Saturday, January 16, 2010

Đừng nghe những gì … - Nguyễn thanh Ty


Nguyễn thanh Ty


Thời Tông Tông Nguyễn văn Thiệu còn ngồi trên ngai vàng, Việt cộng không có ngán ông chút nào hết. Ngày nào chúng cũng pháo kích, đặt mìn, đào đường đắp mô, phá rối, khủng bố … đủ thứ chuyện trên đời, để lật nhào ông và làm cho chế độ tự do mau sụp đổ để chúng vào cai trị, đè đầu, đè cổ dân chúng miền Nam.

Thậm chí, chúng còn cho người “chui cao, luồn sâu” tận giường ngủ của ông để đêm đêm thọt cù lét cho ông nhột chơi nữa.

Nhưng khi, ông không còn cơ hội cầm cờ trong tay để phất nữa, thì chúng lại sợ và thù ông chí chết.

Cả một đời làm tổng thống, ông Thiệu chỉ để lại cho hậu thế một câu danh ngôn “đáng đồng tiền bát gạo”, giá trị hơn nhiều tỷ Mỹ Kim, hơn hẳn 36 tấn vàng mà Bắc Bộ Phủ vội vàng bợ về Bắc chia chác cho nhau ngay những ngày đầu 75.
    “Đừng nghe những gì cọng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cọng sản làm”
Câu danh ngôn này, ba mươi mấy năm qua, đã làm cho Việt cộng xang bang xất bất. (không phải cho người Việt hải ngoại tha bang thất quốc đâu)

Nó trở thành một câu “thần chú” vô cùng hiệu nghiệm để hoá giải các chiêu thức của Vi Xi đưa ra “mà mắt thiên hạ”.

Câu “thần chú” này được “nhân dân hóa” thành một “khẩu quyết” dễ nhớ, dễ thuộc để đối phó với ngón võ “Ơn Đảng, ơn Bác”.

Việt cộng bất cứ làm gì, nói gì, ban hành nghị quyết gì, người dân chỉ đọc câu “khẩu quyết” trên là mọi sự đều hóa giải thành con số không hết trọi.

Việt cộng lo sợ, điên đầu và căm thù cái “khẩu quyết” này vô cùng tận. Nhưng cũng không tìm ra chiêu thức mới nào để trừ khử tiêu diệt được nó.

Càng ngày cộng sản càng lộ chân tướng là con cáo đội lốt người, người ta mới thấy và khâm phục “tuệ nhỡn” của Tông Tông Thiệu. Nó giống y chang câu nói của tướng độc nhãn Do Thái Mosche Dayane: Muốn thắng Cộng sản thì hãy cho Cộng sản vô nhà.

Bây giờ thì cộng sản đã “lọt ổ” vô nhà rồi. Bây giờ thì cộng sản tuy tiếng rằng chiếm được đất nhưng đã thấm đòn bị thua. Từ thua tới thua trên mọi con đường: Chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn … nhất là nhân tâm. Người dân trong nước phản kháng chế độ hà khắc bằng cách bất hợp tác. Do sự kiêu căng, hãnh tiến và ngu dốt, họ đã kéo lùi dân tộc ngày càng trở về thời đồ đá, đồ đồng và bây giờ là đồ đểu.

Bây giờ thì Đảng ta ra sức hô hào đổi mới. “Đổi mới hay là ngỏm củ tỉ ” câu khẩu hiệu này đã được trương lên hơn hai mươi năm. Có lẽ dân miền Bắc thấy nó có đổi mới thật. Nhưng dân miền Nam thì thấy nó cũ xì. Nó đang trở lại y chang thời kỳ trước năm 1975 hay còn tệ hơn thế nữa.

Từ chiếc áo dài tha thướt được phục hồi thay cho bộ đồng phục vải Nam Định nhuộm nâu, nhuộm xám ngoài Bắc tràn vô, cho chí mấy cái “văn hóa đồi trụy” như thi tuyển hoa hậu, nhảy đầm … được Đảng ta ra sức phát huy và được long trọng gọi tên khác đi (tránh bắt chước tụi Ngụy) là “Duyên dáng Việt Nam” và “múa đôi” cho có vẻ “đậm đà bản sắc dân tộc” và “hoành tráng - ấn tượng”

Mấy bà già trầu, “má nuôi chiến sĩ” ngày xưa từng đào hầm, gánh gạo nuôi giấu “cán bộ ta” nay mất ruộng, mất nhà, ra vỉa hè nằm lăn lóc, xin ăn qua ngày, há hốc miệng ra, kêu lên:

- Chèng ơi! Sao thấy giống hồi thời Mỹ Ngụy dzậy cà? Nói cách mạng đổi mới sao không thấy tới mà cứ thấy thụt lùi hoài dzậy? Lão Thiệu nói thiệt đúng! Cách mạng mình nói dzậy mà không phải dzậy! Ơn Bác, ơn Đảng! Thiệt tình!

Nói dzậy mà không phải dzậy!

Mời độc giả xem qua cái quyết định dưới đây để coi Đảng ta “Nói dzậy mà…”
    Quyết định số: 1568/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 11 năm 2006

    THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

    Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

    Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;

    Xét đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương,

    Quyết định:

    Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.

    Điều 2: Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương…

    Chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật.


    Điều 4: Bộ Quốc phòng (Quân khu 7) thực hiện việc di chuyển… hoàn tất trong tháng 7 năm 2007.

    Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng (ấn ký)

    (Công báo số 09-10 (7/12/ 2006)
Trước khi xem cái Quyết định này có ý nghĩa gì, xin mời quý đọc giả lượt qua môt đoạn phim ngắn về “quá trình công lao” của tướng râu kẽm Nguyễn cao Kỳ cho cái thành quả này..

Phim có tính chất giả tưởng.

“Phó vương Kỳ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, vễnh hàm râu kẽm, hùng dũng tuyên bố với binh sĩ: - Chúng ta quyết đánh tụi Vi Xi đến giọt máu cuối cùng”. Xế chiều, trên TV người ta thấy Phó vương bay trực thăng ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Cảnh tiếp theo Phó vương xô chiếc trực thăng xuống biển để hạ quyết tâm: - Không đánh đuổi được tụi Vi Xi ra khỏi nước, quyết không về! (Giống câu thề khi đi nhậu: Không say không về!)

Nhiều năm (bắt chước Bác) tìm đường cứu nước tại Mỹ, Phó vương Kỳ bị thất bại liên miên. Đêm đêm ông mài kiếm dưới trăng, vừa uống X.O vừa chửi trời, chửi đất và chửi đời. Đời đã đá ông bầm dập. Không giống như trong hồi ký ông tự viết về đời mình như là “một đứa con cầu tự”. Đi đánh cá thì cá trốn ráo trọi. Bán ghe lên bờ, mở tiệm rượu. Khách chưa kịp đến mua thì Phó vương sẵn buồn tình trong lòng, nên uống hết sạch. Sập tiệm. Hết vốn vay mượn, phải đến ở nhờ nhà đàn em kiếm cơm qua ngày. Gia đình ly tán. Vợ là Đặng thị với con gái bỏ đi làm MC ca nhạc để mưu sinh.

Năm 1992, Phó vương làm đơn xin về nước, bắt chước Hàn Tín áp dụng “khổ nhục kế” để mưu đại sự. Bắc Bộ phủ vừa nghi kỵ vừa hận về mối thù cũ nên sổ toẹt đơn của Phó vương, không cho về.

Trong thời gian ẩn nhẫn đợi chờ thời cơ, Phó vương chiếm được trái tim bà vợ của đàn em mà mình đang ăn nhờ ở đậu. Người đàn em bị đàn anh “vi chủ thành khách” bèn “ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu!.

Tháng 6 năm 2003, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt cộng, Trần đình Bin, sang Mỹ làm công tác kiều vận, kêu gọi “đàn bò sữa đem sữa về nhiều thêm”. Phó vương chớp thời cơ mời Bin đi đánh gôn và ăn cơm nhà hàng. Dịp này, Phó vương xin Bin giúp cho về “thăm quê hương” một chuyến. Lấy cớ là tuổi già sắp theo Bác. Bin ngẫm nghĩ hồi lâu rồi gật đầu đồng ý giúp.

Năm đó, Phó vương về, đi lông rông, không làm nên tích sự gì vì Bắc Bộ phủ còn cho “âm binh” theo dõi và điều tra hành vi nhất cử nhất động “diễn tiến hoà bình” của tên phản động nhiều nợ máu với nhân dân.

Cũng thời gian đó, ở hải ngoại không hiểu được “chí lớn” của Phó vương cứ cho là tên phản bạn lừa thầy nên chửi rủa, thóa mạ kịch liệt. Trước những phản ứng gay gắt, giận dữ của tập thể “huynh đệ chi binh” và Cộng đồng người Việt hải ngoại, Phó vương chỉ nhếch hàm râu kẽm cười khinh bỉ. Cho bọn lính tráng và đám phó thường dân ganh ăn, ghét ở, là lũ chuột nhắt hồ đồ, là chim se sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng, chim hộc.

Qua năm sau, Phó vương lập được công lớn. Lần này về nước, Phó vương dẫn theo mấy tay “đế quốc tư bản” mang kè kè túi bạc đô la xanh kếch sù, tìm kiếm đất đai tốt để lập nơi du hí. Bắc Bộ phủ thấy đô la đổ ra ào ào, híp mắt sung sướng. Từ đó, Phó vương được Đảng ta tin dùng, nhưng cũng “có mức độ”. Những lời nói của Phó vương đều được “trên” xem xét, mớm trước rồi mới được phát. Hoặc lúc cao hứng, bốc đồng Phó vương có phát ngôn loạn xị thì báo chí cũng được lệnh cắt xén, ráp nối thành những “hòn đá bắn hai chim”, làm cho Phó vương ở cái thế toòng teng “đi chẳng nở, ở không xong”.

Dịp may đến lần thứ hai, phước vô đơn chí, họa bất trùng lai, năm 2005, nhân dịp Tể Tướng Khải sang Mỹ cầu viện đô la, phu nhân mới của Phó vương (vợ của đàn em bị chiếm) thỏ thẻ với đức lang quận: -Thiếp có họ hàng với Tể Tướng Khải, tướng công nên tìm cách cận kề thì sẽ được nhiều lợi lộc về sau.

Vợ chồng Phó vương y kế, tìm cách lân la mời Tể tướng Khải đi “in roi” mấy chổ nhảy sexy. Kết quả rất mỹ mãn. Tể tướng Khải hứng chí ra mặt.

Nhưng ban đầu, Tể Tướng Khải vẫn có thói quen “cảnh giác”, địch lúc nào cũng tìm cách xâm nhập phá hoại ta nên có ý nghi ngờ, e mụ này ý đồ “thấy sang bắt quàng làm họ” nên bắt mụ phải kinh qua “thử máu nhận họ”. Nếu đúng, mới cho lại gần.

Hai người nhỏ máu đầu ngón tay vào ly … nước lã. Hai giọt máu dần dần hòa vào nhau và lạ thay môt ngôi sao vàng hiện lên giữa màu máu đỏ tươi.

Thế là vui quá. Tha hương ngộ cố tri. Hỏi rõ ngọn ngành, té ra hai bên là thông gia.

Từ đó, những ngày ở tại Mỹ, Phó vương Kỳ với Tể Tướng Khải bá vai nhau đi đánh gôn và nhảy đầm, uống rượu và xem vũ sexy thoải mái.

Một hôm, đang lúc vui vẻ, Khải bỗng thở dài, mặt sụ xuống, tỏ vẻ buồn bả. Kỳ ướm lời hỏi han. Khải than rằng:

- Mấy năm nay, bọn Việt kiều gởi tiền về nước nhiều quá, gần bằng 1/5 tổng số tiền cả nước làm hộc máu một năm. Với món hời như thế, bất chiến tự nhìên thành, khoẻ re như bò kéo xe, nên Đảng ta thừa thắng xông lên, muốn moi thêm càng nhiều càng tốt, bèn kêu gọi “hòa hợp hòa giải” để chiêu dụ bọn nó mang đô la về nước làm ăn. Nhưng, kêu khản cả cổ, tốn nhiều giấy in nghị quyết này quyết định nọ vẫn chẳng thấy mấy đứa về. Chỉ tại cái thằng Thiệu nó đầu độc bà con ta là “Đừng tin những gì cộng sản nói”. Ta nghĩ đến đó là lòng thấy buồn, miệng ăn không thấy ngon, rượu X.O uống không thấy đậm đà, mấy em không còn mấy hấp dẫn như trước!

Thời cơ đến, Kỳ được dịp tỏ lòng tri kỷ, hiến kế:

-Tể tướng đừng lo lắng quá mà có hại cho mình rồng. Thần nghĩ, chiêu dụ bọn nó không khó gì. Bọn nó có tính nhân của đàn bà và hay quên. Bây giờ Đảng ta chỉ cần tỏ ra chút ít nhân đạo thì bọn nó sẽ “hồ hởi phấn khởi” quên hết quá khứ đau thương ngay ráo trọi.

- Bằng cách gì? - Khải hỏi tới.

- Trước tiên, theo ý Thần thì nên trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà cho bọn họ.

- Tại sao trả cái nghĩa địa xác chết mà bọn nó lại yên lòng được?

- Hãy bắt chước Nguyễn Trãi “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Bước một Ta vờ hòa giải với người chết trước. Bước hai hòa giải với người sống. Khi được rồi thì ta nắm đầu chúng chẳng khó gì. Cái sách lượt 10 ngày học tập để tỏ lòng nhân đạo khoan hồng cũng còn xài tốt lắm. Khi bọn chúng lũ lượt kéo về thì ta sẽ…

- Ừ! Nghe cũng phải. Để ta xem xét cẩn thận mới được.

Đó là rượu nói. Về đến nhà Tể tướng Khải quên tuốt lời hứa. Phó vương Kỳ lại được (bị) người Việt hải ngoại chửi bới thêm một trận te tua nữa.

Nhưng cũng nhờ bà vợ có chút máu mủ thông gia với Tể Tướng Khải nên vợ chồng Phó vương Kỳ về Việt Nam đều đều như đi chợ để làm “Cò” và “trúng quả” nhiều lắm.

Có người tò mò hỏi:

- Tụi Việt cộng nó thù Ngài lắm. Sao bây giờ cho Ngài đi đi, về về Việt Nam như con thoi vậy?

Kỳ cười bí mật, hàm râu kẽm nhúc nhích lên xuống, hạ giọng thầm thì:

- Mấy “người anh em” họ tha thiết mời tôi về đấy chứ. Tôi nào có thèm lậy lục van xin như cái bọn bố láo, bố lếu ở ngoài này vu cho tôi. Tôi có sứ mạng!

Đùng một cái, Tể Tướng Khải bị Bắc Triều cho rớt đài. Anh nông dân du kích nửa mùa ở miền Tây là Nguyễn Tấn Dũng được Hồ Cẩm Đào đưa lên thay thế. Ban đầu, Bắc bộ phủ ai nấy đều ngạc nhiên lấy làm lạ. Một người như Dũng không có tí thành tích gì trong quá khứ, lại là dân miền Nam không tin được, bỗng chốc nhảy tót lên bàn độc. Sau, bức màn thâm cung bí sử được ông cựu TBT Nguyễn văn Linh hé ra mới biết: Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn chí Vịnh đều là “Hổ chủng” của tướng Nguyễn chí Thanh, một tướng của Bắc triều đào tạo, giống như Nông đức Mạnh là “Long chủng” của “Bác Hồ muôn vàn kính” yêu vậy.

Mọi người lúc đó mới mừng rỡ, sung sướng thở phào ra: - À ra thế!

Thời gian cứ đủng đỉnh trôi và mấy cái sân gôn “hoành tráng đầy ấn tượng” ở Sài Gòn, Phú Quốc, Hà Nội… được hình thành.

Phó vương Kỳ trúng mối lớn, ăn chia huê hồng phần trăm với “mấy người anh em” một cách rất “ấn tượng” và vui vẻ trên mức tình cảm.

Trong lúc cụng ly X.O với “mấy người anh em” vấn đề “hòa hợp hòa giải” với người chết lại được Phó vương khoèo lại với Tể tướng Dũng.

Tể tướng Dũng trẻ, đẹp trai, mặt mày sáng sủa, tuy hơi dốt một chút, nhưng không sao. Bác Mười đã từng là thợ thiến heo, Bác Anh từng là phu đồn điền cao su có học hành gì đâu? Thì đã sao? Vẫn đánh thắng được ba tên đế quốc đầu sỏ thế giới. Nước ta vẫn từng bước tiến vững chắc tới hố Chủ Nghĩa Xã Hội đó mà.

Tể tướng Dũng tửu lượng rất cao, xưa kia lúc còn là du kích, đã từng chơi hàng lít đế Gò Đen, nên uống rượu X.O như uống nước lã. Lần này vừa cụng ly với Kỳ vừa bàn chuyện “lấy nhân nghĩa mà thay cho cường bạo” rất lấy làm tâm đắc.

Sau khi cạn chừng ba chai X.O Hennessy, Tể tướng Dũng vỗ vai Phó vương Kỳ và quyết:

- Nghe người anh em nói, tui thấy được quá! Tui chơi tới bến luôn!

Nói thì nói vậy, Phó vương về nhà thao thức chờ đợi “ Cú chơi tới bến”, không ngủ được, hai con mắt cứ trỏm lơ như hai cái vỏ con nghêu úp lên vậy.

Mãi cho đến ngày 27 tháng 11 năm 2006 mới thấy cái Quyết định ở trên ban hành. Phó vương Kỳ chụp vội và đọc cái Quyết định rất kỹ. Đọc tới đọc lui năm lần, bảy lượt vẫn không tin ở mắt mình cái hàng chữ ỡm ờ trong quyết định viết rành rành:

“Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế-xã hội tỉnh Bình Dương.”

Phó vương Kỳ lẩm bẩm:

- Mẹ nó! Mình lại mắc lừa nó rồi! Hôm trước mình xin nó làm một “cú” thật ngoạn mục để mình lấy điểm đặng dằn mặt với cái bọn bố láo hải ngoại rằng là:

“Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam xin trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cho thân nhân các tử sĩ Quân lực VNCH, được trùng tu phục hồi như cũ, để tỏ thành tâm thiện chí trong việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”.

Mà bây giờ, trong quyết định, chúng lại nói khơi khơi “chuyển sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế”.

Thế là thế nào? Thế có chết mình không chứ!

Hôm sau, Phó vương Kỳ ôm theo cái bản sao Quyết định lên Phủ Tể Tướng xin gặp Dũng để dọ hỏi xem người soạn thảo có viết nhầm hay không. Chầu chực mãi cho đến trưa, bụng đói, mắt hoa, tay chân bắt đầu bắt chuồn chuồn mới được Dũng cho kêu vào.

Phó vương Kỳ chưa kịp nói lời nào, Tể tướng Dũng đã chặn họng:

- Tôi đã biết ý anh muốn nói gì rồi. Đây là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải cá nhân tôi. Tôi có hứa với anh thật, nhưng anh cũng rõ là Đảng và Nhà nước ta đều ở trong cơ chế làm chủ tập thể. Việc anh nêu ý kiến thì tốt đấy. Nhưng Trưng Ương xét thấy mấy cái hài cốt của lính Ngụy đánh thuê cho Mỹ nằm đấy phí đất đi. Nay Đảng quyết định dụng 58 ha đất đó làm kinh tế thì tỉnh Bình Dương nói riêng và đất nước ta nói chung sẽ giàu to. Anh cứ tính nhẩm xem thì biết: Cứ 1 mét vuông trị giá sơ sơ chừng 1 lượng vàng y bốn số chín.

58 ha = 58..000 m2 x 1 lượng vàng = ???

- Thôi anh lui ra. Khỏi ý kiến, ý cò gì nữa. Đảng đã quyết rồi. Không thể sửa.

Nói xong, sai cận về đuổi ra cửa.

Phó vương Kỳ tính trong bụng chắc mẫm kỳ này lập công to nhưng không dè cú đá giò lái của Tể tướng Dũng còn độc hơn cú đà đao của Quan vân Trường hay cú hồi mã thương của La Thành nên đứng chết trân. Hai hàng râu kẽm trên mép bỗng quặp xuống, trở nên cứng hơn thép, làm cho môi trên không nhúc nhích được. Từ đó Phó vương Kỳ bị chứng á khẩu. Chỉ có miệng ăn chớ không có miệng nói.

Trở lại cái chuyện nghĩa địa Bình An và Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.

Thế hệ sinh sau năm 1975 có lẽ không biết cái trò lập lờ đánh lận con đen về chữ nghĩa này: Nghĩa địa và nghĩa trang.

Suốt chiều dài chống cộng giữ nước hơn hai mươi năm, mười tám ngàn lính chiến VNCH miền Nam đã hy sinh và được chôn cất tại đây. Phần đất mà những người lính anh dũng đã yên nghĩ vĩnh viễn ở đây đã được Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa long trọng đặt tên là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.

Sau năm bảy lăm, không những Việt cộng bắt tất cả Quân, Cán, Chính miền Nam vào các trại tù để lao động khổ sai mà chúng còn giam cầm cả người chết để trả thù. Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũng bị giam cầm, canh giữ suốt ba mươi hai năm bởi Quân khu 7. Tính chính xác đến ngày hôm nay là 32 năm 2 tháng.

Chúng cố tình xóa đi cái tên “Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” và thay vào đó cái tên “nghĩa địa Bình An” để người dân lâu ngày quên đi cái di tích này.

Hành động trả thù người chết của Việt Cộng để thỏa mãn lòng hận thù không thua gì hành động của Vua Gia Long đối với nhà Tây Sơn thuở xưa.

Câu “nghĩa tử là nghĩa tận” đối với cộng sản không có nghĩa lý gì.

Tất cả các nghĩa trang công hay tư khắp miền Nam đều bị cào mồ, cuốc mả, san bằng để chiếm dụng vào việc gọi là “dân sự”.

Nghĩa trang VNCH ở Cần Thơ, ở Gò Vấp, bị sang bằng ngay trong những năm đầu tiên để xây nhà cho cán binh VC ở. Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nghĩa trang Bắc Việt, Nghĩa trang Chi Hoa cũng bị san phẵng để làm công viên.

Hãy ngẫm lại mà xem, hài cốt lính Mỹ rãi rác khắp nơi từ núi cao cho đến chốn rừng sâu, Việt cộng cũng cố công đi tìm từng lóng xương, để trao trả cho Chính quyền Mỹ. Còn mồ mả lính Cộng Hòa, những người anh em cùng da vàng máu đỏ thì bị cào đi là nghĩa làm sao?

Ngày xưa, Việt cộng xem Mỹ là kẻ thù không đội trời chung, nay lại trãi thảm đỏ mời rước vào Dinh Chủ tịch nước vào Phủ Thủ tướng. Trong khi “những khúc ruột xa ngàn dặm” lại cấm cửa. Muốn vô nhà phải xin phép. Vậy cớ làm sao?

Tất cả chỉ vì đồng đô la màu xanh chứ không thể vì cái chữ “nhân” vô nghĩa.

Miệng thì hô hào “hãy quên thù hận cũ để hòa hợp hòa giải” mà bàn lông lá tay lại thò sang tận hai hòn đảo hoang ở Mã Lai và Nam Dương đập nát hai tấm bia của người tỵ nạn bị bỏ thây dưới lòng đại dương trên đường chạy trốn cái chế độ bạo tàn. Hành động đó đã đủ nói lên cái chủ trương “giết tuyệt, diệt tận” của VC.

Tờ Nhân Dân trong số đề ngày 29 tháng 12/2006 có đăng một tin, tựa đề: “Xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân phải theo qui hoạch”

Nội dung cho biết là Bộ Xây Dựng đang lấy ý kiến hoàn chỉnh dự thảo “Nghị định về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân” trình Thủ tướng trong thời gian tới.

Nhiều người có con em, chồng con hay thân nhân, bạn bè được chôn cất trong Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa bấy lâu nay, rất đau lòng vì không được bén mãng tới nơi để thăm viếng, thắp nén hương trên mộ hằng năm như trước, nay nghe thấy cái Quyết định vừa ban hành của Thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã vội mừng. Và họ cho rằng cộng sản đã đến lúc hồi tâm chuyển ý. Đồ tể bậy giờ đã chịu bỏ dao xuống để thành Phật.

Nhưng qua những sự thật vừa liệt kê trên, cho thấy cộng sản không từ một thủ đoạn nào để xóa bỏ tất cả “tàn tích” của chế độ cũ.

Bao nhiêu di tích lịch sử đã bị phá bỏ, bao nhiêu nghĩa trang đã bị san bằng, thì cái Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cái gai cuối cùng Việt cộng phải nhổ đi thôi. Đã nhổ được cái gai trước mắt, thu được một số tiền khổng lồ từ người chết, lại được tiếng “hòa hợp hòa giải” thì ngu gì mà không làm.

Đạo lý là cái gì? Lương tâm là cái gì? Chỉ là thứ xa xĩ của bọn tiểu tư sản. Người cộng sản không có và cũng không cần những thứ vô bổ đó.

Nó không giúp ích gì cho công cuộc xây dựng và tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, tiến tới Thế giới Đại đồng.

Rồi đây, sau thời gian ấn định, tháng 7 năm 2007, tỉnh Bình Dương chắc sẽ ra thông báo cho dân chúng khẩn cấp di dời mộ ở “nghĩa địa Bình An”. Mộ nào không di dời sẽ được coi là mộ hoang, chính quyền sẽ “giúp đỡ di dời”.

58 ha đất vàng ở đây sẽ được mau lẹ chia lô bán để phát triễn kinh tế - xã hội.

Chẳng mấy chốc sau đó nhiều hotel ba sao, năm sao sẽ mọc lên. Sân gôn hoành tráng sẽ khánh thành. Nhiều nhà tắm hơi mát xa, cà phê ôm, làng nhậu… sẽ nở rộ. Đám tư bản đỏ cùng cậu ấm cô chiêu sẽ dập dìu kéo nhau tới đó ăn chơi du hí thả dàn.

Người dân nghèo đứng hai bên đường nhìn cảnh tượng đó sẽ ngậm ngùi than lên rằng: Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu nói không sai,
    “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”
Nguyễn thanh Ty



TỰ HÀO DÂN TỘC ? - Trần Văn Giang

Trần Văn Giang

* Lời mở đầu: Đây là nhận định và ý kiến cá nhân của người viết mà thôi. Đúng hay sai còn tùy hoàn cảnh, kinh nghiệm và sự thẩm định của mỗi đọc giả.

Cụ Trần Trọng Kim, một nhà giáo lỗi lạc, một học giả danh tiếng và cũng là vị Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam, đã viết trong bộ sử “Việt Nam Sử Lược” (1925) về tính tình, tư cách của người Việt Nam (nguyên văn – trang 7 tiểu mục “Người Việt Nam”) như sau: “Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, làm năm Đạo Thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà khi đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nỗi hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng Nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.”

Những lời nhận định về người Việt này đã cũ trên 80 năm mà chưa thấy ai lên tiếng phê phán Cụ là “không chính xác”,“sai lầm”, “thiếu công minh”, “thiên vị” hay “sỉ nhục dân tộc”!

Nhiều người còn cho là Cụ có nhiệt tâm muốn thành thật vạch ra những cái tốt và cái xấu của người mình để hậu sinh học hỏi, sửa đổi; hầu xây dựng một tương lai trong sáng và tiến bộ cho đất nước.

Đất nước vừa trải qua những biến cố nghiêm trọng, lòng người hoang mang, ngờ vực, suy tư … Người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngọai đã có rất nhiều băn khoăn nan giải về vấn đề “mình phải tự nghĩ về mình thế nào?” hoặc “mình nên trả lời thế nào về dân tộc mình trong trường hợp có người ngọai quốc hỏi?”. Trong bài nhận định này, tôi xin phép theo bước chân của cụ Trần Trọng Kim để đóng góp một vài ý kiến cá nhân có thể còn rất phiến diện. Rất mong được quý vị đọc giả chỉ giáo thêm.

Trong thời buổi này, người Việt, chẳng cần phải tự hào mà cũng chẳng cần phải tự ti. Khi được hỏi mình cứ trả lời cho đúng, đầy đủ, vừa phải, không dư thừa … là được rồi. Chối bỏ nguồn gốc của mình, hay vênh vang ngạo mạn đều hồ đồ cả - Cứ nói sự thật. Việt Nam cũng như mọi dân tộc khác, cũng có cái hay cái đẹp, cũng có cái xấu xa. Tự hào, hay tự ti, là ở ngay chính con người mình. Nếu mình thật sự giỏi thì chẳng cần biết mình là dân tộc nào, thiên hạ đều phục.

Người Việt chẳng có gì mà phải tự ti. Thế giới còn có nhiều nước tệ hại, kinh sợ hơn Việt Nam nhiều: cướp bóc giữa ban ngày, đĩ điếm đứng đầy đường, dân đen bị bóc lột hành hạ tàn nhẫn hơn, chính phủ độc tài cai trị sắt máu hơn, xã hội bị phân hoá khủng khiếp hơn, tham nhũng ở nhiều nước còn tàn chi hơn … (tôi không tiện liệt kê tên các quốc gia này vì vấn đề tế nhị!) Tóm lại, chẳng có lý do gì phải tự ti mặc cảm.

Người Việt Nam cũng chẳng có gì quá đáng để tự hào. Tự hào thế nào được khi quốc gia bị bêu riếu mọi nơi là lạc hậu. Tự hào thế nào được khi quốc tế liệt kê Việt Nam trong danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo tận mạng, tham nhũng như ranh, dân trí đội sổ, dân chủ có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Chắc chắn sẽ có người sẽ giận dữ lên tiếng nhắc nhở tôi về lịch sử vẻ vang của Việt Nam, cái tài quân sự của người Việt, đánh thắng đế quốc Mông cổ; và mới đây đánh thắng luôn một lúc 3 đế quốc. Trong vấn để chiến thắng trong lịch sử này, tôi xin dẫn một câu chuyện điển hình về đại sứ VC tại Thái Lan mới đây để quý vi suy gẫm. Đại sứ VC đã trình bày một cách tự hào về Việt nam với Quốc Vượng Thái Lan là: ”Nước Việt Nam chúng tôi rất tự hào vì đã đánh thắng 3 đế quốc.”

Quốc Vương Thái Lan điềm đạm trả lời đại sứ VC là: “Nước Thái lan chúng tôi cũng rất tự hào vì không phải đánh nhau với một đế quốc nào cả!” (nên biết Thái Lan cũng không phải đánh nhau với quân Mông cổ!)

Lịch sử Việt nam hiện nay đã được viết dài dòng về công cuộc đấu tranh chống Pháp dành độc lập cho 25 (?) triệu dân Việt. Kết quả đưa đến việc thực dân Pháp đầu hàng sau trận Điện Biên Phủ 1954. Đồng thời, lịch sử thế giới cũng ghi lại là Thánh Gandhi của Ấn độ, dành lại độc lập cho 600 triệu dân Ấn độ mà không phải đổ một giọt máu nào. Ngay như thiên tài quân sự Tổn Tử (trong “Binh pháp Tôn Tử,” trang 4, Thiên thứ 3 “Mưu Công”) đã định nghĩa thế nào là “Quân sự giỏi” như sau (nguyên văn): “Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.

Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì. Cho nên người giỏi dụng binh, thắng được địch quân mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất định phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn dành được thắng
lợi hoàn toàn.”

Như vậy, “thắng mà không phải đổ một giọt máu nào!” mới gọi là giỏi. Chứ còn phải nướng vài triệu nhân mạng để giải phóng vài chục triệu nhân mạng thì không biết phải nói hay ở chỗ nào?… Cũng nên biết thêm, thực dân Pháp mặc dù không bị thua trận ở Algeria, nhưng thực dân Pháp đã phải tự động trả độc lập cho Algeria (hoàn cảnh quốc gia này bị Pháp đô hộ giống y hệt như hoàn cảnh của Việt Nam) vì chính sách thực dân đã bị xem là lỗi thời, bị quốc tế phỉ báng.

Hiển nhiên, nhiều người ngoại quốc đã có sẵn những thành kiến về người Á châu nói chung (và người Việt Nam nói riêng) là hay ăn cắp vặt, lười biếng, ở bẩn thiếu vệ sinh thì mình cũng giải thích với họ là dân tộc nào cũng có kẻ thế này người thế khác; Hoặc gặp kẻ tán tụng dân tộc mình (phần lớn vì vấn đề thông lệ giao tế, không biết họ có thành thật hay không?) như là: “À! Anh thuộc về dân tộc vẻ vang nhất của thời đại …”. Thì cũng từ tốn cố giải thích với họ là bây giờ là thế kỷ 21 rồi, những chuyện đánh nhau không cần thiết đó đã xưa rồi, bỏ qua đi tám, lập lại cũng chẳng có ích lợi gì. Những “vẻ vang” đó không thể tự nhiên mang lại no ấm, hạnh phúc hơn cho dân tộc.

Hãy nghe một nữ sinh viên Việt Nam du học (bây giờ còn được gọi là du sinh) ở Singapore (Tân Gia Ba) đã tâm sự như sau: “Em chả dám bàn về chính chị chính em gì hết. Bởi vì bố mẹ
bảo em là con gái không nên xen vào chuyện làng chuyện nước”!

Năm 2001, cả giòng họ nhà em chắt mót lắm mới đủ tiền cho em đi Singapore du học tự túc. Thời gian mới qua em rất bất ngờ vì người dân bên đó hòa đồng và mến khách còn hơn cả cái kiểu tiếp khách của các bác trong các chương trình du lịch bên mình nhiều lắm. Em có một cô bạn gái người Singapore bên đấy. Hôm nọ, cô ấy rủ em đến nhà mấy người bạn Singapore chơi. Cô ấy lại dặn em là ‘khi người ta hỏi thì đừng bảo là người Việt Nam nhá!’ Em ức lắm và vì tự ái dân tộc nữa nên đến lúc mấy người kia hỏi em cứ nghênh mặt lên và trả lời ngay: ‘I am Vietnamese.’ Úi giời ơi! Sau câu trả lời ấy thái độ của cả nhóm thay đổi ngay. Cả buổi chẳng có ma nào hỏi han gì đến em câu nào nữa. Khi về cô bạn kia mới giải thích cho biết phụ nữ Singapore rất có ác cảm với phụ nữ Việt Nam bởi vì 80% phụ nữ Việt Nam qua Singapore đều làm … hết. Họ không muốn thân với em vì sợ em sẽ cướp chồng họ.

Đấy! Các bác cho em lời khuyên là có nên nghênh mặt bảo mình là người Việt Nam nữa không???”
Chúng ta nên buồn năm phút!! Hay nên tự hào năm phút?! Nghiêm chỉnh mà nói cho nhau nghe, hay để dạy dỗ con cái thôi là Việt Nam có nhiều cái rất đẹp và đáng tự hào. Bởi vì một cô gái xấu xí đến đâu, nếu nhìn kỹ vẫn tìm thấy một vài nét đặc biệt. Chẳng hạn cái thông minh cũng có thể làm mờ các khuyết điểm khác đi. Đất nước không thể vì một nền kinh tế chậm tiến, lạc hậu, nghèo đói, bị đè đầu cưỡi cổ triền miên mà người dân phải cho rằng mình đành chịu đựng một sự nhục nhã. Lịch sử Việt Nam dài hơn 4000 năm thì 60 hay 100 năm đâu có nghĩa lý gì. Nếu phải so sánh với các nước khác trên thế giới thì vấn đề lạc hậu, xuống dốc như thế này phải làm các ông lãnh đạo cảm thấy xấu họ mới đúng. Người dân đen không có gì phải xấu hổ cả. Kể cả cô em gái du học ở Singapore!

Ở hoàn cảnh nào cũng vậy. Không ai muốn vạch áo cho người xem lưng. Nhưng phải nói cho nhau nghe là ở Việt Nam hiện nay, lãnh đạo không hề để ý gì đến văn hóa Việt Nam; cho nên nền văn hóa cứ thế mà tụt dốc phi mã. Các lãnh tụ “siêu việt”, “kiệt xuất” hoang tưởng chỉ có một cách, một phương thức một bài duy nhất dùng để phô trương, tự hào về Việt Nam là “chiến thắng vinh quang”; ngoài ra không có một thực chất hay một khả năng nào có thể dùng để xây dựng, phát triển dân giầu nước mạnh được. Nhật Bản sau 30 năm bại trận, từ đống tro tàn, không tài nguyên … trở thành một siêu cường của thế giới. Việt Nam sau 30 năm chiến thắng vinh quang, với tài nguyên dồi dào … vẫn không làm nổi một cái đinh ốc cho ra hồn. Hoang tưởng là ở chỗ đó.

Ở ngọai quốc, khi nói đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến các vấn đề “nghèo”, “cộng sản”, “vòng lẩn quẩn cộng sản - nghèo …” tòan những cái “negative values”; chứ chẳng thấy “vinh quang” ở đâu cả? … Không hiểu dân tộc Việt Nam mắc nợ gì với CS mà CS cứ đeo dính dân tộc mình hoài vậy? (nên biết trên thế giới có trên 193 quốc gia – kể cả Vatican City - nhưng chỉ còn vỏn vẹn có 4 dân tộc “anh hùng” vẫn còn mắc nợ CS thôi!?)

Mỗi người có quan điểm chiến lược khác nhau; Có mức độ kỳ vọng khác nhau. Nhưng tôi nhìn nhận là người Việt có một số ưu điểm như sau:

1. Chịu được gian khổ (bị đô hộ trên 1000 năm vẫn sống; ăn “bobo,” khoai sắn độn dài dài vẫn sống; bị tù đày dài dài vẫn sống; nhịn đói 10 - 20 ngày trên biển vẫn sống, …)

2. Tương đối dễ hòa và hội nhập với nền văn hóa dị biệt của nước người

3. Tương đối chăm chỉ so với một số dân tộc khác

4. Tương đối thông minh (không ngu quá!)

Chỉ có cái điểm “chịu đựng” là coi bộ nổi bật. Ba điểm còn lại cũng còn lờ mờ, khó nói, không rõ cho lắm! Nhưng mà dân tộc nào chả thế! Không chịu đựng được thì đã họ tự sát hết từ lâu rồi còn gì. Mà đâu có thấy dân tộc nào tự tử ào ào một lúc chỉ vì khổ quá đâu?

Nói về “văn hoá lưu vong” dường như chỉ có Do thái và Việt Nam có. Nhưng so sánh Do thái và Việt nam có vẻ không công bằng. Dân Do thái bỏ đất đai ra đi vì bị các áp lực tôn giáo (Hồi giáo) và chủng tộc (Ả rập) ở Địa trung hải quá mạnh. Nếu ở lại họ sẽ bị tiêu diệt, bị xóa sổ. Dân Việt Nam bỏ đất nước ra đi bởi vì chính trị của người chính người Việt Nam chứ không phải vì áp lực của lân bang (hãy xem lại lịch sử thấy là dù Tầu có đánh mạnh đến đâu đi nữa, thì người Việt vẫn bám lấy đất và chiến đấu đến cùng!) Cái giống nhau là dân Do thái và dân Việt sống rải rác ở nhiều quốc gia Âu châu vẫn nhất là ở Hoa kỳ. Bây giờ hãy nhìn dân Do thái và dân Việt lưu vòng trên đất Mỹ.
Chúng ta tìm thấy rất nhiều chuyện để học từ dân Do thái.

Người Do thái ở Mỹ không phải là những người “… bài bác nhạo chế nhau … thường thì nhút nhát … hay khiếp sợ … tâm địa nông nổi hay làm liều … không kiên nhẫn … hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài … hiếu danh vọng … thích chơi bời, mê cờ bạc … Kiêu ngạo và hay nói khoác … (nguyên văn lời của cụ Trần Trọng Kim đã viết ở phần trên!)” như dân Việt lưu vong. Ngược lại, dân Do thái (lưu vong) gián tiếp chỉ huy mọi chính sách của Mỹ: người Do thái gần như hoàn toàn kiểm soát nhiều lãnh vực quan trọng nhất trong sinh hoạt kinh tế (nhà băng, thị trường chứng khoán ...) và khoa học (giáo sư đại học, khoa học khảo cứu gia, bác học …) và quan trọng nhất là hoàn toàn kiểm soát “media” (truyền thông, báo chí, kỹ nghệ phim ảnh, truyền hình ...) ở Hoa Kỳ, Chỉ riêng với vấn để truyền thông (“media”) này, người Do thái đã dùng nó để hướng dư luận và quan điểm của dân Mỹ và đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách lãnh đạo đối nội cũng như đối ngoại của Hoa kỳ theo các chiều hướng có lợi cho quốc gia Do thái. Vì vậy, Do thái chỉ có khoảng 3 triệu dân vẫn đánh thắng một cách rất dễ dàng các liên minh quân sự của Ả Rập có đến trên 100 triệu! Người Do thái lưu vong không cần phải lên tiếng tự hào về dòng giống Do thái của họ.

Các dân tộc khác sống trên đất Mỹ phải tự nhiên nể và sợ họ là đằng khác!

Dân Việt lưu vong không có cái gì phải xấu hổ về sự lưu vong của mình. Có xấu hổ hay không là những các nỗ lực khoe khang hoang tưởng, phỉ báng lẫn nhau, ném bùn vào mặt nhau, đâm sau lưng nhau ở hải ngoại. Dân Việt Nam lưu vong mình nên cố gắng nhìn bài học lưu vong của dân Do thái để xây dựng một niềm tự hào, một sức mạnh lưu vong riêng cho chính mình.

Lúc nào cũng ra rả chiến thắng này, chiến thắng nọ; nhưng nhìn lại xem ai? phe nào, là những người thực sự chịu đau khổ. Thực tế cho thấy “kẻ thua” thì ngoài một số ít chết (tỷ lệ số chết quá nhỏ so với dân và quân Việt bị chết!) chẳng thương tổn gì gọi là quá đáng cả. Họ vẫn là cường quốc, vẫn mạnh giỏi. Còn nước Việt Nam dân số đứng thứ 13 trên thế giới, với diện tích thuộc hàng trung vẫn bị coi là “nhược tiểu” (hãy xem nước Đức với diện tích và dân số như Việt Nam mà không bao giờ bị xem là nhược tiểu!) mà lại có về hài lòng! Tự sướng tự rên! Tự hào! Không biết lấy ở đâu ra? Tại sao chúng ta không làm cho mình thật mạnh để không nước nào dám xâm lấn, dám xâm lăng, dám cai trị chúng ta? Chúng ta tự hào thông minh, nhưng đó chỉ là cái thông minh vặt. Chúng ta dùng những “thành tích” nổi bật của một số nhỏ người Việt ở nước ngoài để cho rằng Việt Nam giỏi, nhưng đó chỉ là cái “tâm lý nhược tiểu.” Chúng ta phải dùng những cái “không phải của mình” để “tự khen;” đem những lời khen “ngoại giao” của người ngoại quốc để “tự thỏa mãn” cái tâm lý nhược tiểu của mình. Những người được đào tạo tài giỏi ở nước ngoài là nhờ “tài của nước ngoài” chứ không phải cái “tài của nước mình,” chưa đáng được dùng để gọi là “tự hào dân tộc.” Phải chờ đến lúc có du sinh ngọai quốc nài nỉ, nộp đơn xin được đến “du học” ở Việt Nam để học cái tài của nước Việt mình thì mới tính đến chuyện “tự hào” cũng chưa muộn!

Nếu chúng ta không suy gẫm kỹ lưỡng và đánh giá cho đúng con người mình, không dám nhìn thẳng vào sự yếu kém chung của mình, mà chỉ nhìn vào một vài “thành tích nổi bật lẻ tẻ” rồi tự hào, từ mãn thì đến muôn năm nữa vẫn không thoát ra khỏi cái thân phận nhược tiểu. Như vậy có một vấn để quan trọng thấy rõ không chối cãi được là vấn đề “lãnh đạo” (kể cả loại lãnh đạo “sắt máu” như Hitler của Đức quốc xã!). Lãnh đạo sáng suốt sẽ đưa đất nước vượt lên các yếu kém lạc hậu, các chèn ép của quốc tế. Thật là buồn, nếu chưa muốn nói là một sự sỉ nhục phải là công dân dưới chế độ CS, đã và đang phải chấp nhận những kẻ không ra gì lãnh đạo mình. Đó là cái lãnh đạo thiếu đạo đức, lãnh đạo đang hủy họai đạo đức, đang hủy hoại truyền thống tốt lành của xã hội Việt Nam; lãnh đạo dốt nát, độc ác, lãnh đạo lừa dối hành hạ dân lành. Ở Việt Nam bây giờ sự dối trả là căn bản cho mọi sinh hoạt của xã hội. Dối trá từ việc học hành, thi cử, việc làm, sản xuất cho đến thái độ cư xử với những người chung quanh với một đất nước như vậy thì chỉ còn có các bác thật “anh hùng” và thật “kiệt xuất” mới dám có “can đảm” cảm thấy tự hào vì nó.

Cái óai oăm ở đây là hình như là người dân Việt Nam ở trong nước chưa cảm thấy có nhu cầu cần thiết để thay đổi chế độ và đòi hỏi thêm quyền chính trị. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, người Việt Nam mình giỏi “chịu đựng” mà!. Ừ thì chịu đựng nghèo, chịu đựng đói khổ đã đành; nay thậm chí còn giỏi chịu đựng cả sự sỉ nhục! Chưa có nhu cầu thay đổi, thì đào đâu ra động lực thay đổi. Không có động lực thì cũng kể như cứ việc thong thả nằm yên theo kiểu “con rùa lật ngửa” cho nó được việc! Cho qua ngày qua tháng! Muốn đi đến chỗ “có động lực” thì phải có một bộ máy giáo dục, thông tin hữu hiệu để giải thích cho mọi người hiểu tại sao cần phải có sự thay đổi (Nên biết “Lãnh đạo cũng giống như tã lót. Nó cần phải được thay thường xuyên – vì chung một lý do!) và thay đổi sẽ đem lại cho họ và con cháu họ những ích lợi gì. Nói tóm lại, đây là một chuyện to tát phải làm. Rất tiếc công việc này còn to tát hơn vì CS đã biến một khối 83 triệu người Việt thành mù, điếc và câm từ khuya rồi. Người có can đảm đi khai sáng họ sẽ bị lên án là “phản động”!. Người muốn đi chữa bệnh nan y (Mù câm và điếc) sẽ phải trả giá rất đắt như bị tù đày, bị bao vây an sinh. Thành ra, chỉ còn một giải pháp tiêu cực là đợi cho tham nhũng đến cùng cực, sự suy sụp đạo đức xã hội đến tột đỉnh thì CS sẽ tự nó hủy diệt nó! Cái giá của sự chờ đợi này có thể con đắt hơn mấy lần đi tù, bị bao vây kinh tế mà rất ít người biết.

Đôi khi mình cũng cần soi gương, không phải để tự ti hay tự hào, mà để tự đặt câu hỏi cho mình. Tự hỏi mình là tại sao người Việt thông minh mà dân tộc mình vẫn phải chịu nghèo đói; tại sao người Việt chăm chỉ mà vẫn còn người Việt đi làm thuê làm mướn với lương rẻ mạt ở những quốc gia cũng chẳng hơn Việt Nam bao nhiêu như Mã lai, Ba lan, Hung gia lợi …; Có lẽ vì vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật, vẫn ngủ quên trên chiến thắng; vẫn coi thường những dân tộc khác mà không biết là họ khôn ngoan hơn mình.

Đôi khi cũng nên nhìn vào gương để thấy mình còn may mắn vì nước Việt Nam mình ít ra chưa biến thành một Tây tạng hay một Đài loan thứ hai. Cứ đem cái quá khứ vẻ vang của dân tộc ra mà tự hào thì cái hiện tại chỉ càng làm cho mình đau lòng thêm. Hãy nhìn các anh hùng dân tộc đã đứng lên chiến đấu dành độc lập cho đất nước. Nếu chỉ mấy ông ấy đứng lên một mình không thôi thì có lẽ đã bị Tầu hay Tây (hay Mỹ) nó mượn chỗ đội nón từ khuya rồi. Làm quái gì mà có được “chiến tích thần kỳ”. Các ông ấy phải cần có sự hy sinh vô bờ vô bến của dân ngu khu đen nữa chứ!!! Lãnh đạo đến; rồi lãnh đạo lại đi (hoặc bị tiêu diệt!) Nhưng dân thì muôn đời vẫn còn. Cổ nhân đã nói : “Quân nhất thời; Dân vạn đại”! là vậy. Dân tộc và nước Việt Nam đã bị vùi dập nhiều rồi; không đáng phải bị lãnh đạo (bất xứng) vùi dập thêm.

Lời Kết:

Trước khi muốn chạy, thì phải tập đi cái đã. Dù có muốn hay không, dù đã sửa sắc đẹp toàn diện rồi, mình cũng vẫn là người Việt Nam, điều đó không thể chối cãi được. Câu hỏi đơn giản là mình có tự hào về bản thân mìnkhông? Nếu mình không có tự hào cá nhân thì cũng chưa nên bàn đến tự hào dân tộc.

Tự hào thì có nhiều thứ lắm. Lịch sử liệt kê ra hai loại tự hào là

- Thành quả quân sự (chiến tranh
- Chiến tranh lại được chia ra làm hai loại: chiến tranh tự vệ và chiến tranh xâm lược mà ông cha mình gọi là “mở màng bỏ cõi!”).

Oái oăm là cả người tự vệ lẫn người xâm lược cùng tự hào một lượt. Người xâm lược tự hào về sức mạnh. Xâm lược thành công nhanh chóng trong một thời gian ngắn được xem như một niềm tự hào, một chiến tích vẻ vang. Người đấu tranh tự vệ giữ nước tự hào về sự kiên cường, bất khuất, anh dũng.

- Thành qủa xây dựng:

Các nước giàu mạnh tân tiến ngoài cái tự hào chiến tranh họ còn tự hào về các công trình xây dựng lớn lao, nền kinh tế khoa học kỹ thuật vượt bực góp phần vào sự phát triển chung của thế giới. Nhưng thật buồn là Việt Nam ta, cho đến nay chỉ có một cái tự hào về chiến tranh thôi! Tự hào chiến tranh cuối cùng là chiến thắng trong cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước!” Cái chiến tranh này xẩy ra đúng vào lúc thế giới đang ở giai đoạn chiến tranh lạnh (giữa “Tây Phương và Nga sô” hay là “Thế giới Tự do và Cộng Sản quốc tế”) thì chỉ riêng có một mình Việt Nam là nhào đầu vào chiến tranh nóng thôi! Việt Nam thắng trận có nên tự hào không? Có lẽ có! Nhưng đó là tự hào của người Cộng sản chứ không phải là tự hào của “Tổ quốc Việt Nam”.

“Giặc Mỹ” đến giúp Nam Hàn tự do đánh nhau với CS Bắc Hàn trước khi có chiến tranh nóng ở Việt Nam. Bây giờ là năm 2007, chiến tranh nóng Việt Nam đã nguội ngơ rồi! Dân tộc Việt Nam đã trở thành “dân tộc anh hùng rồi”! Bắc Hàn và Nam Hàn đã đồng ý chia lãnh thổ từ lâu rồi; “Đế quốc Mỹ” vẫn còn có quân đội đóng ở Nam Hàn. Đã có ai thấy là “đế quốc Mỹ” cướp một tấc đất nào của Nam Hàn không? “Đế quốc Mỹ” còn ở đó giúp Nam Hàn tự do phát triển thành một sức mạnh kinh tế giầu có nhất ở Á châu mà nhiều con gái nước Việt anh hùng muốn sang làm cô dâu! (Không thấy có cô gái Việt Nam nào muốn sang làm cô dâu ở Bắc Hàn anh hùng cả! Lạ nhỉ!!!)

Trần Văn Giang


Friday, January 15, 2010

Cao Quang Ánh, một Câu Tiễn thời đại?! - Trần An Lộc

    "Hãy nghe Cao Quang Ánh nói và nhìn Mr "Cow" làm"

    "Lặng lẽ vào và lặng lẽ ra khỏi VN. Về tới Mỹ , rồi mới hết "Lặng lẽ",
    tha hồ hứa: tôi sẽ thế này, tôi sẽ thế nọ ...
    Cao Quang Ánh ơi là Cao Quang Ánh !!!"
Trần An Lộc

Đến giờ phút này thì chúng ta đã có đủ tin tức để có những nhận định khách quan về chuyến ghé thăm Việt Nam của dân biểu Cao Quang Ánh trong phái đoàn Dân Biểu của Hạ Viện Hoa kỳ.

Vì vấn đề đã được bàn đến quá nhiều trên các phương tiện truyền thông người Việt hải ngoại, người viết chỉ xin tóm tắt các điểm chính sau:

1. Để được cấp visa nhập Việt Nam, ông Ánh đã chấp nhận điều kiện của CSVN: "Trong thời gian ở VN, ông không gặp gỡ những nhà tranh đấu cho dân chủ, không họp báo và không ra thông báo báo chí" nói cách khác ông cho phép cộng sản Việt Nam tước đoạt quyền tự do ngôn luận của mình!. Một quyền mà sức mạnh được nhân lên nhiều lần trong cương vị một dân biểu Hoa Kỳ. Chấp nhận bị tước quyền họp báo, phát biểu và ra thông báo báo chí của một đại diện dân cử, đồng nghĩa với việc bị tước vũ khí tại chiến trường, nếu người đó là một quân nhân. Tác phong như vậy thì phải gọi là gì? Có phải ông Ánh đang noi gương Câu Tiễn Việt Vương trong cổ sử?

2. Về vụ Đồng Chiêm, ông Ánh phát biểu đó là việc làm của một cá nhân nhỏ ở địa phương, không phải chủ trương của cộng sản trung ương. Sao ông biết?!. Bọn CS luôn luôn ra lệnh ngầm cho thủ hạ, còn đầu lãnh thì chối leo lẻo, cả thế giới đều biết như thế, mỗi mình ông là không, lạ nhỉ??? Hơn nữa những phát biểu mới đây của các cấp lãnh đạo CS đều bênh vực cho việc làm phạm Thánh và vô nhân này, thì không phải do họ chủ trương thì ai trồng khoai đất này?

3. Ông Ánh cho rằng những người H'mong bị Thái Lan trả về Lào, được đối xử tử tế tại các trị tập trung. Ông nói thế là phủ nhận những tố cáo của Phủ Tỵ Nạn LHQ về số phận của 4000 nạn nhân H'mong này. Họ đang đứng trước những sự trả thù tinh vi có kế hoạch mà các hội nhân quyền quốc tế đã lên tiếng báo động với thế giới, còn ông và phái đoàn của ông thì khẳng định ngược lại! Ta phải tin những tổ chức nhân quyền quốc tế dạn dày kinh nghiệm với các chế độ độc tài hay tin ông Ánh và 2 ông dân biểu của Hạ viện Hoa Kỳ!

4. Ông Ánh chủ trương giúp VC mở đại học tại VN và gia tăng số du sinh qua Mỹ học, điều này cho thấy ông đứng về phía tầng lớp thượng tầng xã hội ở VN ngày nay, những người có quyền lực và tiền bạc trong tay, vì chỉ có con cháu họ mới leo lên để vào ngồi trong các đại học ấy hay được đi du học mà thôi. Họ là ai vậy? Xin thưa đó là các cán bộ cao cấp của đảng CSVN, những bọn lợi dụng chức quyền tham nhũng làm giầu bất chánh trên xương máu của 83 triệu người Việt nghèo đói khốn khổ!

Cũng xin nói thên rằng việc mở đại học ở VN đã được nhiều quốc gia và nhiều đại học trên thế giới đề cập với chính phủ VN, với 2 nguyên tắc cơ bản:

- Các đại học phải được tự trị (như ở các quốc gia tiến bộ trên thế giới)
- Không bắt buộc sinh viên phải chọn học các môn triết học Maxist- Leninist và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai nguyên tắc cơ bản trên đều bị đảng CSVN bác bỏ, vì thế những đề nghị nàykhông xúc tiến được.

Nay ông Cao Quang Ánh coi bộ rất tâm đắc với việc mở đại học, không biết ông có chấp thuận bỏ hai nguyên tắc cơ bản trên cũng như ông đã chấp nhận tự tước bỏ quyền tự do ngôn luận của mình trong chuyến công tác vừa qua tại Việt Nam?

Có thể ông Ánh đang chơi nước bài của Câu Tiễn ngày xưa để cứu Việt Nam ngày nay chăng?

Người viết xin dành câu trả lời cho công luận.

Trần An Lộc


"Bài Vỡ Lòng Cho Cao Quang Ánh" - Võ Trang

Võ Trang

Tôi đã đọc câu này ra rất nhiều lần - cả trăm lần - để chắc mình không hiểu lầm!

Hãy quên quá khứ ...

Tại hải ngoại, CSVN không ngừng kêu gọi người Việt hãy quên quá khứ để hướng về tương lai. Trong Tâm Sinh Lý học, quên quá khứ là chuyện không thể làm được. Cái gì đã đi vào bộ não thì sẽ ở đó cho đến khi con người lìa đời? Một đôi khi chấn thương sọ nảo hay tinh thần có thể làm gián đoạn dẫn truyền của hệ thống thần kinh. Nhưng khi hồi phục thì người ta vẫn nhớ lại.

Ngày nay, với tất cả thành tựu của con người trong mọi lãnh vực, văn minh trong cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần là nhờ quá khứ đấu tranh của cả mấy ngàn năm không chỉ qua những thành công mà chính là nhờ những thất bại. Thế thì tại sao phải quên quá khứ?

Nhưng "hãy" quên cái quá khứ nào? - Có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ tù đày trong những trại học tập không biết ngày mai, bị sỉ nhục mỗi ngày mà vẫn phải cám ơn "cách mạng" đã khoan hồng? Có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ của gia đình bị hăm dọa đẩy lên vùng kinh tế mới để nhà cửa còn lại cho "cách mạng" tịch thâu và khi trở về phải ngủ dưới hầm cầu, trên vỉa hè của chính nhà của mình? Quá khứ hãi hùng hể bị chụp mũ là tư sản thì đời kể như tiêu tùng, thân bại danh liệt, tài sản tịch thu, thân tù đày? Quá khứ hãi hùng trên biển cả, khiếp đảm trong bìa rừng Thái, Lào mà mỗi gia đình người Việt ngày nay ở hải ngoại đều có 1 câu chuyện như là một phần đời ... xa hơn nữa, có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ của cuộc cách mạng địa chủ năm 1954 đã hành quyết hàng chục ngàn người hay là cuộc chôn sống tập thể cả 5 ngàn người vào Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968? Ngược lại, có những quá khứ không nên quên bao giờ chẳng hạn như cuộc cách mạng muà Thu, Đại Thắng Mùa Xuân, những hy sinh vô bờ bến của Hồng Quân Liên Sô và Trung Quốc ...?

Mỗi lần nghĩ về lịch sử oai hùng của dân tộc và những hy sinh của tiền nhân trong công cuộc dựng nước và giữ nước là tôi thấy hãnh diện và sung sướng. Nhưng không phải quá khứ nào cũng huy hoàng và không có lý do gì tôi chỉ nên nhớ những huy hoàng ấy và bỏ qua những sai lầm như một trốn chạy. Còn như để quên quá khứ như một người mất trí thì hướng về tương lai để làm gì?

Ngay tại Việt-Nam ngày nay, nhiều người đã muốn quên quá khứ như mượn rượu để giải sầu. Có người còn muốn quên cả hiện tại. Phải chăng đây cũng là phản ảnh của hiện tượng hút xách, ăn nhậu, chơi ngông ? thêm vào đó chính quyền còn giúp cho đại đa số dân chúng một cuộc sống phải vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày một và một hệ thống giáo dục tẩy não để họ không có thời giờ nhớ về quá khứ hay phương tiện để tra cứu?

Hãy xoá bỏ hận thù ...

Có lẽ người nói câu hãy quên quá khứ để hướng về tương lai muốn nói là hãy xóa bỏ hận thù để hướng về tương lai? Vì quá khứ là một "hiện thực" khách quan nên không thể quên được. Nhưng hận thù là sản phẩm của tâm tư con người nên con người có thể khắc phục được. Hận thù đưa đến trả thù sẽ làm cuộc sống máu me dơ bẩn. Hận thù làm tâm linh ta khốn khổ, cuộc sống mất đi cái hồn nhiên vô gía và hướng thượng ... và ngay cả sau khi trả được mối thù, cái bàn tay nhuốm máu ấy vẫn không bao giờ rửa sạch ...

Nhưng chính người cọng sản Việt-Nam đã lấy hận thù để làm cách mạng. Có cái lòng hận thù nào để giáo dục cho con cháu như thế này: hôm qua dân quân ta bắn rơi 2 máy bay của Mỹ Ngụy. Hôm nay dân quân ta lại bắn rơi thêm 3 chiếc nữa. Vậy tổng cộng ta đã bắn rơi bao nhiêu chiếc cả thảy? Họ đã lấy hận thù để tiêu diệt tất cả các đảng phái không cùng chính kiến với họ. Sau khi toàn thắng ở miền Nam, thay vì dùng cái cơ hội bằng vàng này để nêu cao chính nghĩa dân tộc và hòa giải quốc gia, họ nhìn ở đâu cũng thấy toàn kẻ thù. Cái tâm lý bệnh hoạn và sợ hãi củng cố chế độ đã làm họ phải quyết định bế môn tỏa cảng trong cả 10 năm đầu. Hậu quả thì như ai cũng biết, nước Việt-Nam đã trở thành 1 trong 10 nước nghèo đói nhất của thế giới. Đánh động được lương tâm của con người qua những việt trợ nhân đạo, chính họ cũng phải nới lỏng nền kinh tế chỉ huy thiếu hiện thực, như đã từng được chứng minh qua các cuộc cách mạng ở Liên Sô và Trung Quốc. Nhưng khi tình hình đã được khả quan hơn nhờ những trao đổi với bên ngoài, họ trở lại nhìn thấy thêm kẻ nội thù, từ chính người dân của họ, những đồng chí mà cách đâu không lâu đã hy sinh cuộc đời cho sự nghiệp "giải phóng" dân tộc do họ chủ xướng. Ngoài những lực lượng thù nghịch, họ đã đặt để thêm những kẻ thù trong những "diễn tiến hoà bình" - nỗi lo sợ và lời buộc tội đã mâu thuẩn với chính danh xưng của những biến chuyển mà nghe ra rất khách quan trong phát triển tự nhiên của con người. Họ khuyên người ta hảy quên quá khứ, xóa bỏ hận thù nhưng chính họ thì không bao giờ, - vì hận thù vốn là sức sống, là linh hồn, là nền tảng của sự an toàn trong tư tuởng và lý luận của những người cọng sản Việt-Nam khi đi làm các mạng!

Nhưng có những hận thù nào ta không nên quên chăng? cho dù cả ngàn năm sau? như hận thù của 2 bà Trưng Trắc Trưng Nhị trước cảnh nước mất nhà tan mà rồi cuối cùng vẫn phải nhảy xuống sông tự vẫn? Trong đấu tranh cho Chủ Nghĩa Xã Hội, người vô sản có nên quên mối thù không đội trời chung với bọn tư bản bóc lột? Không hận thù thì làm gì có cách mạng? những ai còn phân vân với tính chuyên chính vô sản này thì cứ tìm đến ông Tô Huy Rứa để nghe lời giải thích. Hay là chỉ có người cộng sản mới được quyền hận thù?

Mới đây thôi, trong bài diễn văn đọc trước Quốc-Hội Hoa Kỳ, bà Thủ Tướng nước Đức đã nói gì? Cần nhắc lại, bà Merkel đã sống và lớn lên trong xã hội cọng sản Đông Đức mà vẫn trở thành Thủ Tướng của nước Đức thống nhất là một bằng chứng của sự xóa bỏ hận thù: "Nhưng đừng có ai nhầm lẫn: Khoan dung không có nghĩa là thế nào cũng được. Không khoan dung với những ai không tôn trọng và chà đạp các quyền vô giá của con người".

Xóa bỏ hận thù không có nghĩa là đồng lõa với tội ác. Không chịu nhìn thẳng vào cái gì đã gây ra hận thù nhưng chỉ biết kêu gọi xoá bỏ, cũng như họ kêu gọi đoàn kết nhưng không chỉ cho thấy cái gì đã gây ra chia rẽ là một sự lường gạt ấu trĩ và rẽ tiền !.

Để hướng về tương lai ...

Có ai trong chúng ta sống mà không để hướng về tương lai?. Ngay cả trong tu dưỡng cá nhân cũng đễ cho một sự ra đi thanh thảng khi từ giả cuộc đời. Tất cả người Việt chân chính đều mong muốn thấy được một nước Việt-Nam giàu mạnh, công bằng và nhân bản. Nhưng một lần nữa chúng ta đang nói về một tương lai nào? Một sự thành cộng của Chủ Nghĩa Xã Hội tại Việt-Nam và trên toàn thế giới? Quên quá khứ để hướng về tương lai trong diễn dịch của nhà cầm quyền CSVN là quên hết (như người mất trí?) và chấp nhận trở về làm việc cho họ. "Bằng lòng đi em về với quê hương". Những người cộng sản Việt-Nam đã nói rõ ràng rồi: yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội. Danh từ "đoàn kết" có nghĩa là từ bỏ vị trí chống đối hoặc không đồng chính kiến để trở về dưới sự lãnh đạo của họ. Không có hòa hợp hòa giải gì cả. Hãy thành thật với nhau như chút liêm sĩ còn lại mà chúng ta đều hiểu: không ai có tư cách mặc cả với chế độ CS hiện nay cả!

Tôi không tin là cho đến bây giờ những người gọi là Việt Kiều Yêu Nước vẫn chưa biết mình đang nói cái gì? Xin các Việt-Kiều Yêu Nước đừng lừa dối thế hệ trẻ ngày nay vì họ không có cơ hội để kiểm chứng. Xin đừng tiếp tục làm dơ bẩn những ý tưởng cao đẹp của lòng nhân đạo, tình quê hương là những giá trị cao quí của dân tộc. Nhắm mắt lại như con đà điểu chui đầu vào cát? - những người tự gọi là Việt Kiều yêu nước đi về Việt-Nam xây vài lớp học, đào vài cái giếng rồi giáo dục những người Việt khác cũng nên yêu nước như mình. Chính người viết bài này cũng đã và đang gởi tiền về Việt-Nam để giúp đở bạn bè thân nhân khốn khổ của mình. nhưng yêu nước và "chỉ là" lòng nhân đạo khác nhau rất nhiều!. Hãy nhìn cho rõ cái nguyên nhân chính đã đưa đến tình trạng hiện nay. Đó là hậu quả của một chế độ chính trị lỗi thời đang ngự trị trên cái quê hương khốn khổ này. Con đường đi đã sai lầm rồi thì càng đi càng xa cái đích dù đi bằng cách nào đi nữa. Trong mặt tiêu cực, càng đi càng lãng phí, càng phá hoại như chúng ta đã nhìn thấy xã hội hiện nay. Dù có bao nhiêu nghị quyết, bao nhiêu "rà soát" cũng chỉ là "mị dân" mà thôi.

Chính cái chế độ chính trị này trong hơn 30 năm qua đã đưa đất nước thụt lùi, cụ thể là so với các nước khác trong vùng. Trong lãnh vực xã hội, chính cái chế độ chính trị này đã tạo ra 1 giai cấp thống trị mà giờ đây chẳng khác gì một loại băng đảng, bao che cho nhau và sống trên mồ hôi nước mắt của tuyệt đại đa số người dân còn lại. Cái hậu quả của chế độ chính trị này đã và đang thấy tại các quốc gia đi theo cùng một chế độ chính trị. Tại Việt Nam, để bảo tồn quyền lực, băng đảng này đối với các thế lực cường quốc thì lạy dạ run sợ nhưng đối với chính người dân khốn khổ của mình thì thẳng tay đàn áp. Người cọng sản nói rất rõ: chế độ nào cũng là chế độ độc tài của giai cấp thống trị. Trong chế độ XHCN, đó là giai cấp vô sản. Cho nên chế độ XHCN là chế độ độc tài của giai cấp vô sản. Người cọng sản cười thầm khi những kẻ theo đuôi họ cứ ráng giải thích tính dân chủ tư sản của chế độ cọng sãn.

Nhưng thực tế chúng ta thấy gì? - chế độ của họ ngày nay quả là chế độ độc tài của 1 giai cấp lãnh đạo, nhưng không phải vô sản mà là 1 loại siêu tư sản, được bảo vệ một cách công khai bởi hệ thống chính trị và chính quyền. Điều này không chỉ thấy ở Việt-Nam mà trong hiện thực của tất cả các nước cọng sản ngày nay. Trong kinh tế , nhờ vào quyền lực sẵn có, họ hội tụ tài sãn của cả quốc gia vào trong tay tập đoàn lảnh đạo của họ. Cho nên nhóm bè đãng lãnh đạo của bọn họ rất giàu trong khi quốc gia thì vẫn èo ọt và tuyệt đại đa số người dân thì vẫn nghèo đói. Trong chính trị, băng đảng của họ có quyền lực không khác mấy thời của những lãnh chúa ... cái chế độ như cha truyền con nối là những ngạo mạn, thách thức đối với lương tri của con người. Nếu họ vẫn còn đó và có lẻ phải còn chờ lâu nữa cho đến khi trình độ dân trí của dân ta đủ mạnh để chiến thắng những khó khăn và sợ hãi của cuộc sống thì xã hội sẽ tiếp tục như vậy. Đó là cái tương lai mà Người Việt Yêu Nước muốn hướng về? Còn nếu không, hãy quên bất cứ quá khứ nào cũng được để hướng về 1 tương lại vô định thì nếu người nói không mù quáng là có ý xem thường khả năng phán đoán của người nghe rồi. Một số người Việt khác quả quyết họ vẫn yêu quê hương bằng một con đường hợp tác khác, như con đường của một Tôn thọ Tường thì tôi chỉ còn biết tặng họ lại hai câu thơ của cụ Phan văn Trị:
    Anh hởi Tôn Quyền anh có biết?
    Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng ...
Vào lứa tuổi của tôi có bạn đã chết, đang bị đày đoạ trên chính quê hương của mình, đã vùi thây trong Thái Bình Dương bao la, trong những bìa rừng âm u ở Thái, Lào hay đang lạc lỏng trên những mãnh đất xa lạ nào đó ở Châu Phi, ở Trung Đông ... so với họ tôi may mắn hơn nhiều. Hơn 30 năm đã qua. Vì nhiều lý do: an ninh bản thân và gia đình, an toàn khi có dịp về thăm quê nhà, miếng cơm Tây, manh áo gấm khiến tôi đã vô tình im lặng và tránh né. Giờ đây tóc đã hai màu, còn chút tình mà vẫn không dám nói thì đợi đến bao giờ? Riêng đối với các chiến sĩ VNCH trong đó có hàng cha anh chú bác của tôi, những người đã chết cho cho một chính nghĩa đã bị chối bỏ và chưa bao giờ được nhìn nhận, họ sẽ được những người CSVN viết lại trong lịch sữ như những tội đồ ... tôi có thể nào quên họ, quên cái quá khứ có sự hy sinh vô bờ và cô đơn của họ? Trong tự do của hôm nay tội vẫn nên tiếp tục "hy sinh", không nên nói lên những khát vọng của những người bạn, của đại đa số đồng bào kém may mắn hơn tôi đễ giữ an toàn và phồn vinh cho thiểu số còn lại chấp nhận đổi đời? Tôi không có tư cách để khuyên mọi người nên nói như tôi nói. Nhưng tôi sẽ cảm thấy hổ thẹn khi khuyên họ không nên làm như thế bởi vì với tôi, viết là để công bằng trả lại cho đời chút ân tình mà tôi đã nhận, dù chỉ là ngọn lữa của một que diêm, như một người bạn của chúng tôi có nói, sẽ không đủ sức để sưởi ấm cho cả một mùa đông băng giá này!.

Võ Trang



MẶT TRẬN VĂN HÓA VÀ NHỮNG THỦ TIÊU ÁM SÁT TRÍ THỨC MIỀN NAM VN - Nguyễn Văn Lục

Nguyễn văn Lục
    Mới hôm nào, tay cắp sách...
    Sáng mai này trên phố xá
    Tay bom xăng, tay cầm gạch đá
    Những bước chân rộn rã
    Em kiêu hùng trên phố thị miền Nam ...
Tôi còn nhớ những năm tháng ấy của miền Nam Việt Nam. Thân yêu mà cũng buồn, bực dọc, bất mãn, chán nản, tuyệt vọng. Những năm tháng Sài Gòn giành giật giữa quốc gia và cộng sản. Bằng đủ mọi âm mưu và thủ đoạn giữa tiếng ồn ào của hoan hô, đả đảo với khói lựu đạn caỵ Chúng tôi sống một thời kỳ điên đảo bị giật giây bởi người cộng sản bằng một sự ngây thơ không tưởng, bằng những dằn vặt, giằng co giữa khát khao tự do, dân chủ, công bằng của chúng tôi. Và hơn hết tất cả là khát vọng hòa bình mong chiến tranh chóng chấm dứt.

Chúng tôi sống mất ngủ vì những khát vọng không đạt được mà thực tế trước mắt là chiến tranh, chém giết. Chúng tôi mong ước những trận mưa rào dập tắt khói lửa, nguôi ngoai hận thù. Nhưng thực tế mỗi ngày là những sự lừa phỉnh, dối gạt bằng đủ loại thuốc ngủ có tên phản chiến, nhạc phản chiến, văn chương phản chiến.

Trong khi đó thì người cộng sản với đủ loại “căn cứ lõm” trong thành phố giành giựt tim óc, tâm tư của tuổi trẻ thành phố. Và nếu không giành giựt được thì họ không ngần ngại thanh toán, ám sát giết hại.

Nhưng mỗi khi có một vụ ám sát giết người như vụ ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông, ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật hay nhà báo Từ Chung, nhà báo Chu Tử thì vô số loại tin đồn được tung ra.

Người ta đổ cho Mỹ sát hại cũng có, nhất là đổ cho chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Đó là những dư luận dễ dãi nhất và vô căn cứ nhất. Nhưng nhiều người vẫn tin. Và chính quyền miền Nam thì không có cách gì để cải chính những tin đồn kiểu đó.

Nay thì đã có câu trả lời rõ ràng ai là thủ phạm những vụ ám sát đó.

Không ai khác là cộng sản.

Đó là Đoàn công tác của thành đoàn thanh niên sinh viên, học sinh Sài gòn, Chợ Lớn. Họ chiụ trách nhiệm về những việc ám sát ấy. Họ là những ai? Trụ sở của họ ở đâu? Nay họ làm gì?

Trong khi đó, tổ chức hệ thống mật vụ Việt Nam thời đệ nhị cộng hòa tỏ ra thiếu hữu hiệu như thể bó tay. Tất cả những vụ đốt xe Mỹ, tất cả những vụ đưa người thâm nhập cơ sở, tất cả những vụ phá rối trật tự, phá hoại an ninh, những vụ ám sát các viên chức miền Nam, nhất là các trí thức miền Nam thường không tìm ra dấu vết thủ phạm. Cộng Sản trà trộn khắp nơi, len lỏi vào trong nhiều tổ chức tôn giáo, nhất là Phật giáo. Các tổ chức này như tấm bình phong che chắn cho CS. Có nhiều tấm bình phong như thế có tên là giới sinh viên, giới trí thức, giới Phật tử và giới báo chí. Chẳng hạn, biểu tình là do sinh viên chống chính phủ. Nhưng ai thấy được CS ở đằng sau?

Cái đằng sau mới là quan trọng. Không phải chính quyền cứ đàn áp sinh viên, bắt bớ, giải tán bằng lựu đạn cay, rào kẽm gai là xong, là lấy lại được an ninh trật tự. Nhiều khi chỉ tạo ra những phản ứng ngược chiều, rất bất lợi. Những thành phần sinh viên thầm lặng vô tình bị đẩy cũng đứng vế phía sinh viên xuống đường.

Vấn đề là bắt cho bằng được những kẻ đầu não. Nào có khó khăn gì? Họ là những Huỳnh Tấn Mẫm, Vũ Hạnh, Dương Văn Đầỵ Họ đi khơi khơi ngoài đường. Họ biểu tình, họp báo, viết báo như chỗ không người. Hãy nhốt họ lại. Đủ bằng cớ. Đưa họ đi Côn sơn. Cách ly bọn họ, triệt tiêu tận gốc. Chúng ta đã không làm, bắt rồi thả do áp lực sinh viên, trí thức báo giới, nhà văn.

Có lẽ, tất cả chỉ vì cái khí thế chống Cộng thời đệ nhất cộng hòa không còn nữa? Còn đâu những lời hiệu triệu của TT Ngô Đình Diệm những năm đầu thể chế đệ nhất cộng hòa: Quốc dân đồng bào, ai áp bức bóc lột và chà đạp con người Việt Nam ? Thực dân, phong kiến và cộng sản. Vì vậy mà chính phủ chủ trương kháng đế, bài phong, diệt Cộng ... Hỡi binh sĩ và cán bộ Quốc gia.

Chúng ta tố Cộng là để tranh thủ được lòng dân. Thông điệp đầu năm Ngô Đình Diệm, 1959.

Cảnh sát thời ông Tổng Giám Đốc cảnh sát Trang Sĩ Tấn dẹp biểu tình cũng không xong. Càng tăng cường kiểm soát an ninh, giữ gìn trật tự bằng lựu đạn cay, bằng hàng rào kẽm gai, dùi cui của Cảnh sát dã chiến. Càng gây thêm sự phẫn nộ trong dân chúng. Dư luận cũng như đông đảo quần chúng mất tin tưởng vào chính quyền.

Khi có phong trào thanh niên đốt xe Mỹ, ông Trang Sĩ Tấn đã đưa ra những lời đe dọa vu vơ như sau trong một buổi họp báo ngày 16 tháng chín, 1972: “Những kẻ nào bị bắt quả tang đang phá hoại quân cụ, kể cả những xe cộ, sẽ bị kết án tử hình”.

Ai cũng biết đó là những lời đe dọa vu vơ.

Án tử hình đâu chưa thấy, chỉ thấy thành phố Sài Gòn rơi vào tình trạng xáo trộn liên tục.

Hình ảnh Sài Gòn với rất nhiều xáo trộn chính trị đủ loại là hình ảnh một cuộc chiến tranh đặc biệt, lạ lùng mà kỳ cục. Có lựu đạn cay ngoài đường, có những bộ áo rằn ri. Nhưng cũng có những tà áo nữ sinh, cầm túi chanh, te tác trên đường phố. Có tiếng hát, tiếng hò của đám sinh viên, học sinh vào một buổi tối, tại chùa Ấn Quang. Ở đấy, hẳn không thiếu những tiếng cười. Không thiếu niềm tự hào và hăng say. Trong khi đó, nhìn xuống lề đường, ở mỗi gốc cây đều có bóng lính. Xe nhà binh, xe cảnh sát chạy rần rần, pha đèn mở sáng.

Người ta chỉ thấy một hậu phương rối loạn. Lính tráng ngoài mặt trận làm sao yên tâm cầm súng chiến đấu chống kẻ thù?

Bộ mặt thành phố Sài gòn lộ diện ra khi tôi lần dở lại tờ báo Sóng Thần ra ngày 31 tháng 10 với những hàng tít lớn trên báo: 31/10 Ngày dài vô tận. Ngày dài vô tận là ngày tranh đấu, xuống đường, khí thế bừng bừng như một cuộc tranh đấu nội thù. Ở phần đầu tờ báo Sóng Thần có đăng tâm thư của LM Thanh Lãng viết cho tờ báo Sóng Thần: Đập các anh là đập tất cả chúng tôi. Ai đập ai giữa những người Quốc gia? Bên cạnh đó là các tên tuổi lớn hỗ trợ tờ báo Sóng Thần như Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Hiến Lê, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lam Giang, Lê Ngộ Châu. Và các nghệ sĩ như Năm Châu, Bích Thuận, Kim Chung, Khánh Ly lên tiếng để chịu chung bản án với Sóng Thần. Rồi 32 nhà văn, nhà thơ tên tuổi ký tên chung tuyên bố: Phản đối đàn áp báo chí, truy tố Sóng Thần. Cạnh đó hình ảnh diễn hành của một số luật sư ra tòa biện hộ như các luật sư Bùi Tường Chiểu, Hồ Tri Châu, Lý Văn Hiệp, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Lâm Sanh tại một ngã tư . Ở một góc phòng với bị can Trùng Dương, chủ nhiệm báo Sóng Thần, vây quanh có các luật sư Đỗ Văn Võ, Đặng Thị Tám, Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Tường Bá. Cũng cạnh đó, bà luật sư Nguyễn Phước Đại thay vì cầm tập hồ sơ biện hộ thì lại đang cắt chanh phòng hờ bị lựu đạn cay.

Và biết đâu ở một góc đường, một anh thợ vá xe đang ghi nhận tất cả những hoạt cảnh đó báo về “Trung ương” của anh. Đó là những hình ảnh hai mặt của cuộc chiến trong thành phố, giữa lòng thủ đô Sài gòn của miền Nam.

Không ai ngày nay nghĩ rằng những cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ đó là sai, nhưng điều chắc chắn là đã vẽ đường cho hươu chạy và hơn hết mọi chuyện là gián tiếp bị CS lợi dụng.

Tôi có liên lạc với nhà văn Trùng Dương, chủ nhiệm báo Sóng Thần. Chị khẳng định và xác nhận lại cuộc tranh đấu của báo chí qua vụ báo Sóng Thần là đúng, không làm khác được.

Chắc là như vậỵ

Nhưng bên cạnh sinh hoạt đấu tranh có vẻ dân chủ đó có một thứ đấu tranh một mất một còn giữa Cộng Sản và chính quyền miền Nam thông qua những thanh niên, sinh viên, học sinh. Chính những sinh viên, học sinh này đang đấu tranh, đang hô hào phản đối chính quyền đã góp phần làm tiêu hao lực lượng cũng như tinh thần của miền Nam Việt nam.

Đó mới là bộ mặt thực của cuộc chiến tranh nàỵ Bộ mặt được dẫn dắt và chỉ đạo từ đảng Cộng Sản miền Bắc Việt Nam.

Có một cuộc chiến tranh ngoài Sài Gòn bằng bom, bằng đạn, bằng trực thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng hầm chông, bằng xe tăng. Bằng xác người phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch. Bằng đô la và xác người.

Nhưng cũng có một cuộc chiến tranh thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực, xuống đường, bằng hô hào, đả đảo, bằng lựu đạn cay, bằng hàng rào kẽm gai.

Cuộc chiến tranh cân não này ít được ai nói tới, vì không mấy khi có người chết. Mà chỉ có nước mắt của lựu đạn cay. Nhưng nó cũng đủ làm lung lay bất cứ chế độ nào. Nó xói mòn tin tưởng, nó làm lung lay ý chí. Bởi vì bản chất của nó là một cuộc chiến tranh cân não làm hao mòn ý chí phấn đấu, làm suy sụp tinh thần kẻ địch. Biên giới cuộc chiến tranh này không rõ rệt, trộn lẫn ta và địch, địch cũng là ta.

Cuộc chiến tranh trên đường phố Sài gòn diễn ra ở hai mặt: Mặt nổi là những cuộc biểu dương lực lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình, xuống đường, đòi cái này, cái nọ, đòi thả người này người kia, ngay cả đòi thả những cán bộ cộng sản như Vũ Hạnh, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Lý Chánh Trung trong bài viết: Rồi Hoà Bình sẽ đến ghi như sau:

Tôi đã đến đây tham dự buổi tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu hoc tại tòa Viện trưởng Viện Đại học Sài gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòạ Trong lúc mấy em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn xuống...
(trích trong Một thời bom đạn, một thời Hòa Bình, Lý Chánh Trung, trang 62).

Thế nào là trái phép? Bắt giam một cán bộ CS nằm vùng là trái phép? Không ai đặt ra câu hỏi đó cả.

Bên cạnh Lý Chánh Trung còn có một số phụ nữ Đòi quyền sống, còn có các ông Nguyễn Long, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Văn Cước, các Thượng tọa Mãn Giác, Nhật Thường.

Thêm vào đám đông đòi đó, còn có một Thích Nhất Hạnh vu cáo về một cuộc tàn sát chỉ có trong tưởng tượng của ông ấy:
    Làng tôi hôm qua vì có 6 người Cộng sản về
    Nên đã bị dội bom hoàn toàn tan nát
    Cả làng tôi hoàn toàn chết sạch
    Lũy tre ngơ ngác
    Miếu thờ ngã gục
    (Thơ Thích Nhất Hạnh)
Đáng nhẽ ông ấy phải viết rõ như thế này: Chỉ còn sống có mình tôi, để viết những điều vu cáo này. Có thật như thế không? Ngôn ngữ của sự gian dối? Một nhà sư nói gian dối thì phải gọi ông ta là gì?

Và để tường thưởng cho vị thiền sư, cộng sản đã có những lời lẽ trân trọng như sau:

“Người Sài gòn, tuổi trẻ Sài Gòn biết ơn những bậc tu hành chân chính đã quên mình vì nghĩa lớn, những phật tử hy sinh trong bão lửa đấu tranh làm suy yếu kẻ thù, làm rối loạn hậu phương của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho Sài Gòn, tuổi trẻ Sài Gòn bung ra ào ạt giành một thế đứng công khai phất cao cờ cách mạng sau bao nhiêu năm xúc tích lực lượng chuẩn bị thời cơ”.

Đó là những lời lẽ trân trọng mà người cộng sản đã dành cho Thích Nhất Hạnh. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 349).

Phần Trần Bạch Đằng, chúng ta cần đọc mấy dòng thư này của ông ta để chúng ta nhận ra Huỳnh Tấn Mẫm là ai? Ông Trần Bạch Đằng còn giữ lại một mảnh giấy gửi cho ông ta của sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm ghi lại như sau: Xin đoàn thể yên tâm, quyết làm tròn nhiệm vụ. L71. L.71 là mật hiệu của Huỳnh Tấn Mẫm. Mẫm viết thư này tại nhà Quốc khách, nơi được dành làm trụ sở Tổng hội sinh viên. Trớ trêu thay, trụ sở này do ông Nguyễn Cao Kỳ dành cho Tổng Hội sinh viên của Huỳnh Tấn Mẫm chỉ vì mâu thuẫn, muốn chơi ông Thiệu.

Mời đọc thêm đoạn hồi ký bị cấm xuất bản ở trong nước của cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận để nắm cho rõ câu truyện này. Ông Hồ Ngọc Nhuận viết như sau về vụ này:

‘Nguyễn Cao Kỳ “xớt” Huỳnh Tấn Mẫm’. Đó là nhan đề bài viết. Huỳnh Tấn Mẫm một lần nữa bị bao vây, truy bắt. Trung tâm sinh viên Phật tử một lần nữa dậy sóng. Một chiếc jeep nhà binh, ngay sau khi tôi “điệu” hết cảnh sát về Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đã ập vào trung tâm Quảng Đức, bốc Huỳnh Tấn Mẫm chạy thẳng về dinh Quốc khách ở góc đường Công Lý và Hiền Vương, nay là Trung tâm văn hoá thiếu nhi, góc đường Nam Kỳ khởi nghĩa-Võ Thị Sáu. Chiếc jeep ập vào bốc Mẫm là của Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và dinh quốc khách lúc bấy giờ cũng thuộc quyền Phó tổng thống.”

Dinh Quốc khách, trung tâm Quảng Đức. Chùa Phổ Hiền. Ấn Quang. Những mái chùa. Tất cả những nơi ấy đã góp chung bàn tay che chở bọn người cộng sản nằm vùng để làm sụp đổ miền Nam Việt Nam.

Và Hồ Ngọc Nhuận đắc thắng viết tiếp:

Tiếp tay cho cộng sản, như vậy, không chỉ có mình tôi. Và lần này vai chánh không là tôi, mà là tướng Nguyễn Cao Kỳ. (trích hồi ký Đời, bản thảo, Hồ Ngọc Nhuận, trang 142).

Cái đất nước mình nó như thế đấy, cái lãnh đạo mình nó như thế đấy.

Và sau đây là danh sách 16 sinh viên bị chính quyền Việt Nam Cộng Hoà bắt. Bắt đúng người, bắt đúng những kẻ đã tiếp tay với Cộng sản. Nhưng vẫn bị sinh viên biểu tình đòi tha họ. Sau này cho thấy họ đều là những cán bộ CS trà trộn vào sinh viên như: Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Truơng Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga.

Chưa kể vụ án thành đoàn giải phóng gồm 21 người, trong đó có một số lãnh đạo Thành Đoàn như Ba Vạn, tức Phan Chánh Tâm, Năm Nghị, tức Phạm Chánh Trực. Sau 1975, họ đều là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở thành phố Hồ Chí Minh.

Và danh sách những nhà văn, nhà trí thức đòi thả bọn sinh viên cộng sản hãy còn đây. Quốc gia chống Cộng mà lại có chính nhà văn, nhà trí thức người quốc gia biểu tình, đòi thả bằng được những sinh viên cộng sản nằm vùng? Nhiều tờ báo cách này cách khác trở thành phương tiện cho cộng sản lợi dụng.

Bên cạnh đó, về mặt chìm là những toán đặc công cộng sản do thành đoàn tổ chức gài bom phá hoại các công sở, các xe nhà binh Mỹ, các doanh trại Mỹ và cuối cùng là giết hại, ám toán người quốc gia đã không theo họ. Nữ tướng đốt xe Mỹ thời 1960-1970 là Võ Thị Bạch Tuyết lúc đó nay trở thành giám đốc nông trường Đỗ Hoà ở Duyên Hải.

Đầu xuân 1966, Đảng ủy văn hóa khu Sài gòn Gia Định giao cho Vũ Hạnh, một nhà văn nằm vùng công tác đặc biệt là mở một mặt trận văn hóa tấn công miền Nam trong vùng đô thị mà họ gọi là “vùng tạm chiếm”. Vũ Hạnh ngụy trang dưới chiêu bài Bảo vệ Văn hóa, chống lại văn hóa đồi trụy, chống lại văn hóa ngoại lai đầu độc thanh niên miền Nam . Họ tổ chức và xin phép cho ra tờ Tin Văn. Tờ báo trực tiếp được chỉ đạo bởi các cán bộ cộng sản. Đứng đầu là Trần Bạch Đằng. Chủ nhiệm là Nguyễn Mạnh Lương. Và một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Những nhà văn này còn viết cho tờ Hồn Trẻ với các cây viết như Trần Cảnh Thu, Trần Triệu Luật, Nguyên Hạo, Lê Uyên Nguyên, Tuyết Hữu, Cao Hoài Hà, Thích Quảng Khanh, Anh Vũ, Lê Ngọc Lê, Đinh Khắc Nhu, Lê Việt Nhân ... Toà soạn tờ báo được đặt trong một ngôi chùa. Chẳng hạn tờ Hồn Trẻ do Mười Hải, bí thư khu uỷ văn hóa. Tòa soạn đặt ở ngôi chùa số 29, đường Trần Quang Khải.

Một số chùa chiền trở thành cơ sở bí mật cho các hoạt động phá hoại của cộng sản như Ấn Quang, lúc bấy giờ do TT Thích Thiện Hoa chủ trì, trung tâm Quảng Đức, Đại học Vạn Hạnh. Theo tài liệu của Thành đoàn TNSVHS trong cuốn “Trui rèn trong lửa đỏ” đã viết về Đại học Vạn Hạnh như sau:

Viện đại học Vạn Hạnh thành lập năm 1964 là một đại học của Phật giáo. Trường ở đối diện chợ Trương Minh Giảng. Trước năm 1968, tổ chức cách mạng cũng có hoạt động ở đây. Đêm đón tết Mậu thân, tổ chức cách mạng ngay tại trường với một cuộc tập họp táo bạo, sinh động. Tuy nhiên lực lượng ta thời này chưa mạnh. Tháng 10/68, tình hình tổ chức cách mạng ở trường sau thời gian bị đánh phá, coi như trắng. Thành đoàn chỉ đạo đồng chí Sáu Tỉnh, tức Đỗ Quang Tỉnh, nay là cán bộ ban Hợp tác kinh tế của Uỷ ban nhân dân thành phố về xây dựng lại bằng tổ chức Liên đoàn sinh viên Phật tử Vạn Hạnh.. Và họ đã kết luận: kể từ tháng 5/1972, một chi bộ chính thức của Vạn Hạnh được thành lập.

Và một câu đánh giá quan trọng như sau: Từ những ngày đó, Vạn Hạnh trở thành một pháo đài xuất quân đốt xe Mỹ và chống bầu cử (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 96).

Còn Ấn Quang được ghi lại như sau:

Những ngọn lửa bùng lên tuyệt đẹp trên đường phố. Các báo gọi những chiến sĩ đốt xe Mỹ là du kích quân sinh viên học sinh. Và chùa Ấn Quang trong những ngày ấy, là một chiến lũy của họ. Những người mẹ, người chị vượt qua những hàng rào cảnh sát, lựu đạn cay, vòi phun nước... đến với những đứa con ngoan của thành phố... “Tụi bay cứ đốt, đốt hết những quân chó đó đi...” Các mẹ, các chị căn dặn, nhắc nhủ với một lòng căm thù như vậy. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 110).

Tuy nhiên, dưới mắt người Cộng Sản, họ đã nhìn lại vai trò của Phật giáo như sau:

Viện Hoá Đạo, lá cờ đấu tranh vang dội một thời đang ủ rũ và chia rẽ, phân hóa. Kẻ về Vĩnh Nghiêm với lá cờ chống Cộng rách rưới. Kẻ về Vạn hạnh dò dẫm một lối đi. Người về Ấn Quang gần gũi với quần chúng, với thanh niên. Viện hóa đạo còn lại những chiến lược gia ủng hộ Khánh- Hương đàn áp phong trào, bắn chết học sinh Phật tử Lê Văn Ngọc.

Và kể từ nay: “Ngọn cờ Phật giáo lãnh đạo đấu tranh hạ xuống, ngay từ trong lòng Phật tử, nhường chỗ cho lá cờ cách mạng phất cao lãnh đạo phong trào đấu tranh của Sài gòn, của tuổi trẻ thành phố.”

Năm 1964 đã kết thúc như vậy. Tuổi trẻ thành p[hố kết thúc 10 năm sóng gió, để bước vào cuộc chiến đấu mới 10 năm sục sôi kỳ lạ. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 350-351).

Tiếp nối một cách vô tình hay bị mua chuộc có thêm các tờ báo sinh viên như Hoa Súng của Dược Khoa, Văn Khoa với Hạ Đình Nguyên. Nhất là tờ Tin Tưởng, tiếng nói của sinh viên Phật tử. Năm 1968, tờ Tin Tưởng do Phạm Phi Long làm chủ nhiệm, Đặng Minh Chi làm thư ký tòa soạn. Sang đến năm 1970, tờ Tin Tưởng sang tay cho Nguyễn Xuân Lập làm chủ nhiệm, Trần Công Sơn chủ bút và Trịnh Thị Xuân Hồng, thư ký tòa soạn. Sự tiếp tay của những tờ báo như Tin Tưởng với nội dung các bài đòi ngưng bắn vĩnh viễn, đòi Mỹ rút quân. Tất cả đều do bàn tay CS chỉ đạo.

Trong khi đó thì phía miền Nam có Chu Tử, đứng mũi chịu sào trực tiếp tố cáo Vũ Hạnh là Cộng Sản trong nhiều số báo liên tiếp kể từ tháng 10/1966 cho đến cuối năm 1966. Cái dở khóc dở cười của văn nghệ sĩ miền Nam là đã nhiều lần hội Văn bút do Lm Thanh Lãng làm chủ tịch đã công khai bênh vực Vũ Hạnh và cứu thoát y nhiều lần khỏi cảnh tù tội.

Cộng sản đã dùng tờ Tin Văn do Nguyễn Ngọc Lương làm chủ nhiệm, nhân danh bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, bài trừ văn nghệ phản động đồi trụy. Trong tờ Tin Văn có những bài viết như:

Nhân một quyết định của bộ Văn hóa giáo dục, về việc bài trừ sách báo đồi trụy. Tin Văn số 3, tháng 6-7/1966. Hiện tượng dâm ô đồi trụy trong Văn Học hiện nay. Tin Văn số 9, 15/10/1966. Đọc tác phẩm của Chu Tử, Lữ Phương, số 10, 30/10/1966.

Sau này, trong tài liệu của Thành Đoàn, Vũ Hạnh đã có những nhận xét như sau về tờ Tin Văn:

Tuần báo Tin Văn, với các bài phê bình vạch mặt những tên xung kích chống phá cách mạng qua các tác phẩm đồi trụy, phản động.. Phong trào bảo vệ phát huy văn hóa dân tộc, bài trừ văn nghệ phản động, đồi trụy sớm trở thành phong trào quần chúng sôi nổi, sâu rộng ở Sai gòn và các tỉnh miền Nam, khiến bọn tay sai văn nghệ co lại, nguỵ quyền hoang mang và dĩ nhiên chúng tìm mọi cách để phản kích lại. Sự ra đời những hoạt động văn hóa ngụy dân tộc bị phong trào vạch mặt, chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của sở công an và Trung ương tình báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là việt cộng nằm vùng và liên tiếp trong nhiều số báo như vây, y đã vu khống tôi, cốt làm cho những người đã tham gia phong trào sợ hãi. Lúc nầy, Đảng uỷ văn hóa và thường vụ khu uỷ ở nội thành vẫn hằng ngày theo dõi tôi, động viên, chăm sóc về tinh thần lẫn vật chất cho tôi, thông qua vợ tôi, mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng. (trích Từ toà án văn hóa đến Hát cho đồng bào tôi nghe. Vũ Hạnh, Trui rèn trong lửa đỏ trang 179).

Vũ Hạnh hay bút hiệu cô Phương Thảo đã bị chính quyền miền Nam chính thức bắt giữ ngày 02/06/1967. Cứ mỗi lần bị bắt thì lại có những nhà văn, trí thức, sinh viên và đặc biệt Hội Văn bút do Thanh Lãng vào tù lôi ông ta ra.

Chính Vũ Hạnh đã thố lộ về việc bắt giữ ông ta như sau:

Mấy tháng sau đó, tôi bị công an nguỵ quyền bắt giữ là do hai cơ sở của ta làm lộ. Nhưng sự kiện tôi bị bắt giam bấy giờ tạo thêm một cái cớ cho các hoạt động đấu tranh hết sức nhiệt tình của giới sinh viên học sinh. tất cả đều tung ra dư luận khắp nơi rằng tôi bị giam giữ là do Chu Tử vu cáo, rằng chính quyền đã bất chấp pháp luật, chà đạp lên quyền tự do cầm bút một cách hết sức thô bạo. THSV bấy giờ một mặt vận động các giáo sư đại học có lòng yêu nước lên tiếng để ủng hộ tôi, ủng hộ gia đình tôi. (trích Trui rèn trong lửa đỏ, trang 181).

Đọc đoạn văn trên cho thấy Vũ Hạnh đã trắng trợn vu cáo cho Chu Tử dính vào việc bắt giữ ông ta, đồng thời y đã vận động trong giới trí thức để xin tha cho y. Đó là lối vừa đánh trống vừa ăn cướp.

Bên cạnh những tờ báo chính thức như Tin Văn, CS còn tổ chức rất nhiều những báo chí sinh viên hỗ trợ và tiếp tay cho Tin Văn.

Các báo sinh viên do những sinh viên như Trần Thị Ngọc Hảo, quyền chủ tịch Tổng Hội sinh viên làm “báo nói” tố cáo Mỹ Ngụy. Dương Văn Đầy (Ba Đầy biệt danh Bảy Không) làm bích báo sinh viên bên Y khoa đòi chuyển ngữ ở Đại học y khoa.. Nguyễn Trường Cổn, chủ bút báo sinh viên ca tụng quân giải phóng trong dịp tết Mậu thân, bị bắt và bị tòa án quân sự kết tù 5 năm khổ sai. Nguyễn Đăng Trừng đã trốn ra vùng giải phóng bị kết án 10 năm biệt xứ.

Đại học Khoa học có tờ Lửa Hồng, tờ Dấn Thân được ông giáo sư Trần Kim Thạch đỡ đầu. Luật Khoa có tờ Đất mới do Lê Hiếu Đằng, Nguyên Hạo. Tờ Học sinh do Lê Văn Triều làm chủ nhiệm, Nguyễn Thị Liên Hoa quản lý, xuất bản 1000 số.

Nhưng quan trọng là tờ Hồn Trẻ. Tờ Hồn Trẻ đã mượn danh tính một số người viết tên tuổi ở miền Nam lúc bấy giờ như tấm bình phong và giúp làm tăng uy tín cho tờ Hồn trẻ. Đó là các tác giả có tên tuổi như Thiên Giang, Bùi Chánh Thời, Nguyễn Văn Trung, Võ Quang Yến, Trụ Vũ, Tô Nguyệt Đình, Thiếu Sơn, Lương Phương, Vân Trang, Hồng Cúc, Song Thương, Ái Lan, Thảo Lam, Phương Khánh, Thu Quyên, Cao Ngọc Phượng, Phong Sơn, Chinh Ba, Hữu Hoàng, Nguyễn Văn Phụng, Phan Hữu Trình. Như đã nói ở trên, tòa soạn đăt trong một ngôi chùa do một cư sĩ là ông Nguyễn Văn Hoanh đứng vai chủ nhiệm. Mục xã luận là do chính những cán bô cộng sản gộc như Phạm Bá Trực, Mười Hải biên sọan.

Bên cạnh đó là những buổi sinh hoạt văn nghệ, ca nhạc nhằm cổ vũ các phong trào svhs phản chiến, đòi hòa bình. Tờ sinh viên ra mắt độc giả ngày 15/5/1967 do sinh viên Hồ Hữu Nhật làm chủ nhiệm. Tờ sinh viên được coi như biểu tượng của sinh viên tranh đấu. Ở đây, tôi xin nêu danh tánh tất cả những sinh viên thuộc các phân khoa đại họ đã hoạt động cách này cách khác cho cộng sản. Họ đã gài người vào trong các tổ chức sinh viên. Chẳng hạn như phong trào đòi Hòa Bình với chương trình “Hát Cho Đồng Bào tôi nghe, Dậy mà đi, Tiếng hát những người đi tới, Đêm Văn nghệ tết Quang Trung” với sự tham gia của các sinh viên đi theo cộng sản như: Trần Thiện Tứ, bác sĩ Trương Thìn, nhạc sĩ Nguyễn Văn Sanh, nhạc sĩ sĩ Tôn Thấp Lập, Võ Thành Long, nhạc sĩ Trần Xuân Tiến, Phạm Phú Tâm, Trương Thị Hoàng và Trương Thị Anh, Phùng Hữu Trân, Nguyễn Ngọc Phương, Võ Thị Tố Nga, Lê Thành Yến.

Và sau đây là danh sách sinh viên tranh đấu đã tình nguyện vào căn cứ ở Bắc Lộ 7, Campuchia gồm: Phan Công Trình, Nguyễn Đình Mai, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Dương Văn Đầy, Trần Thị Ngọc Hảo, Huỳnh Quang Thư, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc Khoách.

Trong khi đó như tiếp sức cho địch, các trí thức, dân biểu nhà văn đua nhau ra các bản thông cáo đủ loại. Chúng tôi cũng xin tóm tắt bản Tuyên ngôn của nhóm Quốc Gia, ngày 04/09/1974 về tình trạng đàn áp báo chí tại miền Nam do các dân biểu sau đây đồng ký tên: DB Nguyễn Văn Binh, DB Nguyễn Tuấn Anh, DB Đặng văn Tiếp, DB Nguyễn Văn Cử, DB Dương Minh Kính, DB Nguyễn Trọng Nho, DB Nguyễn Văn Kim, DB Nguyễn Đức Cung, DB Vũ Công Minh, DB Đỗ Sinh Tứ, DB Nguyễn Hữu Hiệu.

Nội dung bản Tuyên bố phủ nhận luật báo chí 007, bênh vực báo Hòa Bình bị bộ Thông tin chiêu hồi đóng cửa, bênh vực các ký giả Nguyễn Thái Lân, Ngô Đình Vận bị gọi lên cơ quan an ninh lấy lời khai. Những bản tuyên cáo, những đòi hỏi như thế chắc là đúng, chắc là hợp pháp, chắc là ngay thẳng vì các vị ấy đều là những người quốc gia chân chính, người có lòng. Nhưng cộng sản đã biết lợi dụng những hoàn cảnh như thế để châm thêm ngòi nổ phá rối trật tự, an ninh ở Sài gòn.

Trong nhiều tháng qua, Hội Văn Bút của Thanh Lãng đã nhiều lần lên tiếng cảnh cáo về tình trạng đàn áp báo chí và coi đó là một ngục tù tư tưởng quy mô nhất.

Nhà văn Nhật Tiến cũng có đọc một bản cáo trạng dài về tình trạng ngộp thở của văn nghệ sĩ miền Nam cũng như của ngành xuất bản sách báo dưới lưỡi kéo kiểm duyệt ác nghiệt.

Cạnh đó là tuyên cáo chống đối chính quyền một cách đương nhiên của khối dân biểu Dân tộc xã hội gồm có: DB Trần Văn Tuyên, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Nghĩa, Nguyễn Phúc Liên Bảo, Nguyễn Công Hoan, Lý Trương Trân, Phan Thiệp, Huỳnh Ngọc Diêu, Trần Văn Thung, Trần Ngọc Giao, Trần Văn Sơn, Trần Cao Đề, Phan Xuân Huy, Tư Đồ Minh, Đinh Xuân Dũng, Lê Đình Duyên, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Hữu Thời, Nguyễn Mậu, Nguyễn Phước Vĩnh Tùng, Mai Ngọc Dược, Hồ Văn Minh, Đoàn Mai.

Riêng bản tuyên bố của nhóm dân biểu Xã hội-Dân tộc mà luật sư Trần Văn Tuyên làm trưởng khối thì chúng ta có quyền nghi ngờ nội dung bản tuyên cáo đó. Vì trong số dân biểu này, có một số đã làm tay sai cho cộng sản như dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu.

Luật sư Trần Văn Tuyên, một trí thức miền Nam, một người quốc gia chân chính mà còn có thể bị cộng sản giật giây thì còn ai khác nữa? Sau này đánh giá công tội của luật sư Trần Văn Tuyên, Hồ Ngọc Nhuận đã viết trong hồi ký “Đời” của ông như sau:

Luật sư Trần Văn Tuyên, có sách nào đó cho là lý thuyết gia của chủ nghĩa quốc gia chống Cộng, vào quốc hội nhiệm kỳ 2, năm 1971. Nhưng suốt nhiệm kỳ, anh chỉ đi với đối lập và là trưởng khối Xã hội-Dân tộc. Hôm gặp nhau khi đi trình diện với quân quản ở trụ sở Hạ viện, anh còn lạc quan nói: ‘chế độ mới không có luật sư, nhưng tôi hy vọng sẽ được làm bào chữa viên nhân dân’. Về anh cũng như một số các anh như Phan Thiệp, Nguyễn Mậu... thuộc cánh Quốc Dân Đảng miền trung, thật cũng khó mà lấy vài ba năm tham gia chính trị đối lập ở Sài Gòn để cân bằng đánh đổi mấy mươi năm chống Cộng. Nhưng nếu thời gian tham gia tranh đấu chống Mỹ của họ kéo dài thêm năm mười năm nữa thì sao? và đâu là những giọt nước nhỏ nhoi muộn màng giờ chót, thay vì rơi đi nơi khác, lại góp phần làm tràn cái ly? (trích hối ký Đời, bản thảo, Hồ Ngọc Nhuận, trang 165).

Ra đến Hải ngoại, trong Văn Học miền Nam, truyện 3, trang 1771 của Võ Phiến có trích dẫn lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng có nêu 3 “tác phẩm tốt” trong thời kỳ 1954-1975 là Vũ Hạnh, Sơn Nam và Võ Hồng và không đề cập một chữ đến vai trò cán bộ CS của Vũ Hạnh. Việc nêu danh có ba tác giả thân Cộng có tác phẩm tốt thật là khó chấp thuận được? Và thế nào là tác phẩm tốt? Và như thế gạt bỏ tất cả những nhà văn miền Nam còn lại trong đó có cả Võ Phiến? Tôi hy vọng rằng nhà văn Võ Phiến chia sẻ những suy nghĩ của tôi viết với sự trân trọng và công bình.

Cùng một tinh thần như Trần Bạch Đằng, trong bài báo của Xuân Trang nhan đề: ‘Tuổi trẻ Việt Nam làm báo’ có viết như sau về hiện trạng báo chí dành cho giới trẻ miền Nam:

‘Một hôm tôi ở tòa soạn nhận được bên anh em bên tạp chí Tin văn gởi biếu cho tờ Tin Văn số 10, với lời dặn dò là tờ Hồn Trẻ rất khó chen chân với các tờ báo nhảm nhí Tuổi hoa, Thiếu nhi, Tuổi ngọc... do bọn Nhật Tiến, Duyên Anh, Bảo Sơn chủ trương. Có lần tôi, tôi giao cho nhà phát hành Độc Lập, đường Trần Hưng Đạo 5 ngàn số thì sau đó y trả về gần đủ ... 5 ngàn số, nghĩa là không bán được tờ nào cả’.

Báo do cộng sản chủ trương không bán được vì không ai mua, nhưng bọn họ vẫn gọi các báo Tuổi Hoa, Tuổi ngọc, Thiếu nhi là những báo nhảm nhí. Đó là cái cung cách của người Cộng Sản.

Bên cạnh những tờ báo chính thức như Tin Văn, người cộng sản đã phát hành vô số báo vệ tinh như các tờ Xung kích, Suối thép, Lửa thiêng, Trung Kiên từ căn cứ đưa vào nội thành. Nhưng những báo này thực sự cũng ít được ai biết tới.

Kết luận phần 1

Nguyễn Đình Thi trong bài viết Câu chuyện gởi tới các bạn tuổi trẻ sinh viên học sinh miền Nam đã viết:

‘Mấy tháng nay, từng bước đấu tranh của các bạn đã được toàn thể đồng bào miền Bắc, nhất là các giới trí thức, đại học, các lứa tuổi trẻ, chăm chú theo dõi với tình thương yêu đầy tự hào. Hai mươi năm lăn lộn lửa đạn, và ngày nay đang tiếp tục chiến đấu, dân tộc ta đồng thời đã không ngừng từ đất bùn mà nhào nặn lại cuộc sống của mình, từng bước tiến lên xóa vỡ bao ngang trái bất công và quét đi những rác rưởi của chế độ cũ’.

Và Lý Chánh Trung trong bài: ‘Làm và tin’ cũng đã viết:

‘Không có mũi nhọn xung kích của thanh niên thì không thể tạo được những xáo trộn dữ dội và kéo dài trong những năm 70, gây được tiếng vang ở nước ngoài và làm cho địch rất lúng túng... Tôi đã nhảy vào cuộc đấu tranh, phần lớn do sức lôi kéo của những người trẻ tuổi nói trên và đó là những ngày đẹp nhất mà tôi đã sống, với những lý tưởng đẹp, những tình cảm đẹp, những gương mặt đẹp mãi mãi không quên’.

Hiện nay, tờ Tuổi trẻ cùng như tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, Tuổi trẻ cười tại thành phố Hồ Chí Minh là hậu duệ của những tờ báo sinh viên, học sinh thời trước 1975. Một số bọn họ được trui rèn từ những ngày tháng tranh đấu trong mặt trận báo chí của Sài gòn trước 1975 nay đảm trách nhiệm vụ mới.

Mặt trận báo chí ở đô thị trở thành mũi nhọn hàng đầu trong tất cả các phong trào chống Mỹ, chống Thiệu. Tất cả những tờ báo ấy trở thành vũ khí tư tưởng theo lệnh của đảng góp phần vào sự sụp đổ miền Nam vào năm 1975.

Viết lại những trang này như một bài học ôn lại cho những người dân ở miền Nam trước 1975 nay đã sinh sống ở nước ngoài. Như một bài học. Như một dĩ vãng cần được khơi lại để cùng nhớ những năm tháng ấy.

Nguyễn Văn Lục



2009 Việt Nam Đã Vuột Mất Hai Cơ Hội - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Cuối 2009, thử tính lại thành quả tranh đấu của người Việt Quốc Gia nhằm giải thể chế độ cộng sản, thì trong năm vừa qua chúng ta đã vuột mất hai cơ hội quan trọng. Đây là những dịp mà toàn dân có thể vùng dậy đồng loạt để lật đổ chế độ cộng sản. Tại quốc nội, những phong trào tranh đấu cần được đề cao nhưng trong đó phải kể đến một số tổ chức dân chủ còn mang tính cách tranh đấu salon, xuất hiện làm cảnh chờ thời và hành động đơn phương, rời rạc. Do đó nỗ lực nội địa không tạo được một sức mạnh khả dĩ có thể vận động quần chúng xuống đường đồng loạt dứt điểm chế độ cộng sản. Xét qua trong năm vừa rồi, chúng ta đã có được hai biến cố, có thể nói rằng, là những cơ hội hợp thời hợp lý, xảy ra đúng vào thời điểm sôi bỏng của cuộc tranh đấu chống chế độ cộng sản: Đó là dịp Trung cộng kéo dân quân qua khai thác bauxite sau khi đã chiếm xong các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, và tiếp theo là, hai lần nổi dậy của giáo dân Thái Hà cũng như Tam Tòa.

A. Hai cơ hội

A1. Đảng cộng sản Việt Nam đã lộ hẳn bộ mặt bán nước cho quan thầy Tàu cộng. Chúng hết đường chối cãi khi Tàu tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền của họ, đồng thời xua quân ngang nhiên xâm nhập hải phận cũng như đất liền của chúng ta. Đây chính là bằng cớ tội bán nước của đảng cộng sản Việt Nam mà chúng đã bưng bít từ lâu. Trước đây, giới trẻ cũng như sinh viên Việt Nam xuống đường chống Tàu cộng xâm chiếm các quần đảo cũng như nhượng 84.000 hecta đất thuộc phía Bắc (khu vực Ải Nam Quan và Bãi Giốc), ngụy quyền cộng sản đã vội vàng khống chế dập tắt các cuộc biểu tình để tránh mất lòng quan thầy. Mặt khác cộng sản âm mưu lái dư luận qua những biến cố thời sự khác, ví dụ việc tạo ra những mâu thuẩn trong các tổ chức tranh đấu tại quốc nội cũng như gây tranh cãi ở hải ngoại nhằm hướng dẫn tất cả mọi người hãy quên việc chống đối nhà nước đối với tội dâng biển và bán đất cho ngoại bang. Nhưng rồi kể từ ngày Tàu đỏ ồ ạt đưa từng sư đoàn chính quy cũng như công an và hàng vạn dân đói rách từ các tỉnh giáp ranh giới Việt Nam vào lập nghiệp, khai thác tài nguyên ngay trên quê hương của chúng ta thì lòng yêu nước của toàn dân đã bừng dậy sôi sục trở lại và sẵn sàng trong khí thế chiến đấu một mất một còn với tập đoàn cộng sản Hà nội. Đây là thời cơ để người trong nước cũng như hải ngoại đồng tâm kết hợp, siết tay nhau lật đổ đảng cộng sản hầu kết thúc cuộc chiến ý thức hệ đã kéo dài từ ngày chúng cướp được chính quyền năm 1945. Nhưng tiếc rằng cơ hội nầy đã vuột khỏi tầm tay !

A2. Vũ khí của cộng sản xứ nào cũng vậy, là dùng bao tử bao tử, tù ngục, súng đạn và tuyên truyền để thống trị người dân nhưng với Việt Nam, chúng đã vướng phải một trở ngại, đó là vấn đề tôn giáo. Nói một cách chính xác hơn, cộng sản xung khắc với tôn giáo: Nơi nào tôn giáo mạnh thì cộng sản không thể nẩy nở và tồn tại lâu dài. Lịch sử đã chứng minh, chính tôn giáo đã đánh sập thành trì cộng sản Đông Âu trong những thập niên trước đây. Đối với Việt Nam, để đối phó với một đất nước mà gần phần chín mươi trăm dân chúng đều theo tôn giáo, không Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài Giáo, Đạo Hòa Hảo thì là Đạo thờ Ông Bà Tổ Tiên nghĩa là một đất nước có truyền thống văn hóa Văn Minh sâu đậm, mang tính chất Nhân Bản con người và có một đời sống tâm linh Hữu Thần. Đảng cộng sản đã nhanh chóng thành lập những giáo hội quốc doanh và giao cho những tên đảng viên cộng sản hay những người tu hành vẫn còn nặng nghiệp Tham Sân Si lãnh đạo, nhằm xé đôi tổ chức và chia rẽ các tôn giáo lớn. Kết quả cho thấy, hiện giờ tại Việt Nam, những tôn giáo lớn đều có hai hệ thống, một do cộng sản dựng lên để phục vụ chế độ và một vẫn là nơi quy tụ những người hữu thần nhằm bảo vệ đạo giáo chân chính của họ. Nói riêng vấn đề Thiên Chúa Giáo, hàng giáo phẩm dù bị chia thành hai khối nhưng người tín hữu vẫn trung thành với đạo giáo và biết nghĩ đến quyền lợi tổ quốc. Qua hình thức đòi đất của con chiên từ Thái Hà (Bắc) đến Tam Tòa (Trung), người công giáo Việt Nam, do một số linh mục, giám mục không nằm trong hệ thống quốc doanh lãnh đạo, đã xuống đường đồng loạt, biểu tình bất bạo động, từ hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn giáo dân không ngoài mục đích bày tỏ hai lý tưởng: Bổn phận của người tín hữu đối với đạo giáo và của công dân trước hiện tình đất nước. Hàng trăm ngàn người tuân lệnh chủ chăn xuống đường đòi tài sản của giáo hội. Nhìn bên ngoài là nhiệm vụ của giáo dân trước hành động chống lại tình trạng cướp cạn tài sản của tôn giáo, nhưng xét cho kỹ, thì chính giáo dân đã xử dụng quyền công dân của họ nhằm tạo thời cơ cho tất cả các tôn giáo khác cũng như toàn thể dân chúng xuống đường đồng loạt, không ngoài mục đích thúc đẩy cuộc bạo động chống cộng của họ càng ngày càng lan rộng từ thôn quê đến thành thị, từ Bắc vô Nam, đồng thời nhằm tạo điều kiện và tiếp sức cho các lực lượng trong bóng tối ra mặt hành động. Nhưng tiếc thay, cơ hội thứ hai nầy cũng vuột khỏi tầm tay !

B. Nguyên nhân

Trước khi đi vào tiết mục nhỏ nầy, tôi xin phép nhắc lại một điều căn bản trong chương trình tranh đấu: Đã chống là phải chống tới cùng, một mất một còn với cộng sản. Không thể lẫn lộn với hình thức ngoại giao, thương thuyết, van xin để đi đến việc hợp tác hòa hợp hòa giải. Phải đặt đảng cộng sản ra ngoài vòng phát luật, xem chúng là một tập đoàn ăn cắp tài nguyên quốc gia, cướp của người dân và bán nước cho nước cho quan thầy Tàu cộng. Vậy phải phải có lập trường dứt khoát rõ ràng minh bạch là tranh đấu để giải thể toàn bộ chế độ cộng sản, không thể đội chúng lên đầu vái lạy để xin một vài ân huệ ! Một khi tranh đấu kiểu VAN XIN thì trước tiên chúng ta đã mất hết chính nghĩa, trở thành những khối thịt chỉ biết vai mang bị gậy để làm chính trị, thì bọn chúng sẽ xem chúng ta là một nhóm ăn xin, chấp nhận thân phận thấp hèn, cúi rạp mình trước phủ của chúng để cầu cạnh xôi thịt không hơn không kém ! Một khi cộng sản chẳng những xem thường mà còn khinh bỉ những tổ chức tranh đấu cúi lưng VAN XIN thì Hà Nội chỉ cần tung tiền bạc, danh vọng ra để biến thành phần nầy thành công cụ phục vụ âm mưu cho chúng. Chúng ta hãy đứng thẳng dậy, dựa vào sức mạnh của toàn dân, vào lý tưởng quốc gia và tương lai của đất nước để buộc tội cộng sản là một tập đoàn bán nước hại dân chúng ta tranh đấu để giải thể chế độ chứ không thể đóng vai kẻ thất thế quỳ gối một cách yếu hèn trước kẻ thù không đội trời chung. Do vậy năm vừa qua, chúng ta đã vuột mất hai cơ hội là do VAN XIN và NHÂN NHƯỢNG. Xin nhắc rằng chủ trương tranh đấu VAN XIN là lá bài đầu tiên trong kế hoạch hòa hợp hòa giải do cộng sản chỉ thị cho thành phần nằm vùng, cò mồi đón gió nhằm biến người Việt Tự Do hải ngoại trở thành những tổ chức ‘việt kiều yêu nước’ và những con bò ngoan ngoãn để cho chúng tự do vắt sữa.

Tranh đấu cho tự do đất nước, cho dân chủ nhân quyền người dân thì không dễ dàng và đơn giản như hành động ‘van xin’, mà phải áp dụng một hình thức tranh đấu bạo động. Tất cả mọi người, mọi giới phải chấp nhận đổ mồ hôi, đổ máu và hy sinh tính mạng mới tạo được thành quả. Chính máu của những người tranh đấu đổ ra mới cảnh tỉnh những thành phần lưng chừng, mới là ngọn lửa hâm nóng lòng yêu nước của toàn dân đồng thời xương máu chính là là vũ khí cuối cùng để bồi thêm sức mạnh cho những người đang xuống đường tranh đấu. Vai trò của các nhà lãnh đạo đảng phái, tôn giáo đoàn thể cần phải có mặt, chung vai sát cánh với quần chúng chứ không thể tụ họp với nhau trong salon uống trà, chờ xem rồi ra thông cáo.

B1. Khi toàn dân nhận ra tội bán nước của tập đoàn cộng sản qua việc nhượng biển, bán đất đồng thời Hà Nội trải thảm mời Tàu cộng vào định cư và khai thác bauxite, gây tác hại môi trường sinh thái vùng Cao Nguyên thì phản ứng của người dân đã bùng nổ thật sự. Từ đảng viên cộng sản, giới trẻ, trí thức đến thành phần lao động đều lên tiếng nhưng không có một cuộc xuống đường vĩ đại nào khả dĩ chứng tỏ được tinh thần đoàn kết và khả năng tranh đấu của người dân cũng như các khuynh hướng chính trị và màu sắc tôn giáo trong nước. Đáng lý các tôn giáo, đảng phái đối lập, giới trẻ, sinh viên, công nhân xí nghiệp cũng như các hội đoàn tranh đấu cho dân chủ nhân quyền phải thừa cơ hội nầy để tập hợp thành một khối lớn với hàng vạn hàng triệu người xuống đường biểu tình, thì cuộc tranh đấu của toàn dân đã đi vào khúc quanh của lịch sử. Ngoài vài vị dấn thân tranh đấu, chấp nhận tù đày đáng kính trọng ra, thì còn lại, có thể nói đa số những nhà tranh đấu trong nước vẫn còn mang thái độ ‘van xin’. Như vậy dưới mắt bạo quyền cộng sản, họ cũng chỉ là những tổ chức được xếp vào loại dùng để đánh bóng dân chủ cho chế độ. Hơn nữa, một số nhà tranh đấu vừa bị bắt đã vội vàng tự kiểm, ăn năn cam kết để xin được tha thứ thì đều nằm trong sách lược ‘trồng cấy’ người của cộng sản. Những ồn ào về vụ án dành cho những người vừa được thả ra sau khi ăn năn sám hối mà chúng ta vừa nghe, thì đó cũng chỉ là hình thức do cộng sản dọn đường cho các tổ chức cò mồi hoà hợp hòa giải hải ngoại để họ vận động quốc tế đưa những người nầy ra nước ngoài lãnh đạo tranh đấu, không ngoài mục đích nhằm chia năm xẻ bảy cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại. Quá khứ đã cho chúng ta thấy vài người được cộng sản dàn dựng xuất ngoại một cách thần thánh, vừa ra đến nước ngoài, một là lợi dụng tự do truyền thông làm trò cười, kêu gọi hòa hợp hòa giải, hai là sống bám theo các tổ chức nằm trong hệ thống ‘cánh tay nối dài của Hà Nội’. Trong giai đoạn cuối của cuộc tranh đấu chống cộng sản, toàn dân Việt Nam cần cán bộ, cần lãnh đạo ngay tại chiến trường nội địa. Người tỵ nạn cộng sản hải ngoại thấy không cần thiết khi các tổ chức trong nước gởi ra ngoài nhiều cán bộ để hướng dẫn công cuộc tranh đấu ở hải ngoại. Tất cả phải tập trung tại quốc nội để trực diện với bạo quyền Hà Nội, yểm trợ tinh thần những nhà tranh đấu trong nước đang bị tù đày đồng thời để chung vai sát cánh, chia sẻ với toàn dân trong giai đoạn cực kỳ quan trọng nầy. Trong năm vừa qua đảng cộng sản dâng Hoàng Sa Trường Sa, bán đất phía Bắc và trải thảm mời Tàu cộng vào khai thác Bauxite là dịp để cho toàn dân vùng dậy, nhưng tiếc thay cơ hội nầy đã vuột mất. Lý do chính là các tôn giáo, đảng phái và các tổ chức tranh đấu trong nước còn nghi kỵ lẫn nhau, thiếu tổ chức, thiếu phối hợp và nhất là những nhà lãnh đạo vẫn ngồi salon và chủ trương tranh đấu VAN XIN với bạo quyền Hà Nội ! Trong lúc đó ở nước ngoài thì thành phần nằm vùng hòa hợp hòa giải kêu gọi chúng ta đoàn kết mục đích là để chống Tàu (!) mà không nghe đề cập đến tội đồ bán nước của đảng cộng sản Việt Nam !!!

B2. Kể từ năm 1954 đến nay, đây là lần đầu khối công giáo Việt Nam đã xuống đường với một số tín hữu gồm cả trăm ngàn người để ra mặt chống cộng sản. Từ ngoài Thái Hòa kéo vào Tam Tòa qua hai cuộc xuống đường, những cuộc biểu tình trông bên ngoài thì ôn hòa bất động, nhưng thật ra bên trong chính là một khí thế sôi sục của những công dân yêu nước núp dưới bóng con chiên ngoan đạo. Họ tuyệt đối vâng lời các vị chủ chăn và sẵn sàng hy sinh xương máu hầu mở đường cho một cuộc nổi dậy toàn bộ chống chế độ cộng sản. Khí thế của hàng trăm ngàn giáo dân đang ùn ùn bốc lửa, các họ đạo từ Bắc chí Nam đang đợi phát súng lệnh của những vị chủ chăn để vượt qua giai đoạn thứ hai là tranh đấu bạo động. Những nhà tranh đấu, những tổ chức trong bóng tối cũng như hàng tỷ người Thiên Chúa Giáo trên thế giới đang chờ một ‘phản ứng đàn áp đẫm máu nào’ đó của cộng sản để họ có lý do nhảy vào vòng chiến. Nhưng trong lúc khí thế tranh đấu của giáo dân đang ào ào tiến lên cao độ thì bỗng dưng khựng lại như chiếc bong bóng đang bay bị xì hơi và từ từ đâm đầu rơi xuống ! Lý do chính của việc chấm dứt biểu tình khởi đầu từ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và kết thúc bằng quyết định xuất phát từ Vatican. Đi sâu vào vấn đề là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chỉ tranh đấu VAN XIN cho quyền lợi của giáo hội mà quên hẳn vai trò công dân của người Việt Nam. Hơn ai hết, các vị Giám Mục là những người đã và đang sống chung, đã biết chủ trương diệt tôn giáo cũng như đã hiểu rất rõ ràng âm mưu thâm độc của cộng sản nhưng các vị lãnh đạo tinh thần có lẽ đã ‘vướng chàm’ cộng sản qua tổ chức ‘giáo hội công giáo quốc doanh’ mà Hà Nội đã ân cần gầy dựng cho các vị giám mục. Vậy khi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dùng con chiên tranh đấu cho mục đích tôn giáo thuần túy hầu xin lại đất đai của nhà chung thì các vị giám mục chỉ làm được một trọng trách đối với giáo hội mà quên hẳn sứ mạng trọng đại mà Thiên Chúa đã đặt lên vai của các vị là trách nhiệm của một chủ chăn đối với đất nước, dân tộc và tổ quốc. Các Giám Mục là những vị học cao hiểu rộng, nhưng người Việt Quốc Gia không thể hiểu được câu nói mà Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã tuyên bố: Người cộng sản chân chính và người quốc gia chân chính thì có thể ngồi lại với nhau ! Cá nhân người viết không dám cho rằng vị Hồng Y nầy lặp lại những gì cộng sản đã nói. Nhưng xin thưa, đã là cộng sản thì không còn chân chính nữa ! Nếu có, thì họ đã nghĩ đến sự tồn vong của dân tộc, chăm sóc cho người dân no cơm ấm áo, bảo vệ từng tấc đất mà tiền nhân đã đổ xương máu gầy dựng và bảo vệ cả mấy ngàn năm nay. Và ngược lại, người quốc gia chân chính thì không thể ngồi chung với cộng sản, vì người chân chính không a tòng theo giặc cướp để chúng bóc lột dân nghèo, tham nhũng vô độ và bán nước cho ngoại bang. Chỉ có những ai hưởng ân huệ của cộng sản thì mới có ý nghĩ ngồi lại bắt tay với kẻ thù mà thôi. Có thể nói một cách vắn tắt rằng, người công giáo không thể nào bắt tay với cộng sản vì cộng sản là loài rắn độc đã loại tôn giáo ra khỏi đời sống của người dân. Người công giáo chân chính nhớ lời Đức Mẹ đã nhắc nhở nhiều lần khi Người hiện ra tại Fatima (đại ý rằng, cộng sản là loài rắn độc, chúng sẽ thống trị thế giới …). Như vậy chính Đức Mẹ đã khẳng định rằng cộng sản vô thần là loài rắn độc, phải trừ khử thì thế giới mới có hòa bình. Nhưng tại sao các vị giám mục Việt Nam lại kêu gọi bắt tay hợp tác hòa hợp hòa giải với chúng đồng thời ép buộc (hình như vậy) Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt phải từ chức vì chính ngài đã mạnh dạn đứng bên cạnh giáo dân và thách đố với chế độ cộng sản trong cuộc tranh đấu vừa qua. Không biết các vị giám mục Việt Nam khi vào nhà thờ có thấy tượng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae dùng giáo đâm vào ngực quỷ đỏ ? Có thấy tượng Đức Mẹ đạp đầu con rắn độc đang quấn ngang quả địa cầu ? Đó là điều khẳng định cộng sản là loài rắn độc, không thể chung sống hòa bình với con người. Đó là những hình ảnh nhắn nhủ người công giáo hãy đọc kinh cầu nguyện cho thế giới thoát nạn cộng sản, đồng hãy noi gương Tổng Lãnh Thiên Thần Micae và Đức Mẹ Maria chống loài quỷ cộng sản đến hơi thở cuối cùng. Vatican đã có nhiều kinh nghiệm với cộng sản, nhất là vị Giáo Hoàng đương nhiệm đã một thời giúp Đức Giáo Hoàng Gioan Paul II trong việc lật đổ chế độ cộng sản Balan. Nhưng tại sao ngày nay Vatican lại cản trở các cuộc xuống đường của giáo dân Thái Hà - Tam Tòa ? Có thể vì nguyện vọng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nên Vatican đã đi sai một nước cờ. Có phải Vatican can thiệp để chấm dứt các cuộc nổi dậy của người công giáo vừa qua để làm vừa lòng ngụy quyền cộng sản Việt Nam hầu được mở bang giao với Hà Nội ? Nếu vậy thì Vatican đã ‘Nhân Nhượng’ ‘Van Xin’ quyền lợi của giáo hội La Mã mà quên mất nguyện vọng của 80 triệu người dân Việt Nam đã và đang đau khổ dưới ách thống trị của loài rắn độc cộng sản.

Cuối năm là cơ hội tính toán sổ sách, chúng ta phải can đảm nhìn vào sự thật để thấy những khuyết điểm của trong nước, ngoài hải ngoại cũng như từ các bạn đồng minh (Vatican-Mỹ) qua nhiều sai lầm để hiểu tại sao Việt Nam đã vuột mất những cơ hội tốt. 2010 là năm cộng sản sẽ quyết liệt gia tăng đánh phá cộng đồng người Việt Quốc Gia về hai mặt văn hóa và truyền thông, đồng thời cũng là năm mà thế giới sẽ xảy ra nhiều biến chuyển trọng đại liên quan đến Việt Nam cũng như nội bộ đảng cộng sản. Chúng ta cùng nhau nghiên cứu những chuyện đã qua để tìm một hướng đi thật chính xác cho những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Cổ nhân đã dạy : Biết mình biết ta thì trăm trận trăm thắng thì xin đừng quên !

Đinh Lâm Thanh
Paris, 31.12.2009

* Bài viết đăng trong Nguyệt Báo KBC Hải Ngoại số Xuân Canh Dần, phát hành ngày 14.01.2010 tại Hoa kỳ.