Friday, April 20, 2012

Tân Chính Khí Ca - Trần Gia Phụng

 Trần Gia Phụng

Chính khí ca là thi phẩm ca tụng sự tuẫn tiết của Hoàng Diệu khi Pháp đánh chiếm Hà Nội năm 1882. Tuẫn tiết là tự hủy thân xác và chết vì nghĩa lớn, vì lý tưởng mà mình theo đuổi. Nghĩa lớn nhất trong đời người là nghĩa đối với nhân loại, quốc gia, dân tộc. Tuẫn tiết là nét đặc thù của một số nước Đông Á như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản. Riêng Việt Nam, nhiều cuộc tuẫn tiết rất anh hùng đã diễn ra trong lịch sử, đặc biệt nhất vào năm 1975, khi chính thể Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.

1. TUẪN TIẾT QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

Không kể thời kỳ tiền sử, từ khi Ngô Quyền lập quốc sau chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 cho đến ngày nay, nước ta trải qua các chế độ quân chủ, quốc gia dân chủ và cộng sản. Nói theo ngôn ngữ chính trị, đó là ba ý thức hệ khác nhau: ý thức hệ quân chủ, ý thức hệ dân chủ và ý thức hệ cộng sản

Thời kỳ quân chủ: Các triều đại quân chủ cai trị nước ta từ thời nhà Ngô (939-965) đến thời nhà Nguyễn (1802-1945). Chế độ quân chủ dựa trên nền tảng Nho giáo, một triết lý chính trị hậu thuẫn mạnh mẽ cho chế độ quân chủ, theo đó vua là trung tâm quyền lực của xã hội, đứng đầu trong xã hội, trên cả cha mẹ (quân, sư, phụ). Đất đai là đất đai của vua. Cuộc sống của người dân do vua quyết định. Trung với nước là trung với vua và ngược lại trung với vua là trung với nước. Trung quân ái quốc là hai khái niệm song hành, hòa quyện nhau, tuy có khi khác nhau tùy hoàn cảnh.

Trong các cuộc tranh chấp quyền lực giữa các thế lực chính trị trong nước, tức tranh chấp nội bộ, ví dụ giữa nhà Trần với nhà Hồ, giữa nhà Lê với nhà Mạc, giữa họ Nguyễn (Tây Sơn) với họ Nguyễn (Phú Xuân), thì tinh thần trung quân được đề cao. Tuy nhiên, trong cuộc tranh đấu chống ngoại xâm, thì tinh thần ái quốc mới là chính. Ví dụ câu nói bất hủ của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ nước Nam, không thà làm vương đất Bắc”; hoặc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, những thanh niên, trí thức nhà Trần bỏ đất Bắc (có nhà hậu Trần), vào Thanh Hóa, gia nhập lực lượng kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi; hoặc vào thế kỷ 18, những quan lại nhà Lê giúp nhà Tây Sơn chống quân Thanh. Nói cho cùng, dưới thời quân chủ, quan niệm trung quân ái quốc vẫn đặt căn bản trên nền tảng dân tộc và lấy đất nước, dân tộc làm gốc.

Thời kỳ quốc gia dân chủ: Pháp bảo hộ nước ta năm 1884. Nền quân chủ thất bại. Dân chúng thất vọng, mất dần niềm tin vào triều đình, tinh thần trung quân bị phai lạt nhưng lòng ái quốc vẫn không giảm. Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp tiếp diễn khắp nơi.

Bên cạnh các phong trào võ trang chống Pháp, vào đầu thế kỷ 20, Phan Châu Trinh mở phong trào Duy tân, hô hào cải cách đất nước đồng thời kêu gọi phát huy dân chủ, dân quyền, nhằm tiến đến việc giành độc lập dân tộc. Theo Phan Châu Trinh, “dân đã biết có quyền thì việc khác có thể tính lần được”. Đây là mở đầu tiến trình vận động dân chủ tại nước ta.

Sau đó, tại Hà Nội, Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng Thư Xã tiến xa hơn, thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng tối 25 rạng 26-12-1927. Điều lệ đảng ghi rõ: “Mục đích và tôn chỉ của Đảng là làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hòa.” (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Sài Gòn 1970, tr. 33.) Nhiều đảng viên VNQDĐ đã hy sinh trong giai đoạn nầy mà cao điểm là Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí bị Pháp đưa lên máy chém tại Yên Bái ngày 17-6-1930. Mười ba nhân vật nầy là những anh hùng tuẫn tiết đầu tiên cho lý tưởng quốc gia dân tộc sau thời kỳ quân chủ.

Sau vụ Yên Bái, hoạt động của những nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc bị Pháp đàn áp và gặp nhiều khó khăn một thời gian, cho đến khi Pháp lúng túng trong thế chiến thứ hai và nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương bị Nhật Bản khống chế. Những đảng phái mới và những tên tuổi mới xuất hiện: Trương Tử Anh, Nguyễn Hữu Thanh (Lý Đông A), Nguyễn Tường Tam…

Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh (VM) và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp chính quyền ngày 2-9-1945, thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Khuynh hướng chính trị dân tộc lại bị CS đàn áp, khủng bố và tiêu diệt. Những người theo đường lối quốc gia dân tộc với lập trường tự do dân chủ bị dồn vào thế tranh đấu sống còn với VMCS. Họ muốn mưu cầu độc lập dân tộc, nhưng ở thế chẳng đặng đừng phải tạm thời liên kết với Pháp, tìm kiếm một giải pháp chính trị để chống cộng, vì hiểm họa cộng sản nguy hiểm hơn cho đất nước, cho tự do dân chủ và cho chính sinh mạng dân tộc.

Giải pháp chính trị đó là sự thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) theo Hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, thừa nhận Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Chính thể QGVN hoàn toàn đối lập với chính thể VNDCCH do đảng CS điều khiển. Từ đây, vươn lên mạnh mẽ tất cả những khuynh hướng chính trị theo chủ trương dân tộc, tôn trọng dân quyền, dân chủ tự do, chống lại chủ thuyết và chế độ cộng sản độc tài đảng trị theo quốc tế cộng sản.

Hiệp định Genève (20-7-1954) chia hai đất nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị). Miền Bắc, VNDCCH theo chủ nghĩa CS, do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản cai trị. Miền Nam là QGVN do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng và Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng. Ông Diệm thành lập Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955, theo chính thể dân chủ tự do.

Thời kỳ cộng sản: Tại Nga, sau cuộc cách mạng ngày 7-11-1917, đảng Cộng Sản lên nắm chính quyền. Ổn định xong tình hình trong nước, đảng CS Nga thành lập Cộng Hòa Liên bang Xô Viết (viết tắt là Liên Xô) cuối năm 1922, muốn bành trướng thế lực ra nước ngoài, cạnh tranh với các nước Tây phương, thành lập một đế quốc đỏ kiểu mới do CS thống trị, nên Liên Xô đưa ra chiêu bài giải phóng dân tộc, xúi giục các nước bị đô hộ (thuộc địa) nổi lên giành độc lập, rồi gia nhập khối Liên Xô. Hồ Chí Minh (lúc đó có tên là Nguyễn Ái Quốc), một gián điệp xuất thân từ Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở Moscow, được gởi qua Á Châu năm 1924 để thi hành sứ mạng nầy.

Trong khi VNQDĐ hoạt động ở trong nước, thì tại Hương Cảng, vâng lệnh Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS), ngày 6-1-1930, Hồ Chí Minh lúc đó có tên là Lý Thụy, đứng ra thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), đổi thành đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), và ngày thành lập cũng đổi thành 3-2-1930. Đảng CSĐD đổi tên thành đảng Lao Động năm 1951 và đảng Lao Động đổi trở lại thành đảng CSVN năm 1976. Tuy thay đổi nhiều danh xưng, nhưng chung quy đảng CSVN cũng chỉ là một đảng do ĐTQTCS thành lập, thi hành chủ nghĩa CS trên đất nước Việt Nam.

Hồ Chí Minh và đảng CS luôn luôn sử dụng chiêu bài dân tộc để hô hào và quy tụ quần chúng, nhưng tất cả những hoạt động của Hồ Chí Minh và đảng CS chỉ nhắm mục đích duy nhất là phục vụ đảng CS, phục vụ QTCS. Trong Đại hội lần thứ 2 đảng CSĐD từ 11 đến 19-2-1951 tại huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa: [chỉ Marx, Engels, Lénine]… Với chủ nghĩa như thế, với Ông thày, Ông anh như thế, với lòng trung thành và kiên quyết của nhân dân ta, của Đảng ta, nhất định chúng ta thắng lợi.” (Báo HỌC TẬP – Nội san đảng bộ Liên Khu Bốn (Chỉ lưu hành trong nội bộ), Số 35, năm thứ tư, tháng 4 – 1951, trang 1-8. Nguồn: Talawas, 28-9-2010.)

Sau đó, trên báo Tin Tức (Liên Xô) số đặc biệt ngày 1-7-1951, Hồ Chí Minh nhận rằng VNDCCH là một tiền đồn của chủ nghĩa cộng sản: “Như vậy là ở Đông Nam Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hòa bình toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (Hồ Chí Minh toàn tập tập 9, 1958-1959, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 309.)

Sau năm 1954, Hồ Chí Minh và đảng CS cai trị phía bắc vĩ tuyến 17, áp dụng nền kinh tế chỉ huy, thi hành Cải cách ruộng đất, đàn áp báo chí, thủ tiêu đối lập, đồng thời quyết định tiếp tục xâm lăng miền Nam Việt Nam, đưa ra chiêu bài mới là “chống Mỹ cứu nước”, vừa để bành trưóng quyền lực, vừa để cầm chân và làm cho Hoa Kỳ suy yếu, giúp Liên Xô và Trung Quốc rảnh tay bành trướng ở các nơi khác trong chiến tranh lạnh toàn cầu. Lê Duẫn, lúc đó là bí thư thứ nhất đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) đã tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422.)

Nói cách khác, CSVN không xuất phát từ dân tộc, lý thuyết CSVN không đặt căn bản trên nền tảng dân tộc, hoàn toàn mất gốc dân tộc, đặt quyền lợi của đảng CS và Quốc tế Cộng sản lên trên quyền lợi quốc gia, dân tộc. Rõ rệt nhất là lòng yêu nước của người cộng sản biến đổi mục tiêu theo khẩu hiệu do đảng CS đã đặt ra: “Yêu tổ quốc là yêu chủ nghĩa xã hội”. Người CS xem các lãnh tụ ngoại bang còn cao hơn cả cha mẹ mình: “Thương cha, thương mẹ, thương chồng,/Thương mình thương một, thương ông thương mười.” (Tố Hữu). Ngay cả Hồ Chí Minh, người sáng lập đảng CSVN, cho đến khi chết cũng không muốn trở về với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, mà chỉ muốn đi gặp các lãnh tụ cộng sản “…Vì vậy tôi để sẵn mấy lời nầy, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin và các vị c. m. đàn anh khác…” (Di chúc Hồ Chí Minh).

Do đó, chúng ta không lấy làm lạ nhà cầm quyền CSVN trong nước hiện nay thẳng tay đàn áp các cuộc biểu tình chống Trung Quốc cộng sản xâm lược; bắt giam, hành hạ, tù đày những người tham gia các cuộc biểu tình chỉ vì lòng yêu nước. Những đảng viên CSVN chỉ còn biết có đảng CS và vì quyền lợi của đảng CS. Bảng pa-nô lớn treo ở Hà Nội năm 2010 cho thấy đầy đủ lý tưởng của người cộng sản: CHỈ BIẾT CÒN ĐẢNG, CÒN MÌNH.

2. TUẪN TIẾT NĂM 1975

Hoàn cảnh: Sau năm 1954, Nam Việt Nam theo chính thể QGVN rồi VNCH, tồn tại trong 21 năm và bị Bắc Việt Nam cưỡng chiếm năm 1975. Dù bị hạn chế vì chiến tranh, chính thể Nam Việt Nam luôn luôn tôn trọng nền tự do dân chủ. Trong 21 năm nầy, lãnh đạo QGVN và VNCH ở tất cả các cấp có thể chia thành hai thế hệ kế tiếp nhau. Thứ nhất là thế hệ những người còn lại từ chế độ cũ. Thứ hai là thế hệ những người được đào tạo trong lòng chế độ mới ở trong nước.

Sau 1954 Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhưng lúc đầu những cán bộ, công chức chính phủ từ trung ương xuống tới địa phương, kể cả tổng thống Diệm, đều do Pháp đào tạo. Những chuyên viên như kỹ sư, bác sĩ, thậm chí cả những giáo chức đều xuất thân từ các trường Pháp. Các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp cũng từ quân đội Pháp. Vì vậy, trong thời Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam, cán bộ và chuyên viên thời kỳ nầy vẫn còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của Pháp, dầu không còn người Pháp.

Quốc trưởng Bảo Đại, và nhất là tổng thống Ngô Đình Diệm đã có công xây dựng những cơ sở đào tạo một lớp cán bộ, chuyên viên, cán sự mới cho miền Nam Việt Nam, như các trường sĩ quan Nam Định, Thủ Đức, Đà Lạt, trường Quốc Gia Hành Chánh, các trường chuyên nghiệp, các viện đại học, các trường sư phạm… Từ đây xuất thân một lớp công chức, quân nhân, cán bộ và chuyên viên hoàn toàn mới trong tinh thần quốc gia dân tộc.

Những người tốt nghiệp từ các trường nầy được bổ sung và thay thế dần dần các lớp đàn anh, học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm thực tế, rồi sau đó mới thực sự trưởng thành. Từ đầu thập niên 60, hầu như tất cả các ngành, kể cả quân đội, mới có những chuyên viên, những nhà lãnh đạo thực sự tốt nghiệp ở trong nước. Quân đội có những sĩ quan tinh nhuệ gốc từ các trưòng võ bị Nam Định, Thủ Đức, Đà Lạt. Bệnh viện thêm nhiều tân bác sĩ, cán sự y tế xuất thân từ Sài Gòn và Huế. Trường học do các giáo chức từ các trường sư phạm điều hành và giảng dạy. Mọi ngành nghề đều có những cán bộ, công chức lớn lên dưới chính thể Quốc Gia thời quốc trưởng Bảo Đại hoặc chính thể VNCH, được đào tạo ở trong nước, tin tưởng vào giá trị nhân bản và dân tộc, dân chủ của chế độ, làm việc và cọ xát với xã hội, thực sự gắn bó với chính thể, và chiến đấu hết mình nhằm bảo vệ nền tự do dân chủ của miền Nam Việt Nam. Chỉ tiếc một điều là khi thế hệ mới nầy thực sự làm chủ đất nước, chiến đấu vì nền tự do dân chủ của miền Nam Việt Nam, chưa kịp củng cố chế độ thì thời thế thay đổi, bàn cờ thế giới xoay chiều, nên quân dân miền Nam đành buông súng.

Những cuộc tuẫn tiết: Ngày 30-4-1975, trong khi Quốc tế cộng sản hậu thuẫn cho quân đội cộng sản Bắc Việt tấn công miền Nam Việt Nam thì miền Nam Việt Nam bị Đồng minh bỏ rơi. Chính thể VNCH sụp đổ. Rất nhiều người đã tuẫn tiết. Tuẫn tiết ngay ngày 30-4-1975 hay tuẫn tiết âm thầm trong các trại tù cộng sản trên rừng thiêng nước độc. Càng ngày người ta càng phát hiện những anh hùng vô danh tuẫn tiết sau ngày 30-4-1975.

Nhận xét thứ nhất, những người tuẫn tiết là những nhân vật trung nghĩa với chính thể VNCH, can trường, dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao, lấy cái chết để đền nợ nước non, vì tự cảm thấy không đủ sức bảo vệ nền dân chủ tự do son trẻ của miền Nam Việt Nam. Hầu như toàn thể những người tuẫn tiết ngày 30-4-1975 và ở trong các trại tù cộng sản đều thuộc vào thế hệ những người đã được đào tạo dưới chính thể QGVN và VNCH, tận lực chiến đấu để bảo vệ miền Nam Việt Nam, bảo vệ lý tưởng dân tộc, tự do dân chủ của chính thể Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.

Nhìn vào lịch sử, chưa có thời kỳ nào, chưa có chế độ nào sụp đổ mà những người tuẫn tiết nhiều như thời kỳ 1975. Cũng nhìn vào lịch sử, chưa có thời kỳ nào, chưa có chế độ nào mà những người tuẫn tiết đa dạng như thế. Dưới chế độ quân chủ, chỉ có một số ít, rất ít các tướng lãnh và quan lại cao cấp hy sinh vì lòng trung quân ái quốc. Với chủ nghĩa cộng sản, chỉ những thường dân hay binh sĩ cấp nhỏ bị nhồi sọ và bị lừa phỉnh nên đã hy sinh hoặc bị làm vật hy sinh cho đảng CS và cho các lãnh tụ đảng CS. Đàng nầy, chính thể VNCH sụp đổ, không ai bắt họ tuẫn tiết, nhưng họ vẫn nhất quyết hy sinh. Những người tuẫn tiết năm 1975 không phải chỉ có hàng tướng lãnh, mà rất nhiều sĩ quan trung cấp và binh sĩ tuẫn tiết. Còn có một số quân nhân tuẫn tiết tập thể. Những anh hùng nầy tự nguyện tuẫn tiết vì lý tưởng tự do dân chủ VNCH chứ không vì một cá nhân nào cả.

Khi quyết định khởi nghĩa năm 1930, dầu trong thế yếu, Nguyễn Thái Học đã khuyến khích đồng đội: “Không thành công thì thành nhân.” Câu nầy bắt nguồn từ ý nghĩa của thành ngữ chữ Nho: “Sát thân thành nhân”, nghĩa là chịu chết (tự giết mình) để hoàn thành đạo “nhân”, tức đạo làm người, xem đạo làm người lớn hơn thân mình.

Những người tuẫn tiết năm 1975 đúng là những người “sát thân thành nhân”, thực hiện đạo làm người đối với dân tộc, tận trung báo quốc. Chẳng những thế, những anh hùng tuẫn tiết năm 1975 còn tự sát thân để phản đối chế độ CS diệt chủng, phi nhân, báo động cho toàn thể nhân loại nguy cơ CS trên thế giới. Mãi đến hơn 30 năm sau, ngày 25-1-2006, Quốc hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp) với đa số áp đảo, 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, mới đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể. Nghị quyết nầy càng làm sáng tỏ và tăng giá trị những anh hùng tuẫn tiết ở miền Nam Việt Nam năm 1975.

Vai trò lịch sử: Chủ nghĩa dân tộc bị người Pháp đàn áp và bị cộng sản quốc tế đánh phá, bắt đầu được phục hồi với dưới các chính thể QGVN và VNCH, lại bị CS chôn vùi lần nữa vào năm 1975.

Những anh hùng tuẫn tiết năm 1975 thuộc thế hệ lớn lên và đào tạo thời QGVN và VNCH, chính là kết quả của nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam là nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng, lấy con người làm trọng, theo truyền thống văn hóa dân tộc, không có tính cách giáo điều hay nhồi sọ bất cứ lý thuyết chính trị hay tôn giáo nào.

Những cuộc tuẫn tiết năm 1975 đã làm sáng tỏ hơn nữa chính nghĩa chiến đấu của quân dân miền Nam, để bảo vệ miền Nam tự do, chống lại chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Những anh hùng tuẫn tiết đã hy sinh sự sống của họ, nhưng chính những sự tuẫn tiết đó trở thành sự sống vĩnh cửu của VNCH trong lịch sử dân tộc, đồng thời đã thổi một luồng sinh khí mới vào sinh mệnh chính trị VNCH, lưu truyền chính nghĩa VNCH, dầu chính thể VNCH sụp đổ năm 1975.

Chính nhờ thế, cho đến nay, gần bốn chục năm sau, dầu không chính quyền, không lãnh thổ, dòng sống VNCH vẫn tồn tại khắp nơi trên thế giới. Chính nghĩa VNCH dựa trên nền tảng dân tộc là điểm tựa tinh thần cho toàn thể người Việt hải ngoại quy tụ lại với nhau dưới lá Cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của chính thể VNCH. Có thể nói, quanh khắp quả địa cầu nầy, Cờ vàng ba sọc đỏ hiên ngang phất phới tung bay khắp bốn phương trời, trong khi lá cờ CSVN, tượng trưng cho chế độ đang cai trị hiện nay ở trong nước, thì núp trong nhà, chỉ ru rú trong các tòa đại sứ hay các tòa lãnh sự mà thôi. Trong lịch sử thế giới, chưa có một hiện tượng nghịch lý nào lạ lùng như thế.

Điểm đáng nói nữa là trong gần bốn chục năm qua, khi làm lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận 30-4, đồng bào hải ngoại luôn luôn dâng hương tưởng niệm những anh hùng tuẫn tiết. Anh hồn những anh hùng tuẫn tiết đã hòa nhập vào hồn thiêng sông núi, nuôi dưỡng vững chắc niềm tin vào chính nghĩa dân tộc và tình tự quê hương trong lòng người Việt khắp thế giới.




HONNEUR à nos SOLDATS morts pour la LIBERTÉ
Vinh danh những chiến sĩ của chúng ta đã hy sinh vì tự do.
(Paris 27-4-1975 – Nguồn: Hình Internet)


KẾT LUẬN

Tóm lại, trong thời kỳ quân chủ hay quốc gia dân chủ, người Việt chiến đấu, hy sinh vì quyền lợi dân tộc. Trong thời kỳ cộng sản, người cộng sản cho rằng họ chiến đấu vì quyền lợi dân tộc, nhưng thật sự họ bị tập đoàn lãnh đạo CSVN phỉnh gạt và sử dụng công sức của họ để phục vụ cho quyền lợi của quốc tế CS như Lê Duẫn đã tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” Ngày nay, QTCS không còn, nhưng CSVN vẫn tiếp tục thần phục Trung Cộng.

Năm 1975, VNCH sụp đổ. Những anh hùng tuẫn tiết năm 1975 đã viết lên một bản chính khí ca mới, bản tân chí khí ca, làm sáng tỏ đại nghĩa dân chủ tự do, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, tạo động lực thúc đẩy toàn dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc tranh đấu, chống chế độ cộng sản độc tài toàn trị lệ thuộc Trung Cộng. Cuộc tranh đấu mới nầy có thể chậm, nhưng chắc chắn sẽ thành công. Việt Nam thân yêu sẽ trở lại tự do, dân chủ và độc lập.

Trần Gia Phụng






Saturday, April 14, 2012

CĐNVTD-NSW_Úc châu: Thông báo Biểu tình tại Canberra



Biểu tình tại Canberra

Ngày thứ Bảy 28/04/2012 trước toà đại sứ Việt Cộng
    Chương trình ngày 28/04/2012:

    6 giờ 30 sáng: Lễ Thượng Kỳ tại công viên Cara-Vale park, Railway Parade, Cabramatta
    11 giờ 30 sáng: Biểu tình trước toà đại sứ Việt Cộng, Canberra
    2 giờ chiều: Lễ Đặt Vòng Hoa & Tưởng Niệm tại Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, Canberra

    Xe buýt đưa đón đồng hương tại:

    Marrickville: 6 giờ sáng trước RSL Club, Marrickville
    Bankstown: 6 giờ 30 sáng trước Phở An, Greenfield Pde, Bankstown
    Cabramatta: 7 giờ sáng trước Thư Viện Cabramatta, Cabramatta


Friday, April 13, 2012

Tù chính trị, Anh là ai? - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Kiến thức của một người là phần còn lại sau khi người đó đã học và đã quên. Trong cái “phần còn lại” khiêm tốn này, người ta nhận biết một thực tế rằng: mỗi môn học thường có một số câu nói có tính hoặc định đề, hoặc quy luật, hoặc tâm lý tổng quát khiến cho người theo học nhớ nằm lòng một cách dễ dàng.

Những người đã học hình luật một cách tổng quát hẳn nhiên không thể quên được câu nói sau đây: “Kể từ sau khi ra khỏi cổng nhà tù, phạm nhân mới thực sự cảm thấy y là một người tù”. Phạm nhân ở đây có thể là tù hình sự, có thể là tù chính trị. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ đề cập tới tù chính trị. Nói rõ hơn, bài viết này nhằm giải đáp câu hỏi: Tại sao sau khi lấy lại tự do, người cựu tù chính trị mới thực sự cảm thấy họ là tù chính trị, mới thực sự biết được họ là ai ?

Tù có nghĩa là không được tự do. Người ta có thể bị mất tự do về thể chất, tức là bị câu thúc thân thể. Người ta cũng có thể bị mất tự do về tinh thần, tức là tư tưởng bị giam bó hoặc bị ràng buộc bởi một khuôn phép nào đó.

Trong thời gian còn bị giam cầm trong các nhà tù, người tù chính trị tuy bị mất quyền tự do đi lại, tự do giao dịch với xã hội, nhưng trong phạm vi nhà giam, trong giao dịch giữa người tù với những người bạn đồng tù, người tù không tìm thấy những ngăn cách đáng kể. Tất cả đều áo rách vai, quần thủng đáy; tất cả đều cầm cự với thần đói bằng khoai mì trắng, nước muối trong; tất cả đều vào tù với cái “tội” đã yêu nước theo cung cách mà mỗi người đều tự cho là hữu lý nhất.

Người tù chính trị bị giam càng lâu càng cảm thấy thật rõ rằng nhà tù chỉ có thể trói buộc thể xác chứ không thể trói buộc tinh thần. Ðời sống tinh thần chỉ bị bó hẹp khi nào một người bị những người chung quanh chối từ giao tiếp. Mặt khác, nói đến tù, người ta không thể không bàn đến trách nhiệm. Trách nhiệm chủ quan và trách nhiệm khách quan. Một người tri tình gia nhập một tổ chức chống cộng tại Việt Nam sau năm 1975. Nếu bị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) bắt giam, người này trở thành một tù chính trị trên bình diện trách nhiệm chủ quan. Trách nhiệm chủ quan của một người là trách nhiệm của đương sự đối với những hành vi do chính đương sự chủ động gây ra.

Thế nào là trách nhiệm khách quan ? Xin bạn hãy lấy tỷ dụ luận để làm khởi điểm cho lý luận diễn dịch: trong tai nạn lưu thông, nếu chủ xe không là tài xế và nếu tài xế là người có lỗi trong tai nạn, thì trách nhiệm bồi thường phải quy vào chủ xe (bảo hiểm của chủ xe) chứ không quy vào tài xế. Trách nhiệm của chủ xe như vừa kể gọi là trách nhiệm khách quan.

Trách nhiệm khách quan là trách nhiệm mà một người phải gánh chịu về những hành vi không do đương sự tri tình tạo ra. Tương tự như vậy, một thanh niên sanh ra tại Miền Nam Việt Nam, rồi lớn lên, rồi đi học, rồi tốt nghiệp kỹ sư Công Chánh. Sau khi nhập ngũ, do lệnh động viên, “ông” Kỹ sư Công Chánh trở thành “ông” Sĩ quan Công Binh. Sau năm 1975, “ông” Sĩ quan Công Binh trở thành “ông” tù nhân cải tạo. Trong tỷ dụ này, quá trình hình thành một tù nhân cải tạo rõ ràng là một quá trình tác động của luật pháp và hành chánh thuộc hai chế độ chính trị Nam và Bắc đối nghịch. Nhân vật thanh niên là một nhân vật hoàn toàn thụ động.

Trách nhiệm khiến người Sĩ Quan Công Binh trở thành người tù cải tạo là trách nhiệm khách quan. Nói như vậy hoàn toàn không hàm ngụ ý nghĩa rằng tất cả cựu quân nhân và cựu công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đều đã sinh sống triệt để thụ động như ông Kỹ Sư Công Chánh trên kia. Sự phân tích tù chính trị qua hai bình diện khách quan và chủ quan chỉ nhằm đi đến kết luận mạnh mẽ rằng: Tất cả những người đã bị CSVN giam cầm vì lý do chính trị, từ người âm mưu lật đổ chế độ cho đến những cựu quân nhân và cựu công chức, kể cả những người thụ động nhất, đều phải được nghiêm túc ghi nhận : họ là những tù chính trị.

Sau khi đã xác nhận thành phần nội dung của tù chính trị, chúng ta hãy tìm hiểu tâm trạng của tù chính trị kể từ sau khi họ từ giã cổng nhà tù. Có lẽ chúng ta nên khởi hành từ những tâm trạng tệ hại nhất.

Ðiều bị gọi là “tâm trạng tệ hại nhất” chính là tâm trạng của những cựu tù nhân mà trong thời gian bị giam cầm ở các trại tù chính trị họ đã cam tâm nhận lời làm “mật báo viên” (antenne) cho giám thị trại tù. Do vai trò “antenne” những vị tù phản trắc này được ăn no hơn một tí, mặc ấm hơn một tí… họ trở thành “người tù quyền lực” giữa đám bạn tù cùng khổ. Thế nhưng ngay sau khi được trả tự do, họ trở thành những cựu tù khốn khổ và hèn hạ nhất : họ bị bạn bè xa lánh, họ thường trực bị ám ảnh bởi những cuộc báo thù có thể đến với họ bất kỳ lúc nào. Quả thực “sau khi từ giã cổng nhà tù, người cựu tù antenne mới thực sự cảm thấy họ là tù”. Tâm trạng của cựu tù antenne thật đau đớn nhưng đơn giản. Dĩ nhiên chúng ta không nên tốn nhiều giấy mực cho những người tù mất phẩm chất này.

Thế nào là người tù có phẩm chất ? Người tù có phẩm chất là người tù: một mặt tự mình duy trì tính bất khuất, mặt khác khích lệ tất cả các bạn tù phải quyết tâm duy trì tính bất khuất trước mọi hành hạ cũng như dụ dỗ của hàng ngũ công an. Tuy nhiên có những người tù đã thể hiện được phẩm chất cao quí trong suốt thời gian bị giam cầm, nhưng ngay sau khi ra khỏi cổng nhà tù, họ lại có những biến thái rất đáng quan ngại:

- Biến Thái I: Có những cựu tù nhân do những hành hạ thái quá trong trại tù, nay đã bị suy nhược về tinh thần cũng như thể chất. Họ mang mặc cảm tự ty đối với những người chung quanh về trình độ hiểu biết, trong nghiệp vụ chuyên môn, về sức khỏe cũng như về nghị lực trong công việc. Ngoài những lo lắng cho đời sống bản thân và đời sống gia đình, họ hầu như không muốn nghĩ đến điều được trang trọng gọi là dòng tâm-sinh-mệnh dân tộc.

- Biến Thái II: Có những cựu tù nhân tự cho rằng những gì họ học hỏi trong tù và nhất là những gì họ đã phải chịu đựng trong tù là tuyệt đối hoàn hảo, tuyệt đối khả kính. Kể từ sau lúc họ ra khỏi nhà tù, mọi người chung quanh có nghĩa vụ phải kính trọng họ vô điều kiện. Trong tất cả những buổi hội họp bàn chuyện phục vụ quê hương dân tộc, nếu có chiếu ngồi thì chiếc chiếu dành cho họ phải là chiếc chiếu duy nhất thượng hạng trong các loại “chiếu trên”. Từ trên chiếc chiếu duy nhất thượng hạng đó, họ nhìn những người chung quanh bằng đôi mắt trịch thượng của đấng lãnh chúa nhìn thuộc viên của ông ta. Quan sát thái độ của những cựu tù thuộc nhóm Biến Thái II, nhiều người liên tưởng đến tài phiệt. Những kẻ dựa vào thành tích tài chánh của họ để lấn át người khác gọi là tài phiệt. Những kẻ dựa vào thành tích ở tù để xem những người chung quanh như thuộc viên, có lẽ đáng được gọi là “tù phiệt”. Cuộc gặp gỡ giữa các “tù phiệt” chẳng khác nào cuộc gặp gỡ giữa các quân nhân vô kỷ luật. Quân nhân vô kỷ luật sẽ sản sinh ra nạn “kiêu binh”. Tù phiệt sẽ sản sinh ra “kiêu tù”.

- Biến Thái III: Có những cựu tù nhân đã biến những kỷ niệm tệ hại trong tù thành lòng thù hận cứng rắn đối với Cộng Sản Việt Nam. Ðành rằng nguồn gốc của lòng thù hận này là hữu lý, thế nhưng mỗi khi bàn thảo về tương lai Dân Tộc, mọi người phải để lòng thù hận bên ngoài phòng họp. Chúng ta chống Cộng sản vì Cộng sản gây tác hại đối với dòng sống Dân Tộc chứ không vì lòng thù hận phát xuất từ trại tù. Thái độ chính trị thích nghi và chừng mực không bao giờ được hướng dẫn bởi lòng thù hận. Hơn thế nữa, lòng thù hận rất nhiều khi đã đẩy người thù hận rơi vào tình trạng cực kỳ nghịch lý: họ chống Cộng sản cứng rắn đến độ họ đòi hỏi mọi người phải chống cộng theo đúng cung cách của họ. Người nào chống cộng theo một cung cách mà họ cho là “khác lạ”, lập tức người này sẽ bị chụp mũ là tay sai của Cộng sản, là “trở cờ”. Người ta bảo “trời xanh có mắt”, nhưng trong thực tế tôi thấy “quần chúng có mắt”. Chính nhờ “có mắt” cho nên quần chúng chẳng bao giờ quan tâm tới ý kiến của những người thường xuyên chống cộng với thái độ hận thù ngun ngút. Hận thù càng cao càng xa rời quần chúng và càng lạc hướng đấu tranh.

Cựu tù nhân nào vướng phải một trong ba Biến Thái kể trên, cựu tù nhân đó đã tự cô lập hóa, tự giam bó tinh thần mình. Nói đúng hơn: “Sau khi rời khỏi cổng nhà tù, người tù nào tự cô lập hóa thì người tù đó sẽ thực sự cảm thấy đương sự là một người tù”. Dĩ nhiên trong tình trạng cô lập hóa, không người nào có thể tiếp tục phục vụ Dân Tộc. Thế nên, cựu tù nhân chính trị giải trừ ba loại Biến Thái tâm lý nói trên không do đòi hỏi của các tiêu chuẩn đạo đức cổ điển, mà do nhu cầu phục vụ Dân Tộc. Ðành rằng chỉ có một vài cá nhân trong tập thể cựu tù chính trị đã vướng mắc Biến Thái, tuy nhiên để tránh hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh” bài viết này đã thành hình. Mặt khác, hoàn cảnh chính trị hiện nay vô cùng phức tạp:

- Những người Cộng sản Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng tư tưởng không lối thoát.

- Những người trước kia chống cộng, nay đã “trở cờ”. Họ cho rằng chống cộng ngày nay đã trở thành không thực tế, mặc dầu họ không hiểu thực tế là gì và lại càng không hiểu nội dung cuộc khủng hoảng của cộng sản. Họ không tự nhận biết họ đang nộp đơn xin làm tay sai cho một ông chủ mà thủ tục phá sản của ông này đã đi vào bước thứ nhất.

- Những người khác rất trung kiên chống cộng, chống ồn ào, chống vô điều kiện, chống chẳng cần quan tâm đến tương lai của cuộc đấu tranh, chống chẳng cần biết: Làm thế nào để kết hợp đại khối Dân Tộc ? Mô hình của xã hội Việt Nam sẽ là mô hình nào ? Bằng cách nào chúng ta tiến tới mô hình đó ?

- Sau cùng là khối đa số Việt Nam thầm lặng. Khối này thường xuyên cảm thấy lòng quặn đau mỗi lần nghĩ đến quê hương. Khối này ngày lại ngày chau mày nhíu mặt trước những chuyển biến chính trị phức tạp của quốc nội cũng như quốc tế.

Trong hoàn cảnh chính trị rối ren như đã sơ phác, tập thể Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam không thể đóng vai khách qua đường. Tuy nhiên muốn làm một điều gì đó cho quê hương, trước tiên mỗi người cựu tù chính trị phải quay về với chính mình để triệt để gột rửa các Biến Thái Tâm Lý nói trên, nếu có. Chỉ có quay về với chính mình như vừa nêu, người cựu tù chính trị mới nhận biết: Tù Chính Trị, Anh Là Ai ?

- Anh là Người đã cống hiến cho quê hương một phần lớn mồ hôi, máu và nước mắt trong lao tù.

- Anh là Người sau khi ra khỏi nhà tù vẫn tiếp tục duy trì một tâm lý vững vàng: không tự ty yếm thế; không tù phiệt, kiêu tù; không phục vụ quê hương do lòng thù hận, mà do tim óc trong sáng của một chiến sĩ cách mạng.

- Anh là Người quyết tâm tiếp tục phục vụ Dân Tộc như Anh đã và đang phục vụ. Trên bước đường phục vụ Dân Tộc trong những ngày tới, Anh thừa biết: mọi việc làm sẽ là Dã Tràng xe cát nếu chúng ta không hiểu được qui luật Ðoàn Kết Dân Tộc, không thấy được mối tương quan biện chứng giữa Dân Tộc Tính và Nhân Loại Toàn Tính, và không hình dung được cũng như không thể khai thác được cuộc khủng hoảng tư tưởng vô tiền khoáng hậu của các quốc gia Cộng Sản hiện nay.

Tù chính trị, Anh là ai ? Bây giờ, Anh đã biết rồi. Kính mời Anh lên đường.

Thân mến chúc Anh thành công.

Ðỗ Thái Nhiên

Sunday, April 8, 2012

Kỷ Niệm 40 Năm Trận Chiến An Lộc







An Lộc địa, sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân



Saturday, April 7, 2012

Quốc Hận! - Mường Giang

    Tháng Tư ra Biển Đông ngồi khóc !

    Quốc Hận! Trời ơi đến bao giờ ?!!!
Mường Giang

Sau khi Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ, chẳng những tất cả “Quân, Công, Cán, Cảnh” của Miền Nam bị trả thù, cộng sản Hà Nội còn tận tuyệt hủy diệt các tầng lớp tư sản qua tội danh gán ghép, chụp mũ, bịa đặt cho mọi người là bóc lột, tư sản mại bản, ngụy dân… Tại Ðại Hội đảng lần thứ IV vào tháng 5-1975, Lê Duẩn đã vênh váo tuyên bố rằng “từ nay người VN sẽ đi trên thảm vàng, đồng thời đuổi kịp rồi qua mặt Nhật Bản trong vòng 15 năm tới”. Trên thực tế ai cũng biết trước tháng 4-1975, Bắc Việt chỉ có hai công trình vĩ đại nhất là Lăng Hồ Chí Minh tại Ba Ðình Hà Nội và Khách sạn quốc tế trên bờ Hồ Tây, do Fidel Castro của Cu Ba xây tặng. Trong lúc đó tại VNCH, đâu đâu cũng có những cơ sở kỹ nghệ nặng và nhẹ, đều được trang bị máy móc mới và tối tân, nhất là các ngành dệt, điện, lắp ráp các loại hàng sản xuất tiêu thụ. Khi VC vào Sài Gòn trưa ngày 30-4-1975, đã tận tình vơ vét máy móc đem về Bắc, ra lệnh cho nhiều nhà máy ngưng hoạt động hay biến thành quốc doanh, hữu danh vô thực.

Song song với kế hoạch trả thù và tận diệt các tầng lớp trên, VC còn bày thêm “quốc sách kinh tế mới vào cuối năm 1975”, để đuổi hết số gia đình có liên quan tới chế độ VNCH, đang sống tại Sài Gòn và các tỉnh thành, đi lao động canh tác tại rừng sâu, núi cao, ma thiêng nước độc. Kế hoạch thâm độc này, “vừa tống khứ được những thành phần còn lại mà VC đã xếp loại nguy hiểm”, sau khi chồng con thân nhân của họ đã bi đảng gạt vào tù. Có như vậy, VC mới chiếm được nhà cửa ruộng vườn và các tiện nghi của Miền Nam, để phân phối cho cán bộ miền Bắc, lúc đó chỉ có súng đạn, tăng pháo và mớ lý thuyết của Mác-Lê-Mao-Hồ mà thôi.

Ai đã từng là tù nhân của VC, dù có ở trong các trại tù tại miền Nam hay bị đầy ải ra vùng biên giới Việt Bắc, đã bị giặc cầm giam lâu hay mau, chắc hẳn sẽ chẳng bao giờ quên nổi những đau đớn về vật chất và nhất là sự tủi nhục tinh thần, khi bị bọn VC”gọi chúng ta là ngụy quân, ngụy quyền, là những đống rác bẩn thỉu, cặn bã của xã hội, đánh giặc thuê cho Mỹ, Pháp, Nhật..”!

Ai đã từng bị VC cướp của, cướp nhà, đày đoạ lên tận miền rừng núi để phát triển kinh tế mới. Ða số đã ngã quỵ vì không chịu nổi mưa nắng, cùng cảnh ma thiêng nước độc, bệnh sốt rét rừng, ghẻ lở, kiết lỵ... mà không có thuốc uống. Cuối cùng những người còn sống, kiệt sức vì đói bệnh, nên đã bỏ rừng chạy ngược về thành. Họ đã trở nên vô gia cư và ở bất cừ nơi nào, kể cả nghĩa địa, gầm cầu, chùa miễu .. ăn sống, phó mặc cho định mệnh và bọn công an, tới hốt bắt, đưa lên lại vùng kinh tế mới, rồi họ lại về.Rốt cục huề cả làng, và càng ngày càng có nhiều người vô gia cư sống khắp mọi nẻo đường đất nước, trong xã nghĩa thiên đường vì cảnh cướp ruộng đất nhà cửa của đồng bào qua chiêu bài “phát triển kinh tế, công nghiệp..”.

Chắc chắn những thành phần trên, nếu may mắn bằng mọi lý do gì, nay tới được bến bờ tự do và được sống tạm trên mọi nẽo đường thế giới, chẳng ai có thể vô tâm để quên kiếp đời “Tỵ Nạn Việt Cộng” trăm đắng ngàn cay, biển hờn trời hận, “chỉ có thể đầu thai lần khác” họa chăng mới xóa nổi vết nhơ của Dân Tộc VN trong giòng lịch sử cận đại. Bởi vậy VC đã dùng quyền lợi để yêu cầu chính quyền Mã Lai, Nam Dương .. phá bỏ các Tượng Ðài kỷ niệm Thuyền Nhân VN bỏ mình trên biển Ðông, khi trốn chạy khỏi thiên đàng xã nghĩa, tại các trại Tỵ nam Việt Cộng. Hành động dã man này của bọn đầu sõ Bắc Bộ Phủ, chẳng những không làm ai khiếp sợ, trái lại còn bị Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản khắp thế giới thêm khinh ghét, khiến chúng đi tới đâu cũng bị mọi người tẩy chay và biểu tình đã đảo.

Ðầu tháng 4-1975, Người Mỹ khởi sự chạy khỏi Nam VN bằng chuyến bay định mệnh, đưa 250 trẻ mồ côi và 37 nhân viên của Dao đi theo săn sóc. Nhưng chiếc C5 đó đã bị tai nạn, chỉ còn 175 em sống sót với một số người lớn may mắn. Thảm kịch sắp tới cho làn sóng người bỏ nước ra đi vì không muốn sống chung với rợ Hồ, giết người cướp của.

Ngày 15-4-1975, thượng viện Hoa Kỳ thông qua đạo luật, cho phép 200.000 dân tỵ nạn Ðông Dương được vào sống trên đất Mỹ. Song song, chính phủ Mỹ cũng mở chién dịch Frequent Wind tại Sài Gòn, để di tản các công dân Mỹ và 17.000 người Việt có liên hệ. Máu lệ và thảm kịch VN đã khơi nguồn từ đó, vào những ngày cuối tháng 4-1975, khi ngàn ngàn vạn vạn người với đủ mọi phương tiện, tiến ra biển Ðông để mong được Ðệ Thất Hạm Ðội cứu vớt những chỉ tới ngày 2-5-1975 thì chấm dứt. Tóm lại từ tháng 5-1975 tới bây giờ (2012), người Việt bỏ nước ra đi để tìm tự do và đất sống, hoàn toàn chấp nhận may rủi ”một sống chín chết”, trong hoàn cảnh bơ vơ tự cứu. Do trên hầu hết những người đến được bờ đất hứa, đã phải trả một giá thật đắt. Nên mới có hằng trăm ngàn câu chuyện bi thảm não nùng của thuyền nhân VN, bị HẢI TẶC THÁI LAN cướp giết,hãm hiếp tập thể đến chết nếu còn sống thì bị bán vào ổ điếm. Số khác trôi giạt vào hoang đảo và đã ĂN THỊT NGƯỜI lẫn nhau để mà sống.

Sau khi cưỡng chiếm xong VN, đảng Hồ và đảng Mao trở mặt nên VC đã quy tội cho người Tàu sống tại VNCH ( Sài Gòn-Chợ Lớn và các tỉnh) là mối đe dọa, rồi đòi Trung Cộng phải qua hốt hết 1,2 triệu người Việt gốc Hoa về nước. Sự kiện được Tàu Cộng chấp nhận, phái hai chiến hạm tới các hải cảng VN để nhận người. Nhưng đến cho có mặt, chứ Tàu Cộng đâu có ngu, lãnh đám dân nghèo này (vì của cải đã bị hốt sạch) về nước đê nuôi ăn, vì vậy nửa đêm nhổ neo rút cầu, âm thầm về nước.

Sáng ngày 24-3-1978 trên khắp các nẻo đường Sai Gòn-Chợ Lớn, bỗng xuất hiện rất nhiều xe vận tải chở công an, bộ đội và hằng ngàn thanh niên nam nữ đeo băng đỏ trên tay áo. Theo đài phát thanh của VC thông báo, thì đây là chiến dịch “Ðánh Tư Bản Mại Bản, Diệt Thương Gia”. Trước đó vào sáng ngày 20-3-1978 tại Chợ Lớn, cũng đã có một cuộc xô xát, giữa trăm người Hoa và công An VC phản đối bắt lính, bắt đi kinh tế mới và đòi được trở về Tàu sống với Trung Cộng. Nhưng lần này, cuộc bố ráp qui mô không phải để bắt người Hoa chống đối hôm trước, mà là xộc vào từng nhà cùng các cửa tiệm, để kiếm tiền đôla và vàng cất dấu, cũng như kiểm kê tất cả hàng hóa kể cả cây chổi, ngoại trừ hình ”bác” và lá cờ ”đảng”, máu đỏ sao vàng.

Theo báo chí ngoại quốc ghi nhận, thì lần đó đảng đã hốt của đồng bào (Việt lẫn Hoa) gần 7 tấn vàng và cả mấy chục bao bố tiền đô Mỹ, khiến cho mấy chục người uất hận phải tự tử chết. Vậy là đảng đã ba bước nhảy vọt, chiến thắng tư bản chủ nghĩa, bước lên thiên đàng xã nghĩa ưu việt. Cũng từ đó đã có trên 250.000 Hoa kiều phải bỏ nước ra đi và theo thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn năm 1983, trong số này có trên 50.000 đã chết trên biển vì sóng gió và hải tặc Thái Lan.

Sau ngày 30-4-1975 khi Miền Nam bị VC Hà Nội cưởng chiếm, thì Biển Ðông đã trở thành cửa ngỏ để đồng bào vượt thoát tìm tự do. Nhưng đồng thời biển cũng đã biến thành hỏa ngục và trên hết, đảng VC đã thưc hiện được công trình vĩ đại nhất trong Việt Sử. Ðó là KỸ NGHỆ XUẤT CẢNG NGƯỜI, từ cho thuyền nhân vượt biển chính thức, tới các chương trình ra đi có trật tự (ODP), hồi hương con Mỹ Lai và Mua Vợ Bán Chồng giả. Tất cả các nghiệp vụ trên, đều giúp cho tập thể lãnh đạo đảng giàu to nhờ thu vào được nhiều vàng, tính tới cuối năm 1989, đảng thu vào chừng 3.000 triệu mỹ kim, con số nhìn vào thấy rởn tóc gáy nhưng lại là sự thật. Bởi vậy đâu có ngạc nhiên, khi biết xã nghĩa VN, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, lại có nhiều tỷ phú đứng hàng đầu nhân loại.

Theo sử liệu thì năm 1978 là năm VC chính thức trục xuất người Hoa ra biển. Ðây cũng là thời gian đảng xuất cảng người nhiều nhất, mà theo thống kê của Cao Uỷ Tỵ Nạn, số người tạm trú tại các Trại khắp Ðông Nam Á, lên tới 292.315 người. Cũng theo tài liệu của Hồng Thập Tự Quốc Tế, thì từ năm 1977-1983 đã có khoảng 290.000 người đã chết hay mất tích trên biển Ðông.

Ngày 15-1-1990 khi mà Mỹ chuẩn bị bãi bỏ lệnh cấm vận và lập bang giao với VC, thì tại vùng biển Nakhon Si Thammarat, có 11 thi thể PHỤ NỮ VIỆT NAM, tất cả đều trần tuồng thê thảm, trôi tắp vào bờ. Theo Thiếu tá cảnh sát Thái Chumphol, người có trách nhiệm lập biên bản khám nghiệm, cho báo chí biết, thì tất cả các nạn nhân, có tuổi từ 18-20. Họ bị giết sau khi bị hải tặc Thái Lan hãm bức nhiều làn.

Ðây cũng chỉ là một trong ngàn muôn thảm kịch máu lệ của thân phận VN, từ khi VC cưỡng chiếm được đất nước. Ðã có hằng triệu người chết trong lòng biển, khi tìm tới những địa danh Songkhia, Pulau Tanga, Pulau Bidong, Galang.. Có nhiều cái chết của thuyền nhân thật tức tưởi và oan khiên, mà không bút mực nào viết cho nổi, chẳng hạn như Tàu của Chủ Khách Sạn “Lộc Hotel” ở An Ðông, chở trên 500 người, đi bán chính thức nhưng khi tới Gò Công thì bị gài bom nổ, chết sạch chỉ có tài công và 3 người may mắn sống sót. Tàu Lập Xương di bán chính thức ngày 22-1-1979, chở 200 người, cũng bị gài bom nổ ngoài biển, chỉ còn một vài người may mắn sống sót được Tàu Panama cứu đem vào trại Tỵ Nạn. Ðây cũng chỉ là một vài chuyện nhỏ trong ngàn muôn thảm kịch mà thuyền nhân, đã chịu từ khi phong trào vượt biển bùng nổ vào đầu năm 1977-1989.

Người vượt biển tìm tự do, ngoài sóng gió bão tố bất thường không biết trước, còn chịu thêm cảnh săn đuổi của công an, bộ đội biên phòng và ghe tàu đánh cá quốc doanh có trang bị súng máy và súng cá nhân. Nhưng hãi hùng nhất vẫn là Nạn Hải Tặc Thái Lan. Bọn này rất hung ác, tàn bạo, sau khi chận bắt thuyền vượt biển, chúng cướp giựt hết tất cả tài sản, đánh đập mọi người, hãm hiếp phụ nữ và bắn bỏ những ai muốn trốn hay chống lại. Sau đó để phi tang, chúng đốt thuyền cho chìm, giết hết đàn ông và bắt đem theo phụ nữ, hành lạc cho tàn tạ và đem về đất liền bán cho các động đĩ.

Câu chuyện của một chiếc tàu vượt biển lênh đênh sau 32 ngày bị hải tặc Thái Lan đánh cướp, chỉ còn có 52 người sống sót, thì gặp được Chiến Hạm USN. Dubuque do Ðại Tá Alexander chỉ huy nhưng bị từ chối không cứu vớt, khiến cho số người trên chết gần hết. Những người sống sót phải ăn thịt bạn bè để cầu sinh. Viên Ðại Tá Mỹ vô nhân đạo trên, bị Bộ Hải Quân Mỹ lột chức và truy tố ra Tòa Quân Sự.

Cũng do hằng ngàn câu chuyện đứt ruột của người vượt biển tìm tự do, mà nhân loại ngày nay có thêm một danh từ độc đáo “Boat People”, giống như trước kia người Do Thái, qua cuộc hành trình tìm đường về đất hứa, cũng đã làm nảy sinh danh từ “Holocaust”. Tuy nhiên, nếu đem so sánh, kể cả chuyện người Do Thái bị Ðức Quốc Xã tàn sát trong thế chiến 2, thì thảm kịch vượt biển của người VN trên biển Ðông, vẫn bi đát hơn nhiều.

Năm 1945 VC núp trong Mặt Trận Việt Minh, lợi dụng nạn đói năm Ất Dậu để tuyên truyền và cướp chính quyền từ trong tay người Quốc Gia, nhờ vào súng đạn của người Mỹ. Từ năm 1955-1975 VC gây nên cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, và đã cưỡng chiếm được VNCH, nhờ Nixon-Kissinger dàn dựng lên Hiệp định ngưng bắn 1973, hợp thức hóa sự chiếm đóng của cộng sản Hà Nội trên lãnh thổ Miền Nam.

Ngày nay, VC lại đem tình thương nhớ quê hương VN ra khuyến dụ người tị nạn, mong mọi người hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận nước thù nhà. Nhưng VC đã lầm, cho dù đã có nhiều người tị nạn trở về VN nhưng thực tế hầu hết chỉ vì gia đình. Sau đó ai cũng quay lại miền đất tự do, để chờ một ngày chính thức được theo sau gót voi của Quang Trung Ðại Ðế về giải phóng Thủ Ðô Sài Gòn-Huế-Hà Nội. Ngày đó chắc không xa, vì hiện nay cả nước đều biết chế độ cộng sản đã sụp đổ toàn diện, từ ý thức hệ, lãnh đạo, kể cả huyền thoại Hồ Chí Minh, cho tới đời sống tinh thần, kinh tế, xã hôi. Chính sự xét lại của đảng, đã minh chứng sự sụp đổ trên.

“Thân phận người Thuyền Nhân VN là thế đó ?!”, Tại sao ngày nay lại có một số người đòi bỏ danh từ “Tỵ Nạn Việt Cộng”? , để đồng hóa chúng ta thành kẻ di dân vì miếng cơm manh áo, trong lúc đó thật sự chúng ta chỉ bỏ nước ra đi để tỵ nạn chính trị, vì không thể nào sống nổi dưới chế độ cầm thú bất nhân vô tổ quốc của VC.

Bỗng thấy thấm thía vô cùng, khi nhớ lại câu nói của nhà cách mạng vĩ đại trong thế kỷ XX là Cụ Phan Bội Châu “Tòng Lai Quốc Dân Sở Dĩ Suy Ðồi, Chỉ vì Hai Nguyên Nhân: BỤNG ÐÓI VÀ ÓC ÐÓI”. Từ năm 1930-2012, cộng sản VN đã đấu tranh đẫm máu, giết hại triệu triệu người, cũng chỉ muốn đạt cho được mục đích là đưa Dân Tộc vào con đường cách mạng vô sản, bằng thống trị ngục tù, bằng gầy mòn đói khát, bằng áp chế dối gian. Nhưng tất cả ngày nay đã trở thành những chiếc đinh rỉ, đóng cứng chiếc quan tài đỏ, trong đó có chứa bao triệu oan hồn VN, kể cả những người đã chết đói năm Ất Dậu 1945, những người sinh bắc tử nam, những thuyền nhân chết trên biển. Và đau đớn nhất là NHỮNG NGƯ DÂN VN, ngày ngày bị Trung Cộng cướp giết trên Biển Đông, khi họ hành nghề chính trên lãnh hải của mình. Tất cả là những nhân chứng, bia miệng ngàn đời bôi đen VC trong dòng sử dân tộc.

Lúc nào cũng hô hào hòa hợp hòa giải dân tộc nhưng kể cả người chết cũng bị dầy mồ, bia kỷ niệm thuyền nhân cũng bị phá bỏ, thì thử hỏi người sống làm sao yên được khi phải đối mặt với VC ?.

Mường Giang


Friday, April 6, 2012

TAI SAO TÔI MUỐN “TIÊU DIỆT” TS NGUYỄN ĐÌNH THẮNG?! - Lý Tống

    TAI SAO TÔI MUỐN “TIÊU DIỆT” TS NGUYỄN ĐÌNH THẮNG?!
    (BÀI VIẾT HẬU TÒA BẠCH ỐC)
Lý Tống

I. TIỀN TÒA BẠCH ỐC vs HẬU TÒA BẠCH ỐC: Đã có người ghép tôi và một số người khác vào phe có ý đồ tiêu diệt Chiến Dịch Thỉnh Nguyện Thư và người lãnh đạo Chiến Dịch TNT (TNT) tức TS Nguyễn Đình Thắng (NĐT) và NS Trúc Hồ (TH) theo ý đồ của VC. Trước kia tôi đã đề cập danh xưngVAL/ YVAL là yếu tố chính gây ra sự phẩn nộ và lý do “lạc đề” của buổi thuyết trình tại Tòa Bạch Ốc (TBO). Giờ đây tôi muốn đề cập đến một yếu tố khác cũng ít ai đề cập: Đó là “Tiền TBO vs Hậu TBO.” Vậy tội “tiêu diệt” cần phân biệt nhiều loại: Tiêu diệt cả TNT lẫn NĐT và TH; tiêu diệt TNT only; tiêu diệt TH only hay tiêu diệt NĐT only và tiêu diệt trước ngày 5.3 hay tiêu diệt sau ngày 5.3. Bởi trước vụ TBO, TH hợp tác với NĐT, nhưng sau TBO, TH tố cáo những màn tráo trở trong TBO của NĐT. Như vậy, nếu theo luận điệu ba phải trên, chính TH vừa tiêu diệt NĐT, vừa tự tiêu diệt mình, tiêu diệt TNT do mình phát động, vừa là tay sai VC? Khi TNT vừa được TH+Đài SBTN và NĐT+BPSOS phát động, tức thuộc thời điểm Tiền TBO, tôi là người không chỉ yểm trợ bằng lời, còn bằng hành động: Ký TNT và chỉ trích những kẻ chống TNT mặc dù tôi thuộc phái chủ trương lật đổ CSVN bằng bạo lực. Không phải vì tin TNT sẽ gây cuộc “đổi đời” tại VN, bởi mạnh “PHIẾU” như Cộng Đồng Tị Nạn Cuba, dòng họ Fidel vẫn tiếp tục trường trị chưa có dấu hiệu lay chuyển và mạnh “TIỀN” như Do Thái họ vẫn phải tự lực chiến đấu vì sự tồn vong trong 4 cuộc chiến quan trọng vào các năm 1947-1948, 1956, 1967 và 1973. Tôi ủng hộ TNT vì đây là dịp hi hữu “hồi sinh tinh thần Đoàn Kết và chống Cộng tích cực của thập niên 1980s,” một bước khởi đầu cho những cuộc vận động tiếp theo.

Tôi mất đúng một ngày để ký được TNT cho mình do các sai nhầm khá lẩm cẩm: Viết email thiếu @

2. LÊN ÁN PHE CHỐNG TNT: Tôi đã viết bài phân tích những điểm SAI của phe chống TNT, đặc biệt Sáu-Bò-vàng, nhưng chờ buổi họp tại TBO để có thêm sự kiện, diễn biến để bổ túc (Xem bài “Những Điểm SAI của phe chống TNT” đính kèm). Cũng may, nếu tôi phổ biến sớm chắc đã bị HỐ nặng! Bởi vậy khi nghe tuyên bố của TH và Việt Dzũng về những bất ý xảy ra tại TBO, tôi đã vỡ mộng về NĐT giống tâm trạng người hàng xóm của vị nữ lưu được vua ban tặng bức hoành có 4 chữ: “TIẾT HẠNH KHẢ PHONG” mà mình vẫn ngưỡng mộ vừa bị lính lệ làng bên cạnh bắt quả tang làm Tú Bà một động điếm trong đó con trai làm ma cô và con gái làm gái chọi! Đó là lý do, vào thời điểm Hậu TBO, tôi và một số người từng ủng hộ NĐT đã phải quay ngược 180 độ chống NĐT sau khi dành một số quỹ thời gian để đọc các bài phê bình liên quan và thu thập các chứng liệu để xác định những lời tố cáo là sai hay đúng để tìm biện pháp cứu vãn niềm tin của Đồng bào vào một Phong Trào vừa hồi sinh nhưng “bạo phát, bạo tàn” bởi những nguyên cớ và yếu tố nào? Một bộ máy bị “ban” nếu thay cơ phận hư hỏng bộ máy sẽ tốt trở lại để tái khởi động. Nếu chỉ chữa trị qua loa, không dứt khoát loại bỏ tác nhân “bất trị, không thể sửa chữa” (incurable, unrepairable) bộ máy sẽ trở thành phế vật. TH tuyên bố “Liên lạc thẳng với TBO không qua NĐT” là một biện pháp loại bỏ (hay tiêu diệt) NĐT để cứu TNT khỏi trở thành phế vật. NĐT đã tự chứng tỏ mình thuộc loại “incurable, unrepairable” thông qua cách trả lời về tiêu đề “White House Briefing with National Vietnamese American Leaders,” về câu hỏi “Tại sao TBO lại gửi email trực tiếp đến điạ chỉ thành viên đảng Việt Tân ( dhoang@viettan.org)?” về việc phủ nhận Tố chức YVAL, việc xin Phân bằng “Nghĩ rằng phô trương để lấy ngân quỹ từ TBO là cách suy nghĩ ngô nghê,” về cách chạy tội: “Nhiều thành phần nhận cấp khoản cũng bị dính chấu trong cuộc kiểm tra” (Chẳng khác gì bị cáo can tội ăn cướp biện hộ trước Tòa: Thiếu gì người ăn cướp, đâu chỉ mình tôi!); về việc TH quyết định ngưng hợp tác, về cách phủ nhận bằng chứng qua lối dạy đời “Họ cần học tinh thần dân chủ, không nên kết tội khi chưa có thể chứng minh có tội. Đó gọi là nguyên tắc ‘lợi ích của sự hồ nghi’” thay vì phổ biến những văn thư liên lạc giửa Bộ An ninh và Phòng Initiative về việc thay đổi chương trình, nhân sự, cách hỏi-đáp để dẫn chứng và bác luận; bịa đặt “Vị dân Biểu” và tiếm danh TBO để manipulate cuộc Briefing. Kinh hoàng nhất là sự khinh thường 150 K chữ ký khi tự cao tự đại cho rằng “TBO mở cửa đón Phái Đoàn là nhờ ‘Vốn chính trị’ của mình chứ không phải nhờ một trăm mấy chục ngàn chữ ký!”

Đó là lý do tại sao tôi đề cập đến NĐT trong thời điểm nầy thay vì trước kia như có người thắc mắc. Thật ra trước kia tôi chẳng biết NĐT là ai vì:

(1) Tôi là một “Bộ Nhân” không phải “Thuyền Nhân” như đa số người Việt tị nạn. Tôi là người duy nhất đi đường bộ đến Singapore. Những Thuyền Nhân biết NĐT chẳng qua cũng vì NĐT ghép tên mình vàoBPSOS. Họ quen với tên BPSOS và không biết rằng chính GS Nguyễn Hữu Xương thành lập Boat People SOS Committee năm 1980 lúc đó Nguyễn Đình Thắng còn đi học. Năm 1986 NĐT mới tốt nghiệp và gia nhập BPSOS Committee năm 1988. Khoảng 1989-1990 BPSOS Committee giải tán vì Cao Trào Vượt Biên khựng lại do các Trại Tị Nạn đóng cửa không còn nhận Thuyền Nhân nữa. NĐT take over và đổi Committee (Ủy Ban) thành Inc. (Công Ty) tức Boat People SOS Inc. với những chức năng khác không liên quan đến thuyền nhân. Có bao nhiêu người biết NĐT là ai nến không kèm title “BPSOS” của GS Nguyễn Hữu Xương vào tên mình?

(2) Tôi “hơi bị bận” ở tù 21 năm không có dịp nghe hay đọc chuyện liên quan đến NĐT.

(3) Những công tác của tôi thuộc dạng “đặc thù” không dính líu đến bất cứ Tổ chức hoặc Cá nhân nào, nhất là lãnh vực Từ Thiện, nên không “đụng độ” hoặc “cạnh tranh” với NĐT. Khi được trả tự do trở về Hoa Kỳ, tôi cũng không thành lập Đảng phái, Tổ chức hay duy trì Tổ chức “Phát Huy Tinh Thần Lý Tống” có sẵn để làm “Chủ Tịch, Lãnh Tụ” nên cũng không có động cơ Danh-Lợi để hạ bệ nhau. Tôi cũng “dùi mài kinh sử” 10 năm đến cấp Tiến Sĩ dù chưa có dịp bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ vì bận ở tù. Tôi “đẹp trai” và “đào hoa” hơn NĐT theo nhận xét của các thân hữu nên không giống tên “ma mèo ma mút” nào đó vừa ngu dốt, dị hình dị dạng, bất tài vô tướng, từng “yêu thầm nhớ trộm” nhưng LH không thèm để mắt đến nên cứ chờ dịp phun bừa lên Diễn Đàn lòng oán hận, ghen tị, đố kỵ hạ cấp của thứ tiểu nhân thất chí! “Bênh” NĐT ngoài thành phần có động cơ “chống” những người “chống” NĐT do hận thù cá nhân riêng tư còn có kẻ mang tinh thần “bầy đàn” “Ngưu tầm ngưu - Mã tầm mã.” Họ không cần phân biệt đúng-sai, phải-trái, bất cứ gì thuộc phe ta đều bênh, bất cứ gì thuộc phe khác đều chống! Trên các lãnh vực, nếu thua, tôi chỉ thua NĐT ở lãnh vực “ăn Phân” bởi “Bệnh Phân Dâm” của NĐT đã đến thời kỳ mãn tính, hết thuốc chữa. Tôi vừa không có thú “ăn Phân” vừa để “tạ tội đã cầu con chó già ghẻ lỡ thời thơ ấu thiếu đói chết sớm để tiết kiệm bát cơm” nên kiếm được đồng nào nào tôi lại yểm trợ lại theo kiểu “Của Thiên trả Địa” chẳng bòn mót, gom tóm để trở thành triệu phú như NĐT.

Tôi phải lên tiếng vì “Tôi không thể ngồi yên” nhưng không chỉ theo kiểu Việt Khang đặt câu hỏi: “Anh có còn nhân tính không mà ăn trên đầu trên cổ nạn nhân một cách bất nhân như vậy?” mà còn muốn theo kiểu Đoàn Văn Vươn: “Có dao cầm dao, có súng cầm súng, phải ‘bụp’ không nương tay!” bởi "Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa" nhất là đối với kẻ bóc lột, cướp cơm chim cả những nạn nhân đáng thương. Không chỉ “chặt chém” nạn nhân còn “độc quyền” ôm trọn gói các dịch vụ, Tổ chức Từ Thiện đến nỗi kiện LM Lễ đòi bồi thường 25.000 -75.000 MK, sẵn sàng làm OSIN Cộng Sản VN và lái Chiến Dịch TNT trở thành diễn đàn xin Phân cho Tổ chức YVAL vì bệnh “Phân Dâm” bất trị. “Từ Thiện” kiểu NĐT là “Từ bỏ Thiện lương” hoàn toàn trái ngược với nghĩa “Nhân Từ, Lương Thiện” vì dù cùng làm nghề liên quan đến gái điếm trong khi Tú Bà bị lên án HẠIngười chỉ chia “Tứ-Lục” với gái làng chơi (Gái 4 Tú Bà 6) Tú Ông NDT được ca ngợi CỨU người lại chia cao hơn “Thất-Cửu Thập Tam” (nói chính xác: Nạn nhân 6.7% - NĐT 93.3%)! Càng tệ hơn khi dám dùng ngoa ngữ, tự xem trò “Chọn việc, Bám chặc” vào nghề ăn Phân Nạn Buôn Gái Điếm là “công cuộc mở vận hội để giải thoát dân tộc!” Vậy mà từ trước đến nay chúng ta vẫn khờ khạo vinh danh NĐT là “Đại Anh Hùng, Thần Hộ Mạng giáng trần cứu nhân độ thế!” Sau đây là các Bằng Chứng.

II. YVAL VÀ XIN PHÂN: NĐT khẳng định: “Không có tổ chức nào là YVAL cả. Và nghĩ rằng phô trương để lấy ngân quỹ từ TBO là cách suy nghĩ ngô nghê bởi vì Hoa Kỳ đâu phải như là Việt Namđâu. Việc xin ngân quỹ không dính dáng gì với TBO cả. Phải chứng minh được khả năng của mình chứ không thể nói khơi khơi và rồi nhờ cảm tình với TBO để TBO chỉ thị cơ quan này, cơ quan nọ cấp ngân khoản cho.”

1. YVAL KHÔNG CÓ, BPSOS - NOVAL KHÔNG QUAN HỆ: Trước hết, Số1 (h1) cho thấy Logo và tên chính thức của NOVAL: National Organization Of Vietnamese American Leaders. Sau đây là bằng chứng về quá trình tiến hóa từ NOVAL đến YVAL. (1) Giai Đoạn 1: Bước 1 trong Số2 (h2), BPSOSđóng vai chính, VAL thò ra nửa trong nửa ngoài nên chỉ thấy chữ “National Summit Vietnamese A.”Bước 2 trong Số3 (h3): BPSOS và VAL nằm hai bên bảng “Entering The Fourth Decade,” tức 2 Tổ chức trở thành đồng đẳng. (Nhấn mạnh tên VAL: “VIETNAMESE AMERICAN LEADERS” bằng cách sơn màu trắng, nổi bật đối chọi với chữ BPSOS cùng màu trắng, trong khi từ “NATIONAL SUMMIT OF” cố tình sơn màu vàng lờ mờ, chìm lỉm.) Bước 3 trong Số4 (h4), VAL đóng vai chính, BPSOS thụt vào, gần biến mất, chỉ còn từ “OS,” để chuẩn bị giai đoạn khâm liệm do danh xưng này đã lỗi thời, không còn ăn khách, ăn Phân.




(2) Giai Đoạn 2: Lợi dụng Chiến Dịch TNT, NĐT promote tối đa Tổ chức YVAL mới nầy để kiếm Phân thay thế BPSOS. Bước 1 trong những emails trước ngày 5 tháng 3, danh xưng trên thư mời ghi “NationalVietnamese American Leaders Briefing” (tức NVAL, do NOVAL bỏ từ O: Organization) hay tiêu đề trong chương trình thuyết trình ghi “Updates from Young Vietnamese Leaders on Diaspora Communities.” Bước 2: Trong ngày 5 tháng 3 tại TBO, tiêu đề đầu tiên cũng lập lại NVAL “White House Briefing with National Vietnamese American Leaders” rồi đổi thành “White House Briefing with Vietnamese Americans” do sự khiếu nại của TH, nhưng sau đó vẫn đổi lại thành YVAL: “White House Briefing with Young Vietnamese American Leaders” theo nguyên tắc “Cố đấm ăn xôi” được NĐT đặt tên hoa hòe là “chọn việc” và “bám trụ.”

Tại sao YVAL thay vì VAL và tại sao “National?” Hãy vào Web sau đây hoặc hình Số5 (h4a) để xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Envision_EMI,_LLC.

Tổ chức Envision EMI trong năm 2009 đã yểm trợ 12 Tổ chức sau: (1) Congressional Youth LeadershipCouncil, (2) Junior National Young Leaders Conference, (3) Junior National Young Leaders Conference Alumni Boston, (4) National Young Leaders State Conference, (5) National Young Leaders Conference, (6) Global Young Leaders Conference, (7) National Young Leadership Forum, (8) National Forum on Collegiate Success, (9) National Youth Leadership Forum on Law and Crime Scene Investigation, (10)National Youth Leadership Forum on Medicine, (11) National Youth Leadership Forum on National Security, (12) International Scholar Laureate Program, (13) National Young Scholars Program.

Trong 13 Tổ chức, có 11 Tổ chức có tên Young Leaders/ Leadership và 10 Tổ chức có tên National, chỉ có 2 Tổ chức (số 8 và 12) và 3 Tổ chức (Số 1, 6 và 12) không có từ Young Leader/ Leadership hay “National.” Hoặc có thể xem Web: http://www.inauguralscholar.com/middle-school/middle-school-student-panel/

“As a student attending the Junior National Young Leaders Conference in Washington, D.C., Brandon Greene took part in the program’s “Voices of Change” project. At the completion of the activity, Brandon was encouraged to use the leadership skills he learned through the project and make a difference in his own community. As a result of his efforts, Brandon was then invited to the White House to meet withPresident Obama and First Lady Michelle Obama, and was specially recognized by the President for displaying such courage and leadership.”

Ngay cả Tổ chức Vietnamese Heritage Festival của NĐT cũng “đu gió” theo The Heritage Foundationcủa Phái Bảo Thủ Mỹ để kiếm Phân:

“The Heritage Foundation is the nation’s most broadly supported public policy research institute, with nearly 700,000 individual, foundation and corporate donors. Heritage, founded in February 1973, has a staff of 255 and an annual expense budget of $75.3 million.” (http://www.heritage.org/initiatives/protect-america)

Qua những bằng chứng trên, những danh xưng trong các tiêu đề đều nhắm vào mục đích promote Tổ chức tương lai của NĐT “Young Vietnamese American Leaders.” YVAL không chỉ thay thế BPSOSmà cả NOVAL vì đó là “xu thế thời đại” của các Tổ chức xin Phân hiện nay! (Giờ này còn người Việt nào vượt biển để Cứu? Không lẽ chuyển sang cứu người Châu Phi hoặc Cuba vượt biển?) Bởi vậy chuyện NĐT phân bua không có Tổ chức YVAL hoặc NOVAL hoàn toàn không phụ thuộc vào BPSOS, nhất là chuyện: “Tòa Bạch Ốc dùng từ ‘Vietnamese American Leaders’ nhằm chứng tỏ sự tôn trọng đối với phái đoàn” là một lời tự biện và phản bác có tính mục hạ vô nhân, coi thường sự hiểu biết của bàn dân thiên hạ!

Cả việc “Một Dân Biểu liên lạc với bộ phận Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống” cũng chỉ chuyện là hư cấu để đánh hỏa mù việc điều hợp viên Tuyết Dương thay đổi chương trình, gài nhân sự trẻ, và gợi ý bằng những câu hỏi giúp Billy Lê, Cindy Đinh quảng cáo thành tích của họ tức của YVAL cho mục đích xin Phân sau này. Hoa Kỳ là một cường quốc lãnh đạo thế giới tự do, làm sao có chuyện chính phủ can thiệp sâu vào việc chọn người phát biểu, phải phát biểu như thế nào… giống loại “tự do phát biểu theo lề phải kiểu CS?” Tôi cũng đã từng phát biểu tại Điện Capitol, Liên Hiệp Quốc… và tại những nơi nầy, cơ quan thẩm quyền chỉ thông báo Danh Sách những cấp chức chính quyền tham dự, phát biểu và thời lượng buổi Briefing của Phái đoàn ta kéo dài bao lâu. Tại những cuộc họp này, có quan chức chỉ tới đọc diễn văn rồi đi, và chuyện “ông nói ông nghe, bà nói bà nghe” là “chuyện thường ngày ở huyện” sau đó mọi việc “vẫn như cũ,” chẳng ai quan tâm giải quyết tiếp. Xem hình LT thuyết trình ở hai nơi này tại hìnhSố6 (h4b).



Tất cả công đoạn “Treo đầu heo bán thịt chó” được thực hiện hoàn hảo nhờ tay LS Tuyết Dương (TD), một đồng sự cũ thuộc BOPSOS, một “Demi-Monica” tức được nhận nội trú như Monica Lewinsky nhưng thiếu phần Bill Clinton và kèn Saxophone. TD sau đó được thu nhận làm nhân viên cấp thấp trong Bộ phận Đặc trách Cộng đồng Á Châu. “TD tự nhân danh Toà Bạch Ốc” để thao túng, lũng đoạn chương trình buổi họp bởi vì mỗi Nghị Sĩ, Dân Biểu, Giám Đốc… đều có đủ loại nhân viên, và mỗi việc được giao cho người phụ trách quan hệ giải quyết. TD người Mỹ gốc Việt nên được giao phụ trách làm điều hợp viên chương trình tiếp Phái đoàn người Mỹ gốc Việt cũng như cô Anh Trần của Councilman Kansen Chu hay cậu Thế Vũ của Supervisor Dave Cortese là lẽ đương nhiên. Do đó vấn đề chỉ riêng video clip củaQuốc Khanh, thuộc nhóm SBTN, được đưa lên trang Tuổi Trẻ Yêu Nước vì tập trung vào chủ đề và chủ điểm chính của tinh thần TNT: Nhân quyền cũng nằm trong chủ ý của TD: Cố ý “ém nhẹm” những phát biểu có lợi cho việc xin Phân của YVAL, bởi những tài liệu này có thể “destroy” chút uy tín còn lại của NĐT đối với CĐNVTN.

2. TỔNG THỐNG OBAMA TIẾP KIẾN: NĐT cố tình phịa ra vụ Obama tiếp kiến để thu hút nhiều người và phái đoàn đi Washington tham dự buổi thuyết trình bằng cách rỉ tai, mập mờ cho TH về tin được Tổng Thống Obama tiếp kiến nhưng yêu cầu TH giữ kín, đừng thông báo để kích thích TH chuyển tin nầy cho các người cộng tác thân cận. Nam Lộc bị mắc lỡm nên hào hứng tiết lộ: "Tổng thống Obama đã ‘xin gặp’ đại diện cộng đồng Việt Nam!” Khi mọi người bất mãn về vụ Obama, nhất là Việt Dzũng với lời phê phán “TBO vô lễ,” NĐT bèn “bán cái” tội phao tin cho TH để chạy tội. Hãy xem bằng chứng trong hình Số7 (h18). Chính NĐT đã xác nhận và công bố tin “Tổng Thống sẽ nói chuyện với chúng ta về vụ TNT” trong trang Web của BPSOS với câu: “If we successfully collect 25,000 petitioners in 30 days, the President will address our petition” để câu khách có lợi cho vụ xin Phân của YVAL chứ đâu phải Trúc Hồ hay Nam Lộc là thủ phạm như một số người lên án vì mắc mưu NĐT!

3. XIN PHÂN CHO YVAL: Làm thế nào để việc tiếm lực, tiếm danh 150.000 chữ ký qua trò “lập lờ đánh lận con đen” dùng tên Tổ chức mình thay thế cho CĐNVTN, đặc biệt những người ký TNT, có thể gây lợi cho việc xin Phân của YVAL. Ai cũng biết, yếu tố quan trọng nhất trong vấn đề kiếm việc làm, xin Phân là Résumé, tức hồ sơ thành tích và khả năng. (Résumé: a brief written account of personal, educational, and professional qualifications and experience, as that prepared by an applicant for a job.) Đâu cần TBO can thiệp? NĐT chỉ cần dùng các tư liệu: Trang Mạng Thỉnh Nguyện Thư We The People của Tòa Bạch Ốc, hình ảnh gần ngàn người biểu tình ngoài TBO, Phái Đoàn gần 200 người được TBO tiếp kiến, hơn 500 người tràn ngập Điện Capitol, các văn thư liên lạc của TBO trong vụ TNT, trong đó danh xưng chính thức được dùng là: “Young Vietnamese American Leaders,” các Video Billy Lê và Cindy Đinh quảng cáo thánh tích YVAL… trong Résumé thì có Tổ chức nào có thể cạnh tranh, qua mặt được YVAL với 150 ngàn thành viên (dởm, rởm) trong việc xin Phân trong công tác đào tạo lãnh đạo trẻ cho sắc dân thiểu số VN?! Ban giám khảo và các nhân viên cao cấp thuộc cơ quan của đề án xin cấp khoản sẽ ưu tiên tuyển chọn YVAL trong quá trình sàn lọc và cấp ngân quỹ cho YVAL cần gì TBO can thiệp?! NĐT không chỉ ‘Mượn hoa cúng phật, mượn đầu heo nấu cháo, chôm credit’ mà còn ‘Cướp công’ Đồng Bào theo kiểu VC ‘Cướp chính quyền’ biến một cuộc đấu tranh thành công nhất của CĐNVTN từ trước đến nay trở thành cuộc vinh danh thành tích và xin Phân của tổ chức YVAL một cách trắng trợn, còn dám chối cãi quanh co!

Trong bài thơ Valentine 2000s, tôi đã phân tích các loại DÂM gồm: Khứu dâm, thính dâm, vị dâm, thị dâm, xúc dâm, cuồng dâm, bạo dâm, ác dâm, hội dâm, cưỡng dâm, hiếp dâm, loạn dâm, đồng dâm, thủ dâm, khẩu dâm, kê dâm, nhủ dâm, ấu dâm, lão dâm, nhị dâm, nhất dâm, thú dâm, tử (thi) dâm, giả dâm, trang dâm, phô dâm, khổ dâm, lỗ dâm và phẩn dâm. Giờ cần thêm một loại dâm khác “Phân Dâm.” “Phẩn dâm” và “Phân dâm” khác nhau một điểm: “Phẩn dâm” thích mùi c… nên trét c… đầy tường để hưởng mùi phẩn. “Phân/Fund dâm” thích mùi tiền nên vơ vét tiền bất cứ cơ hội nào, đối tượng nào, kể cả từ những gái điếm nạn nhân, để hưởng mùi tiền. Vì vậy trong tất cả bài viết, thông điệp, NĐT đều hướng mục tiêu tối hậu vào việc “make money.” Từ “Thông Điệp Hy Vọng và Trách Nhiệm” để bán sách, các trang Web BPSOS trang nào cũng “Donate, Sponsor, Raise Fund, Quảng cáo cho Southwest Airline” đến cả bài “Chiến Dịch Vận Động: Đạt Mục Tiêu” NĐT đã dùng Nạn Buôn Người để minh họa cho phương pháp “Chọn việc, Bám chặc” rồi đi đến kết luận: “Chọn đúng việc để làm và bám trụ với công tác Nạn Buôn Người ở VN, quyết tâm quyết chí thực hiện điều này trong ba năm tới, thì chính chúng ta sẽ mở ra vận hội cho dân tộc để tự giải thoát! Đúng là ngoa ngữ! Cần viết chính xác bằng cách thay từ “dân tộc” bằng NĐT và VC: Vận hội cho NĐT trở thành triệu triệu phú và Thái Thượng Hoàng hay vận hội cho VC nắm toàn bộ CDNVTN qua các Leaders du sinh do NĐT ra công đào tạo, huấn luyện bằng Phân lấy từ tiền đóng thuế của người Việt gốc Mỹ?!

III. VỐN CHÍNH TRỊ: NĐT tuyên bố: “Trong việc mở cánh cửa TBO cho cộng đồng, chúng tôi phải dùng uy tín ấy, phải chi ra khá nhiều vốn chính trị, chứ không phải nhờ có một trăm mấy chục ngàn chữ ký mà TBO tự động mở cửa đón chúng ta đâu.” Đúng là câu nói của “anh chột trong xứ mù,” “mục hạ vô nhân” do bệnh mắt bồ lệch. Trước kia tôi cũng từng nhầm “Cái vốn Chính trị” của NĐT, tưởng nhầm NĐT cũng thuộc hạng chỉ dưới cơ BS Nguyễn Quốc Quân, và dựa trên giả thuyết nầy để viết bài: “Tại Sao Tổng Thống Obama Không Tiếp Phái Đoàn.” Nhưng sau khi hỏi chuyện, những nhân vật thông thạo Washington cho biết NĐT thuộc loại “cóc cắn” do bản chất “bủn xỉn” bẫm sinh, tức “Chỉ có ăn mà không có ị!” Không kể đến những thành phần vận động hành lang sẵn sàng chi vài trăm ngàn hay vài triệu MK, NĐT còn dưới cấp cả những người thường chiêu đãi các quan chức Beefsteak tại Ruth’s Chris giá một vài trăm vì “Ngài kẹo kéo” chỉ chịu chi cho những nhân viên cấp thấp bữa Dinner bình dân giá dăm bảy chục! Bởi vậy, khi nhờ NĐT đóng vai liên lạc với TBO, TH chứng tỏ thiếu kinh nghiệm về hoạt động của giới chính trị Mỹ.

Muốn gặp Tổng Thống Mỹ thường phải qua một trong hai kênh chính.

1. Kênh gián tiếp: (1) Giới thế lực: Nhờ các Tổ chức Công đoàn, Gia đình Kennedy, Ngoại trưởng Hillary Clinton… giới thiệu. (2) Giới thân cận: Nhờ Phụ tá, Manager, Phát ngôn viên… của Tổng Thống giới thiệu. (3) Giới thân nhân: Nhờ Đệ nhất Phu nhân hay hai Công chúa Malia và Sasha giới thiệu. Chỉ cần bạn học hay cô giáo của “hai cục cưng” bỏ nhỏ một tiếng, Obama sẽ đích thân Welcome Phái đoàn.

2. Kênh trực tiếp: Những thành phần mạnh TIỀN như Do Thái hay mạnh PHIẾU như Cuba, họ có thể liên lạc trực tiếp với Tổng Thống.

Đó là nói đến thành phần Lobby Mạnh Thường Quân, những người “ban ân huệ” bằng cách cung cấp tài chánh và phiếu nên thường được các vị dân cử nồng nhiệt chào đón. Thành phần Xin Phân, trái lại, là những kẻ chầu chực “xin ân huệ” gây phiền toái, bực mình nên thường bị lãng tránh xua đuổi, làm gì có uy tín và ảnh hưởng?

Có thể dùng một tỉ dụ đơn giản dễ hiểu. Phòng tiếp khách của các Dân Cử, Lập Pháp hay Hành Pháp, ví như một quán ăn sang trọng. Thành phần Lobby là những khách sộp thuộc loại Hắc-Bạch Công tử, ném tiền qua cửa sổ. Mỗi lần họ ghé ăn, không chỉ Manager, Chiefcook mà cả Chủ quán cũng lăng xăng ra tận bàn tiếp đón. Thành phần Xin Phân là đám homeless và ăn xin lẫn quẫn kiếm ăn. Những tiệm sang không muốn “view” đẹp của tiệm mình bị thành phần nầy “ám quẻ” nên thường cho bồi đi phát chẩn (phát Phân) và ra điều kiện không được bén mãng gần quán. Nhưng vẫn có những tay ăn xin đi đường tiêu lòn, đút lót tên gát cổng ngoài vài điếu thuốc, nên có thể lãng vãng trước mặt tiền ngoài đường mà không bị đá đít đuổi đi. Có tay ăn xin “xịn” hơn có khả năng biếu tên gát cửa trong vài gói thuốc, chai bia nên được y nhắm mắt làm lơ cho lạng quạng trong sân quán ăn kiếm thêm tiền bố thí của khách. Vốn chính trị của NĐT thuộc gát cổng ngoài, chỉ giao thiệp với cấp cóc cắn, tà lọt của các Sếp bằng những bữa Dinner rẻ tiền dù “gian lận” tiền Phân khá ấm túi. Trong vụ TNT, cấp cao nhất NĐT liên lạc là LS Tuyết Dương, nhờ là đồng sự cũ trong Tổ chức BPSOS.

CĐNVTN ở Hoa Kỳ chỉ có 3 người đủ khả năng quan hệ cấp cao trong TBO và Điện Capitol. Đó là: Đỗ Hoàng Điềm, Bác Sỉ Nguyễn Quốc Quân và Tỉ phú Trần Đình Trường. ĐHĐ hay nói chính xác Việt Tân với số vốn liếng Đồng Bào yểm trợ ngày xưa sau bao nhiêu năm đầu tư khắp thế giới giờ có thể lên gần trăm triệu. NQQ với nghề Bác Sĩ và hàng chục năm dành dụm, tài sản cũng có thể tới dăm ba chục triệu. Hai nhân vật nầy đã từng được Tông Tông George W. Bush đón tại Bạch Ốc vào năm 2007. Đảng VT còn lobby để sinh viên Nguyễn Tiến Trung và Nguyễn Hoàng Lan được Bush tiếp. Riêng BS Quân, biệt thư của ông là nơi trình diện của các Đại sứ Mỹ trước hay sau khi đi nhận nhiệm vụ tại Hà Nội. Tỉ phú TĐT trong vụ khủng bố 9/11 đã tặng quỹ cứu trợ nạn nhân 2 triệu Mỹ kim và trong nạn đói năm 1984 tại Ethiopia, đã tặng các tổ chức cứu trợ nạn đói 2 máy bay trực thăng, tuy có thừa khả năng tài chánh nhưng không quan tâm đến chính trị. Giao việc tiếp xúc TBO cho NĐT không chỉ “giao nhầm người” còn “giao trứng cho ác” thì phải chịu hậu quả bi thương. “Tiền mất tật mang” là vậy.

Không chỉ phá hỏng cuộc Briefing tại TBO, NĐT còn biến những Phái đoàn gần 500 trăm người đi vận động Quốc Hội thành “những toán lang thang vật vờ giữa trời giá buốt hay lạc lỏng bơ vơ giữa các hành lang Quốc Hội như rắn mất đầu, mỗi người tự tìm đường đi đến văn phòng các vị Dân Biểu, Nghị Sĩ, người lạc góc này kẻ ơi ới góc khác, mỗi người mang theo một hồ sơ không biết là loại hồ sơ gì, không biết trình bày đề tài gì với ai, người nào có thẩm quyền, kết quả sẽ đi về đâu” (như lời một nhân chứng kể) vì những Leaders đến trễ. Tại sao vậy? NĐT bị các “Tu Hú” của 15 văn phòng BPSOS ép buộc “xé lẻ” các Phái đoàn đến từ 50 Tiểu bang thành 50 nhóm, mỗi nhóm gồm thành viên của những Phái đoàn khác nhau để họ dễ điều khiển và đứng ra Lead, dẫn đường. Do các Phái đoàn ngụ khác khách sạn, nên phối hợp phương tiện di chuyển khó khăn, tập hợp người rắc rối lộn xộn. Các Leaders “tu hú” BPSOS không mặn mà với công tác lăng xê YVAL xin Phân của NĐT nên làm cho có lệ. “Vốn chính trị” mà không biết việc xé lẻ các Phái đoàn gây hậu quả nghiêm trọng khi các Dân Biểu, Nghị Sĩ không quan tâm hoặc không “hưỡn” để tiếp khách các Tiểu bang khác, không phải cử tri Tiểu bang mình đại diện hay sao? “Tu Hú” thuộc thành phần Lobby có thừa tiền để có thể đưa người vào TBO không qua NĐT, còn “chơi gác” khi yêu cầu “Thượng cấp” của LS Tuyết Dương gửi email trả lời thẳng cho mình, thay vì cho NĐT. Đó là lý do tại sao NĐT, vì muốn bình an ăn Phân, phải nhẫn nhục chịu đựng “trăm cay nghìn đắng” để Tu Hú “ăn trên ngồi tróc; ngồi trên đầu trên cổ” mà chỉ dám “oán than” một lần với lời rũa sả “Đảng phái thiếu đạo đức” để “bán cái” trách nhiệm cho Tu Hú và để chạy tội khi việc “Ly miêu hoán Chúa” để promote YVAL làm “Cần câu Bluefin” bị Trúc Hồ và Phái Đoàn lật tẩy.

Ngoài việc tự xem mình và BPSOS là lãnh đạo chính của Petition Campaign và SBTN chỉ là một Mũi Xung Kích, việc TBO mở cửa là do “vốn chính trị” của mình, Vua Nổ NĐT còn đao to búa lớn với những bài viết giống sách giáo khoa thư dạy tiểu học, khoa trương việc đào tạo Tổng Thống, Nghị Sĩ, Dân Biểu, Bộ Trưởng người Mỹ gốc Việt tương lai cho Hoa Kỳ theo đường Bá đạo, còn tự quảng cáo rằng BPSOS tiếp cận được 150.000 gia đình qua TV và 200.000 gia đình qua Radio Số8 (h19)! Và con số định mệnh 150.000 gia đình TV lại trùng khớp với 150.000 chữ ký TNT! “You shoot yourself in the foot” nên đừng trách người. Hãy tự trách chính mình, trách cái “Bệnh Lãnh tụ + Bệnh Phân dâm” cái lòng tham Danh-Lợi vô đáy đã làm mờ mắt.

IV. DANH – LỢI VÀ OSIN CSVN: Bằng Chứng NĐT dùng việc Từ Thiện phục vụ mục tiêu DANH-LỢI, đặc biệt bằng chứng gian lận các cấp khoản được Văn Phòng Tổng Kiểm Tra của Bộ Tư Pháp công bố; BPSOS là OSIN của VC.

1. GIAN LẬN QUỸ NẠN BUÔN NGƯỜI:
Xem Web: http://www.justice.gov/oig/reports/OJP/a0826/final.pdf hay các Hình ảnh sau:
Trong hình Số9,10,11 (h13, 14, 15) có thể tổng kết NĐT ôm tóm trọn bộ 21 Tổ chức để ăn Phân. HìnhSố12 (h5) riêng Tổ chức NEST kiếm 3 triệu, hình Số13 (h6) Bão Katrina kiếm 4,5 triệu và hình Số14 (h7) Nạn Buôn Người kiếm 2,3 triệu ($1,896,535 + $325,000). Hình Số15,16 (h8,9): Phòng Tổng Kiểm Tra của Bộ Tư Pháp công bố TS Thắng gian lận $700,000 của quỹ Nạn Buôn Người gồm các số tiền$90,296, $77,588, $36,272, $152,583, $294,575,$57,000. (Chưa có tài liệu gian lận các quỹ khác.) Để giải quyết vụ gian lận nầy, Cáo già NĐT đã dựng lên 15 văn phòng BPSOS với 140 nhân viên toàn thời gian trên đất Hoa Kỳ để cứu tổng cộng 74 người từ năm 2003 đến 2006 (10 người/2003 + 5/2004 + 41/2005 + 18/ 2006) với tổng số tiền $2,221,535!

Chỉ tại Mỹ mới có cảnh khôi hài cười ra nước mắt nầy! Nhất là giờ nầy lại dùng 15 văn phòng và 140 nhân viên để OSIN du sinh VC theo kế sách 2 điểm “Chọn việc và Bám trụ!” Vậy mà NĐT vẫn to mồm chối bai bãi còn dạy đời: “Họ cần học tinh thần dân chủ, không nên kết tội khi chưa có thể chứng minh có tội. Đó gọi là nguyên tắc ‘lợi ích của sự hồ nghi’. Nếu có sự gian lận thì đã có việc truy tố hình sự, đã có toà án xét xử, và có thể đã có người đi tù hay bị trừng phạt.” Ngay cả khi dẫn chứng bằng câu: “Muốn phối kiểm những điều tôi nói ở trên thì rất dễ. Chỉ cần lên trang mạng:
www.justice.gov/oig/reports/OJP/a0826/findings.htm” NĐT lại cố tình cho tên trang mạng SAI. Không tin Quý Vị cứ vào thử sẽ nhận được câu: “We are sorry, but we are unable to locate the page you requested on the Department of Justice web site.” Tại sao? NĐT cố tình viết sai hàng chữ cuối “final.pdf” thành “findings.htm!” Muốn xem bằng chứng gian lận, hãy vào: http://www.justice.gov/oig/reports/OJP/a0826/final.pdf.


















Dù giải quyết ổn vụ gian lận $700.000 bằng cách “xây 15 tổ cho 140 con Tu Hú ăn lương vào đẻ” để rồi chỉ biết ấm ức bóng gió “đảng phái Thiếu Đạo Đức,” NĐT vẫn còn mang tội “cắt cổ, nhổ lông” các nạn nhân của mình qua việc chỉ chi cho họ 6.7% tiền cứu trợ. Hình Số17 (h10) chỉ rõ trong số quỹ$1.896.535 nạn nhân nhận trực tiếp chỉ $127.987 tức 6.7%. NĐT tự trả lương Giám Đốc cho mình và các dịch vụ linh tinh vô bổ kia 93,3% tức $1,768,548.

Thử tưởng tượng, nếu ta yểm trợ Thương Phế Binh $100, Ban Tổ Chức chỉ gửi cho họ $6.7 và claim chi phí tổ chức gây quỹ tốn hết $93.3, quý vị nghĩ sao?! Những Tổ chức nầy còn đang tranh đấu để các gái mãi dâm không bị truy tố, được xem là nạn nhân cần được bảo vệ và được cấp quy chế tị nạn. Nếu vậy, VC sẽ phát động Chiến Dịch xuất khấu gái mại dâm. Thắng: kiếm bộn tiền. Thua: trở thành công dân Mỹ và sẽ có một vụ Great Exodus (Cuộc di cư/tỵ nạn vĩ đại) qua đường gái mại dâm đến Mỹ trong tương lai nhờ Tú Ông NĐT!

Đành rằng bất cứ một tổ chức nào khi muốn hoạt động hay đấu tranh cho Nhân Quyền cũng cần có quỹ, có tiền. Nhưng để lòng tham biến “Cần câu cơm” thành “Cần câu Bluefin” thì quá tàn nhẫn. Ngoài Phân chính phủ, trong các trang mạng của Tổ chức BPSOS, trang nào cũng kêu gọi Donate, Sponsor, Raise Fund chưa kể mục quảng cáo cho hãng máy bay Southwest hình Số18,19 (h11,12). NĐT có công bố đã nhận tổng số tiền yểm trợ của Đồng Bào và chi vào những mục gì lần nào chưa? Còn có tin những anh chị em Lai trước đây từng nghe lời đóng tiền cho tổ chức BPSOS để nhận lấy những lời "hứa lèo" của NĐT trong việc giúp cho họ vào quốc tịch hay người tị nạn tại Kampuchia rất sợ khi gặp Phái đoàn NĐT. Lý do: Theo họ, NĐT chỉ khuyên hồi hương hoặc không làm bất cứ gì để giúp họ tị nạn tại nước thứ ba. Ai là nạn nhân hay nhân chứng hai vụ nầy xin lên tiếng.

2. ĐỘC QUYỀN ĂN PHÂN: NĐT một mình ôm đồm 21 tổ chức ăn Phân, không muốn bất cứ người Việt nào dính líu vào các hoạt động từ thiện cạnh tranh mình. Do đó NĐT đã kiện Tổ chức Ủy Ban Quốc Tế Tự Do Tôn Giáo Cho Việt Nam (ICRFV) của LM Nguyễn Hữu Lễ, một tổ chức và chức sắc tôn giáo từng hợp tác với mình và đòi bồi thường thiệt hại từ 25,000 đến 75,000 Mỹ Kim mặc dù LM Lễ đã trần tình:“Chúng tôi cũng xin thưa rằng việc tranh tụng giữa hai tổ chức bất vụ lợi cùng chung mục đích sẽ chẳng mang lại ích lợi nào, ngược lại còn tạo khó khăn cho việc làm của chúng ta. Chúng tôi đã có nhiều cố gắng bằng mọi cách để giải quyết trong tình thân ái nhưng vô hiệu quả!” Số20 (h17)Vậy bản thân NĐT chôm luôn tên Boat People SOS Committee của GS Nguyễn Hữu Xương chỉ đổi 1 chữ Committee thành Inc. (Incorporated) tức Boat People SOS Inc. trong Số21 (h16) lại được xem là chính danh, hợp pháp? 13 Tổ chức Envision EMI hầu hết chỉ khác nhau 1,2 chữ sao không thấy họ theo gương NĐT kiện cáo đòi bồi thường?

3. OSIN CỘNG SẢN: Tên BPSOS INC, hình Số22 (h20), chỉ cần chuyển chữ S thứ ba vào vị trí cuối sẽ trở thành: BP OSIN CS tức Boat People Osin Cộng Sản! Có phải đây là ngụ ý NĐT khi đổi từCommittee thành Inc. như nhà may Đoàn Mừng, nhà thầu “nằm vùng” may đồ trường Võ Bị ở Đà Lạt trước năm 1975. Khi VC tiếp thu, ý nghĩa của tên Đoàn Mừng, mới được giải thích: Mừng Đoàn quân giải phóng! Có lẽ sau khi các du sinh VC đã trở thành lãnh tụ nắm toàn bộ các cơ cấu lãnh đạo của CĐNVTN tại Mỹ, NĐT mới hé lộ “bí mật” nghĩa ẩn dụ của từ BP OSIN CS? Ba hình H2, 3, 4 chụp 3 thời điểm “thò ra, thụt vào” của BPSOS và VAL cũng là ý đồ của Tổ Sư NĐT hay lại là trò đùa thăng trầm của số phận? Chỉ Trời và NĐT biết rõ! Không lẽ Báo Điện Tử Đảng CSVN cũng vô tình giao nhiệm vụ OSIN cho NĐT khi quảng cáo: Một trong hai tổ chức toàn quốc của người Việt tại Mỹ là Boat People SOS, có văn phòng đại diện trên 15 tiểu bang… Đó là hai tổ chức có tầm vóc toàn quốc… sẵn sàng tham gia giúp đỡ, bảo vệ các du học sinh Số23 (h21).

4. LỢI ÍCH CỦA SỰ HỒ NGHI: Riêng nguyên tắc nầy của NĐT cũng đã xứng đáng với nhận xét kiếu CS: “Trí thức không bằng cục Phân” (Nhất là trí thức “ăn Phân!”) Nếu áp dụng theo kiểu NĐT, khi bị chỉ trích, kết án chỉ cần tuyên bố: “Beyond doubt” là xong, không cần phải dẫn chứng biện hộ, thì tại sao nước Mỹ cần đến một lực lượng Luật sư khổng lồ nhất thế giới?! Lý sự cùn kiểu NĐT, tất cả LS đều thất nghiệp! Theo Thống kê, tại Việt Nam tỷ lệ Luật Sư trên số dân: 1 luật sư/17.000 dân, tại Thái Lan: 1/1.526, tại Singapore: 1/1.000, tại Nhật Bản: 1/4.546, tại Pháp: 1/1.000 trong khi tỷ lệ này ở Mỹ lại cao nhất:1/250! Cứ 250 dân cần phải có 1 LS bảo vệ! Điều này chứng tỏ tại Hoa Kỳ Công Tố có “Tự do ngôn luận, Tự do phát biểu” tuyệt đối nên toàn quyền, tự do kết án tùy ý, tùy tiện dù vô lý nhất, do đó cần phải có một lực lượng LS khổng lồ như vậy mới giữ được công lý, công đạo cho dân Mỹ?! Khi Lý Tống tôi bị mấy tên “ma mèo ma mút” bịa tin: “Đạo thơ, Cướp công của đàn em Thiếu úy Hóa” tôi cũng phải trích bằng chứng để cho Đồng Bào chưa từng đọc sách Ó Đen thấy mình “trong sáng, vô tội, bị vu cáo” qua các câu: “Thiếu úy Hóa, Phi công trẻ nhất, bất ngờ tình nguyện sau chót lại bất ngờ dứt điểm một cú đẹp đầu tiên. Tôi (Lý Tống) quành lại, bổ nhào xuống góp những trái bom khiêm nhường đánh bồi vào chiếc cầu vĩ đại đang sụp đổ.” (Phi Vụ Tử Thần, Ó Đen p.60) hay “Của một người tị nạn tại Sikew, Thái Lan. Lý Tống bổ túc” (Trong Mơ Ta Thấy Việt Nam, Ó Đen P. 458) mặc dù 50% bài thơ nầy do tôi viết vì không nhớ.

Hay vụ Cảnh sát kết án “Chống cự khi bị bắt” (Resisting arrest), nếu tôi không đem hình ảnh, đặc biệt Video tại Convention Center, để nhờ Luật sư chứng minh ngược lại thì chuyện tôi sẽ bị bỏ tù sai trái về tội này sẽ không thể nào tránh khỏi! Như vậy chỉ có NĐT mới có toàn quyền bắt các người chỉ trích mình đưa bằng chứng còn mình thì không cần đưa bằng chứng để biện hộ? Và những báo cáo của Bộ Tư Pháp, Báo Điện Tử Đảng CSVN, các tài liệu từ Web của NĐT, Thư LM Nguyễn Hữu Lễ… vừa trích dẫn không phải là bằng chứng?! Vậy bằng chứng NĐT đòi hỏi là loại nào?

5. THÁI THƯỢNG HOÀNG NĐT: Sách Thông Điệp Hy Vọng & Trách Nhiệm của NĐT được quảng cáo như một cuốn cẩm nang cho mọi người Việt muốn trở thành lãnh tụ như NĐT, dạy cách đào tạo lãnh đạo, khả năng lãnh đạo cho thế hệ nối tiếp, các chuyên gia và những nguyên tắc căn bản để thành công từ việc nhỏ đến việc lớn! Cuốn cẩm nang nầy còn dạy cho những ai muốn kinh doanh không cần vốn, chỉ cần xin Phân như NĐT đã thành công trong mấy chục năm qua. NĐT còn muốn biến các Chi Nhánh của BPSOS Inc. ở một số Tiểu Bang thành Chủ Soái Lãnh Đạo các Cộng Đồng địa phương một cách hiệu quả theo lời NĐT. Có thể NĐT muốn ngụ ý đến việc bảo vệ du sinh CSVN và tổ chức huấn luyện đội ngủ nhân lực này, giúp chuyển chúng thành dạng tị nạn hay chuyên viên, cùng những tên nằm vùng trở thành "Young Vietnamese American Leaders" cai trị Người Việt Hải ngoại trong tương lai?

Tài lãnh đạo của NĐT đã tự bộc lộ trong bài có tính “tự phê” một cách chính xác:

Lãnh Đạo Tài, Lãnh Đạo Tồi: “Xét vậy, người mang ‘hội chứng lãnh tụ’ (như NĐT) thì tất nhiên không thể nào là người lãnh đạo tài. Tiếc rằng hội chứng này không chỉ có nơi người cộng sản mà ít nhiều bàng bạc trong hàng ngũ những người Việt tự nhận là tranh đấu cho tự do, dân chủ!” Và bài:
Chú Paul Vân trả lời Cháu Túy Phượng: “Thiễn nghĩ Cháu không nên chuyễn phổ biến những bài của Nguyễn Đình Thắng hay tập đoàn nào đó viết thay cho NDT, với giọng kẻ cả xấc xược như giọng điệu của cán bộ giảng dạy trong trại tù cải tạo tập trung lên lớp trả bài thuộc lòng phun ra những từ ngữ dao to, búa lớn góp nhặt những triết thuyết xa vời, hổ lốn khắp đò đây. Những Người Lính Chiến ngày nào nay đã trên 70, 80 hoặc 90 tuổi đời, đôi ba chục tuổi lính cũng như thân phụ của cháu (Trung Tướng Ngô Dzu) lúc sinh thời không chấp nhận ngồi nghe giọng kẻ cả, lãnh tụ của những tên đầu cơ tâm lực người khác cho mục đích chính trị, thương mại (con buôn chính trị) tham lam, vị kỷ.”

Tôi dùng câu nhắn nhủ của Trương Vĩnh Khôi để kết thúc bài “Tại Sao Tôi Muốn ‘Tiêu Diệt’ TS Nguyễn Đình Thắng?” “Trong các cuộc đấu tranh, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, vì bên cạnh chúng ta, không phải chỉ có bạn, mà còn có kẻ thù. Kẻ thù đây, không nhất thiết chỉ là bọn CS, mà còn là những kẻ lợi dụng lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của chúng ta, để phục vụ cho mục đích riêng tư, cho tiếng tăm, tên tuổi, quyền lợi của họ. Các dụng ý xấu xa này làm mất đi ý nghĩa của cuộc đấu tranh, và tạo điều kiện cho bọn CS và tay sai xuyên tạc, gây hoang mang bối rối cho cộng đồng. May mắn là chúng đã bị vạch mặt chỉ tên, với chứng cớ rõ ràng. không thể núp đàng sau những ngụy luận che đỡ, hay khoả lấp.”
    ĐIỂM SAI CỦA PHE CHỐNG THỈNH NGUYỆN THƯ
    (BÀI VIẾT TIỀN TÒA BẠCH ỐC)
Sau đây có thể lượt kê một số điểm SAI của Góp Giòi và những quan điểm đồng dạng.

1. CHỤP MŨ VC: Cái đòn thông dụng nhất làm phân hóa và suy yếu CDNVHN là chụp mũ VC bất cứ ai mình ác cảm, do hận thù cá nhân, do ghen tị, do lợi ích riêng… kể cả những người có thành tích đấu tranh được hầu hết mọi người công nhận và vinh danh, ngoại trừ bản thân và phe nhóm người chụp mũ. Những “ị kiến” sau đây thực ra đã có ý đồ “ị bậy” dù việc dẫn chứng hay lập luận chưa đủ cơ sở để phán xét và định tội: “Chống cộng 2 mang;” “làm theo “yêu cầu” (đơn đặt hàng) của VC để đổi lấy việc ông tự do ra vào trong nước, đài SBTN tự do hoạt động trong nước;” “chỉ là một đòn hoả mù có tính toán nhằm làm giãm bớt sức ép của Quả Bom Đoàn Văn Vươn ở trong nước đối với bạo quyền CS Hànội bằng cách tung ra chiến dịch vận động trả tự do cho nhạc sĩ Việt Khang để đánh lạc hướng công luận người Việt hải ngoại!” So sánh việc phỏng vấn và trình chiếu những hình ảnh nói lên thực trạng nghèo khổ, lầm than của dân chúng hay những tệ nạn tại quốc nội của Thanh Toàn với những bài báo mang tính phá hoại của kẻ từng có thành tích mang biệt danh: “Sáu Hồ Hởi” trong nhà tù, có cháu gái lấy chồng du học sinh, con cán bộ VC ở Hải Phòng, thì ai xứng đáng nhận hai món VVS luôn luôn có sẵn: “Nón Cối và Dép Râu” hơn?!

2. XÁC NHẬN VC LÀ NHÀ NƯỚC PHÁP TRỊ: Luật VC là Luật Rừng, muốn bắt ai thì tạo ra trăm ngàn lý do và bằng chứng để bắt. Cần bắt tội phản động âm mưu lật đổ chính quyền, chỉ cần cho công an lén bỏ vài ký chất nổ vào nhà nạn nhân. Muốn hại bằng án hình sự, chỉ cần lén bỏ vài gói xì ke, ma túy vào túi kẻ muốn hại. Ngay cả dùng hai “bao cao su” để bôi đen uy tín một nhà tranh đấu như vụ án Cù Huy Hà Vũ VC cũng không từ nan. Vậy VC cần gì phải phí công nhờ 2 ông Trúc Hồ và Phạm Kim, qua tay Vũ Trực, giúp XÁC NHẬN Việt Khang là có tội “cấu kết” với bọn phản động ở nước ngoài mới có đủ lý cớ để bỏ tù tội “cấu kết với thế lực thù địch hải ngoại, âm mưu lật đổ chính quyền?!”

3. CẦN CÂU CƠM CHỐNG CỘNG: Con người không thể chỉ sống nhờ bằng không khí, một thứ hoàn toàn “free” và có thể nhận bất cứ nơi đâu. Nếu chỉ sống nhờ “nước” only, việc nầy cũng còn gặp khó khăn nếu nơi sinh sống là đô thị vì nước tại đây phải mua, không như nước “free” ở trong rừng hay miệt vườn. Vì vậy việc đấu tranh có liên hệ với việc mưu sinh của cá nhân hay gia đình cũng không phải là lý do đáng trách. Những chương trình đấu tranh có được nhờ từ tiền các dịch vụ quảng cáo. Áo thun, DVD chống Cộng muốn phổ biến không lẽ bỏ tiền túi in free, trả phí bưu điện? TS Thắng nhờ nhận Fund chính phủ mới có phương tiện sinh hoạt đấu tranh toàn thời gian để cứu giúp nạn nhân Boat People, Nạn Buôn Người… Báo Góp Giòi hay các báo của các “Thợ chửi” cũng sống bằng quảng cáo, tiền bán báo… “Cá sống nhờ nước!” Cái quan trọng là Đài, Báo đó có khuynh hướng phục vụ hay phá hoại Cộng Đồng và sự nghiệp chống Cộng. Do đó lên án “Đài SBTN mượn chiêu bài chống Cộng để làm chiếc cần câu cơm” hay "Ông Thắng xưa nay ăn fund của chính phủ để phục vụ đường lối và chính sách của chính phủ theo lối Thiên Lôi chỉ đâu đánh đó” và “Hai ông đóng tuồng vận động tranh cử cho Obama mà cứ y như là đấu tranh thiệt để giải phóng quê hương khỏi ách thống trị bạo tàn của VGCS” có thể do động cơ ganh tị giữa “Trâu buộc ghét trâu ăn?!” hoặc một lý do tồi tệ khác: Thuộc loại “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nên “Suy bụng ta ra bụng người?!”

4. SỨC MẠNH CỘNG ĐỒNG NVTN:

(1) “Năm 1975 khi Mỹ đã muốn bỏ VN thì dù chúng ta có lạy họ, họ vẫn bỏ.” Mỹ bỏ VNCH vì Phong Trào Phản Chiến ảnh hưởng đến tâm lý đại đa số Dân Mỹ. Một khi Dân Mỹ không muốn cưu mang một cuộc chiến “không chính nghĩa” theo ý họ, khuynh hướng cố hữu theo Chủ Nghĩa Biệt Lập (Isolationist) và quan trọng nhất: Cuộc chiến tranh Việt Nam (1964-1972) đã hao tốn cho nước Mỹ 346,7 tỷ Mỷ kim!

(2) “Và bây giờ Mỹ muốn trở lại VN thì dù cho bọn VC có muốn ‘chống’ cũng không được.” Câu khẳng định về sức mạnh cũa Mỹ tự mâu thuẫn với câu: “Ta nên nhớ rằng : Dù cho Tổng thống Obama có đích thân can thiệp, VC cũng không thả Việt Khang.” Ngoài ra Hoa Kỳ không phải là một “Đế Quốc xâm lược” như Nga, Tàu thời bành trướng Chủ Nghĩa CS hay Anh, Pháp thời bành trướng thuộc địa. Mỹ cứu được Dân Libya nhờ Nghị Quyết 1973 của LHQ. Mỹ chưa cứu được Dân Syria vì Nga và Trung Cộng bỏ phiếu chống lại Nghị Quyết Syria.

(3) “Thử hỏi cộng đồng VN hải ngoại có sức mạnh gì mà có thể áp lực chánh quyền Mỹ?” Thắc mắc nầy cũng mâu thuẫn với câu “CS Hànội không muốn cho CĐVN hải ngoại chú ý tới vấn đề này.” (Không có sức mạnh thì chú ý hay không ăn nhằm gì mà sợ?!) Vị thế của CDVNHN khác với VNCH trước kia. VNCH hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ về mọi phương diện và sống nhờ tiền viện trợ của Mỹ. CDVNHN là thành tố tích cực trong tổng lực tạo nên sức mạnh hiện tại của nước Mỹ. Là những Cử Tri, chúng ta có Thế và Lực để ảnh hưởng lên sự thắng-bại của các Đại Diện Dân Cử nếu chúng ta toàn tâm toàn ý sử dụng lợi thế này cho mục đích Cứu Quốc.

(4) “Ngay Hạ viện Hoa Kỳ đã ra Dự Luật Nhân Quyền, đòi đưa VC trở lại quy chế CPC... cả chục lần rồi, nhưng cứ bị Thượng Viện ngâm tôm hoài. Tại sao?” Trả lời câu này có thể dùng một câu hỏi khác: “Tại sao các Dự Luật liên quan đến quyền lợi người Do Thái và Cuba đều được thông qua dễ dàng?” Câu trả lời: TIỀN và PHIẾU.

5. DIỆN-ĐIỂM: ĐÁNH LẠC HƯỚNG: “Như vậy rõ ràng là : Cuộc vận động trả tự do cho Việt Khang chỉ là DIỆN. Còn ĐIỂM chính là đánh lạc hướng dư luận hải ngoại về trái bom Đoàn Văn Vươn!... “thổi phồng” vấn đề Việt Khang, biến Việt Khang thành “trái bom” nổ ở “hải ngoại” (chứ không nổ ở trong nước).” Diện này có điểm Sai điểm Đúng. Sai là điểm “đánh lạc hướng” bởi Đài SBTN cũng tường trình đầy đủ vụ chống trả bằng vũ khí tự chế của Đoàn Văn Vươn. Đúng là Đài SBTN xem trọng và dồn mọi nỗ lực biến Việt Khang thành “trái bom” nổ nhanh ở “hải ngoại” thay vì vụ Đoàn Văn Vươn để tạo nên “trái bom” nổ chậm ở “quốc nội.”

(1) Lý Do “nhả” Vươn “nương” Khang: Tại sao TNT không có tên Đoàn Văn Vươn? Điều này có lẽ do người điều hành rút kinh nghiệm từ vụ Lý Tống trong thời đại sau 9/11. Trong thời kỳ bị giam giữ tại Thái Lan, tôi đã yêu cầu Lê Ngoạn lấy tiền Quỹ chi 18.400MK cho DB Trần Thái Văn đi vận động để Quốc Hội Mỹ triệu Bà Suthathif, Thông Dịch Viên người Thái, qua Mỹ ĐIỀU TRẦN chứng minh tôi vô tội vì Bà là Nhân Chứng duy nhất can đảm xác nhận trước Tòa Thái việc “Phi Công Thira bị áp lực phải phản cung và Cáo Trạng tôi đe dọa Đâm phi cơ xuống đất để cướp phi cơ là hoàn toàn bịa đặt” ngoài bằng chứng khác: Tôi dùng 20.000 MK để “mua chuộc” sự hợp tác của Huấn Luyện Viên Phi Công Thira và số tiền này đã được Cảnh sát Thái tịch thu có ghi biên bản. Thay vì “ĐÒI CÔNG LÝ CHO NGƯỜI VÔ TỘI” DB Văn lại mặc nhiên công nhận CÁO TRẠNG bịa đặt của Tòa Thái, “XIN NHÂN ĐẠO VỚI TÊN KHÔNG TẶC” và hoàn toàn không thực hiện lời hứa dàn xếp một cuộc Điều Trần cho Nhân Chứng quan trọng nhất! Chuyến đi CỨU BẠN” trở thành “HẠI BẠN” bởi không Quan chức Mỹ nào “dám” giúp đỡ những vụ án dùng bạo lực sau 9/11 vì sợ vi phạm “Tiêu Chuẩn Nước Đôi/ Double Standard.” Giờ nầy mới thấy rõ nguyên nhân tại sao TTV lại quyết định phương án trái với yêu cầu để “HẠI” thay vì “CỨU” bạn! TTV có 2 đệ tử ruột. Đệ tử số một vừa nắm hầu bao vừa vạch sách lược là Bùi Mạnh Cường, người từng hướng dẫn phái đoàn một Thị trưởng Mỹ về VN mở quan hệ đối tác làm ăn. Đệ tử số hai là Nguyễn Phương Hùng, người dám trương cờ máu Việt Cộng và đăng toàn bài VC đánh các Thành phần và Tổ chức chống Cộng Hải ngoại trên trang nhà KBCHN.NET của y.

(2) Giải Pháp Thay Thế: NS Trúc Hồ và TS Nguyễn Đình Thắng vẫn có thể tranh đấu công khai cho ĐVV dựa trên các luận điểm:

a. Khử Bạn Tán Thù? ĐVV là một chiến binh CS có nhiều thành tích vậy mà VC còn trấn lột, cướp đoạt tài sản chẳng tha. Đồng chí đồng rận còn trừ khử thẳng tay vậy huống gì “bọn thù địch, đế quốc Mỹ?” VC dùng chính sách “vỗ béo để làm thịt.” Sau các tư bản Việt Kiều như Hoàng Vi Ðắc, Nguyễn Trung Trực, Trịnh Vĩnh Bình... sẽ đến những tư bản người Mỹ. Với luận điểm “kẻ khử bạn không thể tán trợ kẻ thù” Chính Phủ và Tư Bản Mỹ có thể xét lại chính sách đầu tư tại VNCS.

b. Quỷ Nương Vươn Bắt? DVV là một ấn chỉ vừa chứng minh sự bóc lột của Tư Bản Đỏ VC đã vượt qua bản án do chính tổ sư CS Karl Marx kết tội Tư Bản Xanh và “thời đại HCM, thời đại vinh quang nhất của lịch sử dân tộc” sắp cáo chung vì chính người CS đang và sẽ đứng lên chống và lật đổ bọn đầu sỏ VC! Như vậy việc Hoa Kỳ tăng cường quan hệ, nương tay và phù trợ quỷ đỏ, không can thiệp cho những người tự vệ cực đoan bị bắt nhưng Đoàn Văn Vươn tức “Quỷ nương, Vươn bắt” là tự hại, tự diệt.

Lý Tống