Friday, April 6, 2012

TAI SAO TÔI MUỐN “TIÊU DIỆT” TS NGUYỄN ĐÌNH THẮNG?! - Lý Tống

    TAI SAO TÔI MUỐN “TIÊU DIỆT” TS NGUYỄN ĐÌNH THẮNG?!
    (BÀI VIẾT HẬU TÒA BẠCH ỐC)
Lý Tống

I. TIỀN TÒA BẠCH ỐC vs HẬU TÒA BẠCH ỐC: Đã có người ghép tôi và một số người khác vào phe có ý đồ tiêu diệt Chiến Dịch Thỉnh Nguyện Thư và người lãnh đạo Chiến Dịch TNT (TNT) tức TS Nguyễn Đình Thắng (NĐT) và NS Trúc Hồ (TH) theo ý đồ của VC. Trước kia tôi đã đề cập danh xưngVAL/ YVAL là yếu tố chính gây ra sự phẩn nộ và lý do “lạc đề” của buổi thuyết trình tại Tòa Bạch Ốc (TBO). Giờ đây tôi muốn đề cập đến một yếu tố khác cũng ít ai đề cập: Đó là “Tiền TBO vs Hậu TBO.” Vậy tội “tiêu diệt” cần phân biệt nhiều loại: Tiêu diệt cả TNT lẫn NĐT và TH; tiêu diệt TNT only; tiêu diệt TH only hay tiêu diệt NĐT only và tiêu diệt trước ngày 5.3 hay tiêu diệt sau ngày 5.3. Bởi trước vụ TBO, TH hợp tác với NĐT, nhưng sau TBO, TH tố cáo những màn tráo trở trong TBO của NĐT. Như vậy, nếu theo luận điệu ba phải trên, chính TH vừa tiêu diệt NĐT, vừa tự tiêu diệt mình, tiêu diệt TNT do mình phát động, vừa là tay sai VC? Khi TNT vừa được TH+Đài SBTN và NĐT+BPSOS phát động, tức thuộc thời điểm Tiền TBO, tôi là người không chỉ yểm trợ bằng lời, còn bằng hành động: Ký TNT và chỉ trích những kẻ chống TNT mặc dù tôi thuộc phái chủ trương lật đổ CSVN bằng bạo lực. Không phải vì tin TNT sẽ gây cuộc “đổi đời” tại VN, bởi mạnh “PHIẾU” như Cộng Đồng Tị Nạn Cuba, dòng họ Fidel vẫn tiếp tục trường trị chưa có dấu hiệu lay chuyển và mạnh “TIỀN” như Do Thái họ vẫn phải tự lực chiến đấu vì sự tồn vong trong 4 cuộc chiến quan trọng vào các năm 1947-1948, 1956, 1967 và 1973. Tôi ủng hộ TNT vì đây là dịp hi hữu “hồi sinh tinh thần Đoàn Kết và chống Cộng tích cực của thập niên 1980s,” một bước khởi đầu cho những cuộc vận động tiếp theo.

Tôi mất đúng một ngày để ký được TNT cho mình do các sai nhầm khá lẩm cẩm: Viết email thiếu @

2. LÊN ÁN PHE CHỐNG TNT: Tôi đã viết bài phân tích những điểm SAI của phe chống TNT, đặc biệt Sáu-Bò-vàng, nhưng chờ buổi họp tại TBO để có thêm sự kiện, diễn biến để bổ túc (Xem bài “Những Điểm SAI của phe chống TNT” đính kèm). Cũng may, nếu tôi phổ biến sớm chắc đã bị HỐ nặng! Bởi vậy khi nghe tuyên bố của TH và Việt Dzũng về những bất ý xảy ra tại TBO, tôi đã vỡ mộng về NĐT giống tâm trạng người hàng xóm của vị nữ lưu được vua ban tặng bức hoành có 4 chữ: “TIẾT HẠNH KHẢ PHONG” mà mình vẫn ngưỡng mộ vừa bị lính lệ làng bên cạnh bắt quả tang làm Tú Bà một động điếm trong đó con trai làm ma cô và con gái làm gái chọi! Đó là lý do, vào thời điểm Hậu TBO, tôi và một số người từng ủng hộ NĐT đã phải quay ngược 180 độ chống NĐT sau khi dành một số quỹ thời gian để đọc các bài phê bình liên quan và thu thập các chứng liệu để xác định những lời tố cáo là sai hay đúng để tìm biện pháp cứu vãn niềm tin của Đồng bào vào một Phong Trào vừa hồi sinh nhưng “bạo phát, bạo tàn” bởi những nguyên cớ và yếu tố nào? Một bộ máy bị “ban” nếu thay cơ phận hư hỏng bộ máy sẽ tốt trở lại để tái khởi động. Nếu chỉ chữa trị qua loa, không dứt khoát loại bỏ tác nhân “bất trị, không thể sửa chữa” (incurable, unrepairable) bộ máy sẽ trở thành phế vật. TH tuyên bố “Liên lạc thẳng với TBO không qua NĐT” là một biện pháp loại bỏ (hay tiêu diệt) NĐT để cứu TNT khỏi trở thành phế vật. NĐT đã tự chứng tỏ mình thuộc loại “incurable, unrepairable” thông qua cách trả lời về tiêu đề “White House Briefing with National Vietnamese American Leaders,” về câu hỏi “Tại sao TBO lại gửi email trực tiếp đến điạ chỉ thành viên đảng Việt Tân ( dhoang@viettan.org)?” về việc phủ nhận Tố chức YVAL, việc xin Phân bằng “Nghĩ rằng phô trương để lấy ngân quỹ từ TBO là cách suy nghĩ ngô nghê,” về cách chạy tội: “Nhiều thành phần nhận cấp khoản cũng bị dính chấu trong cuộc kiểm tra” (Chẳng khác gì bị cáo can tội ăn cướp biện hộ trước Tòa: Thiếu gì người ăn cướp, đâu chỉ mình tôi!); về việc TH quyết định ngưng hợp tác, về cách phủ nhận bằng chứng qua lối dạy đời “Họ cần học tinh thần dân chủ, không nên kết tội khi chưa có thể chứng minh có tội. Đó gọi là nguyên tắc ‘lợi ích của sự hồ nghi’” thay vì phổ biến những văn thư liên lạc giửa Bộ An ninh và Phòng Initiative về việc thay đổi chương trình, nhân sự, cách hỏi-đáp để dẫn chứng và bác luận; bịa đặt “Vị dân Biểu” và tiếm danh TBO để manipulate cuộc Briefing. Kinh hoàng nhất là sự khinh thường 150 K chữ ký khi tự cao tự đại cho rằng “TBO mở cửa đón Phái Đoàn là nhờ ‘Vốn chính trị’ của mình chứ không phải nhờ một trăm mấy chục ngàn chữ ký!”

Đó là lý do tại sao tôi đề cập đến NĐT trong thời điểm nầy thay vì trước kia như có người thắc mắc. Thật ra trước kia tôi chẳng biết NĐT là ai vì:

(1) Tôi là một “Bộ Nhân” không phải “Thuyền Nhân” như đa số người Việt tị nạn. Tôi là người duy nhất đi đường bộ đến Singapore. Những Thuyền Nhân biết NĐT chẳng qua cũng vì NĐT ghép tên mình vàoBPSOS. Họ quen với tên BPSOS và không biết rằng chính GS Nguyễn Hữu Xương thành lập Boat People SOS Committee năm 1980 lúc đó Nguyễn Đình Thắng còn đi học. Năm 1986 NĐT mới tốt nghiệp và gia nhập BPSOS Committee năm 1988. Khoảng 1989-1990 BPSOS Committee giải tán vì Cao Trào Vượt Biên khựng lại do các Trại Tị Nạn đóng cửa không còn nhận Thuyền Nhân nữa. NĐT take over và đổi Committee (Ủy Ban) thành Inc. (Công Ty) tức Boat People SOS Inc. với những chức năng khác không liên quan đến thuyền nhân. Có bao nhiêu người biết NĐT là ai nến không kèm title “BPSOS” của GS Nguyễn Hữu Xương vào tên mình?

(2) Tôi “hơi bị bận” ở tù 21 năm không có dịp nghe hay đọc chuyện liên quan đến NĐT.

(3) Những công tác của tôi thuộc dạng “đặc thù” không dính líu đến bất cứ Tổ chức hoặc Cá nhân nào, nhất là lãnh vực Từ Thiện, nên không “đụng độ” hoặc “cạnh tranh” với NĐT. Khi được trả tự do trở về Hoa Kỳ, tôi cũng không thành lập Đảng phái, Tổ chức hay duy trì Tổ chức “Phát Huy Tinh Thần Lý Tống” có sẵn để làm “Chủ Tịch, Lãnh Tụ” nên cũng không có động cơ Danh-Lợi để hạ bệ nhau. Tôi cũng “dùi mài kinh sử” 10 năm đến cấp Tiến Sĩ dù chưa có dịp bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ vì bận ở tù. Tôi “đẹp trai” và “đào hoa” hơn NĐT theo nhận xét của các thân hữu nên không giống tên “ma mèo ma mút” nào đó vừa ngu dốt, dị hình dị dạng, bất tài vô tướng, từng “yêu thầm nhớ trộm” nhưng LH không thèm để mắt đến nên cứ chờ dịp phun bừa lên Diễn Đàn lòng oán hận, ghen tị, đố kỵ hạ cấp của thứ tiểu nhân thất chí! “Bênh” NĐT ngoài thành phần có động cơ “chống” những người “chống” NĐT do hận thù cá nhân riêng tư còn có kẻ mang tinh thần “bầy đàn” “Ngưu tầm ngưu - Mã tầm mã.” Họ không cần phân biệt đúng-sai, phải-trái, bất cứ gì thuộc phe ta đều bênh, bất cứ gì thuộc phe khác đều chống! Trên các lãnh vực, nếu thua, tôi chỉ thua NĐT ở lãnh vực “ăn Phân” bởi “Bệnh Phân Dâm” của NĐT đã đến thời kỳ mãn tính, hết thuốc chữa. Tôi vừa không có thú “ăn Phân” vừa để “tạ tội đã cầu con chó già ghẻ lỡ thời thơ ấu thiếu đói chết sớm để tiết kiệm bát cơm” nên kiếm được đồng nào nào tôi lại yểm trợ lại theo kiểu “Của Thiên trả Địa” chẳng bòn mót, gom tóm để trở thành triệu phú như NĐT.

Tôi phải lên tiếng vì “Tôi không thể ngồi yên” nhưng không chỉ theo kiểu Việt Khang đặt câu hỏi: “Anh có còn nhân tính không mà ăn trên đầu trên cổ nạn nhân một cách bất nhân như vậy?” mà còn muốn theo kiểu Đoàn Văn Vươn: “Có dao cầm dao, có súng cầm súng, phải ‘bụp’ không nương tay!” bởi "Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa" nhất là đối với kẻ bóc lột, cướp cơm chim cả những nạn nhân đáng thương. Không chỉ “chặt chém” nạn nhân còn “độc quyền” ôm trọn gói các dịch vụ, Tổ chức Từ Thiện đến nỗi kiện LM Lễ đòi bồi thường 25.000 -75.000 MK, sẵn sàng làm OSIN Cộng Sản VN và lái Chiến Dịch TNT trở thành diễn đàn xin Phân cho Tổ chức YVAL vì bệnh “Phân Dâm” bất trị. “Từ Thiện” kiểu NĐT là “Từ bỏ Thiện lương” hoàn toàn trái ngược với nghĩa “Nhân Từ, Lương Thiện” vì dù cùng làm nghề liên quan đến gái điếm trong khi Tú Bà bị lên án HẠIngười chỉ chia “Tứ-Lục” với gái làng chơi (Gái 4 Tú Bà 6) Tú Ông NDT được ca ngợi CỨU người lại chia cao hơn “Thất-Cửu Thập Tam” (nói chính xác: Nạn nhân 6.7% - NĐT 93.3%)! Càng tệ hơn khi dám dùng ngoa ngữ, tự xem trò “Chọn việc, Bám chặc” vào nghề ăn Phân Nạn Buôn Gái Điếm là “công cuộc mở vận hội để giải thoát dân tộc!” Vậy mà từ trước đến nay chúng ta vẫn khờ khạo vinh danh NĐT là “Đại Anh Hùng, Thần Hộ Mạng giáng trần cứu nhân độ thế!” Sau đây là các Bằng Chứng.

II. YVAL VÀ XIN PHÂN: NĐT khẳng định: “Không có tổ chức nào là YVAL cả. Và nghĩ rằng phô trương để lấy ngân quỹ từ TBO là cách suy nghĩ ngô nghê bởi vì Hoa Kỳ đâu phải như là Việt Namđâu. Việc xin ngân quỹ không dính dáng gì với TBO cả. Phải chứng minh được khả năng của mình chứ không thể nói khơi khơi và rồi nhờ cảm tình với TBO để TBO chỉ thị cơ quan này, cơ quan nọ cấp ngân khoản cho.”

1. YVAL KHÔNG CÓ, BPSOS - NOVAL KHÔNG QUAN HỆ: Trước hết, Số1 (h1) cho thấy Logo và tên chính thức của NOVAL: National Organization Of Vietnamese American Leaders. Sau đây là bằng chứng về quá trình tiến hóa từ NOVAL đến YVAL. (1) Giai Đoạn 1: Bước 1 trong Số2 (h2), BPSOSđóng vai chính, VAL thò ra nửa trong nửa ngoài nên chỉ thấy chữ “National Summit Vietnamese A.”Bước 2 trong Số3 (h3): BPSOS và VAL nằm hai bên bảng “Entering The Fourth Decade,” tức 2 Tổ chức trở thành đồng đẳng. (Nhấn mạnh tên VAL: “VIETNAMESE AMERICAN LEADERS” bằng cách sơn màu trắng, nổi bật đối chọi với chữ BPSOS cùng màu trắng, trong khi từ “NATIONAL SUMMIT OF” cố tình sơn màu vàng lờ mờ, chìm lỉm.) Bước 3 trong Số4 (h4), VAL đóng vai chính, BPSOS thụt vào, gần biến mất, chỉ còn từ “OS,” để chuẩn bị giai đoạn khâm liệm do danh xưng này đã lỗi thời, không còn ăn khách, ăn Phân.




(2) Giai Đoạn 2: Lợi dụng Chiến Dịch TNT, NĐT promote tối đa Tổ chức YVAL mới nầy để kiếm Phân thay thế BPSOS. Bước 1 trong những emails trước ngày 5 tháng 3, danh xưng trên thư mời ghi “NationalVietnamese American Leaders Briefing” (tức NVAL, do NOVAL bỏ từ O: Organization) hay tiêu đề trong chương trình thuyết trình ghi “Updates from Young Vietnamese Leaders on Diaspora Communities.” Bước 2: Trong ngày 5 tháng 3 tại TBO, tiêu đề đầu tiên cũng lập lại NVAL “White House Briefing with National Vietnamese American Leaders” rồi đổi thành “White House Briefing with Vietnamese Americans” do sự khiếu nại của TH, nhưng sau đó vẫn đổi lại thành YVAL: “White House Briefing with Young Vietnamese American Leaders” theo nguyên tắc “Cố đấm ăn xôi” được NĐT đặt tên hoa hòe là “chọn việc” và “bám trụ.”

Tại sao YVAL thay vì VAL và tại sao “National?” Hãy vào Web sau đây hoặc hình Số5 (h4a) để xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Envision_EMI,_LLC.

Tổ chức Envision EMI trong năm 2009 đã yểm trợ 12 Tổ chức sau: (1) Congressional Youth LeadershipCouncil, (2) Junior National Young Leaders Conference, (3) Junior National Young Leaders Conference Alumni Boston, (4) National Young Leaders State Conference, (5) National Young Leaders Conference, (6) Global Young Leaders Conference, (7) National Young Leadership Forum, (8) National Forum on Collegiate Success, (9) National Youth Leadership Forum on Law and Crime Scene Investigation, (10)National Youth Leadership Forum on Medicine, (11) National Youth Leadership Forum on National Security, (12) International Scholar Laureate Program, (13) National Young Scholars Program.

Trong 13 Tổ chức, có 11 Tổ chức có tên Young Leaders/ Leadership và 10 Tổ chức có tên National, chỉ có 2 Tổ chức (số 8 và 12) và 3 Tổ chức (Số 1, 6 và 12) không có từ Young Leader/ Leadership hay “National.” Hoặc có thể xem Web: http://www.inauguralscholar.com/middle-school/middle-school-student-panel/

“As a student attending the Junior National Young Leaders Conference in Washington, D.C., Brandon Greene took part in the program’s “Voices of Change” project. At the completion of the activity, Brandon was encouraged to use the leadership skills he learned through the project and make a difference in his own community. As a result of his efforts, Brandon was then invited to the White House to meet withPresident Obama and First Lady Michelle Obama, and was specially recognized by the President for displaying such courage and leadership.”

Ngay cả Tổ chức Vietnamese Heritage Festival của NĐT cũng “đu gió” theo The Heritage Foundationcủa Phái Bảo Thủ Mỹ để kiếm Phân:

“The Heritage Foundation is the nation’s most broadly supported public policy research institute, with nearly 700,000 individual, foundation and corporate donors. Heritage, founded in February 1973, has a staff of 255 and an annual expense budget of $75.3 million.” (http://www.heritage.org/initiatives/protect-america)

Qua những bằng chứng trên, những danh xưng trong các tiêu đề đều nhắm vào mục đích promote Tổ chức tương lai của NĐT “Young Vietnamese American Leaders.” YVAL không chỉ thay thế BPSOSmà cả NOVAL vì đó là “xu thế thời đại” của các Tổ chức xin Phân hiện nay! (Giờ này còn người Việt nào vượt biển để Cứu? Không lẽ chuyển sang cứu người Châu Phi hoặc Cuba vượt biển?) Bởi vậy chuyện NĐT phân bua không có Tổ chức YVAL hoặc NOVAL hoàn toàn không phụ thuộc vào BPSOS, nhất là chuyện: “Tòa Bạch Ốc dùng từ ‘Vietnamese American Leaders’ nhằm chứng tỏ sự tôn trọng đối với phái đoàn” là một lời tự biện và phản bác có tính mục hạ vô nhân, coi thường sự hiểu biết của bàn dân thiên hạ!

Cả việc “Một Dân Biểu liên lạc với bộ phận Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống” cũng chỉ chuyện là hư cấu để đánh hỏa mù việc điều hợp viên Tuyết Dương thay đổi chương trình, gài nhân sự trẻ, và gợi ý bằng những câu hỏi giúp Billy Lê, Cindy Đinh quảng cáo thành tích của họ tức của YVAL cho mục đích xin Phân sau này. Hoa Kỳ là một cường quốc lãnh đạo thế giới tự do, làm sao có chuyện chính phủ can thiệp sâu vào việc chọn người phát biểu, phải phát biểu như thế nào… giống loại “tự do phát biểu theo lề phải kiểu CS?” Tôi cũng đã từng phát biểu tại Điện Capitol, Liên Hiệp Quốc… và tại những nơi nầy, cơ quan thẩm quyền chỉ thông báo Danh Sách những cấp chức chính quyền tham dự, phát biểu và thời lượng buổi Briefing của Phái đoàn ta kéo dài bao lâu. Tại những cuộc họp này, có quan chức chỉ tới đọc diễn văn rồi đi, và chuyện “ông nói ông nghe, bà nói bà nghe” là “chuyện thường ngày ở huyện” sau đó mọi việc “vẫn như cũ,” chẳng ai quan tâm giải quyết tiếp. Xem hình LT thuyết trình ở hai nơi này tại hìnhSố6 (h4b).



Tất cả công đoạn “Treo đầu heo bán thịt chó” được thực hiện hoàn hảo nhờ tay LS Tuyết Dương (TD), một đồng sự cũ thuộc BOPSOS, một “Demi-Monica” tức được nhận nội trú như Monica Lewinsky nhưng thiếu phần Bill Clinton và kèn Saxophone. TD sau đó được thu nhận làm nhân viên cấp thấp trong Bộ phận Đặc trách Cộng đồng Á Châu. “TD tự nhân danh Toà Bạch Ốc” để thao túng, lũng đoạn chương trình buổi họp bởi vì mỗi Nghị Sĩ, Dân Biểu, Giám Đốc… đều có đủ loại nhân viên, và mỗi việc được giao cho người phụ trách quan hệ giải quyết. TD người Mỹ gốc Việt nên được giao phụ trách làm điều hợp viên chương trình tiếp Phái đoàn người Mỹ gốc Việt cũng như cô Anh Trần của Councilman Kansen Chu hay cậu Thế Vũ của Supervisor Dave Cortese là lẽ đương nhiên. Do đó vấn đề chỉ riêng video clip củaQuốc Khanh, thuộc nhóm SBTN, được đưa lên trang Tuổi Trẻ Yêu Nước vì tập trung vào chủ đề và chủ điểm chính của tinh thần TNT: Nhân quyền cũng nằm trong chủ ý của TD: Cố ý “ém nhẹm” những phát biểu có lợi cho việc xin Phân của YVAL, bởi những tài liệu này có thể “destroy” chút uy tín còn lại của NĐT đối với CĐNVTN.

2. TỔNG THỐNG OBAMA TIẾP KIẾN: NĐT cố tình phịa ra vụ Obama tiếp kiến để thu hút nhiều người và phái đoàn đi Washington tham dự buổi thuyết trình bằng cách rỉ tai, mập mờ cho TH về tin được Tổng Thống Obama tiếp kiến nhưng yêu cầu TH giữ kín, đừng thông báo để kích thích TH chuyển tin nầy cho các người cộng tác thân cận. Nam Lộc bị mắc lỡm nên hào hứng tiết lộ: "Tổng thống Obama đã ‘xin gặp’ đại diện cộng đồng Việt Nam!” Khi mọi người bất mãn về vụ Obama, nhất là Việt Dzũng với lời phê phán “TBO vô lễ,” NĐT bèn “bán cái” tội phao tin cho TH để chạy tội. Hãy xem bằng chứng trong hình Số7 (h18). Chính NĐT đã xác nhận và công bố tin “Tổng Thống sẽ nói chuyện với chúng ta về vụ TNT” trong trang Web của BPSOS với câu: “If we successfully collect 25,000 petitioners in 30 days, the President will address our petition” để câu khách có lợi cho vụ xin Phân của YVAL chứ đâu phải Trúc Hồ hay Nam Lộc là thủ phạm như một số người lên án vì mắc mưu NĐT!

3. XIN PHÂN CHO YVAL: Làm thế nào để việc tiếm lực, tiếm danh 150.000 chữ ký qua trò “lập lờ đánh lận con đen” dùng tên Tổ chức mình thay thế cho CĐNVTN, đặc biệt những người ký TNT, có thể gây lợi cho việc xin Phân của YVAL. Ai cũng biết, yếu tố quan trọng nhất trong vấn đề kiếm việc làm, xin Phân là Résumé, tức hồ sơ thành tích và khả năng. (Résumé: a brief written account of personal, educational, and professional qualifications and experience, as that prepared by an applicant for a job.) Đâu cần TBO can thiệp? NĐT chỉ cần dùng các tư liệu: Trang Mạng Thỉnh Nguyện Thư We The People của Tòa Bạch Ốc, hình ảnh gần ngàn người biểu tình ngoài TBO, Phái Đoàn gần 200 người được TBO tiếp kiến, hơn 500 người tràn ngập Điện Capitol, các văn thư liên lạc của TBO trong vụ TNT, trong đó danh xưng chính thức được dùng là: “Young Vietnamese American Leaders,” các Video Billy Lê và Cindy Đinh quảng cáo thánh tích YVAL… trong Résumé thì có Tổ chức nào có thể cạnh tranh, qua mặt được YVAL với 150 ngàn thành viên (dởm, rởm) trong việc xin Phân trong công tác đào tạo lãnh đạo trẻ cho sắc dân thiểu số VN?! Ban giám khảo và các nhân viên cao cấp thuộc cơ quan của đề án xin cấp khoản sẽ ưu tiên tuyển chọn YVAL trong quá trình sàn lọc và cấp ngân quỹ cho YVAL cần gì TBO can thiệp?! NĐT không chỉ ‘Mượn hoa cúng phật, mượn đầu heo nấu cháo, chôm credit’ mà còn ‘Cướp công’ Đồng Bào theo kiểu VC ‘Cướp chính quyền’ biến một cuộc đấu tranh thành công nhất của CĐNVTN từ trước đến nay trở thành cuộc vinh danh thành tích và xin Phân của tổ chức YVAL một cách trắng trợn, còn dám chối cãi quanh co!

Trong bài thơ Valentine 2000s, tôi đã phân tích các loại DÂM gồm: Khứu dâm, thính dâm, vị dâm, thị dâm, xúc dâm, cuồng dâm, bạo dâm, ác dâm, hội dâm, cưỡng dâm, hiếp dâm, loạn dâm, đồng dâm, thủ dâm, khẩu dâm, kê dâm, nhủ dâm, ấu dâm, lão dâm, nhị dâm, nhất dâm, thú dâm, tử (thi) dâm, giả dâm, trang dâm, phô dâm, khổ dâm, lỗ dâm và phẩn dâm. Giờ cần thêm một loại dâm khác “Phân Dâm.” “Phẩn dâm” và “Phân dâm” khác nhau một điểm: “Phẩn dâm” thích mùi c… nên trét c… đầy tường để hưởng mùi phẩn. “Phân/Fund dâm” thích mùi tiền nên vơ vét tiền bất cứ cơ hội nào, đối tượng nào, kể cả từ những gái điếm nạn nhân, để hưởng mùi tiền. Vì vậy trong tất cả bài viết, thông điệp, NĐT đều hướng mục tiêu tối hậu vào việc “make money.” Từ “Thông Điệp Hy Vọng và Trách Nhiệm” để bán sách, các trang Web BPSOS trang nào cũng “Donate, Sponsor, Raise Fund, Quảng cáo cho Southwest Airline” đến cả bài “Chiến Dịch Vận Động: Đạt Mục Tiêu” NĐT đã dùng Nạn Buôn Người để minh họa cho phương pháp “Chọn việc, Bám chặc” rồi đi đến kết luận: “Chọn đúng việc để làm và bám trụ với công tác Nạn Buôn Người ở VN, quyết tâm quyết chí thực hiện điều này trong ba năm tới, thì chính chúng ta sẽ mở ra vận hội cho dân tộc để tự giải thoát! Đúng là ngoa ngữ! Cần viết chính xác bằng cách thay từ “dân tộc” bằng NĐT và VC: Vận hội cho NĐT trở thành triệu triệu phú và Thái Thượng Hoàng hay vận hội cho VC nắm toàn bộ CDNVTN qua các Leaders du sinh do NĐT ra công đào tạo, huấn luyện bằng Phân lấy từ tiền đóng thuế của người Việt gốc Mỹ?!

III. VỐN CHÍNH TRỊ: NĐT tuyên bố: “Trong việc mở cánh cửa TBO cho cộng đồng, chúng tôi phải dùng uy tín ấy, phải chi ra khá nhiều vốn chính trị, chứ không phải nhờ có một trăm mấy chục ngàn chữ ký mà TBO tự động mở cửa đón chúng ta đâu.” Đúng là câu nói của “anh chột trong xứ mù,” “mục hạ vô nhân” do bệnh mắt bồ lệch. Trước kia tôi cũng từng nhầm “Cái vốn Chính trị” của NĐT, tưởng nhầm NĐT cũng thuộc hạng chỉ dưới cơ BS Nguyễn Quốc Quân, và dựa trên giả thuyết nầy để viết bài: “Tại Sao Tổng Thống Obama Không Tiếp Phái Đoàn.” Nhưng sau khi hỏi chuyện, những nhân vật thông thạo Washington cho biết NĐT thuộc loại “cóc cắn” do bản chất “bủn xỉn” bẫm sinh, tức “Chỉ có ăn mà không có ị!” Không kể đến những thành phần vận động hành lang sẵn sàng chi vài trăm ngàn hay vài triệu MK, NĐT còn dưới cấp cả những người thường chiêu đãi các quan chức Beefsteak tại Ruth’s Chris giá một vài trăm vì “Ngài kẹo kéo” chỉ chịu chi cho những nhân viên cấp thấp bữa Dinner bình dân giá dăm bảy chục! Bởi vậy, khi nhờ NĐT đóng vai liên lạc với TBO, TH chứng tỏ thiếu kinh nghiệm về hoạt động của giới chính trị Mỹ.

Muốn gặp Tổng Thống Mỹ thường phải qua một trong hai kênh chính.

1. Kênh gián tiếp: (1) Giới thế lực: Nhờ các Tổ chức Công đoàn, Gia đình Kennedy, Ngoại trưởng Hillary Clinton… giới thiệu. (2) Giới thân cận: Nhờ Phụ tá, Manager, Phát ngôn viên… của Tổng Thống giới thiệu. (3) Giới thân nhân: Nhờ Đệ nhất Phu nhân hay hai Công chúa Malia và Sasha giới thiệu. Chỉ cần bạn học hay cô giáo của “hai cục cưng” bỏ nhỏ một tiếng, Obama sẽ đích thân Welcome Phái đoàn.

2. Kênh trực tiếp: Những thành phần mạnh TIỀN như Do Thái hay mạnh PHIẾU như Cuba, họ có thể liên lạc trực tiếp với Tổng Thống.

Đó là nói đến thành phần Lobby Mạnh Thường Quân, những người “ban ân huệ” bằng cách cung cấp tài chánh và phiếu nên thường được các vị dân cử nồng nhiệt chào đón. Thành phần Xin Phân, trái lại, là những kẻ chầu chực “xin ân huệ” gây phiền toái, bực mình nên thường bị lãng tránh xua đuổi, làm gì có uy tín và ảnh hưởng?

Có thể dùng một tỉ dụ đơn giản dễ hiểu. Phòng tiếp khách của các Dân Cử, Lập Pháp hay Hành Pháp, ví như một quán ăn sang trọng. Thành phần Lobby là những khách sộp thuộc loại Hắc-Bạch Công tử, ném tiền qua cửa sổ. Mỗi lần họ ghé ăn, không chỉ Manager, Chiefcook mà cả Chủ quán cũng lăng xăng ra tận bàn tiếp đón. Thành phần Xin Phân là đám homeless và ăn xin lẫn quẫn kiếm ăn. Những tiệm sang không muốn “view” đẹp của tiệm mình bị thành phần nầy “ám quẻ” nên thường cho bồi đi phát chẩn (phát Phân) và ra điều kiện không được bén mãng gần quán. Nhưng vẫn có những tay ăn xin đi đường tiêu lòn, đút lót tên gát cổng ngoài vài điếu thuốc, nên có thể lãng vãng trước mặt tiền ngoài đường mà không bị đá đít đuổi đi. Có tay ăn xin “xịn” hơn có khả năng biếu tên gát cửa trong vài gói thuốc, chai bia nên được y nhắm mắt làm lơ cho lạng quạng trong sân quán ăn kiếm thêm tiền bố thí của khách. Vốn chính trị của NĐT thuộc gát cổng ngoài, chỉ giao thiệp với cấp cóc cắn, tà lọt của các Sếp bằng những bữa Dinner rẻ tiền dù “gian lận” tiền Phân khá ấm túi. Trong vụ TNT, cấp cao nhất NĐT liên lạc là LS Tuyết Dương, nhờ là đồng sự cũ trong Tổ chức BPSOS.

CĐNVTN ở Hoa Kỳ chỉ có 3 người đủ khả năng quan hệ cấp cao trong TBO và Điện Capitol. Đó là: Đỗ Hoàng Điềm, Bác Sỉ Nguyễn Quốc Quân và Tỉ phú Trần Đình Trường. ĐHĐ hay nói chính xác Việt Tân với số vốn liếng Đồng Bào yểm trợ ngày xưa sau bao nhiêu năm đầu tư khắp thế giới giờ có thể lên gần trăm triệu. NQQ với nghề Bác Sĩ và hàng chục năm dành dụm, tài sản cũng có thể tới dăm ba chục triệu. Hai nhân vật nầy đã từng được Tông Tông George W. Bush đón tại Bạch Ốc vào năm 2007. Đảng VT còn lobby để sinh viên Nguyễn Tiến Trung và Nguyễn Hoàng Lan được Bush tiếp. Riêng BS Quân, biệt thư của ông là nơi trình diện của các Đại sứ Mỹ trước hay sau khi đi nhận nhiệm vụ tại Hà Nội. Tỉ phú TĐT trong vụ khủng bố 9/11 đã tặng quỹ cứu trợ nạn nhân 2 triệu Mỹ kim và trong nạn đói năm 1984 tại Ethiopia, đã tặng các tổ chức cứu trợ nạn đói 2 máy bay trực thăng, tuy có thừa khả năng tài chánh nhưng không quan tâm đến chính trị. Giao việc tiếp xúc TBO cho NĐT không chỉ “giao nhầm người” còn “giao trứng cho ác” thì phải chịu hậu quả bi thương. “Tiền mất tật mang” là vậy.

Không chỉ phá hỏng cuộc Briefing tại TBO, NĐT còn biến những Phái đoàn gần 500 trăm người đi vận động Quốc Hội thành “những toán lang thang vật vờ giữa trời giá buốt hay lạc lỏng bơ vơ giữa các hành lang Quốc Hội như rắn mất đầu, mỗi người tự tìm đường đi đến văn phòng các vị Dân Biểu, Nghị Sĩ, người lạc góc này kẻ ơi ới góc khác, mỗi người mang theo một hồ sơ không biết là loại hồ sơ gì, không biết trình bày đề tài gì với ai, người nào có thẩm quyền, kết quả sẽ đi về đâu” (như lời một nhân chứng kể) vì những Leaders đến trễ. Tại sao vậy? NĐT bị các “Tu Hú” của 15 văn phòng BPSOS ép buộc “xé lẻ” các Phái đoàn đến từ 50 Tiểu bang thành 50 nhóm, mỗi nhóm gồm thành viên của những Phái đoàn khác nhau để họ dễ điều khiển và đứng ra Lead, dẫn đường. Do các Phái đoàn ngụ khác khách sạn, nên phối hợp phương tiện di chuyển khó khăn, tập hợp người rắc rối lộn xộn. Các Leaders “tu hú” BPSOS không mặn mà với công tác lăng xê YVAL xin Phân của NĐT nên làm cho có lệ. “Vốn chính trị” mà không biết việc xé lẻ các Phái đoàn gây hậu quả nghiêm trọng khi các Dân Biểu, Nghị Sĩ không quan tâm hoặc không “hưỡn” để tiếp khách các Tiểu bang khác, không phải cử tri Tiểu bang mình đại diện hay sao? “Tu Hú” thuộc thành phần Lobby có thừa tiền để có thể đưa người vào TBO không qua NĐT, còn “chơi gác” khi yêu cầu “Thượng cấp” của LS Tuyết Dương gửi email trả lời thẳng cho mình, thay vì cho NĐT. Đó là lý do tại sao NĐT, vì muốn bình an ăn Phân, phải nhẫn nhục chịu đựng “trăm cay nghìn đắng” để Tu Hú “ăn trên ngồi tróc; ngồi trên đầu trên cổ” mà chỉ dám “oán than” một lần với lời rũa sả “Đảng phái thiếu đạo đức” để “bán cái” trách nhiệm cho Tu Hú và để chạy tội khi việc “Ly miêu hoán Chúa” để promote YVAL làm “Cần câu Bluefin” bị Trúc Hồ và Phái Đoàn lật tẩy.

Ngoài việc tự xem mình và BPSOS là lãnh đạo chính của Petition Campaign và SBTN chỉ là một Mũi Xung Kích, việc TBO mở cửa là do “vốn chính trị” của mình, Vua Nổ NĐT còn đao to búa lớn với những bài viết giống sách giáo khoa thư dạy tiểu học, khoa trương việc đào tạo Tổng Thống, Nghị Sĩ, Dân Biểu, Bộ Trưởng người Mỹ gốc Việt tương lai cho Hoa Kỳ theo đường Bá đạo, còn tự quảng cáo rằng BPSOS tiếp cận được 150.000 gia đình qua TV và 200.000 gia đình qua Radio Số8 (h19)! Và con số định mệnh 150.000 gia đình TV lại trùng khớp với 150.000 chữ ký TNT! “You shoot yourself in the foot” nên đừng trách người. Hãy tự trách chính mình, trách cái “Bệnh Lãnh tụ + Bệnh Phân dâm” cái lòng tham Danh-Lợi vô đáy đã làm mờ mắt.

IV. DANH – LỢI VÀ OSIN CSVN: Bằng Chứng NĐT dùng việc Từ Thiện phục vụ mục tiêu DANH-LỢI, đặc biệt bằng chứng gian lận các cấp khoản được Văn Phòng Tổng Kiểm Tra của Bộ Tư Pháp công bố; BPSOS là OSIN của VC.

1. GIAN LẬN QUỸ NẠN BUÔN NGƯỜI:
Xem Web: http://www.justice.gov/oig/reports/OJP/a0826/final.pdf hay các Hình ảnh sau:
Trong hình Số9,10,11 (h13, 14, 15) có thể tổng kết NĐT ôm tóm trọn bộ 21 Tổ chức để ăn Phân. HìnhSố12 (h5) riêng Tổ chức NEST kiếm 3 triệu, hình Số13 (h6) Bão Katrina kiếm 4,5 triệu và hình Số14 (h7) Nạn Buôn Người kiếm 2,3 triệu ($1,896,535 + $325,000). Hình Số15,16 (h8,9): Phòng Tổng Kiểm Tra của Bộ Tư Pháp công bố TS Thắng gian lận $700,000 của quỹ Nạn Buôn Người gồm các số tiền$90,296, $77,588, $36,272, $152,583, $294,575,$57,000. (Chưa có tài liệu gian lận các quỹ khác.) Để giải quyết vụ gian lận nầy, Cáo già NĐT đã dựng lên 15 văn phòng BPSOS với 140 nhân viên toàn thời gian trên đất Hoa Kỳ để cứu tổng cộng 74 người từ năm 2003 đến 2006 (10 người/2003 + 5/2004 + 41/2005 + 18/ 2006) với tổng số tiền $2,221,535!

Chỉ tại Mỹ mới có cảnh khôi hài cười ra nước mắt nầy! Nhất là giờ nầy lại dùng 15 văn phòng và 140 nhân viên để OSIN du sinh VC theo kế sách 2 điểm “Chọn việc và Bám trụ!” Vậy mà NĐT vẫn to mồm chối bai bãi còn dạy đời: “Họ cần học tinh thần dân chủ, không nên kết tội khi chưa có thể chứng minh có tội. Đó gọi là nguyên tắc ‘lợi ích của sự hồ nghi’. Nếu có sự gian lận thì đã có việc truy tố hình sự, đã có toà án xét xử, và có thể đã có người đi tù hay bị trừng phạt.” Ngay cả khi dẫn chứng bằng câu: “Muốn phối kiểm những điều tôi nói ở trên thì rất dễ. Chỉ cần lên trang mạng:
www.justice.gov/oig/reports/OJP/a0826/findings.htm” NĐT lại cố tình cho tên trang mạng SAI. Không tin Quý Vị cứ vào thử sẽ nhận được câu: “We are sorry, but we are unable to locate the page you requested on the Department of Justice web site.” Tại sao? NĐT cố tình viết sai hàng chữ cuối “final.pdf” thành “findings.htm!” Muốn xem bằng chứng gian lận, hãy vào: http://www.justice.gov/oig/reports/OJP/a0826/final.pdf.


















Dù giải quyết ổn vụ gian lận $700.000 bằng cách “xây 15 tổ cho 140 con Tu Hú ăn lương vào đẻ” để rồi chỉ biết ấm ức bóng gió “đảng phái Thiếu Đạo Đức,” NĐT vẫn còn mang tội “cắt cổ, nhổ lông” các nạn nhân của mình qua việc chỉ chi cho họ 6.7% tiền cứu trợ. Hình Số17 (h10) chỉ rõ trong số quỹ$1.896.535 nạn nhân nhận trực tiếp chỉ $127.987 tức 6.7%. NĐT tự trả lương Giám Đốc cho mình và các dịch vụ linh tinh vô bổ kia 93,3% tức $1,768,548.

Thử tưởng tượng, nếu ta yểm trợ Thương Phế Binh $100, Ban Tổ Chức chỉ gửi cho họ $6.7 và claim chi phí tổ chức gây quỹ tốn hết $93.3, quý vị nghĩ sao?! Những Tổ chức nầy còn đang tranh đấu để các gái mãi dâm không bị truy tố, được xem là nạn nhân cần được bảo vệ và được cấp quy chế tị nạn. Nếu vậy, VC sẽ phát động Chiến Dịch xuất khấu gái mại dâm. Thắng: kiếm bộn tiền. Thua: trở thành công dân Mỹ và sẽ có một vụ Great Exodus (Cuộc di cư/tỵ nạn vĩ đại) qua đường gái mại dâm đến Mỹ trong tương lai nhờ Tú Ông NĐT!

Đành rằng bất cứ một tổ chức nào khi muốn hoạt động hay đấu tranh cho Nhân Quyền cũng cần có quỹ, có tiền. Nhưng để lòng tham biến “Cần câu cơm” thành “Cần câu Bluefin” thì quá tàn nhẫn. Ngoài Phân chính phủ, trong các trang mạng của Tổ chức BPSOS, trang nào cũng kêu gọi Donate, Sponsor, Raise Fund chưa kể mục quảng cáo cho hãng máy bay Southwest hình Số18,19 (h11,12). NĐT có công bố đã nhận tổng số tiền yểm trợ của Đồng Bào và chi vào những mục gì lần nào chưa? Còn có tin những anh chị em Lai trước đây từng nghe lời đóng tiền cho tổ chức BPSOS để nhận lấy những lời "hứa lèo" của NĐT trong việc giúp cho họ vào quốc tịch hay người tị nạn tại Kampuchia rất sợ khi gặp Phái đoàn NĐT. Lý do: Theo họ, NĐT chỉ khuyên hồi hương hoặc không làm bất cứ gì để giúp họ tị nạn tại nước thứ ba. Ai là nạn nhân hay nhân chứng hai vụ nầy xin lên tiếng.

2. ĐỘC QUYỀN ĂN PHÂN: NĐT một mình ôm đồm 21 tổ chức ăn Phân, không muốn bất cứ người Việt nào dính líu vào các hoạt động từ thiện cạnh tranh mình. Do đó NĐT đã kiện Tổ chức Ủy Ban Quốc Tế Tự Do Tôn Giáo Cho Việt Nam (ICRFV) của LM Nguyễn Hữu Lễ, một tổ chức và chức sắc tôn giáo từng hợp tác với mình và đòi bồi thường thiệt hại từ 25,000 đến 75,000 Mỹ Kim mặc dù LM Lễ đã trần tình:“Chúng tôi cũng xin thưa rằng việc tranh tụng giữa hai tổ chức bất vụ lợi cùng chung mục đích sẽ chẳng mang lại ích lợi nào, ngược lại còn tạo khó khăn cho việc làm của chúng ta. Chúng tôi đã có nhiều cố gắng bằng mọi cách để giải quyết trong tình thân ái nhưng vô hiệu quả!” Số20 (h17)Vậy bản thân NĐT chôm luôn tên Boat People SOS Committee của GS Nguyễn Hữu Xương chỉ đổi 1 chữ Committee thành Inc. (Incorporated) tức Boat People SOS Inc. trong Số21 (h16) lại được xem là chính danh, hợp pháp? 13 Tổ chức Envision EMI hầu hết chỉ khác nhau 1,2 chữ sao không thấy họ theo gương NĐT kiện cáo đòi bồi thường?

3. OSIN CỘNG SẢN: Tên BPSOS INC, hình Số22 (h20), chỉ cần chuyển chữ S thứ ba vào vị trí cuối sẽ trở thành: BP OSIN CS tức Boat People Osin Cộng Sản! Có phải đây là ngụ ý NĐT khi đổi từCommittee thành Inc. như nhà may Đoàn Mừng, nhà thầu “nằm vùng” may đồ trường Võ Bị ở Đà Lạt trước năm 1975. Khi VC tiếp thu, ý nghĩa của tên Đoàn Mừng, mới được giải thích: Mừng Đoàn quân giải phóng! Có lẽ sau khi các du sinh VC đã trở thành lãnh tụ nắm toàn bộ các cơ cấu lãnh đạo của CĐNVTN tại Mỹ, NĐT mới hé lộ “bí mật” nghĩa ẩn dụ của từ BP OSIN CS? Ba hình H2, 3, 4 chụp 3 thời điểm “thò ra, thụt vào” của BPSOS và VAL cũng là ý đồ của Tổ Sư NĐT hay lại là trò đùa thăng trầm của số phận? Chỉ Trời và NĐT biết rõ! Không lẽ Báo Điện Tử Đảng CSVN cũng vô tình giao nhiệm vụ OSIN cho NĐT khi quảng cáo: Một trong hai tổ chức toàn quốc của người Việt tại Mỹ là Boat People SOS, có văn phòng đại diện trên 15 tiểu bang… Đó là hai tổ chức có tầm vóc toàn quốc… sẵn sàng tham gia giúp đỡ, bảo vệ các du học sinh Số23 (h21).

4. LỢI ÍCH CỦA SỰ HỒ NGHI: Riêng nguyên tắc nầy của NĐT cũng đã xứng đáng với nhận xét kiếu CS: “Trí thức không bằng cục Phân” (Nhất là trí thức “ăn Phân!”) Nếu áp dụng theo kiểu NĐT, khi bị chỉ trích, kết án chỉ cần tuyên bố: “Beyond doubt” là xong, không cần phải dẫn chứng biện hộ, thì tại sao nước Mỹ cần đến một lực lượng Luật sư khổng lồ nhất thế giới?! Lý sự cùn kiểu NĐT, tất cả LS đều thất nghiệp! Theo Thống kê, tại Việt Nam tỷ lệ Luật Sư trên số dân: 1 luật sư/17.000 dân, tại Thái Lan: 1/1.526, tại Singapore: 1/1.000, tại Nhật Bản: 1/4.546, tại Pháp: 1/1.000 trong khi tỷ lệ này ở Mỹ lại cao nhất:1/250! Cứ 250 dân cần phải có 1 LS bảo vệ! Điều này chứng tỏ tại Hoa Kỳ Công Tố có “Tự do ngôn luận, Tự do phát biểu” tuyệt đối nên toàn quyền, tự do kết án tùy ý, tùy tiện dù vô lý nhất, do đó cần phải có một lực lượng LS khổng lồ như vậy mới giữ được công lý, công đạo cho dân Mỹ?! Khi Lý Tống tôi bị mấy tên “ma mèo ma mút” bịa tin: “Đạo thơ, Cướp công của đàn em Thiếu úy Hóa” tôi cũng phải trích bằng chứng để cho Đồng Bào chưa từng đọc sách Ó Đen thấy mình “trong sáng, vô tội, bị vu cáo” qua các câu: “Thiếu úy Hóa, Phi công trẻ nhất, bất ngờ tình nguyện sau chót lại bất ngờ dứt điểm một cú đẹp đầu tiên. Tôi (Lý Tống) quành lại, bổ nhào xuống góp những trái bom khiêm nhường đánh bồi vào chiếc cầu vĩ đại đang sụp đổ.” (Phi Vụ Tử Thần, Ó Đen p.60) hay “Của một người tị nạn tại Sikew, Thái Lan. Lý Tống bổ túc” (Trong Mơ Ta Thấy Việt Nam, Ó Đen P. 458) mặc dù 50% bài thơ nầy do tôi viết vì không nhớ.

Hay vụ Cảnh sát kết án “Chống cự khi bị bắt” (Resisting arrest), nếu tôi không đem hình ảnh, đặc biệt Video tại Convention Center, để nhờ Luật sư chứng minh ngược lại thì chuyện tôi sẽ bị bỏ tù sai trái về tội này sẽ không thể nào tránh khỏi! Như vậy chỉ có NĐT mới có toàn quyền bắt các người chỉ trích mình đưa bằng chứng còn mình thì không cần đưa bằng chứng để biện hộ? Và những báo cáo của Bộ Tư Pháp, Báo Điện Tử Đảng CSVN, các tài liệu từ Web của NĐT, Thư LM Nguyễn Hữu Lễ… vừa trích dẫn không phải là bằng chứng?! Vậy bằng chứng NĐT đòi hỏi là loại nào?

5. THÁI THƯỢNG HOÀNG NĐT: Sách Thông Điệp Hy Vọng & Trách Nhiệm của NĐT được quảng cáo như một cuốn cẩm nang cho mọi người Việt muốn trở thành lãnh tụ như NĐT, dạy cách đào tạo lãnh đạo, khả năng lãnh đạo cho thế hệ nối tiếp, các chuyên gia và những nguyên tắc căn bản để thành công từ việc nhỏ đến việc lớn! Cuốn cẩm nang nầy còn dạy cho những ai muốn kinh doanh không cần vốn, chỉ cần xin Phân như NĐT đã thành công trong mấy chục năm qua. NĐT còn muốn biến các Chi Nhánh của BPSOS Inc. ở một số Tiểu Bang thành Chủ Soái Lãnh Đạo các Cộng Đồng địa phương một cách hiệu quả theo lời NĐT. Có thể NĐT muốn ngụ ý đến việc bảo vệ du sinh CSVN và tổ chức huấn luyện đội ngủ nhân lực này, giúp chuyển chúng thành dạng tị nạn hay chuyên viên, cùng những tên nằm vùng trở thành "Young Vietnamese American Leaders" cai trị Người Việt Hải ngoại trong tương lai?

Tài lãnh đạo của NĐT đã tự bộc lộ trong bài có tính “tự phê” một cách chính xác:

Lãnh Đạo Tài, Lãnh Đạo Tồi: “Xét vậy, người mang ‘hội chứng lãnh tụ’ (như NĐT) thì tất nhiên không thể nào là người lãnh đạo tài. Tiếc rằng hội chứng này không chỉ có nơi người cộng sản mà ít nhiều bàng bạc trong hàng ngũ những người Việt tự nhận là tranh đấu cho tự do, dân chủ!” Và bài:
Chú Paul Vân trả lời Cháu Túy Phượng: “Thiễn nghĩ Cháu không nên chuyễn phổ biến những bài của Nguyễn Đình Thắng hay tập đoàn nào đó viết thay cho NDT, với giọng kẻ cả xấc xược như giọng điệu của cán bộ giảng dạy trong trại tù cải tạo tập trung lên lớp trả bài thuộc lòng phun ra những từ ngữ dao to, búa lớn góp nhặt những triết thuyết xa vời, hổ lốn khắp đò đây. Những Người Lính Chiến ngày nào nay đã trên 70, 80 hoặc 90 tuổi đời, đôi ba chục tuổi lính cũng như thân phụ của cháu (Trung Tướng Ngô Dzu) lúc sinh thời không chấp nhận ngồi nghe giọng kẻ cả, lãnh tụ của những tên đầu cơ tâm lực người khác cho mục đích chính trị, thương mại (con buôn chính trị) tham lam, vị kỷ.”

Tôi dùng câu nhắn nhủ của Trương Vĩnh Khôi để kết thúc bài “Tại Sao Tôi Muốn ‘Tiêu Diệt’ TS Nguyễn Đình Thắng?” “Trong các cuộc đấu tranh, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, vì bên cạnh chúng ta, không phải chỉ có bạn, mà còn có kẻ thù. Kẻ thù đây, không nhất thiết chỉ là bọn CS, mà còn là những kẻ lợi dụng lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của chúng ta, để phục vụ cho mục đích riêng tư, cho tiếng tăm, tên tuổi, quyền lợi của họ. Các dụng ý xấu xa này làm mất đi ý nghĩa của cuộc đấu tranh, và tạo điều kiện cho bọn CS và tay sai xuyên tạc, gây hoang mang bối rối cho cộng đồng. May mắn là chúng đã bị vạch mặt chỉ tên, với chứng cớ rõ ràng. không thể núp đàng sau những ngụy luận che đỡ, hay khoả lấp.”
    ĐIỂM SAI CỦA PHE CHỐNG THỈNH NGUYỆN THƯ
    (BÀI VIẾT TIỀN TÒA BẠCH ỐC)
Sau đây có thể lượt kê một số điểm SAI của Góp Giòi và những quan điểm đồng dạng.

1. CHỤP MŨ VC: Cái đòn thông dụng nhất làm phân hóa và suy yếu CDNVHN là chụp mũ VC bất cứ ai mình ác cảm, do hận thù cá nhân, do ghen tị, do lợi ích riêng… kể cả những người có thành tích đấu tranh được hầu hết mọi người công nhận và vinh danh, ngoại trừ bản thân và phe nhóm người chụp mũ. Những “ị kiến” sau đây thực ra đã có ý đồ “ị bậy” dù việc dẫn chứng hay lập luận chưa đủ cơ sở để phán xét và định tội: “Chống cộng 2 mang;” “làm theo “yêu cầu” (đơn đặt hàng) của VC để đổi lấy việc ông tự do ra vào trong nước, đài SBTN tự do hoạt động trong nước;” “chỉ là một đòn hoả mù có tính toán nhằm làm giãm bớt sức ép của Quả Bom Đoàn Văn Vươn ở trong nước đối với bạo quyền CS Hànội bằng cách tung ra chiến dịch vận động trả tự do cho nhạc sĩ Việt Khang để đánh lạc hướng công luận người Việt hải ngoại!” So sánh việc phỏng vấn và trình chiếu những hình ảnh nói lên thực trạng nghèo khổ, lầm than của dân chúng hay những tệ nạn tại quốc nội của Thanh Toàn với những bài báo mang tính phá hoại của kẻ từng có thành tích mang biệt danh: “Sáu Hồ Hởi” trong nhà tù, có cháu gái lấy chồng du học sinh, con cán bộ VC ở Hải Phòng, thì ai xứng đáng nhận hai món VVS luôn luôn có sẵn: “Nón Cối và Dép Râu” hơn?!

2. XÁC NHẬN VC LÀ NHÀ NƯỚC PHÁP TRỊ: Luật VC là Luật Rừng, muốn bắt ai thì tạo ra trăm ngàn lý do và bằng chứng để bắt. Cần bắt tội phản động âm mưu lật đổ chính quyền, chỉ cần cho công an lén bỏ vài ký chất nổ vào nhà nạn nhân. Muốn hại bằng án hình sự, chỉ cần lén bỏ vài gói xì ke, ma túy vào túi kẻ muốn hại. Ngay cả dùng hai “bao cao su” để bôi đen uy tín một nhà tranh đấu như vụ án Cù Huy Hà Vũ VC cũng không từ nan. Vậy VC cần gì phải phí công nhờ 2 ông Trúc Hồ và Phạm Kim, qua tay Vũ Trực, giúp XÁC NHẬN Việt Khang là có tội “cấu kết” với bọn phản động ở nước ngoài mới có đủ lý cớ để bỏ tù tội “cấu kết với thế lực thù địch hải ngoại, âm mưu lật đổ chính quyền?!”

3. CẦN CÂU CƠM CHỐNG CỘNG: Con người không thể chỉ sống nhờ bằng không khí, một thứ hoàn toàn “free” và có thể nhận bất cứ nơi đâu. Nếu chỉ sống nhờ “nước” only, việc nầy cũng còn gặp khó khăn nếu nơi sinh sống là đô thị vì nước tại đây phải mua, không như nước “free” ở trong rừng hay miệt vườn. Vì vậy việc đấu tranh có liên hệ với việc mưu sinh của cá nhân hay gia đình cũng không phải là lý do đáng trách. Những chương trình đấu tranh có được nhờ từ tiền các dịch vụ quảng cáo. Áo thun, DVD chống Cộng muốn phổ biến không lẽ bỏ tiền túi in free, trả phí bưu điện? TS Thắng nhờ nhận Fund chính phủ mới có phương tiện sinh hoạt đấu tranh toàn thời gian để cứu giúp nạn nhân Boat People, Nạn Buôn Người… Báo Góp Giòi hay các báo của các “Thợ chửi” cũng sống bằng quảng cáo, tiền bán báo… “Cá sống nhờ nước!” Cái quan trọng là Đài, Báo đó có khuynh hướng phục vụ hay phá hoại Cộng Đồng và sự nghiệp chống Cộng. Do đó lên án “Đài SBTN mượn chiêu bài chống Cộng để làm chiếc cần câu cơm” hay "Ông Thắng xưa nay ăn fund của chính phủ để phục vụ đường lối và chính sách của chính phủ theo lối Thiên Lôi chỉ đâu đánh đó” và “Hai ông đóng tuồng vận động tranh cử cho Obama mà cứ y như là đấu tranh thiệt để giải phóng quê hương khỏi ách thống trị bạo tàn của VGCS” có thể do động cơ ganh tị giữa “Trâu buộc ghét trâu ăn?!” hoặc một lý do tồi tệ khác: Thuộc loại “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nên “Suy bụng ta ra bụng người?!”

4. SỨC MẠNH CỘNG ĐỒNG NVTN:

(1) “Năm 1975 khi Mỹ đã muốn bỏ VN thì dù chúng ta có lạy họ, họ vẫn bỏ.” Mỹ bỏ VNCH vì Phong Trào Phản Chiến ảnh hưởng đến tâm lý đại đa số Dân Mỹ. Một khi Dân Mỹ không muốn cưu mang một cuộc chiến “không chính nghĩa” theo ý họ, khuynh hướng cố hữu theo Chủ Nghĩa Biệt Lập (Isolationist) và quan trọng nhất: Cuộc chiến tranh Việt Nam (1964-1972) đã hao tốn cho nước Mỹ 346,7 tỷ Mỷ kim!

(2) “Và bây giờ Mỹ muốn trở lại VN thì dù cho bọn VC có muốn ‘chống’ cũng không được.” Câu khẳng định về sức mạnh cũa Mỹ tự mâu thuẫn với câu: “Ta nên nhớ rằng : Dù cho Tổng thống Obama có đích thân can thiệp, VC cũng không thả Việt Khang.” Ngoài ra Hoa Kỳ không phải là một “Đế Quốc xâm lược” như Nga, Tàu thời bành trướng Chủ Nghĩa CS hay Anh, Pháp thời bành trướng thuộc địa. Mỹ cứu được Dân Libya nhờ Nghị Quyết 1973 của LHQ. Mỹ chưa cứu được Dân Syria vì Nga và Trung Cộng bỏ phiếu chống lại Nghị Quyết Syria.

(3) “Thử hỏi cộng đồng VN hải ngoại có sức mạnh gì mà có thể áp lực chánh quyền Mỹ?” Thắc mắc nầy cũng mâu thuẫn với câu “CS Hànội không muốn cho CĐVN hải ngoại chú ý tới vấn đề này.” (Không có sức mạnh thì chú ý hay không ăn nhằm gì mà sợ?!) Vị thế của CDVNHN khác với VNCH trước kia. VNCH hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ về mọi phương diện và sống nhờ tiền viện trợ của Mỹ. CDVNHN là thành tố tích cực trong tổng lực tạo nên sức mạnh hiện tại của nước Mỹ. Là những Cử Tri, chúng ta có Thế và Lực để ảnh hưởng lên sự thắng-bại của các Đại Diện Dân Cử nếu chúng ta toàn tâm toàn ý sử dụng lợi thế này cho mục đích Cứu Quốc.

(4) “Ngay Hạ viện Hoa Kỳ đã ra Dự Luật Nhân Quyền, đòi đưa VC trở lại quy chế CPC... cả chục lần rồi, nhưng cứ bị Thượng Viện ngâm tôm hoài. Tại sao?” Trả lời câu này có thể dùng một câu hỏi khác: “Tại sao các Dự Luật liên quan đến quyền lợi người Do Thái và Cuba đều được thông qua dễ dàng?” Câu trả lời: TIỀN và PHIẾU.

5. DIỆN-ĐIỂM: ĐÁNH LẠC HƯỚNG: “Như vậy rõ ràng là : Cuộc vận động trả tự do cho Việt Khang chỉ là DIỆN. Còn ĐIỂM chính là đánh lạc hướng dư luận hải ngoại về trái bom Đoàn Văn Vươn!... “thổi phồng” vấn đề Việt Khang, biến Việt Khang thành “trái bom” nổ ở “hải ngoại” (chứ không nổ ở trong nước).” Diện này có điểm Sai điểm Đúng. Sai là điểm “đánh lạc hướng” bởi Đài SBTN cũng tường trình đầy đủ vụ chống trả bằng vũ khí tự chế của Đoàn Văn Vươn. Đúng là Đài SBTN xem trọng và dồn mọi nỗ lực biến Việt Khang thành “trái bom” nổ nhanh ở “hải ngoại” thay vì vụ Đoàn Văn Vươn để tạo nên “trái bom” nổ chậm ở “quốc nội.”

(1) Lý Do “nhả” Vươn “nương” Khang: Tại sao TNT không có tên Đoàn Văn Vươn? Điều này có lẽ do người điều hành rút kinh nghiệm từ vụ Lý Tống trong thời đại sau 9/11. Trong thời kỳ bị giam giữ tại Thái Lan, tôi đã yêu cầu Lê Ngoạn lấy tiền Quỹ chi 18.400MK cho DB Trần Thái Văn đi vận động để Quốc Hội Mỹ triệu Bà Suthathif, Thông Dịch Viên người Thái, qua Mỹ ĐIỀU TRẦN chứng minh tôi vô tội vì Bà là Nhân Chứng duy nhất can đảm xác nhận trước Tòa Thái việc “Phi Công Thira bị áp lực phải phản cung và Cáo Trạng tôi đe dọa Đâm phi cơ xuống đất để cướp phi cơ là hoàn toàn bịa đặt” ngoài bằng chứng khác: Tôi dùng 20.000 MK để “mua chuộc” sự hợp tác của Huấn Luyện Viên Phi Công Thira và số tiền này đã được Cảnh sát Thái tịch thu có ghi biên bản. Thay vì “ĐÒI CÔNG LÝ CHO NGƯỜI VÔ TỘI” DB Văn lại mặc nhiên công nhận CÁO TRẠNG bịa đặt của Tòa Thái, “XIN NHÂN ĐẠO VỚI TÊN KHÔNG TẶC” và hoàn toàn không thực hiện lời hứa dàn xếp một cuộc Điều Trần cho Nhân Chứng quan trọng nhất! Chuyến đi CỨU BẠN” trở thành “HẠI BẠN” bởi không Quan chức Mỹ nào “dám” giúp đỡ những vụ án dùng bạo lực sau 9/11 vì sợ vi phạm “Tiêu Chuẩn Nước Đôi/ Double Standard.” Giờ nầy mới thấy rõ nguyên nhân tại sao TTV lại quyết định phương án trái với yêu cầu để “HẠI” thay vì “CỨU” bạn! TTV có 2 đệ tử ruột. Đệ tử số một vừa nắm hầu bao vừa vạch sách lược là Bùi Mạnh Cường, người từng hướng dẫn phái đoàn một Thị trưởng Mỹ về VN mở quan hệ đối tác làm ăn. Đệ tử số hai là Nguyễn Phương Hùng, người dám trương cờ máu Việt Cộng và đăng toàn bài VC đánh các Thành phần và Tổ chức chống Cộng Hải ngoại trên trang nhà KBCHN.NET của y.

(2) Giải Pháp Thay Thế: NS Trúc Hồ và TS Nguyễn Đình Thắng vẫn có thể tranh đấu công khai cho ĐVV dựa trên các luận điểm:

a. Khử Bạn Tán Thù? ĐVV là một chiến binh CS có nhiều thành tích vậy mà VC còn trấn lột, cướp đoạt tài sản chẳng tha. Đồng chí đồng rận còn trừ khử thẳng tay vậy huống gì “bọn thù địch, đế quốc Mỹ?” VC dùng chính sách “vỗ béo để làm thịt.” Sau các tư bản Việt Kiều như Hoàng Vi Ðắc, Nguyễn Trung Trực, Trịnh Vĩnh Bình... sẽ đến những tư bản người Mỹ. Với luận điểm “kẻ khử bạn không thể tán trợ kẻ thù” Chính Phủ và Tư Bản Mỹ có thể xét lại chính sách đầu tư tại VNCS.

b. Quỷ Nương Vươn Bắt? DVV là một ấn chỉ vừa chứng minh sự bóc lột của Tư Bản Đỏ VC đã vượt qua bản án do chính tổ sư CS Karl Marx kết tội Tư Bản Xanh và “thời đại HCM, thời đại vinh quang nhất của lịch sử dân tộc” sắp cáo chung vì chính người CS đang và sẽ đứng lên chống và lật đổ bọn đầu sỏ VC! Như vậy việc Hoa Kỳ tăng cường quan hệ, nương tay và phù trợ quỷ đỏ, không can thiệp cho những người tự vệ cực đoan bị bắt nhưng Đoàn Văn Vươn tức “Quỷ nương, Vươn bắt” là tự hại, tự diệt.

Lý Tống

Yêu kẻ thù là yêu như thế nào ?? - Trường Sơn

Trường Sơn

Trước tiên xin khẳng định một câu “chắc nịch” cho bà con Công Giáo nghe như sau:
    - Yêu kẻ thù là phải chặt tay và móc mắt chúng đi để chúng không còn gây thêm tội lỗi, và cầu nguyện cho chúng để chúng mau hoán cải và lên thiên đàng. 
    - Yêu kẻ thù là không buông thả cho chúng phạm tội để chúng sa vào hỏa ngục.
Tiếp đến là lời giải thích tại sao phải nói lên câu như vậy !

Người Công Giáo thường đọc trong Thánh Kinh câu: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:43-44), và khi họ đọc xong câu này thì liền vội vã kết luận: Mình không được làm hại đến kẻ thù mà chỉ cầu nguyện cho họ mau ăn năn hối cải hoàn thiện, còn nếu họ vẫn tiếp tục giết người cướp của gieo rắc những lý thuyết khiến ngưòi nhẹ dạ mất linh hồn thì cứ mặc kệ, vì Chúa sẽ ra tay hành động và diệt chúng.

Trước đây đã có bài viết “Hãy đập vỡ bánh trớn” trên Ba Cây Trúc bàn về việc người Công Giáo khoái trò “bán cái” mọi trách nhiệm của mình cho Chúa để nhởn nhơ sống vô cảm vô vi như những kẻ ăn bám, nay xin bàn tiếp về thái độ cần có của họ trong việc đối xử “đúng mức” với kẻ thù ra sao.

Đứng trước thái độ “yêu kẻ thù” mù quáng hiện nay của người Công Giáo, những kẻ thù của chúng ta (đặc biệt là bọn Việt Cộng) cười rộ lên trong sung sướng và nghĩ rằng: “Cái bọn Công Giáo ngu 'hết biết !!!” (tức hết thuốc chữa), chúng mình sẽ sung sướng sống giữa đàn cừu ngu dại này để tận hưởng thú cướp bóc của mình.” Và rốt cuộc thì người ác càng ngày càng nhiều ra và người công giáo “yêu kẻ thù” càng ngày càng bị lụn bại và suy sụp khiến nước Chúa ngày càng bị bọn quỷ ma chiếm đoạt.

Rất nhiều người thấy cảnh bất công và vô trách nhiệm này đã đứng ra kêu gọi người Công Giáo hồi tỉnh, nhưng không thể nào lay chuyển lòng tin ngu muội của đám u mê này. Vì vậy thiết nghĩ cần phải giải độc cho họ, giúp họ hiểu được thế nào là “yêu kẻ thù” như trong lời dặn dò của Chúa Giêsu.

Trong cuộc đời ai mà không có tình yêu ? nào là yêu cha mẹ, yêu con cái, yêu bà con bạn bè, yêu thú vật cỏ cây, yêu nhà yêu cửa, yêu quê hương xóm làng, yêu trai yêu gái ... và yêu chính bản thân mình. Mỗi thứ tình yêu đều có một mức độ tình cảm nào đó, và khi yêu những "thứ đáng yêu" thì tình yêu này mang lại sự hài hòa và thăng tiến cho từng cá nhân và tập thể của xã hội loài người. Nhưng khi nói về việc yêu thiên tai, yêu bệnh hoạn, yêu chiến tranh hoặc yêu kẻ thù thì ai cũng ngạc nhiên vì đây là một nghịch lý, những thứ tai họa, những kẻ mà mình thù ghét thì làm sao thương nó được?. Ghét và thương là hai tình cảm tương khắc nhau, cũng như ánh sáng và bóng tối, nước và lửa, hễ có cái này thì không có cái kia. Không ai có thể nói được rằng Sự Thật phải yêu sự Dối Trá, hay Thánh Thiện thì phải yêu Tội Lỗi !!. Ấy thế mà người công giáo lại cứ luôn miệng luôn mồm nói là họ “yêu kẻ thù”… Nhưng trong thực tế, họ đã yêu kẻ thù được bao nhiêu ? hay là chỉ nói ra ngoài môi mép cho có vẻ ta đây là đạo đức, là theo lời dạy của Chúa Giêsu trong khi lòng họ thì rất ấm ức khó chịu ??. Vậy có ai đo lường được tình yêu dành cho kẻ thù nặng được bao nhiêu gà-ram để chứng minh rằng thứ tình yêu đó là một thực tế đang hiện hữu ?

Quả thật yêu thương kẻ thù là một điều không thể có được nếu không đi vào một khía cạnh đặc thù nào đó của kẻ thù để châm chước cho hành vi tội lỗi của họ.

Bởi vì chỉ có đạo Công Giáo mới đem khoe khoang cái thứ tình yêu này cho nên cần phải nghiên cứu giáo điều của đạo này để tìm hiểu thực hư ra sao.

Nếu chỉ nêu câu “Hãy thương yêu kẻ thù” của Chúa Giêsu dạy một cách gọn lỏn thì con người ắt phải loạn trí vì họ đang làm một việc ngược với bản năng để tự mang thiệt thòi vào thân vì không ai ngu dại khi thấy con cọp dữ đang nhe răng mà cứ xông vào đưa cái đầu cho nó cắn, họa chăng kẻ đó là thằng điên và trong thiên nhiên chẳng có loài tạo sinh nào mà không phản kháng chống trả trước kẻ thù của nó! Không lẽ chỉ có người Công Giáo là một giống đại ngu được Thiên Chúa tạo dựng ra với bản năng tự sát vì không có kháng thể trong người ??

Điều chắc chắn là Chúa Giêsu không phải là đấng “loạn trí”, nhưng vì chúng ta đã không tổng hợp được các lời dạy của Ngài cho nên chúng ta mới suy nghĩ và hành động theo kiểu loạn trí mà thôi. Vì vậy chúng ta cần phải đọc toàn bộ lời giảng dạy của Ngài thì mới hiểu được yêu kẻ thù là yêu theo kiểu nào. Hãy nghiên cứu các câu kinh sau đây:
    "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." (Mt 19:19)
Yêu chính mình là yêu theo kiểu nào ?. Đó là yêu bằng cách cho roi cho vọt, vì không có roi vọt thì con người dễ sa đọa và mất linh hồn. Yêu chính mình là phải tự tay cắt xẻ những mụt nhọt, hoặc đi bệnh viện giải phẫu cắt đi các tuyến ung thư để cứu lấy tính mạng của mình. Chúa có dạy như vậy không ?. Thưa có. Sau đây là câu Chúa Giêsu dạy: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục." (Mt 5:30)

Chúa đã dạy như vậy thì làm sao Chúa có thể nói ngược lại rằng mình phải yêu kẻ thù và để cho chúng tự do làm điều ác khiến mọi người đều sa hỏa ngục, đều chết, nhất là khi chúng cấm đoán những người tin Chúa không được thi hành lời Chúa hoặc trực tiếp phỉ báng Ngài, phá đi lòng tin kính của loài người đối với Ngài ??. Vậy chúng ta phải đối xử với kẻ thù như thế nào mới không nghịch lý ?

Bởi vì người tín hữu phải đối xử với tha nhân giống như đối với mình cho nên … nếu chính người tín hữu phải tự chặt tay móc mắt mình để tránh tội thì họ cũng phải chặt tay và móc mắt của kẻ thù tội lỗi của họ để giúp họ tránh tội và khỏi mất linh hồn. Tức là mình thương mình bằng cách chữa trị mình, loại bỏ những chi thể hư thối của mình ra sao thì mình cũng phải hành động như thế đối với kẻ thù. Vì vậy không thể nói rằng, vì tôi yêu thương kẻ thù nên tôi phải để cho chúng nó tự do phạm tội, và tự do xuống hỏa ngục. Nói như vậy là phản lại ý muốn của Chúa Giêsu, là phản đạo. Đối với Chúa Giêsu, những ai gây cớ cho người khác phạm tội thì cần buộc đá vào cổ chúng và xô xuống biển cho chết đi để khỏi tiếp tục gây họa cho xã hội. (Mt 18:6). Vì thế, người Công Giáo không thể làm ngơ đối với kẻ thù gây tội ác khiến chúng ta và ngay cả chúng nó đều chết mất xác và mất linh hồn, và nhất là đối với những kẻ phá đạo phỉ báng Thiên Chúa thì càng phải loại trừ ngay, chặt tay móc mắt chúng để chúng không còn khả năng gây họa cho linh hồn của chúng nó và cho mọi người.

Trong cuộc đời ai mà không có kẻ thù, những kẻ thù đó nên được chia làm 2 loại, loại chủ động có ý thức và loại thụ động không ý thức, để chúng ta xét xem loại nào có thể cải hóa được và loại nào là bất trị cần phải loại bỏ. Sự phân loại này cần phải hướng về mục đích cao xa, đó là sự cứu rỗi linh hồn của họ.

Có những thứ tội lỗi khiến linh hồn khó thoát khỏi vòng luận phạt, vì vậy đối với những loại người phạm tội lỗi này thì nên rút ngắn sự sống của chúng để chúng bị luận phạt ít hơn ở đời sau và mau được lên thiên đàng sau khi đã trả hết nợ. Chính Chúa Giêsu cũng phải thốt lên câu ta thán: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26:24) khi Judas phản bội Ngài và bán Ngài cho quân dữ. Vâng, nếu Judas không được sinh ra thì linh hồn của nó chắc sẽ không chịu luận phạt lâu dài trong hỏa ngục. Đối với Thiên Chúa, tội gì cũng được tha thứ sau khi đã ăn năn hối cải, ngoại trừ một tội, đó là tội kiêu ngạo, tội ngoan cố, tức là tội từ khước chân lý và hoán cải vì tự cao tự đại. Thiên Chúa luôn ném cho con người chiếc phao cứu rỗi khi họ rơi xuống biển tội lỗi, thế nhưng có nhiều người lại vì tự ái và ngoan cố không thèm ôm phao mà cứ để tự mình chìm chết với thái độ vênh váo khinh khỉnh. Vậy thì đối với những loại người này, thứ tình thương “yêu kẻ thù” có giá trị và mang lại lợi ích gì cho linh hồn của chúng không ???

Những kẻ khi dể chân lý của Chúa đều bị bỏ rơi.

Cộng sản là một giống người biết rõ mình đang làm điều tội lỗi sai trái mà vẫn cứ làm vì ngoan cố, không xem Sự Thật và Chân Lý ra trò trống gì, chúng phỉ báng ngay cả Đấng Tạo Dựng ra chúng thì thử hỏi chúng có đáng bị loại vào nhóm “thà đừng sinh ra thì hơn” không ?. Người Công Giáo có cầu nguyện cho chúng cũng uổng công vì những kẻ đã phủ nhận Đấng Tạo Dựng ra chúng thì khi chết đi chúng chẳng bao giờ trở về với đấng tạo dựng cả, chúng mất linh hồn là cái chắc !!!. Vì vậy Cộng Sản là thứ “kẻ thù không được phép yêu”“đừng đem lòng yêu thương và lời cầu nguyện ban cho loài heo chó” “kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em”. (Mt 7:6)

Hiện nay có những chức sắc lớn trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã cố tình nhồi sọ giáo dân với thứ tình “thương yêu kẻ thù” úp mở này để lừa đảo họ và tiếp tay cho Cộng Sản thôn tính lãnh thổ của Thiên Chúa. Ngày nào họ cũng giả vờ lâm râm đọc kinh “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” nhưng mọi hành vi của họ đều hướng về ý niệm “nước Cộng Sản trị đến, lý thuyết Cộng Sản được thể hiện trên toàn bộ trái đất áp đảo quyền thống trị của trời.” Điển hình là cái ông giám mục Nguyễn văn Khảm đã hô hào thuyết Cộng Sản của Karl Marx ngay trong nhà thờ của Chúa trong ngày lễ trọng đại Chúa Kitô Vua để làm sỉ nhục quyền thống trị của Chúa trên trái đất này. Thật là khốn nạn “hết thuốc chửa” !

Nhũng kẻ thù mà người Công Giáo phải yêu thương là những kẻ làm hại chúng ta vì ngu đần, không biết rõ việc họ đang làm mà thôi, riêng những kẻ đang ý thức rõ ràng việc ác chúng đang làm và cố tình chà đạp chân lý của Đấng Tạo Dựng, điển hình là bọn Việt Cộng cướp của giết người và đang đàn áp bóc lột hơn 86 triệu dân Việt, thì bọn này cần phải bị ghét bỏ vì toàn thể dân Việt đều thù hận chúng và chính Thiên Chúa cũng ghét bỏ chúng và muốn dùng bàn tay của người công chính loại bỏ chúng!

Trường Sơn
______________________
    Hãy đập vỡ bánh trớn
Trường Sơn

Người Công Giáo thường bị gài kẹt cứng trong cái bẫy mà vô tình giáo hội đã tự đặt ra để giáo dân hèn yếu mắc phải, cái bẫy đó là chính sách: Người Công Giáo không làm chính trị.

Lẽ dĩ nhiên khi Giáo Hội đưa ra các chính sách không làm chính trị và chính sách thỏa hiệp hòa giải với các thế lực chính trị và tôn giáo trên thế giới qua giáo huấn của Cộng Đồng Vatican 2, thì các vị giáo phụ đã thông suốt hết mọi cương lĩnh của chính trị và tôn giáo để giới hạn việc xâm lấn lẫn nhau giữa hai lĩnh vực này. Họ là những người thông hiểu giáo luật trọn vẹn cho nên một câu nói “Người Công Giáo không làm chính trị” cũng bao hàm nhiều ý niệm bổ túc cho phản đề là “người công giáo phải làm chính trị”, có nghĩa là không được làm chính trị ở điểm nào và phải làm chính trị ở điểm nào.

Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị thừa nhận mình làm chính trị thì hẳn câu “người công giáo không làm chính trị” đã cho phép họ được làm chính trị theo quan điểm tôn giáo và quyền công dân của mình. Nhưng tiếc rằng các giáo phụ không đủ nhạy cảm để gọi tên chính sách đó bằng một lời lẽ mềm dẻo hơn thay cho câu khẳng định cứng ngắt là “người công giáo KHÔNG LÀM CHÍNH TRỊ”.

Họ đâu biết rằng những tổ chức độc tài đang lợi dụng chủ đề “không làm chính trị” để nhồi sọ giáo dân là không được phép nhúng tay can thiệp vào những hoạt động bất lương và mất đạo đức của họ. Nếu các ngài biết rõ tính xỏ xiên xảo quyệt của lũ độc tài thì ắt các ngài cũng phổ biến thêm chủ trương “Người Công Giáo phải làm chính trị” với những giải thích minh bạch để chận đứng những tuyên truyền méo mó của một số ác quỷ đội lốt tu sĩ đang ôm chân bọn độc tài để hủy hoại nhân phẩm và giá trị của loài người.

Sự thiếu nhạy cảm này đã đưa lại một hậu quả tai hại khiến hầu hết giáo dân Công Giáo đều trở nên ù lì trước bất công và tội ác của các tổ chức chính trị, họ không có một hành động, một lời nói hay thái độ cụ thể nào để bênh vực cho công lý, chống lại những hành vi sinh oai tác quái của chính quyền độc tài vô đạo. Nói chi xa xôi, ngay cả những Đức Cha, những Linh mục mà còn ủng hộ tâng bốc bọn chính quyền vô lại và hàm hồ cấm đoán giáo dân không được phê bình việc chính trị hoặc có thái độ chính trị, thì làm sao giáo dân bình thường lại không mắc phải cái quai khóa hẳn cái miệng của họ, hoặc cái còng xiết hai tay họ lại không cho họ xua đuổi những thành phần cai trị bẩn thỉu, bất hảo hại dân ? Bọn giáo sĩ biến thái này, khi tiêu cực bắt tay với bạo quyền bất lương, thì họ mặc nhiên cũng đang “làm chính trị” chứ có phải là vô tư đâu !! Điển hình là một Đức Cha Nguyễn Mạnh Hiếu của Toronto Canada cũng huyênh hoang tuyên bố là “Công Giáo không làm chính trị” thì thử hỏi giáo dân làm sao mà không ngu muội nhắm mắt đưa chân, đưa cổ vào tròng nô lệ của bọn độc tài đảng trị ?

Có một Đức cha ở VN, trên đầu thì đội Chúa nhưng cái miệng ở dưới thì ca ngợi Karl Marx vô thần,
một ông mũ tím khác được ngồi vào ghế chủ tịch của Ủy Ban (bảo vệ) Công Lý và Hòa Bình thì lại chẳng hề nghe nói câu nào bênh vực cho kẻ bị đàn áp, hoặc an ủi những nạn nhân lương thiện đang bị bọn cường hào hiếu sát đánh đập uy hiếp, ông ấy chỉ bỏ thì giờ làm chuyện tào lao lãng nhách để tránh đụng chạm đến vấn đề chính trị. Cũng có một Đức Cha khác lại phê bình việc linh mục Nguyễn Văn Lý bị ở tù vì tranh đấu cho Tự Do tôn giáo là “đúng” vì đã phạm tội “làm chính trị”.

Nếu các vị lãnh tụ Công Giáo không chịu thi hành bổn phận của người công dân chân chính diệt tà trừ gian, nếu giáo dân công giáo không ra tay loại trừ kẻ gây tội ác tạo gương xấu cho loài người sa ngã, thì thử hỏi còn có ai chịu thi hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu, chịu ra tay nâng cối đá buộc vào cổ chúng để ném chúng xuống biển hầu loại trừ mầm độc cho thế gian theo lời dạy của Ngài rằng: Những ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã.….” (Mt 18:6-7). Ai là kẻ có nhiệm vụ buộc cái cối đá này vào cổ những kẻ (đặc biệt là bọn quỷ VC) gây cớ cho con người sa ngã ? Không lẽ phải để cho Chúa Giêsu tự tay làm ? Xin thưa rằng : Chúa muốn những người bảo vệ chân lý, những người Công Giáo thuần túy như chúng ta phải ra tay buộc cái cối đá này vào cổ của những thằng ác ôn gây tội ác và xô chúng xuống biển. Đây là một hành động chính trị rất chính đáng để mang lại hạnh phúc cho xã hội loài người.

Xin hỏi: Ai có thể phản đối lời dạy này của Chúa Giêsu để từ chối việc “phải làm chính trị” của mình ? Nếu thừa nhận rằng người theo Chúa phải làm theo lời dạy của Chúa thì tại sao người Công Giáo lại không làm chính trị chân chính để loại trừ những thành phần mang tai họa cho xã hội ? Người Công Giáo nào không chịu làm chính trị chân chính mà lại đi làm nô bộc cho một chính quyền bán nước hại dân và phỉ báng Thiên Chúa thì người đó nên bỏ đạo thì hơn và đừng bao giờ đi rêu rao mình là môn đồ của Chúa.

Có nhiều người vì chẳng hiểu mô tê gì về chân lý của Chúa Giêsu cho nên cho rằng đạo Chúa cần phải dung hòa, phải thỏa hiệp với thế quyền gian ác. Một ông cựu chủng sinh tên là VL lại đặt tên cho tờ báo điện tử BCT là “Công Giáo Cực Hữu” thì chẳng biết ông ấy lấy cái chữ cực hữu này từ đâu ra !

Đạo Chúa Giêsu không hề có “cực hữu” mà chỉ có định nghĩa rằng bên hữu của Chúa là dành cho người lành và bên tả thì dành cho người dữ mà thôi. Đạo Chúa chỉ có Chân Lý (Sự Thật) để chống lại Tà Lý (dối trá), chỉ có Ánh sáng để dẹp bỏ bóng tối.

Đạo Chúa không hề có sự phân chia bên Hữu thành 3 phe Cực Hữu, Trung Hữu và Cận Hữu, và cũng không hề có sự hòa trộn giữa Ánh Sáng với Bóng Tối hoặc lẫn lộn Sự Thật với Dối Trá (là hiện tượng không thể có, vì ánh sáng đến thí bóng tối phải biến mất và sự thật đến thì dối trá sẽ tiêu tan), đạo Chúa không hề có sự dung hòa và thỏa hiệp giữa hai điều triệt tiêu lẫn nhau này !! Cũng vì tự ý phân chia Ánh sáng trắng tinh tuyền ra từng nhiều mảnh cho nên mới sinh ra muôn màu khác biệt nhau khiến cho loài người trở nên loạn sắc và sai lầm khi nhìn vào ánh sáng trắng tổng hợp.

Đạo Công giáo theo đúng Đức Tin (kinh tin kính) thì phải Duy Nhất, Thánh Thiện và Tông Truyền chứ chẳng hề có thỏa hiệp với tà thuyết để tự chia ra thành cực hữu hay cực tả, thần học giải phóng hay thần học nô lệ, ngã nghiêng theo thần quyền hay thế quyền (nôm na là quốc doanh) …vv. mà chỉ theo cái gì đúng với sự thật mà thôi, và có thể đạp đổ thần quyền nếu thần quyền này là dối trá.

Xin nhắc lại rằng đem chân lý đạo Chúa để thỏa hiệp với Dối Trá và Sự Ác chính là lạc đạo, là tự đánh mất ơn cứu chuộc, là tự giam cầm trong sự hư mất.

Rất nhiều vị thông hiểu giáo lý của Chúa đã trình bày rất rõ ràng minh bạch về thái độ trung trực cần có của mỗi giáo dân Công Giáo khi thi hành bổn phận làm con Chúa trên trần thế, tức phải làm chính trị chân chính để thanh khiết xã hội của mình.

Thế nhưng đa số giáo dân, sau khi đã đọc qua và hiểu được thế nào là bổn phận “chính trị” của người Công Giáo thì họ lại bị những con quỷ mặc áo tu sĩ (mà họ kính trọng một cách ngu muội) gây áp lực và cấm buộc khiến họ mất đi nhuệ khí và tự buông xuôi cho ma quỷ nuốt đi cái chân lý của mình. Họ bị nhồi sọ để nghĩ rằng việc bảo vệ chân lý phải để cho bàn tay Chúa làm chứ không phải là bổn phận của người Công Giáo phàm tục, họ được nhồi sọ là không cần phải ra tay làm bất cứ điều gì cho mệt mỏi xác hồn mà chỉ cần “cầu nguyện”chỉ biết “cầu nguyện” để xin xỏ … rồi Đấng Thiêng Liêng sẽ lắng nghe và thi triển phép thần thông, giải quyết mọi sự ổn thỏa để mang lại hạnh phúc cơm no áo ấm và sự công bình cho họ. Nếu quả thật Thiên Chúa lo hết mọi sự thì tại sao Ngài lại đuổi Adam và Eva ra khỏi vườn địa đàng và phán: “Các ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có của ăn” ?? (STK 3:19) và tại sao qua hàng ngàn năm nay con người cứ cầu xin mãi mà ơn huệ nhãn tiền trực tiếp ban xuống chẳng thấy được bao nhiêu ?

Khi đã được sinh ra trên thế gian này thì vốn liếng ơn huệ đã được ban sẳn trong bản chất của con người rồi nhưng họ chẳng nhận biết để khai thác đúng mức cái vốn liếng đó mà cứ lâm râm khấn vái khiến Thiên Chúa nhìn xuống cũng nhăn mặt mắng rằng: “bọn ngu muội ! Ta đã ban cho các người bàn tay và trí óc thì các ngươi phải dùng trí tuệ và bàn tay để tạo thành quả, sao lại còn đi xin ??”

Con người phải tự lo cho thân mình bằng những khả năng (ân huệ) bẩm sinh của mình, chứ không thể ỷ lại mọi cái vào Thiên Chúa mãi, Ngài chỉ giúp chúng ta ở những việc chúng ta không có khả năng làm được mà thôi, còn những việc nằm trong bổn phận và khả năng thì chúng ta phải toan tính tự làm lấy. Qua câu Chúa Giêsu dạy rằng: “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6:27), chúng ta hiểu được là phải cầu xin và trông cậy vào Ngài ở những việc ngoài khả năng, còn những việc trong khả năng của chúng ta thì hãy xem đó là bổn phận phải chu toàn chứ không được nhờ cậy xin xỏ. Chỉ vì quá nhìn xa và lo lắng vô tích sự cho nên các đấng lãnh đạo trong HĐGMVN đã khựng người sợ hãi trước những khó khăn bình thường của cuộc sống cho nên họ chẳng dám làm bổn phận của mình mà hơn thế, họ còn kéo cả giáo hội đi vào cơn lụn bại để trở thành lủ ăn bám vào thành quả của dân tộc, vào ân huệ của Chúa.

Hãy xem gương gà mẹ và lũ gà con, khi đàn con còn nhỏ chiu chít bên mẹ thì mẹ chúng lo cho đủ thứ, bươi móc thức ăn trong lùm cây bụi cỏ để nuôi chúng và ra sức bảo vệ chúng mỗi khi có nguy hiểm, nhưng sau một thời gian bọn gà con đã đủ sức kiếm ăn thì gà mẹ “trở mặt” không giúp đỡ nữa mà trái lại còn xua đuổi đám con cái xa mình để chúng tự lập.

Thiên Chúa đã dùng hình ảnh của gà mẹ để dạy cho con người biết rằng, Thiên Chúa không phải bao giờ cũng lo lắng chăm sóc loài người mà chính họ phải tự chăm sóc lấy mình, phải tự tranh đấu để sinh tồn hầu làm rạng danh đấng đã tạo dựng nên họ với những tài năng tự sáng tạo để hoàn hảo cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của mình. Sách Sáng Thế Ký có câu: ĐỨC CHÚA phán: "Thần khí của Ta sẽ không ở lại mãi mãi trong con người (STK 6:3) có nghĩa rằng Thiên Chúa có lúc phải rời bỏ tách xa con người để họ tự lo thân và bằng lòng với bổn phận của mình trên trần thế. Thiên Chúa cũng đã có lúc rời xa con một của mình là Chúa Giêsu khiến Ngài đã có lúc kêu lên: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27:46). Con người, (kể cả Chúa Giêsu) phải tự dùng sức mạnh tinh thần của mình để chống chọi với hoàn cảnh chứ không được có thái độ buông xuôi và ỷ lại vào Thiên Chúa khiến Ngài nhìn vào chúng ta như những thành phẩm thất bại đáng xấu hổ của Ngài. Chính vì Chúa Giêsu sợ làm mất thể diện của Chúa Cha mà Ngài phải than và cam phận: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha." (Mt 26:39)

Giáo dân cần phải hiểu rõ bổn phận “làm chính trị” của mình để không buông xuôi sai đường lạc hướng, đồng thời cũng nên biết rằng câu “người Công Giáo tốt là người công dân tốt” không có nghĩa là người công dân làm nô bộc trung thành cho chế độ đang cầm quyền. Chữ tốt của người công dân ở đây là làm đúng bổn phận đóng góp vào việc xây dựng hạnh phúc cho xã hội về cả 3 mặt vật chất, luân lý và đạo đức. Nếu cứ sợ hãi chính quyền độc tài ăn cướp và bằng lòng làm tay sai gieo rắc bao gương xấu cho xã hội, thì người công dân này không thể được cho là người tốt mà là công dân rất xấu và gian ác cần phải loại bỏ.

Theo định nghĩa trên thì hiện đang có rất nhiều vị lãnh đạo công giáo là những công dân hạng bét, họ vừa há miệng ăn lộc của giáo dân, vừa lừa đảo giáo dân bằng cách ăn gian nói thừa cắt xén lời Chúa để giảng dạy điều sai quấy, vừa im lặng không dám lên tiếng sửa sai những điều gian ác của chế độ đang cầm quyền và gián tiếp phụ họa với chúng. Họ là những kẻ ngồi bát ăn bát vàng và ăn nói bậy bạ vô tích sự.

Có những kẻ hèn ngồi ca ngợi chủ thuyết Karl Marx vô thần trộm cướp, có những kẻ loạn trí ngồi trên ngai của Môisen để nghiền ngẩm và giảng dạy chuyện sex thì liệu những kẻ đó có xứng đáng được gọi là người công giáo tốt và công dân tốt không ? Cứ cho rằng họ là những người Công Giáo tốt (ở một khía cạnh nào đó) nhưng họ không phải là công dân tốt được vì họ tuy có quyền công dân nhưng đã bán cái quyền này cho tập đoàn cai trị lươn lẹo và đã trở thành tay sai cho gian ác và tội lỗi.

Ở đây không bàn đến tại sao phải làm và không làm chính trị vì đã có quá nhiều bài viết của những vị tri thức từng đưa ra rồi. Nhưng có một điều đáng than phiền là con người đã quá bôi trơn cái đầu khiến con ruồi đậu vào cũng trợt té gảy chân thì làm sao những tư tưởng đạo đức thanh cao lại không bị dội ngược ra khi chạm vào những cái đầu đó. Họ đọc họ hiểu nhưng họ quên ngay và miệng họ vẫn mãi lảm nhảm câu “Người Công Giáo không làm chính trị” và cái đầu trơn láng của họ cúi gầm xuống để con mắt và trí tuệ của họ tiếp tục đui mù. Họ giống như những chiếc bánh trớn, một khi đã bị quay vòng theo chiều ngu muội thì vẫn tiếp tục ngu muội cho đến chết mà không hề tỉnh thức để ngưng lại.

Những chiếc bánh trớn như vậy thì cần đập cho bể nát để con người được giải thoát khỏi cái khối nặng kéo linh hồn họ xuống đáy của sân si yếu nhược.

Trường Sơn


Saturday, March 31, 2012

Cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương




"Tôi nguyện nắm xương của Tôi sẽ nằm bên cạnh nắm xương của các anh em Binh sĩ"

    ”Nếu cộng sản đưa ra điều kiện của kẻ thắng cho người bại trận, thì không còn cách gì hơn là nếu được, chúng ta cứ việc chiến đấu đến cùng…

    Chừng đó dẫu Sài Gòn này có biến thành biển máu, tôi nghĩ rằng người Việt Nam vì thể diện mình không thể nào mà từ chối được, trừ một số người mới chấp nhận cái chuyện đó…

    Việt Nam Cộng Hòa có thể phải chịu một vài điều kiện khó khăn đau đớn, nhưng điều kiện đó không phải là những bước hoàn toàn để đầu hàng.

    Nếu thương thuyết để đầu hàng thì thương thuyết gì nữa, thà là chết, chiến đấu đến cùng…chớ không thể chấp nhận đầu hàng được”.


Quốc hận tháng Tư - Lâm Hoài Vũ


"Nhớ nước đau lòng con Quốc Quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái Gia Gia!
"
Bà Huyện Thanh Quan


Quốc hận tháng Tư

Tháng Tư đến mây trời xanh xao quá
Những giọt buồn hiu hắt chảy vào tim
Nhớ cố hương ruột đau thắt từng cơn
Bao năm tháng vẫn mù sương thiên lý

Ba mươi bảy năm dài như thế kỷ
Nỗi ưu tư trĩu nặng bước lưu vong
Thời gian phai bao mơ ước bên lòng
Vết thương cũ vẫn còn hoen rỉ máu.

Tháng Tư xưa triệu người trong giông bão
Vành khăn tang liệm chết tuổi hoa niên
Tháng Tư nay đất nước vẫn đảo điên
Dân vẫn sống trong gông cùm cộng đỏ.

Ta thề sẽ một mai về đất Tổ
Cùng toàn dân mở hội rước cờ Vàng
Hồn núi sông sáng rực ánh đăng quang
Như réo gọi tâm linh người ly xứ.




Chứng nhân lịch sử
Ta đang đi trên con thuyền tỵ nạn
Để làm người được nói tiếng Tự Do
Mỗi chúng ta là chứng nhân lịch sử
Dân tộc Việt Nam trong ngục đỏ khổng lồ.

Ta đang trôi trên dòng đời ly xứ
Thật lạc loài nơi đất khách tạm dung
Những tủi nhục hằn in trong cuộc sống
Theo tháng năm hờn vong quốc chất chồng

Ta nhớ ngày xưa vượt biên vượt sóng
Lênh đênh đi tìm thiên đường Tự Do
Chiếc tầu tình thương từ đâu hiện đến
Đã đưa ta về quê người bình an.

Ta không quên bao người còn đau khổ
Ở quê hương rên siết bởi lũ xâm lăng
Đem chủ thuyết ngoại lai phi nhân bản
Đày dân lành thành nô lệ lầm than.

Ta noi gương đấng tiền nhân anh dũng
Chí kiêu hùng truyền thống giống Tiên Long
Rồi sẽ có một mùa Xuân Nguyễn huệ
Phất Cờ Vàng rực rỡ khắp non sông.

Lâm Hoài Vũ


Quốc Hận! - Lão Ngoan Đồng

Lão Ngoan Đồng

Nước đã mất, nhà đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu dấu.

Trên đuờng trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những người vuợt thoát bằng đuờng bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít người đa chết đói vì lạc đuờng, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng”. (tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.

Thảm cảnh đó đã làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT PEOPLE” (Thuyền Nhân).

Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.

Cái hận đã mất nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ đấy, chúng ta, những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.

Không có từ ngữ nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.

Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi người nhớ đến nó một cách khác nhau.

Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bị kềm hãm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm mướn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày lẫn đêm, bằng những lời chửi bới, hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất thế.

Những người tù lương tâm đó là ai?

Họ là những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cuờng, có phần trội hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan.

Họ là những nhà tư bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.

Họ là những người trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.

Những người tù lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân” (sic).

Ngoài những người đã bị bắt đi làm tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng bị đày đọa không kém. Họ đã bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.

Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vườn đó, được thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.

Tóm lại, sau khi bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhượng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.

Tình cảnh của người dân Việt Nam hiện nay, năm 2012, đã qua 37 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian manh hơn, ác độc hơn.

Đã là người Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc, giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của mình.

Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tuởng niệm đến quê hương đã mất đi, tuởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tuởng nhớ đến những người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đuờng đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.

Lão Ngoan Đồng

Tuesday, March 27, 2012

Trận chiến cuối cùng của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu



Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)

Từ bên bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T54 và các sư đoàn Bắc quân đã xóa nát văn kiện hiệp định Ba Lê 1973, tiến dần về Nam. Như một thứ định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặc và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ bên ngoài cương thổ Việt Nam. Từng tấc đất bị mất. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt. Mất Quảng Trị, Huế, Ðà Nẵng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết... Và rồi đầu tháng Tư 75, Bắc quân bị Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Ðảo chận khựng tại Long Khánh 12 ngày đêm, sau đó địch tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn. Quân ta cứ rút, cứ rút.

Vũng Tàu, những ngày cuối tháng Tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng, náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường.

Ngày 26 tháng 4, Bắc quân tấn chiếm Biên Hòa, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết! Nhưng trường Thiếu Sinh Quân thì dường như không. Truờng tọa lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, song lại bị ngăn cách bởi những vách tường vách đá kiên cố bao quanh, cái giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn không lọt vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày, Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết) đang trong thời gian học thi tốt nghiệp vẫn cúi đầu miệt mài với sách vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 được nhà trường cho về với gia đình, còn các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân, vì thế không khí nhà trường càng ngày càng nặng nề, yên tĩnh.. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra nét âu lo, bức xúc trên những gương mặt của các cán bộ và nhân viên cơ hữu nhà trường.

Ngày 28 tháng Tư, chúng tôi được lệnh tập hợp sau bữa ăn chiều. Trung tá Ngô Văn Doanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:

- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu! Nhà trường đã có kế hoạch di tản!

Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được Chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối rúc chui dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu lờ lững lượn trên vòm trời xanh.

Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những âu lo của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo chẳng biết từ đâu xé gió rít qua không gian ... và Ầm! Ầm!.. Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rơi vào chân núi đài viba sát đàng sau lưng trường. Ðại úy Lê Viết Ðắc, cán bộ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12 rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược chạy xuôi lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ dáo dác bảo bọc đàn con. Không biết mục tiêu những viên đạn trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo trong đầu non nớt chỉ biết ăn học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống, sự chết. Chúng tôi vẫn nằm yên. Ðịch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.

Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác mang mang, tuyệt vọng, toàn trường như bất động lặng yên nghe tiếng Ðại úy Hoàng, cán bộ Liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:

- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu Sinh Quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập hợp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh!

Thế là hết! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế 1 giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ nhân viên. Ðoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Ðội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang.

Ða số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải doạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Ði về đâu? Với ai? Thông báo toàn trường được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính. Ðột nhiên, nữa đường di chuyển, chúng tôi bị một số anh Thủy Quân Lục Chiến chận lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện cùng người chỉ huy toán lính TQLC... Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoán Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban ra. Trên đường về, tâm hồn tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắc nghẽn, sinh lộ càng lúc càng hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản rất là mong manh.

Về đến sân trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Ðội 7 đang chờ ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại, nặng nề. Cả đám chúng tôi bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường, niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên theo đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung sĩ I Ngộ, cán bộ của trường và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu đoàn Quang Trung là liên lớp nhỏ nhất trường. Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng một chiếc trực thăng, chờ âm thanh cánh quạt, mỏi mòn, tuyệt vọng. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi bóng chiều ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.

Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời cổng trường. Trái tim tôi nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với, hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Rồi phóng thanh, một lần nữa, xác định một thực tế phũ phàng:

- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa! Các em hãy tự lo lấy bản thân!

Thế là đã quá rõ! Chúng tôi bị bỏ rơi! Ngôi trường này là nhà. Cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết làm gì, và biết đi về đâu. Những trái tim non uất nghẹn, chới với, hoảng hốt. Và thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tản mát tung ra chạy khỏi trường. Nhưng chạy đi đâu? Chẳng biết! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!

Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc thường đánh bóng bàn với tôi, cùng tôi, tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh. Tôi thấy ở phía trước mặt khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi, bị một người lính, không biết ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt, tôi và Thịnh vội vàng vứt súng và quay ngược chạy trở về trường, mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra Bãi Trước rồi rồi từ Bãi Trước quay ngược trở lại trường. Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường và gia đình nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu.

Bố mẹ Vân dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vân nhìn hai chúng tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi. Là những bạn học cùng lớp, Vân còn có gia đình, ruột thịt ở bên cạnh, còn hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi giạt về đâu trong cn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trời, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗi lo âu. Và mọi người cứ nhìn nhau, không ai nói một lời. Trong lúc mọi người chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trường vọng lại:

- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm!

Tiếng của em Thiếu Sinh Quân nhỏ vang vọng trong màn đêm, thúc bách não ruột như tiếng chim chíp của đàn gà con mất mẹ làm tôi vô cùng xốn xang, bất xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thiếu Sinh Quân lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng các em gọi loa đã giục tôi đứng lên và cương quyết trở lại truờng với các em. Bố Mẹ Vân lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vân và nói trước khi phóng vào đêm tối:

- Tụi con không thể bỏ các em được!

Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh... cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán Thiếu Sinh Quân khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu ăn và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu Carbine, cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.

Nhìn lên bầu trời đen thẳm, nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan nan với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẳn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến đấu này sẽ về đâu? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thên cuối cùng của chúng tôi.

Tôi và Thịnh vát súng đi một vòng toàn trường, thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác những hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào ổ súng, sẳn sàng khai hỏa... Tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Ðổng. Tôi đặt mật khẩu, dặn các chốt canh học thuộc lòng, nếu thấy bóng người di chuyển đến thì hỏi, trả lời không đúng mật khẩu là "quạng" liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẳn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.

Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đèu được phân phối khẩu phần đầy đủ... (Nhìn các bạn "chén" bữa cơn nửa khê nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn...) Xong công việc, tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của Chỉ Huy Trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn thiết tha gì nữa, cậu ta chui vào một góc phòng và mấy phút sau đã bắt đầu "kéo đờn cò". Ngoài trời, đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công, nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vân đang làm gì, và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại bữa cơm đó. Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tỉnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã "hồn bướm mơ tiên", tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẳn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ này lợi hại đến nhường nào.

Tôi quay trở lại phòng Chỉ Huy Trưởng,và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bây giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hàng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai em gái tôi rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tọi lại đến vòi mẹ xin tiền, rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Ði gần đến chợ thì... một em Thiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói:

- Anh Dũng! Có lính đông lắm, đang đi về hướng mình!

Tôi bật dậy, nhảy ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tỉnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì, và nghĩ cậu bé lay mình dậy vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hóa cuốc... nên sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm. Bỗng nghe tiếng oang oang của hạ sĩ Hoành mà các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo, anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên vì sự hiện diện của hạ sĩ Hoành, chẳng biết anh nhập cuộc tự bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:

- Tụi bay ở đó đi! Chắc lính mình đó! Ðể tao ra coi thử!

Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành, liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên, vác súng hướng về phía cổng trường. Ðến lúc đó, tôi mới thấy có một nhóm người lố nhố ở tít đàng xa đang hướng dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em sẵn sàng cho mọi bất trắc. Ðột nhiên, tất cả anh em đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:

- Việt cộng!

Tiếng hô "Việt cộng!" của hạ sĩ Hoành vừa dứt thì lập tức, tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề đồng loạt khai hỏa yểm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân không thể nào ngờ họ "được đón tiếp nồng hậu" như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hỏa lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ là họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hỏa dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.

Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã bừng thức giấc và ngạc nhiên, lo âu, nhìn vào trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng và Phạm Ngọc Trình chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Ðến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang, thoắt một cái, khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ đại liên trên lầu gào:

- Ê tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!

Sau tiếng gào lớn của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù, mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn nổ tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng tấn công và chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân quả cảm, liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng "điếc không sợ súng" và ý nghĩ "không còn gì để mất!".

Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở phía bên kia đường, chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hỏa từ trên cao, một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B40 để công phá chúng tôi ở mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hỏa lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.

Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cánh cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xẩy ra không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B40 thứ hai nối tiếp một lần nữa, mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai thèm chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt đánh nhau mới "sướng!"

Mặc dù có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Ðối phó với địch quân trên các tầng lầu khách sạn, Phú Văn Ðại cầm khẩu M79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà sử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này.

Ðối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phí hợp với trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng cũa các khẩu Garant nhịp nhàng, ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một dàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lưới đạn chằng chịt phủ xuống đầu đối phương.

Với quân số ước lượng hơn một tiểu đoàn quân chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hỏa lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến gần chúng tôi, nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước lằn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.

Ðến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng Chỉ Huy Trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên trên đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi chợt thấy một bộ đội cộng sản đang đặt một khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi, tôi bật ngay khẩu carbin trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt một ánh sáng xanh bay về phía tôi, chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay. Viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân - Trí – Dũng, phá tan một mảnh đá lớn. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Tôi khỵu xuống với chân phải bị trúng thương, liếc nhìn xuống áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà tôi không cảm thấy một chút gì đau đớn thì tôi ngả ra ngất xỉu. Trong lúc đó, Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân, Lê Văn Tánh chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.

Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn Hóa. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.

Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngưng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự, vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn họ cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.

Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, còn lại chỉ có vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị Bắc quân bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. Trại gia binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân, nên tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.

Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn , mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này, tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân. Bệnh viện đầy ngập những người bị thương, nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm, chẳng có y tá nào ngó ngàng tới, chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau tôi mới được biết tên là Nguyễn Kim Hùng, đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Ðến sáng hôm sau, thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu, Thiện huế và vài em nữa tôi không nhớ tên, đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.

Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Truờng Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu, tuy nhiên, trong lòng người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của những Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ Quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng, kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội...

Colorado 24/10/2002
Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)