Saturday, January 9, 2010

“DẬY MÀ ĐI HỠI ĐỒNG BÀO ƠI!” - Lm Nguyễn Hữu Lễ




Lm Nguyễn Hữu Lễ


Tôi xin mượn câu “DẬY MÀ ĐI HỠI ĐỒNG BÀO ƠI!” trong một bài hát khá phổ biến mà không nhớ tên tác giả để làm tựa đề cho bài khai bút đầu năm 2010. Xin chân thành cám ơn tác giả bài hát đã viết lên một câu rất phù hợp trong thời điểm lịch sử của Dân Tộc Việt Nam hiện nay. Trước tình trạng dầu xôi lửa bỏng với hiểm họa thôn tính của Bắc Phương đang gần kề câu hát “DẬY MÀ ĐI HỠI ĐỒNG BÀO ƠI!” không còn chỉ là một lời kêu gọi nhưng đã trở thành mệnh lệnh của Quốc Tổ ban ra cho đàn con dân nước Việt đang trong cơn ngủ mê.

Hiểm họa trước mắt

Nhiều người nhận định là trong thế kỷ 21 này, Trung Cộng đã ngoi lên hàng cường quốc cả về kinh tế lẫn quân sự và trở thành mối đe dọa chung cho cộng đồng thế giới. Nếu Trung Cộng trở thành mối đe doạ của thế giới thì Việt Nam là nạn nhân đầu tiên của kẻ láng giềng khổng lồ này. Trong thời gian gần đây ý đồ xâm lăng của Trung Cộng đối với Việt Nam đã hiện rõ nét qua các hành động lấn chiếm vùng biển, vùng biên giới, vùng Tây nguyên ... là những sự kiện mà không một người Việt nam chân chính nào có thể làm ngơ được. Đây không phải là lần đầu mà dân tộc Việt nam phải đặt vấn đề đối phó với mộng xâm lăng của Trung Quốc. Lịch sử nước nhà qua các triều đại còn ghi lại những lần Tàu mang quân xâm chiếm nước ta, nhưng vì gặp phải ý chí quật cường bất khuất của Dân Tộc Việt Nam nên đã phải tháo lui.

Kinh nghiệm cay đắng này không làm Trung Quốc thui chột mộng xâm lăng nhưng ngược lại càng nung đúc quyết tâm phục hận khi thời cơ đến. Và thời cơ tốt nhất đã đến khi mà Trung Quốc dựng lên được một bộ máy lãnh đạo làm tay sai tại Hà Nội. Chính chế độ Việt gian cộng sản hiện nay vì quyền lợi của cá nhân và phe nhóm đã tự biến thành một chiếc cầu rộng thênh thang cho Trung Cộng tiến vào Việt Nam để thực hiện mộng xâm lăng ngàn đời của họ. Nếu không ngăn chặn kịp thời thì rồi đây Trung Cộng sẽ biến Việt Nam thành một chư hầu mà không phải tốn một viên đạn, không phải đổ một giọt máu!

Nếu ngày xưa khi Tàu mang quân sang đánh chiếm nước ta thì Triều đình đã huy động sức mạnh toàn dân chống trả và giặc đã phải tháo lui. Ngày nay lịch sử lại tái diễn, Trung Cộng lại giở trò thực hiện mộng xâm lăng nước ta trong lúc dân tộc ta lại bị chế độ Việt gian cộng sản trói tay. Đây là giai đoạn lịch sử đen tối nhất của Dân Tộc Việt Nam vì đang phải chịu cảnh một cổ hai tròng, vừa phải đối phó với Thù Trong lại vừa phải đương đầu với Giặc Ngoài. Bao lâu Thù Trong còn tồn tại thì hiểm hoạ giang sơn ta bị xâm chiếm và Dân Tộc ta bị đồng hoá bởi Giặc Ngoài là điều không thể nào trách khỏi được.

Chế độ Việt gian cộng sản với bản chất vong bản chỉ biết phục vụ cho chủ nghĩa quốc tế ngoại lai và sẵn sàng làm đầy tớ cho Trung Cộng vì quyền lợi của cá nhân và phe nhóm. Nhận biết được sự căm thù của dân chúng nên chế độ Việt gian này luôn đề cao cảnh giác và bằng mọi cách phải vô hiệu hoá sức phấn đấu của thành phần đối kháng trong Dân Tộc mà họ coi là kẻ thù của chế độ. Cách tốt nhất để chế độ độc tài tự do thao túng ngay cả việc cúi đầu dâng đất dâng biển cho Trung Cộng mà không phải gặp sự phản kháng nào, đó là làm thế nào cho người dân phải ngủ mê.

Người dân trong nước ngủ mê

Nếu hiểu một cách thông thường thì ngủ là trạng thái tự nhên của cơ thể để lấy lại sức, nhất là sau khi con người trải qua thời kỳ căng thẳng về tinh thần và quá mệt nhọc về thể chất. Đa số đồng bào trong nước hiện đang ngủ mê trước thời cuộc vì họ đã quá mệt mỏi sau một cuộc chiến tranh kéo dài suốt mấy chục năm. Chẳng những thế, sau khi quê hương vừa im tiếng súng với sự chiến thắng của những kẻ bạo tàn, chế độ cộng sản đã theo gương Liên xô và Trung Cộng áp dụng chính sách bỏ đói để cai trị. Cả một dân tộc bị bỏ đói và bị cướp đoạt trắng tay. Trong cơn đói triền miên đó người dân không còn nghĩ gì khác hơn là tìm miếng ăn cho no bụng và ngủ mê trước thời cuộc.

Nhưng người dân đâu có được yên thân để tìm miếng ăn, họ còn bị đẩy vào cơn lốc điên đảo bởi những biện pháp như kiểm kê và tịch thu tài sản, rồi tới nào là đổi tiền, tập trung cải tạo, cưỡng bức dân đi vùng kinh tế mới, nào là đánh tư sản, hợp tác xã nông nghiệp, họp tổ dân phố, quản lý thị trường, quản lý hộ khẩu, ngăn sông cấm chợ ... Dân chúng lúc đó giống như những hạt thóc nằm trong chiếc cối xay khổng lồ đang quay tít, họ bị nhào lộn, chà sát, dập nát, có người bị nghiền tán ra như cám. Trong khi đó hệ thống công an được thiết lập như một mạng nhện bủa vây toàn thể đất nước. Một công an phụ trách 12 nóc gia, mắt công an như mắt khóm, con ong cái kiến cũng không qua lọt. Chế độ công an trị lại luôn có nhà tù và họng súng hỗ trợ. Trong hoàn cảnh đó người dân trong nước kiệt quệ cả về tinh thần lẫn thể xác và luôn sống trong nỗi sợ hãi và có nhu cầu cần phải ngủ .

Sau khi tạo điều kiện cho thế hệ lớn tuổi ngủ mê, tới khi hàng loạt chế độ cộng sản Đông Âu và cả Liên xô sụp đổ, bọn Việt cộng lo sợ dân chúng, nhất là thế hệ trẻ theo gương đó vùng lên giật sập chế độ nên chế độ đã “gây mê” giới trẻ bằng cách mớm cho họ những thú vui thời thượng như các mốt ăn mặc thời trang, nhảy nhót, phòng trà, đua xe, ca hát, thi hoa hậu .... và bao nhiêu thú vui khác. Nói tóm lại chế độ Việt gian cộng sản đã thành công trong việc biến một số đông dân Việt thành ra số người bị liệt kháng và đang ngủ mê trước những tội ác tày trời của chúng đang tàn phá quê hương. Nặng nề nhất là tội làm tay sai nối giáo cho giặc.

Đồng bào hải ngoại ngủ mê

Về phía Cộng Đồng người Việt hải ngoại mà đại đa số là những người trốn chạy chế độ cộng sản hiện đang sống trên các đất nước tự do là tiếng nói mạnh mẽ nhất để vạch trần tội ác của chế độ Việt gian cộng sản. Sau hơn 30 năm bỏ nước ra đi, cộng đồng người Việt hải ngoại trở nên giàu có và phát triển về nhiều mặt. Nhiều người rất lạc quan, gọi Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại là thành trì chống cộng kiên cố bất khả xâm phạm, là một vùng “communist-free”. Dĩ nhiên chế độ Việt cộng gian manh không dại gì nhắm mắt làm ngơ trước mối lợi kếch sù của số người Việt giàu có này mang lại. Họ phải khai thác nguồn tài chánh gần như vô tận của 3 triệu người Việt hải ngoại và dĩ nhiên mục tiêu sau cùng là phải là cho số người chuyên nghề chống đối này ngủ mê trước tội ác tày trời của chúng. Cái gọi là Nghị quyết 36 là một tính toán rất tinh vi bởi những cái đầu nham hiểm nhất của chế độ.

Có thể nói lúc đầu tất cả người Việt liều chết bỏ nước ra đi trong biến cố 30-4-1975 đều mang tâm trạng hận thù cộng sản. Nhất là khi tên thủ tướng Việt cộng Phạm Văn Đồng mạt sát những người trốn chạy chế độ bằng câu nói “ Đàn ông là đám ma cô, đàn bà là loại đĩ điếm” thì họ càng căm hận hơn bọn Việt cộng hơn. Biết như vậy nên chế độ quỉ quyệt đã phải hoạch định kế sách từng bước để tiếp cận với cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Trước tiên là kế sách “nhập thành” thật tinh vi và không ai để ý cho đến khi thức tỉnh thì quá muộn.

Viết tới đây tôi nhớ lại một câu chuyện “Dân thành Ninivê chống quỷ” mà tôi đọc trong Nguyệt San Hiệp Nhứt một tờ báo của giáo phận Vĩnh Long vào thời xa xưa. Câu chuyện lấy bối cảnh của thành Ninivê trong Cựu Uớc và chuyện này khá vui và đầy ý nghĩa nên tôi chỉ đọc một lần còn nhớ mãi, hôm nay tôi muốn kể lại để kính tặng đồng bào hải ngoại.

Chuyện kể thế này, ngày nọ có tin là một đàn quỉ đang trên đường hướng về thành Ninivê. Nghe tin này dân trong thành hoảng sợ và nhốn nháo cả lên, vì ai cũng sợ quỷ . Trước tình trạng đó, các bô lão và những người khôn ngoan triệu tập dân chúng đến cuộc họp để tìm phương chống quỷ. Dân chúng bầu lên một Ủy Ban Chống Quỷ gồm những người có uy tín và có kinh nghiệm về quỷ.

Việc đầu tiên, Ủy Ban Chống Quỉ phổ biến cho dân chúng biết là quỷ rất khó nhận diện. Quỷ cũng sinh hoạt nói năng giống như người, chỉ có một điểm duy nhất khác với người là khi bước đi chân quỷ không chạm đất . Vì thế mọi người phải đề cao cảnh giác trong việc phân biệt người với quỷ. Nếu hồ nghi thì hãy cúi sát mặt đất quan sát. Tiếp đến Ủy Ban ra lệnh tu sửa lại tường thành và phân công các tráng đinh trang bị gậy gộc để ban đêm thay phiên nhau canh gác cổng thành. Vừa tan cuộc họp, dân thành Ninivê xông ra đường với một khí thế chưa từng thấy. Người khiêng đá, kẻ đốn cây, người mài dao kẻ chọn gậy ... lo việc chống quỷ.

Đêm đầu tiên, thành Ninivê được canh gác cẩn thận chưa từng có. Sau nửa đêm đàn quỷ kéo đến và thấy cổng thành được canh gác cẩn thận nên chúng không dám vào, nhưng rút lui ra ngoài ẩn nấp và ... tính quỷ kế.

Qua đêm thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư, thứ năm, thứ sáu và vài đêm tiếp theo vẫn không có gì xảy ra. Không một lần nào toán “xung kích” phải đụng độ giao tranh với quỉ. Họ bắt đầu thấy nản và tay chân cảm thấy ngứa ngái. Sau 10 đêm, các phiên canh gác trở thành nặng nề và các “dũng sĩ” cảm thấy khổ sở và mắt mở không lên khi canh gác. Trong khi đó dân thành có nhiều người bắt đầu có thói quen thỉnh thoảng cúi người sát mặt đất nhìn qua liếc lại.

Tin đồn có người “chân không chạm đất” được loan truyền nhanh chóng và người dân bắt đầu nghi ngại nhau bằng cách quan sát người khác, để ý coi khi bước đi chân họ có chạm đất hay không. Từ đó hiện tượng cúi sát mặt đất để quan sát càng lúc càng phổ biến. Một thời gian sau cách nói “chân không chạm đất” là những tiếng phổ thông nhất dân thành Ninivê dùng để triệt hạ những người mình không ưa hoặc vì tư thù.

Nhận thấy kế sách mua thời gian để ru ngủ chiến sĩ và tạo nghi ngờ trong dân chúng đã thành công, bầy quỷ bèn tung ra “quỷ kế” sau cùng. Một đêm giá lạnh, trong khi một số “dũng sĩ” trong các toán xung kích đang quấn chăn ngủ gà ngủ gật, bọn quỷ từ bên ngoài thành nhẹ nhàng ném vào mỗi nhóm một vài hòn đá. Những dũng sĩ đang ngái ngủ giật mình thức giấc, nhìn qua ngó lại không thấy ai, tưởng là toán bên cạnh ném đá muốn chọc tức mình. Họ bèn gọi nhau dậy và kéo qua hỏi tội toán kế bên, thế là một trận ẩu đả xảy ra. Đêm đó các “dũng sĩ” chiến đấu vô cùng ác liệt vì đây là lúc họ mới thực sự được giao tranh và có cơ hội để xử dụng những thế võ mà họ đã dày công tập luyện trong chiến dịch chống quỷ. Nhưng rất tiếc là không phải giao tranh với quỷ mà là giao tranh với các toán bạn. Kết quả, người nằm chết, kẻ bị thương nằm la liệt. Trong lúc các toán xung kích đang mải mê quần thảo để triệt hạ nhau thì bầy quỷ ngang nhiên đi vào thành. Có vài dũng sĩ bị thương cố mở mắt ra nhìn thấy bầy quỉ ung dung bước qua, chân của chúng không chạm đất!

Món quà giao lưu tình cảm

Sự hăng hái chống cộng của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại, mặc dù đa số chỉ bằng lời nói và qua các cuộc biểu tình, nhưng cũng bất lợi cho bộ mặt gian ác của chế độ Việt cộng nên chế độ có nhu cầu phải cho cộng đồng này im tiếng trong cơn ngủ mê. Một ngày đẹp trời đồng bào Việt Nam hải ngoại sững sờ khi bất thần nhận được món quà đặc biệt của chế độ Việt gian cộng sản gởi ra tặng. Món quà đó là một danh hiệu cao quý và đầy yêu thương “Núm ruột xa ngàn dậm”. Ôi! Cái tên nghe qua nó thân thương và đầy tình nghĩa thế nào! Từ nay cái tên “tục” mà trước kia tên thủ tướng Phạm Văn Đồng lả một kẻ tục tằn thô lỗ dùng để nhục mạ đồng bào hải ngoại “Đàn ông là đám ma cô, đàn bà là hạng đĩ điếm” đã bị lui vào dĩ vãng. Món quà hậu hĩnh này của Việt cộng đã làm cho một số người Việt hải ngoại ngất ngây vì sung sướng! Không ngờ cuộc đời tỵ nạn lại được một bước thăng hoa như thế.

Sau đó chế độ gởi ra hàng loạt lời kêu gọi Việt Kiều Yêu Nước mang tiền về góp phần xây dựng quê hương, từ đó bộ mặt Cộng Đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản bắt đầu có sự thay đổi. Một số người xưa nay rất hăng hái hoan hô đả đảo trong các cuộc biểu tình chống cộng, từ nay e dè trong lời nói. Nhiều người bắt đầu né tránh các cuộc biểu tình, nếu kẹt quá phải đi biểu tình thì cố lẩn tránh đừng bị chụp hình đưa lên báo. Từ khi có phong trào Việt Kiều Yêu Nước về thăm quê hương, một số khá đông người Việt hải ngoại bắt đầu ngủ mê trước những hành vi tội ác tày trời của chế độ Việt cộng.

Những “Núm ruột xa ngàn dặm” này ngủ mê là thượng sách vì mặc dù là mang danh Việt Kiều Yêu Nước mang tiền về xây dựng quê hương nhưng sau khi bước xuống máy bay còn phải qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất. Tại đây hành khách phải làm thủ tục nhập cảnh khá rườm rà. Riêng thành phần Việt kiều về nước không được phép quên hai thủ tục bất thành văn nhưng rất qua trọng, một là kẹp đôla vào passport khi trình giấy tờ, hai là phải chứng tỏ là mình bị tật đui, điếc và câm trước tội ác tày trời của chế độ Việt cộng.

Liều thuốc an thần

Mặc dù một số “Núm ruột xa ngàn đậm” đã ngủ mê vì có nhu cầu về Việt Nam, nhưng số người không có nhu cầu này vẫn tiếp tục chửi bới, vẫn tuyên truyền nói xấu chế độ và Việt cộng cần phải cho họ ngủ. Đối với thành phần này không thể áp dụng biện pháp hành hạ cho mệt để họ phải ngủ như người trong nước. Cũng không thể bắt chẹt tại cửa khẩu Tân Sơn Nhất như các Việt Kiều yêu Nước, nhưng cuối cùng chế độ cũng tìm ra được một liều thuốc tiên làm cho lớp người này phải ngủ, liều thuốc đó có tên “Tôi không làm chính trị”. Bất cứ ai chỉ cần ngậm liều thuốc này vào mồm sẽ ngủ mê trước hành động tội ác của chế độ Việt gian cộng sản.

Điều bất hạnh cho dân tộc là có nhiều người không đủ trình độ để hiểu cho thấu đáo hết ý nghĩa của hai chữ Chính Trị. Trong đầu óc nông cạn của họ, Chính Trị chỉ là đơn thuần là một thứ gì dơ bẩn đồng nghĩa với những âm mưu đen tối của những vụ ám sát, đảo chánh, giết người... Cũng có người ngậm liều thuốc “Tôi không làm chính trị” vào mồm để che giấu cho sự hèn nhát và biện minh cho thái độ vô trách nhiệm của mình.

Những người này không hiểu, hoặc cố tình không muốn hiểu, khía cạnh cao cả khác của hai chữ Chính Trị. Chính trị là một nghệ thuật cai dân trị quốc mang lại hạnh phúc cho người dân. Chính trị còn là việc tranh đấu cho công bằng xã hội , loại trừ sự gian dối lưu manh lừa đảo của kẻ nắm quyền. Chính trị còn là hành động lên án sự bất công, tranh đấu cho lẽ phải và sự thật. Chính trị là hành động anh dũng thách thức bạo quyền khi lên tiếng bênh vực cho quyền tự do của con người bị chế độ vô nhân tước đoạt ... và còn bao nhiêu nghĩa cao đẹp khác của hai chữ Chính trị.

Liều thuốc an thần “Tôi không làm chính trị” được phổ biến khá rộng rãi trong nhiều nhiều thành phần và nhiều giới khác nhau. Có người sau khi ngậm liều thuốc an thần này vào mồm đã trở thành những chiếc loa có công xuất cao để phê bình chỉ trích và “đâm sau lưng” những ai dám lên tiếng tố cáo tội ác tày trời của chế độ Việt gian cộng sản! Điều đáng nói ở đây là trong khi có nhiều người sợ hai chữ Chính Trị như sợ hủi thì chế độ Việt gian lại có kế hoạch tinh vi để đào tạo thế hệ làm chính trị chuyên nghiệp ngay từ lúc mới có trí khôn để tiếp tục nắm giử vai trò đè đầu cưỡi cổ Dân Tộc. Nào là “cháu ngoan bác Hồ”, nào là thiếu nhi quàng khăn đỏ, nào là học tập “tư tưởng và đạo đức của bác Hồ”, nào là đoàn thanh niên cộng sản, nào là phấn đấu vào đảng ...

Kế hoạch nhồi nhét Chính Trị này không chỉ trong các buổi học tập chyên môn mà cũng được lồng vào trong chương trình giáo dục ngay từ cấp mẫu giáo. Trong thời cả miền Bắc đói, các cán bộ Việt cộng chia nhau đi vào các trường mẫu giáo và tiểu học để diễn màn kịch như sau. Cán bộ vào lớp bảo các em chắp tay cầu Chúa ban cho bánh mì, cầu mãi không thấy bánh. Kế đến cầu với Phật, đợi mãi cũng chẳng thấy bánh đâu. Bấy giờ cán bộ bảo các em cầu với Bác và đảng, một lúc sau có mấy bao bánh mì đưa tới phân phát cho các em. Cán bộ kết luận: Chúa, Phật đều vô nghĩa, chỉ có Bác và đảng mới thương các cháu. Câu chuyện nghe thật ngô nghê, nhưng lại có tác dụng rất mạnh trong tâm trí trẻ con: trên đời này không ai thương dân bằng Bác và đảng!

Trong khi các em thiếu nhi miền Nam chỉ biết học toán cộng đại loại như “5 quả trứng cộng với 6 quả trứng, tổng cộng là bao nhiêu quả trứng?” thì bọn cán bộ Việt cộng tuyên truyền nhồi nhét vào đầu trẻ con miền Bắc cách học toán đố như sau: “Trong tuần rồi du kích Đồng Hới bắn rơi 3 máy bay Mỹ, bắt sống 2 giặc lái, du kích Hải Phòng bắn rơi 5 máy bay Mỹ, bắt sống 2 giặc lái. Hỏi tổng cộng trong tuần qua du kích ta bắn hạ bao nhiêu máy bay Mỹ và bắt sống được bao nhiêu giặc lái?” Một bài toán đố đơn giản như vậy, ngoài việc giúp các em biết cộng các con số còn nhồi được vào đầu óc thơ ngây của trẻ em 3 điều: một là du kích ta có thể bắn hạ máy bay Mỹ; hai là máy bay Mỹ giết dân ta nên phải căm thù Mỹ; ba là giặc lái là những tên ác ôn phải trừng trị. Ngoài ra hình ảnh các “du kích ta” nhỏ tí ti như con chuột nhắt mà trói tay tên “giặc lái Mỹ ” khổng lồ là một hình ảnh hào hùng, các em chỉ mong lớn lên cho nhanh để được đi làm du kích bắn hạ máy bay Mỹ và trói tay "giặc lái”!

Điều này cũng dễ hiểu vì không ai dám đụng chạm tới hai chữ Chính Trị thì chế độ Việt gian không còn lựa chọn nào khác hơn là phải huấn luyện một lớp người làm chính trị chuyên nghiệp để tiếp tục cha truyền con nối vai trò đè đầu cưỡi cổ Dân Tộc!

Mong chờ lãnh tụ

Nhiều người hiện nay vẫn đang khoanh tay ngồi chờ lãnh tụ xuất hiện để lãnh đạo cuộc vùng lên của Dân Tộc và họ sẽ bước theo. Cũng chính vì biết được niềm khát vọng đó mà trong thời gian qua xuất hiện một vài lãnh tụ “tự phong” và đã lôi kéo được một số người, nhất là những kẻ mong được có một tước hiệu kèm theo với tên tuổi quá đơn điệu của mình. Nhiều người được phong ban chức tước và trở thành tai to mặt lớn trong Cộng Đồng. Đồng bào đang chờ đợi những việc làm ích quốc lợi dân của các “lãnh tụ” và quần thần, nhưng cuối cùng rồi chẳng có gì xảy ra và mọi việc đâu lại vào đó, chỉ có các cơ sở in danh thiếp là hưởng được chút lợi.

Có lẽ tới lúc này đồng bào chúng ta học được bài học là không hề có một lãnh tụ từ trời rơi xuống, cũng không thể có một lãnh tụ do Mỹ, Anh, Pháp...dựng lên, lại càng không thể có một lãnh tụ tự sắm tuồng cho mình. Xin đồng bào đừng phí công ngồi chờ lãnh tụ xuất hiện để rồi thời gian và tuổi đời qua đi mà không đóng góp được gì cho đại cuộc cứu nguy Dân Tộc. Ngày nay sẽ không có lãnh tụ nào cả mà chỉ có những con người kiên trì làm việc trong âm thầm và từng bước phục hồi lại niềm tin đã bị sứt mẻ trong lòng dân tộc. Ngày nay chỉ có những con người chứng tỏ được tính lương thiện, lòng quyết tâm và khả năng thực hiện những việc làm cụ thể trong tầm tay. Ngày nay chỉ có những con người dám mạnh dạn đứng lên nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử trong hoàn cảnh cực kỳ nguy khốn này của Dân Tộc.

Lời kêu gọi thống thiết: “ĐẬY MÀ ĐI HỠI ĐỒNG BÀO ƠI” đang vang rền khắp nơi. Hãy để mệnh lệnh này của Quốc Tổ ngấm sâu vào từng mạch máu của giòng giống Việt Nam anh hùng. Một khi kẻ trước người sau đáp lại lời kêu gọi đó và cuối cùng muôn người như một đồng lòng chỗi dậy sau cơn ngủ mê và quyết tâm đứng lên để hợp lực dẹp bỏ Nội Thù và chống Ngoại Xâm, lúc đó sẽ tìm thấy một lực lượng lãnh đạo từ trong lòng Dân Tộc mà ra.

Giờ của lịch sử đã điểm

Mặc dù chế độ Việt gian đã dùng hết mọi thủ đoạn để ru ngủ dân tộc, nhưng Dân Tộc Việt Nam hào hùng còn biết bao nhiêu người thành tâm thiện chí quyết tâm cởi bỏ ách thống trị của chế độ bạo tàn và muốn noi gương các bậc tiền nhân trong việc đoàn kết chống ngoại xâm. Lịch sử cho thấy Dân Tộc Việt Nam khi gặp cơn quốc biến luôn có khuynh hướng hợp lòng chung sức để đối phó. Khi phải đương đầu chống ngoại xâm chính là lức sức mạnh ý chí của dân tộc cộng với bản năng sinh tồn được khơi dậy và cháy bùng lên một cách mãnh liệt nhất. Trong hoàn cảnh dầu xôi lửa bỏng trước hiểm hoạ xâm lăng của Trung Cộng hiện nay, một lần nữa lời kêu gọi “DẬY MÀ ĐI HỠI ĐỒNG BÀO ƠI” được vang lên và sức mạnh của ý chí và bản năng sinh tồn của Dân Tộc Việt Nam anh hùng được mang ra thử thách.

Nếu muốn bảo tồn được đất đai sông núi của tổ tiên để lại, nếu muốn duy trì được bản sắc của nòi giống Việt, nếu duy trì được văn hoá phong tục và ngôn ngữ của dân tộc khỏi bị Hán hóa, nếu muốn nước Việt Nam yêu quý của chúng ta không trở thành một tỉnh bang của Trung Quốc trong tương lai thì Dân Tộc Việt Nam không còn lựa chọn nào khác hơn là muôn người như một phải lên tiếng đáp lại mệnh lệnh khẩn thiết của Quốc Tổ “DẬY MÀ ĐI”.
    DẬY MÀ ĐI để đánh thức những thành phần dân tộc còn đang ngủ mê vì thủ đọan “gây mê” của chế độ Việt gian cộng sản.

    DẬY MÀ ĐI để mạnh dạn bước ra khỏi phạm vi của tôn giáo và phe nhóm mình mà nghĩ tới quyền lợi tối thượng của dân tộc.

    DẬY MÀ ĐI để tìm gặp và bắt tay chung sức với những con người Việt nam chân chính cũng đang trăn trở trước vận mệnh của Dân Tộc và muốn đóng góp công sức và trí tuệ của mình vào đại cuộc để tranh đấu vì tương lai giống nòi.

    DẬY MÀ ĐI để khi soi gương không phải hỗ thẹn với tiền nhân với bao anh hùng liệt nữ đã hy sinh xương máu trong cuộc chiến dựng nước và giử nước.

    DẬY MÀ ĐI để khỏi phải bị mang tiếng hèn của hạng “giá áo túi cơm” chỉ biết lo vinh thân phì gia, chỉ biết sống để hưởng thụ và vui chơi trong khi bao nhiêu người giờ này đang bị nhốt trong tù cộng sản vì dám tranh đấu cho dân tộc.

    DẬY MÀ ĐI để mỗi người một tay quyết tâm tháo gỡ guồng máy cai trị của bọn Việt gian do Trung Cộng dựng lên để nối giáo cho giặc trong âm mưu xâm chiếm nước ta
Và cuối cùng hãy DẬY MÀ ĐI để cùng với toàn dân quyết tâm bảo vệ Giang Sơn và Dân Tộc Việt Nam không bị rơi vào tay kẻ thù đến từ phương Bắc.

Dân Tộc Việt Nam chiến đấu không vì hận thù nhưng Dân Tộc Việt Nam anh hùng này quyết tâm chiến đấu vì lẽ sống còn của Dân Tộc.

Auckland ngày 1 tháng Giêng 2010
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
ooOoo
    "Dậy Mà Đi" của Việt cộng
-----Original Message-----
From: hnt
To: nnguyenkhalat@aol.com
Sent: Sat, Jan 9, 2010 6:31 pm

Tôn Thất Lập 1974
Bài thơ Dậy Mà Đi của Tố Hữu làm năm 1941 in trong tập thơ Từ Ấy, xuất bản năm 1946. Tôn Thất Lập lấy bốn câu đầu tiên của bài thơ này để phổ nhạc thành bài hát Dậy Mà Đi và ký tên là Nguyễn Xuân Tân. Nguyễn Xuân Tân cũng là bút hiệu của Tôn Thất Lập khi cộng tác với tờ báo đối lập Hành Trình, xuất bản ở Sài Gòn vào thập niên 60. Hành Trình bị rút giấy phép và đóng cửa, rồi báo Đất Nước ra đời nối tiếp Hành Trình. Dậy Mà Đi được Tôn Thất Lập sáng tác khoảng năm 1966 hay 67, thời gian biến động chính trị ở miền Nam, trước khi xảy ra biến cố Mậu Thân, quân cộng sản miền Bắc tiến hành cuộc Tổng Công Kích xâm lăng vào các thành phố Miền Nam trong những ngày Tết hưu chiến đầu năm.

Tôn Thất Lập hiện đang là Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam và là Tổng Biên tập Tạp chí Âm nhạc Việt Nam.

Bài thơ Dậy Mà Đi của nhà thơ cộng sản Tố Hữu, nguyên văn như sau:
    Dậy mà đi! Dậy mà đi!
    Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
    Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
    Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
    Huống đường đi còn lắm bước gian truân
    Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!
    Thì đứng dậy, xoa tay và tự bảo:
    Chỉ còn đây sức lực hãy còn đây!
    Lòng không nghèo tin tưởng ở tương lai
    Chân có ngã thì đứng lên, lại bước.
    Thua ván này, ta đem bầy ván khác,
    Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
    Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
    Rút kinh nghiệm ở bao lần thất bại:
    Một lần ngã là một lần bớt dại
    Để thêm khôn một chút nữa trong người.
    Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo ơi!
    (Tháng 5-1941)
Tôn Thất Lập đã phổ thành bài hát, với lời như sau:
    Dậy mà đi. Dậy mà đi.
    Ai chiến thắng không hề chiến bại?
    Ai nên khôn không khốn một lần?
    Dậy mà đi. Dậy mà đi.
    Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!

    Đừng tiếc nữa can chi khóc mãi.
    Dậy mà đi núi sông đang chờ.
    Dậy mà đi. Dậy mà đi.
    Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!

    Bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà.
    Bao nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà.
    Dậy mà đi. Dậy mà đi.
    Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi
Bài hát Dậy Mà Đi đã được lực lượng hoạt động nội thành của cộng sản Việt Nam khai thác mạnh mẽ, thổi lên cùng với các phong trào khuấy rối xã hội miền Nam như phong trào sinh viên đòi đại học tự trị; phụ nữ "đòi quyền sống"; Phật Giáo đòi "hòa bình"; Công Giáo đòi cải thiện chế độ lao tù; chính trị gia đòi đối lập, báo chí đòi tự do ngôn luận,... rồi chống tham nhũng, chống độc tài, chống xâm lược và chống tay sai,... Sau lưng các phong trào "hòa bình" ấy là các cán bộ cộng sản thuộc Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, hay còn gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam; do đảng CSVN dựng lên. Mặt Trận này thành lập Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, là chiêu bài lường gạt nhân dân Việt Nam và thế giới. Cuối cùng, cộng sản miền Bắc đã cưỡng chiếm miền Nam bằng vũ lực, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Tôn Thất Lập đích thị là 1 cán bộ tuyên huấn cộng sản

Tôn Thất Lập là sinh viên khóa 3 Sư Phạm thuộc đại học Huế, là một cán bộ hoạt động nội thành. Cuối thập niên 60, Tôn Thất Lập được đưa vào Sài Gòn với lý do lấy vài lớp ở trường Luật, nhưng mục tiêu là để tăng cường cho sinh hoạt tại Sài Gòn của phong trào SinhViên Tranh Đấu, với Hội Liên Hiệp Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh Giải Phóng làm hậu thuẫn. Hội này là do Đoàn Thanh Niên cộng sản HCM đẻ ra để thu nạp đoàn viên trước khi đưa vào thành đảng viên cộng sản. Cùng thời với Tôn Thất Lập là các sinh viên Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Phạm Xuân Tể, Trần Luyến, Nguyễn Minh Triết ... (Nguyễn Minh Triết là chủ tịch nhà nước CSVN hiện nay.) Rồi Tôn Thất Lập vào bưng, được đưa ra Hà Nội dự khóa huấn luyện tuyên huấn, sau đó trở về phục vụ trong Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Năm 1974, Tôn Thất Lập được đưa sang Pháp và hoạt động cùng với sinh viên theo cộng sản ở thành phố Paris, và xâm nhập Tổng Hội Sinh Viên Paris.

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 Tôn Thất Lập trở về nước, tiếp tục hoạt động trong ngành tuyên huấn, hội Âm Nhạc Giải Phóng và Hội Nhạc Sĩ Việt Nam cho đến hôm nay.

Những lời ca mang toàn ý nghĩa phục vụ đường lối tiến hành chiếm miền Nam bằng vũ trang của Cộng sản nằm trong nhạc của Tôn Thất Lập, là người rất thuần bản chất cộng sản. Cao điểm là bài hát "Hát Cho Dân Tôi Nghe" được sáng tác vào năm 1967, Hát Cho Dân Tôi Nghe cũng là tên gọi phong trào của thanh niên cộng sản vào cuối thập niên 60 đầu 70:
    Hát cho dân tôi nghe, tiếng hát tung cờ ngày nào.
    Hát cho đêm thiên thu, lửa cháy bên trại giặc thù.
    Hát âm u trong đêm, muôn cánh tay đang dậy lên.
    Hát cho anh công nhân, xiềng xích như mây tan hoang.
    Hát cho anh nông dân, bỏ cày theo tiếng loa vang.
Tôn Thất Lập thôi thúc thanh niên miền Nam xuống đường chống chính phủ: "Sinh viên học sinh phải chọn văn nghệ làm vũ khí đấu tranh", với chiêu bài "chống Mỹ cứu nước". Sang đến Paris, Tôn thất Lập mang theo công tác gieo mầm "chống Mỹ" trong giới sinh viên Việt Nam ở Âu Châu, hòa nhập với phong trào phản chiến lan tràn khắp nơi trên thế giới. Bên trong Việt Nam là một xã hội rối bời do những hoạt động khuấy rối của đảng cộng sản Việt Nam, bên ngoài là làn sóng phản đối chiến tranh do cộng sản quốc tế yểm trợ, cuối cùng miền Nam mất vào tay cộng sản.

Hiện nay, đảng cộng sản Việt Nam đến lúc cần đến sự tiếp tay của thanh niên và trí thức hải ngoại trở về "xây dựng tổ quốc", "đồng hành với dân tộc", nên một lần nữa lại đưa các cán bộ tuyên huấn ra hải ngoại. Bắt đầu từ cuối thập niên 90, Tôn Thất Lập cùng với đoàn giao lưu văn hóa đã lên đường sang Âu Châu phát động phong trào "Về Nguồn", "xây dựng Tổ Quốc", "xóa bỏ hận thù",... Ở quê nhà, bài hát Dậy Mà Ði lại được vang lên khắp nơi. Các cán bộ xung kích thời "kháng chiến chống Mỹ" lại được sử dụng như một mũi xung kích mới, là cất lên "lời réo gọi của Tổ Quốc",... Năm 2001, dĩa hát Dậy Mà Ði được xuất bản với những bài hát được sáng tác thời sinh viên xuống đường chống chính phủ miền Nam. Phong trào hát lại những bài hát này được phổ biến tích cực cho đến hôm nay, đảng lặp lại không khí "Hát Cho Ðồng Bào Tôi Nghe" qua các chương trình văn nghệ "Ðêm Nhạc Tôn Thất Lập", "Những Bài Ca Không Quên",... Tháng Tư năm 2005, các "chiến sĩ xung kích" của thập niên 60, 70 đã họp mặt tại Huế và Sài Gòn với Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, Tôn Thất Lập, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Miên Ðức Thắng,... Sang đến năm 2006, 2007 cũng có nhiều chương trình văn nghệ trên sân khấu đại học, truyền hình, truyền thanh,... tiếp tục diễn ra và Dậy Mà Ði được sử dụng rất nhiều.



Friday, January 8, 2010

VNHN không tôn trọng nguyên tắc đối thoại với NB Hồng Phúc




Đài VNHN không tôn trọng nguyên tắc đối thoại với NB Hồng Phúc ngày 04-01-2010

Chú ý: Ban Giám Đốc đài VNHN không tôn trọng những lời yêu cầu của NB Hồng Phúc đưa ra, thêm vào đó thời lượng đặt cho NB Hồng Phúc - Huỳnh Quốc Bình- Đoàn trọng Hiếu chỉ có 15 phút so với đài VNHN có nhiều ngày tháng của năm 2009 kéo dài đến đầu năm 2010 tiếp tục chửi NB Hồng Phúc. Trong 15 phút dành cho NB Hồng Phúc - Huỳnh Quốc Bình- Đoàn Trọng Hiếu là Giám Đốc đài không trã lời câu hỏi. Chỉ có Lưu Lệ Ngọc "ghi nhận" chấm dứt chương trình vì "hết giờ" tức là "ông nói đúng quá! đài cần "bịt miệng" không cho ông Hồng Phúc nói nữa!?! không nên cho thính giả nghe những lời tố cáo bất lợi cho đài."

Thủ thuật truyền thông bịt miệng người nói và thời gian vô hạn định cho Giám Đốc đài chửi bới năm này qua tháng nọ ... kèm theo lời yêu cầu của NB Hồng Phúc được phổ biến trên internet trước khi nhận đối thoại với đài VNHN.

Kính gửi anh NGÔ NGỌC HÙNG

Tổng giám đốc đài VNHN

Falls Church, VA 22042

V/V. Chấp nhận lời mời đối thoại.

Thưa anh,

Tôi đã nhận được thư anh mời tham dự cuộc đối thoại giữa chúng ta trên làn sóng điện của đài VNHN vào lúc 8 giờ hoặc 9 giờ tối ngày Thứ Ba 5 tháng 1, 2010.

Đáng lẽ tôi không chấp nhận một cuộc đối thoại giữa chúng ta vào lúc này, vì tôi thấy nó không cần thiết. Tất cả những điều tôi tố giác trước công luận về việc Ban giám đốc đài VNHN giao du mật thiết với toà đại sứ Việt cộng đã được các anh thừa nhận hết cả rồi, thì còn gì nữa để phải luận bàn?

* - Anh đã công khai xác nhận có đi Ba Lan tiếp xúc với cựu đảng viên cộng sản để vào hang hùm bắt cọp con…;

* - Anh cũng đã công khai xác nhận có gặp mặt 2 tên cán bộ toà đại sứ Việt cộng tại nhà hàng Diamond Club vào năm 2005, sau khi đi phát tiền cứu trợ bão lụt Katrina tại New Orlearn trở về;

* - Tiệc sinh nhật của chị Lưu Lệ Ngọc tại nhà hàng Hee Been cũng đã được Ban Sáng Lập đài VNHN, gồm có anh Đinh Quang Trung, Dương văn Hiệp, Ngô Ngọc Hùng, chị Lưu Lệ Ngọc, Lưu Nguyễn Kiều Thu, ký tên trong một thư ngỏ đã xác nhận là có 2 cán bộ tòa đại sứ Việt cộng tham dự, mặc dầu có giải thích rằng anh chị Dương văn Hiệp & Lưu Lệ Ngọc không mời, mà họ đã đi theo một thân hữu đến dự;

* - Cán bộ tòa đại sứ Việt cộng đã đến tận tư gia của anh chị Dương văn Hiệp & Lưu Lệ Ngọc để dự tiệc tất niên. Điều này đã được anh Đinh Quang Trung công khai xác nhận trong một chương trình Trả Lời Thư Tín hồi tháng 9 năm 2009.

* - Và còn nhiều điều khác nữa cũng đã được ác anh chị công khai xác nhận, mà viết ra đây thì e rằng thư nàu quá dài.

Mặt khác, liên tiếp từ Chủ Nhật ngày 3 tháng Giêng đến nay, qua 3 chương trình trên đài VNHN do chính anh điều hợp, đã dùng những từ ngữ khiếm nhã đối với chúng tôi, như: “mục sư lưu manh”, “chó sủa mặc chó”, “ngậm máu phun người”… Với những ngôn từ như vậy thì cuộc đối thoại sẽ biến thành một cuộc thóa mạ lẫn nhau, hay chỉ là một cuộc đối thoại giữa những kẻ điếc mà thôi. Lợi ích gì?

Tuy nhiên, chúng tôi sẽ không lẩn tránh bất cứ một cuộc đối thoại nào, miễn sao nó đừng quá tồi tệ.

Do đó, xin trân trọng kính tin để anh rõ: Tôi sẵn sàng chấp nhận lời mời của anh và sẽ tham dự cuộc đối thoại giữa chúng ta vào:

- Thứ Ba, ngày 5 tháng 1, 2010, lúc 9 giờ tối, với một thời lượng đủ bảo đảm cho cuộc đối thoại không bị cắt ngang giữa chừng khi chưa được trọn vẹn. Và với điều kiện:

1. Cuộc đối thoại giữa chúng ta sẽ gồm có Ban giám đốc đài VNHN 3 người: Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp và Lưu Lệ Ngọc; phía chúng tôi gồm có: Hồng Phúc Lê Hồng Long, Huỳnh Quốc Bình và Đoàn Trọng Hiếu. Tuyệt đối không cho một cá nhân nào ngoài danh sách nêu trên được gọi vào nói chen vô trong chương trình này. Ngược lại, 6 người trong danh sách nêu trên đều phải có mặt trong cuộc đối thoại này, không thể thiếu một ai. Nếu thiếu 1 người, cuộc đối thoại sẽ bị hủy bỏ;

Sở dĩ tôi đưa ra đề nghị thêm tên anh Huỳnh Quốc Bình và anh Đoàn Trọng Hiếu là vì liên tiếp từ Chủ Nhật ngày 3 tháng 1 đến nay, qua 3 chương trình trên làn sóng điện của đài VNHN, chính anh và những người cộng tác với anh, đã luôn nhắc đến hai anh Huỳnh Quốc Bình và Đoàn Trọng Hiếu với những liên hệ mật thiết trong cuộc khủng hoảng của đài VNHN hiện nay. Và mới ngày hôm qua, Thứ Hai 4 tháng Giêng, 2010, anh đã đích thân gọi điện thoại mời anh Huỳnh Quốc Bình lên làn sóng điện của đài để đối thoại mà không gặp.

2. Nguyên tắc áp dụng cho cuộc đối thoại này là: mỗi bên, cả 3 người, sẽ tuần tự được phát biểu trong vòng 15 phút, rồi ngừng, để cho đối phương phát biểu.

3. Vì phương tiện trong tay quý đài, chúng tôi 3 người ở 3 nơi, do đó chúng tôi xin cử 1 đại diện ở vùng Hoa Thịnh Đốn đến Đài Phát Thanh để quan sát làm nhân chứng là phòng ghi âm chỉ có 3 vị. Đại diện của chúng tôi chỉ thuần túy làm nhiệm vụ “nhân chứng” và cũng ngồi ngoài phòng ghi âm.

Thưa anh Hùng, tôi mong nhận được hồi âm của anh sớm, vì tôi cũng có nhiều việc phải làm nên cần thời gian để sắp xếp.

Kính thư,

HỒNG PHÚC Lê Hồng Long

Kính quý diễn đàn

Liên tiếp trong các ngày vừa qua, ô Ngô Ngọc Hùng đã sử dụng làn sóng Việt Nam Hải Ngoại để mạ lị Mục Sư Huỳnh Quốc Bình, đả kích ông Hồng Phúc và Đòan Trọng Hiếu

Ông Ngô Ngọc Hùng đã gửi thư và đây là thư nhận lời của ông Hồng Phúc

Xin quý netter xem để tiện theo dõi

Chúng tôi hy vọng phía đài Việt Nam Hải Ngoại sẽ thực hiện đúng như ông Hồng Phúc yêu cầu để bảo đảm cuộc đối thoại không bị thính giả "cò mồi" gọi vào gây rối

trân trọng.

Nhờ kính chuyển


Source: http://thegioingaynay.blogspot.com


Ngày Hoàng Sa Toàn Cầu - Gs Nguyễn Văn Canh




















Việt gian cộng sản Việt Nam đàn áp giáo dân Đồng Chiêm





http://www.youtube.com/view_play_list?p=C9E3EE1CA42F18CE

Mặt Trận Văn Hóa Giữa TA và TÀU - Vĩnh Như

Vĩnh Như

L.T.S: Tập đoàn CSVN đã và đang tiếp tay Trung Cộng vận động, cưỡng ép xây miếu thờ Khổng Tử ở làng xã phá nát cơ cấu làng xã, thui chột tinh thần dân tộc người dân ở thôn quê; lập viện Khổng Học để Tàu hóa tim óc giới trí thức Việt Nam; gởi cán bộ văn hóa sang Trung Quốc tu nghiệp về văn hóa Tàu (Nho giáo Tứ Thư Ngũ Kinh) để thực hiện sách lược đồng hóa người Việt thành người Tàu như dân Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Ðông. Trung Cộng đang mở mặt trận xâm lược văn hóa ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, mà Tây Tạng là nạn nhân đầu tiên.

Xây miếu thờ Khổng Tử, lập viện Khổng Học là thiết lập đồn lũy văn hóa thành thế liên hoàn tấn công liên tục, toàn diện tinh hoa tâm thức dân tộc. Việt Nam là thí điểm trong kế hoạch bóp chết tinh thẩn bản địa của từng nhóm nhân văn trong môi trường sống hiện thực của nó, trong sách lược dùng đạo Nho của Khổng Tử, với tham vọng lãnh đạo tư tưởng thế giới (sic).

Trung Cộng chi rất nhiều tiền thiết lập trên 40 học viện Nho giáo tại nhiều quốc gia Tây phương và Bắc Mỹ với ý đồ xâm thực toàn diện văn hóa trên thế giới trong những năm tới.

Hiện nay thủ đoạn thâm độc nhất của Tàu Cộng là mưu đồ thực hiện sách lược đồng hóa dân tộc Việt Nam vào dân tộc Tàu qua mặt trận văn hóa như họ đã Hoa hóa các tộc Bách Việt ở miền Nam sông Dương Tử.

Mã Viện: Ông tướng Tàu (70 tuổi) nham hiểm thủ đoạn phá hủy trống đồng và xóa bỏ luật lệ Việt, áp dụng luật Tàu trên đất Việt.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị thất bại năm 43 sau Tây lịch, hàng trăm thủ lãnh, hàng nghìn nghĩa quân đã bị Mã Viện tàn sát. Hơn 300 thủ lĩnh bị bắt đài sang Kim Lăng (Hồ Nam). Mã Viện tâu với vua Hán Luật Việt và Luật Hán khác nhau hơn 10 điểm và xin áp dụng luật Hán trên đất Việt. Cùng với việc thủ tiêu chế độ Lạc tướng, việc bãi bỏ pháp luật của người Việt và phá hủy trống đồng (biểu tượng cho uy quyền của Lạc tướng) nằm trong âm mưu của các nhà lãnh đạo phương Bắc muốn biến Việt Nam hoàn toàn trở thành châu, quận, huyện do Trung Quốc trực tiếp cai trị.

Thực dân Văn hóa: Nhâm Diên - Tích Quang - Sĩ Nhiếp

Nhâm diên, Tích Quang xóa bỏ truyền thống, phong tục tập quán, lễ nghĩa Việt và cưỡng ép người Việt sống theo khuôn mẫu lễ nghĩa của Tàu. Sĩ Nhiếp tích cực truyền bá Hán học ở Việt Nam với ý đồ xóa sạch văn hóa Việt, mà văn hóa là linh hồn của dân tộc, văn hóa là nếp sống, cách ăn- mặc- ở, lối ứng xử, cách suy nghĩ v.v..., tâm Việt hồn Việt.

Minh Thành Tổ: Ông vua Tàu chủ trương xóa bỏ tận gốc tộc Bách Việt - đốt sách- bắt nhân tài Việt đem về Tàu..

Trong một đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ (vua nhà Minh) gởi cho Chu Năng, tướng chỉ huy đoàn quân xâm lăng đã minh chứng ý đồ xóa sạch văn hóa Việt của giới lãnh đạo phương Bắc. Đạo sắc chỉ đề ngày 21 tháng 8 năm 1406 (theo Kiều thư của Lý Văn Phượng năm 1540) đã ra lệnh cho toàn thể binh lính Tàu vào đất Việt là đốt sạch mọi sách vỡ, văn tự do người Việt Nam viết, kể cả sách dạy trẻ em, một mảnh một chữ cũng không được để lại. Những đống lửa khổng lồ cháy suốt trong hai năm với mưu đồ xóa bỏ tận gốc rễ văn hóa Việt . Điều đó cho thấy cuộc Nam xâm lần này với hơn 800 ngàn người Tàu (binh lính và phu binh) không phải chỉ là một cuộc xâm lăng thuần túy quân sự mà nhà Minh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lăng để đồng hóa. Cuộc xâm lăng với mục đích chính là xóa sạch nòi giống Bách Việt trên bản đồ thế giới. Nhưng người Tàu hoàn toàn thất bại. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã lãnh đạo toàn dân đứng dậy đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước.

Là Người Việt Nam, chúng ta phải tự hào về dòng Lạc Việt – tiền thân của dân tộc Việt Nam, nòi giống Bách Việt duy nhất còn tồn tại trên thế giới.

Người Việt Óc Tàu: Cuối đời Trần nhất là từ đời hậu Lê về sau, khoa bảng Việt Nam quá đề cao Nho giáo. Đó là thời kỳ Nho giáo độc tôn ở nước ta. Cho nên giới sĩ phu Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Tàu. Một khi đầu óc của giới khoa bảng đã thấm nhuần văn hóa Tàu thì họ quên mình đang sống trong môi trường thiên nhiên Việt Nam. Những câu thơ tả cảnh mùa thu chẳng hạn, từ đời Lê về sau chịu ảnh hưởng rất nhiều của văn hóa Tàu. Mùa thu trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự là mùa thu của Đỗ Phũ trên đất Tàu: “Lác đác rừng phong hạt móc sa”, “ngàn lau hiu hắt khi thu mờ”. Mùa thu của Nguyễn Du cũng thế: “Rừng phong khi lá rũ vàng”. Ngoại trừ Nguyễn Khuyến sống trong lòng nông thôn mới có thể tái tạo một mùa thu với một tâm hồn Việt, thuần túy Việt Nam (xem Thu Vịnh, Thu Điếu). Hồ Quý Ly, người có cái nhìn độc đáo về văn hóa Việt và đã phê bình nhiều nhà Nho, từ Khổng Tử đến Chu-Trình mà đầu óc cũng bị điều kiện hóa bởi văn hóa Tàu: Lễ nhạc nhu tiền Hán, y quan giống thịnh Đường được coi là tiêu chuẩn của một nước văn hiến.

Hầu hết khoa bảng và các quan trong triều từ cuối đời Trần về sau đều có khuynh hướng muốn cải biến văn hóa Việt theo văn hóa Tàu. Họ luôn luôn làm áp lực nhà vua tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Tàu.

Vua Trần Minh Tông phản đối: Nuớc ta đã có phép tắc nhất định, vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau (Đại Việt Sử ký Toàn thư, bản kỷ quyểnVII. Sự việc chép vào năm 1357). Vua Nghệ Tông cũng đã phát biểu: Triều đình dựng nước, tự có phép độ riêng, không theo chế độ nhà Tống là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau (như trên sự việc chếp vào năm 1370).

Đến nhà Nguyễn thì hoàn toàn nô lệ Tống Nho Thanh nho từ hình thức (cách ăn mặc, luật pháp, tổ chức hậu cung v.v...) đến tư tưởng. Tất cả đêu lấy Trung quốc làm tiêu chuẩn. Hiện nay vẫn còn một phần lớn khoa bảng lớn tuổi và những người học đòi theo những người Việt mà óc Tàu mở miệng là Khổng Tử dạy rằng, Mạnh Tử bảo thế kia v.v..., rồi tu tề trị bình, nói mà không biết mình nói cái gì (xem phần sau). Đeo kính màu Tàu –kiến bò miệng chén, gà què ăn quẫn cối xây thì còn thấy được cái gì khác Tàu.

Lũy tre làng bảo vệ Văn hóa Việt: Rất may sau lủy tre làng, với truyền thống “đất của vua, chùa của làng”, “phép vua thua lệ làng”, nên nông dân Việt vẫn giữ được truyền thống dân tộc, tức vẫn giữ lối sống, phong tục tập quán, tâm Việt hồn Việt. Bản sắc văn hóa Việt là văn hóa xóm làng tức văn hóa dân gian, văn hóa truyền miệng nếu không muốn nói là văn hóa vô ngôn, chứ không phải là văn hóa trọng hình thức, văn hóa chữ nghĩa như văn hóa Tàu hay Tây phương.

Chính vì thế, mặc dù CSVN đã và đang phá “lũy tre làng” ở một vài phương diện về hình thức nào đó, nhưng cái gốc của văn hóa Việt vẫn không bị trốc rễ. Sự thật cây văn hóa bác học Việt Nam đã bị trụi cành khá nhiều, bị và được lắp ghép nhiều cành nhánh mới, nhưng ở nông thôn văn hóa Việt, tức nếp sống, cách ăn-mặc-ở, lối ứng xử, cách xưng hô theo truyền thống Việt Nam v.v.. vẫn được duy trì. Người Việt vẫn là người Việt chất phác hiền lương, chứ không bị Nga hóa hay Tây hóa hoặc Hoa hóa như cán bộ CSVN và trí thức ở thành thị.

Việt Cộng tiếp tay Tàu Cộng: “Cõng rắn cắn gà nhà”: CSTQ và các quan thái thú, thứ sử gốc Việt đang nặn óc tìm cách thực hiện chánh sách đồng hóa dân tộc Việt vào dân Tàu. Kế hoạch thành công thì bất chiến tự nhiên thành: Việt Nam sẽ vĩnh viễn trở thành quận huyện của Tàu. Hồ Cẩm Đào và tập đoàn của ông ta đang phục hoạt tư tưởng của Khổng Tử với mục đích “bình thiên hạ”, tức thực hiện chủ nghĩa bành trướng để dẹp yên thiên hạ trên toàn thế giới như đã dẹp yên những tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử, với ý đồ thay thế vai trò của Mỹ trong chủ trương toàn cầu hóa hiện nay.

Đi tìm Văn hóa dân tộc Việt Nam ở đâu đó bên Tàu: Đầu năm 2005, Hà Nội họp sơ bộ về triết học để chuẩn bị tổ chức hội nghị triết học Đông phương với chủ đề chính là triết thuyết của Khổng Tử. Giáo sư Trần văn Đoàn sẽ là một trong những cột trụ của hội nghị triết học Đông phương nói trên tại Hà Nội. Giáo sư là một linh mục cởi áo dòng, lấy vợ Tàu, hiện là chính giáo của môn lịch sử triết học Tây phương tại Đại học quốc gia Đài Loan và kiêm nhiệm LOKUNG Chair of Phylosophy tại Đại học Phụ Nhân Trung quốc. Ông từng là thỉnh giảng tại nhiều đại học Âu, Mỹ và châu Á như Louvain, Vienna, Oxford, Kyoto, London, Phụ Nhân và Bắc Kinh. Giáo sư là một trong những trí thức Việt Nam chủ trương tìm nguồn gốc văn hóa Việt tận bên Tàu, trong sách của Khổng Tử và Mạnh Tử, tức đạo Việt nằm trong TỬ VIẾT, trong Ngũ Kinh và Tứ Thư của Tàu. Giáo sư sẽ trình bày quá trình biến hóa từ Việt nho sang Việt triết trong Luận tập 2 trong bộ Việt Triết Luận của ông ta.

Khuynh hướng này xác định rằng muốn tìm hiểu văn hóa Việt, nếu bỏ Nho thì ta chỉ thấy ngọn chứ chưa đến gốc văn hóa Việt vì Nho giáo chứa đựng những hằng số của văn minh nước ta.

Nếu Khổng Tử nói: Ngộ thuật nhi bất trước (ta chỉ ghi lại mà không sáng tác) là thật(?!) Nghĩa là ông ta đem tư tưởng của thánh hiền hoặc văn hóa của tộc Bách Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà cho đời sau, chứ ông ta chẳng hề sáng tác.

Nếu đúng như vậy thì đặc tính của nền văn hóa mà ông ta thuật lại trong sách chỉ là nếp sống, cách suy nghĩ, phong tục tập quán, lối ứng xử v.v... của các tộc Bách Việt sinh sống ở phía Nam sông Hoàng Hà và cùng lắm gồm cả các tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đến tận Quảng Đông và Quảng Tây chứ không phải là văn hóa của cư dân Hòa Bình (tiền thân của dân tộc Việt Nam) và cư dân sống ở châu thổ sông Hồng..

Xuyên qua lịch sử, chúng ta nhận thấy Khổng Tử và Mạnh Tử chưa bao giờ đến bờ Nam sông Dương Tử. Như vậy hai ông thánh của Trung Hoa gốc du mục chỉ ghi lại nếp sống, cách nghĩ, cung cách ứng xử của các tộc Bách Việt sống trên đất Tàu. Đó là những điều hai ông nghe kẻ lại chứ không phải mắt thấy tai nghe tại chỗ. Xét cho cùng văn hóa chỉ là cái tự nhiên, được thích ứng và biến đổi bởi con người để thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người (Trần Quốc Vượng - Văn Hóa việt Nam tr. 71). Nói cách khác, nếp sống, cách nghĩ, lối ứng xử v.v... thay đổi theo môi trường sống và cách làm ăn (chăn nuôi theo bầy, sống du mục hay định cư trồng lúa nước). Ngay trên cùng một đất nước đặc tính của văn minh sông Hồng và đặc tính của văn minh sông Cửu Long cũng có những điểm khác nhau: Cách pha nước mắm của miền Bắc khác với cách pha nước mắm của người miền Nam. Các món ăn của người miền Bắc (bún thang, bún mọc, chả cá v…v…) và người miền Nam Việt Nam (mắm ruột, mắm đầu cá lóc, hến xúc bánh tráng, canh chua cá lóc v…v…) còn có những điểm khác nhau thì sao lại có thể đi tìm nguồn gốc văn hóa của dân tộc Việt Nam tận bên Tàu trong Tứ thư Ngũ kinh. Môi trường sống, cách sống, cách làm ăn cũng ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách ứng xử vv…

Tu - Tề - Trị – Bình

Nói cách khác, hai ông thánh nói trên - Khổng Tử và Mạnh Tử- không biết gì về cách sống, cách ăn-mặc-ở, cách suy nghĩ, lối ứng xử v.v... của những nông dân trồng lúa nước ở Hoà Bình (Việt Nam). Người dân Hòa Bình đã thực hiện cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước, từ sáu đến bảy ngàn năm trước đây. Như vậy, văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa trồng lúa nước ổn định lâu đời ở đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Tóm lại có thể nói đi tìm nguồn gốc văn hóa của dân tộc Việt Nam trong Tứ Thư Ngũ Kinh, ở văn minh Hoàng Hà hay ngay cả văn minh Dương Tử giang thì chỉ thấy TU-TỀ-TRỊ-BÌNH - thích hợp cho giới thống trị du mục phương Bắc, không thích hợp cho người nông dân Việt - chứ không thể bắt gặp được tinh hoa của văn minh sông Hồng (học ăn, học nói, học gói, học mở) bắt nguồn từ văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước.

Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ một chút thì sẽ nhận thấy “Trị quốc” và “bình thiên hạ” không thích hợp cho mọi người.

Người nông dân, nhà khoa học, thương gia, giáo sư vv… học cách trị quốc và bình thiên hạ có lẽ không cần thiết lắm. Từ góc nhìn hiện thực và nhân bản, lịch sử Trung Quốc minh chứng một cách chua chát là quan niệm tề gia, trị quốc, bình thiên hạ chỉ thường xuất hiện trong đầu óc của một số triết gia hay trên miệng lưỡi - đầu môi chót lưỡi - của các nhà nho hoặc khoa bảng gàn mà thôi. Đó là lý tưởng của các triết gia mà Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện được.

Chúng ta tạm hiểu một cách đơn giản “tề gia” là cư xử ăn ở trong gia đình cho mọi sự ổn thõa, mọi người sống hài hòa an vui hạnh phúc với chủ trương “tam tòng”
    1. Gái ở nhà phải nghe lời cha (còn mẹ ở đâu?)
    2. Có chồng theo chồng
    3. Chồng chết theo con
Trên thực tế từ xưa cho đến ngày nay, người con gái Trung Quốc lấy chồng hoàn toàn lệ thuộc nhà chồng, nếu không muốn nói là trở thành nô lệ của nhà chồng. Phải chăng tề gia là “cha bán con” “chồng bán vợ” “anh bán em gái” “bó chân con gái” vv…(xem chi tiết ở phần sau)

Nhân sinh quan của người Trung Quốc vẫn còn mang dấu ấn gốc văn hóa du mục, lúc nào, thời nào cũng chủ trương “trọng nam khinh nữ”

Bước vào thế kỷ 21, họ vẫn tìm mọi cách để hủy diệt đứa con gái vừa chào đời.

Phải chăng hầu hết người dân cũng như đa số bác sĩ, kỷ sư, giáo sư, luật sư, thương gia vv…không cần phải bỏ thời giờ để học cách “trị quốc” và “bình thiên hạ”.

Có một số khoa bảng Việt Nam cố giải thích “bình” là đem lại hòa bình cho thiên hạ, lo cho mọi người khắp nơi được yên ổn, không có chiến tranh. Bình hòa chính sách, lấy hòa bình để giải quyết chiến tranh, bình không phải là động từ như tu, tề, trị. Bình không phải là bằng phẳng, dẹp yên thiên hạ vv…

Các ông Thánh cũng như các nhà lãnh đạo Trung Quốc miệng thì nói đem lại hòa bình đến cho thiên hạ, nhưng thực chất là xâm lăng, là chiếm đoạt từ đất đai đến con người (đồng hóa các dân tộc phi Hoa trở thành Tàu) là hưng Hoa diệt Di (chủ trương của Khổng Tử).

Thực tế cho thấy nhà Chu (1122 - 225 trước Tây lịch) đem hòa bình đến cho 1700 chư hầu (thiên hạ) là chiếm đoạt đất của tộc Bách Việt ở lưu vực sông Hoàng Hà, là thống trị họ, là củng cố, phát triển chế độ nô lệ.

Sang thời Đông Chu (Xuân Thu = 770 - 475 trước Tây lịch) chỉ còn 100 nước, có 14 nước tương đối lớn, trong đó mạnh nhất là Tề, Tần, Tống, Tấn, Sở (ngũ bá). Bước sang thời Đông Chu (chiến quốc = 475 - 221 trước Tây lịch) có thất hùng Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Tần, Sở và Yên.

Trong thời đại này, Khổng Tử chủ trương nhân trị nhưng thực chất là hưng Hoa diệt Di, là thuyết phục các chư hầu kể cả các nước thuộc tộc Bách Việt sống dưới sự thống trị của thể chế phong kiến do Chu Công thiết lập và theo văn hóa mang tính du mục.

Sau Chu đến Tần. Tần Thủy Hoàng đem hòa bình đến cho thiên hạ bằng cách diệt lục quốc, rồi cho quân vượt sông Dương Tử mang hòa bình đến phương Nam, nhưng thực chất là chiếm đất của tộc Bách Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Qui Châu, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây..

Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư mang cái “hoà bình quái ác” của Trung Quốc cho nước Âu Lạc, dân Việt kháng chiến trong 10 năm gian khổ, Trung Quốc bị thất bại.

Nhà Hán lại đem cái “hoà bình quỉ tha ma bắt” đến Mông Cổ, Tân Cương, suốt Trung Á đến tận lảnh thổ Nga, phía đông bắc gồm bán đảo Triều Tiên đến tận Hán Thành (Séoul), phía Nam đến Việt Nam.

Tây phương gọi thời đại này là Thái bình Trung Quốc (Pax Sinica) tương đương với Thái bình La Mã (Pax Romana).

Nhà Hán và nhà Đường đã đem hòa bình đến cho dân Việt trên 1000 năm. Nhờ chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền mà dân Việt mới thoát khỏi cái “hoà bình quái đản” do Trung Quốc mang đến.

Rồi Tống, Nguyên, Minh, Thanh không triều đại nào của Trung Quốc mà không mang cái hòa bình quái gỡ của triết lý tu, tề, trị, bình đến cho dân tộc Việt Nam, và không cuộc xâm lược nào là không bị Việt Nam đánh bại (7 lần đại thắng: Quân Tống (2) Nguyên (3), Minh (1) và Thanh (1).

Trung Quốc đã và đang mang cái hòa bình quái ác - thể hiện triết lý Tu, Tề, Trị, Bình của các ông Thánh Trung Quốc nghĩ ra - đến cho dân Tây Tạng.

Họ đang mang hòa bình kiểu Trung Quốc cho dân tộc Việt ở biên giới Việt Trung, trên biển Đông với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Họ còn có tham vọng mang cái hòa bình dưới cây dù của triết lý Tu, Tề , Trị, Bình (mà đa số trí thức lớn tuổi Việt Nam thường nói trên đầu môi chót lưỡi khi có dịp) xuống Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương, đuổi Mỹ trở về Hawaii.

Học Ăn - Học Nói - Học Gói - Học Mở

Trái lại, học ăn, học nói, học gói, học mở thích hợp cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, nó không gò bó trong một khuôn mẫu nhất định. Dân Pháp, học ăn, học nói, học gói, học mở theo văn hóa Pháp; dân Mỹ theo văn hóa Mỹ, dân Ấn Độ, theo văn hóa Ấn Độ, dân Việt theo văn hóa Việt vv…

Mặt khác, nó có điểm chung cho tất cả mọi người và còn có điểm riêng thích hợp cho mọi giới: (nông dân học sinh, công nhân, thương gia, trí thức, chính trị gia vv…) trong mọi hoàn cảnh sinh động.

Phải chăng có thể nói triết lý giáo dục - học ăn, học nói, học gói, học mở - mang tính dân tộc nhân bản và hiện thực.

Chẳng hạn, trong nền văn hóa Việt, người trưởng thành sống không thể thiếu ý thức về mình, tức học gói để biết cách nhìn lại chính mình, tự biết mình “trăm hay xoay vào lòng, vì ngọn đèn được tỏ trước khêu bỡi mình”, và cũng không thể thiếu ý thức về sự tương quan giữa mình với người, vạn vật cùng thiên nhiên “học mở” để mở rộng cõi lòng, tạo điều kiện thuận lợi cho hạt giống tình thương (cởi mở, bao dung, vị tha) đơm hoa kết trái, mà đỉnh cao tuyệt đỉnh của con người là thăng hoa mãi theo chiều kính tâm linh với định hướng con người hòa cùng vũ trụ.

Người trưởng thành cũng không thể thiếu khéo léo trong việc vận dụng tinh thần tổng hợp (học gói) và tinh thần phân tích (học mở) trong mọi hoạt động của đời sống.

Trong gia đình Việt Nam, con cái - gái hay trai - được cha dạy khôn, mở mang kiến thức, nhìn xa trông rộng (học mở); mẹ dạy khéo léo, phát triển tình cảm, tâm linh qua lời ru (học gói): “ cha khôn mẹ khéo” có chồng thì cùng chồng chung lo xây dựng mái ấm gia đình với nếp sống phân công - chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa - hợp tình hợp lý, tùy hoàn cảnh... Chồng làm những việc nặng nhọc, bên ngoài (học mở) vợ đảm trách những việc nhẹ nhàng bên trong của nội tướng (học gói)

Các nhà chính trị thì phải ý thức “ăn” là kinh tế, “nói” chính trị, “gói và mở” là giáo dục. Ông Lý Đông A, nhà cách mạng Việt Nam, thấm nhuần tinh thần dân tộc với tâm Việt, hồn Việt đã đưa ra một nhận định rất chân xác rằng: “kinh tế, chính trị và giáo dục phải phát triển đồng bộ. Nhưng giáo dục là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Chính trị là thiết kế và chấp hành nhân sinh.”

Mặt khác:

Ăn: ăn coi nồi ngồi coi hướng …. ăn để sống chẳng phải sống để ăn, với ý nghĩa ươm mầm cho sự thăng hoa cuộc sống và con người qua biểu tượng Thần Tổ Kép Tiên Rồng.

Nói: Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau … sinh ra “đầu đội trời chân đạp đất” con người tương thông với thiên nhiên vũ trụ, vạn vật, “sống làm biết, biết làm sống” từ hiểu nghiệm sống này con người bước vào ngôi nhà tâm linh một cách tự nhiên, giải mã văn tự vô ngôn của trời đất (thiên nhiên) qua tâm thức của dân tộc; rồi chuyển cái chiêm nghiệm lại có “ngôn” (ca dao, tục ngữ, huyền thoại) mà không truyền bằng văn tự. Văn hóa truyền miệng, lấy cuộc sống sinh động, truyền từ sự sinh động qua sự sinh động thiết thực của cuộc sống, không bị đóng khung trong ngôn ngữ chết, chữ nghĩa chỉ nói về sự thật, chứ không phải là sự thật.

Học nói là phương thức diễn dịch tuyệt vời thiên thu vô ngôn của trời đất.

Tổ tiên ta đã truyền lại cho con cháu lộ trình đi vào Thiên Thu Vô Ngôn của trời đất qua biểu tượng “gậy thần sách ước” với ba tờ giấy trắng tinh.(Xem giải mã Gậy Thần Sách Ước - Đạo Sống Việt - Tủ Sách Việt Thường)

Rồi “gói - mở” tức “đóng - mở” “vô - ra” được linh động đem vào thực tế, chuyển tải nhanh chậm tùy thời, ứng dụng sự thuân lý trong mọi việc qua biểu tượng Thần Tổ Kép Tiên Rồng. Tiên (gói) Rồng (mở)

Lối học “hai chiều thuận nghịch” linh động, sáng tạo và hiện thực, mở tâm thức dân tộc một cách tự nhiên, nó không đóng khung, thiếu sáng tạo, không thiết thực cho mọi tầng lớp, một mô hình chết như tu, tề , trị, bình của Tàu.

Có thể nói: ăn, nói, gói, mở mang tính dân tộc, nhân bản và hiện thực; nó giúp cho mọi người ý thức được mỗi người là bộ Kinh Dịch Sống để thích nghi với đời sống sinh động và linh động hằng ngày (học ăn, học nói, học gói, học mở là một phần của giáo dục nhân bản tâm linh không thuộc chủ đề của loạt bài này, cần biết thêm chi tiết xin tìm đọc các tác phẩm của Tủ Sách Việt Thường ở website www.tusachvietthuong.org)

Trung Quốc Khai Thác Triệt Để Khuynh Hướng Tìm Nguồn Gốc văn Hóa Việt Nam Ở Bên Tàu

Là người Việt Nam chúng ta cần thận trọng trong mặt trận văn hóa hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam. Cuộc chiến đang diễn ra vô cùng khốc liệt vì gián điệp văn hóa Tàu có mặt khắp nơi và khó phân biệt địch và bạn. Hơn nữa CSVN lại tạo môi trường thuận lợi cho Tàu Cộng thực hiện mọi kế hoạch trong trận chiến này.

Về mặc chiến lược hiện nay Trung Quốc đang khai thác triệt để khuynh hướng tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam ở bên Tàu. Hướng đi này quan niệm rằng Khổng Tử chỉ công thức hóa và chữ nghĩa hóa văn hóa của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu. Như vậy, nếu bỏ Nho, tức Tứ Thư Ngũ Kinh thì chúng ta chỉ tìm thấy ngọn chứ chưa đến tận gốc của văn hóa Việt, vì Nho giáo chứa đựng những hằng số của văn minh nước ta.

Mục tiêu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn mang dấu ấn văn hóa gốc du mục với bệnh trầm kha Hội Chứng Đại Hán là tìm mọi cách Hán hóa dân tộc Việt Nam như đã Hán hóa Bách Việt sống trên đất Tàu.

Kế hoạch của họ trước hết là dùng mọi thủ đọan, mưu mẹo làm cho giới khoa bảng Việt Nam nô lệ tư tưởng Nho giáo, xem văn minh, văn học Trung Quốc là siêu việt, nước lớn người đông, có mặt khắp địa cầu, để rồi tôn thờ Khổng Tử một cách quá đáng, xem như một ông thánh toàn thiện, bất khả xâm phạm. Ông Thánh đó chủ trương nhân ái nhưng thực chất là “hưng Hoa diệt Di”, là tìm cách phục hoạt chế độ phong kiến nhà Chu với sách lược bàn tay sắc (bạo lực quân sự) bọc nhung (văn hoá - thuật nhi bất tác). Mặt khác Trung Quốc đã và đang đổ hàng hóa thực dụng như phụ tùng nhà bếp, bình thủy, xe đạp vv… qua hai hướng (buôn lậu và giá rẻ) tràn ngập từ thành phố đến thôn quê, nhà nhà đều dùng hàng hóa của Trung Quốc, bóp nghẹt các ngành sản xuất trong nước. Dần dần người Việt bị Hán hóa; Trung Quốc sẽ chiếm cả người lẫn đất đai, không mất một viên đạn, bất chiến tự nhiên thành.

Cách Học Cái Hay Cái Đẹp Của Người - Nhập Nô Xuất Chủ

Chúng ta có thể học, học mãi, học lời hay ý đẹp của người tốt lẫn người xấu, kể cả Không Tử, người đã miệt thị chủng tộc Bách Việt là mọi rợ, người đã chủ trương diệt chủng tộc Bách Việt (hưng Hoa diệt Di).

Chẳng hạn, chúng ta có thể thực hiện lời hay của một tên cướp đã hãm hiếp bà con mình, tra tấn cha mẹ, vợ con mình nhưng không thể tôn thờ kẻ cướp đó và dạy con cháu mình phải kính phục kẻ cướp.

Ông cha ta đã dạy cách học hỏi cái hay, cái đẹp của người trong triết lý giáo dục nhân bản tâm linh qua quá trình học ăn , học nói, học gói, học mở mà nhà cách mạng Việt Nam, ông Lý Đông A đã tóm gọn trong bốn chữ “Nhập nô xuất chủ”

Chúng ta học hỏi văn hóa, văn học, triết học Trung Quốc, học chữ Hán, học nói tiếng Bắc Kinh, nhưng chúng ta học với ý thức, học cái hay, bỏ cái dở chứ không phải học để trở thành kẻ nô lệ tư tưởng Tàu, trọng Tàu, sợ Tàu và trở thành kẻ vong bản. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng liên hệ lịch sử, văn hóa gắng bó, nên càng phải chú ý và đánh giá xác đáng các xu hướng cũng như ảnh hưởng của nó. Thái độ của ông cha ta trong giao lưu văn hóa “có rế thì đỡ nóng tay” hoặc “có dép, có giày thì đỡ nóng chân” hay “ăn sung nằm gốc cây sung, lấy anh thì lấy nằm chung chẳng nằm”.

Xem cái hay, cái đẹp của văn hóa ngoại nhập là cái rế, giày, dép chứ không phải là bản sắc văn hóa dân tộc ... Đừng để rơi vào trạng thái “buồn ngủ gặp chiếu manh” xem văn hóa Tàu (Tứ Thư Ngũ Kinh) là cái phao để nắm bắt cho đó như là tinh hoa của tư tưởng Việt.

Vào thư viện của Anh hoặc Mỹ vv…chúng ta sẽ thấy sách nghiên cứu về Nho Giáo rất nhiều. Một số học giả Tây phương đã dày công nghiên cứu về Khổng Tử, họ phân tích xác đáng, đi sâu vào nhiều điểm còn hơn cả các nho sĩ, các nhà khoa bảng của ta. Nhưng họ không nô lệ tư tưởng Tàu, không tôn thờ Khổng Tử. Họ không xem Khổng Tử là ông thánh bất khả xâm phạm. Họ không xem văn học Trung Quốc là siêu việt như một số khoa bảng Việt Nam, ăn không ngồi rồi, thưởng thức thơ Đường, ca ngợi Kinh Thi không đúng lúc, nhẫn tâm vô trách nhiệm, trước quốc nạn khủng khiếp của dân tộc. Nghịch lý thay!

Một số nhà khoa bảng Việt Nam lại vô tình đóng vai trò đoàn quân tiên phong của Trung Quốc trong mặt trận văn hóa giữa ta và Tàu, tiếp tay cho việc Hán hóa đầu óc dân tộc Việt Nam

Dù Tứ Thư Ngũ Kinh là chữ nghĩa hóa tư tưởng của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu đi chăng nữa thì đó cũng chỉ là tư tưởng của các tộc Bách Việt sống trên đất Tàu chứ không phải của dân tộc Việt Nam. Nó đã bị “du mục hóa” từ thời nhà Chu (1122 - 225 trước Tây lịch) và bị Hán hóa, tức chồng lên một lớp sơn Hán Nho, rồi Tống Nho và vv….

Hơn nữa, sách vở, chữ nghĩa chỉ là cái xác chết, cặn bã của người xưa, một đống ngôn ngữ trống rổng. Ngôn từ, chữ nghĩa chỉ nói về sự thật, chứ không phải là sự thật.

Như vậy, phải chăng Tứ Thư, Ngũ Kinh chỉ là cái xác chết của tư tưởng Nho giáo, nếu có.

Trở Về Với Xóm Làng Và Với Tiếng Nói Tâm Thức Của Dân Tộc

Tại sao chúng ta không trở về trực tiếp với xóm làng Việt Nam với huyền thoại và ca dao (tiếng nói tâm thức của dân tộc) để từ đó bước vào ngôi nhà tâm linh Việt, đến tận gốc của văn Hóa Việt: Thiên thủ vô ngôn của Trời đất, nơi chứa đựng những tinh hoa (những hằng số) của văn hóa Việt; một nền văn hóa hòa bình, nhân bản, dân tộc mang tính khai phóng và dung hóa trong giao lưu qua lăng kính nhân chủ và bình đẳng.

Phải chăng trở về với cái xác chết do Khổng Tử lưu giữ lại (thuật nhi bất tác) không ích lợi gì đối với 95% người dân Việt, không biết Khổng Tử là ai, không đọc được chữ Tàu mà còn là một cơ hội để Trung Quốc lợi dụng trong mưu đồ Hán hóa người dân Việt?

Lịch sử đã chứng minh, người Bách Việt sống trên đất Tàu (Chiết Giang, Phúc Kiến, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây) đọc Tứ Thư Ngũ Kinh suốt hơn hai ngàn năm qua cũng không phục hoạt được hồn dân tộc của họ, cũng không hun đúc lại được ý chí tự chủ và tinh thần độc lập của nòi giống. Họ còn hảnh diện tự cho mình là người Tàu, Hán nhân, Đường nhân.

Phải chăng hướng đi hợp tình hợp lý nhất không bị Trung Quốc lợi dụng được là đến tận gốc của văn hóa Việt, Thiên Thú Vô Ngôn của Trời Đất (Thiên Nhiên)?

Không ai cấm chúng ta học cái hay cái đẹp của cái xác chết của tư tưởng trong Tứ Thư Ngũ Kinh nếu có những điều hay đẹp còn dùng được, thích hợp với tâm hồn người Việt để phong phú hóa văn hóa dân tộc. Nhưng chúng ta đã biết các nhà lãnh đạo Trung Cộng đang tìm cách phục hoạt tư tưởng Nho giáo và dùng tư tưởng của Khổng Tử như là nhạc trưởng điều hợp ban nhạc triết học Đông Tây, với tham vọng lãnh đạo thế giới về mặt tư tưởng. Đó cũng là sự gợi ý của các triết gia tại hội nghị triết học thế giới lần thứ nhất năm 1949 tại Honolulu.

Người Việt Nam chúng ta phải ý thức rõ ràng “dân tộc nào để cho văn hóa ngoại lai ngự trị thì không thể có độc lập thực sự vì văn hóa là linh hồn của một dân tộc (Nguyễn An Ninh - Lý Tưởng Của Thanh Niên Việt Nam).

Ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc: Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc có mặt khắp nơi qua mọi sinh hoạt: Du lịch, thương mại, băng nhạc kịch, phim ảnh, dưỡng sinh, báo chí sách vở, nam ca sĩ Việt Nam đã bị Tàu hóa qua cái áo cổ cao, dần dần có thể Tàu sẽ xé nát cái áo dài truyền thống của Việt Nam, v.v...

Tình báo và gián điệp Trung Cộng dưới dạng du khách và thương gia: Theo ước lượng của một giới chức Bộ Công an Hà Nội thì trong năm 2003, ít nhất có vào khoảng từ 100 đến 150 ngàn người Tàu vượt biên giới qua Việt Nam làm ăn và du lịch. Họ vào tận Sàigòn. Một số lấy vợ Việt. Theo nguồn tin nói trên từ năm 1999 đến nay chính quyền Hà Nội không còn có thể kiểm soát được biên giới Việt Trung.

Người Hoa thường trực ở Việt Nam dưới dạng du khách và thương gia. Họ tiếp tục vào Việt Nam, không ồ ạt mà vào lẻ tẻ từ từ, nhưng liên tục, tích lũy lại người Hoa có mặt tại Việt Nam từ 1 triệu đến 1,5 triệu. Di dân người Tàu đang là một đe doạ khủng khiếp cho Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Đó là đạo quân thừ năm vô cùng nguy hiểm, phát triển đồng bộ với cuộc Nam tiến lấn đất ở biên giới Việt Trung, giành dầu ở Biển Đông và bao vây ở biên giới Việt Lào. Chính phủ Lào đã để cho người Tàu khai khẩn đất đai ở vùng biên giới Lào Việt.

Điều vô cùng nguy hiểm là nhiều người Việt phục vụ cho đoàn quân tuyên truyền của Trung Cộng: một số vì củng cố quyền lực và quyền lợi; một số trí thức thức khoa bảng vì thiếu cảnh giác đã vô tình tiếp tay phục vụ đắc lực (phổ biến sâu rộng văn hóa Trung Quốc) trong mặt trận văn hóa đang diễn ra vô cùng ác liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc

Băng nhạc kịch: Người Việt Nam nào có khứu giác nhạy bén sẽ cảm nhận được mùi “xì dầu, mùi Tàu” bay khắp phòng trong lúc xem các băng nhạc kịch. Như vậy mùi Tàu ảnh hưởng đến hàng triệu bộ óc của người Việt trong nước cũng như hải ngoại. Phải chăng những người điều khiển chương trình băng nhạc kịch đã bị Tàu Cộng mua chuộc rồi sao? Cần phải miệt thị tổ tiên, bóp mép lịch sử, làm mất hào khí của dân tộc để kiếm ăn hay không?

Dưỡng sinh: Một số trí thức người Mỹ, người Pháp gốc Việt v.v... phổ biến khí công, hương công, thái cực quyền mà cho rằng phát huy văn hóa dân tộc. Có lẽ nói phát huy văn hóa Trung Hoa hay tinh hoa văn hóa phương Đông hoặc gì đó thì ổn hơn. Một số khác tích cực phát triển Pháp Luân Công. Người chủ trương cho rằng đây là một pháp tu luyện tối cao các đặc tính của vũ trụ: Chân thiện nhẫn. Pháp luân đại pháp là một phương pháp tu luyện tầng cao của Phật pháp.

Theo ông Lý Hồng Chí thì pháp do Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng cách nay 2500 năm chỉ nhằm cho người ở trình độ rất thấp; những người vừa mới ra khỏi tình trạng xã hội phôi thai và có một tâm ý rất đơn sơ. Người ngày nay không còn có thể tu luyện bằng pháp đó. Vào thời mạt pháp cả những vị sư trong chùa còn có nhiều khó khăn để tự cứu độ làm sao họ có thể cứu độ người khác? (Lý Hồng Chí - Chuyển Pháp Luân tr. 12) Đó là cái tập quán lấy của người (Ấn Độ) làm của mình (Tàu) rồi chê của người là lạc hậu, với cái tính tự cao tự đại và óc độc tôn độc hữu gốc du mục.

Phong trào học tiếng Tàu: Hiện nay phong trào học tiếng Tàu với giọng Bắc Kinh đang lên cao độ và hiện tượng dịch sách Tàu để phổ biến văn hóa Trung Quốc khắp hang cùng ngõ hẻm. Trên kệ sách đa số là sản phẩm của Trung Quốc được chuyển ngữ, từ 10 đại hoàng đế Trung Quốc, 10 mưu lược gia Trung Quốc, hệ thống phạm trù lý học … đến triết học Trung Quốc (đạo-tâm-nhẫn).

“Hòa” theo kiểu Tàu: Một số sách ca ngợi dân tộc Trung Hoa là dân tộc thượng hòa.. Giáo sư Tiến sĩ Triết học Trần Chí Lương, người Trung Quốc đã viết: “Dân tộc Trung Hoa là dân tộc thượng hòa (coi trọng hòa). Năng lực thượng hòa sẽ kết nhiều quả ngọt trong thế kỷ 21. Đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa”. Có thật dân tộc Trung Hoa là dân tộc coi trọng hòa không?

Ngày xưa người Trung Quốc đã “hòa” hết đất đai của các tộc Bách Việt từ phía Nam sông Hoàng Hà đến Quảng Đông Quảng Tây. Ngày nay họ đang “hòa” ở Tây Tạng, Tân Cương và vùng biên giới Việt-Trung. Họ đã và đang “hòa” với dân tộc Việt Nam ở Biển Đông (Trường Sa và Hoàng Sa). Ngày 8 tháng 1 năm 2005 Trung Quốc đã cho thế giới thấy dân tộc Tàu là dân tộc coi trọng “hòa” bằng cách nổ súng tấn công bắn chết 9 ngư dân Việt vô tội một cách trắng trợn, tàn bạo, dã man của kẻ mạnh. Rồi lại chụp mũ những ngư dân vô tội đó là hải tặc.

Thực tế đã dạy cho dân tộc Việt Nam đừng tin những gì các ông thánh Trung Quốc nói - đức nhân, đức trung và, chính danh định phận, đạo trung, nhân trị, hòa v.v…- hãy nhìn cách hành xử của người Trung Hoa từ ngàn xưa đến nay.

Vĩnh Như



Thursday, January 7, 2010

Thư Từ Nhiệm Của GS Nguyễn Xuân Vinh


TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM
TẬP THỂ CHIẾN SĨ VNCH HẢI NGOẠI

VP : 469 Ezie St. San Jose CA 95111
Tel: ( 408)578-2938
Email: rvnvets@...


THƯ TỪ NHIỆM
của
CHỦ TỊCH HỘI ÐỒNG ÐẠI DIỆN TẬP THỂ CHIẾN SĨ VNCH/HN
    Kính gửi quý Niên Trưởng và quý Chiến Hữu trong
    Hội Đồng Tư Vấn,
    Hội Đồng Giám Sát,
    Hội Đồng Đại Diện.
    Đồng kính gửi quý Tổng Hội Trưởng và quý Liên Hội Trưởng, quý Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Điều Hợp và quý Thành Viên trong Tập Thể CSVNCH/HN.
Từ Đại Hội Toàn Quân năm 2003 với hơn ba ngàn người tham dự, và gần đa số tuyệt đối những phiếu bầu của Tập hợp Dân Quân Cán Chính đề cử tôi vào chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện để cùng quý chiến hữu điều hợp những hoạt động yểm trợ và tranh đấu cho Dân Chủ và Nhân quyền tại Việt Nam của Cộng Đồng Hải Ngoại, tôi cho rằng nếu tôi là một người “đào ngũ” hoặc với những “bằng cấp giả” hoặc là người “thiếu đạo đức” thì không thể nào lừa dối được toàn thể các đại biểu là những cựu Tướng lãnh, cựu Quân nhân QLVNCH, CSQG và Lực lượng Xây Dựng Nông Thôn, những người từng có tuổi lính nhiều hơn tôi , từng giữ cấp bậc cao hơn tôi và những bậc trí thức và thân hào nhân sĩ đáng kính trọng hơn tôi trong hàng ngũ Quốc Gia chúng ta, vì với niềm tin của quý vị mà tôi đã đứng ra nhận nhiệm vụ vô cùng khó khăn này.

Trong nhiều năm qua, dù tôi có luôn gặp những khó khăn trong và ngoài, bên trong gia đình khi hiền nội ốm đau, sức khoẻ và tinh thần tôi có đôi lần không cho phép tôi tiếp tục giữ nhiệm vụ, bên ngoài tôi phải đương đầu với những kẻ đố kỵ thêu dệt những thị phi trong hàng ngũ quốc gia để hạ giảm uy tín của tôi, trong số đó có cả Cộng Sản Việt Nam và tay sai hải ngoại tiếp sức để đánh phá Tập Thể Chiến Sĩ nhằm chia rẽ hàng ngũ lãnh đạo. Nhưng tôi đã luôn luôn kiên trì trong nhiệm vụ được giao phó, dù hàng ngũ quốc gia có một số người bị ảnh hưởng bởi lời thị phi của những phần tử tiêu cực muốn gây phân hoá trong hàng ngũ TTCSVNCH/HN. Họ đã không thể tiêu diệt một tổ chức quân đội kiên cường và cho tới nay, uy thế của Tập Thể vẫn làm CSVN nao núng, vì người lính VNCH vẩn còn mặc quân phục, vẫn còn tập hợp trong một cơ cấu có kỷ luật. Cho đến hôm nay cá nhân tôi, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện TTCSVNCH/HN với những phiếu bầu chính danh của đa số tuyệt đối vẩn là cái gai mà CSVN cần loại bỏ.

Sau kỳ thất bại toàn diện của Hội Nghị gọi là tập hợp Việt Kiều ở Hải Ngoại, được tổ chức vào cuối tháng 11 năm 2009 ở Hà Nội, vì CSVN không chiêu dụ được những thành phần ưu tú của người Việt tỵ nạn cộng sản, trong đó những người có uy tín và thành đạt ở hải ngoại hầu hết đều là con cháu trong hàng ngũ của cựu quân nhân QLVNCH, do đó Cộng Sản đã bắt đầu dùng toàn lực để đánh phá Tập Thể chúng ta, hiện nay còn đứng vững như là một trong những đoàn thể kiên cường chống cộng, chưa bị chia rẽ và phân hoá.

Để thích ứng với tình hình hiện tại, và xét vì với sức khoẻ của tôi hiện nay, như cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo trong thư từ nhiệm trước kia đã viết “lực bất tòng tâm”, tôi quyết định từ nhiệm chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện và ủy quyền cho Chiến Hữu Trần Quan An, hiện là Phó Chủ Tịch Điều Hành, thay tôi làm Xử Lý Thường Vụ Chức Vụ Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện để cùng với quý vị Tổng Hội Trưởng và Liên Hội Trưởng, các vị Đại Diện Hội Đoàn của QLVNCH, CSQG, Hội Đoàn Bán Quân Sự và các Tổ Chức Hậu Duệ, tổ chức một Đại Hội của Tập Thể trong năm 2010 đi tới sự kiện toàn tổ chức hầu đưa ra một ban lãnh đạo có đầy đủ khả năng và phương tiện để đối phó với sự tấn công của CSVN, và cùng với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tiếp tục cuộc tranh đấu vì Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam.

Kính chúc quý chiến hữu nhiều sức khoẻ và sáng suốt để quyết thắng kẻ thù trước mặt là CSVN và tay sai.

Trân trọng,
San Jose ngày 1 tháng Giêng năm 2010



Vietnam arrests ex-Jetstar Pacific boss

AAP
January 8, 2010

Vietnamese authorities have arrested the former head of budget airline Jetstar Pacific and prevented two of its Australian employees from leaving the country after the carrier reported losses on fuel contracts, state media says.

Luong Hoai Nam, 47, former general director of Jetstar Pacific Airlines - a partnership between the Vietnam government's investment arm SCIC and Australia's Qantas Airways - was taken into police custody in Hanoi on Thursday, the Tuoi Tre (Youth) newspaper said.

Online newspaper Vietnamnet reported that two Australian executives of Jetstar Pacific, identified as Daniela Masilli and Tristan Freeman, were not allowed to leave the country.

A spokesman at Australia's Department of Foreign Affairs and Trade confirmed that the two Australians have been prevented from leaving Vietnam and said the Australian embassy in Hanoi is seeking further details.

The Tuoi Tre newspaper quoted a report by state investigators alleging that Nam and the two Australian deputy general directors flouted a board of directors resolution on buying aviation fuel futures, leading to losses of more than $US31 million ($A33.81 million).

The resolution only allowed the general director and his two deputies to buy fuel futures up to the end of 2008, but they extended the purchase until May last year, the report said.

Police also searched Nam's homes and offices in Hanoi and the southern commercial hub of Ho Chi Minh City, the newspaper said.

Officials at Jetstar Pacific and police were not immediately available for comment.

State media has quoted Nam as saying that most airlines in the world suffered losses from buying fuel futures because of volatile oil prices over the past two years which peaked at $US143 per barrel and then slumped to as low as $US39 per barrel.

In 2007, Australia's Qantas bought 18 per cent of Pacific Airlines and turned it into a low-cost airline, operating as Jetstar Pacific. Qantas' stake has since increased to 27 per cent.

Nam was the general director of Pacific Airlines since 2004 and resigned late last year citing personal reasons.

Source: http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/6658341/vietnam-arrests-ex-jetstar-pacific-boss/

oooOooo

    Jetstar staff 'have done nothing wrong'
AAP
January 9, 2010

Qantas CEO Alan Joyce
Qantas CEO Alan Joyce
Two senior Qantas employees prevented from leaving Vietnam after financial losses on fuel markets have done nothing wrong, Qantas chief executive Alan Joyce says.

Jetstar Pacific chief operating officer Daniela Marsilli and chief financial officer Tristan Freeman were refused permission to leave Vietnam on December 19 and are being investigated over losses linked to a practice known as fuel hedging.

They have not had their passports confiscated, are free to move around Vietnam and work in their normal offices, Mr Joyce told reporters.

But he confirmed Qantas, which part owns Jetstar Pacific, is now helping authorities in Vietnam with a financial investigation.

Jetstar recorded losses of $31 million through fuel hedging in 2008-2009.

Mr Joyce said airlines across the industry suffered combined losses worth hundreds of millions through the same practice.

The employees did not act outside the Qantas board's normal protocols and have done nothing wrong, Mr Joyce insisted.

"The losses that were incurred were a part of global business risk," Mr Joyce added.

"We are, obviously, concerned. We are concerned about the wellbeing of our people. That's the top priority for us. We are working very closely with the authorities," Mr Joyce said.

"We don't have an indication of how long this will take. We, obviously, want it resolved as fast as possible."

Ms Marsilli and Mr Freeman are being offered support by the Australian embassy staff, acting Prime Minister Julia Gillard says.

"We are providing assistance to these two Australians through our Embassy there," she told the Nine Network on Saturday.

"We are providing consular assistance, doing everything we can trying to get to the bottom of the reason for their detention and resolve the issue working with them. They are being fully supported out of our embassy."

According to international media reports, the former boss of Jetstar Pacific, Luong Hoai Nam, was arrested on Thursday as part of the investigation into the 2008-09 losses.

Vietnam's Tuoi Tre newspaper quoted a report by state investigators that the three Jetstar employees flouted a board of directors' resolution on buying aviation fuel futures, leading to losses of more than $US31 million ($A33.81 million).

In 2007, Australia's Qantas bought 18 per cent of Pacific Airlines and turned it into a low-cost airline operating as Jetstar Pacific. Qantas's stake has since increased to 27 per cent.

http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/6659681/jetstar-staff-have-done-nothing-wrong/

ooOoo
    No sign of return for Jetstar Pacific execs
ABC
January 9, 2010

There is still no indication as to when Vietnamese authorities will allow two Qantas employees to return home to Australia.

Tristan Freeman
Tristan Freeman
Police in Vietnam are investigating two executives from the airline Jetstar Pacific, which is jointly owned by Qantas and the Vietnamese government, over a $34 million company loss in 2008 and 2009 linked to the future pricing of petrol reserves.

Daniela Marsili and Tristan Freeman were stopped from leaving the country before Christmas, but are still free to work and travel within the country.

Mr Freeman is from Sydney and is Jetstar Pacific's chief financial officer. He is married with two daughters, aged two and four.
Ms Marsilli is from Adelaide and is the airline's chief operating officer. She is married and has a three-year-old daughter.

There have been no arrests and no charges laid on the pair.

Qantas CEO Alan Joyce says there is some confusion over what will happen to them.

"Both Tristan and Daniela were leaving to come back for Christmas with their families and they were told by the authorities that they would not be allowed to leave and would have to assist the authorities with their investigation," he said.

"It is unusual but we understand with the Vietnamese at the moment that they are doing an investigation."

Mr Joyce says they were engaging in legitimate business activity.

"There's no criminal or illegal irregularities in what the staff has been involved in ... they've done what every airline executive has done, what every ariline executive around the world did to cope with the high fuel price," he said.

"We are absolutely convinced that the people acted under the delegation of the board. They did the right thing."

He says fuel hedging, which led to heavy financial losses, was standard business practice.

Acting Prime Minister Julia Gillard says the Federal Government is doing all it can to help.

"We are providing assistance to these two Australians through our embassy there," she said.

"We are providing consular assistance, doing everything we can trying to get to the bottom of the reason for their detention and resolve the issue working with them. They are being fully supported out of our embassy."

The Vietnamese Government owns 73 per cent of Jetstar Pacific and Qantas has the remaining share.

http://au.news.yahoo.com/a/-/latest/6660140/no-sign-of-return-for-jetstar-pacific-execs/




Wednesday, January 6, 2010

Đón Khách Đầu Năm - Trần Khải



Trần Khải

Khách đầu năm tới nhà thường là khách quý. Tuy nhiên, trường hợp xảy ra tại Việt Nam cũng còn tùy.

Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Joseph Cao Quang Anh tới thăm VN tuần này tất nhiên là khách quý. Nhưng 36 tàu cá Trung Quốc ngang nhiên vào biển Việt Nam lưới cá trong tuần lễ đầu năm tất nhiên chẳng phải là khách quý. Và dự kiến nửa triệu Việt Kiều về VN ăn Tết mùa này hiển nhiên phải là khách quý, vì trong túi họ có mang theo Thần Tài Đô La Xanh, cũng sẽ bù phần nào cho tiền kiều hối đã bị suy giảm khoảng 20% trong năm 2009

Như thế, quê nhà Việt Nam mùa này hẳn nhiên là bận rộn. Không chỉ là lo tìm cách chào mời và đếm tiền Việt Kiều, mà còn phải “đẩy đuổi” tàu cá Trung Quốc ra khỏi biển VN. Cụm từ “đẩy đuổi” là lời của, theo báo nhà nước, đại tá Dương Đề Dũng, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Đà Nẵng, theo đó, thì “từ cuối tháng 12/2009 đến nay, BĐBP Đà Nẵng đã 3 lần cho tàu xuất kích đến hiện trường có tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép để đẩy đuổi ra khỏi vùng biển chủ quyền của Việt Nam.”

Khách tới nhà đầu năm, mà chủ lại mất công “đẩy đuổi,” thì quả là mệt. Trong khi đó, nhà báo Thanh Thảo từ Quảng Ngãi nói trên đài quốc tế Pháp RFI rằng có thể một số lính biên phòng Trung Quốc đang giả dạng làm ngư dân trên tàu TQ vào biển VN.

Nếu đúng có chuyện như thế, có phải là tàu cá TQ đang tìm cách vu vạ cho phía VN hay không? Nếu đặc công biển VN cũng giả dạng làm ngư dân Việt dong thuyền ra biển để kình lại, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chính phủ Nga chưa kịp giao 6 tàu ngầm cho hải quân VN, và ngay cả khi bàn giao xong, cũng cần có thời gian huấn luyện thủy thủ đoàn trên tàu ngầm. Lúc đó, tàu cá TQ đã vét sạch cá biển VN hay chưa?

Điều chú ý cũng là trường hợp Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Joseph Cao Quang Anh tới thăm VN tuần này. Báo VietnamNet viết:

“Tại buổi họp báo chiều nay (4/1), Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn cho biết về chuyến thăm Việt Nam của đoàn Nghị sĩ Hoa Kỳ trong đó có ông Cao Quang Ánh (Joseph Cao). Ông Sơn cho biết ông sẽ có tiếp ông Cao Quang Ánh vào ngày mai và "sẵn sàng trao đổi thắng thắn các vấn đề cùng quan tâm và còn có bất đồng....” (hết trích)

Điều để suy nghĩ: Ông Thứ Trưởng Ngoaị Giao không nói cụ thể là khi gặp Dân Biểu Cao Quang Anh vào Thứ Ba sẽ trao đổi thắng thắn” về vấn đề gì, và “còn có bất đồng” là vấn đề gì.

Trên trang web riêng của Dân Biểu Joseph Cao (http://josephcao.house.gov) hôm Thứ Hai 4-1-2010, người ta không thấy thông tin nào về chuyến thăm VN của DB Cao. Cũng không rõ chuyến thăm của pháí đoàn dân cử Mỹ lần này có bao nhiêu người.

Tuy nhiên, Dân Biểu Joseph Cao trươc giờ vẫn quan tâm nhiều nhất về tình hình nhân quyền và tựï do tôn giaó tại VN. Ông từng là tu sĩ Dòng Tên tại Hoa Kỳ, trứơc khi ra đời. Điêù có thể đoán dễ dàng: Dân Biểu Cao Quang Anh có thể sẽ tới thăm Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt nếu không phải với tư cách dân cử Mỹ, thì cũng có thể là tư cách giáo dân ... Hay là, Dân Biểu Anh có thể sẽ đi Thánh Lễ nhà thờ Hà Nội tuần tới.

Tuy nhiên, xin dè dặt. Nói nhỏ với Dân Biểu Cao Quang Anh, rằng Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết trong khi nói chuyện với các giám đốc doanh nghiệp Hoa Kỳ mấy năm trứơc đã từng nói rằng tại Việt Nam có rừng vàng biển bạc, dân tộc hiếu hòa và phụ nữ rất xinh.

Xin ghi nhớ lời ông Triết, chi tiết cuối vừa nói. Coi chừng, khi buổi sáng thức dậy sau một đêm uống rượu quá say, có thể sẽ thấy nằm bên cạnh mình là một cô chân dài tuyệt sắc của biệt đoàn Bông hồng đỏ, và bốn góc phòng là bốn máy quay phim gắn trên tường. Tuy nhiên, đi chung trong pháí đoàn Mỹ, tình hình mắc bẫy này sẽ khó xảy ra.

Một bản tin không vui cho Việt Nam hôm Thứ Hai còn là về tình hình kinh tế. Tất nhiên, cũng không nhức đầu bằng chuyện 36 tàu cá TQ vào biển VN. Nhưng sẽ dễ dàng làm cháy túi nhiều nhà đầu tư thiếu cẩn trọng. Bản tin nhan đề “Vietnamese confidence fades on bubble fears” (Niềm tin [kinh doanh] của người Việt tan dần, trong khi sợ bể bong bóng [kinh tế]) của phóng viên Tim Johnston từ Bangkok, đăng trên báo Financial Times hôm 4-1-2010.

Bản tin ghi lời ông Võ Trường Sơn, Phó Tổng Giám Đốc Hoàng Anh Gia Lai, một trong những công ty tư nhân lớn nhất VN, bày tỏ lo ngaị về nửa đầu năm 2010, “sẽ khó khăn vì lãi suất cao và chính sách tiền tệ xiết chặt, và vấn đề trở ngại ở chỗ quân bình thu chi.”

Bản tin ghi rằng, các thống kê phổ biến tuần qua cho thấy kinh tế VN tăng 5.32% trong năm ngoái (năm 2009), giảm từ mức trung bình tăng 7% trong thời gian 4 năm trứơc đó.

Nhưng ông Võ Trường Sơn không đơn độc, theo báo này, vì “nhiều nhà phân tích kinh tế cảnh cáo rằng hiểm hoạ lớn nhất đối với kinh tế VN là quá nóng”.

Terence Mahony, nhà đầu tư dài hạn tại VN, nói, “Tôi sợ là sẽ có một chút bể bong bóng lần nữa. Họ [chính phủ VN] đang có 2 lần thâm thủng âm tính, vừa thâm thủng ngân sách và vừa thâm thủng thương mại.”

Thâm thủng ngân sách, ý ông muốn nói là chính phủ xài ra nhiều, mà thu vào ít. Còn thâm thủng thương mại, là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.

Hiện nay, bản tin báo Financial Times nói, đồng bạc VN đã bị phá giá hơn 5%, trong khi lãi suất tăng khoảng 100 điểm, và các công ty quốc doanh bị buộc phải bán đô la dự trữ để giảỉ quyết thanh khoản ngoại tệ, và chương trình kích thích kinh tế của VN đã làm tốn gần 4 tỉ đô la, tức là 4% tổng sản lưoọng GDP cả nươc.

Khủng hoảng như thế đã làm khủng hoảng niềm tin nơi dân chúng và dân chúng bèn đổ xô tìm mua dự trữ đô la và vàng. Các công ty xuất khẩu phải trữ đô la. Nhiều nhà đầu tư ngành bán lẻ, trong đó nhiều người đã bị cháy túi 70% vì thị trường chứng khoán VN trước đó đã sụt giá, liền tìm mua dự trữ vàng. Thế cho nên, để kết thúc nạn đầu cơ vàng, chính phủ ra lệnh đóng cửa tất cả các sàn giao dịch vàng tại VN chậm lắm là cuối tháng 3-2010.

Mahony nói là các nhà lãnh đaọ cao cấp nhất cuả Việt Nam cần thay đổi cách suy nghĩ, vì hiện nay kinh tế VN vẫn còn bị kiểm soát tập trung nhiều quá, và “Họ [lãnh đạo CSVN] không hiểu dòng chảy tư bản cuả kinh tế: họ cứ ưa kiểm soát chặt chẽ hoài thôi.”

Bản tin chỉ nói về kinh tế, nói là nhà nước Hà nội ưa kiểm soát kinh tế. Nhưng người đọc dễ dàng nhìn thấy rằng, thực sự nhà nước kiểm soát nhiều thứ chặt chẽ hơn là kinh tế nhiều. Cụ thể: Dân Biểu Cao Quang Anh có thể hỏi người dân trong nước về giáo xứ Thái Hà hay về Tu Viện Bát Nhã là sẽ nghe nhiều hơn. Sao cứ xiết chặt hoài thôi.

Trần Khải