Saturday, December 17, 2011

THEO CS ĐỂ GIỮ ĐẠO VÀ DIỆT CS ĐỂ CỨU ĐẠO - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

CUỘC CHIẾN GIỮA HAI KHUYNH HƯỚNG THEO CS ĐỂ GIỮ ĐẠO VÀ DIỆT CS ĐỂ CỨU ĐẠO.
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Trong một bài viết trước đây, chúng tôi có đưa ra nhận định rằng “rất có thể Giáo Hội Việt Nam (GHVN), cả hai thành phần trong và ngoài nước, sẽ đi đến một cuộc nội chiến vì ý thức hệ trong một ngày không xa. Một bên là chủ trương đi theo CS để giữ lấy GH, còn bên kia là phải tiêu diệt CS để cứu GH và cứu đất nước”. Hôm nay, chúng tôi muốn mượn ý này, đặt thành một đề tài và khai triển thêm để chia sẻ với quý bạn đọc.

Bài viết này sẽ lần lượt đề cập đến hai đề mục nằm trong chủ đề trên:

- Một là cuộc xung đột trong các tôn giáo tại Việt Nam hiện nay, và cuộc xung đột vì ý thức hệ trong Giáo Hội Công Giáo.

- Hai là Giáo Hội Công Giáo giữa hai khuynh hướng theo CS để giữ Đạo và diệt CS để cứu Đạo: nguyên nhân và những xung đột.

I. Nội Chiến Tôn Giáo Và Sự Xung Đột Vì Ý Thức Hệ

1. Nội Chiến Trong Các Tôn Giáo

Sợ rằng nói đến chữ “chiến tranh” hay “xung đột” trong tôn giáo, nhiều người, và nhất là người công giáo không hiểu và không tin được nên sẽ bị dội ngược, người viết vì thế buộc lòng phải dài dòng một chút để giải tỏa những nghi ngờ trong tâm trí bạn đọc về những từ ngữ dùng có thể bị coi là cuồng ngôn loạn ngữ này.

Chiến tranh là sự xung đột, xẩy ra dưới muôn hình vạn trạng. Chẳng hạn những nỗ lực đẩy lui sự dốt nát thường gọi là “giặc dốt”, người ta nói là cuộc chiến chống nạn mù chữ. Chính sách của một chính quyền nhằm tiêu trừ bọn tham quan sâu dân mọt nước gọi là cuộc chiến chống tham nhũng. Hai nhà văn, hay hai văn đàn tranh cãi nhau trên báo chí về một quan điểm nhân sinh hay văn học, trong chừng mục nào đó sự việc mang ý nghĩa xung đột, người ta gọi là bút chiến. Hai chánh khách vận động ứng cử, cãi nhau tóe lửa trước cử tri về các chánh sách quốc gia gọi là khẩu chiến. Từ đó suy ra, khái niệm về một cuộc xung đột hay chiến tranh không chỉ giới hạn trong ý nghĩa là phải có những đoàn quân ăn mặc uniform, trang bị súng ống, xe tăng, tầu chiến, máy bay bắn giết nhau loạn xạ, máu đổ đầu rơi. Hễ cứ có hai bên tranh dành nhau mà kết quả là kẻ thắng người thua, kẻ còn người mất thì đều có thể gọi là xung đột hay chiến tranh cả. Tiếng Anh cũng dùng chữ như vậy. Chẳng hạn trên tờ San Jose Mercury News số phát hành ngày 26-9 vừa qua, ngay trên cuối trang nhất, người ta gọi là “War of Words” hai bài diễn văn của hai đối thủ là Tổng Thống Mỹ George W. Bush và Tổng Thống Iran Mahmoud Ahmadinejad đọc trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

Chuyện cụ Lý Văn Hợp bị lôi cổ ra khỏi bữa tiệc tiếp đón G/M Châu Ngọc Tri, chuyện bài viết Mục Vụ Xin Tiền của Lm Nguyễn Hữu Lễ, chuyện các vị Thượng Tọa Tuệ Sĩ và Trí Siêu đầu quân vào hệ thống Phật Giáo quốc doanh, chuyện Đại Hội Phật Giáo quốc doanh sắp tới tại Hànội âm mưu thôn tính và sát nhập Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, vân vân và vân vân, chuyện nào cũng kéo theo những bài viết, những ý kiến đóng góp gay gắt trên các diễn đàn điện tử và báo chí, tất cả đều được coi là những trận bút chiến. Chưa hết, các vấn đề đó đôi khi cũng khuấy lên những cuộc đấu khẩu dữ dội trong các buổi hội họp của các hội đoàn hay từng nhóm bạn bè. Các cuộc đấu võ mồm này không thể nói gì khác hơn là những trận khẩu chiến.

Mỗi chuyện đáng tiếc kia, theo cách nhìn của con nhà lính, có thể coi là một trận đánh (battle). Nếu liên kết những trận đánh lẻ tẻ rời rạc lại, đặt chúng vào trong toàn cảnh của đất nước ta dưới chế độ cai trị của bọn thảo khấu ngoại hạng lưu manh và xảo quyệt hiện nay, chúng ta sẽ có thể kết luận rằng các tôn giáo chính của người VN đang thực sự lâm vào một cuộc chiến tranh (war) có thật. Cuộc chiến giới hạn trong nội bộ một tôn giáo, gọi là cuộc nội chiến tôn giáo tưởng cũng không phải là ngoa ngữ. Hình thức nội chiến này xẩy ra trong tất cả các giáo hội của các tôn giáo có mặt tại Việt Nam hiện nay. Đáng chú ý nhất trong lúc này là cuộc chiến giữa hai phe Phật Giáo. Tin tức dồn dập trong những ngày gần đây cho thấy đã đến lúc tình hình có thể là một mất một còn giữa hai Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và Giáo Hội Phật Giáo VN thường được gọi là Phật Giáo quốc doanh. Các giáo hội Tin Lành, Cao Đài và Hòa Hảo cũng không thoát khỏi tình trạng bi đát tương tự. Kẻ gây nên tình trạng thương đau này chính là đảng CSVN. Có thể khẳng định rằng tình trạng xung đột trong nội bộ các giáo hội nhất định sẽ không còn nữa nếu CS bị tiêu diệt. Nói cách khác, bao lâu còn CS tại VN, bấy lâu các tôn giáo còn xào xáo nhau không dứt, và đó là lý do chúng tôi phải xử dụng đến cụm từ “Nội chiến tôn giáo” để nói đến tình trạng này. Nghĩ mà coi, thời phong kiến không thế, thời thực dân không thế, các thời Cộng Hòa không thế. Tại sao thời CS lại xẩy ra như thế, xẩy ra đều khắp trong tất cả các tôn giáo, chứ không riêng một tôn giáo nào. Sự thật rõ ràng đây là một chính sách rất thâm độc và nham hiểm của CS: không tiêu diệt được tôn giáo thì gây ra loạn để trị loạn. Hay còn nói là dùng địch đánh địch hầu làm tiêu hao thế lực địch. Trước sau gì thì vẫn là nằm trong kinh điển CS: tôn giáo là thuốc phiện, cần phải tiêu diệt. Hoặc: Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân. Tùy hoàn cảnh và tùy thời gian, chính sách không thay đổi, chỉ thay đổi phương thức hành động.

Cũng nên biết thêm, không phải chỉ có các tôn giáo mới gặp cảnh nội chiến, mà các tổ chức, các đoàn thể, các cộng đồng ở hải ngoại, các nhóm đấu tranh ở trong nước đều lâm vào tình trạng tương tự toàn là do bàn tay ác độc của CS gây ra.

Cuộc chiến trong lòng các tôn giáo tại VN hiện nay gọi là “nội chiến Tôn Giáo” tuy miễn cưỡng một tý, nhưng đó là sự diễn tả đúng và thực tế nhất. Bởi vì, nếu nói đây chỉ là một sự chia rẽ nội bộ, thì sự việc không đáng quan ngại lắm. Sự chia rẽ thường chỉ gây nên bởi những bất đồng nhỏ nhặt về hình thức, có thể là phương thức điều hành cơ cấu, hay đường lối thực hiện chánh sách. Loại bất đồng như thế còn có thể hàn gắn được, miễn là hai bên biết tương nhượng nhau. Nhưng một khi đôi bên đã đối nghịch nhau trên căn bản tư tưởng thì nhất định chuyện ngã ngũ là phải có kẻ thắng người thua. Nó thực sự là một cuộc đấu tranh, một cuộc chiến.

Riêng đối với đạo Công Giáo có thể nói là một GH có kỷ cương và kỷ luật nhất, tình trạng xung đột có hơi khác về hình thức, nhưng tựu chung vẫn là nằm trong chủ trương tiêu diệt Công Giáo của CS. Cuộc nội chiến trong GHCG là điều có thể tránh được nếu các thành phần trong GH biết nhìn vào sự thực, nhưng vẫn cứ để xẩy ra thật là một điều đáng buồn.

2. Nội Chiến Vì Ý Thức Hệ Trong Công Giáo

Nằm trong hệ ý thức, tức giáo lý của GHCG là niềm tin vào sự trường tồn vĩnh cửu của Hội Thánh do chính Chúa lập nên. Chính Chúa đã khẳng định: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Mt 16,18).

Không người CG nào lại không tin như thế. Ngoài đức tin ra thì thực tế và lịch sử 2000 năm nay đã chứng minh rằng đạo CG tuy có lúc thịnh lúc suy, nhưng vẫn tồn tại và lan rộng. Chính đức tin và giáo lý của đạo đã biến người CG, mỗi cá nhân trở thành một người chiến sĩ có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển GH. Nhưng có lẽ không mấy ai ngờ rằng cuộc nội chiến cay đắng hiện nay trong GHVN lại nằm ngay trong chính cái tinh thần hăng say bảo vệ và phát triển GH của người công giáo VN. Thật vậy, cũng là để bảo vệ và phát triển GH, một bên mà đa số thuộc hàng giáo phẩm, chủ trương quy thuận và đi theo CS để đạt mục đích giữ lấy đạo và phát triển đạo. Còn bên kia là phần đông đảo giáo dân cùng với một số ít ỏi trong hàng lãnh đạo, chủ trương ngược lại, phải tiêu diệt CS để cứu lấy GH và cứu đất nước. Phe chủ trương “giữ lấy đạo trước đã” không đưa ra một lời giải thích nào (chứ chưa nói đến một lý thuyết) cho đường lối của mình. Phe chủ trương “chống CS để cứu đạo” cũng vậy, nhưng qua những bài viết của nhiều người, người ta có thể đọc được hai luận điểm như sau của phe này:
    - Một là CS là một tập đoàn bán nước hại dân.GH cũng là một thành phần của dân tộc nên phải đứng trên lập trường dân tộc trước sự suy vong của đất nước. GH đi theo CS khó khỏi mang tiếng đồng lõa, đắc tội với Tổ Quốc.

    - Hai là nhiều hiện tượng coi là phản chứng của đường lối Phúc Âm xẩy ra trong GH nhưng không thấy hàng lãnh đạo sửa sai. Vì thế giáo dân không đồng ý và không hiểu nổi nên không thể đồng tình với lãnh đạo GH. Họ lên tiếng mạnh mẽ để phản đối.
Không ai không biết rằng trên căn bản học thuyết, CG và CS là hai ý thức hệ đối nghịch nhau tuyệt đối, một bên hữu thần, một bên vô thần, một bên tự do, một bên độc tài. Chúng phủ định nhau tự bản thân. Do đó không thể có vấn đề sống chung hòa hợp với nhau được. Trước kia toàn thể khối người CGVN theo đuổi cùng một học thuyết đứng chung cùng một lập trường, thực hành cùng một đường lối đối với CS. Nay các nhà lãnh đạo GH đi theo một hướng khác ngược lại với hướng đi cũ và với đại đa số giáo dân. Do đó, sự việc làm phát sinh một cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng như nói trên. Những chuyện xẩy ra giữa hàng giáo phẩm và giáo dân thường xẩy ra mới đây là những thí dụ về tình trạng xung đột. Nói đây là một cuộc xung đột, hơn nữa là cuộc xung đột vì ý thức bảo tồn và phát huy GH nên gọi là cuộc nội chiến ý thức hệ có lẽ cũng không phải là vô lý.

Chủ trương sống chung hòa bình với CS như hiện nay của GH phát sinh từ lúc chế độ CS nằm trên bờ vực của sự sụp đổ vào khoảng năm 1979 sau khi CS xua quân tấn công nước láng giềng Campuchea. Năm sau tức 1980, HĐGMVN họp và đưa ra đường lối “sống Phúc Âm trong lòng dân tộc”, và khẳng định “GH đồng hành cùng dân tộc”. Đây rõ ràng là một thông điệp chính trị ngụ ý mời gọi gởi cho đảng CS. GH đã nhận ra rằng CS không còn đủ nội lực để cùng một lúc chống lại tất cả mọi kẻ thù nên đã nhanh tay nắm lấy cơ hội đi bước trước trong cái thế hai kẻ thù phải bám lấy nhau để tồn tại. Sau đó ít năm, tức là từ 1986 khi VN mở cửa, lúc CS đứng vững trở lại cũng là lúc GH bắt đầu được thong dong hơn để phát triển. Thực tại này được nhận thấy qua các cơ sở vật chất được thiết lập, các tiện nghi được trang bị, nhân sự được bổ xung dồi dào, và việc xuất ngoại của các chức sắc được tự do thoải mái.

Có người hỏi rằng đi với CS có phải là GH đã thực hành chủ trương của Tòa Thánh có từ thời đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII không ?. Câu trả lời là không hẳn như thế. Các triều đại Giáo Hoàng Gioan XXIII và PhaoLô VI, Tòa Thánh hòa hoãn với CS và thường tỏ ra thiên vị CS. Nhưng dưới triều đức cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II thì khác. Không ai nói được là Đức Gioan PhaoLô II đi theo đường lối của hai vị tiền nhiệm. Ngài là người chống cộng triệt để ai cũng biết. Ngài đã khuyên các giám mục VN chấp nhận những thách đố mà Phúc Âm đem lại, noi gương các Thánh Tử Đạo đi trên con đường Đức Tin khi các vị này sang triều kiến Roma theo lệ Ad Limina Apostolorum. Đức Thánh Cha còn mạnh dạn thúc dục các vị hãy “ra khơi”, nhưng nào có ai nghe đâu.

Cũng có người cho rằng đường lối của HĐGMVN hiện nay đặt căn bản trên quan điểm của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII về CS. Điều này tuy là đúng nhưng cũng sai. Quả thật Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong Thông Điệp Hòa Bình Trên Trái Đất (Pacem in Terris) đã chỉ dậy rằng phải sáng suốt phân biệt và công bình đối với những lý thuyết và phong trào phản lại con người. Thông Điệp viết:
    “Cũng vậy, không thể đồng hóa những thứ triết thuyết sai lầm về bản tính, nguồn gốc, và cứu cánh của vũ trụ và con người, với những phong trào lịch sử được thiết lập vì mục đích kinh tế, xã hội, văn hóa, hay chính trị, dù cho các phong trào ấy bắt nguồn hay khởi hứng từ các triết tuyết ấy. Một học thuyết một khi đã thành hình và cố định thì không thay đổi nữa, trong khi các phong trào thì lấy hoàn cảnh cụ thể và biến đổi của cuộc sống làm đối tượng, nên không thể không bị ảnh hưởng vì sự biến đổi …”.
Lời dậy của Đức Giáo Hoàng ngụ ý là lý thuyết CS thì mãi mãi sai, nhưng những người thực hành lý thuyết đó là các đảng CS thì họ có thể thay đổi. Để tránh bị mang tiếng là quá khích và cố chấp trong cách phát biểu về GH cũng như về CSVN, chúng tôi xin minh định việc thừa nhận là đúng lời dậy bảo của Đức Thánh Cha. Nhưng chúng tôi cũng tin tưởng rằng lời dậy của Ngài chỉ đúng về mặt lý luận, và chưa bao giờ được chứng minh là đúng về mặt thực hành đối với đảng và chế độ CS. Người VN quen nói “chó đen giữ mực”, nghĩa là con chó lông đen cho đến chết vẫn là đen, không thể đổi thành mầu khác được. CS cho dù thành hình dưới hình thức là một đảng phái hay phong trào, qua thời gian, nó vẫn luôn luôn mang bản chất vô thần với đặc tính độc đoán, lưu manh và thảo khấu (predatory). Thực tế tại VN hơn 6 chục năm qua đã chứng minh điều đó. Đảng CSVN xem ra có thay đổi, nhưng thay đổi từ nham hiểm tàn ác đến nham hiểm tàn ác hơn, từ lưu manh điếm đàng đến lưu manh điếm đàng hơn. Tóm lại CSVN có thay đổi, nhưng thay đổi từ tình trạng đã tệ hại tiến đến tình trạng càng ngày càng tệ hại hơn rất nhiều. Cứ thử so sánh nội dung 2 văn kiện trước và sau về tôn giáo của CSVN ta sẽ thấy. Pháp Lệnh Tôn Giáo ban hành ngày 15-11-2004 còn độc ác và bóp nghẹt ghê gớm hơn gấp trăm gấp ngàn lần Sắc Lệnh về Tôn Giáo Hồ Chí Minh ký ban hành 49 năm trước, tức vào ngày 14-6-1955. Chính HY Phạm Minh Mẫn cũng đã phải xác nhận Pháp Lệnh Tôn Giáo 2004 khắt khe hơn Sắc Lệnh Tôn Giáo 1955 của Hồ Chí Minh nhiều, và ngài kết luận: “Đừng nên ban hành Pháp Lệnh này thì hơn”. Kinh nghiệm về CS thì ngay một tay đầu sỏ CS Nga là ông Boris Yelsin đã phải nhìn nhận: CS dứt khoát phải thay thế thôi chứ không thể thay đổi được. Chúng tôi không nghi ngờ rằng bảo đảm vững vàng nhất cho sự tin tưởng của mình là việc Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong bài giảng lễ Đức Mẹ Lên Trời ngày 15-8-2007, đã xác định Con Rồng Đỏ với các đặc tính của nó trong sách Khải Huyền chính là chế độ toàn trị Stalin. Ngài nói: “……. there is the immemsely strong, red dragon with a striking and disturbing manifestation of power without grace, without love, of absolute selfishness, terror and violence …” (tạm dịch: ….. con rồng đỏ mạnh khủng khiếp, nó phô trương sức mạnh thô bạo và bất nhân một cách quyến rũ và khuấy đảo, tính ích kỷ tuyệt đối, sự kinh hoàng và bạo lực …). CSVN là con đẻ của chế độ ghê tởm này. Đức Thánh Cha đã chỉ đích danh con rồng đỏ là CS. Do đó không còn nghi ngờ gì nữa, nghĩ rằng CSVN đã thay đổi bản chất nên có thể hòa hợp và sống chung được với nó là một sai lầm nghiêm trọng không thể tưởng tượng được. Đáng tiếc là GHVN đang ở trong vũng lầy sai lầm đó.

II. Giáo Hội Giữa 2 Khuynh Hướng Giữ Đạo và Cứu Đạo

Cách tốt nhất để hiểu được sự khác biệt giữa hai khuynh hướng “Giữ Đạo” và “Cứu Đạo” là so sánh giữa hai đường lối sống đạo trong lòng chế độ CS của GH miền Bắc trước năm 1975 và của GH toàn quốc sau 1975, và nhất là hiện nay.

Hiệp Định Genève 1954 chia cắt Tổ Quốc VN cũng đồng thời chia cắt GHCGVN. Tại miền Bắc, GH rơi vào tình trạng sống không nổi mà chết cũng không xong, người ta gọi là GH sau bức màn sắt. Đức khâm sứ Tòa Thánh và các linh mục thừa sai ngoại quốc lần lượt bị trục xuất. Hàng giáo phẩm trong nước một số bị tù, bị đầy ải biệt tích, còn lại tất cả đều bị cô lập và quản chế tại chỗ. Nhiều thánh đường và hầu hết các cơ sở giáo dục và xã hội của GH bị tịch thu. Tại nhiều vùng quê xa tỉnh thành, giáo dân không được phép tụ họp đọc kinh xem lễ, hoặc bị cấm cản tinh vi bằng cách bị lùa đi lao động vào các giờ kinh lễ. Việc dậy giáo lý bị cấm tuyệt đối. Không còn chủng viện. Không có đào tạo linh mục. Không còn truyền chức. Nhiều linh mục, kể cả giám mục như đức cha Đinh Đức Trụ, giám mục Thái Bình phải tự túc sinh nhai bằng cách tăng gia sản xuất. Tóm lại có thể nói CG miền Bắc là một GH chết về mặt sinh hoạt. Dùng chữ “tê liệt” coi như còn quá nương tay.

Thế nhưng lạ lùng thay, GH đó vẫn không chết. Trái lại nó sống rất hào hùng và sinh động. Không có thánh đường huy hoàng, nhưng thánh đường trong tâm hồn của mỗi giáo dân luôn tưng bừng thờ phượng Chúa. Có nhiều chuyện kể trong dân gian về cách sống đạo đầy ấn tượng của giáo dân và chủ chăn miền Bắc. Nhiều cá nhân nêu gương sống đức tin đáng khâm phục. Cái gì CS cấm thì chịu vậy. Cái gì còn làm được thì làm. Tuyệt đối từ thuợng tầng lãnh đạo xuống đến người giáo dân bình thường không bao giờ ngửa tay xin xỏ hay cầu khẩn bạo quyền bất cứ ơn huệ nào. Thành ra duới chế độ CS tại miền Bắc, GH không lệ thuộc vào cơ chế Xin/Cho để phải đánh đổi quyền lợi như ta thấy ngày nay. Nói đúng ra GH miền Bắc đã bị tước đoạt sạch sẽ nên chẳng còn gì để đổi chác. Cái mất mát là những quyền lợi vật chất. Nhưng ít ra GH miền Bắc còn giữ được những quyền lợi tinh thần như quyền tuyển chọn và giáo dục chủng sinh, quyền truyền chức và bổ nhiệm linh mục v.v. Các quyền tự do cao quý này chỉ trong tình trạng đông lạnh nhưng không mất. Bị đàn áp nặng nề như thế, nhưng trong GH không xẩy ra một vụ bê bối nào làm mất thanh danh của GH. Đám linh mục theo CS, một con số rất nhỏ nhưng họ cũng không có hành động gì quá đáng làm thương tổn nặng nề đến GH.

Những cái mất đi của GH miền Bắc là những cái GH toàn quốc hiện nay phải ngửa tay xin lại từ CS. Ngược lại những cái còn giữ được của GH miền Bắc trước kia là những cái mà GH ngày nay đã để mất vào tay CS. Đó là hậu quả hay nói đúng hơn là hệ lụy của 2 đường lối ứng xử đối với CS của GH trước và bây giờ. Đường lối tại miền Bắc trước đây được gọi là đường lối “bất hợp tác”. Đường lối hiện nay của GH được sơn phết hoa hòe hoa sói dưới cụm từ “đồng hành cùng dân tộc”. Ngày nay, khuynh hướng bất hợp tác với CS không phải đã chết đi, mà nó biến thành một phong trào phản kháng vừa thụ động vừa tích cực. Người trong nước dưới chế độ kìm kẹp nên hầu hết đều thụ động, nhưng cũng không thiếu những cá nhân đứng lên công khai phản kháng như các linh mục Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi v.v. Ở hải ngoại, người CG tỵ nạn đứng lên phản kháng một cách công khai và mạnh bạo hơn. Sụ thể cho thấy khuynh hướng này hiển nhiên đi theo chủ trương phải tiêu diệt CS mới cứu được GH và đất nước, ngược lại với khuynh hướng đồng hành với đảng CS để giữ lấy GH mà HĐGM đang theo đuổi.

Đã rõ ràng là GH miền Bắc ngày trước thà chịu bắt bớ đàn áp nhưng mà còn giữ được cái “hồn” của đạo. Ngược lại, GH hiện nay dễ dãi thỏa hiệp với CS thì chỉ giữ được cái “xác” đạo mà bỏ mất đi cái “hồn” của đạo rồi. Như vậy người CG tốt nhất là phải tiêu diệt CS thì mới giữ được GH của mình toàn vẹn cả hồn lẫn xác.

1. Những Nguyên Nhân Tạo Xung Đột

Nguyên Nhân 1: GH Tự Tách Mình Ra khỏi Cộng Đồng Dân Tộc

“GH đồng hành cùng Dân Tộc” là khẩu hiệu chiến lược của GH được đưa ra trong môi trường CSVN Bolshevik hóa toàn dân. Điều này có nghĩa là GH cũng chấp nhận mình bị Bolshevik hóa. Việc khó có thể tưởng tượng được nếu chữ nghĩa cứ được hiểu trần trụi như thế. Nếu không hiểu được ý nghĩa bên trong thì chỉ còn cách nhìn và đánh giá những hành động bên ngoài để hiểu mà thôi.

Đồng hành nói nôm na là cùng đi chung với nhau trên một con đường. Nhưng không phải cứ đi với nhau là đồng hành theo ý nghĩa sâu xa của từ ngữ. Một ông đồ nho đi hát cô đầu hay đến nhà bạn chơi tổ tôm có dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch theo sau, đứa cầm ô (dù), đứa cắp tráp, đứa sách giỏ trầu, đứa mang bầu rượu. Họ đi với nhau nhưng không phải đồng hành, vì ông đồ đi du hí, còn đám tiểu đồng đi hầu hạ phục dịch cho ông. Trong ý nghĩa sâu xa của từ ngữ này, những người đi với nhau phải là những người tự do và trong nhiều trường hợp còn phải đồng đẳng nữa. Mục tiêu tiến tới cũng phải là mục tiêu chung. Chữ đồng hành còn hàm ý một sự ràng buộc tinh thần giữa những người cùng đi. Nghĩa là, nói theo người bình dân, có vui cùng chia, có khổ cùng chịu, sống chết có nhau. Tinh thần đó đáng lẽ GH nên chia sẻ chung với các thành phần dân tộc khác. Nhưng không, GH lại tìm cách gắn bó với đảng CS. Với đảng CS, Giáo Hội không phải là một thực thể tự do, cũng chẳng đồng đẳng, và dĩ nhiên mục tiêu tiến tới của cả hai cũng khác nhau, và cuối cùng GH không thể sống chết với CS. Chế độ CS sẽ qua đi, nhưng GH phải mãi mãi tồn tại với dân tộc.

Ta hãy thử xem GH đã đồng hành cùng Dân Tộc Việt Nam như thế nào. Chỉ xét đến thời gian sau Thư Chung tuyên bố việc đồng hành, tức từ năm 1980 tới nay.
    - Trong phong trào vượt biên, vượt biển, CS bán bến, bán bãi, lừa gạt tiền bạc của đồng bào rồi đẩy con người vào chỗ may rủi. Bao nhiêu đau thương và chết chóc. GH đã làm gì để giảm bớt dòng lệ của con chiên và của đồng bào? - Im lặng!

    - Sau khi thôn tính miền Nam, CS bắt đi cải tạo 300.000 quân, dân, cán, chính VNCH trong đó có cả hàng ngàn linh mục tuyên úy, gây ra bao nhiêu thảm cảnh: cuộc sống điêu đứng, gia đình tan vỡ, trẻ thơ thất học v.v. Trước tình trạng này GH làm gì? - Im lặng.

    - Trưóc việc các tôn giáo bạn như Tin Lành Mennonite, Phật Giáo VN Thống Nhất, Phật Giáo Hòa Hảo bị đàn áp và xách nhiễu, việc Đức TGM Nguyễn Kim Điền bị CS đầu độc, Lm Nguyễn Văn Lý bị cần tù v.v. GH làm gì để ngăn bàn tay tội ác lại? - Im lặng.

    - Trước cảnh xã hội bị băng hoại, đạo đức suy đồi, cán bộ CS mau chóng trở thành đại tư bản, trong khi đó, dân nghèo càng ngày càng nghèo mạt đến nỗi cha mẹ phải bán con vị thành niên đi làm đĩ tứ xứ, thiếu nữ ham lấy chồng ngoại quốc chỉ vì nghèo đói, cả dân quê lẫn thành thị bị cán bộ, đảng viên dựa vào quyền lực để cướp nhà cướp đất tạo thành phong trào dân oan trên cả nước. GH làm gì để vơi đi những bất công kia? – Im lặng.

    - Nạn phá thai tại VN được ghi nhận là cao nhất thế giới. Mỗi năm trung bình có từ 2 triệu rưởi đến 3 triệu phụ nữ phá thai. Trước vấn đề nhức nhối này, GH cũng chỉ im lặng.
Còn nhiều, rất nhiều nữa. GH vẫn không làm gì, mà chỉ một mực im lặng. GH đã đồng hành với Dân Tộc VN như thế đấy. Nếu GH chỉ dám nói lên tiếng nói vì nhân quyền, vì công lý trong điều kiện được tự do thoải mái thì việc đó dễ dàng quá, ai mà không làm được, cứ gì phải là tông đồ của Chúa?

Tôn giáo được lập ra cho con người. Cái gốc gác của con người là tổ tiên. Tổ tiên sống hợp quần trong một khu vực với văn hóa, văn minh, phong tục tập quán và tiếng nói riêng gọi là tổ quốc. Giới răn thứ 4 trong 10 giới răn của Chúa là thảo kính cha mẹ. Từ cha mẹ tính ngược lên là tổ tiên đến tổ quốc. Người công giáo không yêu và phụng sự tổ quốc thì làm sao giữ trọn được giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thân thể của một GHCG, phần “Công Giáo”, tạm coi như phần hình nhi thượng là phần của Vatican. Còn phần “Giáo Hội”, tức phần hình nhi hạ là phần thuộc về dân tộc. Nếu GH chỉ coi trọng phần hình nhi thượng mà coi phần hình nhi hạ như không có, thì nên gọi là GH Vatican thì hơn. Gọi là GHVN thật chẳng hợp lý tý nào. Một GH Vatican như vậy sẽ phát sinh ra hệ quả là người CGVN sẽ là người ngoại quốc sống trên đất nước của mình chứ không còn phải là những công dân VN nữa. Nên nhớ rằng văn hóa VN ta lấy chữ Hiếu làm đầu. Do đó không thể quên sự thật lịch sử là trước kia, một trong những nguyên nhân khiến vua chúa cấm đạo là vì cho rằng CG cấm người ta thờ kính cha mẹ, tổ tiên, và các bậc anh hùng dân tộc. Ngày nay, nếu GH không đau được cái đau của các thành phần dân tộc khác, không chịu nhục được nỗi nhục của họ thì đúng là GH đang đứng bên lề dòng lịch sử của dân tộc, điều mà Hội Nghị Các Giám Mục Á Châu đã cảnh giác ngay từ khi CS chiếm miền Nam. GH đang đồng hành cùng đảng CSVN chứ không phải với dân tộc VN. Cái đảng chính trị này theo lịch sử đảng ghi chép, thực chất chỉ là một chi bộ của đảng CS Liên Sô, chứ không phải một đảng chính trị của người VN. Nó đấu tranh để xích hóa dân tộc VN cho Đệ Tam Quốc Tế CS, tức đế quốc Liên Sô, chứ không phải với mục đích đem lại độc lập, tự do và phú cường cho dân tộc VN. Vì thế bản chất của nó là bán nước.

Một khía cạnh khác, nếu GH cho rằng lên tiếng vạch trần những tội ác của đảng CS và báo động trước những tai họa của đất nước là làm chính trị, thì không biết GH hiểu chữ chính trị là cái gì. Đức cố HY Jaime Sin của Phi Luật Tân, TGM Pius Ncube của Zimbabwe, TGM Oscar Romero của El Salvador v.v. đều là các chức sắc cao cấp tại các GH địa phương đã công khai lên tiếng và hoạt động chống lại các chính quyền tham nhũng và đàn áp dân chúng. Trường hợp các ngài phải giải thích thế nào: làm chính trị hay không làm chính trị? Hơn nữa nếu coi hành động ái quốc là làm chính trị thì việc Vatican phong thánh cho cô gái Jeanne d’Arc của nước Pháp đáng gọi là cái gì, một trò đùa chăng?

Nguyên Nhân 2: Những Hành Động Cụ Thể

Chuyện giáo dân chống đối HĐGM nói chung xuất phát từ nguyên nhân xa là việc GH tự tách mình ra khỏi công đồng dân tộc, đi theo CS như đã trình bầy trên. Nhưng cũng có những nguyên nhân gần và cụ thể trực tiếp dẫn đến tình trạng này.

- Một vị giám mục sang Mỹ xin tiền từ chối bước vào nơi tiếp đón có treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Đó phải chăng là một thái độ chính trị: ngài chọn chỗ đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng nên từ chối bước vào nơi có lá cờ của con chiên tỵ nạn? Nếu không thì cũng biểu lộ một cử chỉ thiếu lịch sự và khinh mạn đối với những người tiếp đón mình, không đếm xỉa đến tâm tư tình cảm và lối sống của con chiên. Người lãnh đạo thiết tưởng phải biết như thế hơn những người khác mới phải.

- Nhiều vị khác, giám mục có, linh mục có, sơ siếc có cố đấm ăn xôi mặc luôn lễ phục cầm bịch nylon đứng nơi cửa nhà thờ trước mặt ông đi qua bà đi lại vì không được phép giám mục địa phương quyên tiền trong nhà thờ. Chuyện thật là khó coi nhưng các vị vẫn làm được. Có phải vì đồng tiền con người đã mất hết cả tự trọng và nhân cách? Con chiên tỵ nạn đã quen sống trong xã hội văn minh nên cảm thấy ngượng ngùng và khó chịu. Các vị đã không chịu học câu “nhập gia tùy tục” trước khi đi.

- Ở trong nước, có nơi trước tòa giám mục dựng bia Mân Côi bằng đá quý mua từ ngoại quốc khắc kinh Mân Côi bằng đủ 150 ngôn ngữ trên thế giới. Để làm gì? Sùng đạo hay chơi nổi?

- Có nơi giám mục phá bỏ nhà thờ cổ kính và kiên cố đã tồn tại hàng trăm năm để xây nhà thờ mới lớn nhất VN với những công trình tự khoe là hoành tráng và nghệ thuật, bàn thờ mạ toàn vàng ròng 24 carat. Để làm gì, trong khi Thiên Chúa chỉ muốn ngự nơi đền thờ “tâm hồn con người”?

- Có nơi đã chịu chi (đấm mõm bọn CS) 4 triệu dollars (khoảng 70 tỷ tiền Hồ) để được mở chủng viện. Đi với ma mặc áo giấy là lẽ thế gian thường tình, nhưng vấn đề là giáo lý Phúc Âm có cho phép các tông đồ của Chúa điều hành công việc GH theo cung cách thế gian như thế không. Không lẽ xử dụng đường lối ma quỉ để mở nước Chúa được coi là chính đáng?

- Một số giám mục kết án cha Lý làm chính trị nhưng lại thả cho các linh mục thuộc quyền tham gia phỉ quyền các cấp của CS. Như vậy là giáo lý áp dụng hai tiêu chuẩn luân lý, và giáo luật thi hành hai tiêu chẩn hành động? Thời nào kỷ cương nấy. Thời CS ta theo kỷ cương CS mới hợp thời? Khổ nỗi cái kỷ cương của thời xã hội chủ nghĩa là vô kỷ cương, là xài luật rừng.

- Quốc doanh Phan Khắc Từ có vợ con công khai mà vẫn thi hành chức linh mục. Ông Vatican không cho phép nhưng HY Phạm Minh Mẫn không cấm. Làm gì được nhau đây? Có phải phép vua chịu thua lệ làng? Ông cha có vợ con không bị cấm làm mục vụ. Nhưng bổn đạo để cho con cái lấy vợ, lấy chồng khác tôn giáo bị ông cha rút phép thông công, chết không được xưng tội, xức dầu, không được chôn trong đất thánh (Lm Pio Ngô Đức Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo p. 41-42). Rừng nào cọp nấy hay luật rừng chăng?

Trên đây chúng tôi chỉ nêu một số những việc điển hình. Những chuyện tương tự thì vô vàn vô số không sao kể ra cho xiết được. Toàn là những chuyện giáo dân không hiểu nổi. Có những chuyện xẩy ra phản chứng Tin Mừng không thể chối cãi được, nhưng vẫn không được hàng giáo phẩm lên tiếng biện minh hay giải thích. Vì thế khó tránh được sự bất mãn trong GH. Điều nguy hiểm nhất là giáo dân VN ngày nay, kể cả một số giáo sĩ và tu sĩ, hầu như đã đánh mất ý thức về sự sai trái, thậm chí về tội lỗi. Đút lót để được xây nhà thờ, để được chịu chức linh mục, để xin đi ngước ngoài, nhận đút lót, hối lộ, ăn gian nói dối v.v. đều được coi là chuyện bình thường trong xã hội ngày nay, không có gì phải thắc mắc. Người ta giải thích: gặp thời thế thế thời phải thế là chuyện đương nhiên. Ông cha có vợ con công khai vẫn cứ làm mục vụ, vẫn làm lễ, giải tội cho bổn đạo có sao đâu. Cũng vẫn là chuyện gặp thời thế thế thời phải thế, có gì phải bận tâm. Lương tâm con người ngày nay vẫn yên ổn với những chuyện như thế. Nếu có gì không ổn thì các cha đã nói, giáo dân biện luận. Tôn giáo biến thành mê tín khi người có đạo cho những việc làm trái đạo lý là chuyện bình thường.

Trưóc việc GH quay lưng với các khổ đau của Dân Tộc và chỉ lo trau chuốt vẻ bề ngoài của mình như thế, và trước một xã hội loạn với những việc suy thoái đạo đức như thế, ai còn chút lương tri mà không đau lòng. Có những người giỏi nín nhịn, họ âm thầm chịu đựng nhưng trong bụng không khỏi bất mãn. Những người kém sức chịu đựng, họ phản ứng bằng lời nói, có khi bằng hành động. Hành động thông thường nhất là viết bài đăng báo, phóng lên internet. Những gì họ nói đều là những việc có thật, nói có sách mách có chứng chứ không phải là những vu cáo hàm hồ. Nhưng những con chiên mê tín thấy vậy thì bất kể phải trái, nổi sùng lên. Thế là có chuyện. Cuộc chiến bắt đầu.

Trong khi đánh phá những người chống sai lầm xẩy ra trong GH, và nhắm mắt bênh vực GH bất kể phải trái, những con chiên mê tín phơi bầy ra 3 cái khuyết tật trong lối sống đạo cằn cỗi của họ. Trước hết là sự bất lực tư duy, thứ đến là cái não trạng ông bình vôi, và cuối cùng là thói quen phản ứng lưỡi gỗ.

- Sự bất lực tư duy: Về nhận thức, những kẻ mê tín không đủ khả năng phân biệt thế nào là GH, và thế nào là hàng giáo phẩm. Họ tự nhiên đồng hóa hàng giáo phẩm với GH y chang như bọn Việt gian CS đồng hóa đảng CS của chúng với dân tộc VN. Vì thế họ cho rằng chống những sai lầm trong GH là chống GH, thậm chí chống Thiên Chúa. Cũng như người dân VN đụng tới bất cứ cái gì của đảng CS cũng đều bị ghép vào tội phản quốc.

- Não Trạng ông bình vôi: Những kẻ mê tín không nhìn thấy những người chống đối đứng trên vị trí nào để chống đối và người ta chống đối với mục đích gì. Họ phải biết rằng người tín hữu đồng thời cũng là công dân của đất nước nên có quyền và có bổn phận chống những tên phản quốc và những kẻ tán trợ tội phản quốc. Cứ xem những nguyên nhân đưa đến chống đối, người ta có thể biết những người chống đối đứng ở vị trí nào và hành động cho mục đích gì. Họ không chống đối hoặc phê phán bất cứ một giáo điều hay luật lệ nào của GH, mà chỉ chống đối đường lối và những hành động của HĐGM liên quan đến đất nước gây tác hại cho Dân Tộc. Như vậy rõ ràng là những người chống đối họ đứng trên cương vị công dân để hành động, chứ không phải trên cương vị người tín hữu. Và mục đích của họ là để bảo vệ đất nước và đồng thời cũng bảo vệ GH. Đồng bào khác tôn giáo cũng chia sẻ quan điểm của những người chống đối, nhưng vì sự tế nhị của vấn đề, họ không lên tiếng.

- Phản ứng lưỡi gỗ: Trong một xã hội văn minh và có văn hóa, nguyên tắc đi tìm sự thật cho các vấn đề tranh cãi là tranh luận dân chủ và ngay thẳng. Đám con chiên mê tín không biết lý luận. Họ chỉ biết chửi rủa những gì mà đầu óc đặc sệt của họ cho là chống GH. Điều làm ngạc nhiên là có cả một số linh mục cũng làm như thế. Các linh mục này không giảng giải điều hơn lẽ thiệt, không phân tích cái đúng cái sai cho con chiên, mà cũng chỉ chửi. Họ chửi bới những người không mê tín như họ là kiêu căng, thiếu lòng đạo, ngu dốt, vô giáo dục, hạ cấp. Thậm chí họ chửi người khác là đồ chó săn, quân súc sanh, loài cầm thú, “bọn bất lương nhất thế gian, quỷ sẽ đưa cả nhà chúng mày xuống hỏa ngục”. Ôi, tinh thần Phúc Âm, lòng đạo đức của những “con chiên ngoan đạo” là như thế!. Quý bạn đọc cần kiểm chứng cứ vào các trang web công giáo sẽ thấy. Hiện nay những bài chửi đểu, đã được lấy bớt xuống rồi không biết vì lý do gì. Nếu là người đạo hạnh, có văn hóa, họ nên viết lách đàng hoàng, dùng cái đầu để suy nghĩ, dùng ngòi bút để lý luận, để phản biện những người không mê tín như họ. Sự thể cho thấy một khi lòng đạo mất đi lý trí và sự khôn ngoan, niềm tin tôn giáo nơi con người sẽ trở thành mê tín. Người tín hữu dễ trở thành cuồng tín nếu có bàn tay nào đó thọc vào khích động. Nguy hiểm nhất là có những linh mục có học hành đàng hoàng, lợi dụng tính mê tín của con chiên để củng cố địa vị hoặc thủ lợi riêng. Hậu quả càng thê thảm hơn gấp bội.

Thay Cho Lời Kết

Chúng tôi xin mượn một mẩu chuyện nhỏ trong trong cuốn Nhật Ký Truyền Giáo của Lm Piô Ngô Phúc Hậu làm phần kết cho bài viết này. Chuyện như sau:
    Cái Răng, … (Thời VNCH, Cái Răng là một quận lỵ cách thị xã Cần Thơ 5 km trên đường Cần Thơ đi SócTrăng. Ghi chú của người viết)

    Hôm nay mình (cha Hậu) ghé chủng viện Cái Răng. Phòng đầu tiên mà mình bấm chuông là phòng cha giáo Chương. Cha giáo đang duyệt phim.

    - Cha Piô coi phim Les Missions chưa?

    - Về phim ảnh thì mình dốt đặc cán mai, dài cán thón. Bác tóm tắt dùm em coi. Hết sức vắn tắt thôi.

    - Phim mô tả thực dân da trắng tấn công các bộ lạc da đỏ. Các cha truyền giáo thì có hai thái độ: Thái độ một: đứng hẳn về phía người da đỏ, cầm vũ khí chống lại thực dân. Thái độ hai: khước từ bạo lực, chỉ rao giảng và cầu nguyện. Nhưng cuối cùng thì thực dân tấn công và tiêu diệt tất cả. Hàng giám mục địa phương báo cáo về Tòa Thánh như sau:

    “Hàng giáo sĩ của chúng tôi đã đứng ra bênh vực người da đỏ, chống lại thực dân. Có người dùng bạo lực. Có người dùng lời cầu nguyện. Cả hai đều đã chết, nhưng dường như họ vẫn sống. Còn chúng tôi, hàng giám mục thì vẫn còn đang sống. Chúng tôi đang sống, nhưng dường như chúng tôi đã chết.”

    Nội dung chuyện phim cùng với giọng truyền cảm của cha giáo Chương làm mình bị xúc động. Có lẽ mình còn phải suy nghĩ về đề tài này nhiều năm nữa (Lm Ngô Phúc Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo trang 78-79).

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Luật sư Lê Duy San nguyện cầu

    LỜI CẦU NGUYỆN CỦA LS LÊ DUY SAN
    1. Việt Cộng chết hết và chết một cách thảm khốc cả gia đình và dòng họ.
    2. Thân Cộng chết hết và chết một cách thảm thương cả gia đình và dòng họ.
    3. Những kẻ có những lời nói, hành động cố ý làm lợi cho Việt Cộng hay gây chia rẽ hàng ngũ người Việt Quốc Gia, mạ lỵ những ngưòi chống Cộng cũng chết hết và chết một cách thảm hại cả gia đình và dòng họ.
     
     

Friday, December 16, 2011

Nhạc


Ngũ Hổ Tướng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Tuẫn Tiết Ngày 30-04-1975


Tạ Ơn Người
Nhạc: Anh Việt Thu
Tiếng hát: Duy Khánh



Tôi Sẽ Về
Nhạc và lời: Duy Khánh
Tiếng hát: Duy Khánh




Sunday, December 4, 2011

Miền Bắc Việt Nam sau Hiệp định Genève (20-7-1954) - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp định đình chiến Genève) ngày 20-7-1954 chia hai nước Việt Nam tại sông Bến Hải, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải nằm ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam.

1. VIỆC ĐỐI NỘI

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rộng khoảng 60,900 dặm vuông (khoảng 158,340 km2), (1) do đảng Lao Động (LĐ) cai trị, Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước, Phạm Văn Đồng làm thủ tướng. Đảng LĐ chủ trương độc đảng, độc tài toàn trị, một mình nắm chặt chính quyền. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nước cộng sản đầu tiên và duy nhất ở Đông Nam Á.

Ngoài thủ đô là Hà Nội, VNDCCH còn có các hải cảng quan trọng là Hải Phòng, Vinh. Dân số năm 1955 ở miền Bắc là 13,574,000 người. (2) Các tỉnh phía bắc vĩ tuyến 17 vào thời điểm nhà nước VNDCCH tiếp thu, có thể kể:

Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, bắc Quảng Trị.

Quân đội Việt Minh (VM) tiếp thu Hà Nội ngày 10-10-1954. Chủ tịch Uỷ ban Quân quản Hà Nội của VM là Vương Thừa Vũ tức Nguyễn Văn Đồi, người đã chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội ngày 19-12-1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của VM là sư đoàn 308. Hồ Chí Minh từ vùng chiến khu Việt Bắc về Hà Nội ngày 15-10-1954, bắt đầu thiết lập tổ chức cầm quyền miền Bắc.

Hải Phòng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư vào miền Nam bằng tàu thủy, do VM tiếp thu ngày 13-5-1955. Những toán lính Pháp cuối cùng rời đảo Cát Bà (vịnh Hạ Long, vùng Hải Phòng) ngày 22-5-1955, thì VM mới thật sự làm chủ hoàn toàn miền Bắc.

Thời điểm nầy cũng chấm dứt luôn thời hạn 300 ngày ở miền Bắc mà bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954” cho phép dân chúng được tự do di chuyển từ khu vực thuộc phía bên nầy sang khu vực thuộc phía bên kia.

Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc không được thống kê đầy đủ. Theo sự trình bày của Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc, trước khi chiến tranh kết thúc, VM dự tính bước đầu rút ra Bắc khoảng 60,000 người, trong đó 50,000 người là bộ đội và 10,000 người làm công tác chính trị, nhất là những người "đỏ" quá, bị lộ diện, không thể ở lại. (3) Đây chỉ là số lượng Võ Nguyên Giáp dự tính, trong khi có tài liệu cộng sản cho rằng số người tập kết ra Bắc khoảng 175,000 cán bộ và 15,000 học sinh. (Đặng Phong (chủ biên), sđd. tr. 45.)

Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 900,000 người. (4) Những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật trong các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, đều rút về miền Nam. Điều nầy có lợi cho việc cai trị của đảng LĐ tức đảng Cộng sản Bắc Việt vì không còn, hay còn ít người đối kháng với chế độ cộng sản ở lại đất Bắc.

Từ tháng 9-1954, nghĩa là sau hiệp định Genève và trước khi về Hà Nội, Phạm Văn Đồng được cử giữ chức thủ tướng chính phủ VNDCCH thay Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mãi đến tháng 9-1955, đảng LĐ mới triệu tập trở lại những thành viên còn sót lại từ quốc hội Khóa I (bầu ngày 6-1-1946). Trong phiên họp tại Hà Nội ngày 20-9-1955, quốc hội nầy thông qua thành phần chính phủ Phạm Văn Đồng như sau:

Chủ tịch VNDCCH Hồ Chí Minh
Thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng
Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Nội vụ Phan Kế Toại
Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp
Phó thủ tướng kiêm Chủ nhiệm ỦB Khoa học nhà nước Trường Chinh (từ tháng 4-1958)
Phó thủ tướng Phạm Hùng (từ tháng 4-1958)
Bộ trưởng bộ Công an Trần Quốc Hoàn
Bộ trưởng bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên
Bộ trưởng bộ Tài chánh Lê Văn Hiến (đến tháng 5-1958)

Hoàng Anh (từ tháng 6-1958)
Bộ trưởng Giao thông và Bưu điện Nguyễn Văn Trân
Bộ trưởng Thủy lợi và Kiến trúc Trần Đăng Khoa (đến tháng 4-1958)
Bộ trưởng Thủy lợi Trần Đăng Khoa (từ tháng 4-1958)
Bộ trưởng Kiến trúc Bùi Quang Tạo (từ tháng 4-1958)
Bộ trưởng Công nghiệp Lê Thanh Nghị
Bộ trưởng Thương nghiệp Phan Anh (đến tháng 4-1958)
Bộ trưởng Ngoại thương Phan Anh (từ tháng 4-1958)
Bộ trưởng Nội thương Đỗ Mười ( từ tháng 4-1958)
Bộ trưởng Y tế Hoàng Tích Tri (đến tháng 12-1958

Phạm Ngọc Thạch (từ tháng 12-1958)
Bộ trưởng Lao động Nguyễn Văn Tạo
Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe
Bộ trưởng Văn hóa Hoàng Minh Giám
Bộ trưởng Thương binh Vũ Đình Tụng (giải thể tháng 5-1959)
Bộ trưởng Cứu tế Nguyễn Xiển (giải thể tháng 5-1959)
Bộ trưởng Nông lâm Nghiêm Xuân Yêm
Bộ trưởng Phủ thủ tướng Phạm Hùng (đến tháng 4-1958)

Nguyễn Duy Trinh (4/1958 – 12/1958)

Nguyễn Khan (từ tháng 5-1959)
Chủ nhiệm ỦB Kế hoạch Nhà nước Nguyễn Văn Trân (4-1958 đến 12-1958)

Nguyễn Duy Trinh (từ tháng 12-1958)
Bộ trưởng, Phó chủ nhiệm UBKHNN Nguyễn Văn Trân (từ tháng 12-1958)

Lê Văn Hiến (từ 12-1958) (5)

Chính phủ hoạt động theo những nghị quyết của Bộ chính trị và Uỷ ban Trung ương đảng LĐ. Ngoài ra, chính phủ còn được sự hỗ trợ của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), một bộ phận ngoại vi của đảng LĐ. Nguyên trước đây, ngày 27-5-1946, Việt Minh thành lập Mặt trận Liên Việt (Liên hiệp Quốc dân Việt Nam), do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ tịch, Tôn Đức Thắng, phó chủ tịch. Năm 1947, Huỳnh Thúc Kháng từ trần, Tôn Đức Thắng lên thay. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 24.) Trong Đại hội từ 5 đến 10-9-1955, Mặt trận Liên Việt tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ và tự giải tán, chuyển qua thành MTTQ cũng do Tôn Đức Thắng làm chủ tịch.

Theo kế hoạch của CSVN, giai đoạn từ 1955 đến 1960 được gọi là giai đoạn xây dựng miền Bắc, chia thành hai thời kỳ: ổn định trật tự xã hội, khôi phục kinh tế (1955-1957) và cải tạo xã hội chủ nghĩa theo đường lối cộng sản, tức kinh tế chỉ huy (1958-1960). Để thực hiện các kế hoạch nầy, nhà nước cộng sản mở lại cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) với nhiều mục tiêu cùng một lúc, và chận đứng phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, đóng khung chính trị và văn hóa theo khuôn khổ chủ nghĩa cộng sản.

2. VIỆC ĐỐI NGOẠI

Bắc Việt Nam liên lạc ngoại giao chính với các nước trong khối cộng sản và thêm một số nước trung lập. Lúc đó, hai cường quốc cộng sản là Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đang tranh chấp nhau. Cuộc tranh chấp Nga Hoa vừa gây khó khăn, đồng thời cũng có lợi cho Bắc Việt Nam. Khó khăn vì Bắc Việt Nam phải giữ thăng bằng trong việc ngoại giao với hai cường quốc cộng sản. Có lợi vì Bắc Việt Nam lợi dụng cuộc tranh cãi giữa hai bên, để mặc cả, thương lượng và xin hai nước viện trợ tối đa. Cả hai bên đều tranh đua gia tăng viện trợ nhằm lôi kéo Bắc Việt Nam về phe mình.

Theo chủ trương chung sống hòa bình, vào đầu năm 1957, Liên Xô đề nghị hai miền Bắc và Nam Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc (LHQ) như hai nước riêng biệt. Chính phủ Bắc Việt quyết liệt phản đối.(6) Sau khi phó thủ tướng Liên Xô, Anatas Mikoyan, đến Trung Quốc vào tháng 4-1956 giải thích chính sách mới của Liên Xô, thì vào giữa tháng 5-1957, Kliment Voroshilov, chủ tịch đoàn Chủ tịch Tối cao Liên Xô, đến thăm Hà Nội.

Có thể trước đó Liên Xô đã thăm dò ý kiến Bắc Việt và sợ rằng Bắc Việt sẽ xích gần với Trung Quốc nếu Liên Xô không ủng hộ Bắc Việt, nên sau khi gặp các lãnh tụ Bắc Việt tại Hà Nội, Voroshilov tuyên bố rằng Liên Sô bảo đảm sẽ không chấp nhận cho Việt Nam Cộng Hòa gia nhập LHQ và sẽ gia tăng viện trợ cho Bắc Việt. (Vào tháng 9-1957, Liên Xô phủ quyết khi vấn đề nầy được đưa ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.)(7)

Việc quyết tâm xâm lăng miền Nam đưa đến một nhu cầu lớn lao cho đảng LĐ: đó là viện trợ từ các nước ngoài. Về quân sự, Bắc Việt rất cần thiết bị, quân xa, quân dụng, súng ống tối tân để chống lại võ khí Hoa Kỳ ở miền Nam. Trong khi đó, nền kinh tế và kỹ nghệ Bắc Việt suy kiệt một cách trầm trọng, không đủ nuôi dân cũng như không thể cung ứng nhu cầu chiến trường. Từ tháng 9-1954, khi đảng LĐ mới cầm quyền ở Bắc Việt, Bắc Việt xảy ra nạn đói.(8) Nạn đói kéo dài trong giai đoạn CCRĐ.

Bắc Việt chỉ còn cách duy nhất là cầu viện cả hai cường quốc cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc mới có thể tấn công miền Nam. Trước tình trạng khối CSQT bắt đầu rạn nứt, Bắc Việt không muốn làm mất lòng một trong hai nước nói trên, đồng thời muốn lợi dụng tình trạng nầy để kêu gọi cả hai cường quốc cộng sản viện trợ tối đa cho Bắc Việt Nam.

Ngoài nhu cầu viện trợ quân sự và kinh tế, giữa hai chính sách đối ngoại của hai nước Liên Xô và Trung Quốc, chính sách lúc đó vừa bảo thủ vừa hiếu chiến và cứng rắn của Trung Quốc, sẵn sàng yểm trợ và viện trợ các phong trào cộng sản tại các quốc gia trên thế giới, để khuynh đảo chính trị, nhất là lập trường cương quyết chống Mỹ ở bất cứ nơi nào trên thế giới, thích hợp với lập trường hiếu chiến của Bắc Việt, đang kiếm cách xâm lăng miền Nam dưới chiêu bài "chống Mỹ cứu nước". Vì vậy, tuy bề ngoài Bắc Việt giữ thăng bằng giữa hai nước, nhưng bên trong, những nhà lãnh đạo đảng LĐ theo chủ trương của Trung Quốc hơn là Liên Xô. Cũng vì vậy, năm 1958, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam đã ký công hàm ngày 14-9-1958, ủng hộ tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chu Ân Lai, thủ tướng CHNDTQ.

Nguyên từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển. Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển. Riêng quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị: 3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý. Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất. Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.

Trước sự tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.”(9) Sau khi Khrushchev viếng thăm Bắc Kinh từ 31-7 đến 3-8- 1958, Trung Quốc pháo kích và đe dọa hai quần đảo Kim Môn và Mã Tổ (Kinmen and Matsu) ngày 23-8-1958. Phải chăng hành động nầy nhắm đòi hỏi chủ quyền trên hai quần đảo nầy, hay để xác định chiều rộng của hải phận của Trung Quốc?

Hai quần đảo nầy nằm gần lục địa Trung Quốc nhưng thuộc quyền quản lý hành chánh của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Hoa Kỳ liền gởi Hải và Không quân đến bảo vệ hai quần đảo nầy theo Hiệp định Phòng thủ Hỗ tương giữa Hoa Kỳ và THDQ, ký kết tại Đài Bắc (Taipei) ngày 2-12-1954. đưa đến cuộc khủng hoảng khá trầm trọng ở eo biển Đài Loan.

Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau:

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
. . . . . . . . . . . . . .

(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc ... (Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện. http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm)

Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và Trung Quốc gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].

Như thế, rõ ràng bản tuyên cáo ngày 4-9-1958 của CHNDTQ đưa ra hai chủ điểm:
    1. Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý.

    2. Xác định chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn của Việt Nam từ lâu đời.
Vì muốn lấy lòng Trung Quốc để được viện trợ, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc, nguyên văn như sau:

“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.” (Nguồn: Internet)

Cần chú ý là nhà cầm quyền VNDCCH chỉ là cánh tay nối dài của đảng Lao Động (LĐ), nên công hàm của Phạm Văn Đồng phải được Hồ Chí Minh và lãnh đạo đảng LĐ chuẩn thuận.

Chuyện hải phận 12 hải lý là chuyện của Trung Quốc. Hồ Chí Minh và đảng LĐ ủng hộ hay không, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm. Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng LĐ tán thành “quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc” là một hành vi phản quốc đáng lên án còn hơn cả Trần Ích Tắc vào thế kỷ 13 hay bà thái hậu nhà Lê qua cầu viện quân Thanh vào thế kỷ 18, vì đã ngang nhiên giao hải đảo do tổ tiên để lại cho ngoại bang.

KẾT LUẬN

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Hồ Chí Minh, Việt Minh và đảng LĐ nắm quyền cai trị ở miền Bắc khá thuận lợi vì sẵn có bộ máy cầm quyền độc tài toàn trị chặt chẽ, trong khi những người theo chủ nghĩa dân tộc đều đã bỏ đất Bắc, di cư vào Nam, không có một tổ chức nào gài người ở lại miền Bắc.

Chính phủ VNDCCH là cánh tay nối dài và là công cụ thi hành những quyết định của đảng LĐ, bắt tay ngay vào việc áp đặt hệ thống kinh tế chỉ huy của chế độ cộng sản, nhằm ổn định tuyệt đối ở miền Bắc, để chuẩn bị tiếp tục chiến tranh đánh chiếm miền Nam.

Vì quyết tâm xâm lăng miền Nam, cần sự viện trợ của ngoại bang, ngày 14-9-1958 đảng LĐ lên tiếng thừa nhận tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc về vấn đề hải phận. Trong tuyên bố ngày 4-9-1958, Trung Quốc khẳng định rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc và Trung Quốc đặt tên là Tây Sa và Nam Sa. Việc thừa nhận nầy của đảng LĐ là một hành vi phản quốc trắng trợn, vì lịch sử cho thấy hai quần đảo nầy thuộc quyền sở hữu của Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước. (Trích từ Việt sử đại cương tập VI, sẽ xuất bản.)

Trần Gia Phụng
(Toronto, 01-12-2011)

CHÚ THÍCH

1. William Bridgwater và Seymour Kurtz, The Illustrated Columbia Encyclopedia, Vol. 21, New York: Columbia University Press, mục “Viet Nam”, tr. 6481. [Số trang liên tục từ tập đầu đến tập cuối.]

2. Đặng Phong chủ biên, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II: 1955-1975, Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 174.

3. Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève], Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, ch. 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".[Nguồn: Internet.]

4. Theo Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua: Việc từng ngày (1945-1964), Sài Gòn 1966, Xuân Thu California, tái bản không đề năm, tr. 195, đến ngày 30-10-1955 là ngày chính thức chấm dứt cuộc di cư, số lượng người di cư tỵ nạn là 887,890 người. Thực tế ở ngoài còn cao hơn nhiều. Theo Đặng Phong, sđd. tr. 52, tổng số di cư vào Nam là 860,000 người.

5. Tô Tử Hạ và một nhóm tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam 1945-2005, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 99.

6. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, California: Nxb. Văn Nghệ, 1997, tt. 87-88.

7. William J. Duiker, Ho Chi Minh, Nxb. Hyperion, New York, 2000, tr 500.

8. Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 2001, tr. 141.

9. Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.


Saturday, November 19, 2011

Gaddafi's son Saif captured in Libya

    Libyans Seize Qaddafi’s Son, the Last at Large

By Clifford Krauss and David D. Kirkpatrik

ZINTAN, Libya — Libyan militia fighters on Saturday captured Seif al-Islam el-Qaddafi, the last fugitive son and onetime heir apparent of Col. Muammar el-Qaddafi, setting off nationwide celebrations but also exposing a potential power struggle between former-rebel factions over his handling.

Saif al-Islam Qaddafi on a plane after his capture on Saturday.
Militia leaders based in Zintan, a western mountain town and stronghold of resistance to Colonel Qaddafi’s regime, said they captured Seif al-Islam early Saturday in the southwestern desert near Awbari, along with a small entourage.

But while transitional government leaders in the capital, Tripoli, promised that Mr. Qaddafi would be closely guarded and turned over to the International Criminal Court to be tried on war crimes charges, leaders in Zintan insisted that they would not hand him over until a formal national government was formed.

That process is in the works, but still at least a day or two away, raising the possibility that Mr. Qaddafi could be a bargaining chip to ensure a larger Zintani role in the new government. Such insistence on factional power is at the heart of international concerns about Libya’s future. And after Colonel Qaddafi’s capture and killing at the hands of militiamen a month ago, his son’s case will be an important test of Libya’s commitment to the rule of law.

On Saturday, the prosecutor for the International Criminal Court said he would head to Libya in the next few days to discuss how and where Mr. Qaddafi would be tried. “We are coordinating with the Justice Ministry to ensure that any solution is in accordance with the law,” said the prosecutor, Luis Moreno-Ocampo.

Leaders in Zintan promised that they would protect Mr. Qaddafi and that justice would take its course.

“We are arranging a very safe place for him,” said Mussa Grife, a member of the Zintan revolutionary movement’s political committee. “The people of Zintan want to leave a good impression for the world and treat Seif according to human rights and according to Islamic values.”

Tellingly, the Transitional National Council’s prime minister, Abdel Rahim el-Keeb, came to Zintan with an entourage of officials to celebrate the capture.


Mr. Qaddafi’s was captured near Awbari.
“Congratulations to all Libya, all men, women and children,” he said at a news conference here. “Now we can build a new Libya.”

Seemingly responding to concerns about Mr. Qaddafi’s safety, Mr. Keeb emphasized that the government in Tripoli was in no rush to take direct custody of Mr. Qaddafi and that it would let those in Zintan hold him.

“We trust their ability to take care of this,” he said. “They will keep him in peace, and take care of him, unlike how he treated our people.”

In scenes of celebration outstripped only by news of Colonel Qaddafi’s capture and death last month, Tripoli’s streets erupted in revelry at the news that Mr. Qaddafi had been seized. Vehicles clogged intersections, horns blaring, and militiamen shot their rifles into the sky. In Zintan, thousands of people poured into the streets as fireworks and rocket and gunfire broke out.

The capture eliminates perhaps the best hope that loyalists had of rallying a new revolution around the remnants of the Qaddafi family. It also represents a personal transformation that turned Seif al-Islam from the most prominent advocate of changing his father’s Libya into one of the chief architects of the regime’s deadly crackdown on dissent in its final days.

Mr. Grife said Zintan fighters had been following Mr. Qaddafi through the desert using local sources for intelligence about his whereabouts in the past few weeks. When they learned he and a small entourage would try to make a break to leave the country, perhaps bound for Tunisia, they laid a trap for him on Saturday morning along a valley road outside Awbari, an oasis town.

When Zintan fighters blocked the caravan, Mr. Qaddafi broke from his vehicle and was captured on foot. “They tried to fight,” Mr. Grife said. A few shots were fired, but there were no reports of any wounded.

A reporter for Reuters was on the plane with Seif al-Islam as the fighters flew him from Awbari to Zintan. The reporter said that although Mr. Qaddafi appeared very frightened, he was in decent condition. He wore an uncharacteristically heavy beard, and showed the reporter his heavily bandaged right hand, which he said was wounded in a NATO airstrike about a month ago.

As Mr. Qaddafi was driven from the Zintan airport to an undisclosed place for detention, residents who had gathered to see him threw shoes and sandals at the vehicle, a sign of extreme contempt in the Muslim world.

For years, Seif al-Islam el-Qaddafi cultivated an image at home and abroad as the face of change in Libya. An international playboy in his youth, he went on to earn a doctoral degree at the London School of Economics. He wrote a thesis on the importance of democracy and civil society groups, although accusations later emerged that it had been ghostwritten by consultants working for his father’s government.

He publicly championed the cause of modernizing and liberalizing Libya, including loosening the tight restrictions on political speech his father had maintained for decades, opening up free enterprise and adopting a constitution.

Agence France-Presse — Getty Images
A screen capture taken from the Libyan TV station Al-Ahrar on Saturday is said to show Seif al-Islam, the fugitive son of Col. Muammar el-Qaddafi, at an undisclosed location after his arrest.
In the staged drama that passed for public political life under Colonel Qaddafi, Seif al-Islam, who is 39, was often portrayed as standing up to an authoritarian old guard around his father, who seemed to push back against his ideas. Some Libyans who dreamed of a freer future pinned their hopes on him and the young clique he led.

Western consultants say Seif al-Islam managed to parlay partial control of Libya’s oil assets and investments to help induce Western businesses and governments to ease Libya’s isolation under his father.

His success helped him emerge as the pre-eminent son and heir apparent among Colonel Qaddafi’s many children, although his brother Muatassim, his father’s national security adviser, was always considered a rival.

But when the revolt against Colonel Qaddafi broke out in late February — taking over the eastern city of Benghazi and for a few days the streets of Tripoli as well — it was Seif al-Islam who delivered the Qaddafi government’s first public response, warning in a long and rambling speech that the government would crush the “rats” who challenged his father’s rule.

Libya, he said, would slide into civil war. To opponents of the Qaddafi government, the son now sounded very much like his father.

During the rebellion and NATO bombing campaign against the Qaddafi government, Seif al-Islam was said to propose to the Western governments a truce centered on the idea that he would lead a transition to electoral democracy. But in public interviews he always insisted that his father should retain a figurehead role, which he sometimes compared to that of the queen of England, and the Western powers never bit.

In his last interview — in early August, less than three weeks before he fled as rebels took Tripoli — Seif al-Islam appeared a changed man, nervous and agitated, wearing a newly grown beard and fingering prayer beads. He had always been a religious Muslim, he said, though his previous image was decidedly secular.

Casting aside any pretense of negotiating peace with the Western-supported rebel leadership, Mr. Qaddafi said in the interview that his father’s government was negotiating a secret deal with a faction of Islamists among the rebels. Together, he said, Qaddafi loyalists and Islamists would turn on the liberals among the rebels, who would be killed or driven into exile, and Libya would become an Islamic state relying on the Koran instead of a constitution. “Libya will look like Saudi Arabia, like Iran. So what?”

He added, chuckling, “It is a funny story.”

Libyan Islamists denied the report immediately. Officials of his father’s government denied it the next day. And at least one person close to the Qaddafi family later said that Mr. Qaddafi appeared to be losing his grip.


Du Sinh Và Lao Động Xuất Khẩu - Lâm Văn Bé

Lâm Văn Bé

Tháng 7 năm 2011, hai bản tin trên trang mạng liên quan đến Việt Nam làm người đọc bàng hoàng. Vẫn biết Việt Nam hôm nay có quá nhiều chuyện kỳ dị mà nói mãi không hết, nhưng hai mẫu tin tháng bảy nầy có tầm ảnh hưởng tác hại đến uy tín các cộng đồng người Việt hải ngoại, đó là hiện tượng du học sinh và người lao động xuất khẩu Việt Nam.

Trước tiên là đoạn vidéo dài 3 phút phổ biến trên YouTube quay lại hình ảnh và đối đáp của 5 sinh viên tự nhận là du sinh tại Nhật đã dùng Iphone4 và Nokia N95 để tranh nhau đập nước đá trong một bửa tiệc. Những tiếng cười phụ họa, tiếng khích động đã phơi bày một cảnh tượng lố bịch, vô ý thức của đám sinh viên con ông cháu cha và tư bản đỏ đang du hí trên đất người với nhãn hiệu du sinh. Cái vidéo đã gây phẫn nộ trong giới truyền thông và dân chúng nước Nhật, vốn là quốc gia nổi tiếng về điện tử và là một dân tộc có tinh thần tự trọng cao, trong khi đó, trên các mạng điện tử ở Việt Nam, có người thản nhiên bình luận là «họ muốn làm gì thì làm, là việc riêng của họ, miễn là không ảnh hưởng đến ai». Đó là cái triết lý sống của chế độ cộng sản hôm nay, làm xấu mà không biết xấu hổ.

Chuyện thứ hai là bài viết của tiến sĩ Daniel Silverstone, chuyên viên về ngành tội phạm ở đại học London Metropolitan gởi cho đài BBC ngày 26/7/2011 có tựa là: Nạn cần sa và người Việt ở Anh.
Sau đây là vài trích đoạn bài viết: «… Trong 10 năm qua, có khi hàng ngàn người Việt di dân lao động bất hợp pháp đến Anh từ Đông Âu (nhiều nhất từ Tiệp khắc, Đông Đức) và cả từ Việt Nam dưới dạng du khách rồi ở lại, chủ yếu là từ Hải Phòng, nhất là từ hai quận Thủy Nguyên và Kiến Thủy. Chi phí hành trình do những tổ chức đưa người lậu từ VN sang Anh thay đổi tùy theo thời điểm, thường từ 15,000 đến 17,000 bảng Anh. Chuyến đi có thể bằng giấy tờ giả mạo, xuất ngoại bằng phi cơ đến thẳng nước Anh, hoặc đến một quốc gia Đông Âu rồi sau đó dùng đường bộ nhập cảnh bất hợp pháp vào nước Anh. Những người mới đến được cộng đồng gọi là người rơm. Họ làm tất cả mọi việc bất hợp pháp, từ thợ điện câu trộm đường dây vào nhà đến việc sản xuất cần sa, kể cả việc sử dụng thiếu niên như nô lệ trẻ con có khi chỉ 13 tuổi. Những người làm vườn nầy được trả lương hàng tuần hay chia lợi nhuận sau khi thu hoạch. Mùa thu họạch đầu tiên xem như để trang trải các chi phí đầu tư, các mùa sau là tiền lời, mỗi mùa thường 8 tuần. Các người chủ mưu dùng lợi nhuận thu được đầu tư vào các dịch vụ khác nhau và nhiều nơi khác nhau như lập tiệm ăn, tiệm móng tay hay gởi tiền về VN qua các ngỏ chính thức và phi pháp. Trong 10 năm qua, nhiều tội phạm giàu có đã thay đổi từ kẻ làm vườn trở thành chủ xí nghiệp. Họ lại bắt đầu một quá trình nhập cư mới bằng cách đưa gia đình, bạn bè vào làm việc trong các cơ sở kinh doanh của họ… Căn cứ theo báo chí, tội phạm người Việt hiện nay đã nở rộ và họ đã gia tăng không ngừng việc trồng cần sa đến nổi Vương Quốc Anh hiện nay nổi tiếng là quốc gia sản xuất cần sa ròng …»

Từ hai bản tin trên, chúng tôi thử nhận định vài nét đặc trưng về diện mạo của du học sinh và lao động xuất khẩu Việt Nam, hai đặc sản của chế độ cộng sản mà báo chí thế giới thường xuyên đề cập đến những điều tệ hại, làm xấu hổ người Việt trong nước, nhất là các cộng đồng người Việt tị nạn vốn được các quốc gia định cư nể trọng.

Phần I: Du học sinh

1.1. Những quốc gia được sinh viên Việt Nam ưa thích xuất ngoại du học
Tháng 3 năm 2009, Viện Giáo Dục Quốc Tế (IIE=Institute of International Education), một cơ quan giáo dục phi lợi nhuận, đã làm một cuộc khảo sát trực tuyến trên hơn 700 học sinh, sinh viên ở VN để tìm hiểu thái độ và nhận thức của họ về các quốc gia mà họ dự định xuất ngoại du học. Số người được hỏi gồm 55% ở vùng TP Hồ Chí Minh, 37% ở vùng Hà Nội và 8% ở vùng Đà Nẳng.

Những câu hỏi về những lý do đi du học như: nâng cao kiến thức và khả năng ngôn ngữ (đặc biệt tiếng Anh), đạt được cấp bằng nước ngoài để hổ trợ cho việc tìm kiếm việc làm, học tập được kinh nghiệm kỹ thuật và văn hóa nước ngoài. Về những trở ngại dự phóng cho việc du học, những câu hỏi gồm có: chi phí, tìm kiếm thông tin chính xác nơi du học, xin visa, ngôn ngữ và văn hóa khác biệt, khoảng cách từ gia đình đến nơi du học.Từ những câu hỏi trên, kết quả tổng quát như sau (theo thứ tự):
    Nước xin đi Lựa chọn 1 Lựa chọn 2
    Hoa Kỳ 81.8 % 10.4%
    Úc 7.7% 30.7%
    Anh 5% 20.8%
    Canada 1.1% 7.4%
    Singapore 0.9% 13.5%
    Pháp 0.7% 2.4%
    Thụy Điển 0.7% 1.1%
    Hòa Lan 0.7% 0.9%
    Nhật Bản 0.4% 3.9%
    Thụy Sĩ 0.4% 0.6%
Trong lựa chọn 1, Hoa Kỳ là niềm mơ ước của hơn 80% học sinh, sinh viên, kế đó là Úc và Anh, tất cả đều là quốc gia Anh thoại. Nếu không đạt được ý muốn như trên, chọn lựa 2 của họ là Úc, kế đến là Anh và Singapore. Điểm lưu ý là trong chọn lựa 2, đa số sinh viên miền Bắc chọn Anh quốc và miền Nam chọn Canada.

Khi đề cập đến ấn tượng vể những quốc gia được ưa thích liên quan đến phẩm chất giáo dục cao, trình độ khoa học kỹ thuật tân tiến, kết quả theo thứ tự là Hoa Kỳ (68%), kế đến là Úc, Anh, Singapore và Pháp. Về những ấn tượng bất lợi, Hoa Kỳ bị xem là quốc gia nguy hiểm về bạo lực xã hội, trong khi Anh, Pháp là không thân thiện (ý nói kỳ thị) với nước ngoài.

Từ các yếu tố trên, bảng xếp hạng sau cùng về việc học sinh, sinh viên Việt Nam chọn nơi để du học theo thứ tự như sau: Úc, Singapore, Hoa Kỳ, Pháp, Anh. (Attitudes and perceptions of prospective international students from Vietnam , Feb. 2010).

1.2. Có bao nhiêu du học sinh Việt Nam

Thật khó mà có một con số thống kê chính xác, bởi lẽ không cơ quan thẩm quyền nào của Việt Nam công bố một thống kê giống nhau. Các thống kê VN thường dựa vào các tin tức của các cơ quan giáo dục quốc tế, các tòa lãnh sự các nước rồi vẽ vời thêm. «Bộ Giáo Dục và Đào Tạo VN cho biết có độ 100,000 học sinh và sinh viên du học ở hải ngoại, trong đó 90% là du học tự túc và 10% du học với học bổng của chính phủ VN và các nước. Bộ Giáo Dục chỉ quản trị số sinh viên do Bộ cấp phát học bổng độ 5,000 người. Chúng tôi ước định thống kê như trên căn cứ vào số visas do các cơ quan ngoại giao các nước cấp phát và tin tức của các cơ quan ngoại giao VN ở các nước, các hiệp hội sinh viên quốc tế, nhưng phương pháp nầy thực sự không chính xác và chúng tôi đang nghiên cứu một cơ chế tập trung tất cả thông tin về người du học… »(Nam Phương. Les études à l’étranger sont en vogue, đăng trong «Le courrier du Vietnam» ngày 14/8/2011).

- Úc: Úc là quốc gia được học sinh, sinh viên Việt Nam ưa thích hàng đầu để xuất ngoại. Giá học phí và sinh hoạt không cao so với Bắc Mỹ và Tây Âu, điều nầy thích hợp với các sinh viên tự túc, các trường học đủ loại thích hợp với các trình độ kiến thức và sinh ngữ, thường sinh viên bậc trung và kém vẫn có thể được chấp nhận sau các lớp dự bị. Úc lại là quốc gia tương đối gần Việt Nam, thích hợp cho các du sinh giàu đi về VN vào những ngày lễ, và nhất là tiện lợi cho các «đại gia», các tay tham nhũng thường xuyên chuyển tiền ăn cướp và lường gạt trong những chuyến đi thăm con em. Là quốc gia trù phú nhưng thưa dân, chánh sách di dân rộng rãi của chánh phủ Úc cho phép thân nhân những sinh viên hậu đại học có thể đi theo và làm việc trên đất Úc, đó là cửa ngỏ di cư hợp pháp cho những «tu nghiệp sinh» thuộc giai cấp lãnh đạo. Ngoài ra, trong số du học sinh đến Úc còn có rất nhiều học sinh trung học và học nghề, họ có thể xin định cư ở Úc sau khi tốt nghiệp nếu làm việc trong số 181 nghề mà nước Úc đang cần. Để thu hút sinh viên VN, nước Úc đã cấp nhiều học bổng cho du sinh VN (4,000 trong năm 2010). Đó là những lý do chính yếu khiến Úc là đất hứa cho du học sinh Việt Nam. Theo Tổ chức Giáo Dục Quốc Tế Úc (AEI =Australian Education International) trực thuộc chính phủ Úc, số du sinh Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2010, số du học sinh Việt Nam tại Úc là 25,788 người, tăng 8,8% so với năm 2009, đứng hạng 4 trong số du học sinh các nước tại Úc.

- Hoa Kỳ: Theo Viện Giáo Dục Quốc Tế IIE với sự hổ trợ của US Department of State’s Bureau of Educational Affairs, trong báo cáo Open Doors 2010 thì năm 2000, tổng số du sinh tại Hoa kỳ là 2,022 người, năm 2009/10 tăng lên đến 13,122 người. Như vậy, trong vòng 10 năm, số du sinh VN tại Hoa Kỳ đã tăng gấp 6 lần và trong số sinh viên năm 2009/10 có 18,7% là du sinh cấp cao học và tiến sĩ mà đa số được các học bổng của chính phủ Hoa Kỳ (Vietnam Education Foundation, Ford Foundation, Fulbright…) hay của chính phủ VN trong các chương trình đào tạo hậu đại học.

Việc gia tăng sinh viên VN tại Mỹ, không phải chỉ phát xuất từ sự mơ ước của người Việt mà còn từ sự toan tính của chính người Mỹ, vừa để thu hút chất xám của các phần tử ưu tú Việt Nam, vừa để thu góp tài sản tẩu tán của tập đoàn đảng viên tham những. Michael Michalak, đại sứ Mỹ tại Hànội, trong điện thư gởi về Bộ ngoại giao ngày 24/2/2010 đã viết: «… Sứ quán tích cực tìm cách áp dụng các chuẩn mực giáo dục của Hoa Kỳ trong các đại học VN để gây ảnh hưởng đến thế hệ lãnh đạo kế tiếp, gia tăng số người tốt nghiệp có kỹ năng để làm việc cho các công ty Mỹ ở VN và để hiện đại hóa Bộ Giáo Dục-Đào Tạo bị nhiều người xem là hệ thống giáo dục đổ vỡ, Quỹ Giáo Dục VN (Vietnam Education Foundation) đến năm 2010 đã đưa 306 người sang học ở 70 đại học Mỹ đa số là học tiến sĩ khoa học… » (Wikileads. Giáo Dục Mỹ ở VN, bbc.co.uk ngày 28/8/2011)

Tuy số lượng sinh viên gia tăng, nhưng vì khả năng sinh ngữ cũng như kiến thức tổng quát kém, đa số sinh viên chọn các trường đại học cộng đồng (2 năm), dễ học, nhanh chóng về nước có cấp bằng Mỹ quốc, hành trang cho việc thăng tiến dễ dàng trong một quốc gia chống Mỹ nhưng «háo» Mỹ. Hơn phân nửa số du sinh ở Mỹ tập trung tại 3 tiểu bang Texas, Washington, California. (Vietnamese market for educational and training / US Commercial Service. Vietnam, March 2010),

Điều cần ghi nhận là thống kê trên cho biết số người ghi danh nhập học chớ không cho biết số người tốt nghiệp, bởi lẽ từ năm 1995 đến năm 2010, Hoa Kỳ đã cấp gần 300,000 visas cho người Việt không định cư trong đó có khoảng 40,000 visas cấp cho thanh thiếu niên du học. Trong số visa không định cư có bao nhiêu là công nhân xuất khẩu, du khách ở lại bất hợp pháp, và trong số visa du học có bao nhiêu là du học trá hình để du hí sau khi đóng tiền ghi danh nhập học, không kể số du sinh bỏ học vì học không nổi hay bị đuổi vì hạnh kiểm.

- Pháp: Tuy số sinh viên du học tại Pháp ít hơn so với Hoa Kỳ và Úc, và tuy sự quan trọng của tiếng Pháp trong nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay chỉ còn ngang hàng với tiếng Đại Hàn, tiếng Nhật, và cấp bằng Pháp ít còn được trọng vọng trong chế độ cộng sản, du học ở Pháp vẫn là ước vọng của nhiều sinh viên có khả năng bởi lẽ học tập ở Pháp đòi hỏi nhiều thử thách, không phải chỉ sinh ngữ mà còn về kiến thức. Đa số du sinh đến Pháp thuộc bậc hậu đại học (Cao học, Tiến Sĩ) hay tu nghiệp ngắn hạn. Năm 2009/10, Pháp đã tiếp nhận 6,295 du học sinh trong đó có 5,160 (82%) ghi danh học đại học, đứng hạng 9 trong số các du học sinh các nước tại Pháp. Tổng số sinh viên VN taị Pháp như sau:
    Bằng cấp 2006-07 2007-08 2008-09 2009-10
    Cử Nhân (L) 2,355 2,239 2,267 2,295
    Cao học (M) 1,655 1,632 2,083 2,078
    Tiến sĩ (D) 553 627 681 787
    Tổng số 4,563 4,498 5,031 5,160
Trong niên học 2009-10, số sinh viên các ngành học và các cấp như sau:
Bằng cấp Luật, chính trị học Kinh tế, xã hội học Văn chương, nhân văn Khoa học Y, Nha, Dược
    Cử nhân 43 1,436 304 466 46
    Cao học 121 928 208 616 205
    Tiến sĩ 40 73 98 556 20
    Tổng số 204 2,437 610 1,638 271
(Nguồn : resources.campusfrance.org/ Rapports d’activités 2010).

- Anh và Canada: Vương quốc Anh đã thu nhận sinh viên VN trước khi Cộng Sản VN và Mỹ thiết lập bang giao. Số sinh viên tăng nhiều sau chánh sách mở cửa trong 2 thập niên qua nhưng từ đầu năm 2010, Anh quốc đã siết chặt hơn luật du học và di dân nên số du học sinh đến Anh giảm bớt, số du học sinh và di dân bất hợp pháp dưới dạng du học bị trục xuất càng lúc càng nhiều. Có khoảng 5,000 du học sinh VN tại Anh tập trung phần lớn ở khu Hackney, Peckham, Southward, Brixton. Trong số các quốc gia Tây Phương, Canada là quốc gia có ít nhất du học sinh VN. Chánh sách du học khe khắc, giá sinh hoạt cao và tổ chức trường học của Canada không thuận lợi cho các du học sinh có học lực trung bình, Canada không có những giáo trình riêng biệt dành cho sinh viên ngoại quốc, du học sinh không thể đến các campus Canada để du hí hay tìm chồng, đó là những yếu tố chính yếu khiến Canada không có hấp lực với sinh viên VN. Năm 2008, Canada tiếp nhận chỉ có 586 du học sinh VN. Gần đây, chính phủ áp dụng vài biện pháp cởi mở hơn như cho phụ huynh đến thăm con em, cho sinh viên tốt nghiệp có thể ở lại làm việc một só ngành nghề để hi vọng số du học sinh đạt được 1000. Năm 2008, số du sinh VN ở các tỉnh bang của Canada như sau: Ontario: 232, Colombie-Britannique: 132, Alberta: 105, Québec: 79, Manitoba: 19, Saskatchewan: 9, Miền Đông Bắc: 10. (Le marché de l’éducation internationale du VN – Octobre 2009/ Affaires étrangères et commerce international Canada).

- Trung Quốc và các quốc gia khác ở châu Á: Trung Quốc là thị trường cho sinh viên muốn xuất ngoại nhưng có nguồn tài chánh giới hạn bởi lẽ học phí và chi phí chỉ rất thấp, chỉ bằng ¼ so với Anh Mỹ (khoảng 7,000$ một năm), nhưng thời gian học tập để có bằng cử nhân kéo dài 4-5 năm vì phải trải qua ít nhất một năm học tiếng Trung Quốc. Đa số du học sinh đến Trung Quốc học thương mại, canh nông, y học cổ truyền, và kỹ thuật chế biến. Có độ 12,500 sinh viên VN tại Trung Quốc, đứng hạng 4 trong số các du sinh tại Trung Quốc (sau Hàn quốc, Nhựt, Hoa Kỳ) và 500 du sinh ở Đài Loan, Singapore là nơi gần nhất VN nhưng có chương trình dạy tiếng Anh nên Singapore là thị trường tốt nhất cho du sinh nghèo vì chi phí ít, và cho du sinh giàu để đến ăn chơi, cuối tuần về VN mà vẫn có «bằng ngoại». Năm 2010, có độ 7,000 du sinh VN ở Singapore.

Chuyện du học ở VN hiện đang lên cơn sốt nên đi du học ở đâu cũng được miễn là có nhãn hiệu du học sinh để nở mặt nở mày với hàng họ và dễ làm ăn. Hàn Quốc đã có đến 1,900 sinh viên VN trong làn sóng phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc. Ấn độ, Phi luật Tân, Mả Lai Á, Thái Lan, thậm chí Miên và Lào cũng mở cửa thị trường du học VN bằng cách cấp học bổng để khai thác thị trường béo bở nầy. Duy chỉ có Nhật Bản, mặc dù là quốc gia hậu kỹ nghệ nhưng ít sinh viên VN thích đến du học vì đại học Nhật chỉ dạy bằng tiếng Nhật và kỹ luật trường học nghiêm minh. Theo Asahi, cơ quan giáo dục quốc tế Nhật, năm 2010, Nhật đón nhận 3,597 sinh viên Việt Nam.

- Các quốc gia khác ở Âu châu ngoài Anh và Pháp: Du học ở Liên Sô và các quốc gia Đông Âu đã sụt giảm sau khi Liên Sô sụp đổ và sau khi VN đã bình thường hóa ngoại giao với Hoa Kỳ. Tổng số sinh viên VN ở Nga, Tiệp khắc, Slovaquie, Roumanie độ 6,000.Tại các quốc gia Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hòa Lan) Thụy Sĩ, Đức số sinh viên VN vài trăm tại mỗi nước.
Tính chung, tổng số du sinh VN tại hơn 40 quốc gia trên thế giới vào năm 2009 độ 90,000 người.

1.3. Diện mạo của du sinh Việt Nam

Tùy theo gia cảnh, mục tiêu và cung cách, du học sinh Việt Nam có thể nhận diện qua 3 loại : du sinh du học, du sinh du hí và du sinh địch vận.

- Du sinh du học

Đó là những du học sinh có khả năng, có tư cách, muốn tìm học những kiến thức về khoa học kỹ thuật và văn hóa ở xứ người để cải thiện đời sống kinh tế cá nhân và vận mệnh đất nước. Đa số họ là sinh viên tự túc, xuất thân từ những gia đình khá giả hay trung lưu, nhưng không có quyền thế. Cha mẹ họ phải hy sinh cho họ để mong họ có một tương lai tươi sáng hơn và nếu có thể được, thoát khỏi cái xã hội mafia cộng sản.

Tại đất người, ngoài những giờ chuyên cần học tập, đôi khi họ phải đi làm lao động thêm để phụ vào số tiền cấp dưỡng của cha mẹ chắt chiu gởi nuôi họ. Sau khi tốt nghiệp, họ trở về mang theo kiến thức học tập ở xứ người để phục vụ đất nước, nhưng nếu cha mẹ họ không có liên hệ với quyền lực, số phần họ cũng chẳng mấy gì khả quan. Một số khác tìm cách ở lại trên đất nước mà họ đã du học để lập nghiệp mà theo ước đoán, số du học sinh không hồi hương nhiều hơn số du học sinh hồi hương.

Theo một khảo sát rộng rãi của công ty nhân sự SDH trên 350 sinh viên du học đã và sẽ về nước làm việc, sinh viên đã tốt nghiệp và sẽ ở lại nước sở tại làm việc, và sinh viên sẽ tốt nghiệp chưa có ý định ở lại hay về, kết quả là cho biết có 64% người quyết định ở lại nước sở tại để sinh sống. Lý do: chế độ lương thưởng tại VN không tương xứng với công sức và tiền bạc đã đầu tư trong quá trình học tập ở nước ngoài, môi trường và điều kiện làm việc không thích ứng với kiến thức đã thu thập, không được đối xử bình đẳng khi người lãnh đạo và đồng nghiệp là những người tốt nghiệp từ các đại học Đông Âu hay đảng viên thiếu khả năng. Đối với một quốc gia còn nghèo như VN mà phải chi viện hơn 1,5 tỷ mỹ kim hàng năm cho 90,000 du học sinh nhưng số người trở về chỉ chưa đến phân nửa thì quả tình chuyện chảy máu chất xám VN thực đáng quan ngại. (83% du học sinh về nước không hài lòng với lương thưởng. www. amec.com.vn ngày 15 /4/2010).

- Du sinh du hí

Đó là những du sinh con ông cháu cha, mà trong nước gọi là đám 4C (con cháu các cụ) và con em các tư bản đỏ, làm giàu nhờ làm ăn với bạo quyền cộng sản. Đa số đám du sinh nầy là những học sinh dốt về kiến thức lẫn sinh ngữ, lêu lỏng, thiếu tư cách, xuất ngoại bằng văn bằng giả hay thế lực của ông cha, cốt ra nước ngoài để du hí và có chứng chỉ ghi danh nhập học tại đại học nước ngoài để ăn trên ngồi trước khi trở về nước. Tại nước ngoài, họ là những phần tử bất hảo, vung vít tiền bạc để ăn chơi, có tác phong bất xứng, tạo ác cảm cho người dân sở tại. Họ «xuất khẩu» những thói hư tật xấu của ông cha như ăn cắp trong siêu thị, lường gạt khi đi xe bus (dùng thẻ cũ), thô tục trong cung cách xã giao (không xếp hàng, không nhường chỗ ưu tiên cho người già, người phế tật, chửi thề, nới năng ồn ào trước đám đông… ), ăn mặc trang sức lố bịch, tiêu xài theo lối vung tiền qua cửa sổ để chứng tỏ giàu sang (đơn vị tiền tệ của họ là một «giấy» tức tờ giấy 100 dollars). Thái độ xấc láo của họ nhiều khi tạo nên những cuộc xung đột đẫm máu với các băng đảng, ngay cả đối với những công dân bình thường cũng «xốn mắt» trước tác phong mất dạy của đám sinh viên nầy. Ngoài ra, đám du học sinh nầy còn là bình phong để cha mẹ họ thuộc giai cấp lãnh đạo cộng sản tẩu tán tài sản một cách hợp pháp ra nước ngoài mỗi lần đi thăm con em, mà những chuyến đi đi về về như đi chợ. Thông thường, sinh viên du học chỉ ở cấp đại học, nhưng với những tay tham nhũng và tư bản đỏ, họ đưa con ra nước ngoài ngay từ cấp trung học, có khi từ tiểu học (như ở Canada) dưới dạng du học sinh và họ mua nhà đất cho con em họ ở, chuẩn bị cho một cuộc định cư cư về sau. Bảng thống kê sau đây cho thấy tỷ lệ số du sinh học trung học, học trường dạy nghề và học Anh ngữ chiếm hơn phân nửa trong tổng số du sinh Việt Nam.

Tỷ lệ du học sinh Việt Nam theo cấp học niên khóa 2006-07 tại vài quốc gia Quốc gia Đại học Trung học Học Anh ngữ Học nghề.
    Hoa Kỳ 68% 22% 6% 4%
    Anh 43% 34% 20% 3%
    Úc 42% 31% 16% 11%
    Canada* 11% 60% 27% 2%
* Chú thích về Canada: trong 60% học sinh Trung học có 21% học CEGEP và 3% học cấp tiểu học. (nguồn: Le marché de l’éducation internationale du VN).

Ngoài việc «trồng» người dưới dạng gởi con em du học, những tư bản đỏ và bọn tham nhũng còn tìm cách làm sui với các gia đình ở ngoại quốc để rửa tiền mà họ đã cướp giựt ở VN (một trong những sui gia nổi tiếng là Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng và «tên ngụy» Nguyễn Bang). Họ chỉ cần áp dụng phương pháp cổ điển của mafia. Gia đình họ ở nước ngoài thành lập các công ty ở VN, tiền vốn không từ nước ngoài đưa vào mà từ tiền của các tay tham nhũng trong nước bỏ ra đầu tư. Họ khai gian thương vụ, thổi phồng lợi nhuận khổng lồ để chuyển ngân hợp pháp ra các ngân hàng nước ngoài qua các thương vụ. Khi cần ra ngoại quốc để trốn, để định cư, thì dâu rể, con cháu họ sẽ đứng ra bảo lảnh họ dưới dạng đoàn tụ gia đình hay họ di dân dưới dạng kinh doanh. Những cuộc hôn nhân nầy lại còn có tác dụng thêm bạn bớt thù trong cộng đồng người Việt di tản, tạo ấn tượng tốt đẹp cho dân chúng và chính phủ các quốc gia có người Việt di tản về chính sách đoàn kết, cởi mở của chế độ cộng sản đối với kẻ thù khi xưa. Tính lưu manh, quỹ quyệt của cộng sản quả là siêu việt.

Nghĩ ra thì cộng đồng người Việt tị nạn đã phải trả giá bằng nửa triệu sinh linh bỏ mạng trên biển khơi để tránh bạo quyền cộng sản thì hôm nay, chính bạo quyền ấy, sau khi đã vơ vét tài sản trên một đất nước VN nghèo khổ, lại ngang nhiên mang tài sản ăn cướp ấy để đến sống vương vả trên những vùng đất mà những nạn nhân của họ trong 36 năm qua đã phải đổ mồ hôi nước mắt để tạo dựng lại lúc giữa đời người.

- Du sinh địch vận

Đó là 5,000 du sinh con ông cháu cha và những công chức, công an giả dạng là «tu nghiệp sinh» đi học với học bổng của nhà nước. Họ đi học nhưng họ phải làm công tác địch vận theo nghị quyết 36 của đảng. Họ len lỏi trong các hội đoàn, các campus đại học, sử dụng các chiến thuật địch vận thời chiến tranh để tuyên truyền, khủng bố, khuynh đảo các cộng đồng người Việt. Trong đại học, họ khôn khéo lập các hiệp hội sinh viên, tuân hành các chỉ thị của tòa đại sứ để lôi cuốn các sinh viên con em người Việt tị nạn, vốn có tinh thần cởi mở nhưng lại ngây thơ trước các mưu chước thâm độc tâm lý chiến cộng sản. Đám du sinh địch vận nầy lại được sự hổ trợ của đám sinh viên du hí, bởi lẽ chúng phải bảo vệ tập đoàn cầm quyền của cha ông chúng. Chúng cũng có tác phong côn đồ ngang ngược khi cần đối phó với cộng đồng di tản chống đối chúng. Đám đông thầm lặng người Việt tị nạn ngao ngán trước viễn cảnh đã trốn cộng sản mà vẫn chưa được yên thân.

Phần 2: Lao động xuất khẩu

1. Có bao nhiêu người lao động xuất khẩu

Chính sách xuất khẩu lao động được áp dụng từ năm 1980 khi cộng sản VN muốn giải tỏa nạn thất nghiệp trầm trọng trong nước đồng thời dùng người lao động xuất khẩu để trả nợ cho các quốc gia anh em khối cộng sản đã giúp VN trong thời chiến tranh và các quốc gia thân hữu như Irak, Arabie Séoudite, Koweit, Qatar…

Trong thời gian từ 1980-1990, có khoảng nửa triệu người trong đó có khoảng 70,000 sinh viên, nghiên cứu sinh, và khoảng 300,000 người lao động được chính phủ gởi di Liên Sô, Đông Đức, Tiệp khắc, Bulgarie và khoảng 100,000 người đến các nước Trung Quốc, Cuba, Mông Cổ, Bắc Hàn để học tập và làm việc. Tiền lương của nhân công được chia làm ba: một đóng cho nước chủ, một gởi về cho gia đình và một phát cho công nhân. Các công việc phần lớn là công việc người địa phương từ chối: đổ rác, thợ mỏ, phu khuân vác, làm cầu đường, ống dẩn dầu ở Sibérie. Các phụ nữ thường làm nghề may, giúp việc nhà (oshin). Nhưng không bao lâu sau đó, các chế độ cộng sản đã lần lượt sụp đổ, các quốc gia chủ hủy bỏ hợp đồng và cho hồi hương công nhân VN, nhưng đa số công nhân trốn ở lại. Thảm cảnh của công nhân bắt đầu từ đó với cảnh đối xử bất công của dân chúng và chánh quyền địa phương. Thất nghiệp đã đưa đến phạm pháp, tạo thêm ác cảm cho người bản xứ.

Khi bức tường Bá Linh sụp đổ tháng 11/1989, tại Đông Đức có 59,000 lao động xuất khẩu và du sinh VN tập trung tại các thành phố như Karl-Marx-Satadt, Đông Berlin và Leipzig. Sau khi nước Đức được thống nhứt, chính phủ Đức tìm cách giảm bớt số lao động xuất khẩu nầy bằng cách cấp cho mỗi người 3,000 mark để hồi hương. Khoảng phân nửa số người chịu về VN, nhưng những người lao động xuất khẩu ở những nước Đông Âu và Liên Sô lại kéo sang Đức để xin tị nạn hay cư trú bất hợp pháp. Trong suốt thập niên 90, chính phủ Đức dùng nhiều biện pháp đưa những người nhập cư bất hợp pháp nầy về VN, nhưng họ không đi mà chánh phủ VN cũng không nhận. Năm 2004, có đến 40,000 người VN cư trú bất hợp pháp trên nước Đức. Họ sống ngoài vòng pháp luật, lập băng đảng, buôn bán thuốc lá lậu và cần sa là những trọng tội đối với nước Đức. Không nói được tiếng Đức, không hội nhập, đa số sống phạm pháp, lại có quan điểm chính trị cộng sản nên số người dân Việt nầy hoàn toàn đối nghịch với cộng đồng người Việt di tản.

Kể từ năm 1990, khi tham nhũng trở thành phổ quát, chính sách xuất khẩu lao động thay đổi theo lối ăn chia với các tổ chức tuyển dụng người xuất khẩu mà các người đứng đầu không ai khác hơn là bè đảng các lãnh đạo thế lực. Chánh phủ phụ trách tìm kiếm các hợp đồng với các quốc gia cần nhân công rồi giao cho các công ty tư vấn tuyển dụng nhân công. Đó là chính sách tham nhũng vừa hàng dọc vừa hàng ngang, các công ty tuyển dụng tung hoành bóc lột, lường gạt người dân nghèo phải bán nhà bán ruộng để đóng tiền lệ phí cắt cổ cho các công ty để đi lao động nước ngoài hi vọng thoát được cảnh nghèo đói, nhưng chính sách đem con bỏ chợ của các công ty tư vấn thực chất là các tổ chức buôn bán người, làm giàu trên xương máu của người nghèo trước sự bao che của nhà nước.

Theo số liệu của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao Động-Thương Binh và Xã hội), từ năm 2001 đến 2011, VN đã gởi 739,710 lao động VN làm việc tại hơn 40 quốc gia trên thế giới, tính trung bình mỗi năm có khoảng 70,000 người. Thu nhập của người lao động xuất khẩu thường từ 6 đến 10 lần cao hơn so với những người cùng làm một công việc trong nước và mỗi năm họ gởi về nước khoảng 1,7 đến 2 tỷ mỹ kim. (Nguyễn Cảnh Toàn. Bước đầu nghiên cứu cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạp chí Khoa Học Xã hội VN số 1(44) 2011).

2. Diện mạo của người lao động xuất khẩu

Người lao động xuất khẩu ra nước ngoài có hai dạng: ra đi hợp pháp dưới sự quản lý của các công ty tuyển dụng, ra đi bất hợp pháp hay ở lại bất hợp pháp sau khi khế ước làm việc chấm dứt. Ngoài ra, những phụ nữ ra đi lấy chồng Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, thực chất cũng là một hình thức xuất khẩu lao động.

- Người lao động xuất khẩu theo hợp đồng

Từ năm 1990, chánh sách tham nhũng và vô trách nhiệm của nhà nước cộng sản đã làm nở rộ các loại công ty môi giới lao động nước ngoài, phát triển từ thành phố đến nông thôn. Đó là một sách lược tham nhũng toàn bộ, chia phần từ trung ương đến địa phương. Những người muốn đi lao động không phải là những người tứ cố vô thân mà phải có chút ít tài sản. Họ hay thân nhân họ phải bán nhà, bán đất hay thế chấp tài sản cho ngân hàng (danh từ sổ đỏ dùng để chỉ tiền nợ ngân hàng với tài sản thế chấp) để đóng tiền lệ phí cho cơ quan tuyển dụng. Theo những văn kiện của chính phủ, tiền lệ phí nầy không được hơn một tháng tiền lương, nhưng thực tế, những công ty môi giới khuynh đảo thị trường bởi người dân nghèo quá đông, mật ít ruồi nhiều, nên họ bày ra đủ thứ lệ phí, thường từ 5,000 đến 15,000 mỹ kim tùy theo nơi đến làm việc và thời gian của hợp đồng. Thử tưởng tượng tiền lương của một giáo chức, sau khi khấu trừ mọi thứ đóng góp cho nhà nước chỉ còn lại độ 30 mỹ kim mỗi tháng thì số tiền lệ phí như trên quả là một tài sản khổng lồ. Với những hợp đồng bảo đảm tiền lương tại nước ngoài trên 1,000 mỹ kim hàng tháng, điều kiện làm việc thuận lợi, nhiều gia đình nghèo tranh nhau đi tìm số đỏ với sổ đỏ. Người lao động xuất khẩu đong đưa với vận may nếu hợp đồng được tôn trọng, hi vọng trả được hết nợ và có chút vốn khi trở về nước. Nhưng thế giới cộng sản là thế giới của lừa đão, những công ty tư vấn lường gạt dân nghèo với những viễn cảnh tốt đẹp để vơ vét lệ phí đủ loại, đưa người ra nước ngoài rồi phủi tay, hành xử theo lối đem con bỏ chợ. Những người đi lao động ở Nga, ở Trung Đông bị áp bức, làm việc trong những điều kiện tồi tệ, không được trả lương theo như hợp đồng, hay bị hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn, bơ vơ nơi xứ người không biết liên lạc với ai. Một lời thán oán trong muôn một của một người lao động xuất khẩu tại nước Nga: «Ba tháng không có lương, đấu tranh thì bị chủ dọa đuổi, gọi điện thoại về hỏi công ty xuất khẩu thì được bảo: chờ hết suy thoái chủ sẽ trả lương, muốn bỏ về thì tự túc mua vé mà về… »

Viện Nghiên Cứu Phát Triển Xã Hội Việt Nam hợp tác với trường đại học Western Ontario (Canada) đã thực hiện một cuộc khảo sát về người lao động xuất khẩu VN tại 4 quốc gia ở Châu Á (Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai) trong giai đoạn 2000-2009 đã công bố kết quả ngày 15 tháng 3 năm 2010 như sau: «… chỉ có 33% người XKLĐ trả hết nợ trước khi về nước, trung bình muốn trả hết nợ vay mượn phải làm việc 18 tháng, 36% người bị tổn thương sức khỏe và tâm lý vì môi trường và điều kiện làm việc, 26% người không được trả lương như mong đợi và 8% bị hành hạ về mặt thể chất. Nhiều người bị hủy giao kèo hay không chịu nổi sự bốc lột phải trở về nước, gánh thêm nợ nần. Một tỷ lệ quan trọng không thấy có sự cải thiện về mặt kinh tế sau khi đi XKLĐ, thậm chí tình trạng còn tồi tệ hơn: 40,1% hài lòng vì số thu nhập tăng lên, 51,1% không thấy có sự thay đổi tích cực nào, 8,8% bị mắc nợ nhiều hơn….» (Đi xuất khẩu lao động để mưu sinh. baomoi.com, ngày 15/5/2010).

Chánh sách xuất khẩu lao động của chánh phủ cộng sản phơi bày bản chất vô nhân đạo và vô trách nhiệm. Những công ty môi giới là những công ty quốc doanh hay phe nhóm của cấp lãnh đạo đã lợi dụng sự nghèo đói của người dân, nhẩn tâm bốc lột người nghèo rồi vô trách nhiệm đưa đám người nầy ra nước ngoài phải tự phấn đấu với bao nhiêu cam go không chuẩn bị. Chánh sách tham nhũng bất lương nầy không giải quyết trọn vẹn được nạn thất nghiệp và nghèo đói triền miên trong nước mà còn lại tạo nên một hiểm họa ở ngoài nước bằng cách xuất cảng một khối người Việt sống bất hợp pháp và phạm pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới.

- Người xuất khẩu lao động bất hợp pháp

Đa số người XKLĐ là nông dân, công nhân ít học, vì nghèo đói phải đi lao động nước ngoài hi vọng sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không am tường ngôn ngữ xứ người, không thích nghi với điều kiện sống và làm việc, không biết thông tin khi gặp bất công, bất trắc, người XKLĐ quả thực làm cuộc phiêu lưu lớn khi đặt niềm tin vào các công ty môi giới mà đa số chỉ là nhóm người bất lương được nhà nước bao che. Ngoài ra, nếu đa số người XKLĐ là nạn nhân của các công ty từ trong nước đến ngoài nước, nhưng trong nhiều trường hợp, chính họ cũng lại là tác nhân của những khốn khổ của họ. Chỉ đan kể một số trường hợp phổ quát: không tuân hành luật lệ xứ người, không tuân hành hợp đồng, tác phong bất xứng (gây gổ, trộm cắp). Tại Hàn Quốc, theo tin tức của chính Bộ Lao Động, 32% người XKLĐ Việt Nam đòi đổi nghề khi đến Đại Hàn, 8,750 người ở lại bất hợp pháp sau khi hết hợp đồng (trên 60,000 XKLĐ), có người bỏ trốn ngay khi vừa đến phi trường, đến nổi Hàn Quốc phải ngưng không nhận XKLĐ Việt Nam. (các bản tin tháng 8, 2011).

Tại Mã Lai, chính phủ phải ân xá cho 13,000 người Việt XKLĐ ở lậu, tại Arabie Séoudite, tài xế XKLĐ đình công viện lẽ thời tiết quá nóng đến 45 độ mà xe vận tải không có máy điều hòa không khí (trước khi đi, họ đã biết sẽ làm việc trong vùng khí hậu sa mạc và xe vận tải ở VN có chiếc nào có máy điều hòa không khí?).

Tại Moscou, cảnh sát Nga dẹp các xưởng may «chui», bắt giữ 500 người Việt XKLĐ ở lại bất hợp pháp thì họ quay lại tố cáo chủ nhân bắt họ làm việc như người nô lệ. Thì ra, người XKLĐ Việt Nam cũng mưu chước không kém gì những công ty môi giới và công ty mướn người lao động. Một thống kê của Bộ Lao Động, Thương-Binh Xã hội ước lượng có khoảng 50,000 người XKLĐ bất hợp pháp trên thế giới, nhiều nhất tại Á Châu và các quốc gia Đông Âu.
Ngoài những người XKLĐ ở lại bất hợp pháp, nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối diện với tình trạng người Việt định cư bất hợp pháp, do nhập cư lậu và người đi với visa du lịch rồi ở lại sau khi hết hạn, tổ chức các hoạt động phạm pháp như trồng cần sa, mãi dâm, tập hợp thành băng đảng chém giết nhau, gây rối loạn trật tự công cộng.

Số người di cư nầy được các tổ chức mafia VN đưa bằng đường bộ đến Nga, phần lớn qua ngả Trung Quốc. Một số ở lại Nga sống bằng nghề buôn bán lẻ ở các chợ trời, may quần áo hay các nghề lao động linh tinh.

Tháng 6/2009, chính phủ Nga đóng cửa chợ Vòm (Cherkizovsky), nơi có 6,000 thương buôn người Việt tập trung các hàng lậu thuế từ Trung Quốc.

Ngoài nước Nga, tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức (cũ), mỗi nơi hàng có chục ngàn người Việt sống ngoài vòng pháp luật, gồm những người XKLĐ không về nước và những người nhập cảnh lậu. Dariusz Loranty, cảnh sát trưởng ở Warsaw đã nói với Ulricht Adrian, ký giả của đài truyền hình Đức ARD như sau: «… Dân VN không bao giờ chết, chưa hề thấy đám tang người Việt. Một ngày kia, chúng tôi thấy một xác người Việt bị mafia thủ tiêu quăng trong ven rừng ở Warsaw. Một người Việt nào đó mới đến bất hợp pháp sẽ mang tên người chết mà không ai kiểm soát được. Với chúng tôi, người Việt Nam nào cũng giống nhau không phân biệt được. Bọn mafia còn giết người đồng hương thiếu nợ lấy các bộ phận đem bán… » (Ulricht Adrian. Wo Warschau vietnamesisch ist- DCV online dịch).

Món nợ mà ông cảnh sát trưởng Warsaw nói là món nợ từ 10,000 đến 15,000 mỹ kim mà người di cư lậu phải mượn của bọn mafia VN trước khi lên đường, một món nợ quá lớn phải trả suốt đời. Cách trả nợ nhanh nhứt là tham gia vào các tổ chức trồng cần sa, buôn ma túy.

Ba Lan hiện nay là trung tâm sản xuất cần sa lớn nhất ở Đông Âu mà các người cầm đầu đường dây đa số là người Việt.

Để tránh sự cạnh tranh, một số di dân lậu được tổ chức đưa qua Đức, Pháp và điểm đến sau cùng là Vương Quốc Anh, bởi tại đó luật pháp liên quan đến ma túy có phần nhẹ hơn các nơi khác. Muốn đến Anh, những người nầy tập trung ở miền Bắc nước Pháp, trốn trong rừng Téteghem, Grande Synthe, từ đó họ chờ đến đêm để «nhảy bãi» qua cảng Pas de Calais để sang Anh. Có khi họ phải chờ hàng tuần, hàng tháng trong những khu rừng lạnh lẽo nầy. Họ vứt bỏ tất cả giấy tờ, hình ảnh để khi cảnh sát bắt họ không biết lý lịch, xuất xứ của họ, do đó người Anh gọi họ là «người rơm». Những người rơm nầy đang hoành hành Vương Quốc Anh. Nick Thorpe, phóng viên đài BBC trong bài EU’s biggest crackdown on Vietnamese illegal migrants ngày 26/6/2010 đã viết : «… người Việt định cư hợp pháp ở Anh khoảng 30,000, nhưng số người bất hợp pháp lên đến 35,000».

Ông Lâm Hoàng Mạnh, một người Việt ở Anh đã viết một bài dài về người rơm đăng trong Talawas blog ngày 3/10/2010 có những đoạn như sau: «… Ngày 18/8/2010, tờ Metro London đăng tin theo báo cáo, năm 2009 cảnh sát đã bắt được 6,866 vụ trồng cần sa, tăng 30% so với năm 2008 là 4,951 vụ. Như vậy, chỉ trong 2 năm 2008-2009, số trại trồng cỏ bị phát hiện 12,000 vụ do người Việt điều khiển, có nghĩa trung bình mỗi tuần cảnh sát bắt gần 140 vụ, mỗi ngày 20 vụ trồng cần sa. Chưa kể những trang trại chưa bị phát hiện, con số trang trại cần sa của người Việt tại Anh phải hàng vạn… Hầu như báo chí tuần nào cũng đăng tin người Việt bị bắt vì trồng cần sa và nhập cảnh bất hợp pháp. Lang thang khu Hackney, Woolwich, Southward, Lewisham, Brixton… gặp rất nhiều người Việt rơm, họ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, công khai nói chuyện trồng cỏ bằng tiếng (Việt) lóng…

Hàng năm, số tiền thu được do việc trồng cần sa của các băng đảng người Việt ở Anh lên tới hàng triệu bảng Anh đã được rửa bằng còn đường chánh ngạch cũng như tiểu ngạch để đầu tư vào bất động sản và khu công nghiệp ở VN. Những đồng tiền kiều hối nầy đã giúp chính phủ VN tăng trưởng GDP hàng năm. Thập niên 1990, từ vài trăm triệu, đến năm 2008, kiều hối đã tăng lên 8 tỷ. Kiều hối gửi về ngoài đồng tiền sạch (xuất khẩu lao động, trợ giúp thân nhân) còn có rất nhiều tiền bẩn do người rơm rửa tiền. Chúng ta thử làm phép tính cộng trừ nhân chia sẽ rõ: 8 tỷ mỹ kim do chính phủ VN công bố chia đều cho 3 triệu người VN hải ngoại, từ trẻ sơ sinh đến người già gần đất xa trời, bình quân mỗi người Việt gửi về VN gần 3,000 mỹ kim. Tiền ở đâu ra mà Việt kiều gửi về cho thân nhân tiêu xài mỗi năm 3,000 mỹ kim tức 60 triệu đồng VN nếu trong đó không có tiền bẩn khổng lồ của những kẻ tội phạm… »

Người rơm không phải chỉ có ở Anh mà tràn lan khắp nơi có cộng đồng người Việt. Tại Ba Lan, tên lóng là người xù, tại Đức là người đầu đen, tại Canada, Úc là người trồng cỏ. Michael L. Gray, ký giả người Canadien, cư ngụ ở Ottawa, có viết một bài khảo sát khá chi tiết về kỹ nghệ trồng cỏ ở Anh và Canada tựa là The Canadian connection: Why do Vietnamese grow so much dope? (www.michaelgray.ca).

Sau đây là phỏng dịch vài đoạn chính yếu: «… Có khoảng 75% ngưởi trồng cần sa ở Anh là người VN, và hầu hết họ là những người nhập cư gần đây. Rất nhiều công nhân chăm sóc cây nầy là thiếu niên do những băng nhóm buôn thuốc phiện đưa đến từ VN. Thiếu niên là đối tượng dễ dàng quản lý vì tiên công rẻ mạt, thêm vào đó chúng không bị xét xử với các tội hình sự theo luật khi bị bắt, ít lâu sau chúng tiếp tục làm trở lại và chúng không thể bị trục xuất về VN, vì theo đạo luật năm 2004 cấm trục xuất thiếu niên. Lợi nhuận thật khủng khiếp. Một ngôi nhà trồng cây nầy có thể kiếm được nửa triệu mỹ kim một năm. Lý do của sự phát triển trồng cần sa vì sự thay đổi đạo luật năm 2004, đưa cần sa từ hạng B xuống hạng C, có nghĩa là người phạm pháp sẽ không bị tội hình sự nếu trồng một số lượng nhỏ. Đó là lý do khiến các ngôi nhà VN biến thành nông trại cần sa.

Bây giờ, tôi tiếp tục đi đến thành phố tươi đẹp Vancouver ở bờ biển phía Tây của đất nước tôi. Từ giữa thập niên 1990, người VN hầu như làm bá chủ kỹ nghệ trồng cần sa ở Vancouver và các vùng lân cận ở tỉnh British Columbia. Đây không phải là một thành tích nhỏ, bởi việc sản xuất marijuana đại qui mô trước đó được thống lãnh bởi nhóm Hells Angels Motocycle Club, khét tiếng với việc sử dụng bạo lực để chống lại đối thủ. Tại sao các băng đảng VN lại thống trị nhanh như vậy? Để trả lời câu hỏi nầy, tôi nghĩ cần xét qua lịch sử lập cư của người Việt ở Canada. Trong những năm sau 1975, Canada cũng như nhiều quốc gia Tây Phương khác tiếp nhận hàng chục ngàn người Việt đến từ miền Nam, phần lớn là giới có học, có nghề tốt. Họ cư trú tại các đô thị lớn như Montréal, Toronto, Ottawa hay những đô thị nhỏ hơn như Edmonton, Vancouver. Nói chung, thế hệ những người nhập cư đầu tiên nầy sống rất tốt ở Canada … Vancouver là cái đích của những người tị nạn từ trại Hồng Kông, ra đi từ miền Bắc VN. Trại tị nạn Hồng Kông là một nơi khủng khiếp, cai quản bởi các băng nhóm bạo lực và khi đến Vancouver, những người nhập cư mới nầy không nghề, không học thức phải làm việc cho các băng đảng. Sống trong nền kinh tế tập trung những năm 1980 ở VN, nơi mà mọi người đều vi phạm luật pháp để sinh tồn, và những điều kiện sống khắc nghiệt ở trại tị nạn Hồng Kong đã khiến những người Việt mới nhập cư nầy có tính liều lĩnh, gan dạ, quyết tâm thành công với mọi giá. Chỉ trong vài năm, những băng nhóm VN đã đuổi nhóm Hells Angels ra khỏi Vancouver, khiến cảnh sát Vancouver phải gọi các băng đảng VN là những tội phạm gan lỳ nhất từ trước đến nay ở Canada (the most tenacious, extraordinarily focused criminals ever introduced in Canada).

Một báo cáo của cơ quan chống ma túy Mỹ năm 2000 cho biết năm 1998 có 2,351 vụ trồng cần sa bị khám phá ở British Columbia, một năm sau tăng lên đến 30%, tức 3,279 vụ và năm 1998 có 2,600 kg cần sa nhập vào Mỹ qua ngả British Columbia bị bắt. Marijuana biến chế ở British Columbia có phẩm chất cao, «BC Bud» là loại cần sa hảo hạng mà người Mỹ ưa thích nhất. Các «hạt giống làm vườn», sách dạy trồng cần sa cho cả nước cũng phát xuất từ đây. Và việc trồng cần sa lần lần phát triển khắp Canada. Những đánh giá gần đây cho biết trị giá thương mại của cần sa ở British Columbia khoảng 6,5 tỷ mỹ kim, đứng hạng nhì sau dầu khí… »

Người Việt trồng cần sa và buôn ma túy hiện nay ở khắp nơi trên thế giới. Ngoài Ba Lan-Hung gia Lợi ở Đông Âu, Anh ở Tây Âu, Canada ở Bắc Mỹ cỏn phải kể thêm hệ thống ở Úc – Tân Tây Lan.
Ngày 23 tháng 11 năm 2010, một cuộc bố ráp chưa từng có trong lịch sử ở tiểu bang Victoria (Úc), huy động 630 nhân viên công lực gồm cảnh sát, nhân viên quan thuế, di trú, để lục soát 68 căn nhà của người Việt rải rác trên toàn tiểu bang Victoria, đặc biệt chung quanh thành phố Melbourne để khám phá được 8,000 cây cần sa đang chờ thu hoạch, một số lượng lớn bạch phiến và 22 triệu Úc kim tiền mặt. Theo các cơ quan truyền thông và cảnh sát Úc, đây là những tổ chức tội phạm có liên hệ chặt chẻ với VN. Số tiền buôn lậu cần sa, bạch phiến chuyển về VN mỗi năm khoảng 400 triệu Úc kim. Chẳng những họ hoạt động ở Úc mà còn ở Tân Tây Lan. Đa số những tội phạm đến Úc bất hợp pháp đến từ Hải Phòng bằng các visas giả do nhà nước VN cung cấp dưới dạng du học hay du lịch.

3. Phụ nữ kết hôn với chồng «ngoại»

Chuyện hôn nhân dị chủng trên thế giới hôm nay là chuyện bình thường, do đó khi nói đến hiện tượng lấy chồng «ngoại» trong bối cảnh Việt Nam phải hiểu là chuyện mua bán phụ nữ Việt Nam để làm vợ người Trung Quốc và Hàn Quốc. Theo thống kê của Bộ Tư Pháp, từ năm 1995 đến năm 2010, VN có hơn 250,000 nguời VN kết hôn với người nước ngoài trong đó có khoảng 100,000 người kết hôn với người Đài Loan, 30,000 với người Trung Quốc và 40,000 với người Hàn Quốc.

Phụ nữ kết hôn với nguời «ngoại» phần lớn là những người nghèo, trình độ văn hóa thấp, 79% cư ngụ ở TP Hồ chí Minh và 13 tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Hãy nhìn những cô gái trẻ thơ, cởi hết quần áo đứng thành hàng dài để người Đài Loan, người Hàn Quốc chọn lựa. Tờ Trung hoa Thời Báo ở Đài Loan công khai đăng quảng cáo như thời buôn bán nô lệ: Cô dâu VN, giá bán 18 vạn Đài tệ. Bảo đảm là gái trinh, nếu không trả tiền lại. Tại Hàn Quốc, các công ty môi giới rao hàng: Người chưa vợ, góa vợ hoặc khuyết tật đều có thể tìm cô dâu Việt. Tại Singapore, 3 cô gái VN được trưng bày trong trung tâm thương mại Golden Mile Complex làm cho Hội Phụ Nữ Singapore xúc động và bất bình. Đó là vài bản tin trong hàng trăm bản tin khi mở đọc trên Internet. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội đã xác nhận: «Phong trào phụ nữ VN lấy chồng nước ngoài vì mục đích kinh tế, nhất là những cuộc hôn nhân qua môi giới bất hợp pháp thường dẫn đến đổ vỡ, có tác động rất lớn đến xã hội. Nhiều người nước ngoài cấu kết với một số cò mồi, môi giới VN hình thành những đường dây buôn bán người xuyên quốc gia. Nhiều cô gái đã vở mộng vì lấy phải người chồng nghèo khó hoặc bị môi giới lừa đảo, bị bốc lột sức lao động, bị lạm dụng tình dục, bị hành hạ đánh đập, thậm chí dẩn đến cái chết ở xứ người… »

Báo Tuổi Trẻ online ngày 22/2/2010 đưới nhan đề: Nhiều phụ nữ bị bán sang Trung Quốc, kể rõ cả số thông kê của chính phủ: «Trong nước có 255 địa bàn trọng điểm, 89 tuyến trọng điểm về buôn bán phụ nữ và trẻ em. Tình trạng buôn bán phụ nữ diễn ra trên đường bộ, đường thủy và đường hàng không, trong đó buôn bán phụ nữ sang Trung Quốc chiếm khoảng 65%. Các nạn nhân thường bị bán với mục đích làm gái mãi dâm, lấy chồng hoặc bốc lột lao động… »

Trong bản Báo cáo Tệ nạn buôn người năm 2010 ở Việt Nam (Trafficking in persons Report 2010-Vietnam) do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thực hiện trong khuôn khổ của Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc đã có những nhận định và chỉ trích nghiêm khắc đối với chính phủ VN về việc bảo vệ người lao động xuất khẩu và phụ nữ.

Sau đây là một trong những đoạn chính yếu: «VN là một quốc gia có nhiều người đi làm việc ở nước ngoài do các công ty tuyển dụng trực thuộc nhà nước và tư nhân để gởi người đi làm việc ở Mã Lai, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhựt Bổn, Thái Lan, Indonésia, Anh, Serbie, Nga và Trung Đông. Các công ty xuất khẩu lao động đòi hỏi những lệ phí vượt quá qui định, nhiều khi dến 10,000 mỹ kim khiến công nhân mắc nợ cao nhất trong số các người Á châu đi lao động nước ngoài. Các công ty luờng gạt công nhân xuất khẩu bằng cách chỉ cho công nhân xem hợp đồng trước khi lên phi cơ hoặc cho công nhân ký tên trên các hợp đồng viết bằng ngoại ngữ mà công nhân không hiểu. Khi đến các quốc gia tuyển dụng, công nhân bị cưỡng bức làm việc với các điều kiện và lương bỗng không như hợp đồng, bị đánh đập hành hạ. Các phụ nữ đi lao động hay đi lấy chồng được đưa tới Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Macao bị cưỡng bức lao động, hay mãi dâm hay cả hai. Các trẻ em bị bán cho các nhả thổ qua ngã biên giới Cambốt, Lào, Trung Quốc … Mặc dù chính phủ thúc đẩy gia tăng xuất khẩu lao động để giải quyết nạn thất nghiệp, giảm nghèo, thu ngoại tệ, nhưng chính phủ không có biện pháp tích cực nào để trừng phạt những công ty xuất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi của người XKLĐ. Chánh phủ cũng công nhận có tệ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em nhưng không có biện pháp hình sự nghiêm khắc nào đối với các người phạm pháp các đường dây buôn người. Trong những nhận định trên, VN được xếp vào danh sách Theo dõi loại 2 (Watch 2).

Chú thích: loại 1: tôn trọng các luật lệ; loại 2: luật lệ lỏng lẻo, loại 3: tuyệt đối không tôn trọng. (dịch từ: Trafficking in persons report 2010 – Vietnam / US States Deparment ( www.unhcr.org).

Thay lời kết

Những tệ trạng xấu xa của VN trong nước và ngoài nước không sao nói hết. Trang giấy có hạn, chúng tôi phải dừng lại để nhờ đến lời nói của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt thay cho lời kết. Trong một buổi nói chuyện với Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội ngày 20 tháng 9 năm 2008, Đức Tổng Giám Mục đã phát biểu: «Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm, chúng tôi muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như người Nhật cầm cái hộ chiếu là đi qua mọi nơi, không ai xem xét gì, người Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Chúng tôi mong đất nước mình được thực sự tốt đẹp để đi đâu chúng ta cũng được nể trọng… ». Ước vọng của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng là ước vọng của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt tị nạn, mong sao cho cái chế độ mafia đã đưa đất nước đến chỗ tụt hậu, nghèo khổ, xã hội vô đạo, vô cảm sớm cáo chung.

Lâm Văn Bé


Sunday, November 13, 2011

Con ông cháu cha - wikileaks.org

Viewing cable 06HOCHIMINHCITY1492, ALL HIS (PRIME MINISTER DZUNG'S) CHILDREN

VZCZCXRO4217
RR RUEHHM DE RUEHHM #1492/01 3600936
ZNY SSSSS ZZH R 260936Z
DEC 06
FM AMCONSUL HO CHI MINH CITY
TO RUEHC/SECSTATE WASHDC 1922
INFO RUEHHI/AMEMBASSY HANOI 1408
RUCNARF/ASEAN REGIONAL FORUM COLLECTIVE
RHEHNSC/WHITE HOUSE NATIONAL SECURITY COUNCIL WASHINGTON DC RUEHHM/AMCONSUL HO CHI MINH CITY 2081

S E C R E T SECTION 01 OF 02 HO CHI MINH CITY 001492
SIPDIS
C O R R E C T E D C O P Y (MISSING TEXT)
NOFORN SIPDIS
E.O. 12958: DECL: 12/25/2016
TAGS: PINR ECON EFIN PGOV PREL VM
SUBJECT: ALL HIS (PRIME MINISTER DZUNG'S) CHILDREN
REF:
    A. SILBERSTEIN - INR/B EMAILS OF DECEMBER 16 AND

    ¶ B. PREVIOUS; B) HCMC 1404
HO CHI MIN 00001492 001.3 OF 002
Classified By: Consul General Seth Winnick for reasons 1.5 b/d.

¶ 1. (S/NF) Summary and Introduction: ConGen has been seeking additional information on the biographies of the three children of Prime Minister Nguyen Tan Dzung. We understand that Dzung, in his meeting with the President during the APEC Leaders' Summit, sought to deflect or downplay the ties of his children to the United States. Per ref B, according to a well-placed HCMC contact, Prime Minister Dzung was caught off guard by President Bush's query to him about the educational and other links of his adult children to the United States. Biodata and information on the activities of the families of high-ranking officials is considered very sensitive in Vietnam. The following information on the three children of Nguyen Tan Dzung was gleaned from conversations with a number of our HCMC contacts as well as with Nguyen Thanh Phuong, Dzung's daughter, who came into the Consulate for a visa interview on December 19. End Summary and Introduction.


All His Children



----------------

¶ 2. (S/NF) Prime Minister Nguyen Tan Dzung has three children: eldest son Nguyen Thanh Nghi, born in 1977, daughter Nguyen Thanh Phuong, born March 20, 1980, and second son Nguyen Minh Triet, born in 1990. HCMC contacts say that Nghi received his PhD in structural engineering from George Washington University. He has since returned to and is teaching at the Construction Faculty of the HCMC University of Architecture, where he also received his BA.

¶ 3. (S/NF) Nghi met his wife -- a Vietnamese national from Hanoi (NFI) -- while studying at GW. They were married after their return from the United States. Some HCMC contacts report that Nghi is likely to receive a position in one of the government's state-owned construction corporations in HCMC. Nghi is also connected to a growing private Vietnamese construction company, Bitexco, which is building a number of high-rise buildings in Hanoi and HCMC. Bitexco also has interests in bottled water, textiles and hydropower. According to one HCMC contact, in 2001 and 2002 Nghi was a "public relations manager" and "project manager" for Bitexco.

¶ 4. (S/NF) Nguyen Thanh Phuong was born in Kien Giang province in the Mekong Delta -- PM Dzung's home province. She currently resides in downtown HCMC. Phuong went to primary and secondary school in Kien Giang until transferring to the prestigious Marie Curie High School in HCMC in 1995. She then went to the National Economics University in Hanoi, and graduated with a BA in finance in

¶ 2001. From 2002 to 2004, she worked towards her MBA at the International University in Geneva, in a program affiliated with Michigan State University. Phuong's only travel to the United States was for two weeks in late 2004 to receive her diploma from MSU.

¶ 5. (S/NF) Phuong began working part-time while in Hanoi. She worked in the Stock Trading Department of Bao Viet Securities Company -- an arm of the state-owned insurance corporation -- from January to August 2000. She then worked for the State Securities Commission from October 2000 to August 2001. After she returned to Vietnam from Switzerland, she joined the Swiss cement producer, Holcim, in HCMC as Deputy Finance Director. In January 2006, Phuong left Holcim to become Investment Director of Vietnam Holding Asset Mangement in HCMC, a USD 112 million Swiss- linked investment fund. In November 2006, she became Chairperson of the Viet Capital Fund Management (VCFM) joint stock company. In early 2007, Phuong plans to travel to the U.S. to pitch the VCFM to major New York investment banks.

¶ 6. (C) VCFM was founded in August 2006 with a chartered capital of VND 8 billion (USD 50 million) as an operational arm of the Viet Capital Fund to manage companies controlled by the fund. The Viet Capital Fund was established by wealthy Vietnamese entrepreneurs, largely based in HCMC. It runs two portfolios, a domestic Vietnamese fund and an off-shore fund. Its chairman is Huynh Van Thien, the CEO and founder of Vietnam Lubricants and Chemicals joint stock corporation (VILUBE) and owner of Capital Land, a real estate development company. HO CHI MIN 00001492 002.3 OF 002

¶ 7. (S/NF) Our conversation with Phuong supported reporting from another HCMC source that she is dating a Vietnamese American who also works in Vietnam's growing financial sector. Phuong confirmed that her younger brother Triet is in high school in England and plans to study media at the university level there.

¶ 8. (S/NF) Comment: Phuong is the spitting image of her father, and also appears to be the most dynamic and accomplished of the Prime Minister's three children. In her conversation with us she was open, inquisitive and engaging. There is no doubt that she is talented. However, her rapid advance, and the many doors that opened for her and her two brothers are indicative of how the Vietnamese political elite ensures that their progeny are well placed educationally, politically and economically. What is different about Phuong's story is that, unlike other offspring of senior Party members who obtain sinecures in state-owned corporations, Phuong's career path focused on the private sector. Clearly it makes good political sense to hire the Prime Minister's daughter to manage an investment fund, especially if that fund is seeking to focus on investment in government-controlled sectors such as oil and gas, banking and information technology. End Comment.

WINNICK


Saturday, November 12, 2011

Paris xé cờ máu cộng sản Việt Nam trong chợ Casino Massena Quận 13


Siêu thị Géant Casino ngay trong quân 13 Paris đang buôn bán sản phẩm Việt Nam

Vidéo xé cờ do Đại tá Đỗ Việt, anh Nguyễn Văn Đông cho lên youtube