Wednesday, May 28, 2014

TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG DÁM KIỆN TRUNG CỘNG RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ? - Sỹ Liên

TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG DÁM KIỆN TRUNG CỘNG RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ?

Sỹ Liên

Cộng sản Việt Nam chẳng khác gì đang ngậm phải một cục xương với thịt bầy nhầy, nuốt vô thì khó, nhả ra thì uổng. “Thà đành mất nước còn hơn mất đảng” (lời của TBT Nguyễn văn Linh). Để làm sáng tỏ vấn đề tại sao cộng sản Việt Nam không dám kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế như Phi Luật Tân, xin trở lại Hiệp định Genève năm 1954 là một hiệp định phân chia đất nước Việt nam ra thành 
hai miền Nam, Bắc. Từ vĩ tuyến 17 chạy về phía Bắc thuộc về chánh phủ cộng sản. Phía nam vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, Phú Quốc thuộc về chánh phủ quốc gia. Do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở về phía nam vĩ tuyến 17 là thuộc về lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà, được quốc tế công nhận điều đó quá dĩ nhiên mà ai cũng biết. Ngay thủ tướng của Trung cộng là Chu Ân Lai cũng phó thự vào hiệp định 1954, có nghĩa là đã hàm ý thừa nhận. Lấy vĩ tuyến 17 để chia đôi đất nước ra làm hai miền Nam, Bắc cũng do chính Chu Ân Lai đề nghị. Nhưng ngặt một nỗi bọn u mê Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Bắc bộ phủ của chúng lại quá khiếp nhược, hèn hạ, muốn lập công đền ơn, đáp nghĩa với bọn quan thầy của chúng lại quá vội vã khi bọn tàu khựa đưa ra thông báo thiềm lục địa của chúng bao gồm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào ngày 1 tháng 9 năm 1958. Thì chỉ có 13 ngày sau. Tức là vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Bộ chánh tri trung ương đảng, “hồ hỡi, phấn khởi” mà đại diện là Phạm văn Đồng ký quyết định (Công hàm gọi theo cộng sản) bán nước cho Tàu cộng vào ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Bây giờ Cộng Sản Việt Nam hả miệng thí mắc quai. Giấy tờ sờ đó thì làm sao mà chối cải được, trưng ra bằng chứng lịch sử thì có từ đời vua Gia Long và Minh Mạng, nhà vua có thành lập đội Hoàng Sa từ lâu rồi, . Chọn những người tình nguyện ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi để làm lính đi giữ đảo. Nên dân Quảng Ngãi và Lý Sơn có câu hò:
Hoàng Sa đi dễ, khó về
Ra đi thì có người về thì không.
Nhưng bọn Tàu cộng cũng không kém gì, Sau khi chiếm được Hoàng Sa năm 1974. Vì chánh phủ VNCH mắc bận giữ gìn an ninh cho dân chúng trong đất liền, chống lại bọn đầu khấu Việt cộng xâm lăng, răng đen mã tấu nên hủy bỏ lịnh hành quân tái chiếm lại đảo Hoàng sa. Nên Tàu cộng có cơ hội, di chuyển một số hài cốt có từ mấy trăm năm về trước trong đất liền của họ ra chôn trên đảo Hoàng Sa để chúng nó nói đảo Hoàng Sa là của chúng, dân của chúng đã có mặt ở đó lâu đời rồi. Bây giờ muốn kiện Cộng sản Tàu ra toà án quốc tế thì Việt Nam phải làm sao?

A. Dùng Luật Biển 1982

Nếu căn cứ vào luật biển năm 1982 ký tại xứ Chùa tháp (Phnom Penh) năm 1982 chưa chắc đã thành công? Vì luật nầy không có tính cách bắt bưộc hay cưỡng chế. Trên thực tế chỉ áp dụng cho những quốc gia nhỏ hoặc ngang hàng với nhau mới có hiệu lực mà thôi. Hay bị một quốc gia lớn kiện một gia nhỏ mà quốc gia nhỏ thua kiện thì chắc chắn có hiệu lực. Trái lại quốc gia lớn thua kiện thì coi như không, nếu họ không muốn thi hành. Vì luật 1982 chỉ là để tượng trưng mà thôi. Đòi hỏi ở lòng tự giác của mỗi quốc gia hơn là tính chất pháp lý cưỡng chế bắt buộc. Nếu một quốc nhỏ đi kiện một quốc gia lớn, dù toà án xử như thế nào mà họ không thi hành thì cũng đành phải chịu. Không thể nào chế tài họ được, như con kiến đi kiện củ khoai vậy. Luật biển 1982 không có tính chất quyền hồi tối. Còn công hàm của Phạm văn Đồng ký công nhận chủ quyền của Tàu cộng ký vào năm 1958 đã trở thành quá khứ rồi. Nghĩa là trước khi luật biến 1982 ra đời đến 24 năm. Hiện nay Hoa Kỳ cũng chưa phó thự vào luật nầy. Vì Hoa kỳ rất khôn, Hoa Kỳ không ký vào luật nầy. Vì luật nầy giới hạn lãnh hải của mỗi quốc từ đất liền ra biển là 200 hải lý. Còn các đảo thì từ bờ biển ra chỉ có 12 hải lý mà thôi.

Tại sao Hoa Kỳ không chịu ký vào luật biển 1982, vì Hoa kỳ có rất nhiều đảo trong Thái Bình Dương, có nhiều đảo cách xa đất liền hơn 5,7 trăm dặm. Như Hawaii, Hoholulu ... và nhiều đảo khác nữa. Nếu Hoa Kỳ ký vào luật biển 1982 Vô tình Hoa kỳ cho phép các tàu chiến của các quốc gia khác hay thù địch lân la gần các hòn đảo của Hoa Kỳ, chỉ cách 13, 14 hải lý thì Hoa Kỳ không có quyền đuổi họ đi vì họ nại ra luật biển 1982 thì Hoa Kỳ lấy đâu mà tranh luận với họ. Hoa Kỳ không ký vào luật biển 1982 là một sự khôn ngoan có tính toán.

B. Muốn Kiện Trung Cộng Phải Trở Lại Hiệp Định Genève 1954

Muốn trở lại hiệp định Genève thì Việt cộng phải công nhận Việt Nam Cộng Hoà là một thực thể, một chánh phủ hợp pháp, không còn là Ngụy quân, Ngụy quyền nữa. Hơn nữa VNCH là một quốc gia thật sự có lãnh thổ, có dân tộc, có chánh quyền đó là ba yếu tố căn bản để cấu thành một quốc gia. Trước năn 1975 VNCH đã được các nước tự do, dân chủ trên khắp thế giới cộng nhận, có toà dại sứ nhiều nơi trong khối các quốc gia tự do. Ngoại trừ các nước cộng sản.

Hiệp định Genève mới thể hiện được Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của VNCH vì nằm về phía nam vĩ tuyến 17. Không ai có quyền chối cãi hay tự tiện lấy đất của nước VNCH đem cho nước khác là Trung cộng. Đó là một hành vi bất hợp pháp. Mang tội trộm cắp, đồng lõa cho cả người nhận và lẫn người cho. Tại sao Việt Nam không dùng lý lẽ nầy để giành phần thắng cuộc về mình trước toà án quốc tế? Việt cộng còn sợ sệt ngại ngùng và cũng dư biết. Làm như vậy là phải công nhận VNCH là quốc gia độc lập có chủ quyền về đất đai, lãnh thổ trên đất liền và ngoài biển cả trên thềm lục địa của Việt Nam. Vì vậy Việt cộng còn sợ bị kẹt vào hiệp định Paris năm 1973. Đối với Việt cộng hiệp định Paris là con dao hai lưỡi. Nếu công khai nhận VNCH là một quốc gia thực thể trước quốc tế như trên đã nói. Họ sợ, họ có thể bị nhân dân VNCH kiện họ ra toà án quốc tế vì họ vi phạm hiệp định nầy bởi họ dùng vũ lực để xâm chiếm miền Nam vào ngày 30/4/75. Trong hiệp định nầy qui định ngưng bắn tại chỗ trong thế da beo. Ai chiếm được chỗ nào sẽ ở yên chỗ đó. Không được phép dùng vũ lực để xâm chiếm lẫn nhau. Giai đoạn đầu các phe sẽ hiệp thương với nhau. Sau đó sẽ đi đến thống nhất đất nước qua một cuộc trưng cầu dân ý, phổ thông đầu phiếu. Không được quyền dùng vũ lực. Hoa Kỳ sẽ viện trợ 2 tỷ Mỹ kim để xây dựng lại đất nước. Sau khi đất nước thống nhứt qua một cuộc bầu cử dân chủ. Nhưng Cộng sản không tuân hành hiệp định, dùng vũ lực để chiếm miền Nam. Nên Mỹ không đồng ý viện trợ 2 tỷ Mỹ kim cho Việt Nam là như vậy. Mặc tình cho Việt cộng cứ nài nỉ van xin.

Kiện Trung cộng ra toà án quốc tế thì đúng trên lý thuyết. Nhưng về phía nhân dân của nước VNCH có thể kiện chánh phủ cộng sản ra toà án quốc tế để đòi lại sự công bằng và bắt họ thi hành hiệp định Paris, năm 1973. Cộng sản phải rút vế miền bắc vĩ tuyến 17, giao lại miền Nam cho nhân đân miền Nam quản trị. Cộng sản đã thừa biết điều đó. Họ có muốn làm điều đó hay không là do lòng yêu nước của họ. Họ có dám hy sinh quyền lợi đảng phái, phe nhóm của họ để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ của tô tiên ngàn đời truyền lại cho cháu con hay không? Hay họ chỉ biết “thà mất nước còn hơn mất đảng.” Nếu họ không sớm thức tỉnh xoá bỏ chế độ đảng trị. Thành lập chế độ đa đảng, từ bỏ 4 tốt, 16 chữ vàng, tình hữu nghị với Trung cộng như Miến điện. Ban giao với Hoa Kỳ mật thiết thì những đoàn thể quốc gia ở hải ngoại chắc chắn sẽ bỏ qua quá khứ mà giúp họ cả tấm lòng để giải trừ tai hoạ do bọn bành trướng Bắc kinh gây ra cho dân tộc Việt Nam được trường tồn mãi mãi và lãnh thổ được vẹn toàn. Lịch sử sẽ ca ngợi họ. Còn nếu không thì họ sẽ trở thành tội đồ của lịch sử..

C. Có Nên kiện Trung Cộng Ra Toà Án Hay Không?

Có nên kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế hay không? Nên lắm chớ, kiện để giành chánh nghĩa về mình. Để cho các nước văn minh, tiến bộ tự do trên thế giới chú ý về hành động gây hấn, phi pháp của Trung công mà tiếp tay lên án và chận bớt sự hung hăng của họ đối các nước nhỏ ơ Đông Nam Á. Nhưng kiện họ thì nên kiện ở toà nào? Hiện nay trên thế giới có hai toà án. Đó là toà án La Hay và toà án quốc tế. Vậy ta nên kiện ở toà nào hay cả hai?

1. Toà Án La Hay. Nếu kiện Trung cộng ở toà nầy thì hơi khó khăn chưa chắc họ chấp nhận đơn kiện cáo của Việt Nam. Vì họ đòi hỏi những giấy tờ thủ tục khó khăn, Chưa chắc họ nhận đơn của Việt Nam.

2. Toà Án Quốc Tế. Kiện Trung cộng ra toà án quốc tế như Phi Luật Tân thì tiện hơn. Vì toà án nầy thủ tục dễ dàng. Nhưng ngày họ nhận đơn cho đến ngày ra phiên xử đầu tiên thời gian kéo dài tối thiểu cũng một vài năm.

D. Cái Lợi Và Cái Hại Khi Kiện Trung Quốc Ra Toà

1. Nếu Trung cộng thua. Việt Nam thắng kiện. Việt Nam sẽ giành được phần chánh nghĩa về mình. Trên thực tế Trung cộng không thi hành và chấp nhận bản án do toà án phán quyết thì sao? Ai làm gì được họ, có cách nào chế tài họ được hay không? Nên nhà cầm quyền Việt Nam phải suy xét cho tường tận.

2. Nếu chẳng may Trung Cộng thắng kiện thì sao? Việt Nam sẽ mất Hoàng Sa, Trường Sa cùng vùng lãnh hải của Việt Nam nằm trong vòng lưỡi bò của họ vĩnh viễn không còn lý cớ nào đòi lại được nữa. Một chính sách ngu dân, độc tài đưa đến một tai hại vô cùng cho dân tộc Việt Nam phải gánh chịu. Vậy mà họ cứ cái gì cũng để cho đảng lo. Đảng lo là như vậy hả?

E. CHỈ CÓ MỘT PHƯƠNG PHÁP DUY NHẤT ĐỂ ĐƯA VIỆT NAM RA KHỎI SỰ XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG

Cái hay nhất mà chánh quyền Việt Nam phải áp dụng để cứu nguy cho đất nước thoát khỏi hoạ xâm lăng của Trung cộng là giải thể chế độ độc đảng. Thành lập chế độ đa đảng, đa nguyên giải tán đảng cộng sản. Sửa lại hiến pháp,bỏ điều 4. Theo chế độ tự do. Cho toàn dân, các đảng phái chánh tri hoạt động tự do, công khai, có đủ quyền ra ứng cử, bầu cử để cùng nhau gánh vác việc nước. Báo chí phải được tự do bày tỏ lập trường trong vai trò ngôn luận, truyền thông của mình. Thiết lập bang giao mật thiết với các nước tự do và Hoa Kỳ. Mở cửa hải cảng Cam Ranh, cho tàu chiến của đồng minh và Mỹ ra vào thăm viếng. Cho phép hải quân Hoa Kỳ lập căn cứ tại đó. Đồng thời vận động với chánh phủ Hoa Kỳ ký hiệp ước quân sự hỗ tương lẫn nhau khi bị nước ngoài xâm chiếm lãnh hải và đất liền của Việt Nam. Chỉ có cường quốc số 1 trên thế giới là Hoa Kỳ mới có đủ sức về quân sự, chánh tri, kinh tế để cứu Việt Nam thoát hoạ xâm lăng của Trung cộng ngay bây giờ mà thôi. Mong bộ chánh trị, trung ương đảng cộng sản thức tỉnh sớm, đã muộn rồi.

Quý vị đừng lo hoặc sợ sệt. Tài sản của quý vị được bảo đảm, không bị mất. Con cái, gia đình được bảo vệ an ninh hạnh phúc, mọi việc sẽ bỏ qua. Hứa với quý vị một cách chân thành không ai trả oán, trả thù. Nếu chính quý vị và con cái quý có tài, có lòng yêu nước thật sự sẽ được ưu tiên đãi ngộ, bổ nhiệm vào các vụ công quyền hợp với khả năng con cái của quý vị và ngay cả quý vị nữa. Quý vị hãy sớm thức tỉnh, chớ ngại ngùng, chần chờ nữa, nên làm theo lòng dân, các vị sẽ không bị thiệt thòi chi cả. Đừng để đến khi toàn dân nổi dậy, tức nước vỡ bờ như kiểu Đông Âu, các vị có ăn năn thì cũng đã quá muộn. Đây tất cả là lời thành thật mong quý vị sớm thức tỉnh.

Sỹ Liên



Tuesday, May 27, 2014

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam

Công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là vết thương rỉ máu của Việt Nam
Giống như bao nhiêu lần trước, cứ mỗi khi Hà Nội có đủ bạo dạn để phản đối mạnh bước chân xâm lấn của Trung Quốc thì Bắc Kinh lại lôi ra cái túi gấm cố hữu.

Vào ngày 20/5/2014, để đáp lại các phản đối ồ ạt quanh việc Trung Cộng kéo giàn khoan 981 vào thềm lục địa Việt Nam, ông Lưu Hồng Dương, đại sứ Trung Quốc ở Indonesia đã tuyên bố trên báo Indonesia Jakarta Post rằng:

“Vị trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai. Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”

Thật vậy, trong hiện tình Biển Đông và trong suốt bao năm qua, công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản để Trung Cộng khẳng định cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi” của họ tại Biển Đông. Công hàm này còn làm khựng lại các ý định trong vùng Đông Nam Á muốn hợp tác với Việt Nam đem Trung Cộng ra tòa án quốc tế. Vì ngày nào chính nước chủ nhà còn thừa nhận Biển Đông thuộc Trung Cộng, thì việc kéo Việt Nam nhập bọn chỉ làm cho các lý cớ kiện tụng của họ yếu đi mà thôi.

Bắc Kinh biết rõ công hàm Phạm Văn Đồng là khúc xương khó nuốt của Hà Nội. Và càng nhìn Hà Nội loay hoay tránh né khúc xương đó, Bắc Kinh càng khai dụng để lấn tới. Cho đến nay, giới lãnh đạo đảng CSVN vẫn loay hoay tránh né bằng 2 cách rất vô ích sau đây:

Cách thứ nhất là cãi chày cãi cối qua miệng các quan chức như cựu trưởng ban biên giới Lê Công Phụng, cựu trưởng ban biên giới Trần Công Trục, và gần đây nhất là Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, vào ngày 23/5/2014. Lập luận của Ban Tuyên Giáo Trung Ương là: vì các chữ Hoàng Sa, Trường Sa không được nhắc tới trong bức công hàm nên không hề có chuyện thừa nhận 2 quần đảo đó là của Tàu. Hoặc bức công hàm chỉ thừa nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc tính từ bờ thôi chứ không nói tính từ bờ nào.

Đây là kiểu lý luận coi tất cả dân Việt Nam là người mù chữ. Nếu lý luận này đem ra trước quốc tế thì lại càng là trò diễu dở và làm lùn thêm mức uy tín vốn đã thấp của Hà Nội. Vì công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 tệ hơn thế nhiều. Nó thừa nhận nguyên cả vùng biển mà Trung Cộng tuyên bố chỉ 10 ngày trước là hải phận Tàu và còn ghi rõ Việt Nam "ghi nhận", "tán thành", và hứa sẽ "tôn trọng". Đó chính là đường lưỡi bò 9 vạch. Vùng biển này không chỉ bao trọn 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà còn bao luôn từ 70% đến 90% toàn vùng Biển Đông, tùy theo cách tính. Nguyên văn cốt lõi của bức công hàm Phạm Văn Đồng là:

"Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển."

Công luận quốc tế biết đọc và đã đọc trọn vẹn cả tuyên bố ngày 4/9/1958 của Bắc Kinh và công hàm ngày 14/9/1958 của Hà Nội. Vì vậy, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN phải bỏ hẳn những cố gắng vặn vẹo ý nghĩa văn bản này một cách vô ích. Chỉ có con đường duy nhất là phủ nhận giá trị của toàn bộ bản công hàm Phạm Văn Đồng.

Tuyên bố của Chu Ân Lai ngày 4/9/1958
(1958年9月4日全国人民代表大会常务委员会第100次会议通过 )
一九五八年九月四日全国人民代表大会常务委员会第一00次会议决定批准中华人民共和国政府关于领海的声明。
附:中华人民共和国政府关于领海的声明中华人民共和国政府宣布:
(一)中华人民共和国的领海宽度为十二海里(▲)。这项规定适用于中华人民共和国的一切领土,包括中国大陆及其沿海岛屿,和同大陆及其沿海岛屿隔有 公海的台湾及其周围各岛、澎湖列岛、东沙群岛、西沙群岛、中沙群岛、南沙群岛以及其他属于中国的岛屿。(二)中国大陆及其沿海岛屿的领海以连接大陆岸上和 沿海岸外缘岛屿上各基点之间的各直线为基线,从基线向外延伸十二海里(▲)的水域是中国的领海。在基线以内的水域,包括渤海湾、琼州海峡在内,都是中国的 内海。在基线以内的岛屿,包括东引岛、高登岛、马祖列岛、白犬列岛、鸟丘岛、大小金门岛、大担岛、二担岛、东▲岛在内,都是中国的内海岛屿。
(三)一切外国飞机和军用船舶,未经中华人民共和国政府的许可,不得进入中国的领海和领海上空。任何外国船舶在中国领海航行,必须遵守中华人民共和国政府的有关法令。
(四)以上(二)(三)两项规定的原则同样适用于台湾及其周围各岛、澎湖列岛、东沙群岛、西沙群岛、中沙群岛、南沙群岛以及其他属于中国的岛屿。台 湾和澎湖地区现在仍然被美国武力侵占,这是侵犯中华人民共和国领土完整和主权的非法行为。台湾和澎湖等地尚待收复,中华人民共和国政府有权采取一切适当的 方法,在适当的时候,收复这些地区,这是中国的内政,不容外国干涉。一九五八年九月四日于北京全国人民代表大会常务委员会
 Google translate:
 (Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Hội nghị lần thứ 100)

    
Tháng 4 , cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 1958 Nhân dân quyết định phê duyệt 00 báo cáo đầu tiên về lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân của chính phủ Trung Quốc .

    
Phụ lục: Tuyên bố về Cộng hòa Nhân dân Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc của Trung Quốc công bố lãnh hải của chính phủ :

    
(A) Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là chiều rộng của lãnh hải của mười hai hải lý (▲). Yêu cầu này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục và hải đảo và đất liền và các hải đảo trên vùng biển của Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Hoàng Sa trong cát, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc. (B) vào đất liền và ngoài khơi hòn đảo của Trung Quốc kết nối với các vùng lãnh hải đất liền ra bờ biển và dọc theo mỗi thẳng điểm cơ bản dòng mỗi trên bờ biển bên ngoài của hòn đảo giữa đường cơ sở, mở rộng ra bên ngoài từ đường cơ sở mười hai dặm biển (▲) vùng biển là vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trong vùng nước trong đường cơ sở, bao gồm vịnh Bột Hải, eo biển Qiongzhou, là biển nội địa của Trung Quốc. Ở các đảo trong đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, hạ cánh cao, quần đảo Mã Tổ, quần đảo chó trắng, chim Okajima, kích thước Jinmen Đảo, Tam Đảo, đảo Erdan, Đông ▲ Island, là đảo thuộc nội hải của Trung Quốc .

    
(C) tất cả các tàu và máy bay quân sự nước ngoài, mà không có sự cho phép của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sẽ có vùng lãnh hải của Trung Quốc và trên biển lãnh thổ. Bất cứ tàu bè nước ngoài trong vùng lãnh hải của Trung Quốc phải tuân thủ các luật và quy định có liên quan của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.

    
(D) ở trên (b) (c) của hai quy định của cùng một nguyên tắc áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Nam Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc. Đài Loan và Penghu hiện còn đang bận rộn với quân đội Hoa Kỳ, đó là vi phạm bất hợp pháp của toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Penghu đang chờ hồi phục, Cộng hòa Nhân dân Chính phủ Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích hợp, khi thích hợp, để phục hồi các khu vực này, đó là công việc nội bộ của Trung Quốc, không can thiệp nước ngoài. 04 Tháng Chín 1958 tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc của Hội nghị Bắc Kinh.
Cách thứ nhì là chỉ nói riêng với người Việt Nam. Nhà cầm quyền nay đã đưa ra đủ loại biện minh, như lý do gởi bản công hàm là vì thời điểm đó "có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc”; như bản công hàm đó "đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao"; như bản công hàm đó không có giá trị pháp lý vì 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc chính thể Việt Nam Cộng Hòa; như công hàm đó không có giá trị vì "chưa được Quốc hội thông qua" cũng như “Quốc hội Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”; v.v....

Tất cả các luận điểm đó là một bước tiến dài nếu nhìn lại các tuyên bố của thời trước và ngay sau 1975 của các lãnh đạo cao nhất đảng CSVN, như "Trung Quốc chỉ giữ các đảo giùm ta", hoặc "chẳng thà để Trung Quốc giữ còn hơn để các đảo nằm trong tay chính quyền ngụy",.... Nhưng các bước tiến đó vẫn hoàn toàn vô ích đối với chủ quyền đất nước ngày nào mà nhà cầm quyền Việt Nam chưa dám nói công khai những luận điểm đó trước thế giới.

Nói cách khác, đã đến lúc giới lãnh đạo CSVN đừng làm việc vừa thừa thãi vừa kỳ cục là cứ cố gắng thuyết phục người Việt Nam rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam trên mọi bình diện lịch sử, pháp lý, v.v... Tại sao cứ đòi tranh luận và thuyết phục những người ĐÃ đồng ý rồi. Có người Việt Nam nào còn ngờ vực điều đó đâu! Trong khi khối người cần nghe những điều đó một cách chính thức từ miệng nhà nước Việt Nam là thế giới bên ngoài, đặc biệt là các đầu lãnh tại Bắc Kinh, chứ không phải người Việt Nam!

Hiển nhiên ai cũng biết Hà Nội tránh né là vì đang lo sợ phản ứng của Bắc kinh một khi họ công khai phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng. Nhưng ngược lại, việc phủ nhận đó sẽ mở rộng con đường đưa Bắc kinh ra trước các tòa án quốc tế; mở rộng cửa cho các chính sách khác của Việt Nam để đối phó với đại họa Bắc Thuộc; chấm dứt cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược ngay trong nội bộ giới lãnh đạo đảng CSVN; và đặc biệt là ngưng vĩnh viễn cảnh trói tay các chiến sĩ Việt Nam làm bia bắn cho hải quân Tàu như thời Trường Sa 1988.

Không ai có thể làm công việc phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng thay cho các lãnh tụ đảng và nhà nước CSVN được, vì họ thừa nhậnchủ thể tiếp nối chính phủ VNDCCH từ thời ông Phạm Văn Đồngcũng tự nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất tại Việt Nam hiện nay.

Cửa sổ cơ hội cho lãnh đạo đảng CSVN chuyển hướng cũng không còn nhiều. Với vận tốc xâm lấn từ ngoài khơi đến sâu trong đất liền và tràn lan trên cả nước hiện nay, lằn mức "không cưỡng bánh xe xâm lược được nữa" đang đến rất gần.

Vấn đề còn lại là lãnh đạo đảng CSVN đã đủ can đảm để loại bỏ những kẻ thề thốt "không ăn ở hai lòng với Trung Quốc" ra khỏi hàng ngũ chưa? Đã nhận ra sự dại dột và từ giã chính sách "thà mất nước chứ không mất đảng" chưa? Vì một khi nước vừa mất thì kẻ mà Bắc Kinh truy diệt đầu tiên chắc chắn là đảng.

source: net



Sunday, May 25, 2014

Kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn cộng sản áp dụng mặt trận kinh tế để làm suy yếu ngụy quyền việt gian cộng sản Việt Nam


Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Sơn,
Cố Vấn của CĐ/NVQG/HK
Thưa quý vị,
Vài ngày trước đây, tôi có dịp trình bày suy tư của tôi về một phương cách khả thi để chúng ta có thể đánh bại Cộng sản Việt Nam.

Hôm nay, tôi xin khai triển ý nghĩ của tôi nhằm mục đích góp ý với quý vị trong việc đi tìm phương cách để đánh bại Công Sản Việt Nam.

Chúng tôi nhận định rằng chỉ có người dân trong nước mới có thể đánh đổ chính quyền csVN.

Tập thể những người Hoa Kỳ gốc Việt Nam và tập thể những người Úc, Pháp gốc ViệtNam thì chỉ

có thể yểm trợ cho những nỗ lực của người dân trong nước mà thôi.

Đặc biệt thì chúng ta cần phát triển nỗ lực đánh bại Cộng Sản bằng phương thức kinh tế là mặt trận

mà chúng ta có khả năng và có thực lực.

Theo thống kê của những nguồn đáng tin cậy thì hiện nay Tập thể người Hoa kỳ gốc Việt Nam và tập thể người Úc, người Pháp v.v. gốc Việt Nam đã tiếp tế trên mười tỷ bạc (10 billion US Dollars) cho csVN dưới nhiều hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt phải kể là:

Đem tiền về đầu tư ở Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Đi du lịch Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Gửi tiền cho thân nhên, bè bạn tại Việt Nam là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN.
  • Mua sản phẩm “Made in ViệtNam” là chúng ta tiếp tế ngoại tệ cho đảng csVN
Nếu chúng ta cắt được đường tiệp tế đó thì chúng ta sẽ gây được ảnh hưởng dây chuyền.

csVN sẽ bị túng quẫn, csVN phải tìm cách moi móc tài sản của người dân trong nước.

Vật giá sẽ leo thang. Tiện ích sẽ bị giảm thiểu. Cuộc sống sẽ bị khó khăn. Dân chúng sẽ phẫn nộ.

Từ đó người dân sẽ oán thù đảng csVN.

Người dân sẽ đứng lên đòi hỏi để thay đổi và lật đổ chính quyền.

Trước đây Tiến Sĩ Nguyễn Văn Lương đã có trình bày những ý kiến nầy.

Một vị sĩ quan cấp tướng cũng có lời kêu gọi bà con để cắt nguồn tiếp tế ngoại tệ nầy.

Nhưng, những lời kêu gọi đó không được bà con đáp ứng.

Con số ngọai tệ chui vào túi của đảng csVN tăng lên dần theo năm tháng.

Lần nầy chúng tôi muốn khai triển những lời kêu gọi trước đây, chúng tôi chỉ muốn kêu gọi đến lương tâm của mỗi người trong quý vị mà thôi.

Bí quyết là mỗi người trong Tập thể của chúng ta chỉ cần hứa với lương tâm của mình bốn điều:
a. Không đem tiền về đầu tư tại ViệtNam.
b. Không đi du lịch ViệtNam.
c. Không gửi tiền về ViệtNam.
d. Không mua sản phẩm sản xuất từ ViệtNam.
Khi đã tự hứa với lương tâm mình rồi tức là quý vị đã góp phần đắc lực để cắt giảm nguồn tiếp tế ngoại tệ cho Đảng CSVN. Sau đó, mỗi khi quý vị có nảy ra một ý định đầu tư hoặc du lịch ViệtNam, v.v... thì lương tâm của quý vị sẽ bị cắn rứt và lương tâm của quý vị sẽ là động lực ngăn cản để quý vị từ bỏ những ý định cung cấp ngoại tệ cho csVN đó đi.

Tôi tin rằng quý vị còn có lương tâm.
Hãy hứa với lương tâm mình đi nào.

Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Sơn




Saturday, May 24, 2014

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu Biểu Tình Chống Việt cộng Bán Nước, Chống Tàu cộng Xâm Lược

 
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu
Biểu Tình Chống Việt cộng Bán Nước, Chống Tàu cộng Xâm Lược
trước sứ quán Việt cộng tại
6 Timbarra Crescent, O'Malley, ACT, 2606
Thủ Đô Canberra Úc Châu
Ngày 24-5-2014


Trước sứ quán Tàu cộng tại Canberra,
15 Coronation Dr Yarralumla ACT.


Friday, May 23, 2014

US commander warns about China-Vietnam standoff

US commander warns about China-Vietnam standoff

By JIM GOMEZ
Associated Press

U.S. Pacific Command's Adm. Samuel J. Locklear III,
talks to the media following a session on "Security Outlook"
in the ongoing World Economic Forum on East Asia Friday, May 23, 2014
at the financial district of Makati city east of Manila, Philippines.
(AP Photo/Bullit Marquez)
MANILA, Philippines (AP) - The U.S. military commander in the Pacific warned Friday that the risk of a miscalculation that could trigger a wider conflict in a tense territorial standoff between China and Vietnam is high and urged both nations to exercise restraint.

Adm. Samuel Locklear also urged Southeast Asian nations and China to hasten the drafting of a legally binding “code of conduct” to prevent territorial rifts from turning into armed conflicts that could threaten the region’s bustling economies.

Southeast Asian diplomats have accused China of delaying the start of negotiations for such a nonaggression pact while it tries to consolidate its control of disputed territories.

Locklear said he was concerned about a three-week standoff between China and Vietnam near the disputed Paracel Islands and urged them to resolve the territorial conflicts on the basis of international law.

“I have serious concerns,” Locklear told reporters. “The risk of miscalculation, I think, is high and we encourage them both to exercise restraint.”

China raised the stakes earlier this month when it deployed an oil rig off in waters also claimed by Vietnam, which sent ships to try to disrupt the drilling operation. Street protests morphed into bloody anti-Chinese riots that damaged hundreds of factories.

Vietnamese Prime Minister Nguyen Tan Dung, who also attended an economic forum in Manila, told The Associated Press in written comments Thursday that “like all countries, Vietnam is considering various defense options, including legal actions in accordance with the international law.” But he said Vietnam would defend itself if it comes under attack.

Analysts have said that countries confronted by China in disputed waters, like Vietnam, may seek a deeper security alliance with Washington.

When asked by reporters about that possibility, Locklear said Washington has been forging such relationships and would welcome strategic ties with Hanoi.

“We look forward to exploring opportunities to expand our partnership with the nations such as Vietnam as well, but Vietnam is among many,” Locklear said.

Speaking to reporters on the sidelines of the World Economic Forum on East Asia, he said that the Asia-Pacific has become the most militarized region in the world, with some of the largest army and naval forces.

“How these forces are managed to create a fabric of security that allows economic success here has not yet been determined,” Locklear said.

Philippine Foreign Undersecretary Laura del Rosario said the drafting of a code of conduct has been so delayed that it could be overrun by developments in the South China Sea, where territorial spats have flared and become more complicated in recent years.

“We’re not acting fast enough and there are so many changes happening now,” she said.

China claims nearly all of the South China Sea, bringing it into conflict with the far smaller nations of Vietnam, the Philippines and three others that have rival claims. Beijing also has a territorial dispute with Japan over a cluster of islands in the East China Sea.

Last year, the Philippines filed a complaint against Beijing before an international tribunal in The Hague challenging the legality of its claims. Beijing wants one-on-one talks with each of its rival claimants, something that gives it an advantage due to its sheer size and power.

U.S. efforts to pivot back to Asia after years of heavy military engagement in the Middle East were not meant to curb China’s influence, Locklear said, suggesting Asian governments would treat China by its actions in the region.

“In my opinion, the only person that can contain China, is China,” Locklear said.




Tự thiêu trước Dinh Độc Lập Saigon ngày 23.5.2014

Bà Lê Thị Tuyết Mai, Gia Đình Phật tử GHPGVN Thống Nhất,
đã tự thiêu trước Dinh Độc Lập Saigon vào lúc 5h30 sáng ngày 23.5.2014
Theo nguồn tin mới nhận được, người phụ nữ tự thiêu trước Dinh Độc Lập vào lúc 5h30 sáng ngày 23/5/2014 là bà Lê Thị Tuyết Mai - một phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Bà Lê Thị Tuyết Mai, sinh năm 1947, pháp danh Đồnh Xuân hiện đang sống tại Bình Thạnh, Sài Gòn. Bà Mai hiện đang là Phó Trưởng ban Hướng dẫn Gia Đình Phật tử Miền Quảng Đức (Sài Gòn), đây là một đơn vị trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Nguyên nhân khiến bà Lê Thị Tuyết Mai tự thiêu là để "bảo vệ Đạo Pháp và Chủ quyền Dân Tộc". Tại hiện trường, nạn nhân để lại nhiều biểu ngữ có nội dung chống Trung Quốc xâm lược.
Vụ tự thiêu đã khiến bà Mai tử vong ngay tại chỗ và được đưa vào bệnh viện. Lực lượng CA sau đó đã phong tỏa hoàn toàn bệnh viện, không cho ai tiếp xúc với gia đình.