Saturday, November 21, 2009

HỘI NGHỊ NGƯỜI VIỆT NÀO, CỦA AI ? - Phạm Trần

Lệ Thu, Hương Lan, Phi Nhung và Jimmy Nguyễn Tham Gia Nhạc Hội Mừng Đoàn Kết

Phạm Trần

Chính quyền của Nhà nước Cộng sản Việt Nam rất om xòm về Hội nghị Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (NVNONN) lần thứ nhất được tổ chức ở Hà Nội trong 3 ngày 21, 22 và 23 tháng 11 (2009). Nhưng mấy chữ “Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” đại diện cho ai trong số trên 3 triệu con người mang dòng máu Việt đang sống bên ngòai Việt Nam?

Để trả lời cho thắc mắc này, mọi người hãy theo dõi lời giải trình của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Ngọai giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về NVNONN dành cho Báo chí trong nước ngày 18/11.

Nguyễn Thanh Sơn

Sơn nói: “Sau khi có Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài và chúng ta đã khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, là động lực quan trọng đối với đất nước, hội nghị này mang ý nghĩa rất đặc biệt.

Sau hơn 60 năm xây dựng đất nước, qua hai cuộc kháng chiến gian khổ ác liệt mà bà con kiều bào luôn kề vai sát cánh với nhân dân trong nước, chúng ta đã thống nhất được giang sơn về một mối nhưng chưa tổ chức được một hội nghị mang tính chất đại diện cho kiều bào toàn thế giới để có thể về với đất nước, với dân tộc trong nhịp sống chung, trong một ngày hội để nhân dân trong nước cũng như ngoài nước được cùng nhau nói lên tâm tư nguyện vọng mong muốn xây dựng một nước Việt Nam giàu đẹp.

Hội nghị lần này thể hiện tính chất đại đoàn kết dân tộc; thể hiện sự quan tâm hết sức to lớn, sâu sắc của Đảng và Chính phủ khi đã có một loạt chính sách đối với bà con ở bên ngoài.

Hội nghị còn thể hiện nguyện vọng của đông đảo kiều bào về một diễn đàn để cùng bàn làm sao cho dân giàu nước mạnh, xây dựng một cộng đồng đoàn kết.” (Thông tấn Xã Việt Nam, 18-11-2009)

Trước hết, không cần phải có Nghị quyết 36, ra đời ngày 26/3/2004 nhìn nhận, người Việt Nam, dù ở bất kỳ chân trời góc biển nào và có quốc tịch nào chăng nữa cũng vẫn là một phần tử của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Sự khẳng định của đảng CSVN chẳng qua chỉ nhằm cào lấy tất cả mọi người Việt sống ở nước ngòai để tự cho mình có trách nhiệm bảo vệ để mưu cầu sự lệ thuộc của người Việt sống bên ngòai Việt Nam và buộc họ phải có bổn phận đối với đất nước.

Thứ hai, khi Sơn nói rằng “qua hai cuộc kháng chiến gian khổ ác liệt mà bà con kiều bào luôn kề vai sát cánh với nhân dân trong nước” thì hiển nhiên những “kiều bào” này phải là những người đi theo hay ủng hộ chính sách chiến tranh và xâm lăng miền Nam Việt Nam đảng Cộng sản Việt Nam.

Lệ Thu

Do đó, thứ “hội nghị mang tính chất đại diện cho kiều bào ... để có thể về với đất nước, với dân tộc ... cùng nhau nói lên tâm tư nguyện vọng muốn xây dựng một nước Việt Nam giàu đẹp” cũng chỉ là của riêng lớp người đã chấp nhận chế độ Cộng sản nên mới muốn đất nước “giàu đẹp” theo như ý nhà nước lấy Chủ nghĩa phá sản Mác-Lênin làm nền tảng để xây dựng đất nước như nội dung của “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” đã viết năm 1991.

Thứ ba, Sơn cũng nói với Báo chí rằng “Hội nghị lần này thể hiện tính chất đại đoàn kết dân tộc ... thể hiện nguyện vọng của đông đảo kiều bào về một diễn đàn để cùng bàn làm sao cho dân giàu nước mạnh, xây dựng một cộng đồng đoàn kết” thì không nên hiểu đảng và nhà nước CSVN đã sẵn sàng muốn đòan kết với tất cả mọi người Việt Nam, nhất là đối với những người thuộc thành phần mà Sơn gọi là “một bộ phận không nhỏ ra đi bởi hận thù sau chiến tranh.”

Khi nói đến lý do bỏ đất nước ra đi từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 của người miền Nam, hay từ năm 1978 đối với những người Việt gốc Hoa ở miền Bắc bị đuổi về Tầu trước khi xẩy ra chiến tranh biên giới với Trung Hoa vào tháng 2 năm 1979 thì câu nói xuyên tạc và chụp mũ “ra đi bởi hận thù” của Sơn có phản ảnh chủ trương đại đòan kết dân tộc của Hội nghị NVNONN không ?

Những người bỏ nước ra đi từ miền Nam trước và sau ngày 30-4-1975 đã “hận thù” ai mà phải ra đi, hay họ đã phải chạy trốn sự tàn bạo và chính sách trả thù, kỳ thị của những kẻ may mắn chiến thắng trong chiến tranh?

Hãy nghe Sơn lý giải về tình trạng hãy còn một số đông người Việt Nam ở nước ngòai chưa muốn hợp tác với đảng CSVN: “Tất cả những ai yêu nước đều trở về đất nước, còn những người chưa về dự hội nghị này mà còn có ý kiến khác về hội nghị thì là người ta chưa hiểu hoặc cố tình không hiểu. Và những người cố tình không hiểu sẽ được các đại biểu về dự hội nghị lần này hướng dẫn, thông tin lại để bà con hiểu thêm.

Jimmy Nguyễn

Chúng ta có chân lý, nên sẽ chứng minh được cho những người cố tình chưa hiểu dần dần thấy được sự thật là chúng ta đang phát triển, vị thế của đất nước đang ngày càng phát triển trên trường quốc tế, và người ta sẽ thấy được tình cảm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng như nhân dân trong nước với bà con bên ngoài như thế nào.

Đó thực sự là tình cảm người thân dành cho người thân, ruột thịt dành cho ruột thịt, bà con là máu mủ của chúng ta, chúng ta luôn dành cho bà con những tình cảm từ tấm lòng, từ trái tim của mỗi người dân trong nước.

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng có một đặc thù là có một bộ phận không nhỏ ra đi bởi hận thù sau chiến tranh, hội nghị này là bằng chứng để cho những người chưa hiểu, còn tư tưởng hận thù thấy rõ chính sách đại đoàn kết dân tộc.

Chúng ta khép lại quá khứ để nhìn vào tương lai. Đất nước thống nhất nhưng bà con chưa đoàn kết là chưa trọn vẹn.”

Nghe Sơn nói có vẻ chân thật và thành khẩn dẻo mép đấy, nhưng đâu phải không trở về là không yêu nước? Yêu nước cũng có trăm bề, ngàn nẻo. Yêu nước không phải là phải yêu cái Xã hội Chủ nghĩa lỗi thời, lạc hậu và chậm tiến, phá sản của người Cộng sản Việt Nam.

Vô số người Việt Nam ở nước ngoài không muốn về giúp nước vì đảng CSVN chưa sẵn sàng “quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù”. Thêm vào đó lại chủ trương độc quyền cai trị, chà đạp nhân quyền và hạn chế tối đa tất cả các quyền tự do, dù đã được Hiến pháp cam kết.

Hơn nữa, đảng CSVN vẫn chưa biết tôn trọng quyền đối lập nên không ngại chụp mũ những ai chống chính sách cai trị độc tài của đảng Cộng sản là chống lại Tổ quốc, chống lại đồng bào. Người Cộng sản cũng đã công khai chống “đa nguyên chính trị , đa đảng đối lập”.

Do đó khi Sơn nói “Chúng ta khép lại quá khứ để nhìn vào tương lai” không có nghĩa là đảng CSVN muốn có “hòa giải” mà chỉ muốn “hòa hợp” theo những điều kiện của mình.

Hãy đọc thái độ thù nghịch trong một đọan của Nghị quyết 36: “Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất nước. Một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam.”

Có cần phải về Việt Nam mới biết đảng CSVN thiếu thành thật và đàn áp nhân dân ra sao không? Những bài học vi phạm quyền con người, hạn chế các quyền tự do, khống chế, bôi nhọ, chụp mũ những tiếng nói vì lương tâm đòi dân chủ, đòi tự do tín ngưỡng, hành đạo, đòi công bằng, cơm ăn, áo mặc và đòi được bình đẳng, học hành, chống quan liêu, tham nhũng, chống bóc lột, cướp đất, thất nghiệp, chống tội ác xã hội của người dân không cần phải nhìn thấy tận mắt, hay nghe tận tai mới có bằng chứng.

Chẳng hạn như thái độ “đem con bỏ chợ” trong dịch vụ xuất khẩu công nhân ra nước ngòai lao động để thu lợi, nhưng đến khi họ bị chủ nhân đàn áp, xúc phạm thân thể, nhục mạ nhân phẩm của phụ nữ thì Bộ Ngọai giao Việt Nam làm ngơ. Hay hàng trăm trường hợp của những Phụ nữ sa cơ phải lấy chống nước ngoài bị hắt hủi, bị buôn qua, bán lại mà Đại diện ngoại giao của Việt Nam ở các nước sở tại như Đài Loan, Nam Hàn, Tân Gia Ba hay tận Trung Đông đã ngoảnh mặt làm ngơ thì có cần phải đem phơi ra giữa Chợ Đồng Xuân cho mọi người thấy không?

Hương Lan

AI ĐƯỢC MỜI - AI HÁT?

Vì vậy, khi tổ chức Hội nghị NVNONN thì những nạn nhân này có quyền lên tiếng không, hay đảng CSVN chỉ đem về nước những người hội đủ các tiêu chuẩn có lợi cho đảng để nắm bắt và sử dụng được như:

- “Lãnh đạo và những người hoạt động trong các hội đòan hướng về đất nước: hội người Việt Nam, hội doanh nghiệp, hữu nghị, câu lạc bộ, các tổ chức từ thiện, nhân đạo NGO (Non-Government Organizations, Phi Chính phủ), giới, ngành nghề.

- Trí thức, chuyên gia, doanh nhân kiều bào làm ăn thành đạt, Thanh niên, sinh viên, tài năng trẻ.

- Cá nhân tiêu biểu hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa-nghệ thuật, thể dục thể thao, xã hội, tôn giáo.

-Những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông.

Những nhân vật mới nổi hoạt động trong chính quyền địa phương; những nhân vật cao cấp trong chế độ cũ có tinh thần dân tộc, muốn tham gia Hội nghị trong tinh thần xây dựng và hòa hợp dân tộc.”

Ngoài ra họ cũng sẽ mời dự số tiêu biểu những người Việt Nam đã hồi hương như trường hợp Giáo sự Âm nhạc Trần Văn Khê, hay có thể có cả Nhạc sỹ Phạm Duy là người đã được cấp giầy Hộ khẩu cư trú hợp pháp.

Hội nghị 3 ngày ở Hà Nội sẽ có khỏang 900 người Việt từ nước ngoài và lối 500 người trong nước đại diện cho Đảng, Chính phủ, các Bộ, Mặt trận Tổ quốc và địa phương được tham gia thảo luận 4 vấn đề:

1. Xây dựng cộng đồng NVNONN đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về đất nước;
2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng NVNONN;
3. Chuyên gia, trí thức kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước;
4. Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước.

Phi Nhung

Xen kẽ các ngày họp là phần Văn nghệ theo chủ đề “Việt Nam Quê Hương Tôi”, ngòai mục đích giúp vui còn có “mục đích quyên góp giúp đỡ cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thông qua “Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam” và “Quỹ Hỗ trợ, vận động cộng đồng” (Thông tấn xã Việt Nam, 17/11/2009).

Theo lời Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban NVNONN loan báo cùng tham gia chương trình có các ca sĩ kiều bào như Lệ Thu, Hương Lan, Phi Nhung và Jimmi Nguyễn. Phía trong nước sẽ có mặt Quang Thọ, Thanh Lam, Mỹ Linh, Trọng Tấn, Lan Anh, Mỹ Tâm, Hồ Quỳnh Hương, Tùng Dương, nhóm Cỏ Lạ, nhóm Mặt trời mới và Ban nhạc Sao Mai.

Chương trình ca nhạc này sẽ do nhạc sỹ Trương Ngọc Ninh dàn dựng cùng với Nhà soạn nhạc Nguyễn Thiện Đạo (Pháp), nhạc trưởng Lê Phi Phi (Macedonia), nghệ sĩ đàn Piano Tôn Nữ Nguyệt Minh về từ Đức.

Nhưng liệu Hội nghị om xòm này có đem lại kết qủa gì không thì chưa biết, nhưng rõ ràng là sẽ không đạt được mục tiêu tối hậu của nó là “đoàn kết dân tộc”. Bởi vì, nếu không là tất cả thì đa số trong 900 người Việt từ nước ngòai về phải đồng ý với mục tiêu của đảng CSVN nên đương nhiên họ không còn đứng chung hàng ngũ với số người còn lại của ngót 3 triệu người Việt đối lập với Hội nghị này.

Đó là nghịch cảnh của vở kịch “Vì một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước” của đảng Cộng sản Việt Nam.

Phạm Trần
(11/09)

Đảng việt gian csVN Khiếp Nhược, Nhục và Hèn - Nguyễn Phúc Bảo Ân

Nguyễn Phúc Bảo Ân

Vào thượng tuần tháng 11 vừa qua, Cộng Hòa Liên Bang Đức cùng các quốc gia Đông Âu thuộc phe Xã Hội Chủ Nghĩa trước đây và nhiều nước thuộc thế giới tự do khác đã tưng bừng kỷ niệm tròn 20 năm ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, tạo ra hiệu ứng DOMINO đã kéo theo sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống XHCN, giải phóng hoàn toàn nhân dân các nước Cộng Hòa thuộc Liên Bang Xô Viết Cũ và nhân dân cả khối Đông Âu khỏi ách cộng sản do Lê Nin, Stalin và các lãnh tụ của quốc tế cộng sản áp đặt lên trên các dân tộc bị trị này kể từ sau cuộc cách mạng tháng 10 -1917, và nền độc tài cộng sản trị được áp đặt lên thêm nhiều hơn các dân tộc Đông Âu kể từ sau Thế Chiến Thứ hai kết thúc năm 1945.

Trong lịch sử của nhân loại, chưa bao giờ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô cũ cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao đến vậy: Sau hơn ba thế hệ con người sống trong sự kìm kẹp vô hình của đế quốc ma quái – evil empire – của Liên Xô. Sau gần 3 phần 4 thế kỷ đối với nhân dân các nước Cộng Hòa thuộc Liên Bang Xô Viết và sau non nữa thế kỷ đối với các quốc gia khác thuộc Đông Âu con người ta sống trong một bầu không khí ngột ngạt, đè nén bởi nền chuyên chế được áp đặt lên trên mọi sinh hoạt của đời sống họ, kể cả trên tư tưởng của họ. Rồi người Đức trên khắp lãnh thổ phía Đông bổng vở òa trong niềm hạnh phúc bất tận khi lúng túng trả lời câu hỏi của một số phóng viên quốc tế về hiệu lực của quyết định liên quan đến quyền tự do đi lại của người dân Đông Đức, ông Gunter Schabowski đã buột miệng nói rằng quyết định này “có hiệu lực ngay lập tức” và tất nhiên hòa quyện với những nổi vui mừng, và niềm hạnh phúc bất tận của toàn dân Đông Đức là một bầu không khí hân hoan đón nhận nền tự do, dân chủ cũng bao trùm cả nước Đức và lan tỏa dần đến các nước láng giềng.

Đối với nhân loại trên toàn cầu, sự sụp đổ của chế độ cộng sản là một hệ quả tất yếu của học thuyết Engel, Karl Mark và Lenin về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, bởi toàn bộ nền tảng của các học thuyết này được xây dựng hoàn toàn bằng những sự bao biện khiên cưỡng và trái ngược với quy luật phát triển tự nhiên của xã hội và của con người: Hai bản năng gốc của con người là sở hữu và tiêu diệt, nhưng Engel, Karl Mark và Lê Nin đã phủ nhận thực tế này bằng những lý luận khập khiểng về việc xóa bỏ chế độ tư hữu nhằm xây dựng một chế độ xã hội loài người hoàn hảo giống như xã hội loài ong, loài kiến, thật hết sức hoang đường!

Khác với người dân Đông Đức và các dân tộc Đông Âu, sự kiện sụp đổ của bức tường bá Linh kéo theo sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết và các nước cộng sản ở Đông Âu được người Việt nam trong nước đón nhận với ít nhất là hai chiều suy nghĩ khác nhau: Đối với người dân, từ trong Nam, ngoài Bắc, mọi người đều trông chờ một điều kỳ diệu tương tự sớm xãy ra với nước Việt nam và buồn thay đã không có một điều kỳ diệu nào xảy ra tương tự cho người Việt nam cả, bởi “FREEDOM IS NOT FREE”: Vâng, “TỰ DO KHÔNG PHẢI TỰ NHIÊN MÀ CÓ”. Đối với tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt nam, lúc bấy giờ họ căng thẳng, họ lo sợ cho sự sụp đổ của thiên đường XHCN như một quy luật tất yếu đã diễn ra vào thời điểm đó tại Đông Âu, hình ảnh của người đồng chí Erich Honecker, lãnh tụ vĩ đại của Đông Đức một thời “oanh liệt” lúc bấy giờ phải trốn sang Liên Xô xin tỵ nạn tự do và công lý đã khiến cả bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt nam vô cùng khiếp sợ, hình ảnh đồng chí Nicolae Ceausescu, lãnh tụ vĩ đại một thời của nhân dân Romania anh hùng bị đưa ra trước tòa án công lý và bị kết án tử hình, bởi những tội ác vô cùng dã man tàn bạo đối với dân tộc Romania trong suốt những năm cầm quyền càng khiến cho các lãnh tụ của cộng sản Việt nam khiếp sợ.

Để kịp thời ngăn chặn sự sụp đổ của chế độ cộng sản Việt nam, nhằm tiếp tục duy trì quyền thống trị đất nước, để tiếp tục khai thác triệt để những đặc quyền đặc lợi của những nhà chuyên chế đại tư sản, bên cạnh việc tăng cường các biện pháp an ninh để chống “diễn biến hòa bình” (Bởi chủ trương của cộng sản là diễn biến chiến tranh thôi) bằng những cuộc bắt bớ, giam cầm, quản thúc và ngay cả thủ tiêu những nhân vật có tư tưởng cấp tiến như Trần Độ, Trần Xuân Bách, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ … đảng và nhà nước cộng sản Việt nam còn liên tục tổ chức các khóa học tập chính trị để “quán triệt nghị quyết, chủ trương đường lối của đảng, xác định lập trường kiên định theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đưa đất nước Việt nam tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mà Bác Hồ đã lựa chọn.”

Dẫu có một thời lầm lạc trong cái thiên đường mù XHCN đó, nhưng sau thời điểm 09 tháng 11 năm 1989 đa phần người Việt trong nước, đặc biệt là giới trí thức, và ngay cả những lãnh tụ của cộng sản Việt nam cũng đã nhận thức được rằng không thể có một xã hội XHCN hay CSCN theo học thuyết của Karl Mark và Lenin, nơi mà con người ta “làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu”, ngay cả những người nông dân chân lấm tay bùn cũng không thể tin rằng có một xã hội XHCN, nơi mà con người không cần bất cứ một sự hưởng thụ nào, ngoài niềm vui lớn lao nhất của họ là được lao động, được làm nô lệ, như đàn ong thợ, kiến thợ, để cho riêng tập đoàn ong kiến đực và ong kiến chúa hưởng thụ, bởi con ong cái kiến chỉ sống chủ yếu bằng bản năng, trong khi con người chúng ta lại sống thiên về lý trí. Kiên định theo con đường XHCN là các lãnh tụ của đảng cộng sản muốn biến con người Việt chúng ta thành loài ong, loài kiến, nghĩa là không được sống bằng lý trí mà phải thay vào đó bằng bản năng!

Sau thời điểm 09 thánh 11 năm 1989, từ thằng dân ngu cu đen cho đến các lãnh tụ của cộng sản Việt nam đều biết rằng con đường đi lên CNXH và chủ nghĩa cộng sản thực chất chỉ là con đường phát triển từ chủ nghĩa TƯ BẢN lên chủ nghĩa TƯ BẢN, nghĩa là một đường tròn khép kín mà đường kính quá lớn nên khi đang đi trên đó, người ta cứ ngỡ là đang đi trên một đường thẳng, và nhiên liệu cho cổ máy chế độ được vận hành trên đường tròn khép kín với đường kính quá lớn đó không phải là xăng dầu mà chính là mồ hôi, nước mắt, là máu xương, là sinh mạng của đồng bào, của hàng triệu người dân ngu cu đen thấp cổ bé họng.

Giai cấp lãnh đạo của CSVN cố bám víu cái lấy cái học thuyết Mác-Lê bởi đó là cái phao cứu sinh cho ngai quyền lực của họ, bởi cũng phát xuất từ học thuyết này là chuyên chính vô sản, là sử dụng bạo lực cách mạng để tiêu diệt các thế lực phản cách mạng. Các nhà lãnh đạo CSVN vì muốn đặt quyền lợi của cá nhân, của giai cấp lên trên quyền lợi của dân tộc mà kiên định “xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” nghĩa là họ quyết tâm đưa đất nước Việt nam tiếp tục đi trên một con đường được xây dựng bằng mồ hôi nước mắt và máu xương của đồng bào, một con đường vòng từ chủ nghĩa TƯ BẢN lên chủ nghĩa TƯ BẢN, bở vì họ khiếp nhược khi nhìn thấy Erich Honecker phải đi tỵ nạn công lý và cũng vì họ không muốn trở thành một Nicolae Ceausescu của Việt nam.

Đối với người dân Việt nam, chắc chắn ai cũng muốn được hít thở bầu không khí tự do, được quyền biểu lộ tình cảm của mình trước cái yêu, cái ghét, mà nhân loại gọi là BIỂU TÌNH, chắc chắm ai cũng khát khao được tự do bày tỏ chính kiến của mình, hay tự do lựa chọn người đại diện cho mình để điều hành đất nước, nhưng than ôi! Cũng vì quá khiếp nhược trước bạo quyền mà cả 80 triệu người dân Việt, dù khát khao khát vọng tự do và dân chủ đến mấy cũng đành ngồi đó chờ điều kỳ diệu xãy đến như thể chờ sung rụng.

Hỡi vị nào đó trong số 15 vị trong bộ chính trị, hãy vì quyền sống, quyền làm người của hơn 86 triệu người dân Việt, hãy vì sự hưng vong của nòi giống, hãy đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của cá nhân và giai cấp, mà làm một Mikhaïl Gorbachev, một Boris Yeltsin của Việt nam, hãy giải tán đảng cộng sản Việt nam, hãy giải tán chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hãy giải tán ngành công an và an ninh-cái dùi cui của cộng sản Việt nam … rồi những trang sử vàng của Viêt tộc sẽ lưu danh quý vị muôn đời. Dân Việt vốn tính hiếu sinh, sẽ không hành hình quý vị như người Romania đã hành hình nhà độc tài Nicolae Ceausescu. Người Việt Quốc gia vốn tính hiếu hòa, sẽ không xây dựng bất cứ trại tập trung cải tạo nào để đọa đày quý vị hay thuộc cấp của quý vị như quý vị đã giam cầm, đày đọa họ sau ngày quý vị đã cưỡng chiếm được miền Nam đâu .

Hỡi 80 triệu đồng bào Việt nam yêu quý, hỡi các sỹ phu đất Việt hãy vì tiền đồ của dân tộc, hãy mau mau đứng lên đáp lời sông núi, hãy là những Ronald Reagan của Việt nam, hãy đến trước quãng trường Ba Đình, mắt dõi về tòa nhà quốc hội của cộng sản Việt nam mà kêu gọi: “Hỡi ông tổng bí thư Nông Đức Mạnh, hỡi ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, hỡi ông Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết! Nếu các ông tìm kiếm sự thịnh vượng cho đất nước Việt nam, nếu các ông đang tìm kiếm tự do cho dân tộc Việt nam, xin hãy đến tại quảng trường này, Các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, hãy phá nát lăng của Hồ Chí Minh, thành trì cuối cùng của cộng sản Việt nam đi, hãy phá tan những bức tường lửa ngăn không cho người dân Việt được tiếp cận với các nguồn thông tin đa chiều, hãy chặt gãy hết gông cùm đang xiềng trói cả dân tộc Việt nam không cho họ được hưởng bất cứ một quyền tự do căn bản nào mà Thượng Đế đã ban cho họ”.

Chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn phá sản! Chế độ cộng sản đã sụp đổ ngay trên cái nôi sản sinh ra nó đã 20 năm rồi! Cũng đã một thế hệ người dân ở Đông Âu không còn sống dưới ách cai trị của cộng sản nữa, bởi thượng đế đã thương ban cho họ một Đức Giáo Hoàng Jean-Paul II, một Mikhaïl Gorbachev, một Boris Yeltsin và Thương Đế cũng đã sinh ra họ là những dân tộc không chấp nhận sống nhục sống hèn.

Đâu rồi một Việt nam quê hương ngạo nghễ? Đâu rồi triệu trái tim của triệu khối kiêu hùng, đâu rồi những cháu con của Bà Trưng, Bà Triệu? Đâu rồi những hậu duệ của Hưng Đạo, của Lê Lợi, Quang Trung? Sao cứ mãi khiếp nhược để chịu kiếp sống nhục sống hèn? Hay mọi người đang còn say ngủ?

Một lần nữa xin hãy lắng nghe lời hiệu triệu của cụ Đông Hồ Phan Chu Trinh
    “Hởi Quốc Dân! Dậy! Dậy Dậy!”
Hãy đứng dậy lật đổ bạo quyền việt gan csVN buôn dân bán nước.

Huế, những ngày Tiểu Tuyết năm Kỷ Sửu – 2009
Nguyễn Phúc Bảo Ân

Friday, November 20, 2009

Cần bao nhiêu đạn để giết một bệnh nhân tâm thần - Phạm hữu Sơn

Phạm hữu Sơn

Daniel Phạm

Kính thưa quý đồng hương,

Vụ nạn nhân tâm thần Daniel Phạm bị cảnh sát San Jose bắn chết ở vườn sau nhà đến nay đã hơn 6 tháng và tòa án đã xử hai cảnh sát viên”giết người” được trắng án.Gia đình của nạn nhân đến nay cũng vẫn chưa rõ nguyên nhân nào dẫn tới cái chết tức tưởi của người con tâm thần này Một nỗi oan ức tưởng rằng chẳng bao giờ có thể xảy ra ngay tại xứ sở văn minh này.Thế mà nó đã xảy ra và đồng hương đều dửng dưng như chuyện xe cán chó ngoài phố vậy.Truyền thông Việt Nam chẳng them để ý đến Đáng buồn thay tinh thần “ CHÁY NHÀ HÀNG XÓM, BÌNH CHÂN NHƯ VẠI “ của Ban Đại Diện cộng đồng người Việt ty nạn tại thành phố San Jose này.

Ngày Thứ Ba vừa qua,trong buổi họp của Hội Đồng Thành Phố về một vấn đề gì đó, người đại diện Ban Đại Diện Cộng Đồng đăng đàn cảm ơn Hội Đồng Thành phố đã cho phổ biến cuốn băng 911 của vụ Daniel Phạm, một cách rất nhẹ nhàng,thanh thản như chẳng có gì quan trọng và có vẻ như BĐD đã hoàn tất nhiệm vụ một cách đáng thán phục, dưới con mắt của Thị Truởng C.R. Nhưng trong số 4 hay 5 người Việt Nam hiện diện trong phiên họp, có một người đã lên diễn đàn đặt câu hỏi, yêu cầu Hội Đồng Thành Phố hãy lấy công tâm trả lời: Tại sao giết một người bệnh tâm thần mà phải bắn tới 14 phát đạn ghim trên người nạn nhân? Đấy là số đạn đếm được trên thân xác nạn nhân! Trên thực tế cảnh sát đã bắn bao nhiêu phát súng, có ai biết được không ? Phải chăng hai cảmh sát viên này đã bắn vì HẬN THÙ hay vì KỲ THỊ CHỦNG TỘC ?

Tuy rằng câu hỏi không được trả lời nhưng những người mang danh đại diện phải suy nghĩ !!! Phải chăng cảnh sát bắn để dằn mặt cộng đồng người thiểu số Việt Nam ? Vì cộng đồng này nhu nhược không dám có ý kiến ? Vì cộng đồng này không dám biểu tình quậy phá như các sắc dân khác ?Vì cộng đồng này đã có những liên hệ mật thiết với Thi Trưởng để làm những công việc vĩ đại hơn như khu phố Little Saigon. Như cổng Little Saigon mang tính cách vĩnh viễn hay đưa một con gà nào đó ra ứng cử vào khu vực 7 trong năm 2010 … đã phải ngoan ngoãn cúi đầu một cách khó hiểu trong vụ Daniel Pham này ? Cảnh sát muốn bắn ai lúc nào thì bắn ! Cảnh sát muốn đánh đập ai thì đánh. Cộng đồng không dám có phản ứng ! Sợ chống đối chính quyền ! Tại sao Cộng đồng có trụ sở mà không mời cảnh sát trưởng tới họp với cộng đồng mà cộng đồng lại phải tới sở cảnh sát ? Thật vô lý. Sợ trong nhà không đủ chỗ, thì họp ngoài sân.

Cộng đồng chúng ta đã biểu tình cả gần 10.000 người để phản đối cả Hội Đồng Thành Phố có hành động phản dân chủ khi chọn tên một khu phố thương mại trên đường Story. Thì tại sao lại không dám biểu tình phản đối một Ông Cảnh sát trưởng có những hành vi không trong sáng trong vụ việc Daniel Phạm và Nguyễn Dương này. Nên nhớ rằng Ông cảnh sát trưởng tiền nhiệm cũng vì vụ Trần thị bích Câu mà phải chuyển đi một địa phương khác đấy ! Phản đối hành vi tàn bạo của Cảnh sát có phải là chống chính quyền hay không ? Không. Một trăm ngàn lần không. Chúng ta đóng thuế để lấy tiền thuê cảnh sát giữ gìn an ninh cho chúng ta hay thuê cảnh sát để giết hại chúng ta ? Đòi công lý là quyền lợi của chúng ta ,chúng ta phải đòi hỏi và buộc họ phải chịu trách nhiệm về những hành vi sai trái của thuộc cấp. Các tổ chức đấu tranh cho nhân quyền thuộc các sắc dân khác đang hỗ trợ chúng ta để thực hiện cuộc đấu tranh đòi công lý thì tại sao chúng ta lại rút lui một cách ngang xương, rất khó hiểu này ? Chúng ta đã mắc phải một tội rất lớn là THẤT HỨA. Các cộng đồng khác họ rất nể trọng cộng đồng Việt Nam, nhưng vì việc THẤT HỨA này họ đã coi thường cộng đồng chúng ta rồi đấy. Chỉ vì một câu nói của cộng sản mà cộng đồng đánh nhau chí chết. Chỉ vì đấu tranh cho một du học sinh Việt Nam mà sợ bị Việt cộng lợi dụng tuyên truyền cho họ thì thật là ấu trĩ. Vu cáo cho người này người kia là làm lợi cho cộng sản mà không có bằng chứng rõ rệt là người mù quáng, là kẻ phá hoại sự đoàn kết của cộng đồng. Những kẻ này phải loại khỏi sinh hoạt của cộng đồng.

Đối với Cộng Đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản bắc California thì vụ án Daniel Phạm coi như xong vì họ không chủ trương biểu tình đòi công lý và phó mặc cho luật sư của gia đình. Việc làm đó đúng không ai chê trách. Nhưng điều đáng trách ở đây là với tính cách đại diện cho một cộng đồng hợp tác với các tổ chức của sắc dân khác đã tỏ ra không có tinh thần trách nhiệm, không trọng chữ tín, không có tinh thần hợp tác. Tranh đấu đòi công lý cho Daniel Phạm và Nguyễn Dương là bổn phận và trách nhiệm của Cộng Đồng Việt Nam ấy thế mà người đại diện của Cộng Đồng đã tìm mọi lý do trì hoãn cuối cùng rút tên ra khỏi cuộc tranh đấu ? Tại sao ? Ban Đại Diện sẽ trả lời cho đồng hương rõ. Nếu viện lý do vì có sự nhập nhằng dính dáng tới HỒ PHƯƠNG thì tại sao không đặt vấn đề loại bỏ HỒ PHƯƠNG ra, chỉ đơn thuần đấu tranh cho DANIEL PHAM VÀ NGUYỄN DƯƠNG thôi. Đấu tranh cho sắc dân Việt Nam thì các tổ chức khác họ sẽ theo ý kiến của người đại diện cộng đồng. Chứ họ không áp đặt. Họ biết chơi trò dân chủ hơn mình nhiều. Tại sao không hợp tác với người ta mà lại rút lui ? Tôi không hiểu nổi. Theo chỗ chúng tôi biết và quả quyết rằng ngày Thứ Ba 24 tháng 11 năm 2009 này, chẳng ai thèm nhắc đến cái tên Hồ Phương đâu.

Mặc dù Ban Đại Diện Cộng Đồng đã không cộng tác với các tổ chức đấu tranh cho nhân quyền tại địa phương như: ASIAN LAW, SILICON VALLEY DE-BUG, ASIAN AMERICAN FOR COMMUNITY INVOLMENT, ASIAN AMERICAN CENTER OF SANTA CLARA COUNTY … nhưng những tổ chức này vẫn tiến hành cuộc biểu tình đòi công bằng dân chủ và nhân quyền vào lúc 10 giờ sáng ngày Thứ Ba 24 tháng 11 năm 2009 trước CITY HALL ở trên đường Santa Clara. Chúng ta phải tiếp tay với họ, nhưng không với danh nghĩa cộng đồng mà với tính cách cá nhân, với tính cách là người Việt Nam. Đừng để các sắc dân khác đấu tranh cho người Việt mà người Việt lại dửng dưng đứng ngoài. Như thế coi sao được. Như vậy thì mình chơi với ai? Thật mắc cỡ hết chỗ nói. Đừng sợ dẫm chân, vì BĐD/CĐ đã không làm thì mình phải làm.

Mình làm để bảo vệ cho chính mình và gia đình mình đồng thời tỏ tình đoàn kết với các sắc dân khác. Tôi tha thiết kêu gọi mọi người Việt Nam ở bắc California hãy cố gắng bớt chút thời gian tham gia cuộc biểu tình do các tổ chức đấu tranh cho nhân quyền tại địa phương tổ chức để đấu tranh cho NẠN NHÂN DANIEL PHẠM VÀ NGUYỄN DƯƠNG. Chúng ta có mặt thật đông để chia xẻ nỗi đau khổ của hai gia đình Việt Nam đang rất cô đơn trong việc đòi công lý cho một cái chết tức tưởi và một cánh tay bị thương tật. Tôi rất trân trọng tấm lòng quảng đại của mọi bà con. Người Việt Nam chúng ta luôn tôn trọng LẼ PHẢI và luôn BÊNH VỰC NGƯỜI CÔ THẾ. Chúng ta hãy tỏ cho các sắc dân bạn biết rằng người Việt trong mọi tình huống đều thương yêu nhau.

Người người rủ bạn bè, thân thuộc tham gia cuộc biểu tình ngày THỨ BA 24 THÁNG 11 NĂM 2009 TẠI CITY HALL LÚC 10 GIỜ SÁNG thật đông để đòi công lý cho một cái chết tức tưởi của DANIEL PHẠM và một cuộc bạo hành gây thương tích cho NGUYỄN DƯƠNG một chủ gia đình có hai con nhỏ tại thành phố SAN JOSE này. Những kẻ hung bạo phải bị trừng trị theo pháp luật. CÔNG LÝ phải CÔNG MINH.

Ước mong quý vị hưởng ứng lời kêu gọi này.Chân thành cảm ơn quý vị.

Phạm hữu Sơn
Cựu Chủ Tịch Cộng Đồng Việt Nam Bắc California

Click here: Transcript of 911 calls in Daniel Pham case
http://www.docstoc.com/docs/16145787/Transcript-of-911-calls-in-Daniel-Pham-case
***************
    Daniel Pham Shot By San Jose Police While Threatening Them With Knife, 911 Tapes Released
Published by Staff Writer on November 13, 2009
Source: http://fugitive.com/archives/14768

San Jose police this afternoon released recordings and transcripts of 911 and police dispatch tapes in the shooting death of a mentally ill man who had attacked his brother with a knife.The tapes, along with police reports also made public this afternoon, show responding officers followed protocol and had no choice but to shoot and kill Daniel Pham, 27, in the backyard of his home on Branbury Way on Mother’s Day, police Lt. Rikki Goede said.The two officers, who fired a total of 14 rounds at Pham after he allegedly moved towards them while holding a knife, “acted appropriately” by using deadly force, Goede said.Twelve of the bullets hit Pham, who was pronounced dead at the scene. A grand jury last week declined to file charges against the officers, who are now back on active duty, Goede said. Pham’s family has maintained police should have known Daniel was mentally ill, as police had previously responded to their home to calm Daniel down.But the police reports, released today pursuant to a decision last week by the San Jose Rules and Open Government Committee, suggest officers may not have known about Pham’s mental condition when they shot and killed him the morning of May 10.According to the reports, police received two 911 calls at 11:33 a.m. One caller told the dispatcher his neighbor was “cut up” and that the neighbor’s brother was the attacker. The victim told the caller that the attacker was “high right now.”The second caller, a woman, identified the attacker as “Son Pham,” her boyfriend’s brother.At 11:37 a.m., a dispatcher related this information to responding officers. “The suspect in this is a Son Pham,” the dispatcher said, according to the transcript. The dispatcher also noted a prior “5150″ call, for mental illness, at the same address.The mental-illness call “(is) associated to a Daniel Pham – not sure if that’s our (reporting party),” the dispatcher said.Officers Brian Jeffrey and Matthew Blackerby arrived at 11:40 a.m. and saw Pham’s brother, Brian, 29, in the front lawn, bleeding from a cut across his neck. The officers spotted Daniel Pham in the home’s fenced-in yard, holding a knife and smoking a cigarette.Jeffrey pointed his gun at Pham and ordered him to drop the knife, according to police reports. Pham “glared”at Jeffrey and continued to smoke his cigarette, the reports say.Blackerby then followed the fence,topped with razor wire, around a corner and shot Pham with his Taser. One of the Taser prongs lodged in Pham’s leg, while the second prong missed him, Goede said.Pham pulled out the Taser prong and appeared to advance toward Blackerby with the knife, Goede said.Jeffrey, not knowing Blackerby was standing outside the fence, thought his partner was in danger and jumped over the fence to help, Goede said. Jeffrey again pointed his gun at Pham and demanded he drop the knife, she said. Blackerby also jumped over the fence to assist, Goede said, and Pham advanced toward both of them with the knife.”The suspect, he has the knife overhead, in a slashing motion,” Goede told reporters during a press conference at police headquarters.When Pham ignored repeated verbal orders to drop the knife, both officers opened fire, Goede said.Even after Pham was shot and lying on the ground, he continued to grasp the knife, Goede said. One officer can be heard on the dispatch tape, after the shots were fired, yelling, “Drop the knife, now!”Paramedics arrived at the scene, and Pham was pronounced dead at 11:51 a.m.”This was a very dynamic, fast-moving, ever-changing situation,” Goede said, noting the officers had to take action quickly. The shooting happened one minute, 44 seconds after the officers arrived, she said.Goede also noted the victim, Brian Pham, initially told police his brother was high on drugs and did not mention any mental illness.An autopsy revealed Pham had only nicotine in his system, and no other drugs.”The brother said in later interviews (with police), he did not want to mention (Daniel) was mentally ill,” thinking there would be a better outcome that way, Goede said. The department’s synopsis of the Pham shooting, also released this afternoon, emphasizes the officers “were not aware that Daniel Pham and Son Pham (were) the same individual.” Son is Daniel Pham’s Vietnamese name.In response to a reporter’s question about a possible language barrier, Goede said she did not know if Daniel Pham spoke or understood English. All of the officers’ orders were in English.A lawyer for the Pham family could not be reached for comment.The police records and 911 tapes can be accessed online at Click here to listen to 911 Call

Copyright © 2009 by Bay City News, Inc. Republication, Rebroadcast or any other Reuse without the express written consent of Bay City News, Inc. is prohibited.

Viết Về Người Anh Em Linh Mục - Lm Nguyễn Hữu Lễ

Lm Nguyễn Hữu Lễ

Tin Linh mục Nguyễn Văn Lý bị tai biến mạch máu não, bị liệt nửa người và được đưa từ trại tù Nam Hà về bệnh viện ở Hà Nội điều trị đã làm nhiều người quan tâm và bày tỏ lòng thương mến. Trong nước, số đông thân nhân và giáo dân tới bệnh viện thăm. Ờ hải ngoại tin cha Lý bị “stroke” được truyền đi nhanh chóng trên các cơ quan truyền thông Việt ngữ với lời cầu nguyện cho Cha được bình phục, tai qua nạn khỏi. Một vài tờ báo ngoại quốc cũng đăng tin này và nhân dịp này có sáu Dân biểu Mỹ, trong đó có Dân biểu gốc Việt, Cao Quang Ánh, lên tiếng kêu gọi cộng sản Việt Nam trả tự do cho Linh mục Nguyễn Văn Lý.

Một lần nữa, tên tuổi Linh mục Nguyễn Văn Lý lại trở thành đề tài thời sự, sau sự kiện “phiên tòa bịt miệng” ngày 30 tháng 3 năm 2007, và chắc chắn là đề tài này sẽ còn được nhiều người nhắc tới. Cụ thể là có thông báo trên các diễn đàn điện tử về cuộc Paltalk vào ngày Chúa Nhật 21 tháng 11 trên diễn đàn của Khối 8406 nói về Linh mục Nguyễn Văn Lý mà diễn giả là Linh mục Phan Văn Lợi ở Huế và nhà văn Trần PhongVũ ở Hoa Kỳ, cuộc hội luận này sẽ do Mục sư Huỳnh Quốc Bình điều khiển chương trình.

Về phần tôi, dĩ nhiên tôi rất đau xót và cảm thương khi biết tin cha Lý bị cơn bệnh hiểm nghèo, và tôi cầu nguyện cách riêng cho cha Lý được ơn chữa lành để vượt qua cơn bệnh. Tôi thương cha Lý vì là Ngài là một anh em linh mục của tôi. Tôi thương cha Lý vì Ngài là người bạn tù nhiều năm với tôi trong trại Thanh Cẩm và Nam Hà . Tôi thương cha Lý vì Ngài cùng chung lý tưởng với tôi trong việc tranh đấu cho Dân tộc và Tôn giáo. Ngoài ra tôi còn kính phục ý chí kiên cường bất khuất của Ngài trong vai trò của một linh mục đã hiên ngang đứng thẳng người, cất cao đầu để làm chứng nhân cho SỰ THẬTgiữa lòng một chế độ chủ trương gian dối, cổ võ cho sự lưu manh và lừa đảo.

Để làm trọn vai trò chứng nhân cho SỰ THẬT, cha Lý vui lòng chấp nhận cuộc sống lao tù dưới chế độ cộng sản. (Tôi viết thêm mấy dòng này cho những ai may mắn chưa bị rơi vào nhà cộng sản: xin đừng quá “đơn sơ” đem so sánh nhà tù Mỹ, Úc, Canada … với nhà tù cộng sản.) Dù vậy trong loại nhà tù mang tính chất trả thù và tiêu diệt của Việt cộng đó, tôi nghĩ là thân xác cha Lý không cảm thấy đau khổ bằng tinh thần, với tâm trạng cô đơn, bị hiểu lầm và bị bỏ rơi, ngay cả bởi những anh em linh mục và một số chức sắc cao cấp của Giáo Hội Việt Nam. Tôi rất đau lòng khi nghe một số người, kể cả giáo sĩ, để biện minh cho thái độ “khôn ngoan và biết sống hợp thời” của họ đã không tiếc lời chỉ trích và kết án cha Lý. Những lời kết án này, so với lời buộc tội của loại tòa án rừng rú, như kiểu phiên tòa “bịt miệng” của Việt cộng, còn nặng nề hơn gấp bội. Về điểm này, tôi cảm thấy thương và xót xa cho cha Lý nhiều hơn.

Là một người Việt Nam, tôi tạ ơn hồn thiêng sông núi đã sản sinh ra một người con Việt Nam Nguyễn Văn Lý, người đã quên cuộc đời mình, nêu tấm gương anh dũng thách thức bạo quyền để nói SỰ THẬT về số phận dân tộc Việt Nam đang phải chịu đựng dưới chế độ vô nhân và quỷ quyệt nhất trong lịch sử dân tộc. Là một linh mục, tôi cảm thấy hãnh diện vì trong giai đoạn lịch sử khi mà Giáo hội phải sống dưới chế độ vô thần cộng sản, một chế độ quyết tâm tiêu diệt các tôn giáo, dưới hình thức này hoặc quỷ kế khác, có được một Linh mục Nguyễn Văn Lý hiên ngang nói lên SỰ THẬT về tình trạng của Giáo hội Công giáo và các tôn giáo nói chung, một điều mà ai cũng biết nhưng vì quá “khôn ngoan” nên đành im tiếng.

Ngày nay, nếu nhìn vào Giáo Hội tại quê nhà, chắc hẳn những người công giáo sẽ vui mừng hớn hở trước cảnh tượng trăm hoa đua nở. Các buổi lễ, các cuộc rước kiệu, các dịp hành hương, các Đại Hội thật rầm rộ. Các cơ sở tôn giáo, các cơ quan từ thiện, các dòng tu đã được chỉnh trang. Nhờ vào công khó của các linh mục và sự yểm trợ tài chánh của đồng bào hải ngoại, các nhà thờ được sửa sang, một số nhà thờ mới được xây lên, có nơi thật nguy nga tráng lệ, và chắc là còn nhiều nhà thờ khác đang nằm trong bản vẽ. Trải qua 4 thể chế chính trị, từ thời Pháp thuộc, đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà rồi Đệ Nhị Cộng Hoà và chế độ cộng sản ngày nay, tôi có thể khẳng định chưa bao giờ Giáo hội Công Giáo Việt Nam “được mùa” và nở rộ như dưới chế độ cộng sản vô thần như hiện nay. Xin nói cho rõ, tôi không bao giờ phản đối nhu cầu sửa sang và xây nhà thờ tại Việt Nam, nhưng hiện tượng này làm cho tôi phải suy nghĩ.

Sự suy nghĩ của tôi rất đơn giản, dựa trên những gì tôi hiểu biết khi nghiên cứu về lịch sử Giáo hội. Bài học trong lịch sử Giáo hội cho tôi biết một điều mà tôi cho là một chân lý:

Thời đại nào mà Giáo hội bị bắt bớ, bị ngược đãi, giáo sĩ và giáo dân bị cầm tù, bị chém giết: Đó là lúc Giáo hội mạnh nhất. Ngược lại thời đại nào mà Giáo hội dựa vào các các thế lực chính trị và được chánh quyền ban cho nhiều quyền lợi, nhiều bổng lộc, nhiều ưu tiên: Đó là lúc Giáo hội sa đọa nhất.

Trong chiều hướng đó, tôi ước mong rằng bên cạnh những ngôi nhà thờ bằng gạch đá, được xây dựng khá nhiều giữa lòng một dân tộc nghèo khổ đang sống dưới chế độ đầy dẫy sự bất công, và chế độ đó luôn tìm khai thác mâu thuẫn giữa các tôn giáo, Giáo hội Việt Nam cần phải có một ngôi ĐẠI THÁNH ĐƯỜNG xây bằng SỰ THẬT. Ngôi Đại Thánh Đường này rất cần thiết cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam để soi đường chỉ lối cho đàn chiên đang sống dưới nanh vuốt của loài lang sói, biết đi theo đúng con đường của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói: “Ta là Đàng, là SỰ THẬT và là Sự Sống”.

Tôi rất vui mừng được biết ngôi Đại thánh Đường của SỰ THẬT đang được một số người ra công xây dựng tại Việt Nam và Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, trong bao nhiêu năm tù tội dưới chế độ vô thần cộng sản, đã âm thầm làm công việc của người thợ cái.

Lễ Chúa Kitô Vua 2009
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

Thursday, November 19, 2009

Những đặc điểm của dân biểu Cao Quang Ánh - Nguyễn Đạt Thịnh

Nguyễn Ðạt Thịnh

Trong cuộc bỏ phiếu chấp thuận bản biểu quyết hạ viện số 3962, hình thức luật pháp đầu tiên của kế hoạch cải cách y tế, Cao Quang Ánh là dân biểu Cộng Hoà duy nhất bỏ phiếu thuận; lá phiếu của ông giúp bản biểu quyết hạ viện mang tính chất luỡng đảng, tính chất mà cả tổng thống Barack Obama và chủ tịch hạ viện Nancy Pelosi rất thèm muốn.

Ðó là đặc điểm thứ nhất của dân biểu Ánh. Ðặc điểm này càng nổi bật vì trước đó dân biểu John Boehner, chủ tịch khối thiểu số hạ viện đã hạ quyết tâm là không một dân biểu Cộng Hoà nào bỏ phiếu thuận cho biểu quyết 3962.

Ðặc điểm thứ nhì là thái độ của dân biểu Ánh trước những phản ứng phẫn nộ của đảng Cộng Hoà. Có người đòi đuổi con ‘cow” Quang Ánh trở về Việt Nam; người khác đòi trừng phạt ông.

Phát ngôn viên của ông, bà Princella D. Smith, bênh vực xếp, “Ổng honest tới mức người khác thấy xót xa. Ổng nói ổng không phải là người mà các đồng nghiệp dân chủ hô hoán reo mừng như một ‘tay trong’. Ông ta không giống như những chính khách khác, và ông ta cũng không tự coi mình như một chính khách. Ông ta là một nhà tu”.

Một vài bạn đồng viện khiêu khích ông bằng cách hỏi xỏ xiên, “Quý danh là gì?”. Họ muốn ông đọc ra chữ Cao với cái đồng âm Anh ngữ là “cown” để họ có dịp cười chế nhạo. Ông Ánh nhã nhặn bảo họ, “call me Joseph”, như bất cứ người Mỹ nào khi muốn tỏ thân tình bảo bạn gọi mình bằng first name.

Ðặc điểm thứ 3 là ông Ánh chân thành, mặc dù sự thật ông nói lên đôi khi mang cái nghĩa gần như khiêu khích. Báo chí hỏi ông là viên chức đảng Cộng Hoà có gây khó khăn cho ông không, khi họ nói họ không trả thù, không trừng phạt ông, ông Ánh trả lời, “có đấy chứ: một vài người hủy bỏ lời hứa trợ giúp quỹ tranh cử của tôi, một vài người khác đòi refund tiền đã giúp”.

Trước cuộc bỏ phiếu tại hạ viện, ông Michael S. Steele, chủ tịch hội đồng toàn quốc của đảng Cộng Hoà, hăm he, “Nếu anh bênh vực dự án y tế của Nancy Pilosi, chúng tôi sẽ đến tìm anh, và anh sẽ thấy mình rơi vào một cái hố đầy khó khăn”.

Truyền thông hỏi ông nghĩ gì về thái độ của ông Steele, ông Ánh trả lời, “Nếu ông chủ tịch cho là tôi không bảo thủ đúng mức thì đó là quyền của ông ta. Tuy nhiên tôi vẫn mong muốn ông ta tiếp tục cộng tác với tôi để đạt đến những giải pháp tốt cho đất nước.

Ðất nước không cần một hố sâu phân đôi những đảng viên Cộng Hoà bảo thủ và những đảng viên Cộng Hòa khác dung hòa hơn”.

Ký giả Joseph Weber, người đã từng cộng tác với ông Steele, viết trên tờ Washington Times về ông Ánh như sau, “Ông ta không suy luận theo đường hướng của Ðảng, và ông ta chỉ hành động theo nhu cầu của cử tri. Tuy nhiên, ông ta vẫn là một đảng viên Cộng Hoà thuần thành, mặc dù ông đặt trách nhiệm đối với cử tri trên mọi bận tâm khác. Các lãnh tụ Cộng Hoà nể nang ông, mặc dù không đồng ý với quan điểm của ông, nhất là họ không đồng ý với lá phiếu ông vừa bỏ cho dự án cải tổ y tế. Tuy nhiên việc này không biểu hiện một rạn nứt giữa ông Ánh và những viên chức lãnh đạo Ðảng, kể cả ông chủ tịch Steele. Với kinh nghiệm một người đã cộng tác với ông, tôi biết Steele có một tầm nhìn rộng rãi hơn, và đảng viên Cộng Hoà phải gồm cả những người dung hòa và những người bảo thủ. Và tôi có thể đoan chắc là nếu một đảng viên Cộng Hòa có thể thắng cử năm 2010 tại quận 2 Louisiana, thì người đó không thể là ai khác hơn Joseph Ánh.”

Ðiều này không có gì chắc chắn, vì ký giả Weber không nói nhân danh ông chủ tịch Steele, và ngay cả ông Steele cũng không giúp dân biểu Ánh được bao nhiêu, cả trong lần ông đắc cử năm 2008 lẫn trong lần tới, ông tái ứng cử năm 2010.

Cử tri quận 2 Louisiana gồm 60% Mỹ đen và 62% cử tri dân chủ, và dĩ nhiên LA-02 không phải là chỗ đắc địa cho một chính khách Cộng Hòa. Năm ngoái ông Ánh thắng là nhờ Chúa, và năm tới nếu ông có thắng nữa, cũng vẫn chỉ nhờ cậy vào Chúa.

Năm 2008, ứng cử viên dân chủ là dân biểu William Jefferson, với thâm niêm làm dân biểu liên tục 9 nhiệm kỳ tại LA-02. Nếu không theo ý Chúa thì làm gì có việc ông ta bị truy tố về tội tham nhũng vào đúng lúc cuộc tranh cử diễn ra, giúp một chính khách Việt Nam tay mơ bước vào hạ viện liên bang.

Nhưng dù không đắc cử lần thứ nhì, dân biểu Ánh cũng đã đánh phấn cho khuôn mặt Việt Nam hải ngoại bằng việc ông bỏ phiếu theo lương tâm.

Phỏng vấn ông, đài CNN đem câu ông Ánh nói, “tôi quyết định lá phiếu tôi bỏ, căn cứ trên nhu cầu của công dân trong quận tôi sống”, rồi so sánh ông với nghị sĩ Joe Lieberman, bang Connecticut. Họ hỏi Lieberman là ông sẽ đặt nặng quyền được chăm sóc y tế của 30,000 nhân công Connecticut vừa mất bảo hiểm y tế vì mất việc, hay đặt nặng $65,000 tiền tặng mà hãng bảo hiểm Aetna Health Insurance Corporation biếu vào quỹ ứng cử của ông, và tiền biếu của nhiều hãng bảo hiểm khác.

Không phải là một tín đồ công giáo, nhưng tôi vẫn cầu nguyện xin Chúa đồng hành với dân biểu Cao Quang Ánh, ít nhất cho đến ngày bầu cử 2010. Ông cần ơn Chúa để vượt qua nhiều khó khăn trên con đường chính trị, ở lại hạ viện thêm một nhiệm kỳ nữa. Hai năm quá ngắn để vẽ thật rõ chân dung một thanh niên Việt Nam yêu cả hai nước Việt-Mỹ, và tôn trọng sự thật, lẽ phải.

Truớc kia, tôi phê bình ông là thiếu hùng biện, giờ này ông dạy tôi bài học là một việc làm đúng nói nhiều hơn 10 bài diễn văn dài lê thê mà vô nghĩa.

Nguyễn Ðạt Thịnh

Ðảng việt gian cộng sản VN: Một tổ chức lưu manh ăn bám lớn nhất thế giới.




Trần Nhu
    * Trên thế giới này từ cổ đến cận kim, không có một tổ chức “ăn bám” nào lớn như Đảng Cộng Sản VN.

    -“Vô địch!”

    * Trên thế giới này từ tối cổ đến cận kim, từ Đông sang Tây không có một chính quyền nào cai trị dân lưu manh như chính quyền của Đảng Cộng Sản VN.

    * Trên thế giới này cũng không có một nhà nước nào lại xem thường “Hiến Pháp” do chính mình đặt ra như nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN.
Đảng việt gian Cộng Sản VN là một tổ chức “ăn bám”, lớn vô địch trên thế giới. Ở các nước tự do, ngân sách quốc gia, một phần dành cho việc trả lương các công chức, viên chức của chính phủ hàng tháng, ngoài ra chính phủ không phải trả lương cho viên chức của bất cứ một đảng phái nào nằm ngoài hệ thống hành chánh. Ở Việt Nam, một trong những nước nghèo nhất trên thế giới xếp hạng 108 trước 152, nhưng ngân sách dành cho việc trả lương cho viên chức lại phải chia. Một cho viên chức nhà nước, một cho viên chức của Đảng: Bên nhà nước có Chủ Tịch Nhà Nước, và các bộ trưởng, thì bên Đảng Cộng Sản có Tổng Bí Thư, và một lô các Ủy viên Bộ chính trị, nhiều hơn gấp bội. Và bên nhà nước có cơ quan nào thì bên đảng cũng có cơ quan ấy. Chẳng hạn như bên nhà nước có Bộ trưởng Bộ thương mại, thì bên Đảng có Ban Kinh Tế Trung Ương. Bên nhà nước có Bộ ngoại giao, thì bên Đảng có Ban Đối Ngoại Trung Ương Đảng v.v... Bên nhà nước ở cấp dưới, có các Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh, thành, quận, huyện, xã, thì bên Đảng, có Tỉnh Bộ Đảng, thành Bộ Đảng, Huyện, Xã ... Khi đem đối chiếu và xem xét kỹ, thì sự thực bên Đảng còn có nhiều ban ngành, cục, bộ hơn hẳn bên chính quyền. Thí dụ như bên nhà nước có Bộ Nội vụ, thì bên Đảng thời cáo Hồ, có:

1. Ban tổ chức Trung ương Đảng, Lê đức Thọ làm Trưởng ban,
2. Ban kiểm tra Trung ương Đảng, Trần Quyết làm Trưởng ban.
3. Ban nội chính Trung ương Đảng do Hoàng Thao làm trưởng ban.
4. Ban bảo vệ Bộ chính trị do Nguyễn Đình Hương làm trưởng ban.
5. Ban chỉ đạo Trung ương Đảng do Nguyễn Đức Tâm làm Trưởng ban.
6. Ban bảo vệ Đảng do Nguyễn Trung Thành làm trưởng ban v.v...

Ngoài những ban bộ tạm kể trên, Đảng Cộng Sản VN còn có nhiều tổ chức tay phải, tay trái như Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ban Tôn Giáo Trung Ương v.v... Các Ban, các ngành, các cục, đến các đoàn thể, tay phải, tay trái như Đảng đều có trụ sở, xe cộ, nhân viên được tổ chức từ trung ương đến các địa phương, phường, xã. Con số đảng viên hiện nay là khoảng 2.3 triệu, không kể đến các đoàn viên, các đoàn thể quần chúng.

Từ trước đến nay, bao giờ các cơ quan của Đảng Cộng Sản ở Trung ương và các địa phương có nhiều nhân viên hơn hẳn bên chính quyền. Các lực lượng ăn bám này đều có trụ sở được xây dựng to lớn, đồ sộ, lộng lẫy, xe cộ đi lại của cán bộ Đảng thuộc loại sang. Các thiết bị văn phòng, chi phí cho nhân viên từ trung ương đến các địa phương đều do tiền thuế của nhân dân chi dùng cho hoạt động riêng của đảng. Nhưng Đảng Cộng Sản VN tự nó không bao giờ có hoạt động sản xuất, hoặc phát minh, sáng chế gì, có lợi cho đời sống. Họ chỉ là những kẻ ăn bám! Nguy hiểm hơn nữa là họ còn nghĩ ra những thủ đoạn đê hèn, những việc làm ác độc đối với nhân dân, toàn học tập bắt chước những việc làm tàn bạo phi nhân của Cộng Sản Tầu.

Còn có quá nhiều những điều quái dị và nghịch lý, trái đạo lý, khá độc đáo, mà các chính khách nước ngoài dù thông minh đến đâu cũng không thể hiểu nổi. Trong một đất nước mà toàn bộ sở hữu quốc gia hoàn toàn Đảng Cộng Sản bao hết và nắm độc quyền hết cả các hoạt động xã hội. Từ trung ương đến địa phương đều có các Chi Bộ Ðảng, các cấp đến các cơ sở hạ tầng. Các tổ chức Đảng kiểm soát bộ máy nhà nước, rút tiền trực tiếp từ ngân hàng nhà nước ở các cấp ... Nó ban phát quyền lợi cho các nhân viên nhà nước, duyệt chi các công trình xây dựng, cấp vốn, cấp tiền cho mọi dự án. Tất cả việc chi thu đều do Đảng Bộ quyết định.

Nên biết rằng trước năm 1991, ở Việt Nam hệ thống ngân hàng nhà nước do Đảng Cộng Sản quản lý như một cơ chế ngân khố tập trung việc chi thu. Nó có toàn quyền, nó làm chủ 100%. Hiện nay, có thấy đề ra vấn đề cho phép lập ra các ngân hàng cổ phần theo kinh tế thị trường, tuy nhiên loại này rất nhỏ yếu. Ngân hàng nhà nước là tài sản của đảng Cộng Sản VN và vẫn chiếm ưu thế cao trên 70%.

Đảng Cộng Sản VN đã hút tất cả nguồn lợi của đất nước vào trong tay Đảng. Nhân dân Việt Nam từ ngày Đảng Cộng Sản VN cướp chính quyền, từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 đến nay, không một ai được biết ngân sách quốc gia hàng năm, thu chi bao nhiêu? Không biết những khoản viện trợ của nước ngoài là bao nhiêu? Vay để dùng vào việc gì? Cũng không hề biết các hiệp định ký kết với nước ngoài, nội dung ra sao? Và tuyệt nhiên không có hạng mục thống kê công khai. Mặc dù họ được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản phong cho làm “chủ nhân ông” của đất nước này!!

Nhân dân Việt Nam, không chỉ buộc phải nuôi một tổ chức du côn, lưu manh ăn bám, mà chúng còn phá phách đủ mọi thứ, từ văn hóa, văn hiến, đến tài nguyên đất nước không thể kể xiết. Hiện tại, những dự án đầu tư xây dựng thất thoát, lãng phí đến 40%, tính riêng năm 2006. Nhiều công trình bị “rút ruột” đến mức mới xây dựng xong đã hư hỏng không xử dụng được. Một đại biểu quốc hội nói rằng “tiền thất thoát trong lãnh vực xây dựng cơ bản hàng năm đủ trả lương cho toàn bộ công nhân viên chức nhà nước.” Bọn cán bộ đảng, ngoài tiền lương chúng tham nhũng, biển thủ công quỹ vô tội vạ. Vì thế, chúng mới có tiền mua nhà lầu xe hơi, gởi con cái ra ngoại quốc ăn học v.v...

Các tổ chức Đảng giống như con bạch tuộc khổng lồ đã và đang găm thật chặt những cái vòi của nó vào từng tế bào nhỏ nhất của xã hội, len lỏi vào từng thớ thịt, găm vào từng mạch máu, để hút máu, hút tủy và khống chế trói chặt người dân bằng hàng trăm sợi dây, thao túng nhân dân, rút kiệt hết nguồn tài nguyên của đất nước, cho nên nhân dân ta mới nghèo khổ lam lũ đến thế!

Nhân dân Việt Nam từ khi Hồ Chí Minh và đồng đảng nắm chính quyền cho đến ngày nay, đã phải cõng trên lưng không phải chỉ những quan chức bù nhìn nhà nước mà còn các quan chức, viên chức của Đảng này với số lượng lớn hơn. Nó thực sự là những con quái vật độc ác và tham tàn, muốn sống nhân dân Việt Nam chỉ còn cách phải quật chúng xuống.

Con quái vật độc ác này, nó sống trên xương máu, mồ hôi của nhân dân Việt Nam quá lâu! Nó là một con vật lạ “ngoại lệ” trong dòng lịch sử trên 4000 năm của dân tộc. Con quái vật phá phách ... ăn bám còn có một đặc điểm rất điếm đàng. Nó bắt “chủ nhân ông đất nước” phải cung phụng cho nó, mọi thứ về vật chất, nhưng lại phải mang ơn nó. Chủ nhân ông phải xin xỏ nó mới có mà ăn, mà mặc. Ở miền Bắc trước đây cứ mở miệng ra là phải nói: “cơm cụ Hồ”, “áo cụ Hồ”, “muối cụ Hồ”, bộ đội cụ Hồ, biết ơn Bác và Đảng v.v... Đồ đểu! Không có ngôn từ nào thích hợp để mô tả bản tính điếm đàng này. Tàn bạo, tham lam, và lưu manh của Đảng việt gian Cộng Sản VN đứng đầu là Hồ Chí Minh.
Vì là “vô thần”, nó không sợ trời trừng phạt, và vì nắm quyền hành độc tài toàn trị, nó không sợ bị luật pháp ràng buộc khi nó hành động với bản tính côn đồ, lưu manh, bịp bợm và bạo ngược của nó, mà không có ai có thể kiểm soát được. Đảng Cộng Sản VN tự biên, tự diễn, tự do giết người, tự do bỏ tù, tự do trấn lột, tự do tuyên truyền, nói láo!

Hơn nửa thế kỷ qua, nó hoàn toàn không bị kềm chế về mặt pháp luật và đạo đức. Hồ Chí Minh và đồng đảng của y đã gây ra không biết bao nhiêu là tội ác đối với nhân dân Việt Nam, nhất là đối với nhân dân miền Bắc. Họ sẽ phải trả lời về các tội ác của họ như các Quốc gia Đông Âu đã làm.

Trần Nhu

Wednesday, November 18, 2009

Tiền gởi về Việt Nam sụt giảm

Việt gian cộng sản Hà Nội hy vọng lấy tiền trong dịp lễ cuối năm

HÀ NỘI 17-11 (LÐ) - Tiền do người Việt ở nước ngoài gửi về cho thân nhân giảm đáng kể trong những tháng qua nên nhà cầm quyền Hà Nội chỉ còn hy vọng vào mùa lễ Tết cuối năm.

Theo báo Lao Ðộng, căn cứ trên các con số thống kê của Ngân Hàng Nhà Nước và Bộ Tài Chính tính đến cuối Tháng Mười “tổng lượng kiều hối chuyển về trong nước vẫn tiếp tục bước sụt giảm so với các tháng cùng kỳ năm 2008”.

Kiều hối gồm tiền của người Việt định cư ở nước ngoài cũng như hàng trăm ngàn người đi làm công nhân lao động ở nhiều nước trên thế giới.

Năm ngoái, kiều hối đạt khoảng $7.2 tỉ đô la, bằng gần một phần ba ngân sách nước Việt Nam. Nhờ số tiền ngoại tệ này mà chế độ Hà Nội có tiền để nhập cảng hàng hóa cũng như trả nợ các khoản tín dụng ngoại quốc.

Cách đây hơn một tháng, vì lượng kiều hối sụ giảm đáng kể, đã có dự báo lượng kiều hối năm nay nhiều lắm sẽ chỉ bằng 80% của năm ngoái. Nhưng Nguyễn Văn Giàu, thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, còn lạc quan khi cho rằng hy vọng đến cuối năm với đợt giúp thân nhân ăn Tết, lượng kiều hối chỉ giảm từ 5.5% tới 16.5%, tức hy vọng có thể đạt từ $6 tỉ tới $6.8 tỉ USD.

Bằng chứng của sự giảm sút kiều hồi, báo Lao Ðộng dẫn con số của chi nhánh Ngân Hàng Nhà Nước ở Sài Gòn nói kiều hối của 10 tháng qua chỉ đạt gần $2.6 tỉ USD, bằng 60% của năm ngoái. “Chỉ riêng trong Tháng Mười, kiều hối tiếp tục giảm tới 8.07% so với tháng trước đó và chỉ đạt gần $260 triệu USD”, tờ Lao Ðộng nói.

“Nếu có đặt mục tiêu, việc đạt mức $4 tỉ USD kiều hối chuyển qua hệ thống ngân hàng ở Sài Gòn trong năm 2008 chỉ trong hai tháng cuối năm cũng là rất khó khăn. Sau hơn 2 tháng theo thống kê của NHNN, tổng lượng kiều hối về trong nước mới tăng từ mức $2.83 tỉ USD trong Tháng Sáu lên mức $4.2 tỉ USD đến cuối Tháng Tám”, theo Lao Ðộng viết.

Tình hình kinh tế khó khăn toàn cầu làm gia tăng người thất nghiệp ở các nước kỹ nghệ làm cho ảnh hưởng tới số tiền chuyển về nước cho thân nhân tại Việt Nam “đặc biệt với 1.5 triệu kiều bào tại Mỹ” và “làm giảm sút lượng lao động Việt Nam tại nước ngoài vẫn là yếu tố chính làm sụt giảm lượng kiều hồi chuyển về trong nước”.

Không những vậy, nguồn tiền của Việt kiều đổ về nước đầu tư cũng giảm theo “đáng kể” năm nay so với năm ngoái, theo Lao Ðộng tường thuật.

“Lượng kiều hối đầu tư vào các lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán hay gửi lấy lãi suất ngân hàng như năm 2008 giảm mạnh cũng góp phần lớn vào mức giảm chung kiều hối trong năm 2009”, Lao Ðộng thuật lời ông Ngô Xuân Hải, trưởng phòng dịch vụ kiều hối Vietinbank.

Hồi giữa năm, Ngân Hàng Nhà Nước đã phải xuất cảng bán vàng dự trữ lấy $1.2 tỉ USD để chi trả và nhập cảng. Trước tình hình không mấy hồ hởi vào lúc nhà nước đang thiếu hụt ngoại tệ cho các dịch vụ trả nợ và nhập cảng, nguồn tin trên nói “hầu như toàn bộ các ngân hàng đều đặt kỳ vọng vào các tháng cuối năm - thời điểm được coi như ‘mùa’ chuyển tiền, chuyển quà cho người thân vào dịp Tết Nguyên Ðán”. Từ đó “Chính với nhận định này, Vietinbank vẫn đặt mục tiêu đạt $1 tỉ USD kiều hối trong năm 2009 dù đến cuối Tháng Chín, lượng kiều hối qua NH này mới đạt $700 triệu USD. Tương tự Sacombank - SBR cũng kỳ vọng doanh số kiều hối sẽ đạt $1 tỉ USD vào cuối năm 2009 dù trong 8 tháng đầu năm 2009, kiều hối chuyển qua Sacombank - SBR mới đạt 50%, tương đương khoảng $500 triệu USD. Không đặt chỉ tiêu tăng, công ty kiều hối DongA Bank dự kiến sẽ đạt doanh số kiều hối $1.2 tỉ USD tương đương mức của năm 2008”.

Source: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=104255&z=2



Xâm thực truyền thông cánh tay nối dài của Hà Nội ra hải ngoại - Ngô Đức Diễm

Ngô Đức Diễm

Triển lãm Meet Vietnam tại San Francisco ngày 15 & 16/11/2009 bị thất bại nặng nề vì những cuộc biểu tình mạnh mẽ của người Việt tại Mỹ trong suốt 2 ngày kể từ lúc khai mạc cho đến lúc bế mạc.

Nói đến đấu tranh, người ta thường đề cập tới hai yếu tố căn bản là sức mạnh võ trang và vận động chính trị. Hôm nay, trong bối cảnh thế giới mới, các cuộc vận động chính trị càng ngày càng có vẻ khả thi hơn, thế nên các quốc gia, nhất là các nước nhỏ, càng chú trọng đến mặt trận chính trị. Trong ý hướng mở rộng mặt trận chính trị đó, cộng sản Việt Nam đang dồn hết nỗ lực vào mắt trận truyền thông, nối dài cánh tay tuyên truyền ra hải ngoại để một đàng, tiếp tục đánh lừa thế giới vốn ngây thơ dễ tin, mặt khác nhằm ve vuốt và và mua chuộc cộng đồng người Việt hải ngoại trên 3 triệu người, với khả năng kinh tế dồi dào và ngoại vận cao, mỗi năm tiếp hơi cho cộng sản Việt Nam khoảng 5 tỷ Mỹ Kim! Câu hỏi đặt ra là người Việt hải ngoại phải làm gì để đối phó với những thủ đoạn tuyên truyền độc hại đó?

Mọi người đều nhận thức rằng, với đà phát triển của tin học hôm nay, truyền thông đang trở thành vũ khí đấu tranh vô cùng lợi hại. Trước đây, Mao Trạch Đông đã khẳng định truyền thông, thiết yếu là tuyên truyền, là yếu tố tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Ông đã coi một đài phát thanh còn có sức mạnh hơn cả chục sư đoàn.Cũng tương tự, Tổng Thống Reagan năm 1979 cũng đã nhấn mạnh vai trò quyết định của truyền thông trong thế đối đầu với cộng sản. Ông nói “ Cổ võ cho đối kháng còn quan trọng hơn cà chục sư đoàn thiết giáp.”

Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam, lời khẳng quyết của Chủ Tịch họ Mao và Tổng Thống Reagan có vẻ ứng nghiệm theo nhận xét của nhiều chuyên gia nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam “chúng ta thua chiến tranh không phải tại chiến trường Việt Nam mà ngay tại Hoa Thịnh Đốn”. Thật vậy, hôm nay mọi người đều nhận ra rằng, chính truyền thông thiên tả một chiều của Hoa Kỳ đã góp phần không nhỏ trong việc khai tử miền Nam Việt Nam. Hình ảnh cô bé trần truồng bị phỏng nặng vì bom napal, hình ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan dí súng vào màng tang tên Việt cộng, nhất là hình ảnh đàn bà con nít bị tàn sát tại Mỹ Lai, đã được đưa lên trang nhất các tờ báo Mỹ cũng như màn ảnh truyền hình với dụng ý rõ rệt là bôi nhọ miền Nam và xuyên tạc ý nghĩa của cuộc chiến tranh tự vệ của dân chúng miền Nam chống lại ý đồ xâm lăng của cộng sản Bắc Việt dưới chiêu bài giải phóng miền Nam. Điều mỉa mai là hôm nay, sau hơn 30 năm toàn dân Việt bị đọa đày dưới chế độ độc tài toàn trị, chính những phóng viên chiến trường đã phóng đi những hình ảnh gây chấn động đó mới tỉnh ngộ, và tỏ ra hối hận về việc làm thiếu lương thiện của mình. Phải chi hồi đó, hình ảnh dân lành bị chôn sống trong Tết Mậu Thân tại Huế, hình ảnh học sinh chết thảm dưới mưa pháo cộng sản tại Cai Lậy, nhất là hình ảnh giết hại dân lành trong các chiến dịch đấu tố tại Liên Khu IV năm 1953 và cải cách ruộng đất tại miền Bắc năm 1956 với khẩu hiệu “giết giết nữa bàn tay không ngưng nghỉ”, được báo chi Mỹ nhắc tới, thì miền Nam đâu bị coi là mất chính nghĩa và dễ gì cộng sản đã dành được chiến thắng!

Nhận thức được vai trò truyền thông trong việc thôn tính miền Nam, hôm nay cộng sản Việt Nam lại tiếp tục khai thác vai trò của truyền thông trong ý hướng đánh lạc hướng đồng bào tại quốc nội và mua chuộc đồng bào hải ngoại.

Tại quốc nội, cộng sản Việt Nam đang thẳng tay đàn áp truyền thông, bịt miệng tiếng nói dân chủ và dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền để bưng bít che đậy những hành động phản dân hại nước của cán bộ các cấp trong các vụ dân oan, giáo oan, tham nhũng, nhất là của thiểu số lãnh đạo đang cam tâm làm tay sai bán nước cho ngoại bang. Hẳn người ta không thể bình tâm trước bản án bất công dành cho nhà báo Nguyễn Vũ Bình chỉ vì ông dám lên tiếng cổ võ cho dân chủ. Ngay cả những cây bút gọi là thân cận với chế độ, như Nguyễn Việt Chiến báo Thanh Niên và Nguyễn Văn Hải báo Tuổi Trẻ cũng không thoát khỏi bàn tay ác nghiệt của Hà Nội khi họ muốn đem ra ánh sáng hành động tham nhũng của một số sĩ quan cao cấp trong quân đội. Một đàng, Hà Nội quyết bịt miệng truyền thông chân chính, đàng kkác họ lại tận dụng các tên bồi bút để tô hồng chế độ, đến nỗi Dương Thu Hương đã gọi họ là những người mang bệnh liệt kháng, cam tâm bẻ cong ngòi bút, mất cả lương tri. Bùi Minh Quốc đã không qúa lời khi coi bọn bồi bút trong nước là những con điếm “bán miệng nuôi trôn”:
    Điếm bình dân bán trôn nuôi miệng
    Điếm trí thức bán miệng nuôi trôn!
Tại hải ngoại, Nghị Quyết 36 đang được Hà Nôi tận dụng như là kế sách xâm nhập cộng đồng người Việt nuớc ngoài trong nhiều lãnh vực, như kinh tế, văn hóa, văn nghệ và đặc biệt là truyền thông: “Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền giúp cho người Việt nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của đảng và nhà nước. Hỗ trợ việc ra báo, mở đài phát thanh”

Thực hiện sách lược xâm nhập nói trên, cộng sản Việt Nam đã chỉ thị các cấp thực hiện nhiều độc chiêu một đàng nhằm làm tiêu mòn nỗ lực chống cộng của người Việt, một mặt vơ vét túi tiền và chất xám của người Việt hầu cứu vãn chế độ đang lung lay tận gốc rễ hôm nay.

Thứ nhất, cộng sản Việt Nam đã tung vào diễn đàn truyền thông hải ngoại các tờ báo, các liên mạng cũng như các đài truyền thanh truyền hình làm loa tuyên truyền, thổi phồng những thành tựu giả trá của chế độ. Hẳn người Việt không quên trước đây, tại miền Bắc Cali, có ông Giám Đốc một cơ quan tỵ nạn ở San Francisco đã dùng văn phòng cơ quan làm trung tâm phổ biến các tờ báo cộng sản từ trong nước gửi ra, lại còn tiếp tay tổ chức Viet Expo, và đem văn công cộng sản Việt Nam ra ngoại quốc trình diễn rối nước trong ý hướng giao lưu văn hóa. Cũng tương tự tại Paris, nhữngt năm trước đây, Linh Mục Nguyễn Đình Thi đã mở nhà sách chuyên chở tất cả các sách báo cộng sản để đầu độc người Việt tại Âu Châu.

Thứ hai, cộng sản Việt nam đã điều hướng một số tờ báo và cơ quan truyền thông nói là của người Việt quốc gia, tiếp tay với Hà Nội chuyên chở những hình ảnh, những bài viết ca tụng chế độ và nhục mạ cộng đồng người Việt tỵ nạn. Ai mà không cảm thấy phẫn nộ khi thấy một số tờ báo đăng hình lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ máu trên những chiếc áo thun chưng bày tại các cuộc triễn lãm gọi là giao lưu văn hóa đó đây. Cũng thế, làm sao người Việt tỵ nạn cộng sản khỏi cảm thấy bất bình khi thấy một số tờ báo tại Nam Cali cho đăng hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ đang được người Việt khắp nơi tôn vinh, bị sơn phết vào cái chậu rửa chân tại một tiệm Nail, trong số báo Xuân tại quận Cam!

Thứ ba, cộng sản Việt Nam còn mua chuộc một số tờ báo và cơ quan truyền thông đứng thế đối lập với cộng đồng người Việt tỵ nạn, chống lại nguyện vọng của đa số, tiêu biểu như trong biến cố Little Saigon tại miền Bắc Cali. Đã có đến cả chục ngàn người xuống đường biểu tình đòi đặt tên cho khu thương mại do đa số người Việt làm chủ là “Little Saigon”để xác định lập trường chống cộng và gợi nhớ quê hương trong tâm tưởng của người Việt lưu vong. Nhưng mỉa mai thay, một số tờ báo và cơ quan truyền thông nổi tiếng chống cộng đã hùa theo một thiểu số người Việt thân chính vì lợi ích riêng, công khai nhục mạ cộng đồng người Việt tỵ nạn là “thiểu số ồn ào, qúa khích và ấu trĩ!” Họ còn công khai bày tỏ chủ trương “vùi dập” tiếng nói dân chủ của những người quyết tâm hỗ trợ cho tên gọi Little Saigon, viện cớ là cụm từ Little Saigon có hàm ý chống cộng!

Thứ tư, cộng sản Việt Nam cũng đã sử dụng ngòi viết của những tên bồi bút hải ngoại để đánh phá, bôi nhọ và triệt hạ những khuôn mặt có lập trường quốc gia chân chính, nhất quyết không chấp nhận hoà giải hòa hợp với cộng sản. Còn ai chống cộng và hiểu cộng hơn ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện, thế mà ông cũng đã bị một số tờ báo hải ngoại gọi ông là Nguyễn Chí Thiện giả, với tập thơ Hoa Địa Ngục giả, chủ trương mạo danh để nằm vùng cộng đồng! Hiện tượng xuyên tạc và bôi bẩn các chiến sĩ quốc gia càng ngày càng có vẻ phổ biến không những tại Hoa Kỳ, mà còn tại Paris, Úc Châu và một số nơi khác có đông người Việt cư ngụ. Hiện nay, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, linh hồn của Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Saigon và Phế Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh, cùng với ông Trần Quốc Bảo, Giám Đốc sản xuất cuốn phim Sự Thật Về Hồ Chí Minh đang là những đối tượng đánh phá của các cơ quan truyền thông cộng sản trong nước và tay sai, tại hải ngoại, nhận chỉ thị của Hà Nội.

Ngoài ra, cộng sản Việt Nam còn dùng tiếng nói các cơ quan truyền thông tay sai để vinh danh và dụ dỗ nhữngViệt kiều ngây thơ đem “khúc ruột ngàn dặm” nối vòng tay lớn với các bộ phận dân tộc trong nước. Những tên tuổi đã được công sản Việt Nam vinh danh vì có công lớn với chế độ như Vũ Đức Vượng , Đỗ Anh Thư, Quỳnh Kiều, Dũng Trung..chỉ là những con cờ của tuyên truyền cộng sản. Biết đâu, những tôn vinh hôm nay lại chẳng là những bản án cột vào cổ những tên phản bội một khi đất nước thoát khỏi ách cộng sản.

Sách lược tuyên truyền của cộng sản phải nói là thâm độc, đã gây nhiều tác dụng trong tập thể người Việt hải ngoại, tạo chia rẽ trong cộng đồng, trong nội bộ các tổ chức đấu tranh, và nhiều khi ngay giữa cha con, vợ chồng và anh em trong cùng một gia đình, nhất là ngay giữa những người Việt cnùg chiến tuyến chống cộng và cùng khát vọng dân chủ hóa Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là người Việt tỵ nạn phải đối phó thế nào?

Một cách tổng quát, người Việt cần đề cao cảnh giác để nhận diện một cách chính xác, ai là truyền thông bạn, ai là thù để tránh tình trạng “phe mình đánh phe ta” làm tiêu mòn ý chí chống cộng và làm mất thiện chí và quyết tâm của những tiếng nói và những cây viết chân chính.

Tiếp đến, người Việt cần thẳng thắn và mạnh dạn phản bác những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các cơ quan truyền thông tay sai. Bản chất cộng sản muôn thuở vẫn là dối trá và bạo lực. Nhiệm vụ của mỗi người Việt là giải thích người bản xứ, nhất là cho con cháu, cho giới trẻ Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước hiểu rõ lịch sử Việt Nam, biết rõ lý do tại sao dân Việt phải bỏ nước ra đi, tại sao cha anh của họ phải bỏ xác trong rừng sâu hố thẳm, và nhất là tại sao dân Việt bị đoạ đày trong vũng lầy “trộn vàng của kẻ thống trị với máu và nước mắt của dân tộc bị trị” (Dương Thu Hương) trong bấy nhiêu năm!

Ngoài ra, người Việt cần dứt khoát lập trường đối với những cơ quan truyền thông tay sai mà Nguyễn Chí Thiện đã tặng cho cái danh hiệu là “thây ma truyền thông”. Tẩy chay, không đọc, không nghe, không xem thì báo chí, truyền thanh, truyền hình dù có hấp dẫn đến đâu cũng chỉ là số không mà thôi!

Để kết, người viết xin thưa với toàn thể người Việt hải ngoại rằng, chúng ta đã mất hết, đã bỏ lại sau lưng tất cả để đổi lấy tự do nơi chốn tạm dung. Mảnh đất tạm dung hôm nay là cứ điểm còn lại của người Việt không chấp nhận cộng sản. Thế thì không thể vì một lý do nào, mà chúng ta có quyền để mất mảnh đất cuối cùng này vào tay cộng sản với chủ trương xâm nhập truyền thông bằng những thủ đoạn tuyên truyền láo khoét qua Nghị Quyết 36 của Hà Nội. Mong thay!

Ngô Đức Diễm

Ngày thứ hai của cuộc Biểu tình chống triển lãm Meet Vietnam ngày 16-11-2009 tại City Hall San Francisco








Mondale's role in saving 'boat people' recalled, 30 years later

by Dan Olson, Minnesota Public Radio
November 16, 2009
Source: http://minnesota.publicradio.org/display/web/2009/11/16/vietnamese-refugees/
    LISTEN
St. Paul, Minn. — In the years following the end of the Vietnam War, thousands of Vietnamese risked the dangers of the South China Sea instead of facing communism.

A Vietnamese mother, Mrs. Nguyen Thi Yen, holds her sick child as she pleads help from a fishing boat carrying her and 48 other refugees as they arrive at Khlong Yai, a village 220 miles southeast of Bankgkok, Thailand, Nov. 30, 1977. The refugees were refused entry and the boat was towed back to sea. (Eddie Adams/Associated Press)

This year marks 30 years since then-Vice President Walter Mondale convinced world leaders to come to the rescue of more than 1 million "boat people" -- many of whom settled in Minnesota.

Connie Tran remembers the day in 1978 when communist government officials came to her parents' home in Vietnam. Tran, who was 13 at the time, said the officials told her mother and father the government was now in charge of the family's fabric business.

"We are taking control of your house, we will check inventories, and show us the cash," they told her parents.

Tran, now a banker in Eagan, said the takeover convinced her parents they needed to leave Vietnam. They paid the government eight ounces of gold for permission for each of her nine family members to leave.

But permission to leave wasn't the same as a guarantee of safe passage -- because they had to face the South China Sea.

Tran's family left in a boat -- a relatively small craft that seemed all the more tiny with about 200 refugees aboard. She and the other women had to stay below in the dark, with no room to stretch out. Tran remembers a raging storm their first night out caused them to fear for their lives.

"The boat is rocking and I can feel water coming into the boat," she said.

Three days later, with food and water running short, they put ashore on an island off Malaysia. It was already crowded with refugees living without shelter, adequate food or sanitation. Tran says they cobbled together a crude shelter of boards and plastic.

Nine months later, with the help of a suburban Twin Cities Lutheran church congregation, the Tran family resettled in Minnesota. They were joining an earlier wave of refugees who had begun settling in the region, mostly former South Vietnamese soldiers and government officials who resettled after the fall of Saigon. That was July, 1979.

Connie Tran, a banker in Eagan, was 13 years old in l978 when the Communist government of Vietnam took control of her parents fabric business. Her family, along with dozens of relatives, had pay the government in gold to legally leave Vietnam in a small boat that landed on an island off Malaysia. (MPR Photo/Dan Olson)

U.S.-led intervention

When the war ended in 1975, State Department employees warned Congress the victorious Communists would take revenge on Vietnamese who'd supported the Americans during the conflict. Vietnamese including former soldiers, government officials and their families were resettled in this country.

Walter Mondale said the "boat people" represented something different, a symptom of the harassment of Vietnam's merchant class.

"The government there was pushing hundreds of thousands of mostly ethnic Chinese out to sea -- and ripping them off as they did it," said Mondale. "[Forcing them] onto boats that were unsafe, subject to piracy, all the things I thought no longer happened in the world."

Shortly after Mondale became vice president, He saw the humanitarian crisis firsthand. In 1977, he traveled to refugee camps in Thailand which were overrun with people who needed food and shelter.

Mondale and others began working on a plan to help. They proposed doubling -- to 14,000 a month -- the number of southeast Asian refugees allowed to resettle in the United States. In addition, the U.S. would spend millions to build safe and sanitary temporary refugee camps in the Philippines and elsewhere.

Mondale said an unusual part of the plan was to convince the Navy to make its sailors and vessels in the 6th fleet off southeast Asia's coast a rescue squad, that would pluck refugees from the sea.

"That was a unique first step," Mondale said. "The military didn't want to do that. They said, 'We're here to fight battles, we're not a humanitarian organization.'"

President Carter endorsed the plan, but the problem was too big for the U.S. to solve on its own. Many nations felt the U.S. created the boat people problem, so it alone should take responsibility.

Vice President Walter Mondale delivers his address to the Indochinese refugee conference of the United Nations in the Palais de Nations in Geneva on Saturday, July 21, 1979. Comparing the plight of Indochina refugees to the "doomed Jews of Nazi Germany," Mondale pledged increased U.S. aid for the refugees and called on Vietnam to halt its "forced expulsions" of the boat people. (AP Photo/File)

The Carter-Mondale administration decided to ask the U.N. for a special refugees conference in Geneva in July 1979. It was a gamble.

Unlike so many other large international endeavors, this one was not prearranged. Mondale knew what he'd encounter when he stood to speak before the U.N. delegates.

"The thing you have to get ready for when you speak to the UN is being ignored," Mondale said. "They sit there like extras on a movie lot, and these speakers come by, droning on for decades, and they get sort of comatose."

It was up to Mondale speechwriter Martin Kaplan to craft an argument that would rouse the delegates. He said he found his key message in a sheaf of background materials he brought with him on the flight to Geneva.

The stack of paper included a chilling account of another U.N. refugee conference decades earlier that ended in failure, which amounted to a death sentence for millions. It was a U.N. meeting in Evian near Geneva, just as World War II was breaking out. Kaplan said the delegates at that meeting failed to agree on a rescue plan for Germany's Jews.

"At that conference, if every nation had agreed to accept something like 15,000 Jews, there would have been no Jews left in the Third Reich to send to concentration camps," Kaplan said.

Mondale told his Geneva listeners in 1979 those earlier U.N. delegates had "failed the test of civilization."

"The civilized world hid in the cloak of legalisms, and the result was the Holocaust," Mondale said.

Kaplan and Mondale said the audience snapped to attention, as Mondale told the delegates they faced a world problem and exhorted them to fashion a world solution.

"We all know the grim statistics, the toll being taken among those refugees forced out by Vietnam in inadequate and unseaworthy boats," he told the delegation in 1979.

He ended by saying, "History will not forgive us if we fail. History will not forget us if we succeed."

Observers recall a moment of silence after Mondale's last sentence, and then the normally staid U.N. delegates rose as one with an ovation.

A light-haired Vietnamese-American boy named Dung is one of the 6,700 boat people who fled Vietnam and found refuge in this camp in Songkhla, in southern Thailand, May 27, 1980. Dung, who says his father lives in America, smiles as his friends call out that he is American. (File/Associated Press)

An estimated 3,800 refugees settled in Minnesota

As nations joined in the rescue plan, conditions at sea and in the camps for the boat people began improving. But the crisis was so deep and the number of people affected was so large, that the problem lingered for several years.

Tens of thousands still trying to escape Vietnam continued to risk jail if caught on land, or drowning at sea. Hung Phung, then 19, was among them.

"I'd been trying to hide away from the local government," Phung recalled. "They tried to chase me down and recruit me to Cambodia."

Phung, who now lives in Minnesota, said he'd made 20 attempts to escape by sea rather than fight in Cambodia, but each time, something went wrong. His family paid 1.5 ounces of gold to a middle man to get Hung and his brother on a boat.

Of the 12 people in the small craft, seven became seasick on the 10-day voyage. The others were groggy with exhaustion and hunger and prone to making mistakes. Three days out, the motor quit.

"They mistakenly put the water into the gasoline," he remembered.

Phung laughs at the mistake now, but remembers at the time both he and his brother assumed they would die. Instead, they were rescued and towed to the Philippines by a fishing boat.

Months later, they were allowed to resettle in the United States. He's now a guidance counselor in the Bloomington school district.

Connie Tran and Hung Phung have not met Walter Mondale, but they credit him personally, and the U.S. generally, with saving their lives.

"I think it [had] great impact not just for me, but for the refugees from Vietnam, from Cambodia, from Laos, for the Hmong people too," Phung said.

Hung Phung, now a guidance counselor in a Twin Cities public school district was 19 in l981 when he and 11 others boarded a leaky boat for a 10 day, 1000 mile voyage across the South China Sea to the Phillippines, a departure sparked in part by the Communist government of Vietnam attempting to draft him into the military to fight a war in Cambodia.
(MPR Photo/Dan Olson)



Former Vice President Walter Mondale recalls the treatment of Southeast Asian refugees in 1979 and his pivotal speech to the U.N. Conference on Indochinese Refugees.
(MPR Video/Nikki Tundel)