán xét công minh công và tội của những người Cộng Sản Việt Nam. Ðừng đem độc lập để biện minh cho một chế độ độc tài sắt máu là CS. Lịch sử và thực tế trên thế giới hiện nay đâu thiếu các nước độc lập nhưng nhân dân các nước ấy vẫn lầm than, nghèo đói, không hưởng được các quyền tự do căn bản của một xã hội công dân. Nhân dân một nước không có tự do, dân chủ, ấm no là tại sự cai trị độc tài, áp bức của chính quyền chứ không phải tại vì có độc lập hay không. Bởi thế lời thơ của Nguyễn chí Thiện nói lên một thực tế phũ phàng, một sự tiếc nuối chua chát không phải là quá đáng hay sai tráị Có sai trái là ở cái chính quyền nhân danh nhân dân để áp bức nhân dân, nhân danh dân chủ để đàn áp, bỏ tù những nguời yêu nước, những kẻ có vài khác biệt về quan điểm chính trị. Nếu một chính quyền thực tâm vì dân và do dân sẽ phải biết nhục nhã vì đã không đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc như đã và đang rêu rao. Trong vấn đề đánh Pháp để dành độc lập ông nên tìm đọc một số các sử liệu sẽ hiểu rõ ràng hơn .

Ông Chung Ngọc dẫn chứng có hàng trăm người về Việt Nam và bản thân ông cũng đã có về, nhưng không thấy có đàn áp tôn giáọ Ông lập luận như trẻ con; bộ CS đàn áp tôn giáo nó phơi ra cho ông thấy hay sao và cả phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc, dân biểu Nghị Viện Châu Âu nó còn coi như pha, còn dở những thủ đoạn ra ngăn chặn thì sá gì cái thứ như ông. Còn riêng ông có lẽ nó đã hướng dẫn ông đi xem nhiều nơi do chúng định trước để ông về viết bài ca tụng Việt Nam bây giờ đổi mới hoàn toàn rồi, không còn CS nữa, không có đàn áp tôn giáọ Tôi mới qua Mỹ khoảng hơn 6 năm nay, tại Việt Nam tôi ở gần khu vực có các thiền viện của Thầy Thanh Từ, vào khoảng năm 90,92 gì đó CS không cấp hộ chiếu cho Thầy Thanh Từ đi Pháp. Sau nầy dần dần nới lỏng hơn; nới lỏng là đối với đồng bào Phật tử hoặc các giáo dân vì họ đã xây dựng các giáo hội quốc doanh vững vàng rồị Từ khỏang năm 81 trở đi chùa chiền dần dần có đông người hành hương, khoảng năm 93,94 mới thấy lại bóng dáng những chiếc áo lam của Gia Ðình Phật Tử lai rai xuất hiện; nhưng CS Việt Nam cũng đã lưu ý cảnh báo vì ngoài đoàn Thanh Niên Cộng Sản ra nhà nước CS không bao giờ chấp nhận một đoàn thể thanh niên nào khác sinh hoạt. Phần lớn những người đi dến chùa vào những ngày lễ vía, cuối tuần không phải là để tu học mà là để cầu tài, cầu phước, cầu an. Do đó thành phần nầy dù có nhiều thì cũng không có nghĩa là đạo Phật được phát huy quang đạị Cộng Sản năm 90 không phải là CS năm 75 và càng không phải là CS năm 54. Nói thế không có nghĩa là CS đã thay đổi thành tốt hơn nhưng những thủ đoạn của chúng đã trở nên tinh vi hơn, thâm độc hơn nên dễ dàng đánh lừa những kẻ kém suy nghĩ. Do đó đi về Việt Nam chỉ để nhìn thấy chung quanh Sài Gòn, Hà Nội và những thành phố lớn với những lễ hội như Chùa Hương, Chùa Bà ... mà đánh giá là CS không có đàn áp tôn giáo và đang về nguồn là quá hời hợt. À, mà tại sao lại phải về nguồn nếu không từ bỏ nguồn cội từ bao lâu nay; nếu vẫn đang đắm mình trong cội nguồn dân tộc từ bao lâu nay thì đâu cần phải về nguồn. Nếu CS không có đàn áp tôn giáo thì tại sao lại chụp mũ bắt bớ giam cầm các Tăng, Ni, Phật tử, các nhà lãnh đạo tôn giáo và tín đồ, lại không cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hoạt động bình thường.

Ông viết về những Tăng Ni của Giáo Hội do nhà nước lập ". . . hoạt động trong tinh thần tùy duyên bất biến của Phật giáo trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn của thời thế" như vậy những hoàn cảnh vô cùng khó khăn của thời thế mà ông vừa nói đó do ai gây ra vậy thưa ông ? Có phải là tại bạo quyền CS gây ra không ? Ông hạ một câu "Cộng Sản cũng chẳng tốt đẹp gì " là một kiểu cá mè một lứạ Thực tâm mà nói, chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam trước đây còn có nhiều điểm bất toàn, chưa tốt; thế nhưng so sánh với chế độ CS thì còn tốt hơn nhiều lần. Nếu phải so sánh để chọn lựa thì đương nhiên người ta phải chọn cái ít xấu hơn.Cứ nhìn xem chế độ lao tù và số lượng nhà tù là đủ để đánh giá xã hội ấy tốt hay xấu. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa tốt nhưng có thể thay đổi cho trở nên tốt đẹp hơn, còn chế độ CS thì không thể thay đổi được mà chỉ có thể thay thế nó mà thôi như lời một nhà lãnh đạo Liên sô đã nói. Cũng thế, một con người có thể cải hóa, thay đổi được là một con người còn có lương tri, còn tính người; ngược lại con người không thể cảm hóa, thay đổi được thì con người ấy đã hết thuốc chữa,chỉ còn có cách là trừ diệt mà thôi. Ông dẫn lời của giáo sư Nguyễn Mạnh Quang như một chân lý "Ða số người Việt lưu vong có thể không đồng ý với một chế độ độc tài chính trị, mức độ tham nhũng, chính sách giáo dục yếu kém ở Việt Nam. Nhưng điều nầy không có nghĩa là họ sẽ mù quáng ủng hộ bất cứ một lực lượng nào, thường là hữu danh vô thực, nhờ thế lực ngoại quốc thế tục cũng như tôn giáo để khuynh đảo chủ quyền đất nước của họ". Câu của ông Nguyễn Mạnh Quang có điều đúng và cũng có chỗ sai. Ðiều đúng là dù không đồng ý, chống lại chế độ độc tài CS nhưng không có nghĩa là người Việt lưu vong mù quáng ủng hộ bất cứ một lực lượng nào, thường là hữu danh vô thực nhờ thế lực ngoại quốc, thế tục cũng như tôn giáo. Tôi xin dứt câu ấy ở đây vì nó chỉ đúng đến đấy còn đoạn sau "để khuynh đảo chủ quyền đất nước của họ" ông đã sai lầm. Chủ quyền đất nước hiện tại đâu phải của những người Việt lưu vong, chính quyền hiện tại đâu phải chính quyền của những người Việt lưu vong, cũng không có ở trong tay nhân dân trong nước mà đang ở trong tay tập đoàn CS và cái tập đoàn nầy đã bất chấp dư luận, tình cảm của nhân dân, truyền thống bất khuất của dân tộc đang tâm cắt đất, cắt lãnh hải giao cho Trung Cộng; chính quyền ấy đang bị nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước lên án.Cộng sản luôn phỉnh gạt dân chúng bằng câu "Dân làm chủ, Nhà Nước quản lý, Ðảng lãnh đạo" và chủ quyền đất nước phải được hiểu theo nghĩa ấy để thấy rằng dân chỉ có nghĩa vụ lao động, đóng thuế, hy sinh xương máu để gìn giữ đất nước còn nhà nước CS mà lãnh đạo là đảng Cộng Sản mới thực sự là chủ nhân ông cả đất nước và nhân dân .

Cuối bài, ông nói những người chống Cộng ngoài nước phản đối giao lưu văn hóa, chống những người trong nước sang Mỹ làm công tác ngoại giao, văn hóa hoặc du lịch, chữa bệnh, thăm viếng. Tôi chưa nghe nói có ai chống lại việc người trong nước ra ngoài thăm thân nhân, chữa bệnh. Tôi chỉ xin đề cập đến những việc gọi là giao lưu văn hóa; theo sự nhận xét của nhiều người thì giao lưu văn hóa chỉ đúng nghĩa khi được mở rộng trên hai chiều, hãy để các văn hóa phẩm của người Việt hải ngoại được tự do bày bán bên trong nước và ngược lại. Ngày nào chỉ kêu gọi người ngoài nước mở cửa cho các sản phẩm văn hóa của bên trong nước mà cấm cản các sản phẩm bên ngoài nước không cho du nhập vào là không công bằng, là gian lận. Còn công tác ngoại giao, văn hóa thì theo ông Ngọc ai là người có đủ tư cách và điều kiện để ra nước ngoài làm các công tác ấy nếu không là các viên chức của chính quyền CS? Ðối với người CS, chính trị là tối thượng; chính trị chi phối tất cả mọi hoạt động; tất cả đều nhìn qua lăng kính chính trị thành ra không có sự kiện nào độc lập đúng nghĩa của nó trong xã hội CS cả. Chỉ những người chưa hiểu, chưa có kinh nghiệm sống với CS mới mơ hồ như vậy thôi.

Trong bài viết rất công phu của ông Nhân quyền của ai và cho ai, trong đoạn ông in đậm nét với câu: " và, việc Mỹ đơn phương tạo nên cuộc chiến Quốc Cộng ở Việt Nam ..." Ông Chung Ngọc đổ tội cho Mỹ tạo nên cuộc chiến Quốc cộng mà không thấy là nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ thì Cộng sản đã chiếm cả nước từ khoảng năm 60 chứ không phải đợi đến năm 75 đâu. Có lẽ đó là điều Ông Chung Ngọc mong nuốn thế. Ông Chung Ngọc có biết là Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo và yểm trợ mạnh mẽ của quốc tế Cộng sản âm mưu nhuộm đỏ Việt Nam và các nước Miên, Lào không, là tên lính tiền phong của Cộng sản quốc tế qua tài liệu của chính Cộng sản.Nếu Việt Nam hoàn toàn lọt vào tay Cộng sản từ năm 60, chắc bây giờ Việt Nam cũng sẽ giàu đẹp,đã tiến lên thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa như Bắc Hàn rồi phải không ông Chung Ngọc ? Những bài viết của ông công phu, sự nghiên cứu sâu rộng thế nhưng tôi nhận thấy một điểm nầy ông chỉ có tài trên lãnh vực nghiên cứu, tìm tòi qua tài liệu ở các thư viện, còn các suy nghĩ của riêng ông - made in TRẦN CHUNG NGỌC - thì đôi khi ngây thơ nhất là các nhận xét về Cộng sản -sự ngây thơ của một mẹ mìn.

Ðoạn ông nói về chủ thuyết Mác xít là: "Lê Nin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh áp dụng chủ thuyết nầy trong những hoàn cảnh đặc biệt của mỗi quốc gia để đương đầu với Tây phương, động viên quần chúng chống nô lệ và bất công xã hội,khẳng định tinh thần quốc gia và quyền tự quyết của quốc gia. Những điểm trên có phần đúng nhưng chỉ đúng với Lênin, Mao Trạch Ðông mà Hồ chí Minh thì không vì y chỉ là tay sai của Nga Tàu và tinh thần quốc gia với quyền tự quyết của quốc gia hoàn toàn chỉ có trên lý thuyết tuyên truyền mà thực tế thì ngược lạịThoát khỏi nô lệ ngoại bang nhưng đưa đất nước vào một tình trạng nô lệ thảm khốc hơn,hệ thống chặt chẽ hơn,xã hội bất công hơn như vậy có đáng được ca tụng không ông Chung Ngọc ?

Ông bảo: "Trung hoa và Việt Nam đang trên con đường trở về với những truyền thống dân tộc ..." Ðiều nầy có thể đúng với Trung hoa còn Việt Nam thì không. Ông đã nói dưới thời Việt Nam Cộng hòa những ảnh hưởng đời sống văn minh vật chất ngoại lai chỉ tác dụng ở những vùng thành thị với những giai cấp giàu có nhưng đại đa số dân nông thôn vẫn giữ được dân tộc tính. Ông Chung Ngọc nên chịu khó nhìn lại tình trạng thành thị và nông thôn Việt Nam hiện nay ra sao? Sau bao nhiêu năm bị siết bao tử bằng chính sách hộ khẩu, tem phiếu, hợp tác xã đã đưa đất nước đến chỗ kiệt quệ. Ðây là chính sách của Cộng sản không bao giờ cho dân no vì dân đói cùng với sự kềm kẹp của bộ máy công an tạo nên sự sợ hãi trong dân chúng sẽ bảo đảm cho chế độ dài lâu. Ðến bây giờ qua chính sách đổi mới Cộng sản mới nới lỏng các sự kiểm soát về kinh tế -(nhưng chính trị thì vẫn bóp nghẹt với các biện pháp tinh vi hơn) - để người dân dễ thở hơn trước,đời sống có cải thiện hơn.Thế là sau bao nhiêu năm đói khó,sợ hãi bây giờ được nới lỏng- đúng theo các phản ứng có điều kiện-người dân Việt Nam bây giờ sống chỉ biết có tiền, đua đòi vật chất, bỏ hết các truyền thống nhân nghĩa, lễ nghi của dân tộc. Chính quyền thì quan chức tham nhũng từ trên xuống dưới, người có điều kiện thì mánh mung, cướp giật,ăn chơi phè phỡn. Trẻ con thất học lang thang làm đủ các nghề lặt vặt, ăn xin đầy đường. Phụ nữ thì làm các nghề bán phấn buôn hương, gả bán ra nước ngoài làm nô lệ tình dục, làm điếm. Trước đây lấy chồng nước ngoài là một điều sỉ nhục cho gia đình, bây giờ lấy chồng nước ngoài là một điều vinh hạnh. Ðạo đức suy đồi, con cháu đào mồ mả tổ tiên, ăn cắp vàng bạc, các cổ vật quí giá của dân tộc bị đánh cắp đem bán. Chính quyền Cộng sản ký hiệp ước dâng đất đai,vùng biển cho Trung quốc không kể gì đến công ơn bao đời tiền nhân bỏ hết bao nhiêu máu xương để giữ gìn. Ông Ngọc về Việt Nam không hiểu ông có đến nhìn Ải Nam Quan bây giờ thụt sâu vào đất Trung quốc. Có đến thăm các vùng nông thôn hẻo lánh, là "lòng nôi của Cách Mạng" bây giờ vẫn nghèo đói, xác xơ không? Ông chỉ đi xem các lễ hội tổ chức để câu tiền du khách, các khách sạn, nhà hàng, tụ điểm ca nhạc ăn chơi thì làm sao nhìn thấy được bộ mặt thật của xã hội Việt Nam hiện nay.

Ông Ngọc so sánh các quốc gia ông gọi là độc tài như: "Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, một số nước ở Châu Mỹ La Tinh, Phi luật Tân, Nam Hàn, Ðài Loan ... Không có một quốc gia nào trong những quốc gia trên chịu nạn chiến tranh như Việt Nam,không có một quốc gia nào người dân có tâm thù hận Quốc Cộng do ngoại bang gây nên." Ông đã dẫn chứng và lý luận sai lạc về các quốc gia kể trên may mắn không có chiến tranh Quốc Cộng vì chính quyền dù độc tài nhưng không phải là chế độ Cộng sản, do đó nên chuyển từ độc tài sang dân chủ một cách êm thắm nhờ sự đấu tranh của các phong trào dân chủ trong nước. Ông dẫn chứng cả Nam Hàn vào số những Quốc gia nầy tại sao ông không so sánh với Bắc Hàn cùng thời gian như Nam Hàn, tại sao Bắc Hàn còn nghèo đói, còn lạc hậu- Có phải vì Bắc Hàn còn nằm trong tay cai trị của Ðảng Cộng Sản không, thưa Ông ?

Ông đã nói y như quan điểm của những người Cộng sản đã nói về sự ổn định xã hội; Cộng sản đã viện cớ cần có sự ổn định xã hội để đàn áp các phong trào dân chủ trong nước, thế thì ngày nào còn có sự đàn áp những tiếng nói của trí thức, nhân sĩ, lãnh đạo các tôn giáo thì ngày ấy đất nước không thể có tự do dân chủ thật sự. Ông cũng dẫn chứng lời của Dương Thu Hương: "Vấn đề tự do dân chủ cần phải có thời gian không thể đốt cháy giai đoạn được" để phụ họa cho mưu đồ kéo dài nền độc tài toàn trị của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Cần phải có thời gian là bao nhiêu năm hả Ông Ngọc ? Trong khi đất nước thống nhất gần 30 năm rồi mà Dân chủ và Tự do cũng chỉ là bánh vẽ, chỉ nằm trên khẩu hiệu mà thôi. Kiểu nầy chắc còn phải chờ thêm 30 năm nữa hoặc hơn để Cộng sản ban ân huệ cho nhân dân Việt Nam được hưởng dân chủ từ từ, nhỏ giọt và những kẻ như TRẦN CHUNG NGỌC cũng sẽ tung hô sự sáng suốt, ân sủng của Ðảng đã ban cho nhân dân. Ông Ngọc nên xem bài viết của Hà Sĩ Phu trả lời nhóm Thông luận mới đây để hiểu thêm về Cộng Sản Việt Nam.

Tôi đồng ý Ông Ngọc ở điểm không thể dựa vào bất cứ ngoại bang nào trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của đất nước và giá trị văn hóa Ðông phương vẫn là những giá trị lâu đời, bền vững không thể bị khuất phục trước các quan niệm và trào lưu phương Tây. Thế nhưng những quan niệm về dân chủ, nhân quyền nó không ở trên bình diện văn hóa mà là trên bình diện chính trị, xã hội thì dù nó không có giá trị tuyệt đối với Ðông phương thì nó cũng đã có giá trị tích cực tương đối riêng của nó. Có điều là phần tích cực tương đối nầy hiện nay không có được trong xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của Ðảng Cộng sản mà thôị Tôi cũng hiểu là không thể rập khuôn cách thức tổ chức xã hội chính quyền,luật pháp Tây phương vào xã hội Việt Nam; nhưng những nguyên tắc căn bản như các quyền tự do-là quyền công dân - phải được tôn trọng trong khuôn khổ truyền thống văn hóa, xã hội Việt Nam. Ví dụ không thể áp dụng các kiểu tự do quá trớn như Mỹ trong tình dục, quan hệ gia đình, sở hữu vũ khí, báo chí, ti vi khai thác bừa bãi các hình ảnh vô luân, bới móc đời tư cá nhân,làm lộ bí mật quốc gia ... vào xã hội và luật pháp Việt Nam. Những người Việt tha hương có một sứ mệnh là học hỏi những cái tốt của xứ người, tinh lọc để sau này đem về xây dựng đất nước chứ không phải là rập khuôn cách sống, cách nghĩ, cách tổ chức của xã hội người.

Gần cuối bài Ông Chung Ngọc nói là Việt Nam đang đi trở về với cội nguồn dân tộc. Ông dẫn chứng Ông Lý Quang Diệu với Khổng Giáo. Thưa ông một điều là Lý Quang Diệu không phải là một người Cộng sản nước và Singapre không phải là một nước Cộng sản. Cho đến tận lúc nầy các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn nhai đi nhai lại mớ tư tưởng vay mượn gọi là tư tưởng Hồ chí Minh trong các nghị quyết mới ban hành. Ông lại xem các khẩu hiệu mà Cộng sản rêu rao làm thật thì quả là chính ông mới bị cận thị nặng. Ở Việt Nam hiện nay không phải là tiên học lễ hậu học văn đâu thưa ông mà là tiên học phí, hậu học văn đấỵ Những lễ hội ông kể chỉ là mặt nổi, mặt tuyên truyền và kinh doanh chứ thực chất không phát xuất từ nhu cầu về nguồn như ông tưởng đâu . Ông vẫn nhai đi nhai lại cái luận cứ của Cộng sản là: "đã kiên cường chiến đấu để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam." Ðộc lập và thống nhất có nghĩa lý gì khi hàng triệu người dân hai miền Nam Bắc bỏ xác trên khắp các nẻo đường quê hương, nơi những vùng biển trên bước đường đi tìm tự do - những người đi tìm tự do chắc không có ông Chung Ngọc vì ông ,tôi không biết đi theo hình thức nào, khi nào- có thể ra đi mang các chỉ thị trong ngườị Ðộc lập và thống nhất có nghĩa lý gì khi nhân dân còn lầm than khốn khó. Không thể đem vài năm đổi mới ngoài da để che lấp đi hàng 50 năm máu xương và nước mắt của nhân dân hai miền đã đổ xuống.

Cuối cùng, mặc dù ở phần cuối bài Nhân quyền của ai và cho ai tôi có vài điểm đồng ý với ông về Kitô giáo. Tuy nhiên, về phần những quan niệm của ông về Cộng sản có nhiều thiên lệch, ông ca tụng bài của Hòa thượng Quảng Liên. Thú thật HT.Quảng Liên với tâm từ bi của một vị tu hành và ông ta nhìn chính quyền Cộng sản với cái nhận thức, mắt kính của riêng mình khi viết: "Cộng sản ngày nay không phải là Cộng sản trước năm 75, qua quá trình lèo lái con thuyền chính trị Việt Nam, chính quyền đã và đang nhận thức chuyển mình theo thời gian, thời gian là vàng ngọc. Cuối cùng nhận thấy ai cũng là người yêu nước, yêu dân tộc bằng cách nầy hay cách khác. Khác tư tưởng quan niệm không thành vấn đề mà quan trọng là vấn đề đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh."

Ðoạn văn trên rất hay, lý tưởng nhưng rất tiếc chỉ là những điều "mơ ước " của Hòa Thượng Quảng Liên chứ không phải nằm trong văn kiện, quan niệm thật sự của giới lãnh đạo Cộng sản. Hòa thượng bảo khác quan niệm không thành vấn đề, tại sao các vị Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Trần Ðộ ... đóng góp ý kiến xây dựng nhà nước, xây dựng Ðảng thì lại bị trù dập, áp bức. Phong trào nhân dân chống tham nhũng lại bị bắt bớ, đàn áp. Cộng sản ngày nay không phải như trước năm 75. Tại sao quý vị lại không thấy Cộng sản đến năm 90, 2000 vẫn còn áp bức? Cộng sản hôm nay có khác, khác ở chỗ không phải tốt đẹp hơn lên, tự do dân chủ hơn mà là thâm độc, tinh vi hơn và tham nhũng hơn cũng như giàu có hơn.

Vấn đề đoàn kết ta nên hiểu là đoàn kết theo quan điểm của Cộng sản là phải tuân theo sự chỉ đạo của Cộng sản có nghĩa là anh phải bỏ đi cái khác biệt của anh để hoàn toàn hòa nhập vào tôi - chứ không phải là loại đoàn kết mà hai bên cùng tôn trọng bình đẳng, hơp tác lẫn nhau đâụ

Kết luận Hòa thượng Quảng Liên nói rõ: "Kẻ thù của chúng ta không phải là Ðảng và nhà nước Xã hội chủ nghĩa mà là nhóm người có tổ chức quốc tế hướng ngoại, âm mưu lật đổ chính quyền và cũng âm mưu giết hại chúng ta nếu có cơ hội". Lời Hòa thượng Quảng Liên đúng là phát ngôn viên của chính quyền Cộng sản, thêm nữa chụp mũ cho các hoạt động nhằm thay đổi chế độ Cộng sản ở bên trong nước là "có tổ chức quốc tế hướng ngoại". Nếu mai nầy nhân dân Việt Nam có nhất tề nổi dậy như Ba Lan, Nam Tư ... chắc Hòa thượng Quảng Liên cũng sẽ -giống như Cộng sản sẽ nói - là do ngoại quốc giựt dây, là tay sai của ngoại bang. Ðồng thời Hòa thượng còn thòng thêm một câu ám chỉ để phá vỡ sự đoàn kết của các Tôn giáo ở Việt Nam. Xin nhớ cho rằng không phải tất cả những người Phật Giáo đều tốt cả, đều có tinh thần dân tộc và đạo pháp cả và không phải tất cả những người Thiên chúa giáo đều vọng ngoại, đều là lính của La Mã cả.

Ông CHUNG NGỌC nhắc lại Hòa thượng Quảng Liên là một trong những vi lãnh đạo Giáo hội Phật Giáo Thống nhất tại Việt Nam trước và sau năm 75 cũng chẳng nói lên được điều gì vì không thể chứng minh là trước năm 75 và sau năm 75 Ông vẫn là Ông, không thay đổi chính kiến. Không thể chứng minh là trước năm 75 ông chống Cộng mà bây giờ ông không chống Cộng hay ngược lại. Chỉ xin nhìn vào những lời lẽ của ông để đánh giá, ông cũng chỉ là cò mồi của chính quyền Cộng sản không hơn không kém.

Ông CHUNG NGỌC bênh vực, tán đồng Hòa thượng Quảng Liên bởi vì Ông cũng chỉ - tự nguyện có ý thức - làm một thứ mẹ mìn cho chính quyền Cộng sản Việt Nam mà thôi .

Trí Đức

Bản Lên Tiếng về Báo Người Việt

Ngày 15-5-2008

Kính gửi quý Cộng Đồng, Chính Đảng, Ðoàn Thể, và Cá nhân ký tên trong bản Lên Tiếng phản đối báo Người Việt nhục mạ lá cờ Quốc gia;

Thưa quý vị,

Tính tới nay, Bản Lên Tiếng phản đối báo Người Việt đã có 171 đoàn thể và trên 266 cá nhân trên toàn cầu ký tên đồng ý. Chúng tôi cũng đã nhận được danh sách mấy trăm người nữa, và hiện đang kiểm lại trước khi cập nhật. Sự thành công hiếm có này là do nỗ lực của tất cả chúng ta, đáp ứng một thách đố vô cùng nghiêm trọng. Một lần nữa xin đa tạ qúy vị.

Việc sỉ mạ lá cờ vàng ba sọc đỏ biểu tượng cho các cộng đồng Việt Nam hải ngoại bởi một người hay một nhóm người tuy là điều phải nghiêm khắc lên án, nhưng tự nó không phải là điều khiến các hội đoàn và đồng bào tiếp tục ký tên ủng hộ. Thực vậy, nếu chỉ là một sai sót cá nhân hay phe nhóm thì một giải thích và một lời xin lỗi nghiêm túc cũng đủ để chuyện êm dần. Nhưng trên thực tế sự việc vẫn còn được bàn tán tại các địa phương trên khắp các cộng đồng hải ngoại. Tại sao?

Trước hết vì những "sai sót" tương tự, cộng với cung cách đưa tin và bình luận trên báo Người Việt, trong một quá trình lâu dài, đã tạo một dấu hỏi khiến đồng hương phải quan ngại về bản chất của tờ báọ Hai tấm hình chủ công ty Người Việt Đỗ Ngọc Yến hội họp với các lãnh đạo CSVN từ gần chục năm nay đã làm cho những người quan tâm phải thốt lên "Thì ra thế". Chính vì vậy, khi đồng hương dần dần biết rõ sự việc họ mới có thái độ mà tham gia ủng hộ.

Vấn đề báo Người Việt do đó không phải là một hiện tượng riêng lẻ mà là một biểu lộ cùng tính chất với vụ Madison Nguyễn ở San Jose, vụ báo Việt Weekly, và vụ chủ trương để cờ đỏ song song với cờ vàng, hay không mang cờ nào mà chỉ mang bản đồ Việt Nam sơn màu đỏ, hay vụ ca tụng Bùi Tín, Hoàng Minh Chính ... là những người yêu nước có công lớn với nhân dân Việt Nam, vân vân… Vắn tắt, đó là những nỗ lực để một mặt làm yếu tập thể người Việt Quốc gia, một mặt giúp CSVN len lấn vào các cộng đồng hải ngoại, nhằm bình thường hoá sự có mặt của chế độ Cộng Sản Việt Nam tại hải ngoại, một mặt giúp cho Việt Cộng biến thái có một hình thức coi được. Trước các mưu đồ này, hải ngoại đã bầy tỏ lập trường của mình, từ những góc độ khác nhau, và bằng những cung cách khác nhau.

Cũng bởi đó, ngoài sự tiếp tục ký tên hưởng ứng Bản Lên Tiếng, một số các hội đoàn và cá nhân đã kêu gọi làm việc này việc nọ, phản ảnh tinh thần "muốn làm một cái gì". Mong rằng sẽ có những biện pháp tích cực và cụ thể, để duy trì được hiệu quả trận thế chống Cộng sản biến tháị Ðặc biệt là các đồng hương biểu tình trước báo Người Việt sẽ vẫn kiên trì bày tỏ thái độ, và chuyển cuộc tranh đấu sang một mức độ cao hơn, nhất là sau khi bản chất báo Người Việt được nhận ra, nhờ vào hai yếu tố: thứ nhất là 2 tấm hình chụp Đỗ Ngọc Yến với cán bộ cao cấp cộng sản; và thứ hai là sự cố gắng của báo này ứng phó với các biện pháp ngăn chặn nỗ lực len lấn của CSVN, để giúp chúng thi hành kế hoạch lũng đoạn cộng đồng trong tinh thần nghị quyết 36 của bộ chính trị CSVN.

Vì thế chúng tôi mong rằng trong tương lai sắp tới sẽ có những hình thái đấu tranh khác nữa trong cộng đồng Việt Nam, nhằm củng cố lập trường quốc gia dân tộc của hải ngoại, hoàn chỉnh trận thế chống CS biến thái len lấn vào các cộng đồng tỵ nạn của ta, đánh sập toan tính xoá bỏ biểu tượng hải ngoại là lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Chúng tôi cũng hy vọng rằng đồng bào sẽ tiếp tục cảnh giác và sáng suốt nhận định về trận đấu vô cùng phức tạp hiện nay, trong đó cộng sản và tay sai sử dụng những sảo thuật tuyên truyền quỷ biện, tinh vi, núp dưới những danh nghiã tốt đẹp của người Quốc gia, để trà trộn và làm ung thối các cộng đồng hải ngoại của ta, mở đường cho ngụy quyền Việt cộng khống chế tập thể người Việt Quốc gia hải ngoạị

Trân trọng,

Nhóm đề xướng Bản Lên Tiếng
phản đối báo Người Việt Nhục Mạ Lá Cờ Quốc Gia


Email: baovetudo@gmail.com

Một vài nhận xét về các khuynh hướng chống cộng hiện nay

Trần Thanh

Trong vấn đề chống cộng hiện nay có rất nhiều khuynh hướng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Bên cạnh những khuynh hướng lớn là những thái độ chống cộng cũng rất nhiều màu sắc. Tất nhiên trong tình trạng vàng thau lẫn lộn, chúng ta cần tỉnh táo, sáng suốt, phân biệt đâu là thật, đâu là giả để từ đó rút ra một phương châm hành động đúng đắn, thích hợp nhất cho hoàn cảnh.

  • Khuynh hướng 1:
    Bất cứ nhà dân chủ nào xuất hiện ở trong nước đều là dân chủ cuội, do cộng sản giật giây hoặc do bọn cơ hội chủ nghĩa làm đạo diễn.
Nhận xét 1:

Bọn việt gian cộng sản hiện nay đã yếu đi rất nhiều so với thời kỳ của tên hung thần Lê Duẩn. Ngày nay, trong các cuộc biểu tình, người dân đã dám xô xát với bọn công an. Có trường hợp công an bị ném đá, phải ôm đầu máu bỏ chạy, xe của công an bị người dân đốt! Trong thời điểm này, chúng ta có thể tin tưởng có một số người đang thật sự đấu tranh cho tự do và họ là những nhà dân chủ chân chính. Những người này thường bị việt cộng đối xử rất nặng tay và bị bỏ tù. Nếu chúng ta quá đa nghi thì không làm được việc gì hết, bởi vì đấu tranh là công việc chung, cần sự góp sức của rất nhiều người trong và ngoài nước.

  • Khuynh hướng 2:
    Bất cứ nhà dân chủ nào ở trong nước cũng đáng hoan nghênh, miễn là họ dám chửi cộng sản, dám đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền. Chúng ta ở hải ngoại phải có bổn phận yểm trợ những nhà dân chủ này hết mình, không cần biết quá khứ của họ là gì, đảng viên cộng sản hay không phải là đảng viên cộng sản.
Nhận xét 2:

Ngược với khuynh hướng 1, khuynh hướng 2 lại tỏ ra quá dễ dãi. Thái cực nào cũng có hại. Việt cộng nó thừa sức "chế tạo" ra hàng ngàn những "nhà dân chủ" như một xưởng đồ chơi sản xuất ra các búp bê. Thậm chí hiện nay bọn chúng đang chuẩn bị sẵn một số những "nhà dân chủ" đang .... "bị" ở tù Chí Hòa, Hỏa Lò đàng hoàng, có lý lịch đấu tranh rất lừng lẫy, chỉ chờ khi có thời cơ thuận lợi là chúng tung những âm binh này ra hoạt động! Khi thấy thời cơ thuận lợi, bọn chúng sẽ cho trình làng những "nhà dân chủ" này và yêu cầu những hội đấu tranh cho nhân quyền của người Việt quốc gia tại hải ngoại đi vận động chính quyền Mỹ và thế giới can thiệp để đòi trả tự do cho những "NHÀ DÂN CHỦ HEO MỌI"*. Rồi một ngày nào đó, chúng ta lại thấy những con heo mọi này ung dung được bảo lãnh sang Mỹ, đi khắp nơi diễn thuyết, "dạy" cho cộng đồng người Việt thế nào là "yêu thương", thế nào là "bao dung, nhân ái", thế nào là "anh em một nhà", và nên xóa bỏ hận thù!!!

Sở dĩ hiện nay xưởng chế tạo đồ chơi Hà Nội chỉ chế tạo ra một số ít CON HEO MỌI bởi vì đường binh xập xám này không ăn khách. Sự chống đối, tẩy chay của đồng bào ở hải ngoại vẫn còn mạnh. Những trò lưu manh, lường gạt của bọn chúng đã bị một số người vạch mặt, tố cáo. Đây cũng là điều may mắn cho chúng ta vì chúng ta còn có tự do truyền thông. Do đó, bọn việt gian cộng sản chỉ sản xuất cầm chừng và bỏ hàng vào nhà kho "Chí Hòa, Hỏa Lò", và lo đóng dấu trước cái nhãn hiệu "Ở TÙ CỘNG SẢN", còn cái nhãn hiệu "NHÀ DÂN CHỦ" thì chờ chính CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI HẢI NGOẠI ĐÓNG DẤU CHỨNG NHẬN CHO BỌN CHÚNG. Khi đã lấy được con dấu "chứng nhận" của cộng đồng người Việt hải ngoại rồi thì bước tiếp theo là xin con dấu của chính quyền Mỹ và của quốc tế. Đây là việc làm dễ dàng vì "cấp trên" có biết cóc khô gì, cứ chiếu y "cấp dưới" mà xác nhận!!! Thế rồi một ngày nào đó những CON HEO MỌI này hiên ngang kêu gọi chúng ta "hòa hợp hòa giải" với việt cộng. Nếu gặp sự chống đối thì bọn chúng sẽ rêu rao lên rằng: - Chúng tôi đã được CHÍNH QUÝ VỊ và cả thế giới xác nhận là "nhà dân chủ". Chúng tôi đang THAY MẶT CHO QUÝ VỊ, ĐẤU TRANH GIÙM QUÝ VỊ!!! Tại sao lại đánh phá những "nhà dân chủ"!!!???

Lúc đó chúng ta chỉ còn có nước cứng họng. Còn những những nhà đấu tranh "BLOW-JOB, HAND-JOB"* (thổi ống đu đủ và đóng dấu) lúc đó sẽ bỏ trốn mất biệt, lặn sâu 20 ngàn dặm dưới đáy biển!!!

Không phải chỉ có những người đang sống trong nước, dám chửi cộng sản mới xứng đáng được gọi là "nhà dân chủ", còn những người đang sống ở hải ngoại mà chửi cộng sản thì bị coi là "đánh võ mồm". Thực tế, nhiều người đang sống tại hải ngoại, trước khi được tự do, họ đã có một quá trình đấu tranh chống cộng, trước và sau năm 1975, NGAY Ở TRONG NƯỚC và đã bị việt cộng giam cầm, hành hạ rất dã man, nhiều người đã hy sinh. Khi ra hải ngoại họ vẫn tiếp tục hy sinh cuộc sống riêng tư của họ để đấu tranh cho tự do. Chúng ta phải có tầm nhìn và sự đánh giá cho công bằng.

  • Khuynh hướng 3:
    Cứ lên tiếng ủng hộ những nhà dân chủ đang hoạt động ở trong nước, không cần phải xem xét hay thận trọng gì hết. Nếu lỡ ủng hộ nhầm những nhà dân chủ cuội thì có sao đâu? Mình đang sống ở hải ngoại có bị thiệt hại gì đâu? Còn nếu ủng hộ đúng thì mình được cái tiếng là những người đấu tranh cho nhân quyền!
Nhận xét 3:

Khuynh hướng này là khuynh hướng rất vô lương tâm, vô trách nhiệm, ích kỷ và là khuynh hướng giết người. Nếu ủng hộ lầm thằng tướng cướp thì có sao đâu? Đúng như vậy, đối với những việt kiều đang sống ở nước ngoài thì không bị ảnh hưởng. Nhưng còn đối với những đồng bào ở trong nước? Hàng triệu người sẽ khốn đốn vì trao duyên lầm tướng cướp! Chẳng hạn như thằng Hồ Chí Minh, hồi năm 1945, nhiều người lầm tưởng nó là nhà "ái quốc". Hậu quả là, tính cho đến nay, năm 2008, khoảng MƯỜI TRIỆU NGƯỜI ĐÃ BỊ CHẾT OAN UỔNG vì sự ủng hộ LẦM đó!!!

    Nằm mơ tưởng chỉ cởi trần
    Gió lay tờ báo nhớ quần chưa khô
    Đời tàn bèo dạt sóng xô
    Chỉ vì người LỠ hoan hô LẦM người!* (3)

Chỉ vì hoan hô LẦM cái thằng tướng cướp Hồ Chí Minh mà nhiều người ngày nay đã không còn một cái quần xà lỏn để mặc, như bốn câu thơ trên mô tả!

Khuynh hướng 3 này là khuynh hướng của những kẻ cơ hội chủ nghĩa, trây máu ăn phần, hay gọi nôm na là những nhà CHÍNH TRỊ ỐNG ĐU ĐỦ. "Đồ nghề" hành sự của mấy kẻ này là một cái ống thổi đu đủ và một con dấu bằng đồng có khắc dòng chữ "Cầu chứng tại tòa. Chính cống bà lang trọc", miệng thì thổi, tay thì đóng dấu lịa lịa, không cần biết đó là đồ dỏm hay đồ thiệt. Người Mỹ gọi những công việc này là "BLOW JOB" và "HAND JOB"!!!*

Nếu ủng hộ sai thì không bị thiệt hại gì, (cho những kẻ đó!) còn nếu ủng hộ đúng thì sau này những tên cơ hội này sẽ lên tiếng kể công! Vận mạng của hàng triệu người dân đâu phải là trò đùa mà chúng ta có thể đem ra để giải trí như chơi môn cờ bạc tài xỉu hay xóc đĩa!

  • Khuynh hướng 4:
    Chúng ta phải đấu tranh đòi đa nguyên, đa đảng, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đòi có một cuộc trưng cầu dân ý có quốc tế giám sát, đòi sửa lại hiến pháp, đòi bầu cử quốc hội có quốc tế giám sát, đòi có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tôn giáo, đòi phải có một nền giáo dục nhân bản, đòi phải tách đảng ra khỏi chính quyền, đòi phải được thành lập hội chống tham nhũng, đòi phải thả hết các tù chính trị ..v..v.. Đây là những mục tiêu đấu tranh rất quan trọng mà chúng ta phải dốc hết công sức để đòi cho bằng được!
Nhận xét 4:

Đây là những mục tiêu đấu tranh rất tản mạn, không đánh trúng tử huyệt của bọn việt gian cộng sản. Chúng nó sẽ không chết mà chúng ta sẽ dần dà bị kiệt sức và thua cuộc.

Có một câu chuyện thần tiên kể lại rằng: một đôi vợ chồng nghèo, đói meo, ngồi ôm nhau trong một cái chòi lá trong rừng, khóc lóc thảm thiết. Vừa lúc ấy thì bỗng có một bà tiên hiện ra nói: - Các ngươi chớ có buồn, ta sẽ ban cho các ngươi BA ĐIỀU ƯỚC. Nói xong thì bà tiên biến mất. Bà vợ nghe bà tiên nói vậy, mừng quá, và ngay lập tức, bà buột miệng ra nói: - Mình ơi, em thèm ăn dồi chó quá! Phải chi có một đĩa dồi chó nướng thì tụi mình ăn sướng biết chừng nào! Vừa nói xong thì bà ta thấy có ngay một đĩa dồi chó nóng hổi, thơm phức hiện ra trước mắt. Ông chồng thấy vậy thì nổi giận đùng đùng, mắng bà vợ: - Đò ngu như bò. Mày đã phí phạm hết một điều ước! Tại sao mày không ước có vài tỷ đô la như mấy thằng trong bộ chính trị thì muốn ăn, muốn xài bao nhiêu mà không được? Đồng thời, vẫn chưa hết giận, ông ta xài luôn điều ước thứ hai: - Ước gì mấy khúc dồi chó dính luôn vào khuôn mặt của mày cho bõ ghét cái tội ngu! Thế là, ngay lập tức, mấy khúc dồi chó thi nhau dính chặt vào cái mặt của bà vợ, làm cho bà ta trông giống như một con quái vật! Kết thúc câu chuyện như thế nào? Ông chồng vì thương vợ, đành phải dùng nốt điều ước thứ ba để xin những khúc dồi chó đừng dính vào mặt bà vợ nữa! Kết cuộc, vì ngu ngốc mà đôi vợ chồng nghèo đã xài hết ba điều ước rất quý báu để chỉ ăn được một đĩa dồi chó!

Mục tiêu đấu tranh của chúng ta là đòi TỰ DO. Chỉ hai chữ "TỰ DO" thôi là đủ, không cần phải nói dài dòng "đòi dân chủ, nhân quyền, nhân sinh hay nhân bản, đa nguyên hay đa đảng ..v..v.."

Có tự do là chúng ta sẽ có tất cả. Khi đòi TỰ DO, chúng ta phải hiểu rằng nó có nghĩa là PHẢI XÓA SẠCH, ĐẠP ĐỔ BẠO QUYỀN, XÓA HẾT CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN, XÓA BỎ ĐẢNG VIỆT GIAN CỘNG SẢN VÀ LÀM LẠI TỪ ĐẦU.

Người dân sẽ bầu lại quốc hội. Bọn việt gian cộng sản là NHỮNG KẺ PHẢN QUỐC. Đã là những kẻ phản quốc thì đương nhiên BỊ MẤT QUYỀN CÔNG DÂN và bọn chúng không được quyền bầu cử và ứng cử trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như vậy là chúng ta triệt tận gốc những kẻ tội phạm, phản bội tổ quốc, không cho chúng có cơ hội ngóc đầu dậy.

Có một số người chủ trương rằng phải tổ chức bầu cử quốc hội hoặc trưng cầu dân ý, có mời quốc tế giám sát. Làm như vậy là ngu ngốc và tự sát. Bọn việt gian cộng sản với những phương tiện hùng mạnh sẵn có trong tay, chúng thừa sức gian lận để thắng cử. Thậm chí chúng không cần gian lận, đảng của chúng cũng thừa sức chiếm đa số ghế trong quốc hội.

Một chủ trương khác cho rằng, khi tổ chức bầu cử quốc hội có quốc tế giám sát, các đảng viên cộng sản cũng được quyền ứng cử và bỏ phiếu VÌ BỌN CHÚNG CŨNG LÀ CÔNG DÂN NƯỚC VIỆT NAM(!) Hơn nữa làm như vậy là để cho quốc tế thấy, những người quốc gia rất "rộng lượng" và công bằng, cho những kẻ phản quốc!

Chủ trương này rất sai lầm. Đã là việt gian phản quốc là đương nhiên bị mất quyền công dân. Nếu bọn chúng biết ăn năn, hối hận thì sẽ được khoan hồng nhưng dứt khoát là không được tham gia vào chính quyền. Hiện nay, nhiều tên việt gian cộng sản vẫn còn hy vọng, nếu bọn chúng bị toàn dân lật đổ thì sau này bọn chúng vẫn có thể trở lại nắm quyền thông qua việc ứng cử và bầu cử!

Không có chuyện đó đâu, chưa bị treo cổ như thằng tổng bí thư đảng cộng sản Rô Ma Ni, Xô Xét Ku là may rồi! Để rồi xem!

Việc đấu tranh, đánh vào những mục tiêu phụ cũng chẳng khác gì câu chuyện hai vợ chồng nghèo đã phung phí ba điều ước để được ăn dồi chó, rốt cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo! Huống chi chúng ta không hề có bà tiên nào giúp sức. Bà tiên, nếu có, chính là chúng ta phải tự cứu chúng ta trước. Giả sử bạn đang bị giam trong tù và bà tiên hiện ra cho bạn MỘT ĐIỀU ƯỚC thì bạn sẽ sử dụng điều ước đó như thế nào?

    1. Bạn ước chế độ việt gian cộng sản bị toàn dân đứng dậy quật đổ?
    2. Bạn ước bạn được bọn cai ngục việt cộng trả tự do cho bạn?
    3. Bạn ước bạn được ăn một bữa ăn thật ngon trong tù cho bõ những ngày bị nhịn đói?
    4. Hay bạn ước bạn được việt cộng nó phát cho một chai thuốc xức ghẻ và cho bạn đi ra ngoài sân phơi nắng?

Rõ ràng chúng ta thấy rằng những điều ước số 3 và 4 là ĐẤU TRANH ĐỂ ĐƯỢC SỐNG THOẢI MÁI HƠN TRONG NHÀ TÙ, hoặc như một con chim đòi "tự do" trong cái lồng chim!!! Gọi nôm na, đó là phương pháp "đấu tranh dồi chó"!!!

    Khuynh hướng 5:
    Những người đảng viên cộng sản dù có thật sự phản tỉnh cũng không đáng tin tưởng bởi vì trong quá khứ họ đã từng tham gia vào cái đảng cướp, cũng ví như một người đã trót đi làm đĩ thì suốt đời họ là nhơ nhớp, đáng khinh bỉ.

Nhận xét 5:

Đây không phải là chủ trương của những người quốc gia chân chính. Vấn đề ở đây không phải là đảng viên cộng sản. Vấn đề là quan niệm và hành động của người đó có đúng hay không, có thực sự DỨT KHOÁT từ bỏ quá khứ tội lỗi của mình và THỰC SỰï đấu tranh cho tự do cho đất nước hay không? Hay chỉ là những hành động CHỐNG ĐẢNG ĐỂ CỨU ĐẢNG?

Trước năm 1975, chúng ta thấy có nhà văn Xuân Vũ đã về hồi chánh với chính nghĩa quốc gia. Ông ta đã từng là tư lệnh phó mặt trận Củ Chi. Tôi không rõ cấp bậc của ông ta nhưng chắc chắn phải là từ cấp tá trở lên. Ông đã viết những quyển tiểu thuyết nổi tiếng như: - Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Củ Chi Đất Thép Thành Bùn ..v..v.. Ông ta dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ cho nên vẫn được những người quốc gia kính trọng.

Một số "nhà dân chủ" bị dư luận ở hải ngoại chống đối, phê phán vì họ là những kẻ phản tỉnh cuội khoác áo dân chủ. Họ KHÔNG DÁM DỨT KHOÁT TỪ BỎ QUÁ KHỨ của họ. Một là họ còn luyến tiếc những cái "hào quang" trong quá khứ; hai là, nếu hoàn toàn phủ nhận quá khứ thì có khác gì tự họ tát vào mặt họ mấy cái? Chính vì sự lưng chừng nửa dơi nửa chuột, không dứt khoát về tư tưởng cho nên họ đã bị dư luận lên án. Đừng có trách dư luận tại sao lại hẹp hòi, tại sao không cho những người đảng viên cộng sản một cơ hội để làm lại cuộc đời. Cơ hội luôn rộng mở như trường hợp điển hình của nhà văn Xuân Vũ. Cơ hội không bao giờ đến với những kẻ "dơi chuột" như Trần Độ, Trần Khuê, Nguyễn Khắc Toàn ..v..v..

Hỡi những người đã và đang phản tỉnh. Hãy thành thật với chính mình, người dân sẽ đón nhận các bạn!

Trong vấn đề đấu tranh, suy nghĩ đúng sẽ dẫn đến hành động đúng. Nếu đánh trúng tử huyệt của con ác quỷ thì nó sẽ chết nhanh chóng. Ngược lại, nếu đánh vào những nơi không nguy hiểm, nó sẽ còn sống hoài và phản công, chúng ta sẽ thua. GỌI ĐÚNG TÊN, NÊU ĐÚNG TỘI là điều chúng ta phải làm và có can đảm phải làm. Tụi nó là VIỆT GIAN CỘNG SẢN thì phải gọi đúng tên, đúng tội của bọn chúng. Tại sao lại sợ? Thậm chí nhiều tờ báo không dám gọi bọn chúng là "việt cộng" hay "cộng sản" mà chỉ dám gọi là "chính quyền Hà Nội"! Nếu có ai théc méc thì những người này lại viện lý do "lịch sự" ra để giải thích!

Không dám điểm mặt kẻ thù tức là biểu hiện của sự đầu hàng. Người đang sống ở hải ngoại, vừa cầm cây viết vừa run, sĩ khí rụt rè gà phải cáo, thì người trong nước còn mong chờ gì nơi chúng ta? Và trong lòng họ có "nể" những Việt kiều lũ lượt về thăm quê hương hay không hay họ rất oán hận và khinh bỉ???

Trần Thanh
Ngày 13 tháng 5 năm 2008

Chú thích:

1. Nhà dân chủ heo mọi:
Một con heo mọi ở trên rừng khi được buôn về thành phố, được các dân nhậu rất quý vì thịt của nó ngon, nó là sản phẩm thứ thiệt ở trong rừng. Bọn việt gian cộng sản đã áp dụng nguyên tắc buôn bán này nhưng lưu manh tráo trở: bọn chúng chế tạo ra những "nhà dân chủ heo mọi" rồi đem buôn ra nước ngoài, dưới những hình thức như :"xuất cảnh lậu", "đi chữa bệnh", "được quốc tế can thiệp", "trốn ở lại hải ngoại xin tỵ nạn chính trị" ..v..v.. Một số người nhẹ dạ ở hải ngoại tha hồ ngưỡng mộ những con heo mọi này vì nó là sản phẩm "thứ thiệt" ở trên "rừng" về! Những nhà chính trị "ống đu đủ" tha hồ làm "blow-job" và "hand-job"!!!

2. Blow-job, hand-job: Những chữ diễn tả sự tục t trong các phim sex.
3. Thơ Nguyễn Hữu Nhật