Friday, April 24, 2015

Ngày Quốc Hận của Dân Tộc - Trần Nhật Kim

Ngày Quốc Hận của Dân Tộc

Trần Nhật Kim

Cuộc chiến đấu anh dũng chống cộng sản của dân tộc Việt Nam trong hơn bốn thập niên giữa những người cùng huyết thống, đã chấm dứt một cách bi thảm vào ngày 30-4-1975. Máu xương của hàng nhiều triệu người, cả cầm súng lẫn tay không, đã trở thành vô nghĩa vì không ngăn chặn được chủ thuyết tàn bạo của cộng sản Quốc tế với manh tâm nhuộm đỏ toàn cõi Đông Nam Á Châu.

Để thoát khỏi “vũng lầy” Đông dương, Hoa Kỳ đã xúc tiến các cuộc mật đàm với phe cộng sản từ năm 1968 tại Paris, nhưng phải đợi đến trước ngày bầu cử của nhiệm kỳ II của ông Nixon mới đạt được sự đồng thuận. Ông Henry Kissinger đã gặp gỡ Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, cũng như tiếp xúc bí mật với Lê Đức Thọ, Trưởng phái đoàn thương thuyết của CS Hà Nội. Một “Hiệp định đình chiến” được thương thảo giữa các cường quốc mang danh “ngưng bắn vì hòa bình” tại Việt Nam, nhưng thực tế, thay vì đưa đến hòa bình lại mở đường cho cộng sản miền Bắc xâm chiếm miền Nam bằng các trận đánh đẫm máu sau đó.

Hiệp định Paris ký kết ngày 28-1-1973, có hiệu lực và sự ngưng bắn chính thức được thi hành trên toàn miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ chấm dứt mọi hoạt động quân sự tại Việt Nam, và Ngày 29-3-1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi lãnh thổ miền Nam.

Hiệp định Paris 1973 không mang lại hòa bình: VNCH bị bức tử

Hiệp định Paris 1973 với danh nghĩa là “Hiệp định đình chiến, mang lại hòa bình cho Việt Nam”; nhưng trái lại, đã gây bất lợi cho sự sống còn của miền Nam trong các điều khoản sau:

Về lực lương vũ trang tại miền Nam
    - Mục (b) của Điều 3 (Chương II) có ghi: “Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình. Ban Liên hợp quân sự hai bên sẽ quy định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân.”
    - Mục (c): “Các lực lương chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lương không chính quy của các bên của miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động tấn công nhau…”
    - Điều 4 (Chương II): “Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.”
    - Điều 5 (Chương II) của Hiệp định ngưng bắn ký kết ngày 27-1-1973 có đoạn: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này sẽ hoàn thành việc rút khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, các loại vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác.”

Về quân ngoại nhập tại miền Nam, trong Hiệp định đình chiến 1973 không nói tới số 150.000 bộ đội miền Bắc còn lưu lại tại miền Nam từ các trận đánh, ngoài ra còn số quân đội miền Bắc tiếp tục xâm nhập vào miền Nam, được kể là quân ngoại nhập phải rút khỏi miền Nam. Về điều này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, với quân số nêu trên của miền Bắc ở lại miền Nam trong khi Mỹ rút toàn bộ quân đội còn lại, sẽ gây trở ngại và khiến miền Nam sụp đổ.

Để việc rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam được thuận lợi, chương trình “Việt Nam Hóa chiến tranh” ra đời. Với chương trình này, ông Nixon nói: “Việt Nam hóa sẽ giúp miền Nam đủ sức tự vệ mà không cần tới quân đội Mỹ”, và đã đưa ra lịch trình rút quân, giảm từ 500.000 vào tháng 1-1969 xuống còn khoảng 50.000 vào ngày bầu cử 1972. Mặc dù quân số miền Nam có tăng cường nhưng quân viện bị cắt giảm, cũng không mang lại kết quả tốt đẹp hơn.

Ông Thiệu không chấp nhận một số điều khoản trong bản dự thảo và cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả dối của các cuộc hòa đàm ở Paris. Điều này đã gây trở ngại cho cuộc hòa đàm, khiến Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CS miền Bắc vi phạm hiệp định, và ép buộc ông Thiệu phải chấp nhận các điều khoản với áp lực đe dọa cắt viện trợ cho miền Nam. Ông Thiệu đã phải chấp nhận đề nghị của Hoa kỳ. Trên thực tế, một năm sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết, cộng quân đã tiến hành những trận đánh chiếm tại các vùng đất xa xôi.

Vào thời gian này, viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục giảm (*):
    Năm 1972: 445 triệu Mỹ kim
    Năm 1973: 297 triệu Mỹ kim
    Năm 1974: 265 triệu Mỹ kim

Quốc hội Hoa Kỳ chuẩn chi viện trợ quân sự cho VNCH 1.4 tỉ Mỹ kim, nhưng chỉ còn 700 triệu vì phân nửa đã dùng cho nửa năm trước. Ngân khoản 700 triệu Mỹ kim này cũng bị trừ mất 300 triệu Mỹ kim cho số dụng cụ quân sự mà Hoa Kỳ đã ứng trước đó. Như vậy, sau tháng 6 của năm 1974, VNCH chỉ còn 400 triệu Mỹ kim để tự vệ (*).

Vì số quân viện cắt giảm, nên quân dụng cũng phải cắt giảm theo, chỉ còn 50% số lượng của những năm trước. Chẳng hạn mỗi cuộc hành quân: súng cá nhân trước đây là 400 viên đạn, nay chỉ còn 200. Mỗi khẩu đại bác 105 ly trước đây là 180 nay chỉ còn 10 viên. Vì không đủ nhiên liệu nên các phi vụ của máy bay chiến đấu, trực thăng cũng giảm đi một nửa (*).

Vào thời điểm này, Hà Nội đưa 35.000 tân binh, 400 chiến xa, 350 đại pháo tầm xa và 35.000 tấn tiếp liệu theo “đường mòn” Hồ Chí Minh xâm nhập vào miền Nam. Các phương tiện chiến tranh đều do Nga Xô cung cấp vào năm 1973 đã gấp đôi năm 1972. Hà Nội cũng được Nga thông báo về viện trợ của năm 1974 sẽ gia tăng với lý do: “Cách mạng ở phía Nam phải được thực hiện dưới hình thức một cuộc bạo động”. [(*)nguồn: Stephen B. Young – Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ)]

Các nước thuộc khối “Xã hội Chủ Nghĩa” Viện trợ kinh tế của cho “VNDCCH” đã gia tăng gấp bội vào năm 1974, với ngân khoản:
    Năm 1973 575 – 605 triệu Mỹ kim
    Năm 1974: 1.159 – 1.190 triệu Mỹ kim.

Khối lượng hàng quân sự cũng tăng theo:
    Giai đoạn 1965-1968: 517.393 tấn
    Giai đoạn 1969-1972: 1.000.796 tấn

Đến cuối năm 1974, tình hình Miền Nam Việt Nam trở lên nguy ngập hơn khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật “1974 Foreign Assistance Act”, chấm dứt các viện trợ quân sự ngoại quốc.

Sau khi Đạo Luật “Viện Trợ Ngoại Quốc 1974” ban hành, cộng quân đã gia tăng các trận đánh chiếm một số tỉnh lỵ như Phước Long và Bình Long vào đầu năm 1975, vì biết không lực Hoa kỳ không thể tiếp trợ khi CSBV vi phạm Hiệp định Paris, như Tổng thống Nixon đã hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu.
Trước sự sụp đổ của VNCH, ngày 14-1-1975, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã phát biểu khi điều trần tại Quốc Hội, Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu như đã cam kết.

Cùng chiều hướng trên, Thống tướng William C. Westmoreland đã nói: “Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đồng minh của chúng ta.”

Và ông cũng xin lỗi các cựu quân nhân QLVNCH: “Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn Cựu Quân Nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn.”

“On behalf of the United States Armed Forces, I would like to Apologize to the veterans of the South Vietnameses Armed Forces fo abandoning you guys.” (General Williams C. Westmoreland)

Sau khi ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, ông Gerald Ford lên làm Tổng thống, đã tuyên bố vào ngày 23-4-1975: “Chiến tranh Việt Nam chấm dứt”.

Miền Nam sau ngày 30-4-1975.

Trong một cuộc chiến không cân sức vì thiếu phương tiện khiến VNCH sụp đổ vào ngày 30-4-1975, mặc dù nhân dân miền Nam vẫn thừa can đảm và ý chí chiến đấu. Cho dù nền Dân chủ của miền Nam còn non trẻ sau 20 năm xây dựng trong một đất nước chiến tranh, nhưng người dân miền Nam đã sống hạnh phúc trong một xã hội mà nhân phẩm được tôn trọng, một nơi mà người dân góp sức xây dựng ngày một tốt đẹp hơn.

Sau ba thập niên phí phạm máu xương, những tưởng biến cố 30-4-1975 là một cơ hội để đảng CS “đoàn kết dân tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh”, đã từng nêu cao như một “chính nghĩa”, nhưng bản chất Cướp đã lộ nguyên hình trước miếng mồi béo bở miền Nam. Hàng loạt chính sách tàn bạo được thực hiện tại miền Nam.

Chính sách “học tập cải tạo” đã đưa hàng triệu người miền Nam vào tù, một hình thức “nhân đạo”, không giết cũng chết, mà căn bản là thành phần Quân, Cán, Chính của chính quyền miền Nam, gây ra cảnh gia đình tan nát, con mất cha, vợ xa chồng. Số tù nhân “cải tạo” tử vong trong các trại tù ngày một gia tăng, nhất là tại nơi rừng thiêng nước độc từ Nam ra Bắc vì bị đầy ải trong lao động, bệnh tật không thuốc chữa, đã lên tới hàng trăm ngàn người. Tại miền Nam, từ trường học đến giáo đường đã biến thành nhà tù, những nơi tôn nghiêm đã trở thành cơ sở sản xuất, chăn nuôi.

Chính sách đánh “Tư sản” và đưa người dân thành phố tới vùng “Kinh tế mới” chỉ để cướp đoạt của cải tài sản của người miền Nam, lấy nhà của người miền Nam cho các quan chức miền Bắc. Các cuộc “đổi tiền” đã cào bằng kinh tế miền Nam, để miền Nam “tiến mau, tiến mạnh” bằng đời sống nghèo đói miền Bắc. Nhưng tệ hại nhất là chính sách “Kê khai lý lịch 3 đời” đã gạt tuổi trẻ miền Nam ra khỏi ngưỡng cửa đại học vì là con cái “Ngụy”.

Trước chính sách đàn áp tàn bạo của cộng sản, hàng triệu người miền Nam đã bỏ nước vượt biên đi tìm tự do, để lại sau lưng cả mồ hôi và nước mắt. Hàng nửa triệu người đã vùi thân dưới lòng biển cả hay bị cướp bóc, hãm hiếp bởi hải tặc. Tất cả những hành động trên của đảng cộng sản Hà Nội, đã khắc sâu sự căm hờn trong lòng người miền Nam. Vì vậy, ngày 30 tháng 4 được ghi nhận là Ngày Quốc Hận.

Mối hận của người miền Bắc.

Phải tới thời điểm 30-4-1975, người miền Bắc mới được sáng mắt, vì bị Hồ Chí Minh và đảng CSVN lừa gạt. Ngay từ buổi đầu “Cách mạng Tháng Tám”, khi Hồ Chí Minh ôm ngọn “Cờ Đỏ Sao Vàng”, một bản sao của lá cờ tỉnh Phúc kiến có từ năm 1931, về cắm tại hang Pác Bó-Cao Bằng vào năm 1941, người miền Bắc bị mê hoặc do lời tuyên truyền “bài Phong, đả Thực” được khích động bởi chiêu bài “Đấu tranh Giai cấp”, nên đã vắt cạn sức người cho một chủ thuyết không tưởng. Cũng từ chiến dịch “Cải cách Ruộng đất”, ông Hồ và đảng CS đã giết oan 172.008 người dân lành, không kể hàng triệu thân nhân của nạn nhân bị trù dập, sống ngoài lề xã hội.

Qua hành động đàn áp, cướp đoạt tài sản của nhân dân miền Nam vào ngày 30-4-1975 của đảng CS Hà Nội, người miền Bắc chua xót nhớ lại chính sách “Cải cách Ruộng đất” “Cải tạo Công thương nghiệp” đã biến miền Bắc, vốn một thời kiêu hãnh nằm trên vùng đất mầu mỡ Sông Hồng, một nơi được nhận là vựa lúa của vùng Châu thổ, đã trở thành nghèo đói. Hạt gạo, bữa cơm no thường có trước đây, đã trở thành giấc mơ của người dân nghèo.

Chính sách “đốt sách, giam tù các nhà trí thức miền Bắc” qua chiến dịch “Trăm hoa đua nở” sau năm 1954, được ông Hồ và đảng CS rập theo Trung cộng. Một loại văn hóa lai căng nửa Việt nửa Tầu đã giết chết tình thần dân tộc của người Việt.

Sau 30 năm bị mê hoặc, cuốn lôi trong hào quang “giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cứu dân miền Nam thoát khỏi cảnh kìm kẹp đói khổ”, người dân miền Bắc một lần nữa phải thắt lưng buộc bụng, hạt gạo xẻ tư để nuôi con em trên đường “Sinh Bắc-Tử Nam”.

Cũng do chính sách “Trăm năm trồng người” khiến nhiều thế hệ thanh thiếu niên miền Bắc bị u mê, đã hủy diệt nhận thức của tuổi trẻ, trở thành một thứ công cụ “chết vì đảng”. Một thí dụ điển hình như trường hợp của Bác sĩ trẻ tuổi Đặng Thùy Trâm, đã ghi trong nhật ký của cô vào ngày 19-9-1968:

“Đại đội huyện đoàn thanh niên lớn lên trong chiến đấu:

– Em Hoàng 14 tuổi trong 6 tháng đầu năm giết được 6 lính Mỹ, đánh lật 2 xe tăng bằng vũ khí tự tạo, lấy được 7 súng giặc trong đó có 2 cối cá nhân và các loại khác.

– Em An Phổ Châu lấy 5 súng, có 2 cối cá nhân, một đài RC. (Nhật ký Đặng Thùy Trâm: trang 83)

Lời chúc tết của ông Hồ vào ngày đầu năm 1-1-1969 đã trở thành một loại kinh nhật tụng, được Đặng Thùy Trâm ghi nhớ:

“Năm qua thắng lợi vẻ vang

Năm nay tiền tuyến chắc còn thắng to.

Vì độc lập – Vì tự do

Đánh cho Mỹ cút , đánh cho Ngụy nhào”. (Nhật ký ĐTT trang 113)

Trong chiều hướng bị mê hoặc bởi lời tuyên truyền, tin tưởng tuyệt đối vào đảng CS, cô Đặng Thùy Trâm đã ghi trong nhật ký ngày 2-6-1970:

“Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn có thể kéo dài, đồng bào ta còn có thể hy sinh nhiều hơn nữa, song dù sao chúng ta nhất định thắng lợi…”

Cô tâm niệm: “Bác Hồ ơi, di chúc của Bác còn vang bên tai con và lúc này lời nói ấy vang lên át cả tiếng bom đạn, con mang nó trong lòng và ra đi…” (Nhật ký Đặng Thùy Trâm, trang 247)

Từ những bút tích ghi trong nhật ký của Đặng Thùy Trâm, chúng ta liên tưởng tới bài hát “Anh Kim Đồng” vào thập niên 3,40 đã nức lòng tuổi trẻ miền Bắc, đến câu chuyện tiểu anh hùng Lê Văn Tám tẩm xăng tự đốt cháy, chạy tới phá kho xăng Nhà Bè năm 1946. Sau này, ông Trần Huy Liệu, “Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền”, tác giả của câu chuyện trên đã giải thích, đây là một “chuyện bịa”, để tạo dựng một thần tượng thúc đẩy sự hy sinh của tuổi trẻ lúc bấy giờ. Rất tiếc, cô Đặng Thùy Trâm qua đời từ lâu, nên không thấy đảng CS đã “biến chất” và đang trên đà suy vong.

Sau trận Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè đỏ lửa 1972, qua chiến thuật biển người, nhiều sư đoàn chính quy miền Bắc đã bị xóa sổ tại chiến trường miền Nam. Con số thương vong lên đến hàng triệu người, chưa kể thành phần dân chúng tử vong và thương tật nhiều hơn gấp bội. Khi chiến tranh chấm dứt, số phận của 300.000 bộ đội trẻ được ghi nhận mất tích, đã không để lại dấu vết trên các nẻo đường tiến quân đánh chiếm miền Nam. Đảng CS cầm quyền phủi tay để mừng thành quả “chiến thắng”, không màng tới số phận các nạn nhân, khiến gia đình thân nhân của các con em tử nạn phải đau khổ âm thầm chịu đựng.

Mối hận của cả dân tộc:

Sau biến cố 30-4-75 tài sản của miền Nam đã theo nhau ra Bắc. Một phần trả các món nợ quân viện của các nước Nga-Tầu để CS Hà Nội có phương tiện đánh chiếm miền Nam, phần khác đã chui vào túi tham của kẻ cầm quyền. 16 tấn vàng trong Ngân khố Sài Gòn do những ai chiếm đoạt, cũng không còn dấu vết. Người Việt trong nước chỉ thấy các quan tham bất chợt trở lên giầu còn người dân ngày càng nghèo hơn.

Sau ngày mở cửa, vì tình cảm gia đình, người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp đỡ thân nhân, vực dậy một đất nước nghèo đói. Theo thống kê, số ngân khỏan gửi về trong nước tính đến năm 2013 đã lên tới 84 tỉ Mỹ kim.. Không kể số tiền người Việt hải ngoại hàng năm về thăm quê mang theo tiêu dùng lên tới hàng tỉ Mỹ kim. Riêng năm 2014, số ngân khoản chuyển về Việt Nam lên tới 12 Tỉ Mỹ kim. Một ngân khỏan không hoàn trả, là ước mơ của các nước sau chiến tranh. Hà Nội đã in tiền giả để đổi lấy tiền thật.

Một câu hỏi được đặt ra, tại sao kinh tế Việt Nam không phát triển, như Nhật Bản và Nam Hàn, mặc dầu chiến tranh đã chấm dứt. Với tài sản chiếm đoạt của Miền Nam sau ngày 30-4-1975 và ngân khỏan người Việt hải ngoại chuyển về hàng năm, kinh tế VN vẫn tụt hậu so với các nước trong vùng?

Theo tài liệu phát triển kinh tế của 10 quốc gia Á Châu vào thời điểm 1960, thứ tự trong bảng xếp GDP tính bằng Mỹ kim như sau:
    Singapore (395$),
    Malaysia (299$),
    Philippine (257$),
    Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam: 223$),
    South Korea (155$),
    Thailand (101$),
    Trung quốc (92$),
    Ấn Độ (84$),
    Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc: 73$).

Như vậy VNCH đã ngang hàng với Philippine, vượt qua South Korea, gấp 2 Thái Lan, gấp 2,4 lần Trung quốc, gấp 2,7 lần Ấn Độ và gấp 3 lần VNDCCH.

Vào thời điểm 2013, mức phát triển của Việt Nam là 1.660 US$, trong lúc Singapore đang ở vị trí 50.899 US$. Theo tiên đoán của IMF về sự phát triển của GDP từ năm 2011 đến 2017, Việt Nam sẽ không bao giờ đuổi kịp các quốc gia nói trên, nếu vẫn tăng trưởng với cường độ hiện tại. Việt Nam tiếp tục ở hạng chót và sẽ không bao giờ bắt kịp được Philippine, Indonesia, Thái Lan, chứ đừng mơ tưởng đuổi kịp Malaysia, Nam Hàn và Singapore.

So sánh đà phát triển của các nước Á Châu trong nửa thế kỷ vừa qua, chúng ta nhận ra một sự thật, cơ chế của một chính thể đã ảnh hưởng tới sự phát triển của quốc gia đó.

Về mặt xã hội, tệ nạn tham nhũng trong giới lãnh đạo đảng ngày càng gia tăng. Cán bộ lãnh đạo đảng trắng trợn cướp đoạt tài sản nhân dân, khiến các cuộc biểu tình đòi đất của người dân nghèo xẩy ra từ Bắc vào Nam. Tình trạng an ninh xã hội xuống cấp đến nỗi một đại biểu quốc hội đã phải lên tiếng: “ra ngõ không thấy anh hùng chỉ gặp toàn kẻ cướp.” Mà tệ hại hơn nữa, chính quyền nhiều địa phương xử dụng xã hội đen, hay trá hình xã hội đen để đàn áp nhân dân trong các vụ cướp đoạt ruộng vườn.

Đạo đức xã hội ngày càng suy đồi, bạo hành xẩy ra thường xuyên trong các trường học. Giáo dục chạy theo thành tích, “định hướng Xã hội Chủ nghĩa”, đã đẩy nhiều thế hệ tuổi trẻ Việt Nam trở thành công cụ của đảng. Trước sự tha hóa của xã hội, nhiều người lên tiếng đòi nhà cầm quyền tôn trọng quyền sống căn bản của con người, họ đã bị khủng bố, trù dập, giam cầm.

Chưa có chính quyền nào công khai bán nước như đảng CSVN. Công Hàm 1958 do Thủ tướng VC Phạm Văn Đồng ký tên dưới sự chỉ đạo của ông Hồ, đã dâng Hòang Sa và Trường sa cho Trung cộng với mục đích để có phương tiện đánh chiếm miền Nam, mặc dầu vào thời gian này các hải đảo trên thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.

Chiến tranh biên giới Hoa-Việt năm 1979, Trung cộng đã tàn phá các tỉnh biên giới, di chuyển cột mốc xuống phía nam và đòi đảng CSVN phải vẽ lại đường biên giới. Việt Nam đã mất hàng ngàn cây số vuông chạy dài trên sáu tỉnh miền Bắc. Các cao điểm chiến lược đã nằm trong tay Trung cộng. Pác Bó – Cao Bằng trước của ta nay thuộc Tầu. Điều tệ hại hơn nữa, với “16 chữ vàng và 4 tốt”, người Tầu vào Việt Nam tự do, trái lại người Việt vào đất Tầu phải xin phép. Vịnh Bắc bộ của Việt Nam cũng phân chia lại, có lợi về phía Trung quốc.

Năm 1988 Trung cộng tiến chiếm các đảo đá thuộc Trường Sa, Hải quân CSVN đã khởi động chiến dịch chủ quyền các đảo Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma dưới tên CQ-88. Anh Nguyễn Văn Thống người sống sót sau trận đụng độ với quân Trung cộng cho hay: “trước khi đi đã quán triệt không được nổ súng với bất cứ giá nào.” Tướng Lê Mã Lương, nguyên “Giám đốc Bảo tàng Quân sự Việt Nam” cho biết: “…Đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh bộ đội ta không được nổ súng nếu như đánh chiếm cái đảo Gạc Ma hay bất cứ đảo nào của Trường Sa…”. Ông Nguyễn Khắc Mai, “Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết” cho biết “ông Lê Đức Anh trong vai trò Bộ trưởng Quốc phòng, được xem là người đã ra lệnh không được nổ súng.” (Nguồn: Mạc Lâm-đài RFA)

Ông “Tổng bí thư” Nguyễn Văn Linh người cầm đầu phái đoàn VN, với Đỗ Mười, “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng” và Phạm Văn Đồng đại diện phía Việt Nam, và TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng đại diện phía Trung quốc, dự Hội nghị Thành Đô trong 2 ngày 3 và 4 -9-1990, đã tái xác định con đường bán nước của các người tiền nhiệm lãnh đạo đảng CSVN. Ông Nguyễn Cơ Thạch đã tuyên bố sau Hội nghị Thành Đô: “Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu.”

Gần đây nhất, khi Trung cộng đưa giàn khoan vào vùng đặc nhiệm kinh tế của Việt Nam khiến tình hình Biển Đông trở lên sôi động. Nhiều nước đã đưa lời phản đối Trung quốc, trong khi Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã tuyên bố quan hệ Việt-Trung vẫn tốt đẹp. Ông Thanh nói: “…Đây chỉ là sự bất đồng, cũng như sự bất đồng trong một gia đình.” Mặc dầu ở địa vị đứng đầu tổ chức quân đội, ông Thanh đã không có một hành động nào bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia.

Mục tiêu “Xã Hội Chủ Nghĩa” vốn không tưởng, chỉ còn là tấm bình phong của đảng CSVN che đậy những hành động đàn áp bóc lột người dân để bảo vệ quyền lợi của đảng. Đã tới lúc những đảng viên thực tâm yêu nước phải bỏ đảng, như nhận định của ông Nguyễn Minh Cần:

“…Nhóm cầm quyền không đủ trí tuệ để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non…Ban lãnh đạo, nhất là Bộ chính trị, Ban Bí thư già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ..” Ông Cần cũng nhắn nhủ: “Mỗi người tự hỏi và quyết định: có nên tiếp tục ở trong đảng CS này không? Cái đảng phạm tội diệt chủng. Cái đảng gian dối, lừa gạt lật lọng…”

Cũng cùng nhận định về sự phản bội dân tộc của đảng CSVN, ngày 10-4-2013, Thiếu tướng CS Hà Thanh Châu đã xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. Gần đây nhất, ông Đặng Xương Hùng, nguyên Lãnh sự VN tại Genève đã tuyên bố bỏ đảng từ tháng 10-2013 và xin tỵ nạn chính trị tại Thụy Sỹ, để khởi đầu cuộc đấu tranh dân chủ cho Việt Nam.

Từ thời điểm 30-4-1975, đảng CSVN đã chứng tỏ là một đảng cướp, tồn tại nhờ dựa vào bạo lực để củng cố địa vị sống còn. Một đảng phạm tội diệt chủng, gây ra bao nhiêu đau thương cho người dân Việt từ Bắc vào Nam. Vì nguồn gốc côn đồ, các cuộc thanh toán vì quyền lợi phe nhóm của giới lãnh đạo đảng ngày một công khai, và những giới chức sẽ “phải hy sinh” còn đang tiếp diễn. Sau hơn 7 thập niên cầm quyền, đảng CSVN chứng tỏ không có khả năng xây dựng nhưng mạnh về phá hoại, khiến dân tộc ngày thêm điêu đứng và đất nước trở lên chậm tiến.

Ngày 30-4 không những là ngày Quốc Hận đối với người Miền Nam, mà còn là mối căm hận chung cho cả Dân Tộc Việt Nam.

Trần Nhật Kim


Thursday, April 9, 2015

Tháng Tư thuở ấy !

Tháng Tư Thuở Ấy!

Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Vết chém, sau lưng đất nhuộm hồng
Những người có cánh bay đi mất
Để người còn lại xót non sông

Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Thành phố đổi tên sử đổi dòng
Biết bao người trôi trên biển cả
Tìm nắng trong đêm giữa biển Đông

Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Người người lên núi kẻ lên rừng
Hành trang mang theo bia dựng mộ
Chôn sống đời mình dưới bóng trăng

Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Tháng Tư chồng chất phận lưu vong
Nhiều người cúi mặt quên ngày cũ
Có kẻ đau lòng vời vợi trông…

 
Giặc Từ Miền Bắc Vô Nam




Thông báo của CĐNVTDÚC về việc Gây Quỹ Trùng tu Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 200 Canley Heights NSW 2166
Tel: 0416 088 782 Email: trivo@ozemail.com.au

THÔNG BÁO

V/V GÂY QUỸ TRÙNG TU NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA VIỆT NAM

Sau khi chúng tôi bàn thảo với những thành viên trong Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu (CĐNVTDÚC) và Tổng Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Úc Châu (THCQN/QLVNCH/ÚC), BCHCĐNVTD liên bang, các tiểu bang và lãnh thổ cùng đi đến quyết định như sau:
    1. CĐNVTDÚC luôn ghi nhận và biết ơn đối với những người lính QLVNCH, đã chiến đấu hào hùng với ý niệm Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm, để chống lại sự bành trướng của cộng sản và bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam.

    2.
    Việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là việc cần thiết.

    3. Tuy nhiên, hiện nay tình hình chính trị và hoàn cảnh của đất nước đang bị cai trị bởi chế độ độc tài CSVN, và Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nằm dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền CSVN. Cho nên việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, dù muốn dù không, phải nói chuyện, làm việc và hợp tác với CSVN. Việc làm này sẽ hoàn toàn đi ngược lại với nội quy, lập trường và đường lối của CĐNVTDÚC.

Chúng tôi xin nhắc lại một số sự kiện trong quá khứ lẫn hiện tại liên quan đến việc này hầu có thể giúp chúng ta có những nhận xét chính xác hơn:
    1. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền CSVN đã áp dụng chính sách trả thù bằng cách bỏ tù và giam cầm những người lính QLVNCH, và đối xử phân biệt kỳ thị đối với những người con hoặc liên hệ đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

    2. Gần đây hơn, CSVN (một chế độ vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo) sử dụng thủ đoạn chính trị và qua áp lực ngoại giao, đã yêu cầu các quốc gia tại Đông Nam Á đập những bia tưởng niệm và di tích của những người tỵ nạn CSVN. Xin lưu ý những bia tưởng niệm và những di tích này là cho rất nhiều thường dân vô tội đã bỏ mình trên bước đường vượt biển, vượt biên đi tìm tự do, và những bia tưởng niệm này đã được dựng lên tại những quốc gia không có sự kiểm soát trực tiếp của CSVN.

    3. Ngày 27 tháng 11 năm 2006, Thủ Tướng CSVN, Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định 1568/QĐ-TTg “đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lí sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương”, nghĩa là biến Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa thành một nghĩa trang dân sự.

    4. Chế độ CSVN là chế độ phản bội Tổ Quốc, dâng đất và dâng biển cho Trung Cộng. Những phần đất và biển thuộc về lãnh thổ của Việt Nam, thuộc về Tổ Quốc của chúng ta, mà tổ tiên của chúng ta qua thời gian hơn 4000 năm đã hy sinh để bảo vệ.

    5. CSVN vẫn tiếp tục đàn áp nhân quyền và quyền tự do tín ngưỡng, và luôn luôn cấm đoán, bắt bớ, giam cầm các nhà đấu tranh dân chủ trong nước và những người can đảm quan tâm đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. 6. CSVN luôn luôn có âm mưu xâm nhập và đánh phá Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn CSVN của chúng ta, qua nhiều hình thức khác nhau trong đó có Nghị Quyết 36, mà mục tiêu là cố tình gây chia rẽ làm suy yếu tiềm lực đấu tranh của cộng đồng người Việt tại hải ngoại.

Vì những nhận xét nêu trên, chúng tôi kêu gọi các hội đoàn, đoàn thể và đồng hương tại Úc Châu, không tham gia, tiếp tay hoặc ủng hộ các chương trình gây quỹ cho việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.

Xin trân trọng thông báo,
Úc Châu ngày 7 tháng 4 năm 2015

LS Võ Trí Dũng Chủ Tịch BCH/CĐNVTD/LBÚC
TS Hà Cao Thắng, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/NSW
Ông Nguyễn Văn Bon, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/VIC
BS Bùi Trọng Cường, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/QLD
Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/SA
BS Nguyễn Anh Dũng, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/WA
Ông Lê Công, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/ACT
Ông Lê Tấn Thiện, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/NT
Bà Trần Hương Thủy, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/Wollongong

Wednesday, April 8, 2015

Không tham gia "việc trùng tu nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà"!

Thông Báo
Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Victoria ÚC CHÂU

Thursday, April 2, 2015

China’s ‘great wall of sand’

    China’s ‘great wall of sand’ in the South China Sea a worrying land grab, US naval chief says
Satellite imagery shows the progress of Chinese land building across Spratlys archipelago.

CHINA is “creating a great wall of sand” through land reclamation in the South China Sea, causing serious concerns about its territorial intentions, the commander of the US Pacific Fleet says.

Admiral Harry Harris Jr told a naval conference at the Australian War Memorial yesterday that competing territorial claims by several nations in the South China Sea are “increasing regional tensions and the potential for miscalculation.”

“But what’s really drawing a lot of concern in the here and now is the unprecedented land reclamation currently being conducted by China,” he said.

“China is building artificial land by pumping sand on to live coral reefs — some of them submerged — and paving over them with concrete. China has now created over 4 square kilometres (1.5 square miles) of artificial landmass,” he said.

Harris said the region is known for its beautiful natural islands, but “in sharp contrast, China is creating a great wall of sand with dredges and bulldozers over the course of months.”

China claims virtually all of the South China Sea. The Philippines and other countries which have territorial disputes with China in the busy sea have been particularly concerned by the land reclamation projects, which have turned a number of previously submerged reefs in the Spratlys archipelago into artificial islands with buildings, runways and wharves. The islands could be used for military and other facilities to bolster China’s territorial claims.
The location of Spratly islands in the South China Sea.

Harris said the pace of China’s construction of artificial islands “raises serious questions about Chinese intentions.”

He said the United States continues to urge all claimants to conform to the 2002 China-ASEAN Declaration of Conduct, in which the parties committed to “exercise self-restraint in the conduct of activities that would complicate or escalate disputes and affect peace and stability.”

“How China proceeds will be a key indicator of whether the region is heading toward confrontation or cooperation,” he said.

The US says it has a national interest in the peaceful resolution of the disputes in a region crucial for world trade. China says its territorial claims have a historical basis and objects to what it considers US meddling.

Harris said the United States is on track to reposition 60 per cent of its navy to the Pacific Fleet by 2020.

“By maintaining a capable and credible forward presence in the region, we’re able to improve our ability to maintain stability and security,” he said. “If any crisis does break out, we’re better positioned to quickly respond.”

Source: http://www.news.com.au/technology/innovation/chinas-great-wall-of-sand-in-the-south-china-sea-a-worrying-land-grab-us-naval-chief-says/story-fnpjxnlk-1227288393134



Tuesday, March 31, 2015

Lamb with face like an ‘angry old man’

    Lamb with face like an 'angry old man' avoids the chop following offer from circus
Shock birth ... A farmer in Russia was surprised when he saw the lamb looked like a n old man.

Proud owner Blasius Lavrentiev's shock soon turned to delight after he was offered 10 times the normal price for he.

A lamb born with a face 'like an angry old man with a big nose' has avoided the chop after a circus made an offer for her.

Proud owner Blasius Lavrentiev's shock soon turned to delight after he was already offered 10 times the normal price for her.

Sheep farmer Lavrentiev, 45, from the village of Chirka close to the Republic of Dagestan in south-western Russia, had been waiting all week for his prized ewe to give birth.

He said: "We had quite a tough winter and when I noticed she was pregnant I was delighted as it meant I would be able to sell the lambs and start making some money again.

"But when I went down to see how it was going I nearly died from shock when I saw what looked like the hairy face of an old man staring up at me.

"Her parents are both normal looking sheep so I have no idea how she ended up looking like this."

Now the human-faced lamb has become the talk of the village.
Deformity ... A vet said the lamb’s deformity may have been caused by too much vitamin A
 in its mother’s diet.

Neighbour Dementi Galkin, 65, said: "I’ve seen some weird stuff in my time, but nothing like this.

"She looks like an angry old man with a big nose."

Villager Dana Mishina, 56, said: "She is both freaky and sweet.

"I don’t know what to make of it really. But she terrifies my grandchildren."

"It will be interesting to see what she looks like when she gets older."
 Looks: He said she looks like "an angry old man with a big nose"

Local vet Dorofei Gavrilov, 49, said: "From what we can make out the anomaly is the result of the farmer giving the lamb’s mother too much vitamin A.

Proud owner Lavrentiev however has found his shock turn to delight after he was already offered 10 times the normal price - from a local circus - and several other enquiries have also come in since then.

He said: "Whatever has caused it she’s a little beauty and I definitely won’t be selling her for anyone’s dinner table either as the buyers want her on display.

"She’ll be staying with us until then."



Sunday, March 29, 2015

"Vinh Danh và Tri Ân"- "Chữ Nghĩa" Của Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng - Lê Thành Quang

    "Vinh Danh và Tri Ân"- "Chữ Nghĩa" Của Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng

Lê Thành Quang

Vừa qua, tên tuổi của Ông Giám Đốc Điều Hành Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển lại được thiên hạ réo gọi, nửa như nguyền rủa, nửa như ngán ngẩm, nửa như miệt thị: lợi dụng Ngày Quân Lực để làm tiền, làm nô tài, bợ đỡ vài Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu có chút danh vọng của giới dân cử Hoa Kỳ.

Theo dõi lý do, được biết, tất cả chỉ tại tổ chức BPSOS của ông này đã và đang chuẩn bị Vinh Danh & Tri Ân Ở Trung Tâm Kennedy Center vào ngày 19 tháng 6 năm 2015 tức Ngày Quân Lực hàng năm của Việt Nam Cộng Hòa.

Trên điện thư ghi ngày 19 tháng 2 năm 2015, dưới tiêu đề Kennedy Center – Nơi Vinh Danh Ở Tầm Vóc Quốc Gia và Quốc Tế được phổ biến nhằm lý giải những thắc mắc.
  • Hãy thử phân tích:
Kennedy Center, ngoài chữ Kennedy là phương danh của Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bị ám sát vào năm 1963, chỉ là một Trung Tâm Biễu Diễn Nghệ Thuật hạng siêu sang về vị trí, nằm cạnh khách sạn Watergate, tên vụ nghe lén của cựu Tổng Thống Nixon, bên bờ sông Potomac mà những quang cảnh của toàn bộ khu Geoegetown, phía đông nhà tưởng niệm Lincoln, tháp bút chì, máy bay lên xuống từng phút một đều ở trong tầm nhìn và cách phục sức sang trọng bắt buộc đối với khách thưởng lãm. Quả thật, Kennedy Center đã từng là nơi vinh danh các Tổng Thống Hoa Kỳ và những danh nhân thế giới nhưng do tổ chức nào, nhóm nào mới là điều đáng nói, ông Tiến Sĩ chào hàng "nơi vinh danh ở tầm vóc quốc gia và quốc tế", ỡm ờ đánh lận con đen, quên đi kiến thức, trình độ của đối tượng, theo lối tam đoạn luận, cách lập luận dễ nhất: nơi này sang như vậy, chi phí nhiều như vậy thì nội dung phải xứng đáng và như vậy, tổ chức của tôi sẽ phải đứng vào hàng siêu đẳng???!!!

Ngay trong phần mở đầu, ông Tiến sĩ viết đã cưỡng từ đoạt lý:

"Trong thời gian qua, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến muốn biết rõ nội dung của chương trình vinh danh và tri ân ở Kennedy Center vào ngày 19 tháng 6 tới đây. Dĩ nhiên chúng tôi không thể nói hết ra được – nếu nhà sản xuất phim kể ra hết cốt truyện của cuôn phim thì còn ai đi xem? Dưới đây là những điểm phác họa mà chúng tôi có thể "bật mí" lúc này. Trong những ngày tháng tới, chúng tôi sẽ tuần tự phổ biến thông tin hấp dẫn mà không lộ phần nội dung cốt lõi."

BPSOS làm business hay ông Nguyễn Đình Thắng buôn bán làm giàu là việc của ông, đồng hương không rỗi hơi để luận bàn. Ông làm ăn ngay ngày MƯỜI CHÍN THÁNG SÁU là điều mà dư luận cần biết để coi ông có lợi dụng tinh thần NGÀY QUÂN LỰC 19/6 CỦA VNCH hay không? Vì trong quá khứ, ông Tiến Sĩ đã có những "công trình" thọc vào sự nhạy cảm chung của tập thể người Việt đang tỵ nạn cộng sản trên khắp thế giới. Không biết ông có cảm nhận được dư luận đang chất vấn hay không?

Dẫn chứng "nếu nhà sản xuất phim kể ra hết cốt truyện của cuốn phim thì còn ai đi xem?" và ú ớ "Trong những ngày tháng tới, chúng tôi sẽ tuần tự phổ biến thông tin hấp dẫn mà không lộ phần nội dung cốt lõi.". Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng đã tự hạ giá danh dự, uy tín của mình (nếu có) thành một con buôn, một nhà ảo thuật trong khi công việc của ông là công việc của một kẻ sĩ, công việc của một tổ chức bất vụ lợi, mà trên hết, việc ông đang làm thanh cao, giá trị, được tôn kính chính là công khai, minh bạch, kể cả chi thu cùng mục đích sử dụng tài chánh đạt được.

Phần cuối điện thư ông kêu gọi: "Chúng tôi cầu mong quý vị đồng hương và các cơ quan báo chí giúp phổ biến thông tin trên đây rộng rãi đến đồng hương ở khắp nơi."
Người viết đáp ứng 5/5.

Cái được gọi là Nội Dung cùng Ý Nghĩa của chương trình được ông Tiến Sĩ "vô tư" trình bày:
    Chương trình kéo dài hai tiếng rưỡi, gồm 3 phần.
    Phần đầu là chào quốc kỳ Hoa Kỳ và VNCH; tiếp theo đó là những màn trình diễn mang tính cách truyền thống để chào đón quan khách.

    Phần hai là phần vinh danh và tri ân. Ban tổ chức sẽ chọn 4 cá nhân hoặc tổ chức cựu quân cán chính VNCH và 4 cá nhân hoặc tổ chức cựu chiến binh Hoa Kỳ mang tính cách tiêu biểu để vinh danh trên sân khấu. Họ được một ban 9 người tuyển chọn dựa vào danh sách đề nghị từ nhiều nguồn.

    Cứ mỗi người hay tổ chức được vinh danh thì sẽ có một người giới thiệu; các người giới thiệu được chọn để biểu tượng cho sự thành đạt của người Mỹ gốc Việt trong nhiều lĩnh vực. Tiếp theo là đoạn video về người được vinh danh và màn trình diễn nghệ thuật phù hợp. Khi nhận kỷ vật lưu niệm, người được vinh danh sẽ phát biểu ngắn gọn.

    Phần ba là phần vinh danh tập thể những người do các cá nhân hay hội đoàn lựa chọn và tài trợ để tham dự chương trình vinh danh và tri ân ở Kennedy Center. Chẳng hạn, một người con có thể vinh danh cha mẹ, một tổ chức cựu quân nhân có thể vinh danh đồng đội, một tổ chức cộng đồng có thể vinh danh một cựu chiến binh Hoa Kỳ ở địa phương, hoặc một gia đình tị nạn có thể vinh danh người bảo trợ năm xưa.
Có nghĩa là ông Nguyễn Đình Thắng vinh danh Cá Nhân và Tập Thể với những phương thức chọn lựa đã dẫn. Xem ra hình thức này rất phổ biến, thường dung để "mang áo thụng lạy nhau."

Vinh danh tập thể, ông Nguyễn Đình Thắng, "mượn hoa cúng Phật", "của người phúc ta", "nhổ một sợi long chân mà có lợi cho bá tánh, cũng không làm, vì trước hết là đau chân" thủ huề minh thị:
    1. Quân cán chính VNCH đã xả thân bảo vệ miền Nam tự do;
    2. Các cựu chiến binh Hoa Kỳ và đồng minh đã sát cánh với quân cán chính VNCH;
    3. Đất nước và người dân Hoa Kỳ đã cưu mang người Việt tỵ nạn.
Chắc chắn Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng đã không phân biệt được sự khác biệt giữa cặp danh từ kép VINH DANH và TRI ÂN. Xin Tiến Sĩ hạ mình đọc tiếp:

Theo Việt Nam Tự Điển, Quyển Hạ, trang 1771 của Lê Văn Đức, VINH là vẻ vang, sang cả, đẹp mày nở mặt, sung sướng tấm thân; DANH là tên gọi.
VINH DANH nghĩa là làm cho một tên tuổi nào đó, tập thể nào đó… được vẻ vang qua công trạng, thành tích đã được chứng nghiệm. TRI ÂN là biết ơn một cá nhân nào đó, một tập thể hay một đất nước.
VINH DANH hay TRI ÂN tự nó đã có một quy ước của tôn ty trật tự. VINH DANH là người trên hay tập thể, cơ quan uy tín, trách nhiệm, có quyền lực cao hơn đối tượng để ban phát. TRI ÂN là một sự cảm nhận, bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với người trên. Trong cùng một nội dung, khó thể thực hiện VINH DANH và TRI ÂN.

Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng ơi!

Với 3 thành phần mà ông chuẩn bị VINH DANH: Quân cán chính VNCH - Các cựu chiến binh Hoa Kỳ và đồng minh đã sát cánh với quân cán chính VNCH - Đất nước và người dân Hoa Kỳ đã cưu mang người Việt tỵ nạn, cho dù ông bê được vài chục Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu cũng không đủ uy lực để VINH DANH. Cách VINH DANH của ông là một sự bố láo, phạm thương. Cá nhân ông Tiến Sĩ, BPSOS và nhóm người ông vận động, chỉ có quyền TRI ÂN mà thôi.

Không dừng lại, ông Tiến Sĩ của chúng tôi lại hô hoán, tới luôn bác tài, viết tiếp: "Tên của chương trình, Our Journey To Freedom, còn hàm ý quyết tâm biến "Hành Trình Đến Tự Do Của Chúng Ta" thành khởi đầu cho "Hành Trình Đến Tự Do" cho cả dân tộc Việt Nam."

Ô hay, Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng, chủ nhân của Boat People mà không hiểu nguyên nhân chúng ta hiện diện tại Hoa Kỳ?. Hành trình đến tự do nào đưa chúng ta đến đây nếu thế giới không công nhận tư cách tỵ nạn chính trị của chúng ta. Ông Tiến Sĩ ngớ ngẩn hay giả hồ đồ để quên đi Danh Xưng Tỵ Nạn đã được cả thế giới công nhận với định nghĩa (ý):

"Tỵ nạn chính trị là người bị bức hại vì bất đồng chính kiến, bị dối xử phân biệt, bị trả thù ngay trong đất nước, quê hương mình và khi trở về cũng bị tù đày".

Năm chữ Hành Trình Đến Tự Do khi liên hệ đến Ngày 30 Tháng 4 hay 19 Tháng 6, chỉ là cách nói, lối viết của những tên không lý luận trong một ý đồ lệch lạc, sẽ được đề cập trong một bài viết khác vì ngoài nội dung của bài này.

Người viết thật có cảm tình với ông Tiến Sĩ khi nghe anh chị Vũ Đức Khoa – Lisa Philadelphia đã không hết lời khen tính khiêm cung, chịu đựng và nhất là dễ hòa nhập bất cứ mọi hoàn cảnh, phương tiện mà Tiến Sĩ va chạm. Nhưng lúc này, người viết nhớ lại, vào thời gian chuẩn bị biểu tình chống Nghị sĩ John Kerry tại Boston vào cả chục năm trước, có gặp Tiến Sĩ cùng bà Ng. Th. H. (người đã tuyên bố đi biểu tình chống John Kerry không cần phải cầm cờ vàng) tại nhà thờ Thánh Saint Helena, Philadelphia như là một yếu tố để định hình Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng kèm với câu hỏi ông Thắng đang mưu tính gì trong Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 sắp tới tại Kennedy Center?.

Lê Thành Quang



Saturday, March 28, 2015

Ðừng Quên Tháng 3-1972 - Mường Giang

    Tháng 3-2015 Ðừng Quên Tháng 3-1972
Mường Giang

Tờ mờ sáng chúa nhật 26-6-1950, bẩy sư đoàn bộ binh Bắc Hàn, với quân số tổng cộng hơn 90.000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn thiết giáp, gồm 150 chiến xa T-34 của Nga Sô và lực lượng không quân hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại vỹ tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.
 Việt Cộng Tàn Sát Ðồng Bào Trong Mùa Hè Ðỏ Lửa

Hai mươi hai năm sau đó vào giữa trưa ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cọng sản Ðệ tam quốc tế Bắc Việt, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975) vào khắp lãnh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đã xử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu trên 40.000 người, gồm các sư đoàn chủ lực 304,308, năm trung đoàn biệt lập của B-5 là 126,31,246,270, đặc công, hai trung đoàn chiến xa mang số 203,204 gần 400 chiếc và năm trung đoàn pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn qua khu phi quân sự, pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ VNCH tại tỉnh Quảng Trị.

Hai trận chiến trên rất giống nhau và cũng khác nhau, giồng vì cả hai hiệp định ngưng chiến Cao Ly và Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được ký tại Postdam (7-1945) và Genève (20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt ký vào văn bản. Còn hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu rìa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nổi nhục nhược tiểu mà thội.

Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cộng sản quốc tế còn sót lại, cuồng tín, cuồng sát và hung hăn hiếu chiến, không thua gì Trung Cộng. Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Dông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cộng sản này gây nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ lộng hành tràn qua vỹ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn của Bắc Việt thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch, tại hội nghi Genève 1954 phản đối, mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. Còn Mỹ thì có gì để nóí, khi Nixon và Kissiger đã quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẽo đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.

Ngậm máu phun người trước dơ miêng mình, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân Lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền rất rẻ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau này các văn nô Hà Nội, trong đó có cán gái Dương Thu Hương (tiểu thuyết Vô Ðề), đều là chuyện bình thường và xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Bởi vậy giờ đâu còn ai tin những chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết tù binh VC, hay những chuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân Việt tại Mỹ Lai-Quảng Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao, xua đi đầu dọn bãi mìn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, Bình Ðinh, KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Ðại Lộ Kinh Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN cùng Nhân Loại.

Hãy đọc G.H. Turley, nguyên Ðại Tá cố vấn TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân di tản khỏi thành phố Quảng Trị ‘không ngờ tôi đã làm nhân chứng, cho một hình ảnh thãm khốc, của cuộc chiến VN. Các pháo thủ, bộ đội Bắc Việt, với lý do mà tôi không thể nào giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng, thiết giáp để trực xạ vào đoàn người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đã gục chết oan khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít ... ‘. Còn ký giả A.R.Isaaca thì viết ‘vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt nhìn thấy những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Ðại Lộ Kinh Hoàng. Kéo dài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết trên, toàn là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả đã biến dạng sau hai tháng dầi dầu chịu đựng mưa nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên vẫn còn nhiều xác kẹt trong xe,suốt hai bên đường quốc lộ số 1.

Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972 ‘sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người.. ’. Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới va những người Việt Cộng do Hồ Chí Minh ươn trồng, không còn một chút tình VN và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết nói.

1. Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến

Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước bởi dòng Bến Hải. Ðây là một con sông nhỏ phát nguyên từ dãy Trường Sơn, chảy ra Ðông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, tây giáp Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía đông là biển. Trước khi xảy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện tích 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ còn có 164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Ðiều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác dã man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu, thì đồng bào đều phải bỏ của để chạy lấy mạng.

Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hản và Mỹ Chánh mà cả ba đã vô tình qua sự sắp xép của lịch sử, trở thành ba con sông biên giới trong các giai đoạn chiến tranh VN. Tỉnh còn có hai quốc lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm sát.

Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069 khi vua Lý Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành bắt được vua Chàm là Chế Củ. Ðể chuộc mạng, vua dâng ba châu Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tức Quảng Bình và một phần Quảng Trị ngày nay). Sau đó vào năm 1306 Huyền Trân Công Chúa vì nước quên mình, chịu gã cho vua Chế Mân, để đem về cho Ðại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tông, đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Hoàng được vào trấn thủ Thuận Hóa vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588).
Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu Phong. Vì là đất cổ của Ðại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Ðường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Ðinh Công Tráng.

Thành cổ Ðinh Cộng Tráng được xây dựng từ năm 1823 thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838, thành được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi vòng hào , rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự phòng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của tướng Vũ Văn Giai tư lệnh SĐ3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến Quảng Trị, trong trận mùa hè năm 1972.

Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cộng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến, so với những năm về trước. Do trên, các cấp lãnh đạo VNCH, từ trung ương tới quân đoàn I, đã tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ có ý đồ tấn công qua sông Bến Hải. Ðây chính là lý do đã giao trọng trách phòng thủ miền giới tuyến, cho một sư đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hính thành được vài tháng. Ðó là sư đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971 có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Ðoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch và các đơn vị ĐPQ+NQ Vùng 1 chiến thuật. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng.

Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng SĐ3BB phòng thủ vỹ tuyến: Trung đoàn 56BB đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Ðính chỉ huy trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lử đoàn 147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực lượng ĐPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.

2. Trận chiến mùa hè 1972 tại Quảng Trị

Ðúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng tư lệnh quân đội miền Bắc khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua 40.000 quân vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Ðể mở đường qua sông, pháo binh cộng sản, vói các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có.

Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển người. Tuy nhiên quân cộng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB trấn giữ. Ðại chiến long trời lở đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về Sài Gòn và Ðà Nẵng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn còn chưa tin là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều này, đã làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu thương vong oan khiên, trên các con đường di tản trước biển giặc.

Mãi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lữ đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48 mới được tăng cường cho SĐ3BB tại mặt trận Ðông Hà. Ngay lúc đó, SĐ308 cộng sản đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. Còn SĐ304 thì tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên không quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên, còn hải pháo cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.

Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy tiền phương của SĐ3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Ðồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Ðông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo bình và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập. Ðạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả, không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Ðông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai có thể ngờ tới.

Ngày 31-3, căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4, các căn cứ Ðông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cộng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SĐ3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe Gió thì di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC, bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya đêm 2-4. Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm, khiến cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.

Rồi Bộ Tư Lệnh tiền phương của SĐ3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lử đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC và TĐ7TQLC, lãnh thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Ðông Hà, để lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly.

6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bỗng có tin TQLC Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TĐ3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Ðông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, vì bộ đội và chiến xa cộng sản, chuẩn bị vượt cầu Ðông Hà. Ngày 3-4, Trung Ðoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi khi rút về Cam Lộ, nên không kịp dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll, do Trung Tá Phạm Văn Ðính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TĐ1 Pháo binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt. Ðây là trường hợp duy nhất, trong cuộc chiến Ðông Dương lần 2. Tình hình đã quá nguy ngập, nên cầu Ðông Hà được lệnh giật xập, chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lữ đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị.

Ngày 4-4, Lữ đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ luôn căn cứ Mai Lộc, vì không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển người. Vì quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lữ đoàn này được lệnh về Huế bổ sung và tái trang bị. Riêng TĐ7 TQLC vì quân số còn nguyên vẹn, nên được lệnh giữ còn đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ còn có TĐ1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố mà thôi.

Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của SĐ3 là 2 và 57, hai Lữ đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân + NQ và 8 Tiểu đoàn Pháo binh. Nhưng vì lệnh chỉ huy không thống nhất, giữa Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QÐ1) từ Ðà Nẵng và Chuẩn tướng Vũ Văn Gian (Tư lệnh SĐ3BB) tại chiến trường, khiến cho tình thế đã không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp các mặt trận. Cuối cùng Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích, đã ban lệnh di tản.

Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất vì mưa pháo, TĐ3TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và Biệt Ðộng Quân ra thay thế giữ bờ nam Ðông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cộng sản đã thảm bại khi trực chiến với TĐ6 TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỹ oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. Hai chiếc T54 khac bị bắt sống đem về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó, TĐ6 TQLC cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng Hoàng vào ngày 12-4.

Một cuộc hành quân đại quy mô do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy, mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày 14-4 với mục đích tái chiếm các căn cứ ở phía tây đã mất. Cùng lúc, cộng sản Bắc Việt đã mở ba cuộc tấn công lớn vào Ái Tử, Ðông Hà và căn cứ Anne ở phía nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt con đường huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Ðể chống lại âm mưu trên, tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5 chiến đoàn đặc nhiệm: Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Ðông Hà. Thiết đoàn 1 + 20 + 2 Lữ Ðoàn 4, 5 BĐQ do Ðại tá chỉ huy trưởng LĐ1 TG chỉ huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lữ đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Lòng tới bờ tây sông Thạch Hãn, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố. Cuối cùng là Liên Ðoàn I BĐQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ con đường huyết mạch từ Quảng trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LĐ5 BĐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiên tính đến ngày 18-4, các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững được các vị trí chịu trách nhiệm.

Ngày 22-4, Lữ đoàn 147 TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LĐ 258 TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong đêm CS pháo kích làm nổ kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Ðà Nẵng tới. Nyày 23-4, bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Không quân và Hải pháo của Việt-Mỹ, cộng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả hai phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.

Trong lúc đó gần tháng qua, người lính Miền Nam các cấp, từ TQLC, BĐQ, Thiết Giáp, Bộ Binh, DPQ + NQ... ngày đêm thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng dưới giao thông hào, chịu pháo, chịu đạn giữa trời mưa gió. Cùng lúc khắp các nẽo đường Quảng Trị, đồng bào chiến nạn gục chết thê thảm bởi cảnh pháo kích bừa bãi của bộ đội Bắc Việt. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai sau An Lộc tỉnh Bình Long cũng đang bị CS tấn công vây khổn.

Ngày 27-4, tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh, Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tỵ nạn thay vì tập trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tỵ nạn, gây cảnh hỗn loạn trên quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SĐ3BB cũng là đầu não chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.

Ðúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của đích, cánh quân của Liên Ðoàn 5BĐQ và Thiết Ðoàn 20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng bị pháo 130 ly của cộng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác 105, 155 ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân còn lại của LĐ4,5 BĐQ, LĐ 1 Thiết kỵ và Trung Ðoàn 57 BB, phải lui về phòng thủ căn cứ Ái Tử và thành phố Quảng Trị.

Ngày 29-4, lúc 2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị. Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hãn phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngũ, để chạy theo gia đình đang di tản về Huế.

Quốc lộ số 1 đã bị cộng sản đóng chốt nhiều đoạn, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngõ để quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu hồng, mà bia miệng và sử liệu gọi là Ðại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.

3. Rút bỏ Quảng Trị

Ngày 30-4, tư lệnh chiến trường kiêm tư lệnh SĐ3 BB là chuẩn tướng Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng, để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó, trong cuộc lui quân, LĐ 147TQLC và TĐ2 Pháo binh/TQLC, với quân số trên 2000 người, khi quân qua cầu Thạch Hãn thì cầu bị xập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ, đại bác và quân trang dụng phải bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cộng sản.

Lúc đó Lữ đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ, giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị. Ðồng thời phải giải tỏa quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cộng sản chiếm và đóng chốt, nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa quốc lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Ðây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt, tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẩn, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.

Ngày 1-5-1972, tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá.

Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc phòng điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh SĐ3BB, đã viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối cùng tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40‘ cùng ngày. Cổ thành Ðinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp 100 lân thị xã An Lộc, bị bỏ ngõ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.

Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1, 4 Biệt động quân và các đơn vị của SĐ3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau khi lãnh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưỡng chiếm.

Nhưng sau đó giặc từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể cả đặc công, đã hoàn toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chanh, bởi Lữ Ðoàn 369 Thủy quân lục chiến, do Ðại tá Phạm Văn Chung chỉ huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, với vị Tư lệnh mới là Trung tướng Ngô Quang Trướng (thay tướng Hoàng Xuân Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó cổ thành Đinh Công Tráng cũng được hoàn toàn giải phóng, vào đêm 14-9-1972, khi người lính của Ðại Ðội 3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, của Quốc Dân VNCH trên kỳ đài. Những tên bộ đội cuối cùng của Trung đoàn 48 cộng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hản, sau 82 ngày bám trụ.

4. Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến 1972

Ðầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ mới với việc tổng thống Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa đàm tại Ba Lê giữa Mỹ và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến, do trí thức, báo chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang dân cao, còn quốc hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt bỏ quyền của tổng thống Nixon, đối với sự tham chiến tại VN. Cuối cùng quân Mỹ và Ðồng Minh rút hết về nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và quân trạng dụng. Ðó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt tuyến tấn công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972 để dành ưu thế trên bàn hội nghị Ba Lê sắp tới.

Nhưng dù đã được Nga-Tàu quân viện và bán chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55, PT76, đại bác 130,155 ly, súng phòng không 23, 57 và hoả tiễn tầm nhiệt SA 7 (nợ chiến phí này ngày nay VC đem đất đảo biển VN trả nợ cho Tàu đỏ. Cho mướn Cam Ranh và liên doan khai thác dâù hoa với Nga Sô để trả nợ). Ðồng thời xử dụng hết số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136.400 người, bất thần mở cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH. Y chang như trận Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt chỉ thắng lợi lúc ban, sau đó đại bại hầu hết trên khắp các mặt trận, cho dù đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã xử dụng binh pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của đại pháo, xe tăng và biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.

Ðối với Hoa Kỳ khi nhận được tin Bắc Việt vượt vỹ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền Nam. Tổng thống Nixon họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép Hải Không Quân Hoa Kỳ trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Nhưng bộ binh không được tham dự, đồng thời cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục.

Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không mẫu hạm Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng cường cho hai Hàng không mẫu hạm Corral Sea và Hancook, cùng một số lớn tàu tuần duyên, khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về Không Quân, từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 chiến thuật, cùng với 3 phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Ðồng thời tất cả B52 tại hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38 chiếc cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng thống Nixon còn ra lệnh vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1, tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội, Hải Phòng. Ðồng thời thả mìn và thủy lôi, phong tỏa các cửa sông, cửa biển của Bắc Việt, ngăn chận các tàu thuyền của Nga, Tàu và các nước Ðông Âu, tiếp tế vũ khí đạn dược, cho cộng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo dài trong 11 ngày đêm, từ 18/12 đến 29-121972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà Nội phải trở lại bàn hội nghị tại Ba Lê với Mỹ.

Theo J.Pimlott trong tác phẩm Vietnam The Decisive Battles, thì cuối tháng 9-1972, cộng sản Bắc Việt thương vong khoảng 100.000 người. Riêng VNCH, đồng bào và lính chết chừng 50.000 người. Nhưng theo W.H Morrison trong The Elephant & The Tiger thì cộng sản Bắc Việt chẳng những đã thất bại về quân sự, mà còn không đạt được mục tiêu chính là dành dân chiếm đất, trừ tỉnh Quảng Trị bị tạm chiếm trong lúc đầu. Tướng Võ Nguyên Giáp bại trận và danh liệt từ đó cho đến ngày nay, vì đã lầm lẫn khi hoạch địch kế hoạnh tấn công. Không biết xử dụng nhị thức ‘Thiết giáp-bộ binh‘ như các tướng lãnh VNCH lừng danh: cố đại tướng Ðỗ Cao Trí, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn và Chuẩn tướng Trần Quang Khôi. Ðã đánh giá sai lầm tinh thần chiến đấu của QLVNCH, dù đã bị đánh lén cũng như bị thua thiệt về hỏa lực. Sau hết là ảo tưởng rằng khi bộ đội đến đâu, dân miền Nam sẽ đồng khởi, lật đổ chính quyền. Nhưng mọi sự hoàn toàn trái ngược, vì cộng sản tới đâu, dân miền Nam bỏ chạy tới đó, do trên bộ đội tức giận, thẳng tay bắn giết đồng bào mà chúng gọi là nguỵ dân.

Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn bộ binh bị tan hàng. Ðó là SĐ22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SĐ3BB tại Quảng Trị. Nhưng sự tan hàng và cung cách hành xử của hai tư lệnh sư đoàn trên, cũng khác biệt. Tại Kontum, lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972, cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, do SĐ22BB trấn giữ. Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, tư lệnh của SĐ, đã từ chối lời mời của Ðại tá cố vấn Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu của cố vấn Mỹ tại QĐII là Paul Vann. Ông cũng không cầu cứu với Tướng Ngô Du, Tư lệnh Quân Ðoàn, chịu ở lại, để cùng chết với binh sĩ của SĐ22BB. Riêng SĐ3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại hai Trung đoàn 56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn và bỏ chạy. Còn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh SĐ, hứa ở lại để cùng di tản bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng để di tản với cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày 1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của Bộ Tư Lệnh và Ðại Ðội Tổng Hành Dinh của SĐ3BB, như rắn mất đầu, phải chạy theo Thiết Ðoàn 18 về Huế.

Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ, như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH, thì người Mỹ lại dở trò chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khôn lại càng tận tuyệt. Theo Turley trong The Easter Offensive, thì việc Bộ tư lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ vào vùng phi quân sự, tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm vi đường kính 27 km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Ðại Tá Hoa Kỳ, bị hỏa tiễn Sam, của cộng quan bắn hạ tại vùng Cam Lộ.

Lệnh này được thi hành suốt 12 ngày đầu của trận chiến vùng hỏa tuyến, tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn, khi di chuyển qua vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc vây khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố vấn, rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL / SĐ3BB phải cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật. Ðó là tất cả những chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải chua xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.

Sau hết là cái tình yêu thương giữa đồng bào và người lính trận trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cách trọn vẹn, qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này, những chỗ không bao giớ có bóng dáng các vị trí thức, giáo sư, nhà báo, ký giả đi ăn mày hay nhà văn nhà thơ gì gì đó, mà chỉ có người dân cùng người lính chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng hoảng tinh thần.

Trong thảm tuyệt tận cùng này, người quốc gia từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của QLVNCH, ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng mình, để đem lại sự bình an hạnh phúc cho hậu phương mà hận nhất là phải bảo vệ mạng sống cỏ rơm cho tên ký sinh trùng ‘Trịnh Công Sơn‘ phản tặc và phản chiến, đâm sau lưng nười lính người dân bằng những ca khúc được vót nhọn bằng mã tấu dao găm chữ nghĩa.

Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như chính bản thân mình. Những khẩu phần lương khô ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh , đều là những viên thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với tình đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.

Trần Ðức, một người lính nhẩy dù, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Ðại Lộ Kinh Hoàng, đã không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóe.

Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm đạn giặc.

Ðó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng cối 61 lý và B40 .Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công “Mùa Hè Dỏ Lửa năm 1972” ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cộng sản Bắc Việt.

Ðoạn đường mang tên “Đại Lộ Kinh Hoàng” nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5- 1975, đất nước đắm chìm trong tù gông nô lệ cũa thực dân VC, vì vậy hằng năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ.

Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ được là 30 năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ. Vào ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị, mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xẹ Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Dỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.

Mới đây báo đảng lại la ó lên vụ lính Mỹ thảm sát đồng bào Bắc Hàn trong chiến tranh Triều Tiên năm 1950. Báo viết lính Mỹ gài mìn hai bên cầu Nogunri, để làm chậm đà tiến quân Bắc Cao. Sau đó vì hốt hoảng hay lý do nào khác, khiến lính Mỹ hạ sát hằng trăm người tỵ nạn đang trốn dưới vòm cầu. Bài viết rất mơ hồ, khi chỉ nghe mờ mịt và đang trong vòng tranh cãi.

Khi viết tin trên, không biết VC có khi nào sám hối về những hành động bắn giết đồng bào mình, trong cuộc chiến vừa qua và sau đó cứ tiếp tục tàn sát cho tới nay vẫn chưa dừng tay. Ðau đớn và nhục nhã nhất là VC lúc nào cũng xua công an bộ đội tàn sát người dân vô tội khắp nước, trong khi đó thì qùyì mọp sát đất dâng biển bán đảo cho Tàu Ðỏ một cách đê hèn.

Nhưng đâu có gì lạ vì mang nợ thì phải trả nợ thế thôi.

Bởi vậy ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình và trên hết chỉ làm trò cười cho kẻ khác mà thôi. Ba chục năm máu lửa (1945-1975) chỉ vì trành dành quyền lực mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã tìm đủ mọi cách, trong đó bi thảm nhất là đem giang sơn gấm vóc Hồng Lạc để đánh đổi với Tàu đỏ để có súng đạn và phương tiện mang về giết hại đồng bào. Rồi cũng chỉ vì muốn bảo vệ chiếc ngai vàng đẵm máu, đảng CSVN lại cúi đầu nhắm mắt đem cẩm tú non sông Việt bán dần mòn cho giặc cướp phương Bắc. Trong khi đó vẫn thẳng tay tàn sát đồng bào mình.

Nghiệt ngã của Dân Tộc Việt là thế đó. Vậy mà còn nhiều tên việt gian tại hải ngoại cứ dững dưng ca tụng Hồ và đòi hòa hợp hoà giải với vòng ôm lớn cùng VC.

Mường Giang