Saturday, April 17, 2010

Cần bao nhiêu bài học nữa cho "Khúc Ruột Thừa" ? - Nguyễn Thùy Dung



CẦN BAO NHIÊU BÀI HỌC NỮA CHO NHỮNG KẺ “NGU KHỜ”?
LÀM GÌ ĐỂ CHẤM DỨT NỖI ÁM ẢNH CỘNG SẢN KINH HOÀNG ?

Nguyễn Thùy Dung

Câu hỏi được đặt ra là cần bao nhiêu bài học nữa cho những người “thơ ngây” được bè lũ mafia súc sanh trị Ba Đình gọi là “Khúc ruột thân thương ngàn dặm mà cũng là khúc ruột thừa cần cắt bỏ” ???

“Khúc ruột thân thương ngàn dặm” khi Việt gian cộng sản còn có thể triệt để lợi dụng được, và sẽ lập tức biến thành “khúc ruột thừa cần cắt bỏ” khi chanh đã hết nước, vỏ đã hết xài, cần ném vào thùng rác hay “đem cho chó nhai.”

Đối với cộng đồng GỐC VIỆT hải ngoại và trong nước, thì thứ “khúc ruột thừa” hôi hám thối tha nầy luôn luôn cần “đào sâu, rắc vôi bột, chôn kỹ” cho tuyệt nòi giống “ruột thừa thối tha.”

Trong số hơn ba triệu người Việt hải ngoại, trải ra trên 80 quốc gia, chúng ta tạm phân tích sơ lược 4 thành phần như sau:

1. Tuyệt đại đa số là thành phần TỴ NẠN CỘNG SẢN, ghê tởm chế độ tàn bạo SÚC-SANH-TRỊ của bọn Việt gian cộng sản Hán nô mà đành TẠM THỜI rời bỏ quê hương yêu qúy, chấp nhận hy sinh cả tính mạng, bung ra khắp bốn phương trời, nhưng lúc nào lòng cũng hướng về quê Mẹ, mắt lúc nào cũng đau đáu nhìn về Việt Nam, thương cho hơn 80 triệu đồng bào đang sống quằn quại trong vũng lầy cộng sản hôi tanh với bao thảm cảnh, thảm nạn chồng chất từng ngày, đất nước ngàn đời yêu qúy do tổ tiên, cha ông gầy dựng và gìn giữ với biết bao xương trắng máu đào và nước mắt, nay đang bị nuốt dần từng mảng, từng ngày bởi bọn Hán cộng tàn ác do bè lũ Việt gian Hán nô dâng cúng, lũ Việt gian Hán nô phát sinh và nảy nở bắt đầu từ tên qủy vương Hán nô, đại tội đồ dân tộc Nguyễn Sinh Cung dưới cái tên ăn cắp Hồ Chí Minh đem chủ thuyết tàn ác Mác-Lênin về gieo trồng trên quê hương khốn khổ.

2. Một số khác, khoảng nửa triệu người, phần đông là từ vĩ tuyến 17 trở ra miền Bắc, cũng tìm cách trốn chạy cộng sản bằng đủ mọi phương cách khác với phương cách TỴ NẠN CỘNG SẢN, như “xuất khẩu lao nô”, lấy vợ, lấy chồng, du sinh, nghiên cứu sinh , v.v… qua các nước Đông Âu và Nga sinh sống và không muốn quay về. Vài trăm ngàn người, phần đông từ dưới vĩ tuyến 17 vào Miền Nam đến tận mũi đất cuối cùng của quê hương: Cà Mâu, đã tìm qua các nước Á châu: làm dâu Đại Hàn, Đài Loan, Nhật, Thái Lan, Singapore, Philippines, Indosenia, Malaysia, Cambodia và ngay cả Trung cộng qua hiện tượng buôn người, buôn thân xác phụ nữ, trẻ em. Họ rời bỏ chốn địa ngục trên quê hương để bước vào những địa ngục trần gian khác, tàn bạo không kém. Một số khác nữa, xuất khẩu lao nô” đi “ở đợ” (làm đầy tớ, Việt cộng gọi là “Ôsin”) bên các xứ Trung Đông: Iran, Irac, Libanon, Saudi Arabies, v.v…

Những người nầy vẫn còn là thân phận “Việt kiều”: mang quốc tịch Việt cộng, xử dụng thông hành CHXHCNVN (Chẳng Hề Xấu Hổ Chút Nào Vì Ngu,) do Việt cộng cấp, vẫn còn là công dân của cái gọi là CHXHCNVN, sinh sống ở nước ngoài (Nga, Đông Âu và Á châu,) vẫn bị khống chế bởi NHỮNG “Ổ CHUỘT CHÙ” NGOẠI GIAO VIỆT GIAN CỘNG SẢN có tên gọi là “Tòa Đại sứ” hay “Tòa Tổng lãnh sự Việt cộng”.

Vì thế, họ đành im lặng, chỉ lo cho đời sống cá nhân và gia đình, hoàn toàn không dám vọng động một phần bởi tâm thức sợ hãi chế độ gian manh Việt gian cộng sản còn đeo đẳng, phần khác, vì bị nhồi sọ và tiêm nhiểm quá lâu chủ thuyết vô luân cộng sản, không biết gì về lịch sử hào hùng của dân tộc và hoàn toàn không có một chút ý thức gì về quê hương, dân tộc, đất nước (tất nhiên trừ một số biệt lệ.) Đây đích thị là những VIỆT KIỀU (những người mang quốc tịch Việt cộng và Thông hành do Việt cộng cấp,) theo đúng nghĩa đen của danh từ nầy.

Ở đây xin mở dấu ngoặc để nói về danh từ “Việt kiều”: Việt cộng gọi cộng đồng gốc Việt TỰ DO – TỴ NẠN CỘNG SẢN là “Việt kiều” là theo chính sách cô hữu, mập mờ đánh lận con đen, gian manh, bịp bợm, và ngay cả do bản chất ngu dốt của loài quái vật cộng sản (không hiểu danh từ hán-việt “Việt kiều”) theo đó, “Việt” là người VẪN CÒN MANG quốc tịch Việt cộng, công dân Việt cộng, mang thông hành Việt cộng, “kiều” là người nước này TẠM NGỤ CƯ ở một nước khác vì một lý do nào đó, như nhân viên của chế độ trong các cơ cở ngoại giao - ổ chuột chù ngoại giao Việt cộng,- du sinh, thương gia Việt cộng đi giao dịch thương mại trong một thời gian 5, 7 tháng, v.v…

Tóm tắt, bất kỳ người Việt nào CÒN MANG QUỐC TỊCH VIỆT CỘNG, MANG THÔNG HÀNH VIỆT CỘNG, TẠM THỜI NGỤ CƯ Ở NƯỚC KHÁC (ngoài Việt Nam), gọi là NGOẠI TRÚ NHÂN thì mới gọi là Việt kiều. Còn những người GỐC VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN, lúc ở trại tỵ nạn đã khai là “stateless” (vô quốc tịch,) lúc nhập cư vào quốc gia tỵ nạn trở thành “thường trú nhân” của xứ đó (khác với đám Việt kiều nói trên là ngoại trú nhân là công dân Việt cộng tạm ngụ cư).

Sau một thời gian ”làm thường trú nhân” 3 năm (ở Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi – Canada, Australia,) hay 5 năm (Mỹ,) thì được xin nhập tịch trở thành công dân chính thức của quốc gia tỵ nạn, họ là công dân tại quốc gia tỵ nạn có gốc gác VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN, thí dụ Công dân Mỹ GỐC VIỆT, công dân Canada GỐC VIỆT, công dân Úc GỐC VIỆT, v.v… (US citizen Vietnam origin, Candian citizen Vietnam origin, Australian citizen Vietnam origin, etc...), chứ không bao giờ họ là Việt kiều như Việt cộng vẫn gọi một cách ù lì, đần độn, ngu dốt, trơ trẽn, lưu manh và mập mờ, vì Việt cộng hay chế độ Việt gian cộng sản cũng chỉ gồm toàn những CON VẬT MANG MẶT NẠ DA NGƯỜI, chứ chúng không phải là người nên chúng không phân biệt được tiếng người hay ý nghĩa chữ viết của loài người nên không hiểu hay chỉ hiểu một cách lờ mờ, u mê, đần độn cộng với bản chất lưu manh bịp bợm muôn thưở, cố tình mập mờ một cách trơ tráo.

Một số người, ngay cả những người gọi là trí thức, nhà báo không để ý hay thành phần trẻ không hiểu tiếng hán-việt, vẫn lặp lại những từ ngữ Việt cộng thường dùng trong đó có danh từ “Việt kiều” khi nói về cộng đồng người tỵ nạn cộng sản gốc Việt. Việt cộng là loài dã thú không hiểu tiếng người, không đáng trách – Đáng trách chăng là chính chúng ta vì chúng ta lặp lại theo chúng trên các phương tiện truyền thông của ta. Vì vậy, chúng ta nên hết sức quan tâm TRÁNH XỬ DỤNG hay LẶP ĐI LẶP LẠI những từ ngữ sai lầm của Việt cộng ! Xin đóng ngoặc ở đây.

3. Một số nhỏ trong số người nầy là các tên sai nha của chế độ Việt cộng trong các ổ chuột chù ngoại giao, một số cán bộ tình báo Việt gian cộng sản nằm vùng, được lệnh ra ngoại quốc, tìm đến những nơi nào có đông đảo đồng bào TNCS, bọn chúng im hơi lặng tiếng, chờ thời cơ thuận tiện tìm cách len lỏi, chui sâu trèo cao vào các tổ chức của CĐNVTN, móc nối, cấu kết với bọn Việt gian bưng bô cộng sản, để tìm cách lũng đoạn, khống chế, chia rẽ, phá hoại các tổ chức nầy hầu thi hành nghị quyết 36, giúp chế độ Việt gian cộng sản khống chế tập thể, cộng đồng Việt TNCS trên khắp thế giới, giúp chế độ phi nhân cộng sản kéo dài nền thống trị bạo tàn trên quê hương Việt Nam.

4. Ngoài ra, trong tuyệt đại đa số người được mệnh danh là cộng đồng Việt tỵ nạn cộng sản ta thấy rằng chỉ có:

- Một số nhỏ, rất nhỏ trong số những người ra đi trước ngày Miền Nam bị cộng sản Bắc Việt xâm lăng (du học, nhân viên ngoại giao VNCH, thương nhân, v.v…) ;

- Một số nhỏ khác trong những trẻ nhỏ theo cha mẹ ra đi từ lúc còn nhỏ tuổi, chưa có ý thức gì về sự tàn ác của chế độ cộng sản vô luân (như Bryan Đoàn chẳng hạn) ;

- Một số nhỏ khác nữa, ra đi theo dòng người tỵ nạn cộng sản, nhưng không có ý thức gì về chính trị, về lằn ranh Quốc-Cộng, “thấy người chạy thì mình cũng chạy” (như Đinh Viết Tứ, Lê Văn Ninh, Lê Trọng Văn, Phùng Tuệ Châu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Hữu Liêm, Phạm Duy, Nguyễn Khoa Thái Anh, Vũ Đức Vượng, Nguyễn Bắc Chung, Davis Dương, vợ chồng bác sĩ Kiều Quang Chẩn – Quỳnh Kiều, cha con, anh em nhà Lee’s Sandwichs Lê Văn Ba, Lê Văn Chiếu, Lê Văn Hướng, v.v…) ;

- Một số rất nhỏ trong dòng người ra đi sau ngày THÁNG TƯ ĐEN “chưa thuộc bài cộng sản” hay “mắc bệnh lãng trí (tuệ)”, hay một số “xướng ca vô loài” vội quên những tháng ngày khổ nạn, tù tội, dưới chế độ cộng sản bạo tàn và cũng vì tham danh háo lợi, tối mắt vì chút lợi cỏn con.

Những người nầy hoàn toàn thơ ngây, ngu khờ về bản chất vô luân cộng sản, cộng thêm vào sự ham danh háo lợi, tham lam, ngu dốt, tối mắt vì đồng tiền, không phân biệt sạch dơ. Họ sẵn sàng nhắm mắt, bịt miệng, che tai trước hiện tình đau thương của dân tộc đang xẩy ra từng ngày, từng ngày, họ sẵn sàng phù trợ chế độ cộng sản tàn ác vô luân chỉ vì một chút quyền lợi nhỏ bé, một lời khen nịnh của bè lũ dã thú gian manh cộng sản.

Số người nầy bao gồm luôn cả những kẻ gọi là khoa bảng, trí thức nhưng nghèo nàn về ý thức chính trị, “sống riêng một cõi trong tháp ngà", hoặc loại người vô cảm "sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi !” (bác sĩ, giáo sư, luật sư, nhà báo, v.v…) sẵn sàng bán rẻ lương tâm (“Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”), chạy theo cộng sản cho đến khi bị cộng sản “đá đít” vì “chanh vắt hết nước” vẫn còn chưa mở mắt,) mà ta có thể kể một vài tên (nổi tiếng) như Trịnh Vĩnh Bình, Hoàng Ngọc Tiến, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Hoan, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn An Trung, v.v… Riêng anh chàng “gốc chài lưới nông dân vùng Cà Mâu” Trần Văn Trường “Ao cá Tân Trường Khanh” thì đã … thấm thía cuộc đời.

Bác sĩ Phạm Đăng Long Cơ từng chủ trương và kêu gọi mọi người về “giúp” Việt cộng, y hý hửng làm gương trước, về mở bệnh viện kiếm ăn, đến khi bệnh viện bắt đầu có lời, bị Việt cộng gây khó dễ vì lý do “trốn thuế” (một lý do chuẩn bị cướp đoạt tài sản của y, giống lý do nại ra với Trịnh Vĩnh Bình,) y cự nự phản đối, không những cơ sở bệnh viện vẫn bị tịch thu, bản thân vợ chồng y cũng sắp sửa bị nhốt, cho ra “toà Kangaroo” để lãnh án tù, bọn y hết hồn, bỏ của, ôm đầu máu chạy trở về California, im thin thít, câm họng lại, không còn dám nho nhoe mở miệng khoe khoang hay kêu gọi ai về “đầu tư” cho Việt cộng nữa.

Tương tự, một số những người vô danh khác, sau kinh nghiệm máu Việt cộng lần thứ hai, “vào đầu tư ra đầu teo” bị Việt cộng cướp đoạt cho sạt nghiệp, cũng đành quay về “làm lại cuộc đời”, ngậm bồ hòn làm ngọt, mở miệng mắc quai, nói ra sợ “chúng chưởi đồ ngu”, đành ôm đầu máu trở về nơi tỵ nạn, không dám hé miệng.

Ngoại trừ Trịnh Vĩnh Bình còn phương tiện quật ngược lại Việt cộng một “cú đau điếng” hơn một trăm triệu đô la bồi thường tiền ăn cướp tài sản cơ sở thương mại trị giá vài triệu đô la của họ Trịnh tại Việt nam, những kẻ còn lại đang gánh chịu hậu quả “bài học cộng sản lần thứ hai” đau thương và tủi nhục trong sự khinh bĩ của mọi người như Hoàng Ngọc Tiến, Nguyễn Gia Thiều (cả hai tên này vẫn còn nằm trong nhà tù Việt cộng “mút chỉ cà tha, mút mùa lệ thủy”, “gậm một mối ngu đần trong ngục tối, ta đui mù nhìn ngày tháng dần qua !”) Ta cũng không quên thêm tên một vài kẻ “xướng ca vô loài” mất nhà tại “làng Nghệ sĩ Tân Quy Đông” trong vòng 2 tiếng đồng hồ năm 2005. Thế nhưng, vẫn còn vài con nhạn “xướng ca vô loài” là đà, mon men, “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên chưa tởn (phải chi, nếu họ hiểu được là khi họ “thấy” quan tài, thì chính họ là người nằm trong quan tài chứ chẳng có ai khác.)

Dù không có thống kê chính thức, thì số người ngây thơ ngu muội, ham danh háo lợi nầy cũng không nhiều, phải nói là rất nhỏ, hoàn toàn không đáng kể nếu so với tập thể cộng đồng gốc Việt TNCS trên toàn thế giới ; bọn họ, kể cả những người “nổi XÚ DANH” lẫn vô danh, cao tay lắm cũng chỉ chừng vài ngàn tên, chưa bằng 1/1,000 (một phần ngàn hay 0.1% không chấm một phần trăm,) tập thể Việt TNCS trên thế giới, nhưng lại là những tên cam tâm làm tôi mọi, làm lợi cho chế độ Việt gian cộng sản, gây xáo trộn, làm ô danh tập thể Việt TNCS không ít, trong đó Nguyễn Hữu Liêm là kẻ ồn ào bằng những bài báo sáo ngữ “đi qua hàng triết” rỗng tuyếch ngu xuẩn “bị chúng chưởi” nhiều nhất.

Trong số người tạm phân loại một cách sơ lược nói trên, đáng thương, đáng tội, đáng trách (và cũng đáng khinh,) là loại người thứ tư. Đáng thương vì sự ngây thơ lẫn ngu muội vì hình như trời sinh họ chỉ biểu thị một tâm hồn mãi mãi thơ ngây, NGU MUỘI, và tham danh háo lợi, bon chen, háo thắng, ganh tỵ nhỏ nhen một cách quay quắt.

Theo bản tin của đài VOA, trong số nạn nhân mới nhất do cộng sản (và cũng là nạn nhân do sự NGU MUỘI, tối mắt vì đồng tiền của chính mình,) là ba anh em nhà họ Nguyễn (gồm Nam Nguyễn, Kim Nguyễn và An Nguyễn,) chủ nhân công ty Nexus Technologies, đang phải đối diện với một bản án tổng cộng (của cả 3 anh em,) là trên dưới 100 năm tù và 27 triệu đô la tiền phạt về việc làm ăn gian dối và hối lộ Việt cộng, vi phạm đạo luật có tên Foreign Corrupt Practices Act – Luật trừng phạt tội hối lộ cho người nước ngoài – viết tắt là FCPA. “Ký ca ký cóp cho cọp nó xơi !” Vì đâu ?

Chỉ vài lời “nâng bi”, tâng bốc khách sáo (ngoài cửa miệng đầu môi chót lưỡi) của Việt cộng ? Vì cái lợi mà tối mắt ? Vì tham danh háo lợi ? Phải nói cộng lại tất cả những yếu tố trên (và thêm một vài yếu tố phụ khác nữa,) thì mới đúng.

Họ không phải là những kẻ vô học hay thất học, họ không phải là những kẻ quá nghèo khổ không phương tiện sống (mà phải nói trái lại). Vậy thì, chỉ vì những yếu tố trên mà họ không nhớ là họ đang ở Hoa Kỳ (một nơi mà pháp luật rất nghiêm minh), để có thể làm xằng bậy mà tin là không ai biết gì (quả thật là không ai biết gì trừ các cơ quan an ninh, tình báo các loại như CIA, FBI, và các cơ quan thực thi luật pháp), họ không biết (?) Việt cộng là loại người tàn ác, chuyên nghề lừa bịp vắt chanh bỏ vỏ: Việt gian cộng sản sẽ triệt để lợi dụng khi có thể lợi dụng bất kỳ ai mà chúng HOÀN TOÀN KHÔNG MẤT MÁT GÌ ngoại trừ chút nước bọt đầu môi chót lưỡi, và đến khi người mà chúng lừa gạt bịp bợm bị nạn hay không còn “xài” được nữa thì chúng sẵn sàng vất đi còn tệ hơn là quăng một miếng dẻ rách dơ bẩn.

(Ngay cả tên Việt gian Võ Văn Kiệt, cựu “thủ tướng” VGCS, cũng bị một cú “đâm trí mạng”, Việt cộng lật đật làm bộ mang xác chết qua Singapore, tuyên bố là chết tại Singapore, rồi đem trở về lại Việt Nam, âm thầm làm đáng tang, báo chí Việt cộng chỉ đăng tin sơ sài vài hàng trong mục tin “Chó cán xe”, sau khi bọn VGCS thất bại trong vụ bỏ bom tại nhà tên “cựu đầu gấu” Việt gian cộng sản nầy. Lý do: sau khi bước xuống chiếc ghế quyền lực, y mới thấm thía “làm người dân" trong chế độ “xuống hàng chó ngựa”, nho nhoe viết bài phản đối bọn đầu gấu VGCS đương quyền, nên lũ đầu nậu VGCS đương quyền “ngứa mắt” “chơi cho bỏ ghét, chơi cho nhắm tịt mắt luôn ! Thật đáng đời !)

Đã không có chút lợi lộc gì từ bọn côn đồ vô luân Việt cộng, bọn người “ngây thơ” còn HỐI LỘ cho bọn súc sinh Việt cộng và đây là lý do phạm pháp rõ rệt nhất. Chỉ có những kẻ QUÁ tham lam, u tối, đần độn, tham danh háo lợi, mới không nhìn thấy, nghe biết về điều hiển nhiên đó. Và, thế là họ chính là nạn nhân của chính mình chứ không ai khác, kể cả bọn vô luân tàn ác cộng sản. Tối mắt vì đồng tiền mà không nhìn thấy đâu là môi trường mà họ đang sống.

Nếu họ mở công ty buôn bán kỹ thuật cao với các nước mà luật pháp Hoa Kỳ cho phép, nếu họ buôn bán sòng phẳng mà không HỐI LỘ, không gian dối gì về thương vụ, về kế toán, về thuế vụ thì họ tiếp tục giàu có, ngồi mát ăn bát vàng (vì có nhân viên giúp việc,) mà không phải lo gì cả. Và nếu thế, đã không có chuyện. Nếu họ đầu tư tiền bạc và tài năng tại quốc gia nơi họ tỵ nạn ? Nếu họ đầu tư tiền bạc và chất xám tại các quốc gia đệ tam, không dính dáng chút nào đến các nước hay chế độ cộng sản ? Nếu, nếu và nếu … ? Ôi nhiều chữ “nếu” quá thì đâu có nhiều chuyện đau lòng cho người trong cuộc và phiền lòng cho người ngoài cuộc ít nhiều là đồng chủng, đồng bào với họ !

Ôi đáng thương thay mà cũng đáng khinh bĩ thay những kẻ NGU MUỘI (cộng với) lòng tham danh háo lợi “tuyệt vời” ! Cái giá phải trả của những con người “thơ ngây” (đần độn,) dính dấp với Việt gian cộng sản, là họ phải trả cái giá cao ngất trong nỗi đau tận cùng, tuyệt vọng, cô đơn, trong sự lãng quên, lạnh lùng và khinh khi của mọi người mà người bình dân thường nói gọn: “NGU RÁNG CHỊU !” (Quả là chí lý thay, ngu ráng chịu ! Ngu ráng chịu ! “Hay ! Trên cả tuyệt vời !”)

Cần bao nhiêu “tấm gương” nữa cho những kẻ ngây thơ (và tham lam đần độn) này mở mắt ? Hay “never forever” ??? Anh chị ơi, thế giới hiện nay có hơn 6 tỉ người.

Trong khi đó, Việt gian cộng sản, cướp hết đất nhà của dân nghèo, bán biển, bán đảo thì xoay ra bán rừng đầu nguồn, lừa gạt luôn bộ đội của chúng mà bài Xã luận “Buôn dân bán lính !” của tờ Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 95 (15-03-2010) đã trình bày trong số BTCN nầy. Thật không còn chữ nghĩa nào để diễn tả chính xác lũ dã thú Việt gian cộng sản mà một vị trưởng thượng đã tóm tắt trong câu nói: “LŨ QUÁI VẬT CỘNG SẢN ĂN NHAU VÀ ĂN ĐỒNG LOẠI !”

Tội ác cộng sản vẫn tiếp diễn từng ngày với nạn buôn người, buôn thân xác trẻ em, phụ nữ theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là phụ nữ, bị lũ dã thú mặt người dày vò thân xác một cách uất ức tội nghiệp như trong bài “Chuyện kể của những phụ nữ VN nạn nhân buôn người (phần 1)” Chúng ta đọc mà còn uất hận căm hờn thay huống hồ là “nạn nhân trong cuộc” ! Cùng mang thân phận phụ nữ, Thùy Dung cũng cảm nhận một nỗi đau vò xé tâm can như chính mình là người trong cuộc ! TỘI ÁC CỘNG SẢN PHẢI BỊ TRỜI TRU ĐẤT DIỆT ! Nỗi uất hận của người dân quá lớn chỉ chực chờ trào dâng như cơn sóng thần ! Nếu một ngày nào đó mà chúng hết thời thì … (Kinh hoàng biết bao khi tưởng tượng ra “dòng sông máu” của bọn tội đồ dân tộc “phải trả” cho người bị trị trên quê hương nhân một ngày “đẹp trời” nào đó ?!)

Thương thay người dân dưới chế độ cộng sản, bộ đội cũng như dân thường, vẫn tiếp tục là nạn nhân vô tội cho chúng bốc lột “không chừa cái khố !” Hết hy sinh thân mạng cho chúng lợi dụng, may mắn mà không “được tổ quốc ghi công” thì cũng tiếp tục là nạn nhân trong giấc mơ “xuất khẩu lao động sang Nam Hàn làm việc !” mà bài viết “Bọn đầu nậu Bộ Đội Cộng Sản Lừa Đảo Lính Bộ Đội cộng sản xuất khẩu đi lao động tại Nam Hàn !!!” đã trình bày thật sơ lược.

Hơn 3 triệu người Việt hải ngoại có cùng giấc mơ với hơn 80 triệu nạn nhân cộng sản là một nền “DÂN CHỦ, TỰ DO, HÒA BÌNH THỊNH VƯỢNG CHO QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM”. Họ cũng như chúng ta biết rằng không chỉ mơ suông mà thành sự thật nếu không hành động. Nhưng hành động cách nào đây ?

Là con người, ai cũng ham sống sợ chết. Nhưng sống trong nỗi nhục nhằn khốn khổ nhiều khi còn tệ hơn là chết. Điều băn khoăn chính đáng là hành động như thế nào đây cho có hiệu quả ? Công khai hay âm thầm ? Mỗi phương cách đều có những điều lợi và hại mà toàn là những cái hại chết người.

Nhẫn nhịn sống thì giống như con vật vào lò mỗ, “đi vào hư vô” một cách âm thầm. Còn cương quyết đứng lên tìm QUYỀN SỐNG TỐI THIỂU cho bản thân, gia đình, dân tộc thì chọn phản ứng như thế nào ? Phản ứng quyết liệt ? Công khai ? Bạo động ? Bất bạo động ?

Nếu muốn cuộc đời có thể nhìn thấy ánh sáng le lói cuối đường hầm, không cho chính mình thì cũng là tương lai con cháu thì bắt buộc phải chọn một đường lối, một phương cách hành động thích hợp với mình nhất !. Cách nào ? Bài viết “Đấu tranh dân chủ: nên công khai hay âm thầm?” của tác giả Nguyễn Chính Kết, thành viên Ban Đại Diện Lâm Thời Khối 8406”, và có thể nói là Đại diện duy nhất của khối nầy ở hải ngoại, đã trình bày một vài gợi ý hữu ích về niềm băn khoăn chính đáng của người dân trong nước và cả người hải ngoại: người dân trong nước phải là nhân tố chính kết hợp với khối người Việt hải ngoại là hậu phương vững mạnh, tích cực hỗ trợ. Bài viết đã đưa ra vài điểm cần được chú ý nghiên cứu.

Trong khi đó, các nhà dân chủ cựu tù cộng sản như Lê Thị Công Nhân, Phạm Hồng Sơn, lãnh tụ tôn giáo đang bị “trường kỳ quản chế bao vây” như ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, người tù nhân lương tâm tạm ngưng thi hành án, … vẫn tiếp tục bị lũ côn đồ cộng sản quấy nhiểu và họ vẫn tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ, không e ngại, không sờn lòng. Dòng sống dân tộc vẫn tiếp tục chảy ngày càng càng mạnh cho đến lúc khai thông.

“Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai !” Tổ quốc ơi ! Bao giờ hết bĩ cực ? Bao giờ đặng thới lai ???

Hình ảnh TRẠI SÚC VẬT vẫn còn là nỗi ám ảnh trong giấc ngủ của mỗi chúng ta, của mỗi con người Việt Nam, ám ảnh khôn nguôi. Ám ảnh chỉ giảm bớt khi chúng ta bắt tay hành động, bất cứ hành động gì, bất kể lớn nhỏ, miễn là cùng nhắm đến mục tiêu chung là CHẤM DỨT NỖI ÁM ẢNH CỘNG SẢN KINH HOÀNG cho mỗi người, mỗi dân tộc và cho nhân loại. Xin đừng nghĩ là quá sức, hãy làm bất kỳ điều gì trong khả năng cho phép của mỗi chúng ta. Có đi có đến, có làm có kết quả. Đừng chờ đợi, đừng mơ suông ! “Dream comes true” thì phải hành động (tùy khả năng, hoàn cảnh mà hành động). Bất động, trông chờ, ỷ lại chỉ là TÂM THỨC CỦA KẺ NÔ LỆ !

Bao giờ thì hình ảnh TRẠI SÚC VẬT trên đất nước Việt Nam sẽ biến mất ? bao giờ thì hình ảnh TRẠI SÚC VẬT của 5 nước cộng sản trên thế giới biến mất ? Với Việt Nam, câu trả lời đến từ mỗi chúng ta trong và ngoài nước. Tuy nhiên, câu hỏi thứ hai nằm quá tầm với của người Việt chúng ta mà phải đến từ mọi con dân mỗi nước ở nội địa và trên toàn thế giới.

Niềm hy vọng của chúng ta sẽ đến khi nào mỗi con dân của từng nước biết đáp ứng đòi hỏi chung và đòi hỏi riêng cho từng hoàn cảnh của con người chúng ta và chung cho nhân loại để chấm dứt một hiểm họa kéo dài đã quá lâu.

Nguyễn Thùy Dung
Source: http://www.bacaytruc.com/index.php?option=com_content&task=view&id=5583&Itemid=37


Friday, April 16, 2010

Phê bình LM Nguyễn Văn Lý - Ngô Văn Hiếu

Ngô Văn Hiếu

Đọc bài phỏng vấn LM Nguyễn Văn Lý trên đài BBC ngày 16/3/2010, một ngày sau khi ông được tạm thả về nhà trị bịnh, chúng tôi thấy cần phải góp ý xây dựng.

Trước hết, quyền tự do ngôn luận của LM Lý, dù sai, phải được tôn trọng; ông đang đau yếu và thiếu thông tin. Người ta có thể vội thấy các quan điểm này có chút tích cực như cần có lãnh đạo tài đức, chủ thuyết ưu việt, dân chủ ổn định, và tổ chức kiện toàn.

Tuy vậy, những quan điểm này cần được hỏi lại cho sáng tỏ. Là quan điểm cá nhân hay của các tổ chức chính trị của ông? Ông có bị đe dọa hay tâm trí bất thường? Có phù hợp với chủ trương trước đây của ông? Phê bình ông là xây dựng hay phá hoại?

Có vài điều ta không đủ tin tức để trả lời. Nhưng chúng ta phải tin rằng phê bình chính trị là cần thiết cho việc đấu tranh chính trị. Nếu vì nể nang khỏa lấp điều sai của ông, ta khó mong cộng sản vạch ra các sai lầm của lãnh đạo họ.

Phân tích ý kiến

Linh mục Lý nói: “... công việc hiện nay phải được hướng dẫn bởi một lãnh tụ tài đức vẹn toàn”.

Theo tôi, việc xây dựng tự do dân chủ là đại cuộc của toàn dân, không thể dựa vào "sự hướng dẫn của một lãnh tụ tài đức vẹn toàn" như thời xưa được. Hơn nữa, khó có thể có người vẹn toàn; trong lịch sử, chưa có ai đáng xem mẫu mực như vậy. Cho nên, thật là lạc hậu khi cố công "xây dựng lãnh tụ" và "ỷ lại vào lãnh tụ".

Ông trả lời lời BBC rằng: “Phải có một học thuyết đủ sức thay thế chủ nghĩa Marx - Lenin, có đường hướng sát thực tế để … làm cho Việt Nam ổn định hơn Indonesia, Thái Lan, Philippines”.

Việc ông không nêu ra tên chủ thuyết nào hàm nghĩa là các học thuyết đã có, kể cả "tự do dân chủ", không đủ sức thay thế Mac-Le. Nhưng, sự thật là chủ trương tự do dân chủ đã thắng lợi ở Nga và Đông Âu; và dân ta nên vững tin vào chủ trương này để xây dựng một nền tự do dân chủ thật sự.

Linh mục Lý nói: “Nếu thay đổi mà mất ổn định, tình hình xấu hơn cả Thái Lan, Indonesia, Philippines, thì thà cứ để yên cho Đảng Cộng sản lãnh đạo”.

Vì dân chủ, dân Phi lật đổ TT Marcos năm 1986, dân Thái xuống đường chống quân phiệt năm 1992, và dân Nam Dương hạ bệ TT Suharto năm 1998. Hiện nay, dân 3 nước này đã phát triển xã hội dân sự như đảng phái đối lập, bầu cử dân chủ, báo chí độc lập, và biểu tình tự do. Thỉnh thoảng có nổ bom ở Bali (Nam Dương, 2002) hay ám sát ở Maguindanao (Phi, 11/09) là do khủng bố, không là phó sản của dân chủ. Các xáo trộn xã hội giữa phe áo vàng và áo đỏ ở Bangkok gần đây cũng là nỗ lực hoàn thiện nền dân chủ ở Thái.

CSVN có thể cho rằng các nước nêu trên là "bất ổn" khi thấy dân biểu tình, làm báo chỉ trích nhà nước và lập đảng để tranh quyền; nhưng dân ở các nước đó đang hưởng tự do dân chủ, nỗ lực "ổn định” quốc gia và đòi chính quyền tôn trọng họ.

Thật ra, căn nguyên bất ổn thường do “chính sách vừa ăn cướp vừa la làng” của đảng CSVN. Khi bị hà hiếp, dân chúng khiếu kiện hay biểu tình; thay vì bồi thường, tránh tái phạm và trừng trị kẻ lạm quyền thì họ lại đàn áp dân, gán tội gây rối, biến nạn nhân thành tội phạm. Vậy, muốn ổn định thật sự, phải có chính thể dân chủ.

Linh mục Lý: “Muốn để Việt Nam huy hoàng hơn, thăng tiến hơn, đạo đức hơn, có nền tảng vững chắc hơn thì tổ chức ấy phải hội đủ nhiều điều kiện lắm”.

Làm sao ta có thể nhất thời kiện toàn tổ chức chính trị khi nước ta đang bị thống trị kiểu “đập tan từ trứng nước các mầm mống phản động”? Muốn được vậy, dân ta phải vừa đấu tranh vừa kiện toàn tổ chức; nếu ngược lại tiến trình này, đó là “đặt cái cày trước con trâu”.

Bốn điều sai lầm

Qua các phân tích trên, LM Lý đã có bốn điều sai lầm căn bản như ỷ lại vào lãnh tụ tài đức vẹn toàn, viễn vông đi tìm một chủ thuyết ưu việt, nhầm lẫn giữa dân chủ và hỗn loạn, và thiếu thực tế khi muốn tổ chức kiện toàn giữa hiện tình đất nước.

Các quan điểm nêu trên có thể bị CSVN dùng làm luận điệu biện bạch để kéo dài nền độc tài đảng trị như sau. Ví dụ họ nói Hồ Chí Minh là một lãnh tụ tài đức vẹn toàn”, đã chết mà "vẫn sống mãi trong sự nghiệp” của dân ta. Hay chủ nghĩa Mac-Lê là ưu việt vì từng chống Pháp (1954), Mỹ (1975), Khmer Đỏ (1979), Trung Quốc (1979), đưa Việt Nam vào Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Đó là chưa kể cảnh máu lửa ở Nam Tư (Kosovo, 1999), Nam Dương (Jarkata, 1998), Nam Hàn (Kwangju, 1980) được dùng làm con ngáo ộp dọa dân về viễn cảnh "tự do dân chủ hỗn loạn".

Họ cũng có thể nói "Đảng CSVN có nhiều điều kiện như đảng viên đông, tổ chức chặt chẽ, và giàu kinh nghiệm."

Điều đáng nói là các quan niệm này cũng ít nhiều phù hợp với suy nghĩ của nhiều người, kể cả trong giới tự do dân chủ.

Chúng ta nên biết rằng sức mạnh chính là ý thức thấu đáo và tin tưởng sắt đá vào giá trị lý tưởng tự do dân chủ. Đại cuộc đấu tranh không thể dựa vào người lãnh đạo tài đức, mà phải dựa vào chủ trương và sách lược. Ban lãnh đạo chỉ là người chấp hành và chịu tránh nhiệm trước tập thể.

Tóm lại, chúng ta không được nhầm lẫn tự do dân chủ với sự hỗn loạn do dân biểu tình ôn hòa bị đàn áp. Và, cũng không thể xem xã hội ổn định thật sự vì có cường quyền kềm kẹp. Một khi nghĩ rằng thà bị cộng sản độc tài còn hơn là có dân chủ mà hỗn loạn như Thái, Phi và Nam Dương nghĩa là chưa thực sự có niềm tin vào sự ưu việt của dân chủ tự do, và như vậy làm hạn chế khả năng đấu tranh cho tự do dân chủ!

Ngô Văn Hiếu
Source: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2010/04/100413_phebinh_lmnguyenvanly.shtml

Một bà mẹ vất vả ngược xuôi - Ngọc Thủy




Ngọc Thủy

Vào một buổi trưa trong dịp một số các vị cựu quân nhân Biệt Kích ở Bắc Cali tổ chức buổi họp mặt cách đây khoảng bốn năm – không nhớ đó có phải là buổi hội ngộ hằng năm không – tôi được mời đến trong một không khí ấm áp, đậm đà tình nghĩa Huynh Đệ Chi Binh giữa những người từng một thời vào sinh ra tử bên nhau. Sau khi được anh chị Trần Hoàng giới thiệu với những người chung bàn và thật bất ngờ vì đó là điều hân hạnh đối với tôi khi được biết mình đang ngồi bên cạnh bà quả phụ cố Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, là một trong những vị Tướng đã tuẫn tiết để giữ tròn sĩ khí của một Quân Nhân khi miền Nam Cộng Hòa vừa rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt trong ngày 30 tháng Tư năm 1975. Qua vài câu xã giao, tôi và bà nhanh chóng đi vào những tâm tình cởi mở. Với vóc người khá cao lớn, giọng nói mạnh mẽ cùng tiếng cười sang sảng, cho tôi thấy đó là một vị nữ lưu trực tính và quả cảm. Khi ấy, dù đã ngoại lục tuần, bà Phạm văn Phú vẫn giữ được sự duyên dáng và nét tinh anh qua đôi mắt sáng, nụ cười tươi tắn với lối nói chuyện bộc trực trẻ trung.

Hôm ấy, tuy đang hạnh phúc trước cảm tình trân quý nồng ấm của mọi người hiện diện dành cho cố T/T Phạm Văn Phú và bà, nhưng có lúc tôi thấy đôi mắt bà ngấn lệ. Giòng nước mắt lăn chậm ấy như cũng bay vào mắt tôi khi giọng bà tự dưng khàn nhỏ lại bên tai: “Cô Ngọc Thủy cũng là người kẹt lại với biến cố ấy thì chắc cũng thấu hiểu được nỗi khổ đau cùng tận đến thế nào rồi. Cùng một lúc, tôi và các con chịu hai cái tang lớn nhất trong cuộc đời, mất miền Nam, mất chồng mất cha, xem như mất tất cả rồi, lại trong lúc Sàigòn của chúng ta đang kinh hoàng đến hỗn lọan như thế. Mọi người phải tự lo lấy thân mình còn chưa xong còn lo được đến chuyện của ai. Cùng tám đứa con mồ côi trước mắt chưa biết phải xoay sở ra sao mà sống mà nuôi con, nhưng trước hết là phải lo cho ông Phú tôi được chôn cất tử tế chứ. Thế là phải nén chặt lại tất cả sự khổ đau để cố lo tang lễ cho ông ấy được đàng hoàng. Dù đang không, ông Phú tôi đành dứt áo bỏ lại tôi cùng tám đứa con nbỏ bơ vơ, nhưng việc ông làm là đúng khi thế thời như thế. Việc ông làm cho đất nước như vậy, tôi nào đâu dám trách. May mà bên cạnh tôi lúc ấy cũng có vài người thân thiết có nghĩa tình bên cạnh giúp đỡ phần nào đấy cô”.

Buổi gặp gỡ lần đầu đã để lại cho tôi sự thấm thía xót xa về tất cả những mất mát của mọi hoàn cảnh nằm trong sự tan vỡ của quê hương vào tháng tư năm 1975, niềm quý mến về người phụ nữ đã một mình chống đỡ với bao phong ba bão táp xẩy đến dồn dập trước và ngay sau biến cố trọng đại tang thương ấy. Lòng tôi thầm nhủ lúc chia tay là sẽ điện thoại thăm bà luôn để mong bà có thể thêm chút niềm vui trong thời gian đầu mới vừa rời nơi cư ngụ quen thuộc ở Nam Cali để lên vùng nắng ấm San Jose với các con. Thế mà có khi cả hàng năm mới có dịp gọi phôn thăm hỏi được một lần, dù ngẫu nhiên qua vài lần thăm hỏi đó tôi cũng biết thêm là nhà tôi và nhà bà cùng ở vùng North Valley, cách nhau chỉ độ mấy khoảng đường dài. Nỗi đau tâm sự của bà kể lại trong câu chuyện hàn huyên vẫn lởn vởn trong trí nhớ tôi, kèm thêm biết bao hồi ức đau buồn khác đã xẩy đến cho tất cả mọi người trong giai đoạn tối đen của đất nước và cuộc sống lúc ấy.

Tình hình nghiêm trọng cho thấy là phiên họp ngày 11 /3/75 tại Dinh Độc Lập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu còn muốn giữ lại thị xã Ban Mê Thuột nhưng tới phiên họp khẩn báo ngày 14/3/75 tại Cam Ranh, tức chỉ ba ngày sau, Tổng Thống cùng Bộ Tổng Tham Mưu đã ra quyết định cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú thi hành kế hoạch rút quân. Cuộc di tản diễn ra khá thuận lợi trong hai ba ngày đầu vì bất ngờ, CSBV không biết để đánh chận đường. Con đường duy nhất để tháo quân lúc đó là liên tỉnh lộ 7B từ Phú Bổn nối liền với các tỉnh lân cận. Trên đoạn đường này về đến Tuy Hòa và Phan Rang, Phan Thiết đã trở thành bờ vực từ lộ dưới làn mưa pháo của Cộng quân ráo riết nhắm vào đoàn người di tản gồm nhiều binh lính thuộc các lực lượng, sư đoàn của Quân đoàn II và gia đình binh sĩ cùng mấy trăm ngàn thường dân từ các tỉnh nhập vào.

Dù phải thừa hành theo lệnh tối cao nhưng sự thất bại của Quân Đoàn II cũng là phần trách nhiệm của Tướng Phú nên không ai hiểu nỗi đau đớn xót xa nào bằng của ông trong lúc ấy chính là người vợ luôn sát cánh cùng ông trong mọi hoàn cảnh khốn khó hoặc vui buồn từ trước giờ. Bà đã hết lòng an ủi ông, nhưng ông vẫn không thể nguôi ngoai nỗi khổ đau to lớn đó khi nghĩ đến cái chết oan khiên tức tưởi của nhiều sinh mạng chứ không riêng gì sự mất mát những vùng đất thân yêu máu thịt của miền Nam VN, đến mức mang tâm bệnh não nề. Buổi sáng ngày 29 tháng Tư, trời Sàigòn đã u ám mây đen. Tình hình miền Nam sắp mất gây thành nỗi kinh hoàng cho mọi người. Họ phải thoát chạy khỏi Cộng sản lần nữa bằng mọi cách, mọi phương tiện tìm được.

Giữa giòng người ấy, bà Phạm Văn Phú đang mang bẩy người con (người con trai lớn mười tám tuổi vừa được xuất ngoại du học) ra phi trường. Bà nóng lòng nghĩ đến lời ông buổi sáng dục giã bà hãy mang các con đi trước, ông sẽ cố gắng thu xếp mọi việc rồi sẽ gặp nhau sau. Bà còn nhớ lời bà nức nở khi tạm chia tay: “Ông nhớ đừng làm chuyện gì nguy hại đến tính mệnh. Tôi không đủ sức nuôi nổi tám đứa con thơ một mình đâu”. Ông không trả lời, chỉ xiết chặt tay bà như ngầm bảo, không đâu, nhưng ánh mắt của ông nhìn bà lúc ấy, sao thương yêu mà thê thiết quá. Rồi ông đẩy nhẹ lưng bà, khe khẻ nhắc: “Em và các con đi nhanh lên kẻo trễ”. Bà có ngờ đâu, đó là cái chạm tay lần cuối.

Nhớ lại những cử chỉ khác thường của ông lúc đó, bà bỗng thấy nao nao và lòng dạ như có ai đốt lửa. Bà ngập ngừng giữa sân bay, chưa nỡ rời xa quê mẹ lẫn người chồng thân yêu còn ở lại, dù đang được người bạn Hoa Kỳ thúc hối lên máy bay gần cất cánh. Vừa lúc đó bà nghe người thân tín chạy vội tới báo tin: Tướng Phú vừa uống thuốc độc tự tử, đang cấp cứu ở nhà thương Grall. Không cần suy nghĩ gì nữa, bà tức tốc đem các con trở về hết. Vừa thấy bà và các con vào thăm, Tướng Phú lộ vẻ đau đớn trong ánh mắt, bởi lúc đó ông đã không cử động hoặc nói năng gì được nữa, ông đang trong tình trạng hấp hối bởi độc dược chưa làm ông chết ngay được. Và ông đã vĩnh viễn ra đi vào trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Hình ảnh mới hôm nào của ngày Tết mùa xuân 1975, hai ông bà Phạm Văn Phú chụp cùng các con trong niềm vui hạnh phúc gia đình tràn đầy, có ngờ đâu vài tháng sau, hình ảnh tang thương một góa phụ cùng đàn con dại, bé nhất mới lên năm, lại quấn khăn tang bên cạnh quan tài người chồng, người cha, không tiếng súng tiễn đưa, không lá quốc kỳ phủ mộ. Chỉ có một nỗi buồn đau lớn lao chung gộp lại: niềm đau vận hạn tang thương của đất nước lẫn người thân yêu đã vĩnh viễn ra đi.

Thân cò lặn lội nuôi con từ đó, một người phụ nữ goá chồng với tám đứa con thơ lúc ấy chỉ mới vừa ba mươi chín tuổi. Thương con, thương chồng bà ở vậy, chắt chiu nuôi con trong bủa vây khốn khó của buổi giao thời dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Bao ngày tháng qua đi mang theo bao giòng nước mắt tủi cực đắng cay của người mẹ yếu ớt che chở nuôi dạy đàn con thơ. Căn nhà đang cư ngụ trên đường Gia Long, đối diện nhà thương Grall ngay sau ngày 30-04-75 đã bị những cán bộ miền Bắc tràn vào tiếp thu. Bà Phạm Văn Phú gạt nước mắt xa lìa nơi chốn ấm êm hạnh phúc của những ngày tháng qua một cách bàng hoàng tức tưởi, vội vã tìm thuê ngay một căn nhà nhỏ khác để tạm ổn định cuộc sống mới, rồi bương chải lo cho các con – mà đứa lớn nhất chỉ mới mười lăm mười sáu và bé nhất năm tuổi, khi ấy giống như chú gà con bước đi chưa vững đã phải bám theo chân mẹ và đàn anh chị lội qua cánh đồng lầy cuộc sống không nhìn thấy tương lai. Và người phụ nữ ấy giống như trăm ngàn người phụ nữ khác sau cuộc đổi đời cay đắng, không bị mất chồng trong biến cố tang thương thì cũng phải chịu cảnh thân cò lặn lội nuôi con vì chồng, cha đã bị ở trong trại tù “cải tạo” xa xôi mờ mịt, không biết khi nào mới có ngày trở về.

Bà Phú đã ngược xuôi khắp ngả đường “chợ trời” để mua bán chiu chắt từng đồng cắt, độn cháo rau khoai sắn qua ngày cho các con thơ. Bà cũng quá quen thuộc với con đường xe lửa chạy hàng trên tuyến đường Sàigòn, Phan Thiết, Nha Trang. Cảnh mắt nhắm mắt mở ngủ vội vàng trên toa, cảnh xô vai té ngả rồi gượng đứng lên để cố chen nhau mua hàng bán họ kiếm chút đồng lãi mua gạo cho con, thật ra có thấm gì với sự khổ đau trong tâm hồn và bao sống cảnh nghiệt ngả khác mà gia đình bà và của biết bao người phải hứng chịu từ ngày miền Nam đổ vỡ tan hoang.

Chịu đựng gần mười tám năm với cuộc sống khó khăn ở ngay chính quê hương mình, mỗi ngày thêm mệt mõi, buồn phiền khi một số bạn bè người thân còn kẹt lại cũng lần lượt ra đi như ba người con trai bà cũng đã vượt biển và tới được bến bờ tự do từ mấy năm trước. Đang lúc chới với nhất thì bà may mắn nhận được giấy xuất cảnh từ sự bảo lãnh người con trai trưởng bên Hoa Kỳ.

Ngày Mother’s Day năm nay, bà quả phụ Phạm Văn Phú đã ngoài bẩy mươi. Hạnh phúc của bà là các con, năm trai và ba gái, giờ đây đều đã trưởng thành và rất hiếu thảo, thương kính mẹ. Những lúc cùng các con với các buổi tiệc thịnh soạn do các con chúc mừng Mẹ, đặc biệt là ngày lễ Mẹ hôm nay thì bà lại nhớ những ngày cùng cực đói khổ trong cuộc sống cam go đã trải qua. Bà rơi nước mắt ngậm ngùi nhưng cũng rất hãnh diện với sức mạnh của lòng mẹ đã giúp bà vượt qua tất cả. Vì các con và cho các con.

Ngọc Thủy
Source: http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=985

GM Nguyễn Văn Nhơn sẽ ra Hà Nội thay chân Đức TGMHN Giuse Ngô Quang Kiệt? - Nữ Vương Công Lý




Source: http://nuvuongcongly.net/index.php?option=com_content&view=article&id=812:gm-nhon-ra-hn-noi-thay-gm-kiet&catid=60:muc-vu&Itemid=184

Qua Nữ Vương Công Lý, nhiều độc giả đã gửi những tâm tư của mình đến HĐGMVN khi nghe tin liên quan đến Đức TGMHN Giuse Ngô Quang Kiệt. Nhưng, hình như những nguyện ước đó chưa được HĐGMVN mà cụ thể là GM Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn để ý đến?

Như Nữ Vương Công Lý đã đưa tin: Cuộc hoán đổi ngôi vị tại Tòa TGM Hà Nội đã dần dần được thực hiện bằng con đường vòng, thỏa mãn yêu cầu của nhà nước với HĐGMVN sau khi có những phản ứng dữ dội và mãnh liệt từ mọi thành phần dân Chúa.

Tổng giám mục Hà nội Ngô Quang Kiệt
Theo tin của CTV Nữ Vương Công Lý tại Hà Nội cho biết, thông tin về việc chuyển đổi ngôi vị TGM Hà Nội dường như đã được sắp xếp xong nhưng trước phản ứng dữ dội của mọi tầng lớp giáo dân và nhân dân, cách thay thế TGMHN Giuse Ngô Quang Kiệt sẽ không đi thẳng như dự định nhằm tránh “tắc đường”. Cuộc hoán đổi ngôi vị này sẽ bằng một con “đường vòng” để xoa dịu dư luận nhân dân, giáo dân và những người yêu chuộng công lý, sự thật hòa bình qua tấm gương TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.

Ngày 15/4 tại Tòa TGMHN Tổng GM Giuse Ngô Quang Kiệt đã mời cơm các Giám mục trong Giáo tỉnh và các linh mục Hà Nội. Ngài thông báo rằng sẽ có một Giám mục phó đến Hà Nội trong thời gian sớm nhất. Như vậy, việc thay thế TGMHN đã được lên chương trình thực hiện.

Theo thông tin đáng tin cậy, Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sẽ ra Hà Nội để nhận chức Phó TGM Hà Nội. Ai cũng biết rằng, sau đó thì GM Phó sẽ thay thế TGM Hà Nội trong một thời gian ngắn.

Như chúng tôi đã đưa tin, trước đây, GM Nguyễn Văn Nhơn đã thăm dò ý kiến để tiến thẳng ra Hà Nội thay chân Đức Tổng GMHN Giuse Ngô Quang Kiệt nhưng đã không được sự ủng hộ vì uy tín của GM Nhơn đã quá giảm sút trong vai trò Chủ tịch HĐGMVN nhưng đã im lặng sau nhiều vụ việc liên quan đến GH, đặc biệt là vụ đập Thánh Giá - biểu tượng của chính Đức Kito, ngay cả Giáo hoàng học viện Đà Lạt nằm trong địa hạt GM Nhơn quản lý cũng bị vào tay nhà nước CS nhưng không có những hành động thích hơp.

Sau đó đã đưa ra con bài GM Phụ tá Sài Gòn Nguyễn Văn Khảm ra HN, nhưng rồi kết cục cuộc họp HĐGMVN đã không “thảo luận” được vấn đề nhân sự khi TGMHN Giuse Ngô Quang Kiệt bất ngờ trở về.

Nhiều GM họp HĐGMVN tại Bãi Dâu đến khi về vẫn không hay biết chính xác những cuộc mặc cả đã diễn ra như thế nào.

Vì vậy, trong bữa ăn trưa tại Tòa TGMHN, Giám mục Phaolo Cao Đình Thuyên đã nhiều lần thốt lên: “Bây giờ thì chúng con hiểu rồi”.

Thậm chí khi Nữ Vương Công Lý đưa tin có người vẫn cho rằng đó là những thông tin đồn đoán không có cơ sở, đây là những người tuy không có thông tin nhưng vẫn muốn phát biểu theo cảm tính của mình.

Tuy nhiên theo chúng tôi, giấy bổ nhiệm đã có sẵn trước khi họp HĐGMVN, nghĩa là việc họp bàn tại HĐGMVN cũng chỉ là mang tính hình thức phô diễn kiểu như “Đại hội Đảng” mà thôi. Mọi cuộc mặc cả đã xảy ra từ trước đó.

Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Văn Nhơn
Qua mạng Nữ Vương Công Lý, nhiều độc giả đã gửi những tâm tư của mình đến HĐGMVN khi nghe tin liên quan đến Đức TGMHN Giuse Ngô Quang Kiệt. Nhưng, hình như những nguyện ước đó chưa được HĐGMVN mà cụ thể là GM Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn để ý đến?

Khi những mưu cơ biểu diễn bị lộ tẩy, thì HĐGMVN đã tìm cách đi “đường vòng”

Với một lộ trình đường vòng dẫn đến Ngai tòa Hà Nội, một Phó Giám mục mới sẽ nhanh chóng được đưa ra ngồi tại ghế này để thay thế Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt trong một thời gian gần đây cho đẹp lòng nhà nước.

Quả là ngai tòa Hà Nội có sức thu hút khá mãnh liệt, theo ý kiến nhiều người, với vai trò TGMHN thì chiêc mũ Hồng Y đầy quyền lực và vinh quang sẽ là điều không xa.

Việc Đức TGMHN sẽ ra đi là điều đã được dự báo trước cho mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt là TGPHN, vì vậy mọi người sẽ không thấy sốc trước sự kiện này. Nhưng một người kế vị như thế nào, là người dân HN đang hết sức chú ý lắng nghe và xem xét, vì vậy đây không thể là một vụ việc “cố đấm ăn xôi” êm ả.

Chúng ta hãy cầu cho Phó Giám mục mới của TGMHN được thật sự là “mục tử nhân lành của Chúa” là người kế vị xứng đáng của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã trở thành biểu tượng niềm tin yêu của tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng công lý, sự thật, hòa bình và luôn mong muốn đất nước phát triển tốt đẹp.

Những lời cầu nguyện xin gửi về nuvuongcongly@gmail.com

Xin cảm ơn quý độc giả đã có sự giúp đỡ và hợp tác với chúng tôi.

Nữ Vương Công Lý

Wednesday, April 14, 2010

Việt Nam Việt Nam - John Ford

    Cuốn phim về chiến tranh Việt Nam do đạo diễn John Ford (1894-1973) thực hiện

http://www.youtube.com/watch?v=mlMfG1pw_eE&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=1HjND6PyzNY&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=5OedRKVLD8I&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=tLKKV3zbh4s&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=kZ6dk039JGc&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=WClPRX5tq9E&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=OSSR6lLlL-4&feature=player_embedded


http://www.youtube.com/watch?v=5meKt4UWb4o&feature=player_embedded



BÀI THƠ cho THÁNG TƯ ĐEN - Ngô Minh Hằng



    BÀI THƠ cho THÁNG TƯ ĐEN
    (gởi về quê hương và đồng bào Việt Nam thân mến)

    Năm tháng theo nhau rụng xuống đời
    Tháng Tư lại đến, biển sầu khơi !
    Tháng Tư này nữa là bao nhỉ
    Mà vẫn xa quê, sống phận hời ???

    Tóc đã phai xanh, tuổi đã chiều
    Chưa ngày thanh thản, vẫn đăm chiêu
    Phần thương dân tộc trong sầu tủi
    Phần xót quê hương đỏ giáo điều ...

    Hỡi những trái tim, những tấm lòng
    Cơ trời vận nước buổi suy vong
    Hãy xin gìn giữ niềm trung nghĩa
    Đừng để ngàn sau hổ giống dòng

    Đừng để tàn phai nét đẹp xưa
    Của trang thanh sử, dẫu giao mùa
    Chao ơi, từ đỏ cơn hồng thủy
    Bao kẻ xuôi dòng theo gió mưa !!!

    Nhìn những lòng thay, những nắng phai
    Mà tim thổn thức nhịp u hoài
    Mà đau mà xót niềm hưng phế
    Thương bóng Loa Thành, thương Ức Trai !

    Giọt lệ đôi phen đã ngỡ ngàng
    Khi người đổi bến, kẻ sang ngang
    Thịnh suy mới rõ đời đen trắng
    Mới thấy thau kia lẫn với vàng !

    Dốc thẳm, đường chênh vắng bóng người
    Âm thầm chiến sĩ bước đơn côi
    Con thuyền chính nghĩa, lòng son sắt
    Xin chớ phong ba mãi dập vùi !

    Mấy chục năm dài vẫn đợi mong
    Đợi anh góp sức, chị chung lòng
    Đứng lên trừ hết loài gian ác
    Để trả cho tròn nợ núi sông

    Rồi sẽ bình minh rực tháng Tư
    Quê hương nhất định hết lao tù
    Cờ Vàng tô thắm khung trời Việt
    Tổ quốc vinh quang, sạch bóng thù

    Ngô Minh Hằng



Tuesday, April 13, 2010

Giờ này Anh ở đâu ?



http://www.youtube.com/watch?v=yvAWEj5tNvE&feature=player_embedded#
    Giờ này anh ở đâu
    Trình bày: Thanh Thúy

    Giờ này anh ở đâu
    Quang Trung nắng cháy da người

    Giờ này anh ở đâu?
    Dục Mỹ hay Lam Sơn?
    Giờ này anh ở đâu?
    Đồng Đế nắng mưa thao trường
    Anh ở đâu? ú u ù ... ... Anh ở đâu?

    Giờ này anh ở đâu?
    Pleiku gió núi biên thùy
    Giờ này anh ở đâu?
    Miền Trung hỏa tuyến địa đầu
    Giờ này anh ở đâu?
    Cà Mau tiếng sét U Minh rừng
    Anh ở đâu? ú u ù ... Anh ở đâu?

    Dù rằng anh ở đâu, Anh ở đâu, vẫn yêu anh hoài
    Vẫn yêu anh hoài, yêu suốt đời ...
    Vì lời thề xưa nở trên môi
    Và một tình yêu đã lên ngôi
    Kỷ niệm đầu tiên sống trong tôi
    Trên đường ta bước chung đôi

    Giờ này anh ở đâu?
    Không quân vỗ cánh đại bàng
    Giờ này anh ở đâu?
    Thủy Quân Lục Chiến kiêu hùng
    Giờ này anh ở đâu?
    Vượt đường xa thiết giáp anh tung hoành
    Anh ở đâu? ú u ù ... Anh ở đâu?

    Dù rằng anh ở đâu, vẫn yêu anh hoài
    Vẫn yêu anh hoài, yêu suốt đời ...
    Vì lời thề xưa nở trên môi
    Và một tình yêu đã lên ngôi
    Kỷ niệm đầu tiên sống trong tôi
    Trên đường ta bước chung đôi

    Giờ này anh ở đâu?
    Tây Ninh tiếp ứng biên thành
    Giặc tan trên đất Hạ Lào
    Giờ này anh ở đâu?
    Trại Hoàng Hoa tung gió cánh hoa dù
    Anh ở đâu? ú u ù ... Anh ở đâu?
    Anh ở đâu? ú u ù ... Anh ở đâu?
    Anh ở đâu? ú u ù ... Anh ở đâu?


Monday, April 12, 2010

Tại Sao ? - Ngô Minh Hằng

    Tại Sao ?

    Tại sao mà phải vượt biên
    Qua bao nỗi chết, đến miền Tự Do ?
    Phải vì bè lũ giặc Hồ
    Giết dân, bán nước, cơ đồ phá tan
    Làm đời khốn khó lầm than
    Làm người cay đắng gian nan ngục tù ...
    Bắt đầu từ một Mùa Thu
    Hiền Lương, rồi lại Tháng Tư kinh hoàng ?
    Đầy trời ngất lửa hờn oan
    Thương đau từ Bắc chí Nam, mọi miền ...
    Nước người, cuộc sống tạm yên
    Tại sao đổi trắng thay đen, cớ gì ???

    Ngày xưa bỏ nước mà đi
    Phải do Cộng sản ? Phải vì Tự Do ?
    Hay vì cần ấm cần no
    Miếng cơm manh áo làm cho mình hèn ?
    Nên giờ phản bội anh em
    Lằn ranh Quốc - Cộng nhá nhem, mập mờ ?
    Mặc cho nước đợi dân chờ
    Quê hương, nguồn cội, cõi bờ, phản luôn !
    Tiếp tay nghị quyết bất lương
    Đạp lên thống khổ, đau thương sơn hà ...
    Phải vì sức mạnh đô la
    Danh hư, vị huyễn nên ra tội tình ?
    Nhục không ? kìa giống nòi khinh
    Thẹn không ? mình phản chính mình ... hỡi ơi !
    Đã hơn ba chục năm trời
    Quê thời cộng xé, dân thời cộng băm
    Đớn hèn, cúi mặt lặng câm
    Thì thôi. Sao lại nẩy mầm đảo điên ???

    Ngày mà bỏ nước, vượt biên
    Bao nhiêu người thốt lời nguyền, nhớ không ?
    Nam Kha chưa đượm giấc nồng
    Mà người vội đổi thay lòng. Tại sao ?
    Tháng Tư quên những nghẹn ngào
    Quên oan khiên, triệu đồng bào chết đau
    Quên ai đem súng Nga, Tàu
    Giết ai vì nước, tuyến đầu, giữ quê
    Sao người vuốt mặt, quên thề
    Để lao vào những cơn mê mọn hèn
    Một khi nai đã chịu đèn
    Làm sao phân biệt trắng đen những màu
    Giúp cho quỉ kế tằm dâu
    Cộng kia nhờ đó, vết dầu, loang nhanh
    Phải vì lợi, phải vì danh
    Quên tay Việt cộng vẫn tanh máu người ?
    Quên ngày cuồng nộ biển khơi
    Quên ta Tị Nạn, quên đời Quốc Vong ?
    Và quên xương máu Lạc Hồng
    Cộng chia, cộng cắt biếu không cho Tàu ...

    Trả lời đi. Trả lời mau
    Tại sao bội phản cho đau muôn lòng ...
    Trả lời núi, trả lời sông
    Tại sao phản bội giống dòng Việt Nam ???

    Ngô Minh Hằng



Kẻ Tám Lang. Người Nửa Cân - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất





Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Chuyện vừa mới xẩy ra khơi dậy trong dư luận sự bất bình trong cộng đồng tỵ nạn người Công Giáo VN tại hải ngoại là việc Hồng Y Phạm Minh Mẫn sang chủ tọa đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa do linh mục Trường Luân, dòng Chứa Cứu Thế, tổ chức tại đại học Long Beach ngày Chúa Nhật 11-4-2010. Tôi thật sự tin rằng HY Mẫn sẽ không có mặt trong buổi đại lễ này vì cha Trường Luân đã thông báo như thế. Lý do khác nữa là vì ông Hồng Y còn mặt mũi nào mà dám xuất hiện trước cộng đồng giáo dân tỵ nạn. Ê chề trong những lần xuất hiện trước đây chưa đủ sao! Tin tức phổ biến. Dư luận phản đối. Rồi đính chính. Rồi xác nhận. Rồi nghi ngờ và chờ đợi. Cuối cùng câu trả lời là sự tin tưởng của tôi đã sai. HY Phạm Minh Mẫn đã có mặt tại đại học Long Beach chủ sự đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa.

Có một nhận định khá kỳ thú là, nếu đem so sánh và đối chiếu chủ trương và hành động của ông HY Phạm Minh Mẫn từ trước tới nay với chủ trương và đường lối của đảng VGCS, chúng ta thấy, nói theo cách cân đo của VN ta, sẽ là kẻ tám lạng, người nửa cân. Tám lạng là nửa cân, và nửa cân cũng là tám lạng, hai bên cân bằng về trọng lượng, ý nói không có gì khác biệt nhau.

Hiện nay, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Việt Nam là Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Ông cai quản tổng giáo phận Saigon mà danh xưng chính thức trên các văn kiện ông ký có đóng ấn là tổng giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh. Xem ra ông khoái cái tên Hồ Chí Minh hơn cái tên Saigon . Nhiều Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo nổi tiếng, được người đời ca tụng, hoặc do lòng đạo đức, hoặc do tài năng, hay những công trình trí tuê lưu lại cho hậu thế. Điều trớ trêu là HY Phạm Minh Mẫn không được biết đến nhiều đối với giáo dân VN do bất cứ một đặc điểm nào nói trên như nhiều vị Hồng Y khác, mà lại nổi tiếng nhờ vào các lời tuyên bố rất đẹp lòng đảng, và hơn nữa, vào nhiều hoạt động mục vụ mang đậm tính công cụ của ông. Hai lời tuyên bố nhớ đời của ông luôn được đồng hương tỵ nạn tại hải ngoại nhắc tới là:

- Lá cờ vàng là biểu tượng của một thói đời mang tính đối kháng. Nó làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của tuổi trẻ VN. Và,

- Tôi bảo họ, các bạn đang ở đây, các bạn không còn là người tỵ nạn nữa.

Về các hoạt động gọi là Mục Vụ Di Dân của ông Hồng Y, đáng lưu ý nhất là việc ông cùng với viên chính ủy của TGP Saigon là Lm Huỳnh Công Minh và 2 giám mục khác nữa, thân hành sang Tầu vào tháng 9-2007 theo lời mời của Bộ Ngoại Giao Tầu cộng, để dụ dỗ Giáo Hội hầm trú tại đây quy phục CS Tầu, hợp tác với giáo hội quốc doanh của CS thành một cơ cấu thống nhất theo mô hình Giáo Hội VN mà ông đang là chủ soái. Phái đoàn của ông Hồng Y chỉ được báo chí nói sơ qua, vì mục đích của chuyến đi được coi là bí mật. Vả lại nó cũng chẳng mang lại kết quả gì, nên đã bị chìm vào quên lãng. Tháng 7 năm 2008 là thời gian ông gây ra nhiều biến cố nhất trên con đường Mục Vụ Di Dân của ông, và cũng là thời gian ông bị con chiên tại hải ngoại tẩy chay và xua đuổi nhiều nhất. Từ Sydney, Úc Châu, sang đến San Jose, Portland, Seattle, Missouri, Hoa Kỳ, đâu đâu giáo dân cũng long trọng đem lá Cờ Vàng ra đón rước ông Hồng Y, nhưng chỗ nào ông cũng phải lẩn như chuột.

Lần này ông HY Phạm Minh Mẫn sang Mỹ chủ tọa đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa do linh mục Trường Luân dòng Chúa Cứu Thế tổ chức. Nói rằng ông Hồng Y sang Mỹ là do Đức Hồng Y Mahony mời, nhưng đấy chỉ là protocol, một thủ tục nghi lễ không thể thiếu trên cấp lãnh đạo, đạo cũng như đời. Lm Trường Luân, trưởng ban tổ chức, mới thực sự là người đứng ra mời HY Phạm Minh Mẫn. Một sự trùng hợp hơi kỳ lạ là sự xuất hiện của HY Mẫn xẩy ra vào đúng lúc Trung Tâm CGVN tại Nam Cali dàn dựng vở chèo Hội Đồng Liên Tôn đoàn kết cộng đồng đàng sau cái gọi là Cộng Đồng Nguyễn Tấn Lạc của Việt Tân. Hai việc này có vẻ như mang âm hưởng của hai giọng tenor và soprano rất thuần thục và điêu luyện, cùng cất lên trong một bài hợp xướng.

Giáo dân hải ngoại rất cần đến lòng thương xót Chúa. Nhờ lòng thương xót của Chúa, họ vẫn có đủ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc làm, con cái đi học, nhất là không bị đàn áp, bóc lột. So với giáo dân tỵ nạn thì giáo dân Thái Hà, Đồng Chiêm v.v. còn phải cần đến lòng thương xót của Chúa hơn gấp bội. Cha Trường Luân, xuất thân từ dòng Chúa Cứu Thế, tại sao không về VN mở lễ cầu xin Lòng Thương Xót Chúa cho giáo dân đáng thương của giáo xứ Thái Hà là xứ đạo thuộc dòng Chúa Cứu Thế cai quản, mà lại mở lễ ở bên Mỹ và mời HY Mẫn sang chủ sự? Về phần HY Phạm Minh Mẫn, tại sao khi giáo dân Thái Hà, Đồng Chiêm v.v... bị đàn áp thì HY Mẫn không đến đó mà cầu xin lòng thương xót của Chúa cho họ, mà phải lặn lội qua Mỹ cầu cho những người đã được hưởng lòng thương xót của Chúa dồi dào hơn những người ở trong nước quá nhiều rồi. Có phải cả hai đều là những chuyện nghịch lý không? Tại sao?

Vấn đề nên đặt ra ỏ đây là tại sao lại cứ phải HY Phạm Minh Mẫn mà không phải một vị nào khác? Như chúng ta đã thấy, tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Sydney, HY Phạm Minh Mẫn. Tại Đại Hội Thánh Mẫu Missouri , HY Phạm Minh Mẫn. Tại lễ khánh thành thánh đường Đức Mẹ Lavang Portland, HY Phạm Minh Mẫn. Tại nhiều events khác nữa của người công giáo tỵ nạn, cũng là HY Phạm Minh Mẫn. Và lần này đây, tại đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, lại cũng vẫn là HY Phạm Minh Mẫn. Câu hỏi là, bộ trong số các vị lãnh đạo của Giáo Hội CGVN không còn ai khác hơn hay sao, chẳng hạn Đức TGM Ngô Quang Kiệt, Đức Giám Mục Cao Đình Thuyên v.v. Mấy hôm trước đây, TGM Ngô Quang Kiệt còn ở Roma, ngài được mời chủ tọa đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa có phải tiện và hợp lý hơn không. Hội Đồng Giám Mục VN không thiếu các vị chân tu, đức hạnh, có tinh thần yêu nước nồng nàn . Mời HY Pham Minh Mẫn làm chi cho phiền phức và sinh chuyện? Sự việc dẫn đến nghi ngờ là có phải người ta đang cố tình chính trị hóa các sinh hoạt tôn giáo cho một mưu đồ nào đó không? Có phải đang có một bàn tay bí mật nào đó đạo diễn cho diễn viên HY Phạm Minh Mẫn trong tấn tuồng lôi kéo khối người công giáo tỵ nạn đi vào quĩ đạo thần phục bọn VGCS không? Mặc dầu chỉ là một nghi vấn, nhưng là một nghi vấn rất có sức thuyết phục. Ai là đạo diễn thì khó mà biết chắc được. Nhưng biết được những linh mục nào ở hải ngoại đứng ra mời hay môi giới cho HY Phạm Minh Mẫn đóng vai tuồng của ông, thì tất sẽ biết kẻ đạo diễn là ai. Những vị này nói chung, và Lm Trường Luân nói riêng không thể nào không biết HY Phạm Minh Mẫn là người thế nào.

Riêng đối với đại đa số con chiên thì họ đã biết, và biết rất rõ HY Phạm Minh Mẫn là ai. Con chiên đã biết gì, và hiểu sao khi giám mục Phạm Minh Mẫn cúi đầu chấp nhận những điều kiện bất lợi cho Giáo Hội để về cai quản TGP Saigon, trong khi Đức Cha Huỳnh Văn Nghi, người được Tòa Thánh chính thức bổ nhiệm, đã cương quyết từ chối, vì không chịu chấp nhận bất cứ một điều kiên nào của VGCS. Con chiên hiểu rằng khi Tòa Thánh chỉ định một người vào chức vụ cai quản một giáo phận, vị đó tất phải có đủ đức hạnh, khôn ngoan, can đảm, và khả năng lãnh đạo. Một giáo dân bình thường thôi cũng cảm thấy hổ thẹn khi GM Phạm Minh Mẫn nhẩy ra nhận lãnh chức TGM Saigon thay đức cha Huỳnh Văn Nghi, khi Đức Cha Nghi, người được chỉ định chính thức vẫn còn đó. Nếu đức cha Huỳnh Văn Nghi lãnh đạo TGP Saigon thì chính ủy Huỳnh Công Minh chắc chắn phải bay chức tổng đại diện TGP, vì hắn một là cán bộ đảng viên CS. Cũng vậy, tên linh mục CS Phan Khắc Từ đã bị tống cổ khỏi nhà thờ Vườn Xoài vì hắn là đảng viên CS, lại có vợ con đùm đề. Còn nhiều tên CS khác nữa khoác áo linh mục trong giáo phận, thao túng mọi sinh hoạt của giáo phận bấy lâu nay, được HY Pham Minh Mẫn bao che do điều kiện của VGCS đặt ra cho ông. Chịu nhượng bộ những đòi hỏi của VGCS, HY Phạm Minh Mẫn đã trở thành một công cụ để chúng sai khiến. Ông đã tự biến thành một thứ chó câm (danh từ của Đức GH Benedicto XVI) trước các vấn đề hết sức tang thương của cả xã hội và Giáo Hội VN hiện nay. Một kẻ vô học cũng biết uống nước phải nhớ nguồn. Ông HY Phạm Minh Mẫn sinh ra, lớn lên, được học hành, và hưởng thụ những biệt đãi dưới Lá Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ, nhưng khi được VGCS tín dụng, ông đã nhẫn tâm nói lá Cờ Vàng là biểu tượng của một thói đời mang tính đối kháng. Người dân VN yêu lá Quốc Kỳ là một cái “thói”? Thói gì? Chống đối những bất công trong xã hội là một thói đời? Chống đối bọn bán nước cho ngoại bang cũng là thói đời? Người công giáo tỵ nạn chúng tôi tin rằng yêu lá Quốc Kỳ là yêu Tổ Quốc. Một ông Hồng Y Giáo Chủ lại không hiểu điều đó. Ông bảo đó là một thói đời. Có khác gì ông chửi bổn đạo tỵ nạn chúng tôi tiêm nhiễm phải một thứ thói hư tật xấu của xã hội. Câu nói của ông Hồng Y, “Thói đối kháng” là một câu chủi rủa quá nặng nề đối với con chiên bổn đạo. Họ phải giải thích làm sao với những anh chị em khác tôn giáo của họ đây? Kẻ vô học chắc cũng không ăn nói quá lỗ mãng, đối xử quá sức tàn tệ như thế.

Từ những điểm nêu trên, ta có thể đi đến kết luận về HY Phạm Minh Mẫn rằng, ông chẳng khác gì bọn VGCS, cũng là kẻ tám lạng, người nửa cân thôi. Đây nhá, với bọn VGCS, để giữ vững quyền lực và tiền bạc ăn cướp được, chúng đã cả dám bán đất, bán biển, bán hải đảo cho Tầu cộng, hình như còn muốn bán luôn nước cho Mỹ nữa. Còn HY Phạm Minh Mẫn, để được lên làm Hồng Y giáo chủ, ông đã ra tay hủy diệt Lá Cờ Vàng, tức là hủy diệt lòng yêu nước của giáo dân, Và đã phải chấp nhận chịu làm kiếp “chó câm” (xin nhắc lại, tiếng của Đức GH Benedicto XVI) trước các vấn đề trọng đại của Giáo Hội và của đất nước. Hủy cái gì thì hủy, nhưng hủy diệt lòng yêu nước của người dân, thì đất nước sẽ phải đời đời kiếp kiếp làm nô lệ thôi. Một ngàn phần trăm chắc chắn như thế. Khi người dân đã mất sạch lòng yêu nước, thì biển, đảo, đất đai không bao giờ còn trông mong lấy lại được. Điều kiện gì thì điều kiên, chấp nhận điều kiện không được nói đụng chạm đến chế độ, phải lưu dụng bọn linh mục quốc doanh, thì đạo Công Giáo đã mất đi cái bản sắc của mình là một tinh thần bác ái cao cả: giải thoát người bị áp bức, bênh vực kẻ cô thế, giúp đỡ kẻ nghèo hèn, chống đàn áp bất công, rao giảng chân lý v.v... Mất đi những thứ đó mà chỉ còn giữ lại cái xác là những ngôi nhà thờ nguy nga, những lễ lạt linh đình, những rước xách rầm rộ v.v... thì đạo còn có nghĩa lý gì. Lối giữ đạo này thật khác xa với cách thức Chúa Giêsu đã dậy để tôn kính Thiên Chúa. Ngài nói: “Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm đến những ai thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24)

Tóm lại, xin được thu gọn cái nửa cân và cái tám lạng như thế này cho dễ thấy:

- VGCS: - mất đất, mất đảo, mất biển của Tổ Quốc

- để giữ đảng.

- HY Phạm Minh Mẫn: - mất tinh thần yêu nước của người dân, mất đi bản sắc của

một tôn giáo.

- được làm Hồng Y Tổng Giám Mục Saigon.

Trong các nhà thờ VN, giáo dân vẫn thường hát rằng: Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời. Đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa của cha Trường Luân mời HY Phạm Minh Mẫn đến chủ tọa bị cộng đồng giáo dân tỵ nạn phản đối. Sự thể không thể chối cãi là cuộc đại lễ trở thành mất hòa khí, không có tình yêu thương giữa các người con cái Chúa. Như vậy thì liệu ở đấy có Đức Chúa Trời không? Cái nguyên nhân gây ra bất hòa không phải do giáo dân, mà là do HY Phạm Minh Mẫn. Sự xuất hiện trong buổi lễ của ông Hồng Y là một thách đố hết sức kiêu căng. Ông Hồng Y biết sẽ có sự chống đối của giáo dân. Ông vẫn tới tức là ông đã đạp lên dư luận mà đi. Người tín hữu khó tin được một chủ chăn hiền lành và nhân từ lại hành sử như thế.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Saturday, April 10, 2010

Cờ Bay - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tái Chiếm Quảng Trị 1972







Chữ Quốc Ngữ Được Công Giáo Khai Sinh Năm 1651 - Trần Văn Cảnh


Alexandre de Rhodes

Gs Trần Văn Cảnh

Năm 1651 cho xuất bản hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên: cuốn «Tự điển việt bồ latinh» và cuốn giáo lý công giáo «Phép giảng tám ngày», cha Đắc Lộ, dòng Tên, đã khai sinh ra chữ quốc ngữ. Nhưng góp phần vào công việc này, có sự đóng góp của nhiều giáo sỹ và giáo dân khác. Lại có cả phần đóng góp của Thánh bộ Truyền giáo ở Giáo triều Rôma nữa. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã dùng tựa đề «Chữ quốc ngữ đã được Công Giáo khai sinh năm 1651».

1. Cuốn «Tự điển việt bồ latinh», có tên bằng tiếng latinh là «Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°,

Cha Đắc Lộ cho biết sở dĩ ngài soạn được cuốn từ điển này là vì thứ nhất ngài đã lưu trú 12 năm cả ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Thứ hai ngài đã học tiếng Việt, nhất là về thanh và âm, với một cậu bé việt nam 13 tuổi. Thứ ba ngài cũng đã học tiếng việt với cha Francois de Pina người Bồ, là người ngoại quốc thứ nhất rất thông thạo tiếng Đàng Trong, người thứ nhất giảng mà không cần thông dịch viên. Thứ bốn ngài đã xử dụng từ điển Việt Bồ của cha Gaspar d’Amaral và từ điển Bồ Việt của cha Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ.

Đỗ Quang Chính đã mô tả như sau: «Cuốn tự điển được soạn bằng ba thứ chữ Việt-Bồ-La (mà tên sách chỉ đề bằng chữ Latinh, rõ rệt hướng tới độc giả giáo sỹ truyền giáo âu châu), với hai mục đích đã được tác giả ghi rõ: thứ nhất, giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt, để có thể truyền giáo; thứ hai, chiều theo ý muốn của một số vị Hồng y ở La Mã, thêm chữ La tinh vào, để người Việt Nam có thể học thêm La ngữ.

Cuốn tự điển gồm ba phần chính:

- Lingvae Anmiticae seu Tvnchinensis brevis declaratio, 31 trang, từ trang 1 đến 31, được sắp lên đầu cuốn tự điển va được đánh số tách biệt với cuốn tự điển. Ðây là cuốn ngữ pháp Việt Nam, nhưng soạn thảo bằng La ngữ, với mục đích cho người Tây phương học. Tuy sách vắn, nhưng tác giả cũng chia ra 8 chương rõ rệt, không kể Lời Nói Ðầu:

Chương I: Chữ và vần trong tiếng Việt (De literis et syllabis quibus haec lingua constat). Chương II: Dấu nhấn và các dấu (De Accentibus et aliis signis in vocalibus). Chương III: Danh Từ (De Pronominibus).
Chương IV: Ðại danh từ (De Pronominibus).
Chương V: Các đại danh từ khác (De aliis Pronominibus).
Chương VI: Ðộng từ (De Verbis).
Chương VII: Những phần bất biến (De reliquis orationis partibus indecli nabilibus).
Chương chót: Cú pháp (Praecepta quaedam ad syntaxim pertinentia).

- Dictionarivm Ananmiticvm seu Tunchinense cum Lusitana, et Latina declaratione. Phần này không đánh số trang nhưng ghi theo cột chữ (mỗi trang có hai cột chữ). Từ đầu đến cuối là 900 cột, từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để cách một trang trắng, có khi hai trang trắng. Một điều khác đặc biệt với tự điển Việt Nam ngày này, Ðắc Lộ thêm mẫu tự /b sau mẫu tự b. Thực ra đó là một số chữ thuộc mẫu v bây giờ.

Ví dụ: /bá (vá: vá áo), /bã (vã: vã nhau, tát nhau), /bạch (vạch: vạch tai ra mà nghe), /bậy (vậy: ấy vậy), /bán (ván: đỗ, đậu ván), /bỗ (vỗ: vỗ tay), /bỏ (vỏ: vỏ gươm), /bua (vua: vua chúa), /bú (vú) . Mẫu tự /b này chiếm 10 cột, tức 5 trang giấy.

- Index Latini sermonis là phần thứ ba cuốn tự điển. Trong phần này, tác giả liệt kê chữ La tinh có ghi trong phần hai và bên cạnh mỗi chữ có đề số cột, với mục đích để người học tiếng Việt, nếu đã biết La tinh, thì dò theo phần này để tìm chữ Việt ở phần kia. Trong phần này không đánh số trang, cũng không ghi số cột (mỗi trang có hai cột chữ). Chúng tôi đếm được 350 cột tức 175 trang. (Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Ra khơi: Sài gòn 1972, tr. 84-86)

2. Cuốn giáo lý «Phép giảng tám ngày» có tên bằng tiếng latinh và tiếng việt như sau: «Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chiụ phép rửa tội, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa trời. Ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°. (Hình chụp sách chính bản, lưu trữ tại Thư Viện Á châu, Hội Thừa sai Hải Ngoại Paris)

«Ðây là một cuốn giáo lý mà tác giả muốn viết cho những người dậy giáo lý dùng. Cuốn sách được viết bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh (chữ xiên), bên tay phải là chữ Việt (chữ đứng). Ðể độc giả dễ dàng đối chiếu hai thứ chữ, Ðắc Lộ đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc ... cho hai phần La Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc ... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách có 319 trang, không đề Lời tựa. Sau trang bìa và trang ghi ngày được phép in sách, là đến phần chính ngay.

Viết sách này, tác giả không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học, có tính cách sư phạm, và như chúng ta đã biết là sách được chia ra Tám ngày. (Đỗ Quang Chính, Ibid., tr. 86)

3. Cha Đắc Lộ đã học tiếng việt và cho in hai sách trên thế nào ?. Ở một chỗ khác, trong một bài tường thuật ngắn, cha Đắc Lộ đã vắn tắt mô tả những bước đầu truyền giáo của ngài từ năm 1624 tại Việt Nam, việc học tiếng việt và việc xuất bản hai tập sách trên. Ngài nhắc lại việc cần thiết phải chuyên cần học tập tiếng việt nếu muốn truyền giáo hiệu quả, ngài cũng nhắc đến việc ngài học tiếng việt với một cậu bé việt nam và việc in sách tự điển, ngữ pháp và giáo lý. Ngài viết: Vì Nhật Bản vẫn thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, nên bề trên tin rằng Chúa cho phép sự ác đó để mở cửa cho Đàng Trong nhận Phúc âm.

Thế là năm 1624, bề trên phái cha Mathêu Mattos, trước kia ở Rôma làm quản thủ các tỉnh dòng, đến thăm việc truyền giáo ở Đàng Trong, cùng với năm bạn đồng sự người Âu, trong số đó tôi hân hạnh là người thứ năm và một người Nhật thông thạo chữ Hán.

Chúng tôi khởi hành từ Macao vào tháng 10 năm 1624 và sau mười chín ngày thì tới Đàng Trong, tất cả đều hồ hởi bởi hoạt động tốt. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông tạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác hẳn tiếng Tàu. Tiếng mới này còn thông dụng ở Đàng Ngoài, ở Cao Bằng, ở Đàng Trong và người ta còn nghe và hiểu ở ba xứ lân bang khác. Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được.

Hết các tiếng đều độc vận và chỉ phân biệt ý do nhiều giọng nói khác nhau. Một chữ như “đại” chẳng hạn, có tới hai mươi ba nghĩa hoàn toàn khác nhau, do cách đọc khác nhau, vì thế khi nói thì như ca như hát. Tôi đã đề cập tới nhiều hơn trong cuốn Lịch sử Đàng Ngoài. Căn cứ vào đó thì thấy học thứ ngôn ngữ này không phải là dễ.

Vì thế mà tôi thấy cha Fernandez và cha Buzomi phải dùng thông ngôn để giảng, chỉ có cha Francois de Pina không cần thông ngôn vì nói rất thạo. Tôi nhận thấy bài ngài giảng có ích nhiều hơn bài các vị khác. Điều này khiến tôi tận tuỵ học hỏi, tuy vất vả, thế nhưng khó ít mà lợi nhiều. Tôi liền chuyên chú vào việc. Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng như khi xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma. Chúa đã cho tôi trong bốn tháng tôi đủ khả năng để ngồi tòa giải tội và trong sáu tháng tôi đã giảng được bằng ngôn ngữ Đàng Trong và cứ thế tôi tiếp tục trong nhiều năm. Tôi khuyên tất cả các vị nhiệt tâm muốn tới những tỉnh dòng chúng tôi để chinh phục các linh hồn, thì nên chuyên cần ngay từ buổi đầu. Tôi cả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các mầu nhiệm trong ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời từ miệng nhà truyền đạo có Thánh Thần ban sinh khí.

Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực thế, cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng cụ rất tốt để tôn thờ Chúa trong giáo đoàn và cả ở nước Lào, nơi cậu hoạt động trong nhiều năm với thành quả mỹ mãn, cậu rất mến thương tôi nên đã muốn lấy tên tôi.

Từ ngày tôi trở về Au Châu, tôi đã cho in ở Rôma, nhờ các vị ở bộ Truyền giáo, một tự vị tiếng Đàng Trong, Latinh và tiếng Bồ, một cuốn ngữ pháp và một cuốn giáo lý, trong đó tôi bàn giải về phương pháp chúng tôi dùng để trình bày mầu nhiệm đạo thánh cho lương dân. Việc này sẽ có ích cho những người ao ước tới giúp việc giảng Chúa Kitô bằng ngôn ngữ tới nay chỉ dùng để sùng bái quỷ ma. (ALEXANDRE DE RHODES, HÀNH TRÌNH VÀ TRUYỀN GIÁO, chương 3, do Nguyễn Khắc Xuyên dịch). (http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=136&ict=319)

4. Ai là tác giả của hai tác phẩm này ?

Vì tên tác giả đề ngoài sách chỉ có tên cha Đắc Lộ, thông thường chúng ta vẫn hiểu rằng đó là tác phẩm của riêng cha Đắc Lộ. Cách hiểu này không đúng với sự thực. Về cuốn từ điển, thì chính cha Đắc Lộ đã nói rõ trong lời tựa nói với độc giả rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của cuốn từ điển Việt - Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn và từ điển Bồ Việt của Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ.

Và một cách tổng quát, trong một nghiên cứu mới đây, cha Jacques ROLAND đã đưa ra một trả lời thực tế như sau: «Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt Nam do Bộ Truyền Bá Ðức Tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng; mục đích duy nhất là phục vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người duy nhất ở Roma biết đến ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng cho các tác phẩm liên hệ, mang lấy trách nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và trước Toà Thánh. Sự kiện tên ông xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh chứng rằng ông là "tác gia" duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã thực hiện, chứ không phải là nêu lên tư cách tác giả văn chương theo nghĩa chính xác như chúng ta hiểu; những vị có thể làm điêu này y như cương vị của ông, hoặc có thể cùng làm việc này với ông, thì lại ở xa mút tại một nơi khác.

Còn cuốn giáo lý, có lẽ phải dành tư thế tác giả cho ông trong việc biên tập dứt điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn nữa là bản văn la tinh được ông minh nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã ghi rằng, trong trường hợp này đây là "phương pháp mà chúng tôi đã dùng để trình bày các màu nhiệm của chúng ta cho người ngoại quốc". Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công trình tập thể». (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/specials/1232_jacques_roland/page7.shtml)

5. Các giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ trước khi hai sách trên được xuất bản.

Trong tác phẩm nghiên cứu rất nghiêm chỉnh về «Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659», Linh mục Đỗ Quang Chính, dòng Tên, đã mở đầu chương 2, bàn về «Sơ lược giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ (1620-1648) bằng lời xác định tổng quát rằng: «Chữ Việt ngày nay là một thứ chữ đã được nhiều linh mục Dòng Tên ở Việt Nam (với sự cộng tác âm thầm của một số Thầy giảng Việt Nam) vào thế kỷ 17 sáng tạo ra. Nói một cách tổng quát thì họ đã dùng mẫu tự La tinh, rồi dựa vào phần nào của chữ Bồ Đào Nha, Ý và mấy dấu Hy Lạp, để làm thành chữ mà chúng ta đang dùng». (Đỗ Quang Chính, Ibid., tr. 19-76)

Dựa vào những tài liệu gốc, viết tay, tìm được trong các văn khố, cha Chính đã phát hiện ra hai yếu tố căn bản phân chia sự biến chuyển trong tiến trình thành hình của chữ quốc ngữ 1620-1648. Rồi tựa vào đó, cha đã nêu ra hai giai đoạn thành hình của chữ quốc ngữ trước ngày hai cuốn sách của cha Đắc Lộ được phổ biến năm 1651. Hai giai đoạn đó là: Giai đoạn sơ khởi chữ quốc ngữ 1621-1626 với các đặc tính chung là «hầu hết các chữ còn viết liền và chưa thấy đánh dấu vào những chữ đó», và giai đoạn hai 1631-1648 mà hai đặc tính chung là «Chữ quốc ngữ đã được viết khá đúng về hai phương diện: cách ngữ và dấu».

51. Giai Ðoạn Sơ Khởi (1620-1626)

Các nhà truyền giáo Âu Châu đã đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. «Sang đến đầu thế kỷ 17, các nhà truyền giáo dòng Tên gồm người Âu châu và một số ít người Trung hoa, Nhật bản, mới chính thức đến truyền bá Phúc âm ở Việt Nam, và hoạt động của các ông đã được ghi lại khá đầy đủ.

Ngày 06.01.1615, ba tu sĩ Dòng Tên là hai lm Francesco Buzomi (Ý), Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Dias (Bồ Đào Nha), đáp tầu buôn Bồ Đào Nha từ Áo Môn đi Đàng Trong, và tới Cửa Hàn ngày 18.01.1615. Sau đó mấy tháng các ông đến ở Hội An …

Ba nhà truyền giáo mà chúng ta vừa nói, đến Hội An với mục đích đầu tiên là giúp đỡ giáo hữu Nhật về mặt tôn giáo, và nhờ người Nhật làm thông ngôn để tiếp xúc với người Việt Nam. Sau năm 1615, nhiều tu sĩ Dòng Tên khác không những đến truyền giáo ở Đàng Trong mà cả Đàng Ngoài nữa, nhưng đa số là người Bồ Đào Nha.

Các nhà truyền giáo tới Việt Nam thời ấy đều phải học tiếng Việt mới có thể tiếp xúc với người Việt Nam. Theo chúng tôi biết thì Lm Francisco de Pina là người Âu châu đầu tiên nói thạo tiếng Việt. Pina sinh năm 1585 ở Bồ Đào Nha, ông tới Đàng Trong năm 1617. Lúc đầu sống ở Hội An, sang năm 1618 ông ở tại Nước Mặn với Buzomi và Borri. Hai năm sau, ông trở lại Hội An, rồi năm 1623, Pina đến ở tại Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh. Pina chết đuối ở bờ bể Quảng Nam ngày 15.12.1625.

Nhờ biết tiếng Việt, nên ngay từ năm 1620, các tu sĩ Dòng Tên tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng «chữ Đàng Trong», tức là chữ Nôm. Cuốn sách này vì soạn bằng chữ Nôm, nên chắc chắn phải có sự công tác của người Việt.

Nhưng chúng tôi tưởng cuốn sách này cũng được viết bằng chữ Việt mới nửa (chữ quốc ngữ ngày nay), mà người có công soạn thảo là Lm Francisco de Pina, ví lúc đó chỉ có ông là người Âu châu thạo tiếng Việt nhất ….

Theo sự nhận xét của chúng tôi thì vào năm 1620 dù Lm Pina đã nói được tiếng Việt, nhưng khó lòng mà phân biệt được lối cách ngữ như chúng ta đang dùng ngày nay. Dựa vào những tài liệu viết tay năm 1621-1626, chúng tôi tôi biết được hầu hết các chữ còn viết liền và chưa thấy đánh dấu vào những chữ đó. Chính dựa theo hai đặc điểm này mà chúng tôi cho là giai đoạn sơ khởi chữ quốc ngữ. (Đỗ Quang Chính, Ibid., tr. 20-24)

Bảy tài liệu viết tay đả được trình bày. Đó là những tài liệu của : Joao Roiz năm 1621, Gaspar Luis năm 1521, Cristoforo Borri năm 1621, Đắc Lộ năm 1625, Gaspar Luis năm 1626, Antonio de Fontes năm 1626 và Francesco Buzomi năm 1626. Trong những tài liệu này, các chữ thường được viết liền và không có đánh dấu.

Thí dụ:
    - Annam = An Nam
    - Unsai = Ông Sãi
    - Ungue = Ông Nghè
    - Bafu = Bà Phủ
    - doij = đói
    - scin mocaij = xin một cái
    - Sayc Chiu = Sách chữ
    - Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết
52. Giai Ðoạn Hai (1631-1648)

Sang giai đoạn hai 1631-1648, 11 tài-liệu viết tay đã được nhắc đến.
    * Năm tài liệu của cha Đắc Lộ, viết vào tháng 1.1631, tháng 5.1631, năm 1636, năm 1644 và năm 1647
    * Hai tài liệu của Gaspar d’Amaral năm 1632 và năm 1637
    * Hai tài liệu về biên-bản hội-nghị viết tay năm 1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng tiếng Việt Nam : năm 1645 và 1648.
Mười một tài liệu này cho thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đã được bỏ dấu.

Nhiều chữ nhìn tương tự như chữ quốc ngữ ngày nay, nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác.
    · Thính hoa: Thanh Hóa
    · Ong bà phủ: Ông bà Phủ
    · Huỵen: huyện
    · Sãy: sãi
    - Chua thanh đô (Chúa Thanh đô, Thanh đô vương Trịnh Tráng)
    - Chua cả (Chúa Cả, tước hiệu dành cho Trịnh Tạc)
    - Đức Chuá Blờy sinh ra chín đớng thiên thần la cuôn cuốc Đức Chuá Blờy (Đức Chúa Trời sinh ra chín đấng thiên thần là quân quốc Đức Chúa Trời)

Nhiều chữ được viết như chữ quốc ngữ ngày nay.

Thí dụ như:
    · Nghệ An
    · Bố Chính
    - Kẻ chợ
    - đàng ngoài
    - một nam, một nữ
(Đỗ Quang Chính, Ibid. tr. 20-76)

LỜI KẾT

Với hai cuốn sách Tự điển Việt Bồ Latinh và Giáo lý ấn hành năm 1651, cha Đắc Lộ đã chấm dứt thời gian thai nghén và đã làm khai sinh cho chữ quốc ngữ. Dĩ nhiên cha không phải là người duy nhất mà chỉ là một trong nhiều người đã góp phần thành lập chữ quốc ngữ. Nhưng cha là người có công rất nhiều trong việc soạn thảo và xuất bản hai cuốn sách này. Viết «Lời giới thiệu» cho tập khảo cứu «Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659» của Đỗ Quang Chính, giáo sư sử học Nguyễn Thế Anh đã nhận định một cách chính đáng rằng: «Để thực hiện công cuộc truyền đạo của họ tại Đại Việt, các giáo sĩ Dòng Tên ngay từ khoảng đầu thế kỷ thứ XVII đã cố gắng tạo nên một lối chữ viết căn cứ trên mẫu tự la tinh, nhờ đó có thể diễn tả ngôn ngữ Việt. Từ những sự dò dẫm phiên âm các nhân danh và địa danh lúc ban đầu, cho đến lúc Đắc Lộ cho xuất bản hai sách quốc ngữ đầu tiên vào năm 1651, các cố gắng tập thể của các nhà truyền đạo Tây Phương cho phép thành lập chữ viết của chúng ta ngày nay». (Đỗ Quang Chính, sđd, Lời giới thiệu, tr. 5)

Góp phần sáng tạo chữ quốc ngữ và cho ấn hành hai tác phẩm tiếng việt đầu tiên, cha Đắc Lộ cũng như các giáo sĩ Dòng Tên chỉ nhắm có hai mục đích: thứ nhất, giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt, để có thể truyền giáo; thứ hai, để giúp người Việt Nam có thể học thêm La ngữ.

Trong mục tiêu thứ hai, chữ quốc ngữ đã được đưa vào chương trình đào tạo các tín hữu việt nam ưu tú, để đào tạo họ thành thầy giảng và thành linh mục (thời Thừa Sai Hải Ngoại Paris, từ 1666). Đó là lý do khiến, ngay từ buổi đầu, một số tín hữu việt nam đã thông thạo chữ quốc ngữ và đã viết được những tác phẩm giá trị, như tập «Lịch sử nước Annam» của thầy giảng Bento Thiện, viết tay năm 1659.

Sau cha Đắc Lộ, nhiều giáo sĩ Âu châu tiếp tục công việc nghiên cứu chữ quốc ngữ: Trong lãnh vực tự điển, có rất nhiều tác giả, trong đó phải kể đến Đức cha Bá Đa Lộc (Pierre Pigneaux, évêque d’Adran ; Vocabularium Anamitico-Latinum - Pondichéry, 1772. - [70]-729 p.; 35 cm.); Đức cha Taberd Từ (Jean-Louis Taberd ; Dictionarium latino-anamiticum;– Se-rampore: ex Typis J. C. Marshman, 1838. - LXXXVIII-708- VIII-135 p.; 28 cm.),…

Trong lãnh vực sách quốc ngữ với những tác phẩm của cha Philipphê Bỉnh, của cố Pierre Cadro Lương, … chữ quốc ngữ đã mở đầu một nền văn học công giáo.

Chẳng bao lâu sau đó, những nhà văn quốc ngữ đã xuất hiện, như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của. Rồi sự ra đời vào năm 1865 của tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Nam kỳ, tờ «Gia định báo»; Từ 1905, chữ quốc ngữ lại được các nho gia cách mạng trong phong trào duy tân Đông Kinh Nghĩa Thục, như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Phan Chu Trinh,… cổ võ và truyền bá. Chẳng bao lâu sau, chữ quốc ngữ đi vào học trình các trường sư phạm, đại học, thông ngôn. Năm 1907, Đông Cổ Tùng Báo ra đời với chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Nhiều báo khác tiếp theo, như Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Nam Phong tạp chí với Phạm Quỳnh ?.... Các nhà in được thiết lập, hội dịch sách ra đời,… Công việc biên khảo và phê bình phát triển,…Các ký sự, tiểu thuyết mới xuất hiện,… Thơ mới ra đời, .. Tự Lực Văn Đoàn,… cả một nền văn học mới đã được chữ quốc ngữ mở ra, mang theo một nền văn hóa mới, đặt căn bản trên tự do và trách nhiệm cá nhân, hướng về tương lai, dựa vào khoa học khách quan, xây dựng quốc gia trên nền tảng công ích, lương thiện, sự thật và công bình. (Xin xem Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên, tập 3: Văn học hiện đại 1862-1945).

Chuẩn bị năm thánh 2010, để «Nhìn lại quãng đường lịch sử gần 500 năm truyền giáo qua 3 thời kỳ: 126 năm Bảo Hộ (1533-1659), 300 năm Tông Toà (1659-1960), đặc biệt là 50 năm Chánh Toà (1960-2010)», mọi thành phần Dân Chúa chung lòng chung sức với hàng Giáo phẩm xây dựng một Giáo Hội hiệp thông, Giáo Hội tham gia, và Giáo Hội vì loài người, nhằm tạo thuận lợi cho việc thi hành cách có hiệu quả hơn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô, trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới hôm nay.

Vào Việt Nam từ 1533, công giáo đã mang Tin Mừng cho người Việt Nam. Khai sinh ra chữ quốc ngữ vào năm 1651, công giáo đã đưa ra những đóng góp tạo hình quan trọng của mình vào văn hóa việt nam.

Paris, ngày 01 tháng 04 năm 2009
Xem lại ngày 10 tháng 01 năm 2010

Trần Văn Cảnh