Thursday, November 12, 2009

Thảm sát trên đảo Trường Sa - Đào Minh Trí

Đào Minh Trí

Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 130 đồng bào trên " ghe ông Cộ " trên đường vượt biển tìm tự do đã bị cộng sản Việt Nam tàn sát dã man vào tháng Tư năm 1979 ở đảo Trường Sa, và cũng để gửi đến các con yêu quý của ba: Lê Chí Dũng, Lê Thị Đông Nghi, Tì Tì.


***
*

Chúa ơi cứu con với ! Tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi, cùng lúc với một giòng nước ấm văng vào mặt đã khiến cho tôi phải lấy tay vuốt mặt mình và bàng hoàng nhận ra toàn là máu, máu nóng đã ập vào mặt tôi từ người phụ nữ bên cạnh. Tôi ngẫng cao đầu lên một chút để nhìn sang bên cạnh, người phụ nữ đang oằn oại với vết thương một bên đùi vỡ toác do đạn xuyên phá, máu tuôn xối xả. Tôi xót xa nhìn người phụ nữ đang lăn lộn vì đau đớn, nhưng cũng đành bất lực không cứu giúp gì được, vì ngay bản thân tôi cũng đang nằm bẹp dí xuống sàn tàu để tránh đạn. Đạn vẫn tiếp tục nỗ, tiếng rên xiết, la hét, kêu gào, của những người bị trúng đạn quyện vào nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn đến rợn người, âm thanh giữa biên giới của sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một cái nháy mắt, mới còn nghe rên la đó.... một loạt đạn tiếp theo đã ghim chặt vào thân người, lập tức tiếng rên la im bặt, một con người đã vĩnh viễn ra đi, những người khác tiếp tục rên la, chờ đợi loạt đạn tiếp theo cướp lấy mạng sống của mình. Tôi tự nhủ thầm, muốn sống còn phải rời bỏ con tàu ngay lập tức. Tôi vùng dậy, và nhận ra con tàu đang chìm dần từ phía sau của thân tàu, phía trước của con tàu đã bị đạn pháo bắn gãy, đang chông lên trời. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt văng tung tóe, thây người nằm la liệt, một cảnh tượng hãi hùng mà tôi chưa từng chứng kiến. Thần kinh tôi tê cứng vì sợ hãi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản năng sống còn của con người trong tôi bừng sống dậy, tôi lao mình ra khỏi con tàu phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng biển chụp tới cuốn tôi rời xa con tàu. Thật là may mắn, tôi vừa rời xa con tàu thì dường như cùng một lúc, một trái đạn pháo kích rớt chính xác ngay giữa con tàu khiến con tàu gãy đôi và chìm xuống biển, mang theo toàn bộ số người có mặt trên tàu lên tới trên 130 người. Trên mặt biển bây giờ đã không còn thấy bóng dáng con tàu đâu nữa, thay vào đó là những vật dụng bể nát của con tàu, những tấm ván bể nổi trôi lềnh bềnh trên sóng nước. Xác người chết ! xác người chết trôi nổi quanh tôi, phụ nữ, đàn ông, con nít, già có, trẻ có. Tất cả, không một ai còn được toàn vẹn thân thể, không một ai còn sống cả..... Có lẽ tôi là người sống sót duy nhất còn lại của con tàu, ngoài tôi ra thì chỉ còn lại toàn rặt là xác của người chết. Máu, là máu, từng vệt loang dài chảy ra từ vết thương của những xác chết, theo giòng nước trôi quanh tôi. Thủy triều đang lên, tôi rùng mình nghĩ đến đàn cá mập đói đang lẫn quẩn quanh đây chờ thủy triều lên cao sẽ theo mùi máu mà kéo đến, thì cho dù tôi có còn sống thì vẫn phải làm mồi cho đàn cá mập như những xác chết kia mà thôi! Tôi vươn tay cố gắng chụp lấy một mảnh ván để bám vào, tôi bám chặt vào mãnh ván, nhắm mắt lại cầu nguyện, dọn mình chờ chết, và trong cái khoảnh khắc tuyệt vọng đó tôi đã nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những người thân thương ruột thịt, đã không biết được rằng tôi đã bỏ thây giữa biển cả và làm mồi cho cá mập. Vĩnh biệt tất cả.

3 giờ sáng thành phố Nha Trang vẫn còn chìm trong giấc ngủ, hàng trụ điện bên đường Nguyễn Thái Học tỏa ánh sáng mờ mờ, soi bóng tôi trên đường. Vai mang cái phao ( loại ruột xe hơi được bơm căng lên ) giả làm dân đi tắm biển sớm ( đối với người dân Nha Trang thì việc có người đi tắm biển vào lúc 3- 4 giờ sáng là chuyện thường ) tôi rảo bước thật nhanh hướng về phía biển cho kịp giờ hẹn. Xuống tới bãi cát, tôi đưa mắt nhìn quanh dò xét địa thế, bãi biển vắng lặng không một bóng người, tôi yên tâm cởi bỏ áo ra chỉ mặc chiếc quần cụt, giả vờ làm vài động tác thể dục trước khi bước xuống nước. Từ xa, về phía biển có ánh sáng mù mờ của một chiếc thuyền câu đang tiến vào bờ, tôi lại đảo mắt nhìn quanh kiểm soát lần cuối trước khi rời bãi cát. Bước xuống nước, tôi nhoài người bơi nhanh về hướng chiếc thuyền câu, trả lời đúng mật mã, một bàn tay vươn ra kéo tôi lên chiếc thuyền. Thuyền lướt nhẹ trên mặt biển hướng về " Hòn Tre " cá nhân tôi thì phải nằm sát xuống khoang thuyền không được ngồi dậy cho đến khi tới chổ ẩn nấp ngoài đảo Hòn Tre. Hòn Tre là một hòn đảo lớn, nằm cách bờ biển và hải cảng Nha Trang khoảng chừng 6 cây số, cư dân trên đảo này rất ít chỉ chừng vài chục gia đình, hầu hết đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Nơi đây cũng là nơi ẩn nấp của các tàu thuyền và ngư dân mỗi khi gặp gió bão. Con thuyền chạy được chừng hơn tiếng đồng hồ thì tới một cửa động nằm khuất sâu vào phía trong trên đảo Hòn Tre, rất khó mà tìm thấy nếu không quen thuộc được địa hình nơi đây. Từ phía ngoài nhìn vào, tôi chỉ nhìn thấy một màu tối đen, bằng ánh sáng của cái đèn (pin ) do người ngồi trước mũi soi sáng, chiếc thuyền câu từ từ lướt nhẹ vào động. Tôi được bỏ xuống đây để ẩn trốn chờ đêm đến sẽ ra " tàu lớn " một tốp 5 người đàn ông chạy ra đón tôi, ai nấy đều trần như nhộng, không mặc một thứ gì trên người ( sau này thì tôi cũng như họ vì không khí trong động rất oi bức khó chịu ) họ là những người đã đến trước tôi từ đêm hôm trước, cũng để chờ để ra tàu lớn. Trời đã sáng tỏ, nhưng từ phía bên trong động, chúng tôi nhìn ra bên ngoài cũng chỉ nhìn thấy được một vệt ánh sáng rất mờ, yếu ớt chiếu sáng vào trong động. Lúc này trong động chúng tôi cũng đã lờ mờ nhìn thấy được nhau, thật là một cảnh tượng sống động có một không hai mà trong cuộc đời của tôi đã được tận mắt nhìn thấy, 5 ông A Đam của thời kỳ hồng hoang, ăn lông ở lỗ, trên người không một mảnh vải che thân, đang đứng giữa một thạch động thiên nhiên thì thào to nhỏ với nhau, vì cứ sợ bên ngoài nghe được. Nhưng thật ra thì có hét to lên cũng chẳng có ai người ta nghe thấy. Không khí trong động đã bắt đầu oi bức dần lên, tôi cũng phải lột bỏ cái quần cụt mang trên người để trở thành người tiền sử như những người khác. Qua câu chuyện, tôi được biết nơi đây là nơi cất giấu dầu chạy máy dùng cho chuyến vượt biển, mỗi ngày một ít số dầu tồn trữ được tăng dần lên theo với thời gian, và đây là giai đoạn chót cho nên 5 người họ đã ở lại luôn trong thạch động, chờ tối nay thì sẽ chuyển sang tàu lớn. Tôi được chia cho một ít cơm với muối mè đã được vắt cục lại với nhau để đở đói chờ đêm đến ra tàu lớn, nằm ngã lưng trên mặt đá lởm chởm, tôi liên tưởng đến chuyến vượt biển đêm nay và cầu nguyện ơn trên cho mọi việc được thông suốt, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến tương lai không biết rồi sẽ đi về đâu, tôi bồi hồi tất dạ. Đêm đến, ánh đèn pin từ cửa động chiếu ánh sáng vào, cùng với tiếng người nói chuyện với nhau. Rõ ràng là không phải những người trong ban tổ chức, mọi người nín thở chờ đợi, mọi người đều nằm ép sát mình xuống mặt đá, không dám cử động mạnh, cũng may là từ phía ngoài nhìn vào thì chỉ thấy một màu tối đen, nên chúng tôi đã không bị phát giác. Thời gian chờ đợi tưởng chừng như vô tận, sau cùng thì nhóm người đó cũng bỏ đi, chúng tôi thở ra nhẹ nhõm. Một anh trong nhóm chúng tôi cho biết, đó là những người đi " soi mực " ban đêm và anh đoan chắc rằng họ chỉ vô tình đi lạc vào đây mà thôi. Vào khoảng giữa đêm thì chiếc thuyền câu liên lạc đã trở lại thông báo cho biết là: tối nay không thể khởi hành được vì có sự trục trặc do lý do an ninh. Mọi người lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng đành phải nhận lấy phần lương thực cho ngày mai và tiếp tục chờ đợi. Thời gian chờ đợi trong thạch động dường như dài vô tận, chúng tôi chỉ có việc ăn xong rồi nằm hoặc đi lại cho giãn gân cốt, trò chuyện thì hạn chế tối đa vì lo sợ bị phát giác.

Một ngày một đem đã trôi qua, mọi người nôn nóng chờ tin từ con thuyền liên lạc, bóng đêm lại phủ đầy bên ngoài cửa động, con thuyền liên lạc đã trở lại và tiếp tục báo tin buồn vẫn chưa thể khởi hành được, chúng tôi nóng ruột thấy rõ, người đưa tin thì chỉ làm nhiệm vụ đưa tin và chuyển lương thực cho chúng tôi xong thì rút lui. Đêm thứ ba, bóng con thuyền đưa tin đã trở lại, lần này có vẻ hối hả hơn hai đêm trước, theo sau nó là ba chiếc thuyền câu khác nối đưôi nhau tiến vào thạch động, tôi đoán là giờ khởi hành đã tới. Quả đúng như tôi dự đoán, chúng tôi được lịnh " bốc " toàn bộ số dầu chạy máy lên bốn chiếc thuyền câu cùng với mọi người rời thạch động ra tàu lớn. Giây phút quan trọng đã đến, chúng tôi lần lượt chuyển hết số dầu lên thuyền, còn chúng tôi thì nằm sát xuống thuyền bên trên được phủ một tấm nylon để che kín. Bốn chiếc thuyền câu theo hàng dọc lặng lẽ rời thạch động hướng về tàu lớn. Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi đã cập được sát tàu lớn đang bỏ neo chờ chúng tôi." tàu lớn " là một chiếc ghe đi biển của ngư dân, dài khoảng 15 thước, rộng chừng 3 thước, mà dân trong nghề đi biển gọi là " 3 lốc đầu bạc ", dầu được chuyển cấp tốc và nhanh chóng lên tàu lớn, chúng tôi cũng đã lần lượt leo lên tàu lớn. Tàu nhổ neo, chạy ở vận tốc bình thường như là một chiếc tàu đánh cá bình thường khác đang hoạt động quanh đó. Tôi leo lên mui tàu tìm chổ ngồi, tôi đã giật mình kinh ngạc khi nhìn thấy toàn bộ số người có mặt trên tàu. Đông quá! chổ nào cũng có người ngồi chen chúc, nhưng rồi tôi cũng không lấy làm quan tâm cho lắm, miễn sao con tàu cứ tiếp tục hướng mũi ra khơi hướng về Philippine. "tháng ba bà già đi biển " câu thành ngữ của những người hành nghề đánh cá, rất đúng trong trường hợp của chuyến vượt biển đêm nay. Mặt biển phẳng như gương, bầu trời trong vắt với muôn vì sao lấp lánh.

Sau khi đã bỏ xa khu vực đánh cá trong vùng, con tàu mở hết tốc lực hướng mũi ra khơi. Mặt trời đã ló dạng từ phía chân trời, trời đã dần sáng tỏ, từ trên mui tàu tôi có dịp quan sát rõ hơn toàn bộ khung cảnh trên tàu, điều khủng khiếp đập vào mắt tôi đầu tiên là mặt nước biển chỉ cách bẹ tàu có chừng non 1 thước, chứng tỏ con tàu đang bị khẳm vì chở nặng con tàu như đang oằn mình trườn tới phía trước với sức nặng vượt quá mức cho phép. Trên khoang tàu la liệt là người, trước mũi, sau khoang, chổ nào cũng có người. Nắng đã lên cao, tuy mới sáng sớm nhưng nắng giữa đại dương đã mang lại cái nóng khó chịu trong người rồi, vài người đã cởi áo ra cũng như tận dụng hết tất cả những gì khả dĩ có thể che nắng được để tránh cái nắng đã bắt đầu gay gắt. Chỗ duy nhất có thể tránh nắng được là cabin tàu đã được dành riêng cho gia đình chủ tàu, các hầm tàu bình thường dùng để làm nơi chứa cá sau khi thu hoạch được, đã được gỡ bốc nắp hầm đi dùng làm nơi tránh nắng, nhưng có lẽ dưới hầm tàu không khí quá ngột ngạt oi bức nên cứ chốc chốc lại có người trồi lên để hứng lấy khỏang không khí trống trải trên tàu, có người leo lên khỏi miệng hầm thì cũng có người lại chui xuống dưới hầm tàu, cái quy trình " cắc cớ " này cứ thế mà tiếp diễn trong suốt cuộc di hành.Vài tiếng khóc của trẻ em đã nổi lên vì khát nước, chủ tàu ra lịnh cung cấp nước uống cho mọi người, người lớn thì được ba nắp " bi đong " con nít được gấp đôi trong ngày đầu tiên, cứ cách khoảng chừng 1 giờ đồng hồ thì lại cấp tiếp cho con nít, người lớn thì phải chịu nhịn lâu hơn. Vì ngồi trên mui cabin nên tôi đã nói chuyện được với gia đình chủ tàu, theo như họ cho biết thì chuyến đi đã bị gặp khó khăn do địa điểm bị tiết lộ ra bên ngoài bởi những người chung vàng cho chuyến đi, do đó thân nhân của những người này đã " canh me " rất sát chuyến đi. Đó cũng là lý do khiến chúng tôi phải chờ đợi trong thạch động hết hai ngày đêm, đêm thứ ba chủ tàu quyết định phải ra đi bằng mọi giá trước khi việc đổ bể. Tàu cập sát bờ biển nơi " kho gạo" để bốc người, số người dự trù chính thức là gần 60 người. Không ngờ, khi tàu cập vào bờ thì người ở mọi ngõ nghách túa ra leo lên tàu, và vì không muốn bị lộ nên chủ tàu đành phải chở hết số khách không có trong danh sách, sau khi kiểm soát lại thì được biết là con số người đã lên đến hơn 130 người.

Trời đã vào chiều, gió thổi lạnh, một đàn cá heo " dolphin " bơi cập theo hong tàu trông rất đẹp mắt, mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống chân trời, bóng tối bắt đầu phủ xuống, con trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đầu, bóng con tàu trông thật cô đơn giữa biển cả mêng mông, con người đã trở nên vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, đâu đó văng vẳng tiếng cầu nguyện, lúc đầu nhỏ, sau to dần lên, và không hẹn hầu như mọi người trên tàu đều cầu nguyện theo tôn giáo mình. Biển hoàn toàn vắng lặng, không có bóng một con tàu nào qua lại, không gian là một màu đen che phủ đến lạnh người, con tàu vẫn lầm lũi lướt tới, tôi được anh tài công người của chủ tàu đưa cho một " tấm bạt " loang đầy dầu mỡ để che lạnh, tôi cùng vài người khác quây quần phía bên trong tấm bạt cho bớt lạnh. Một ngày một đêm đã trôi qua trong an bình, mọi người thầm cảm tạ ơn trên đã che chở cho con tàu. Ngày thứ hai, nắng dường như gay gắt hơn, nắng như đổ lửa xuống những tấm thân đã rộp lên vì bị phỏng nắng, tiếng con nít khóc vang trời. Nước ! nước đã trở thành một thứ quan yếu bật nhất trên tàu, chủ tàu đã cử bốn thanh niên lực lưỡng đứng canh gác khu vực để nước. con nít được ưu tiên tăng lượng nước uống lên từ 6 nắp lên 8 nắp, nhưng người lớn thì bị giảm xuống chỉ còn có một nắp mà thôi. Ngày qua đi, đêm lại xuống, tiếng kinh cầu lại vang lên, thỉnh thoảng lại có tiếng nôn oẹ vang lên, đoàn lữ hành nằm dã dượi trân mình hứng chịu khí hậu lạnh lẽo của đại dương về đêm. Ngày hứng chịu cái nắng khủng khiếp, đêm về lại phải đón nhận cái lạnh, chỉ mới có hai ngày mà những con người khốn khổ đã teo hóp lại, sức đề kháng dường như đã không còn nữa. Ngày thứ hai cũng trôi qua bình an, nhưng đoàn người thì đã hoàn toàn đuối sức, ai nằm chỗ đó, phó mặc cho con tàu muốn đưa mình đi tới đâu thì đi.

Trưa ngày thứ ba thì sóng gió đã nổi lên, mặt biển đã không còn phẳng lặng nữa, gió đã nổi lên kéo mạnh từng cơn, bầu trời vần vũ, mây đen kéo về đen kịt, từ xa từng ngọn sóng bạc đầu đang kéo tới. Sóng to , gió mạnh, khiến con tàu chao đảo liên tục, từng cơn sóng cao vời bốc con tàu lên cao, nhìn xuống dưới là một hố sâu thẳm đến rợn người. Tôi cùng những người khác trên mui phải leo xuống khoang tàu, vì quá nguy hiểm nếu cứ tiếp tục ở lại trên mui tàu. Đang ở giữa trưa mà tôi cứ ngỡ rằng là đang lúc chiều tối vì bầu trời tối đen, chủ tàu trấn an mọi người rằng :" Đây là chuyện thường thôi, chỉ là " gió Nam " gió Nam thì mấy người làm nghề biển coi như cơm bữa." Hư thật ra sao không biết, mhưng mọi người đã quá hoảng sợ và trở nên nhốn nháo, khiến con tàu đã bị sóng nhồi chao đảo lại thêm chòng chành như muốn lật úp. Chủ tàu phải hét lớn ra lịnh, không được nhốn nháo, nếu không muốn tàu bị lật thì ai ở đâu ngồi đó. Con tàu chuyển mình kêu răng rắc như muốn vỡ ra từng mảnh nhỏ, khiến mọi người đang lúc hoảng sợ càng thêm hoảng sợ, tiếng than khóc, tiếng gọi nhau vang lên thảm thiết, người ta dồn cục vào với nhau như để tìm sự che chở cho nhau. Mưa đã bắt đầu trút xuống, ngày càng nặng hột hơn, mưa giăng trắng xóa cả một khoảng không gian rộng lớn giữa đại dương, con tàu vẫn trồi lên hụp xuống tưởng chừng như muốn hất văng những thuyền nhân xuống biển. Con tàu đã phải chuyển hướng, không thể nào đi theo hướng đã định mà phải cập theo sóng để tránh cho tàu khỏi bị lật úp, người tài công chính của tàu, người nắm giữ sinh mạng của hơn 130 thuyền nhân, giờ đây đang gồng mình ôm chặt bánh lái với sự giúp sức của hai người khác để giữ cho con tàu khỏi bị lật. giữ cho con tàu khỏi bị lật đã là một việc vô cùng khó khăn lắm rồi, việc nhận rõ phương hướng đã không còn được đặt ra nữa. Con tàu đã thật sự lạc mất phương hướng, mặc cho sóng gió đưa đẩy, mọi người chỉ còn biết cầu nguyện và phó mặc số mệnh vào sự may rủi mà thôi. Cơn bảo vẫn tiếp tục quần thảo từ trưa đến tối, nhồi con thuyền xoay vòng giữa cơn bão dữ, những người trên tàu giờ đây đa số đã phải chui vào hầm tàu để tránh khỏi bị hất văng xuống biển. Đến tối thì cơn bão chấm dứt, mọi người ngoi ngóp bò dậy, may mắn thay suốt cơn bão dữ mọi người vẫn được bình an dù đã phải trải qua một ngày kinh hoàng khiến ai nấy không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc tiếp tục di hành thêm nữa. Có ánh đèn ! có ánh đèn ! một người la to, rồi nhiều người khác cùng la, cứ tưởng như là mơ. Nhưng quả thật, từ hướng bên phải của con tàu có ánh đèn leo lét khi ẩn khi hiện do sự trồi lên hụp xuống của con tàu.Tài công hướng mũi con tàu chạy thẳng vào nơi có anh đèn, trông thì gần, nhưng thật ra thì tàu phải chạy gần hai giờ đồng hồ mới đến được. càng đến gần thì mọi người nhận ra đó là một hòn đảo, đảo nhưng có ánh đèn, nghĩa là có người sinh sống trên đảo. Mọi người mừng rỡ quỳ tạ ơn trên đã dẫn dắt con tàu đến nơi bình an. Con tàu đang ngon trớn, bỗng nghe đánh..... ầm một tiếng lớn, tiếng máy tàu gầm rú liên hồi, anh tài công la lớn " Ghe mắc rạng " anh tài công cố gắng bằng mọi cách để xoay chuyển con tàu nhưng đành bó tay đứng nhìn, nhìn mũi tàu ghếch cao ở phía trước, tôi đoán là con tàu đã " cưỡi " lên đá ngầm rồi. Từng đợt sóng mạnh mẽ đánh vào mạng tàu như muốn phá vỡ con tàu ra làm trăm mảnh. Nhìn vào phía trong đảo, thấy không còn xa lắm, từ chổ con tàu gặp nạn vào đất liền khỏang chừng vài trăm thước. Phải rời tàu di tìm đi tìm phương tiện cấp cứu thôi, có người lên tiếng đề nghị. Thế là một số trai tráng khỏang chừng 20 người trong đó có tôi, tình nguyện rời tàu đi vào đảo tìm phương tiện cấp cứu, chúng tôi được quấn dây thừng thật chặt rồi lần theo đó mà vào chổ nông hơn để đi vào bờ, thật may mắn là vào lúc đó thủy triều đang rút xuống cho nên chúng tôi có thể đi bộ vào đảo được, dưới chân tôi là muôn ngàn những con cầu gai cùng với các loại vỏ nghêu, vỏ ốc, mà tôi đã phải dẫm lên khiến cho lòng đôi bàn chân bị cắt đứt ngang dọc, khiến đau rát buốt óc. Chúng tôi lần mò, nối đưôi nhau tiến vào đảo, đặt chân được lên bãi cát trên đảo, chúng tôi nằm nhoài ra nghĩ lấy sức. Hồi tưởng lại cơn bão vừa qua, tôi vẫn còn hãi hùng và thầm cám ơn ơn trên đã che chở, bằng không có lẽ giờ này chúng tôi đã vùi thây giữa lòng biển cả rồi. Lấy lại được sức, đoàn người tiếp tục bước sâu vào trong đảo, riêng tôi thì còn quá mệt nên cũng chẳng vội vã bước theo họ. Vì lý do đó, cho nên tôi trở thành người cuối cùng ở sau chót của đoàn người. Bất ngờ, hàng loạt đèn pha từ phía trong đảo bật sáng chiếu thẳng vào chúng tôi. Có tiếng hô to..... ai đó, đứng lại, vào đây làm gì? Lúc đầu chúng tôi nghe không rõ vì gió biển thổi cùng với tiếng sóng, hơn nữa họ lại nói tiếng Việt phát âm giọng Bắc khiến chúng tôi ngỡ là một thứ tiếng ngoại quốc, có thể là tiếng Phi. Chúng tôi đã vô cùng mừng rỡ vì biết được mình đã tới nơi chốn mà mình muốn. Chúng tôi vừa đưa cả hai tay lên trời, vừa làm dấu cho họ biết rằng chúng tôi đến đây là do thiện chí và cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng càng đến gần thì chúng tôi nhận ra rõ ràng là tiếng Việt chứ không phải là tiếng ngoại quốc. Có tiếng hô qua loa phóng thanh. Tất cả đứng lại..... nếu không sẽ bị bắn bỏ. Trời ạ...... chúng tôi đã lạc vào đảo của Việt Nam rồi! chúng tôi lập tức đứng lại, hai tay vẫn đưa thẳng khỏi đầu, chúng tôi hội ý với nhau là: để qua mặt được họ, chúng tôi phải nói rằng tàu vượt biên do nhà nước tổ chức ra đi. Khi nói như vậy, chúng tôi ngầm hai ngụ ý: Thứ nhất, khi biết là chúng tôi ra đi do nhà nước tổ chức thì họ sẽ tìm phương tiện giúp chúng tôi. Thứ hai, nếu không giúp được gì thì họ cũng sẽ không làm khó dễ chúng tôi, trường hợp tệ lắm là họ sẽ bắt trở về đất liền để đi tù, trong trường hợp này thì mọi người sẽ an toàn hơn cả. Giọng nói kia tiếp tục vang lên. Tất cả đứng yên tại chỗ đợi lịnh......Thời gian lặng lẽ trôi qua trong ngột ngạt. Khoảng chừng hơn 10 phút, thì đột nhiên từ phía bờ cát một loạt lửa da cam tóe lên cùng lúc với những tràng súng liên thanh nổ rền trời, tôi giật mình ngó về phía đoàn người. Tôi như bị hoa mắt vì thấy máu từ các thây người phun ra khắp nơi, thây người đổ ập xuống, tiếng rên la thảm thiết vang lên như muốn xé tan màn đêm. Việt Cộng giết người.....nghĩ thế xong là tôi vội vàng bò hết tốc lực để tránh ra xa khỏi đoàn người và đứng lên vùng chạy về phía biển, vài người khác trong đoàn người cũng cố gắng mang thương tích vùng chạy ngược trở ra biển, một số chỉ chạy được nữa chừng rồi thì ngã xuống nằm lại luôn. Bằng tất cả sức lực còn lại trong người, tôi chạy thẳng và nhào người ra biển, dẫm lên cầu gai, võ nghêu, võ ốc mà chạy càng xa, càng tốt, trong tôi bây giờ không còn có cảm giác đau đơn do bị cầu gai đâm thủng chân nữa, tôi hoàn toàn ở trong trạng thái vô cảm. Sau cùng thì tôi cùng vài người khác cũng đã chạy ra được nơi con tàu mắc cạn. Mọi diễn biến trên đảo đã được chúng tôi tường thuật lại, thực ra thì mọi người đã nghe được tiếng súng nổ tuy không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng cũng phần nào đoán ra được là đã co chuyện không lành. Khi nghe chúng tôi báo cáo lại mọi chuyện, mọi người đã vô cùng hoảng sợ. Tất cả đàn ông, trai tráng trên tàu, đều được huy động xuống để đẩy con tàu ra khỏi vùng đá ngầm. Trời đã phụ lòng người ! sức của con người làm sao chống chọi lại với sức mạnh của thiên nhiên, chúng tôi cố đẩy được con tàu xê dịch đi một chút, thì lập tức các ngọn sóng lại đánh đẩy con tàu trở về vị trí cũ. Đang lúc tất cả đang cố gắng đẩy con tàu thì súng lại nổ vang rền, đạn bay như rãi về phía con tàu. Có thiếng thét kinh hãi... có người trúng đạn... có người trúng đạn, tiếp theo là những tiếng khóc, tiếng kêu gào, khung cảnh rối loạn cả lên, mạnh ai người đó chạy tìm chỗ nấp, nhưng nấp vào đâu bây giờ, giữa trời nước bao la và con tàu khốn khổ đang phải hứng chịu những vết đạn từ những con người tàn bạo? Súng đã thôi nổ liên hồi, nhưng vẫn tiếp tục nổ cầm chừng, và thỉnh thoảng lại có người gào lên kêu cứu khi thân nhân mình trúng đạn. Phải ở vào hoàn cảnh trên thì mới có thể cảm nhận được hết cái không khí dã man, tàn bạo, đầy khủng bố mà không thể có ngòi bút nào lột tả được hết. Súng vẫn nổ lai rai, đoàn người vẫn cố gắng trong tuyệt vọng để đẩy con tàu. Nhưng bất lực! hoàn toàn bất lực! mọi người đã kiệt sức vì đói lạnh, da thịt mọi người đã thâm tím đi vì lạnh. tất cả đều buông xuôi leo lại lên tàu phó mặc cho trời. Suốt đêm đạn vẫn nỗ, người tiếp tục chết vì đạn, tiếng kêu khóc vẫn cứ vang lên mỗi khi có người trúng đạn chết. Từ nơi xa xa, có thấp thoáng ánh đèn chiếu sáng từ một hòn đảo khác bên cạnh.
(nhạc buồn)

Trời sáng dần, tiếng kẻn buổi sáng phía trong đảo vang lên. Đoàn người tội nghiệp dõi mắt về hướng đảo trông chờ phép lạ. Trên đảo nhộn nhịp hẳn lên, bộ đội chạy tới chạy lui, gia đình thân nhân vợ con của bộ đội cũng chạy ra đứng nhìn con tàu nghiêng ngã. Đàn bà, con nít trên tàu được cho lên mui tàu hướng về trong đảo quỳ lạy xin được cứu giúp. Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những con người Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng tay bắn giết đồng bào mình. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm nay chưa bao giờ có những trang sử ô nhục như thế này. Ô kìa.... phép lạ xảy ra, có bóng của những bàn tay vẫy phất như báo cho thuyền nhân biết là họ có thể vào bờ được rồi, những cái vẫy tay mời gọi từ phía trong đảo đã làm mọi người như sống lại. Ưu tiên cho đàn bà và con nít vào trước, dây thừng được lấy ra quấn chặt vào mình, cùng với sự giúp sức của vài thanh niên, sợi dây thừng dài được nối từ con tàu vào thân của những người xuống tàu lôi vào bờ. Đoàn người rời con tàu xa dần dần tiến vào bờ, dây thừng vẫn được quấn chặt vào người, cách bờ chừng 100 mét nhưng vẫn chưa thấy người từ trên bờ ra cứu giúp. Bỗng nhiên súng lại nổ. (Tiếng súng) Trời ơi ! súng nổ nhắm vào những người đang quấn chặt dây thừng ngang mình để vào bờ, thế là chỉ còn có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi dây oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai sống sót qua trò chơi man rợ của lủ người không tim trên đảo. Tiếng kêu gào thảm thiết lại vang lên của những người chồng, người cha, khi nhìn thấy cảnh vợ con mình bị bắn giết vô cùng man rợ như trên. Đàn bà con nít lại được đưa lên mui tàu chấp tay hướng vào đảo mà van lạy xin được buông tha, đáp ứng lại những lời van xin thảm thiết này là những tràng đàn nổ tiếp theo, bóng người đàn bà với tư thế hai tay chấp vào nhau vì đang quỳ lạy ngã chúi xuống biển từ trên mui tàu, cùng lúc với các em trẻ bật ngữa ra sau dẫy chết vì trúng đạn. Tàn bạo, man rợ, không thể nào tả hết.

Nắng đã lên cao, từ trong đảo bóng dáng bộ đội cộng sản chạy lại ụ súng được mọi người trên tàu nhìn thấy rõ mồn một. Tấm phông che súng được kéo xuống, nòng súng được hạ xuống. Trời ơi !..... một cây súng pháo với nòng súng dài có đến 10 thước đang hiện ra trước mắt mọi người trên tàu. Kinh hãi,,,,, hỗn loạn trên tàu đã diễn ra, chỉ cần một trái đạn pháo từ khẩu súng đó mà trúng vào con tàu thì tất cả chỉ còn là tro bụi. Cầu nguyện, và dọn mình chờ chết, vì sẽ không còn ai sống sót sau khi trái đạn được khai hỏa bắn trực xạ vào một mục tiêu cố định là con tàu. Nhưng không, tấm phông đã được kéo lại che đậy khẩu súng, nòng súng đã được nâng lên cao, không còn ở vị trí sẵn sàng nhả đạn nữa Bóng dáng bộ đội lại chạy nhốn nháo, và họ đang lấp ráp chân " đế " của cây súng cối. Dã man, tàn bạo, bộ đội cộng sản Việt Nam vì tiếc một quả đạn súng pháo lớn, nên thay vào đó là đạn súng pháo nhỏ hơn, và dó là trò chơi giết người của họ.

Ầm.... quả đạn đầu tiên được bắn ra rớt xuống biển cách con tàu chừng vài thước, mọi người chưa kịp hoàn hồn thì. Ầm.... quả đàn thứ hai rớt chính xác ngay mũi tàu, thịt xương văng tung tóe, máu đổ chan hoà, cùng lúc với hàng loạt đạn lớn nhỏ vang rền khắp nơi, tay chân, máu thịt, vung vãi ở khắp mọi nơi trên tàu, con người lăn lộn, vật vã với vết thương, khung cảnh của địa ngục trần gian đang phơi bày trước mắt tôi. Sau tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm bên cạnh tôi. Tôi vùng dậy, nhoài mình phóng ra khỏi con tàu, một ngọn sóng cuốn tôi ra xa cùng lúc với một trái đạn khác rớt ngay giữa thân tàu, con tàu gẫy đôi và chìm xuống biển. Tất cả sự kiện xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ, sau khi tiếng kẻng buổi sáng trên đảo vang lên.

Chung quanh tôi xác người chết trôi vất vưỡng khắp nơi, những người còn sống sót thì vẫn phải đang lặn hụp với từng cơn sóng biển, và từ trong bờ đảo những tên bộ đội khát máu vẫn giương súng nhắm bắn vào những người sống sót, rất may là nhờ sóng biển nhồi lên hụp xuống mà cái đầu tôi là một mục tiêu khó nhắm đích của những kẻ sát nhân, có người đang cố gắng bơi ra xa khỏi tầm đạn, nhưng nữa chừng thì tôi bỗng thấy nằm bất động trôi vật vờ trên biển, tôi biết rằng họ đã trúng đạn hoặc chết vì vết thương quá nặng.

Thủy triều đã lên cao, sóng biển không còn đánh mạnh nữa, và cũng chính vì vậy mà những người sống sót khó tránh khỏi tầm ngắm của lủ sát nhân. Tất cả đã vĩnh viễn ra đi, tôi cũng đã trôi ra xa khỏi tầm đạn và đang nằm chơi vơi giữa đại dương bao la, khung cảnh hoàn toàn im lặng đến rợn người. Tôi nhắm mắt lại cầu nguyện, nghĩ đến gia đình đang còn ở lại đất liền xa xôi, chỉ trong chốc lát nữa thôi những con cá mập sẽ kéo tới và tôi sẽ chết vì bị cá mập ăn. Nghĩ tới cá mập, tôi hoảng sợ mở mắt ra. Và kìa, từ hướng xa tôi nhìn thấy một chiếc thuyền câu đang trôi về hướng tôi. Thoạt đầu, tôi cứ tưởng bộ đội công sản Việt Nam hạ quyết tâm đuổi tận, giết tuyệt, nên không dám bơi lại gần. Nhưng nhìn kỷ lại thì tôi nhận ra trên chiếc thuyền đó hoàn toàn im lặng, không có một sự di động của bất cứ người nào trên thuyền, tôi hơi vững tâm và cố gắng bơi lại gần thuyền. Nắm được be thuyền và leo lên thì tôi trong thấy có người trên thuyền, nhưng mọi người dang nằm ở tư thế ẩn nấp. Thấy tôi leo lên thuyền họ bèn quay lại sụp lạy tôi và xin tha mạng, tôi không có thời giờ giải thích gì cả, bật ngữa ra nằm bất động trên sàn tàu. Sau khi đã hoàn hồn và hỏi chuyện nhau thì tôi mới vỡ lẽ ra họ cũng trôi dạt vào đây và cũng bị bắn như chúng tôi. Thuyền của họ xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà Rịa, trên tàu gồm 13 người gồm 11 người đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị vào khoảng 9 tuổi, cậu em khoảng 6 tuổi. Ba của hai em bé này đã bị bắn vỡ đầu nằm chết ở phía mũi thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát mất phần vai hai bên, hai cánh tay chỉ còn dính liền bởi phần da còn lại trên vai, đang nằm thôi thóp thở dưới hầm máy, tình trạng cho thấy là anh này sẽ khó thoát chết do vết thương quá nặng. Trong khi con thuyền đang trôi vật vờ như thế thì cũng có được 4 người khác từ chiếc tàu bị bắn chìm trước đó thoát chết, leo lên được con thuyền mà chúng tôi đang có mặt. Như vậy là tổng cộng số người thoát chết của hai chiếc thuyền là 16 người, con số trên 130 người đã bị bắn chết vùi thây dưới lòng biển lạnh.

Con thuyền cứ tiếp tục trôi vật vờ trên biển, nhưng càng lúc càng rời xa khu vực nguy hiểm, lúc này đã vào khoảng 10 giờ sáng, nhìn sang bên trái của con thuyền, chúng tôi nhìn thấy một hòn đảo khác cách chúng tôi không xa lắm. Nghĩa là con thuyền của chúng tôi đang nằm giữa vị trí của hai hòn đảo. Hòn đảo này tôi đoán có lẽ là hòn đảo mà chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh đèn từ đêm hôm trước, đêm hôm bị bộ đội cộng sản Việt Nam tàn sát. Chúng tôi quyết định phải rời xa hai hòn đảo này càng sớm càng tốt nếu còn muốn sống. ( Đây là một quyết định sai lầm mà chúng tôi đã phải trả giá rất đắt, sẽ được nói đến ở đoạn sau ) chúng tôi dùng mái chèo cố gắng chèo con thuyền ra khơi, vì bình xăng của con thuyền đã bị bắn vỡ chảy hết dầu. Gió đã đổi chiều, thổi con tàu tội nghiệp của chúng tôi trôi vào cõi vô định. Con thuyền này dài chừng 6 thước, rộng gần 2 thước, loại thuyền dùng để đi câu ven bờ biển chứ không thể đi xa hơn. Vậy mà nó cũng đã chở 13 con người vượt được hàng trăm hải lý để đến nơi đây cùng chung số phận như chúng tôi.

Chiều xuống dần, không gian yên tỉnh, không có một bóng dáng của bất cứ một con tàu nào khác ngoài con thuyền của chúng tôi lạc lõng giữa đại dương. Tối đến, chúng tôi phát giác ra một chuyện chết người khác, con thuyền đang bị vô nước từ phía dưới lườn tàu, thế là chúng tôi tìm cách chặn nước không cho tràn vào, và cử người canh chừng để tát nước liên tục. cứ hai người cho mỗi phiên trực tát nước, số phận của 16 người sống sót trên con thuyền này sẽ tùy thuộc vào hai người có nhiệm vụ tát nước ra khỏi tàu, nếu chẳng may họ buồn ngủ, hoặc mệt quá mà chểnh mảng thì con thuyền sẽ chìm và mọi người cũng sẽ chìm theo con thuyền, nhưng biết làm sao hơn đây! khi mà tất cả mọi người ai cũng còn mang nét mặt kinh hoàng vì mới vừa phải trải qua một biến cố quá đau thương và.... phó mặc cho mọi việc cho Thượng Đế.

Một đêm kinh hoàng trôi qua, người sống phải sống cùng xác chết trên một diện tích vô cùng chật hẹp của con thuyền, vấn đề vệ sinh chung đã được đặt ra, là phải giải quyết cái xác chết vẫn còn ở trước mũi thuyền. Thật là tội nghiệp cho hai đứa trẻ, chúng kêu khóc thảm thiết không cho thủy táng người cha thân yêu của mình. Chúng tôi cũng đành phải chìu lòng của hai em, nhưng sang đến ngày thứ ba thì chúng tôi phải giấu hai em mà thủy táng người quá cố để bảo vệ sức khỏe cho những người còn lại. Sau này biết được các em đã lăn lộn khóc lóc vô cùng bi thảm, chúng tôi chỉ còn biết rớt nước mắt dỗ dành hai em. Tình trạng của anh thanh niên bị thương dưới hầm tàu đã trở nên tồi tệ hơn vì không có thuốc men chạy chữa, vết thương đã thối rửa, biết là anh cũng sẽ không qua khỏi, tối ngày thứ ba, sau khi thủy táng người đàn ông ba của hai đứa trẻ, chúng tôi quyết định nấu cho anh chút cháo trộn với đường cát như là bửa ăn tối cuối cùng trước khi ra đi, tôi là người đã đút cháo cho anh ăn, suốt bửa ăn anh cứ liên tục kêu cứu cầu sống, tôi chỉ còn biết gạt lệ an ủi với anh là cố gắng chút cháo, rồi mọi người sẽ được cứu sống. Sáng hôm sau, chúng tôi thấy anh đã nhắm mắt lìa đời, thân thể anh tái xanh vì đã không còn máu. Chúng tôi cũng đã thủy táng anh và cầu nguyện cho linh hồn anh sớm được siêu thoát.

Đã hơn một tuần lễ lênh đênh trên biển, có một điều thật lạ lùng là chúng tôi không hề nhìn thấy bất cứ một thương thuyền nào qua lại vùng biển này cả. Không lẽ chúng tôi đã lạc vào một vùng biển chết? Lương thực còn được mấy kí gạo sau ngày bị bắn dùng để nấu cháo cầm hơi cũng đã hết, nước uống thì đã hết từ trưa, cơn đói khát đang đốt cháy ruột gan mọi người. Một ngày đói khát đã bắt đầu và sẽ còn tiếp tục không biết kéo dài đến bao lâu. Cầu nguyện, chỉ còn có biết cầu nguyện thôi, tất cả mọi việc đều đã được sắp đặt và an bày do Thượng Đế, con người đã trở thành vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ.

Lại một ngày đói khát nữa, cái khát làm cho da thịt như muốn bốc khói, môi nức nẻ, đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thức ăn, nước uống. Tội nghiệp hai đứa trẻ, suốt ngày chúng cứ nói đến miếng ăn mà trước đây mẹ chúng làm cho chúng ăn, hoặc thứ nước uống mà chúng thích. Mọi người như mê loạn đi vì đói và khát. Dường như lời cầu nguyện của chúng tôi đã thấu tới trời xanh. Chiều hôm đó, trời đổ cơn mưa, những hạt mưa như những nước cam lồ trong chuyện thần tiên, tưới mát thân thể chúng tôi, chúng tôi say sưa ngữa mặt lên trời hứng lấy nước mưa mà uống, lấy thêm " can nhựa " trên tàu hứng lấy nước mưa dự trữ. Nhưng trời mưa lại dẫn đến một vấn đề khác. Thuyền ngập nước, thế là mọi người xúm vào tát nước cho thuyền khỏi chìm, rất may là cơn mưa không kéo dài. và còn may hơn nữa là từ đó cho đến ngày được cứu, cứ vài ngày lại có một cơn mưa ngắn giúp chúng tôi có đủ nước uống. Vấn đề nước uống đã được giải quyết, nhưng còn thức ăn? chúng tôi đã không còn được bất cứ một thứ gì để có thể ăn được. Cơn đói cứ dày vò, ám ảnh chúng tôi liên tục, người chúng tôi đã teo lại chỉ còn lớp da bọc lấy xương, hay nói cho đúng hơn là những bộ xương biết bò, vì chúng tôi không thể nào đứng vững được nữa. Một hôm tôi bò xuống hầm máy để cố gắng kiếm thử xem còn gì có thể ăn được không, tôi trông thấy một chai " xá xị " mới nhìn tôi cứ tưởng đó là một chai đựng dầu nhớt gì đó của mấy người thợ máy bỏ quên, nhưng tôi cứ cầm lên và ngữi thử. Một mùi thơm ngào ngạt bốc thẳng vào óc tôi, khứu giác tôi dường như mở ra tối đa để hít lấy mùi thơm đó. Mùi thơm của mỡ heo, đúng vậy, chai xá xị kia là một chai dùng để đựng mỡ heo dành để chiên đồ ăn của các ngư phủ. Tôi thọc ngón tay vào miệng chai và đưa lên miệng mút. Trời ạ! thật là một thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa hề được thưởng thức qua bao giờ, tôi cứ mút lấy mút để cái thứ nước sền sệt nhưng vô cùng tuyệt hảo đó. Chợt nhớ lại những người ở trên, đặc biệt là hai đứa trẻ, tôi bò trở lên với chai xá xị, không ai còn để ý đến tôi vì mọi người đều đã nằm liệt. Tôi bò đến hai đứa trẻ, thò ngón tay tôi móc một ít mỡ heo nhét vào miệng các em, như là một liều thuốc tiên các em bừng tỉnh lại, tôi ra dấu cho các em cứ bình tỉnh mà mút mỡ heo, nhắm chừng các em đã dần dần có chút sinh lực trở lại, tôi trút một ít mỡ heo vào cái chén nhựa cho các em, còn lại tôi dùng một chiếc đũa thọt vào chai xá xị có mỡ heo và kêu mọi người lại mút lấy chiếc đũa thần kỳ diệu. Nhờ có chai xá xị mỡ heo mà chúng tôi có được một bữa tiệc sang trọng nhất trong đời. Và cũng nhờ chút mỡ heo tuyệt vời đó mà em bé trai có chút sinh lực ngồi nghịch phá cái máy radio nhỏ xíu bất khiển dụng, cái radio bị vỡ lòi ra mấy sợi dây kẻm nhỏ, một bác lớn tuổi trên thuyền có sáng kiến uốn mấy sợi kẻm nhỏ đó thành những cái móc câu, dùng cước cột các móc câu đó lại, cạy các con ốc nhỏ bám theo be thuyền làm mồi. Kết quả thật bất ngờ khích lệ, buổi đầu tiên bác câu được hai con cá lớn độ bằng bàn tay người lớn. Cái cột buồm vô dụng được bác ấy chẻ ra từng miếng nhỏ dùng để nhóm bếp. Cũng may là trên thuyền còn có được cái hôp quẹt còn xử dụng được. Hai con cá được bác nướng lên chia đều cho mỗi người. Từ đó chúng tôi được chia ra làm công việc chẻ cột buồm để giữ lữa, bác ấy làm công việc câu cá. Ngày nào có được vài con cá thì bác chia đều cho mỗi người được một miếng bằng hai ngón tay, ngày nào không câu được thì mọi người nhịn đói uống nước mưa cho qua cơn đói.

Chúng tôi đã trôi trên biển 20 ngày qua rôi, nhưng vẫn không nhìn thấy bóng dáng của một chiếc thương thuyền nào, mỗi khi chiều xuống tôi thường bò lên trước mũi thuyền nằm trông ngóng bóng dáng một con thuyền. Nằm nhìn những con chim hải âu săn mồi trên biển mà lòng tôi tan nát, không ngờ rằng cuộc đời của mình lại kết thúc trong bi thảm như thế này. Sợ nhất là mỗi khi chiều về, màn đêm chuẩn bị buông xuống, chung quanh là một màu tối đen, không khí chết chóc cứ như lẫn quẩn đâu đây. Hoặc những khi trời nỗi cơn giông, từng lượn sóng cao như mái nhà bốc con thuyền lên cao, rồi nhận con thuyền xuống đáy, rồi lại bốc lên, cứ như thế kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liền khiến chúng tôi vô cùng sợ hãi. Tình trạng cô đơn giữa đại dương bao la kéo dài cho đến tuần lễ thứ ba thì chúng tôi nhìn thấy con tàu đầu tiên. Thật là không còn gì để diễn tả được nỗi vui mừng của chúng tôi, chúng tôi reo mừng, reo la cầu cứu, vì nghĩ rằng chắc chắn là mình sẽ được cứu. Nhưng, ô kìa ! chiếc thương thuyền vẫn lạnh lùngrẽ nước phăng phăng chẳng buồn ngó đến chúng tôi, mặc dù khỏang cách của đôi bên quá gần, gần đến nổi chúng tôi có thể nhìn thấy thủy thủ trên chiếc tàu buôn đang tập trung trên bong tàu để nhìn chúng tôi. Con tàu khuất dạng ở chân trời, chúng tôi ngỡ ngàng, hụt hẫng, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy ? Sao lại có những người vô lương tâm đến như vậy? thấy người sắp chết sao không cứu? ngần ấy câu hỏi cứ quay trong đầu tôi cho tôi đến khi tôi lịm người đi vì mệt mỏi và thất vọng.

Lại có thêm bóng dáng một chiếc tàu buôn từ đàng xa, như được tăng thêm sức, tôi cùng vài người khác vùng dậy trèo lên mui ra dấu cầu cứu, và cũng như chiếc tàu thứ nhất, họ lạnh lùng bỏ đi mặc cho chúng tôi kêu gào đến kiệt sức. Từ đó trở đi, mỗi ngày chúng tôi nhìn thấy hàng chục chiếc tàu buôn qua lại trong vùng nhưng không một chiếc nào chịu cứu vớt chúng tôi. Thậm chí, có ngày chúng tôi còn nhìn thấy hạm đội của Mỹ đang thao dượt trên biển với máy bay phản lực lên xuống trên các chiến hạm. Từ dữ kiện này, tôi đoán là chúng tôi đang ở đâu đó trong vùng vịnh Philipine. Chiều ngày thứ 30 trên biển, chúng tôi tuyệt vọng trong mòn mỏi, không còn hơi sức để kêu cứu nữa, mặc cho các tàu buôn vẫn qua lại nhìn chúng tôi sắp chết. Tôi nằm xoải trên mui con thuyền đưa mắt hững hờ nhìn chiếc tàu buôn mang hàng chữ Nhật chở đầy những cây gỗ với đường kính hai người ôm, chiếc tàu buôn đó, cũng như những chiếc khác trước đây, cũng lạnh lùng băng qua trước mặt chúng tôi mà đi thẳng, tôi cũng chẳng buồn ngó theo làm chi vì quá chán ngán với thế thái nhân tình. Khỏang độ hai tiếng đồng hồ sau, tôi đang nằm nhìn mặt trời xuống dần thì bỗng giật mình vì tiếng còi hụ ngân dài, tiếng còi hụ giữa biển khơi nghe vang dội, tôi nhổm mình dậy nhìn thì trông thấy từ đàng xa chiếc tàu buôn chở gỗ mà tôi nhìn thấy từ chiều đang tiến về hướng chúng tôi. Và..... Trời ạ ! thủy thủ trên tàu đang nhộn nhịp với dây thừng và phao cấp cứu, và quan trọng hơn nữa là nó đang giảm dần tốc độ để lựa thế lại gần thuyền chúng tôi mà tàu chúng tôi không bị lật do sóng vỗ. Dùng thân tàu to lớn như ngọn núi, chiếc tàu buôn chận lại các ngọn sóng đang vỗ về phía tàu chúng tôi như một bà mẹ đang bảo vệ đứa con bé bỏng của mình, các thủy thủ đang cố gắng quăng các sợi dây thừng sang phía chúng tôi. Họ đã cứu chúng tôi, sau khi đã cột được dây thừng vào thuyền chúng tôi, họ đã kéo được con thuyền cập sát hong chiếc tàu buôn, chiếc thang dây được buông xuống, chúng tôi từng người một dưới sự phụ giúp của các thủy thủ trên chiếc tàu buôn, chúng tôi đã lần lượt lên được chiếc tàu buôn an toàn. Leo lên được bong tàu chúng tôi ngã sóng xoài xuống và nằm im không cử động gì được nữa, vì tất cả sinh lực còn lại đã được dồn lại cho việc leo lên chiếc tàu buôn to lớn kia sau gần hai tiếng đồng hồ cố gắng thực hiện. Con tàu nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi được kéo theo sau chiếc tàu buôn, nhưng sau đó có lẽ vì lý do an toàn đã được cắt bỏ, nhìn chiếc thuyền bé nhỏ tội nghiệp đã cưu mang chúng tôi một tháng trời ròng rả trên biển đang từ từ chìm xuống biển, chúng tôi không hẹn mà ai cũng bật lên tiếng khóc chào vĩnh biệt con thuyền.

Tối đến, chúng tôi được cho uống nước mát ướp lạnh, một loại nước uống thông dụng của người Đại Hàn có pha đường. Thật là một cảm giác khó tả, khi cầm ly nước trong tay nhưng chưa uống được vì quá vui mừng vì đã được cứu sống, tất cả xảy ra như trong một giấc mơ. Sáng hôm sau chúng tôi được cho ăn cháo loãng với nước tương ( xì dầu ) chúng tôi ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng vì sợ chúng tôi bị bội thực, thủy thủ trên tàu đã không cho chúng tôi ăn nhiều, vậy mà cũng có người sau khi ăn xong bèn quay qua ói xối xả vì bội thực. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi được biết đây là một chiếc tàu chở mướn của một công ty hàng hải Nhật Bản với thủy thủ đoàn và Thuyền Trưởng là người Đại Hàn, chiếc thuyền đang trên đường chở gỗ từ Pakistan về Okinawa một hòn đảo nằm về phía cực Nam nước Nhật. Viên Hoa Tiêu cho chúng tôi biết diễn biến của sự việc như sau: Lúc chiều ( là lúc mà tôi nhìn thấy chiếc thuyền ) ông ta đã thấy con thuyền của chúng tôi và đã báo cáo lên Thuyền Trưởng xin phép được tiếp cứu, nhưng viên Thuyền Trưởng cho biết là ông ta không được phép làm vậy, nếu không tất cả nhân viên kể cả ông sẽ bị mất việc và gặp rắc rối, vì vậy mà chiếc tàu vẫn tiếp tục hải trình như tôi đã thấy. Tuy nhiên, viên hoa tiêu vẫn cứ tiếp tục van nài Thuyền Trưởng với lý do là sẵn sàng bị mất việc, chứ thấy người sắp chết mà không cứu là không được. Hơn nữa, theo tin tức khí tượng cho biết thì tối nay bão sẽ kéo tới và chắc chắn rằng con thuyền vượt biên sẽ bị nhận chìm xuống biển. Viên thuyền Trưởng đã khóc và chấp nhận vớt chúng tôi. Vị trí mà chiếc tàu buôn đã cứ chúng tôi nằm cách đảo Lữ Tống ( Luzon ) của Philippine khoảng 60 cây số. Và nếu chúng tôi có sống sót qua cơn bão này thì chúng tôi sẽ trôi ra tới Ấn Độ Dương, vì gió đã đổi chiều và chúng tôi sẽ khó có cơ hội được cứu thoát vì đó không phải là hải trình của tàu buôn.

Chúng tôi cũng đã tường thuật lại chuyến vượt biên kinh hoàng của chúng tôi cho Thuyền Trưởng và toàn thể thủy thủ trên tàu được biết. Sau khi nghe chúng tôi tường thuật, Thuyền Trưởng đã đánh điện vào đất liền thông báo cấp tốc,vì trước đó qua tin tức ông cũng đã biết được chuyến vượt biên kinh hoàng này do những người sống sót trước đó tường thuật lại. Số là trong cái đêm kinh hoàng dó, khi chúng tôi bị bộ đội cộng sản Việt Nam tàn sát dã man, thì có 8 người đàn ông nhìn thấy có ánh đèn trên một hòn đảo ở từ phía xa, cách nơi chiếc thuyền bị nạn chừng vài hải lý, nên thay vì ở lại chờ chết, họ đã lặng lẻ dùng các can nhựa có trên tàu để bơi về phía hòn đảo có ánh đèn đó để tìm sinh lộ. Họ đã tìm đúng sinh lộ, vì đó là hòn đảo thuộc chủ quyền của Philippine. Họ được cứu và đưa về đất liền ngay đêm hôm đó. Đêm đó, quân trú phòng trên đảo được lệnh báo động và sẵn sàng để cứu vớt các thuyền nhân mắc nạn, họ cho biết là có nghe tiếng súng nổ suốt đêm, và súng pháo kích sáng hôm đó, nhưng không thể làm gì khác hơn được là đứng nhìn, vì hòn đảo đang diễn ra cuộc tàn sát thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tóm lại, trong khi chúng tôi vẫn còn đang lênh đênh trên biển đúng một tháng, thì đã có 8 người trên chiếc " ghe ông Cộ " đã được cứu thoát do bơi sang đảo Phi.

Nhận được tin từ vị Thuyền Trưởng, Bộ Nội Vụ Nhật Bản đã đồng ý cho chúng tôi cập bến Okinawa, Thuyền Trưởng hoan hỷ loan báo tin này cho chúng tôi biết và chúc mừng chúng tôi thoát nạn. Ba ngày sau, chúng tôi cập bến hải cảng Okinawa. Người đầu tiên bước lên tàu để đón chúng tôi là một thông dịch viên tiếng Nhật, anh tên là Nguyễn Gia Hùng, một sinh viên du học tại Nhật Bản trước năm 1975, hiện đang phụ giúp với hội Caritas Nhật lo giúp đỡ những thuyền nhân Việt Nam đang tị nạn tại Nhật Bản. Chúng tôi đã vô cùng xúc động vì nghĩ mình đã được tái sinh lần thứ hai. Chúng tôi bịn rịn bắt tay từ giả các vị ân nhân cứu mạng mình để lên đất liền làm thủ tục tị nạn, những người này cũng đã khóc khi tiển chúng tôi bước xuống cầu tàu. Bước xuống tàu, chúng tôi đã nhìn thấy một rừng phóng viên báo chí, các hãng thông tấn thế giới đang chờ sẵn để lấy tin tức, một cuộc họp báo đã được tổ chức liền tại chỗ dưới sự hướng dẫn và thông dịch của các anh thuộc tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật Bản. Sau dó chúng tôi lên xe bus về trại tị nạn tại quận Motobucho, một trại tị nạn dành cho người Việt tị nạn được coi là lớn nhất nước Nhật với vỏn vẹn chừng 300 người Việt hiện đang tạm trú để chờ các quốc gia đệ tam nhận đi định cư. Ngày hôm sau, tất cả các báo chí, đài truyền hình Nhật Bản đều cho chạy đi bàn tin đầu với hình ảnh và tin tức về chuyến vượt biển kinh hoàng do tội ác cộng sản gây nên, và 30 ngày đói khát lênh đênh trên mặt biển của chúng tôi. Cầm trên tay tờ báo, nhìn vào hình ảnh của chính mình, tôi đã rúng động không còn nhìn ra được mình nữa, thay vào đó là một bộ xương với hộp sọ nhô cao lên. Đôi giòng lệ đã âm thầm chảy xuống vì hạnh phúc. Tôi biết mình đã thực sự sống sót.

Chủ nghĩa cộng sản đã là một thảm họa của nhân loại, kể từ khi thứ chủ nghĩa này xuất hiện trên thế giới, nó đã giết chết không biết là bao nhiêu nạn nhân vô tội. cuộc vượt biển tìm tự do đầy bi thảm và kinh hoàng của tôi cũng chỉ là một sự đóng góp vào kho tàng tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng quan tâm là hiện nay đất nước và dân tộc Việt Nam vẫn còn bị chìm đắm dưới sự độc tài, toàn trị của đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ có một con đường duy nhất là phải chấm dứt cái chế độ man rợ này, không thể nào nói chuyện hòa hợp hòa giải với những con người với đầu óc chai cứng vì đặc quyền, đặc lợi, mà họ đang thụ hưởng trên từng thân xác của những con người Việt Nam bất hạnh.

Đào Minh Trí


Trung Tá Võ Phi Sơn - Đỗ Văn Phúc

Đỗ Văn Phúc
Trung Tá Võ Phi Sơn
Ba mươi lăm năm sau ngày Quốc Hận 30-4-1975. Có ai ngờ những em bé ngày nào bám chéo áo mẹ, hốt hoảng và ngơ ngác trước cơn bão táp đen tối đang ập vào miền Nam thân yêu, nay đang trưởng thành trên quê người với nhiều thành tích đáng nể.

Gần như mỗi ngày, mỗi tháng, chúng ta đều nghe đến một vài tên tuổi mà sự thành đạt của họ trên các lãnh vực đã làm cho gia đình và cộng đồng hãnh diện. Họ đã làm cho người bản xứ thay đổi cách nhìn về người tị nạn VN. Và cũng chính họ, sẽ đánh bật hình ảnh của những kẻ phản bội Brian Đoàn, Ysa Le, Trâm Lê …

Các em xứng đáng là tương lai Việt Nam. Nhất là các em mà trong lòng luôn ấp ủ hình ảnh quê hương quá lá Quốc Kỳ màu vàng ba sọc đỏ, các em biết nói lời biết ơn với sự hy sinh của các thế hệ cha anh.

Hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu một hậu duệ của Quân lực VNCH. Đó là tân Trung tá Võ Phi Sơn ở Miami, Florida.

Võ Phi Sơn vừa được vinh thăng Trung Tá vào ngày 1 tháng 3 năm nay 2009 và đang đảm trách việc cố vấn, huấn luyện cho một nước Ả Rập.

Là con của cựu Trung tá Phi công Võ Phi Hổ, khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Sơn cùng gia đình may mắn thoát được khỏi Việt Nam vào những ngày tang thương cuối tháng 4 năm 1975. Sơn đến Hoa Kỳ khi mới lên 5 tuổi, hoàn toàn bở ngỡ trước cuộc sống mới xa lạ. Trung tá Hổ đã may mắn đoàn tụ gia đình tại đảo Guam, và được đưa về định cư tại Miami, Florida từ cuối tháng 5, 1975.

Nhờ truyền thống gia đình và theo gương bố, là một hoa tiêu khu trục phản lực lỗi lạc của Phi Đoàn 534 thuộc Không Đoàn 92 Chiến Thuật ở Phan Rang, Sơn và các bốn anh chị em lớn lên, học hành thành đạt nơi quê hương mới.

Từ lớp 9, Sơn đã giữ vai trò Chủ tịch của National Honor Society và Science Society tại trường Trung Học. Năm 1985, Sơn đỗ thủ khoa tại W.R. Thomas Junior High với nhiều giải thưởng lớn của liên bang như: Award of Honor do The National Leadership Organization trao tặng; The American Legion School Award do The American Legion trao tặng.

Tiếp theo những năm chót trung học, việc học của Sơn thăng tiến mạnh hơn. Sơn còn là một boyscout với các cấp hiệu cao nhất. Sơn đoạt đai nâu Karate khi vừa học xong trung học. Sơn chơi Trumpet rất xuất sắc, đoạt nhiểu giải tại địa phương và cấp tiểu bang Đặc biệt, Sơn cũng là một cầu thủ football giỏi như đoạt các giải Football School Athlete of the Year 1988, giải Outstanding in Football Performance, Academic Achievement and School Leadership. Sơn từng đem giải nhất cho trường về môn chạy bộ.

Ngoài thể lực, Sơn còn giỏi về việc học, nhất là môn toán.

Sơn đã tốt nghiệp Tối Ưu trên tổng số 597 học sinh của lớp 1988; đoạt giải The Best Student of the Year và Outstanding Math Student Award cùng rất nhiều giải khác với nhiều hiện kim.

Noi theo gương bố, Sơn tình nguyện vào quân đội và được các Nghị sĩ giới thiệu theo học trường Võ Bị West Point khoá 92. Khi trả lời phỏng vấn của đài truyền hình và báo chí địa phương, Sơn đã nói đến sự trả ơn của mình cho quê hương đã rộng lòng dung nạp gia đình: “Khi tôi bắt đầu hiểu biết, tôi được nghe nói rằng xứ sở này có nhiều cơ hội cho tài năng phát triển nên tôi đã cố gắng học hành, và nhờ những cơ hội này, tôi đã có ngày nay. Tôi nghĩ đây là lúc tôi có chút cơ hội đền đáp lại.”

Ra trường, Thiếu Úy Võ Phi Sơn lần lượt phục vụ tại nhiều đơn vị như Sư đoàn 2 Thiết Giáp, Sư đoàn 4 Bộ Binh, Sư đoàn 82 Nhảy Dù. Anh lái các phi cơ trực thăng OH-58 AC, Apache tham chiến tại chiến trường Afghanistan. Lần lượt từ cấp Trung đội trưởng, đại đội trưởng, Phụ tá ban 3, Ban 1 cấp Trung đoàn. Hiện Trung tá Võ Phi Sơn là Cố vấn phụ trách huấn luyện Trực thăng cho quân đội các nước Ả Rập đồng minh.

Võ Phi Sơn đã được báo The Miami News giới thiệu với nhiều lời ca ngợi về sự thành công của gia đình nói chung và cá nhân anh nói riêng.

Đặc biệt, tuy hành quân xa xôi, lúc nào Sơn cũng mang theo trong người lá cờ vàng thân yêu của Tổ quốc Việt Nam (xem ảnh). Bên cạnh những người con ưu tú thế hệ 2 như Đại Tá Lữ đoàn trưởng Dù Lương Xuân Việt, Đại Úy Phi công F-18 Elizabeth Phạm, Đại Úy Phi công Michelle Vũ, Nhà văn Minh Trần Huy (Giải văn học Gironde Pháp), Philipp Roesler (Bộ trưởng Kinh Tế Đức), Phi hành gia Eugene Trịnh, Trung tá Hạm trưởng Lê Bá Hùng, Võ sĩ Phan Nam, Trung tá Bác sĩ Paul Đoàn (Y sĩ trưởng Đoàn Quân Y Viễn Chinh 379 tại Tây Nam Á)…, Võ Phi Sơn đang làm rạng danh người Việt tại quê người.

Chúng ta vinh danh các em, các cháu, không chỉ vì những thành tựu rực rỡ, mà chính vì tấm lòng các em, các cháu luôn hướng về cội nguồn; không như những kẻ hợm hĩnh chim chưa đủ lông đủ cánh đã vội vã quay lưng với cha anh và phủ nhận quá khứ.

Chúng tôi chúc mừng Trung tá Võ Phi Sơn. Cầu mong sẽ có ngày nghe đến nhiều vị tướng tài ba mang các họ Việt Nam trong quân đội Hoa Kỳ.

Đỗ Văn Phúc


VÀI Ý KIẾN VỀ VỤ HỆ THỐNG TRUYỀN THANH, TRUYỀN HÌNH VNHN - Lính Già Wichita

Lính Già Wichita WICHITA

Đầu tiên, tôi xin tự giới thiệu là một HO, cũng sắp đến tuổi về hưu rồi thành ra cũng chưa đủ già để trở nên lú lẫn, mà vẫn ngày hai buổi đi cày để trả nợ áo cơm.Là một thính giả của Đài PTVNHN từ những ngày đầu tiên mà Wichita bắt được làn sóng của Đài. Tiếng nói của Đài đã trở thành người bạn thân thiết của nhiều gia đình VN. Tôi cũng đã hân hạnh viếng thăm Đài nhân dịp về tham dự buổi Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế tại NY cách đây mấy năm. Trước sự nghèo nàn, chật vật của Đài chúng tôi rất thông cảm và thương các anh chị em nhân viên đã có rất nhiều hy sinh.

Thời gian gần đây, sự kiện nổ lớn đã kéo nhiều người vào cuộc tranh cãi chung quanh lời cáo giác của ông Hồng Phúc – Giám đốc chương trình - là Vợ chồng Ông Dương Văn Hiệp và Ông Ngô Ngọc Hùng là 3 trong số 4 Giám đốc đã có tiếp xúc với cán bộ Cộng sản. Theo các dữ kiện đã được nêu ra, chúng tôi có thể nghĩ rằng là hệ thống phát thanh và truyền hình VNHN đã có sự xâm nhập của CS và cả ba nguời qua tố giác của ông HP đã thật sự có vấn đề. Dựa vào đâu mà chúng tôi dám nghĩ như vậy. Thứ nhất dựa vào sự lấp liếm chối quanh, giải thích lòng vòng, bao che của những nhân vật liên hệ. Tục ngữ có câu “có tật giật mình“ cũng đã nói lên điều đó. Ngay tự khởi đầu sự tổ chức của Hệ Thống PT&TH VNHN cũng có vấn đề. Thứ nhất Hệ thống không phải là một công ty kinh doanh có tính cách gia đình mà 2 trong số 4 Giám đốc lại là 2 vợ chồng mà đây là một tổ chức có mục tiêu chính trị nên điều nầy không thể chấp nhận được. (Ngoại trừ đây thật sự là một hệ thống truyền thông tư của ÔB DVH mà lời Ngô Ngọc Hùng bảo là Đài là của toàn thể thính giả thì là những lời mỵ dân, phỉnh gạt). Thứ hai là trình độ lý luận, nhận thức chính trị, miệng lưỡi của Ô,B Dương Văn Hiệp, Ngô Ngọc Hùng và ngay cả của Ông Hồng Phúc cũng không đủ sức để “chiêu hồi“ tên Nguyễn Sĩ Tuệ - Đệ tam tham tán đặc trách người Việt tại Hoa Kỳ, ngay cả miệng lưỡi cỡ Tô Tần, Trương Nghi thời Chiến Quốc sống lại cũng đành bó tay thôi. Vì các CBCS cỡ trung cấp trở lên nhất là giữ một chức vụ quan trọng tại một tòa đại sứ như Hoa Kỳ thì cái tính Đảng trong con người chúng đã thâm căn cố đế biết là chừng nào rồi. Bọn chúng là một lũ hình nộm không tim óc, tai điếc, mắt đui thì quý vị có tranh luận để thuyết phục thì cũng như nước xao đầu vịt mà thôi. Sự tiếp xúc của cặp vợ chồng DVH và tên Tham Tán toà Đại sứ CS cũng đã có quá trình trên 4, 5 năm thời gian ấy quá dài vì nếu tên nầy đã được có ý hồi chánh thì chúng ta đã đọc thấy tin tức xin tỵ nạn chính trị cách đây 1, 2 năm rồi. Thành ra có “hồi chánh“ thì cặp vợ chồng DVH có khả năng hơn tên Tham tán kia. Sự tiếp xúc của cặp vợ chồng nầy chúng tôi nghĩ không phải chỉ có hai lần có tính công khai 1 tại nhà hàng, 1 tại nhà riêng trong hai dịp sinh nhật và tất niên. Để có mặt tham dự trong một bữa tiệc tất niên tại nhà riêng thì sự thân mật giữa chủ và khách phải ở vào mức độ thân thiết chứ không thể hời hợt được. Trong đời thường rất hiếm khi có một sự gặp gỡ lần đầu giữa hai cá nhân mà đã thấy tâm đầu ý hợp để có thể mời nhau tham dự một buổi tiệc gia đình huống gì đối tượng lại là người ở về phía được xem như là kẻ thù chung. Nếu điều nầy thực tế đã xảy ra thì chúng ta cũng thấy tư tưởng cùng chính kiến của cặp vợ chồng DVH như thế nào rồi. Đến đây chúng tôi xin đặt một câu hỏi là bằng cách nào và nhờ vào sự trung gian móc nối của ai mà cặp vợ chồng DVH quen biết với tên Tham tán toà Đại sứ CSVN. Đề nghị Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia DC nên đặt vấn đề và tìm hiểu nhân vật nầy là ai.

Ở Hải ngoại nầy có một cái nghề ít vốn; có khi không cần vốn mà lại thu nhập cao, hái ra tiền mà lại nhàn nhã đó là nghề buôn bán niềm tin tôn giáo, tình bác ái, chính trị của đồng bào. Cái nghề nầy chúng ta thường thấy ở một số các vị thầy tu, các người hô hào làm từ thiện và một số các chủ báo, các chủ tịch hội đòan, đài phát thanh v..v .. Trong lãnh vực chính trị; đầu tiên là tìm mọi cách để chứng tỏ mình có tâm huyết với đất nước, quê hương, chống Cộng triệt để. Khi đã gây được tiếng vang, tên tuổi thì xem là “công ty, tiệm buôn“ của mình đã có tầm cỡ, đã có đủ điều kiện để “ngã giá”, để “ký hợp đồng“ với cá nhân, tổ chức tay sai hoặc ngay chính của kẻ thù chung là bọn CS để hốt bạc. Vì nhiều khi dù có được sự đóng góp, yểm trợ của đồng bào tỵ nạn thì những thu nhập ấy cũng đầy gian nan, và không có lớn chỉ là lượm bạc cắc đâu có bằng giao dịch với CS lắm tiền sẵn sàng chi ra hàng trăm ngàn đô thậm chí hàng triệu đô để làm tay sai cho chúng nó.

Đến đây chúng tôi xin điểm qua một vài luận điểm của vài cá nhân nhằm bênh vực cặp vợ chồng DVH.

1. Chúng tôi đã đọc một bài nhan đề Bức Tâm Thư của một người ký tên Chính Tâm trên tờ báo của ông Nguyễn Tường Thựơc (Ông nầy lớn miệng, thích dùng danh từ đao to búa lớn nhưng thực chất thì thiếu điềm đạm và khả năng không là bao) mổ xẻ để chụp mũ ông Hồng Phúc nhằm bênh vực cho cặp vợ chồng DVH. Trước nhất ông tự gọi mình là Chính Tâm nhưng thật sự tâm ông không chính chút nào khi chỉ đả phá ông HP mà không đề cập gì đến cặp vợ chồng DVH. Cái kiểu phê phán nầy rất giống kiểu của “tiền sư” Nhất Hạnh và nhóm Giao Điểm khi chỉ lên án Mỹ và VNCH trong cuộc chiến VN trước 1975 mà không có một lời - sợ mất lòng – nói đến cái nguyên nhân gây nên cuộc chiến là CSVN, tay sai Nga Tàu. Ông Chính Tâm phân tích chi ly nhưng hoàn toàn suy diễn mà không đưa ra một bằng chứng đáng thuyết phục nào để chụp mũ là ông HP mới chính nguời giao dịch với CS. Theo chúng tôi thấy ông HP tiếp xúc với tên CBCS thì công khai trong 1 bữa tiệc tại nhà hàng mà có tính bất ngờ vì chỉ mới được biết và trước nhiều người chứ không phải là trong phòng riêng hay là tại một địa điểm bí mật. Ông Chính Tâm trích dẫn lời ông HP nói là “tranh luận gay gắt“ là phải có to tiếng, thậm chí là phải đập bàn, đập ghế hoặc là phải có chưởi nhau, gây gỗ hoặc có xô xát mới có thể gọi là “tranh luận gay gắt“ được; chứ còn mức độ như của Ông HP và tên CS kia phải là tâm tình của hai người bạn thân theo như sự suy diễn của ông Chính Tâm. Trước tiên ông Chính Tâm hiểu sai về chữ “tranh luận“. Để chỉ sự kiện hai bên đưa ra những lý luận để thuyết phục bên kia hoặc giành phần có lý, chính đáng về mình; tiếng Việt có các từ tranh luận, tranh biện, biện luận, tranh cãi, cãi lộn và mức độ thấp nhất là chưởi nhau. Chữ tranh luận được dùng trong những trường hợp có tính cách văn hóa, nghiêm chỉnh hơn là cãi nhau hay cãi lộn. Trường hợp của ông HP và tên Tham tán CS hai bên dù có “tranh luận gay gắt“ thì cũng chỉ nằm trong giới hạn lịch sự và văn hoá cũng như sự hiểu biết tối thiểu, vì đây đang ở trong một bữa tiệc sinh nhật của một người bạn giữa đám đông có vai vế do đó không thể có trường hợp to tiếng cãi lộn như Ông Chính Tâm đã bắt buộc. Sự kiện hai nguời trao đổi danh thiếp, báo cho nhau dù có ghi thêm số điện thoại cell phone của tên Tham tán thì cũng chưa thể chứng tỏ sự thân thiết dù mới quen của hai bên được. Trong hành động nầy theo chúng tôi hiểu là một ý đồ có tính nghề nghiệp .Tên Tham tán thì có ý móc nối, ông HP thì có ý giới thiệu cho y đọc những bài viết chống Cộng trong tờ Tạp chí TGNN của mình. Thêm nữa, thái độ của tên Tham tán CS rất tự tin và có vẻ kẻ cả điều nầy đã cho chúng ta thấy rằng y; thứ nhất là một tay có bản lĩnh, thứ nhì là y đã có một chỗ dựa vững chắc nếu không muốn nói là y đang ở vào một tư thế bất khả bại vì đã nắm được con chủ bài trong tay rồi.

Ông Chính Tâm có ý suy diễn để chụp mũ thì chúng tôi xin bày cho ông cách suy diễn như thế nầy thì mới hợp tình hợp lý hơn nè: Ông HP thấy cặp vợ chồng DVH có một mối làm ăn khá quá, thu nhập cao nhờ hợp đồng béo bở nên có ý nhảy vào nhằm chia chác thị trường may ra có được một hợp đồng ngon lành nào không bằng cách chào hàng rằng trong tay cũng có một tờ báo tầm cỡ chẳng thua gì Hệ thống TT&TH VNHN của cặp vợ chồng DVH. Suy diễn cho vui thế thôi chứ ông Chính Tâm sức mấy dám nghĩ tới vì như thế chẳng hóa ra là công nhận cặp vợ chồng DVH là có liên hệ mật thiết hay đang hợp tác với tòa Đại sứ CSVN hay sao.

2. Về cái sự ví von của Ông Nguyễn Đình Toàn trong giai thoại của Khổng Tử để chứng minh là “thấy vậy mà không phải vậy“ và cho rằng ông HP thì nhiều kinh nghiệm hơn các vị NNH và vợ chồng DVH nên có đối chất công khai thì họ làm sao mà hơn nổi ông HP. Từ rất lâu tưởng có hơn 50 năm rồi từ thuở còn tập tễnh làm thơ học trò tôi vẫn kính trọng Ông NĐT, vẫn thích đoạn trích trong kịch thơ “Khúc ca Phạm Thái“ của Ông, nhưng hôm nay thì tôi rất thất vọng về cái kiến thức lý luận của ông .Khi ông bảo cặp DVH và ông NNH là trẻ người, non dạ thì làm sao mà tranh luận lại Ông HP; nói ra điều này là ông dù đang bênh vực họ nhưng lại vô tình phản đối lại họ, hại họ trong khi họ đã hùng hồn tuyên bố là họ có đầy đủ bản lãnh nào là đang làm công tác tuyên truyền hồi chánh, người thì bảo là vào hang cọp để mó dái cọp. Đem một sự kiện đơn giản như là sự hiểu lầm vì đứng hơi xa thấy người học trò cưng vốc nắm cơm mà cho là người ấy đang ăn vụng để so sánh bào chữa cho cặp DVH và NNH thì thật là gượng ép, không đủ thuyết phục. Ba vị nầy đã có tiếp xúc - phải nói là trên mức độ thân mật - với cán bộ của một chính quyền phản dân hại nước mà bản thân quý vị nầy vẫn rêu rao là kẻ thù chung mà cho là không có gì quan trọng hoặc có hại cho chính nghĩa mà tập thể người Việt Tỵ nạn CS vẫn đang đeo đuổi. Chính họ đang đem niềm tin của đồng bào làm vật rao bán đấy.

3. Về một bài viết bênh vực vợ chồng DVH trên báo điện tử Take -2-tango khi ví von ông HP như một đầu bếp chánh của một nhà hàng. Chỉ mới đoạn mở đầu mà tác giả đã để lộ một sự kém cỏi về lý luận như thế thì bài viết sẽ khó thuyết phục được người đọc. Không thể đem sự tranh chấp trong một nhà hàng ăn để ví von với trường hợp của Đài PT VNHN được. Vì trong một nhà hàng, sự đổ vỡ nếu có thì cũng chỉ làm hại cho chính chủ nhân của nhà hàng chứ còn thực khách nếu thấy nhà hàng kỳ nầy tệ quá thì sẽ không đến nữa, nhà hàng ế ẫm. Còn với Hệ thống TT&TH VNHN là một cơ quan truyền thông với mục tiêu đấu tranh nhằm hỗ trợ cho công cuộc quang phục quê huơng nếu đi sai đường thì tác hại to lớn biết là dường nào.

Trước khi kết luận chúng tôi xin đưa ra một dấu hỏi là liệu có khi nào Hệ Thống TH&TH VNHN đã có nhận sự tài trợ từ tòa Đại sứ CSVN. Xin quý bà con suy ngẫm.

Chuyện vợ chồng DVH có tiếp xúc với CS là sự thật không thể chối cãi dù có cố gắng biện minh cách nào đi chăng nữa. Đến đây chúng tôi có một giả thiết rằng ví như ông HP tố cáo xuất phát từ một ý đồ xấu như biết vợ chồng DVH sắp đá mình ra khỏi đài hoặc là xấu hơn nữa là đang “thi hành nghị quyết 36“ của CS như Giáo sư Kim đã phán thì lại nảy sinh ra một vấn đề mới là có khi nào đây là 1 sự đổ bể ngoài dự liệu do sự tranh dành quyền lợi giữa hai bên trước nhà “tài trợ“ là CSVN ? Nếu tình huống nầy có thật thì sự tố cáo của ông HP cũng có lợi cho công cuộc đấu tranh chung của chính nghĩa Quốc gia của người Việt hải ngoại; mặc dầu cũng gây một số tổn thất chứ nếu không để đến một lúc Hệ Thống TT&TH VNHN thật sự chỉ là chi nhánh của hệ thống TT&TH quốc nội thì hậu quả sẽ không thể lường đưọc.

Để kết luận chúng tôi xin đưa ra 2 ý kiến như sau:
    1. Vợ chồng DVH và Ông Ngô Ngọc Hùng nên rời khỏi chức vụ Giám Đốc của Hệ Thống TT&TH VNHN. .Riêng ông HP thì đã xin nghĩ nên không đề cập đến.

    2. Mở một cuộc họp khoáng đại có sự tham dư của nhiều nhân sĩ để tu sửa nội quy làm Đài thật sự trở thành tiếng nói chung của khối nguời Việt Quốc gia tại Hải ngọai. Nếu cần thay đổi tên gọi, tổ chức nhân sự như của một hội đoàn gồm có các Ban chấp hành, Giám sát và cố vấn. Tài chánh chỉ là một Ban trong Ban Chấp hành mà thôi, kêu gọi sự tham gia, yểm trợ vật chất, tinh thần và tài năng của nhiều người tâm huyết để duy trì và phát triển Đài.

    Tuy nhiên, nếu HTTT&TH VNHN là của tư ÔB DVH thì xin miễn bàn.

    Chấm hết.
Lính Già Wichita 11/11/09


Wednesday, November 11, 2009

Trung Tá Lương Trung Việt Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ

Trung Tá Lương Trung Việt

Mời quý vị xem một đoạn video của Bộ quốc phòng HK, nói về Chiến Tranh Việtnam, Iraq. Đoạn video này nói về Trung Tá Lương Trung Việt, vị sĩ quan trẻ này đã không cầm được nước mắt khi được phỏng vấn trong đoạn nhắc tới quê hương ....!

Hiện nay Trung tá Lương Trung Việt đã là Đại Tá Chỉ Huy trưởng Lữ Đoàn biệt cách dù Mỹ đang tham chiến tại Iraq và Aganistan (dưới quyền ông khoảng 10.000 quân nhân Mỹ).

Người ta tự hỏi rằng, một người xa quê hương khi chưa trưởng thành và là một cấp chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, một đơn vị nổi tiếng vào sinh ra tử lại không cầm được nước mắt khi nhớ đến những áp bức, bất công trên quê hương.

Trong khi đó biết bao thanh niên trí thức Việtnam ngay trong lòng đất mẹ lại dửng dưng. Có phải việt gian csVN đã thuần hóa thanh niên trí thức thành những người vô cảm ?!

Còn những trí thức hải ngoại mang căn cước TỴ NẠN CỘNG SẢN mà lại ÔM CHÂN bọn thái thú việt gian csVN.

---

    Trung Tá Lương Xuân Việt, sĩ quan chỉ huy tại Iraq, vẫn giữ tâm hồn Việt Nam
Hoàng Mai Đạt

"Đi lính là phục vụ Đất nước một cách chính trực và hữu ích"

WESTMINSTER, California (NV) - Trong ngày nghỉ ở nhà, ông có thể dạo đàn guitar, ngâm nga hát một bài tình ca hoặc đọc một cuốn sách viết bằng tiếng Việt. Ngoài mặt trận, ông cầm súng lùng bắt những người vũ trang, hô to những mệnh lệnh bằng tiếng Anh. Người đa năng này là Trung Tá Lương Xuân Việt, một tiểu đoàn trưởng thuộc binh chủng Nhảy Dù của quân đội Hoa Kỳ.

Từ một đứa trẻ chưa đầy 10 tuổi phải di tản ra khỏi Sài Gòn vào cuối Tháng Tư 1975, theo đoàn người tị nạn cộng sản đến nước Mỹ, hơn ba thập niên sau ông Việt đã chỉ huy cả ngàn quân nhân tại mặt trận Iraq. Đời binh nghiệp của ông khởi đầu từ cuộc chiến Việt Nam, đặc biệt là từ một người cha mà ông rất ngưỡng mộ.

Trong gần hai thập niên phục vụ trong quân đội, Trung Tá Việt, 42 tuổi, đã trú đóng tại nhiều nơi như Colorado, Haiti, Bosnia, Kosovo, từng giữ an ninh tại New Orleans sau ngày bão Katrina, và tham chiến tại Iraq vào năm ngoái.

“Tôi đã có mặt tại Iraq 15 tháng,” Trung Tá Việt trả lời nhật báo Người Việt vào ngày Thứ Năm, 21 Tháng Hai.

“Tôi được giao nhiệm vụ hoạt động trong một vùng có diện tích rộng 3,600 cây số vuông. Thành phố Samarra thuộc vùng kiểm soát của chúng tôi,” ông cho biết.

Samarra nằm khoảng 80 dặm về phía Bắc thủ đô Baghdad. Nơi đây có các nhóm nổi dậy thuộc phái Sunni hoạt động rất mạnh chống lính Mỹ và quân đội Iraq.

Đúng hai năm trước, vào ngày 22 Tháng Hai, 2006, những người Al-Qaeda quá khích đã đột nhập, gài chất nổ, phá sập mái vòm vàng tại ngôi đền Al-Askari. Đây là đền thiêng liêng hàng thứ ba của người Hồi Shiite trên thế giới. Sự phá hoại đưa đến những vụ tấn công đẫm máu giữa người Shiite và người Sunni kéo dài trong hai năm qua.

Trung Tá Lương Xuân Việt và các quân nhân của ông đến Samarra sau khi Đền Vòm Vàng bị nổ. Ông Việt đã chỉ huy Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 505, Lữ Đoàn 3 Tác Chiến, Sư Đoàn 82 Nhảy Dù. Dưới quyền của ông là 850 lính nhảy dù, cộng thêm 300 quân nhân từ các đơn vị yểm trợ như quân cảnh, công binh, thiết giáp, đội tháo gỡ mìn. “Lực lượng của tôi đã có khoảng 1,250 quân nhân.”

“Nhiệm vụ của chúng tôi là đánh bại các nhóm nổi dậy trong vùng Samarra, trợ giúp chính quyền địa phương phục hồi những dịch vụ căn bản như điện, nước, rác, y tế, vân vân,” Trung Tá Việt kể.

“Chúng tôi đạt khá nhiều thành quả tại Samarra. Lính nhảy dù chúng tôi thường xuyên hành quân phản công chống Al-Qaeda. Chúng tôi đã phá vỡ trên một chục ổ khủng bố, tịch thu một số lớn tài liệu tình báo, dẹp tan các nhóm lãnh đạo Al-Qaeda cấp địa phương, bắt giữ trên 1,000 tên khủng bố, giúp người Iraq thành lập bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia để tăng cường an ninh tại Samarra, tạo phương tiện cho nỗ lực xây lại Đền Vòm Vàng, phục hồi Samarra và mang lại một cuộc sống dễ thở hơn cho người Iraq.”

Mang lại một cuộc sống bình an cho người khác là một trong các mục tiêu trong đời của Trung Tá Lương Xuân Việt trong một hành trình xuất phát từ Việt Nam, một đất nước cũng bị chiến tranh tàn phá như Iraq. Ông Việt chào đời tại Biên Hòa, sống với cha mẹ ở Sài Gòn trước năm 1975 và trong vùng Los Angeles sau khi tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông lớn lên trong một gia đình gồm có tám anh chị em.

Người có ảnh hưởng lớn nhất trong đời của Trung Tá Việt chính là thân phụ của ông. “Đời binh nghiệp luôn luôn là nguồn cảm hứng cho tôi, phần lớn vì tôi ngưỡng mộ và kính nể cha tôi cũng như các chú bác đã đi lính,” ông Việt tâm sự.

“Tôi muốn bắt chước cha tôi, sống với tinh thần trách nhiệm, danh dự, đất nước. Tôi vẫn nhớ những hình ảnh cha tôi xông pha vào chiến trận (trong) bộ quân phục Thủy Quân Lục Chiến mà ông rất hãnh diện, (với) sự tự tin, lòng yêu nước, và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đất nước.

“Khi còn bé, tôi từng ao ước được phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Đáng tiếc là ước mơ của tôi bị tan vỡ theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam.

“Thế nhưng tại quê hương mới này, ngọn lửa phục vụ vẫn bừng cháy trong tôi. Tôi rất biết ơn trước những gì mà đất nước Hoa Kỳ đã mang đến cho tôi và hàng ngàn người tị nạn.

“Mục tiêu duy nhất của tôi trong tinh thần phục vụ đất nước vĩ đại này là đóng góp trong công cuộc bảo vệ tự do và lối sống của chúng ta.”

Tinh thần phục vụ tại chiến trường Iraq của Trung Tá Lương Xuân Việt đã được báo chí Mỹ ghi nhận.

Trong một bài đăng trên trang tin điện tử của tuần báo Time ngày 26 Tháng Sáu, 2007, ký giả Mark Kukis đã viết về sự có mặt của ông Việt tại mặt trận Samarra:

“Làng Binat al Hasan đã vắng vẻ một cách kỳ lạ khi các quân nhân Hoa Kỳ bước xuống từ bốn chiếc trực thăng trong một cuộc hành quân trước khi trời sáng. Trong vài phút sau khi trực thăng đáp xuống, khoảng 75 lính nhảy dù Mỹ và một nhóm quân nhân Iraq đã trải rộng trong một ngôi làng nằm ở sa mạc khoảng 15 dặm về phía Đông Nam Samarra. Các quân nhân đã lùng kiếm trong từng căn nhà mà không thấy ai.

“Trung Tá Việt Lương, chỉ huy trưởng của lực lượng Hoa Kỳ trong vùng Samarra, nói rằng những vụ bạo động do quân nổi dậy gây ra đã gia tăng đáng kể. [...]Ông Lương cho biết lúc trước Samarra và vùng nông nghiệp ở chung quanh chỉ có chừng hai vụ tấn công mỗi ngày. Giờ đây mỗi ngày có đến năm hoặc sáu vụ tấn công.

“Trong một lần hành quân mới đây ở ngoại ô Samarra, quân đội Hoa Kỳ đã bắt 14 người bị tình nghi là quân nổi dậy. Họ đầu hàng khi thấy trực thăng đáp xuống từ trên bầu trời đêm. Cũng có những đêm không bắt được ai tại những ngôi làng bụi bặm. ‘Bất cứ ngôi làng êm ả nào cũng có thể trở thành nơi ẩn náu hoặc điểm hẹn của quân nổi dậy,’ ông Lương nói. ‘Những kẻ xấu không thật sự biết có giới hạn.’”

Cũng trong ngày 26 Tháng Sáu, 2007, đài CNN có một mẩu tin liên quan đến ông Việt tại chiến địa Samarra. Bản tin đó được viết như sau:

“Trong cuộc phỏng vấn dành cho CNN, Trung Tá Việt Lương đã so sánh chiến thuật và động lực của Việt Cộng (trong cuộc chiến Việt Nam) và lực lượng nổi dậy tại Iraq hiện nay. 'Vài chú bác của tôi nay đã trên 60 tuổi vẫn thường viết email cho tôi bằng tiếng Việt Nam. Họ nhắc cho tôi biết về những gì tôi cần để ý tại Iraq' ông kể. 'Quân nổi dậy tại Iraq đang dùng những chiến thuật tương tự (như Việt Cộng).'

“Trung Tá Lương cho biết quân nổi dậy thường ẩn náu trong những ngôi đền để không bị lính Mỹ tấn công. Ông cũng nhận thấy quân nổi dậy luôn trà trộn vào thường dân để không bị quân đội Hoa Kỳ tấn công với hỏa lực của họ. Ông Lương cũng nhận thấy động lực của quân nổi dậy không khác quân du kích cộng sản là bao nhiêu. Ông Lương nói, ‘Tinh thần yêu nước là điều mà bạn không thể coi thường. Người ta có thể chiến đấu và chết cho tinh thần này.’

Nhắc đến giai đoạn rời Việt Nam vào năm 1975, bản tin của CNN có viết thêm: “Ông Lương đã rơi lệ khi nhớ đến cha của ông, một quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó cha của ông đang giúp cho phi đạo tại Sài Gòn được thông trống, để phi cơ của quân đội Hoa Kỳ có thể đáp xuống. Ông Lương kể, 'Lúc đó tôi được thấy một đội trực thăng CH53 hùng tráng đáp xuống như những thiên thần từ trên trời đến cứu chúng tôi.'”

Cha của Trung Tá Việt là ông Lương Xuân Đương, nguyên là thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị thiếu tá thuộc binh chủng “Cọp Biển” này đã qua đời tại California vào năm 1997.

Ngoài công tác tại Iraq, ông Việt cũng hãnh diện khi nhắc đến một sứ mạng khác mà đơn vị của ông từng thực hiện tại New Orleans. Tiểu đoàn của ông là đơn vị tiên phong của Sư Đoàn Dù 82 được gởi đến tiểu bang bị bão.

“Tôi đã có một kinh nghiệm độc đáo trong vụ bão Katrina,” ông nói với nhật báo Người Việt. “Là một đơn vị tác chiến, chúng tôi thường chỉ chú trọng đến sứ mạng tác chiến. Khi được gởi đến New Orleans để hỗ trợ cho cơ quan FEMA, chúng tôi bị rơi vào tình trạng thực hiện những công việc ngoài khả năng của mình.

“Làm việc với nhiều cơ quan cấp liên bang, tiểu bang và địa phương không phải là sở trường của chúng tôi. Về mặt đó thì công tác tại New Orleans đã phức tạp hơn những gì chúng tôi đối phó ngoài trận địa.

“Tuy nhiên, tôi tin rằng chúng tôi đã tạo được sự khác biệt rất lớn và đã có thể trợ giúp những đồng bào Hoa Kỳ.”

Trung Tá Việt đã tốt nghiệp bằng cử nhân trong môn Sinh-Hóa Học tại trường University of Southern California. Ông cũng đậu bằng tiến sĩ Khoa Học và Nghệ Thuật Quân Sự.

Ashley Thu Diễm, 13 tuổi; Brandon Xuân Huy, 10 tuổi; Justin Xuân Quốc, 7 tuổi

Trong thời gian trú đóng tại Fort Carson, Colorado đầu thập niên 1990, ông Việt đã gặp bà Quyên Kimberly Lau ở Denver. Vài năm sau họ thành hôn, nay có ba con gồm có một gái, hai trai: Ashley Thu Diễm, 13 tuổi; Brandon Xuân Huy, 10 tuổi; và Justin Xuân Quốc, 7 tuổi. Gia đình ông đang sống tại Fort Bragg, North Carolina.

“Quyên là một người vợ của lính, biết quên mình để lo cho chồng con,” ông Việt nói về vợ. “Sự hỗ trợ bền bỉ của vợ đã giúp tôi có thể chú trọng đến công việc của mình và đạt được thành quả trong những gì tôi làm.”

Mặc dù dành nhiều thời giờ cho quân đội, ông Việt cũng có những thú vui khác.

“Tôi mê thể thao, vẫn chạy bộ rất nhiều,” ông nói. “Tôi cũng thưởng thức văn chương và âm nhạc. Tôi rất thích đọc thơ và tiểu thuyết Việt Nam, cũng như sách Mỹ viết về lịch sử. Tôi từng tập chơi vĩ cầm trong thời thơ ấu, thế nhưng sau này tôi chơi đàn guitar. Tôi yêu thích những bài tình ca của Phạm Duy, Vũ Thành An, vân vân. Những ca khúc này nhắc cho tôi nhớ rằng tâm hồn tôi vẫn thật sự là một tâm hồn Việt Nam.”

Trung Tá Việt đã khuyến khích giới trẻ Mỹ gốc Việt hãy gia nhập quân đội. “Không phải ai cũng có thể đi lính,” ông nói. “Tuy vậy, đối với nhiều người, đi lính là phục vụ đất nước một cách chính trực và hữu ích.”

Sau khi phục vụ tại Iraq, Trung Tá Lương Xuân Việt đã được đưa vào danh sách các sĩ quan được đề bạt lên cấp Đại tá.

“Tôi mong một ngày kia tôi được chỉ huy một lữ đoàn,” ông nói. “Ao ước của tôi là có khả năng để tạo ảnh hưởng tốt đến cho nhiều người, mang đến khác biệt trong đời sống. Ở một cấp chỉ huy cao hơn thì tôi có cơ hội được thực hiện niềm ao ước đó.”

Hoàng Mai Đạt


Tuesday, November 10, 2009

Trọng Ðạt: Biến Ðộng Miền Trung - Trọng Đạt

Trọng Đạt

Trọng Đạt

Chúng tôi xin sơ lược tình hình biến động giai đọan 1966 dựa vào cuốn “1966 Việc Từng Ngày” của ông Ðoàn Thêm.

Cuối tháng 3 -1966 tại Ðà Nẵng có nhiều vụ biểu tình, đóng cửa tiệm, tình hình Huế cũng rất sôi nổi trong khi Ủy ban Lãnh đạo Quốc Gia quyết định triệu tập Hội đồng Tư vấn soạn thảo Hiến Pháp và tổ chức bầu cử cuối năm 1966 thay vì cuối năm 1967 như dự định. Ông Nguyễn cao Kỳ Chủ tịch Uỷ ban hành pháp trung ương cho biết miền Trung có nhiều vụ lộn xộn đình công bãi thị, kho gạo ngoài Huế sắp cạn, trong khi ấy tại Viện Hoá Ðạo Sài Gòn có hai trăm Phật tử biểu tình đi từ Viện tới công trường Diên Hồng trương biển ngữ chống chính phủ. Thượng toạ Thích Tâm Châu kêu gọi Phật tử bình tĩnh chờ chính phủ thoả mãn các nguyện vọng, tại Huế có tới hai chục ngàn người đi tuần hành.

Phật Giáo lại biểu tình khắp nơi đòi chính phủ phải thực thi dân chủ, tổ chức bầu cử Tổng thống và Quốc hội, đầu tháng 4-1966 tình hình miền Trung ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nguyễn Cao Kỳ cho biết bác sĩ Nguyễn văn Mẫn, thị trưởng Ðà Nẵng thuê người đi biểu tình chống chính phủ, đe dọa dân chúng, hô hào đình công bãi thị. . ông Kỳ coi như Ðà Nẵng bị Việt Cộng chiếm, sẽ hành quân tái chiếm và xử tử thị trưởng Mẫn. Chính phủ cho biết Việt Cộng muốn bài Mỹ để cô lập Việt nam Cộng Hòa. Ðài phát thanh Ðà Lạt bị nhóm biểu tình đốt, ngoài ra tại Ðà Nẵng, Ban Mê Thuột, Nha Trang cũng có nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu Chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo Quốc gia kêu gọi chấm dứt hỗn loạn, đóng cửa các trường học.

Quân đội đã lấy lại Nha Trang, mặc dù Viện Hoá Ðạo kêu gọi bình tĩnh nhưng hàng ngàn người quá khích đã biểu tình đốt xe, xung đột với cảnh sát. Trung tướng Tôn Thất Ðính được cử thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuẩn làm Tư lệnh vùng Một và đại biểu chính phủ Huế. Phó tổng thống Mỹ Humphrey có tuyên bố bi quan về tình hình Việt nam, ông nói:

“Có ông Trời mới lật được thế cờ ở Việt Nam, đất nước có quá nhiều sự rắc rối”.

Thứ trưởng ngoại giao Mỹ nói TT Trí Quang thao túng chính trường Việt Nam, mục đích không rõ rệt. Phật giáo lập Ủy ban tranh đấu chống chính phủ nhưng bắt đầu chia làm hai phe ôn hoà và quá khích, Thượng toạ Tâm Châu ôn hoà bị phe quá khích dọa ám sát.

Cuộc tranh đấu của Phật Giáo quá khích và các vụ bạo động tại miền Trung bị các nhóm sinh viên đoàn kết, các đoàn thể Công giáo, Việt Nam Quốc dân đảng …. lên án. Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố cương quyết đàn áp biểu tình bạo động, cử Ðại tá Nguyễn Ngọc Loan làm Tổng giám đốc cảnh sát công an thay Ðại tá Phạm văn Liễu và kiêm nhiệm Giám đốc nha an ninh quân đội. Ông Thích Tâm Châu tuyên bố nếu tháng 9 không có bầu quốc hội Phật giáo sẽ biểu tình, Bắc Việt và Mỹ nên rút quân khỏi Việt Nam.

Các cuộc biểu tình và các vụ bạo động ở miền Trung đã kéo dài được hơn một tháng, lực lượng tranh thủ dân chủ tại Ðà Lạt chiếm khu chợ Hoà Bình, quân trấn chiếm lại trụ sở của lực lượng tại Hợp tác xã rau. Giữa tháng 5 Nguyễn Cao Kỳ làm mạnh, cho 5 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến ra Ðà Nẵng bằng máy bay chiếm đài phát thanh chạm súng với lực lượng tranh đấu. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao được cử thay Tôn thất Ðính làm Tư lệnh quân đoàn Một, ông Nguyễn Chánh Thi bị gọi ra trình diện trước ngày 20-5-1966. Trong khi ấy tại Sài Gòn các Ðại đức,Thượng toạ tuyệt thực phản đối chính phủ đem quân ra Ðà Nẵng.

Quân chính phủ và phe tranh đấu đã chạm súng có chết người và bị thương trước chùa Vũ Hội, Ðà Nẵng. Thượng tọa Trí Quang ở Huế đòi quân chính phủ phải rút khỏi Ðà Nẵng, Nguyễn Cao Kỳ phải từ chức ngay, hai bên lại nổ súng tại khu chùa Phổ Ðà, một số chết và bị thương. Ðến ngày 23-5 nhóm nổi dậy ở chùa Tỉnh Hội Ðà nẵng buông súng hàng, khoảng một trăm người trở về quân đội, hơn một ngàn súng bị tịch thu trong chùa, ba chục xác chết hôi thối. Phía chính phủ có 20 người chết hằng trăm bị thương, bác sĩ Mẫn bị bắt đưa về Sài Gòn, tại Ðà Nẵng có tất cả 76 người thiệt mạng trong cuộc dẹp loạn.

Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ làm mạnh hơn trước, Thiếu tá Tôn Thất Tường, Ðại tá Ðàm Quang Yêu cầm đầu vụ Ðà Nẵng bị bắt đưa về Sài Gòn. Ðà Nẵng coi như đã yên chính phủ còn phải lo đối phó với tình hình tại Huế. Cuối tháng 5-1966 tại Sài Gòn nhóm tranh đấu biểu tình liên miên bị giải tán bằng lựu đạn cay. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo không có chính nghĩa đã bị chính phủ đàn áp bằng vũ lực trong khi nội bộ Phật giáo bắt đầu chia rẽ suy yếu. Ngày 5-6-1966 Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm họp báo cho biết Huế được tái lập trật tự, ba ngàn quân chính phủ có xe tăng đang trên đường ra Huế, thầy Trí Quang bèn hô hào Phật tử mang bàn thờ xuống đường để ngăn cản lối vào thành phố. Thượng tọa Tâm Châu đã về nước kêu gọi Thiệu Kỳ từ chức nhưng chống bạo động, TT Trí Quang tuyệt thực phải vào nhà thương. Nguyễn Ngọc Loan đích thân chỉ huy cảnh sát dã chiến dẹp bàn thờ và biểu tình.

Nói chung cuộc biểu tình, biến loạn chống chính phủ đã bị dẹp tan trong thời gian ngắn vì không được đa số dân chúng ủng hộ, người ta chán ngấy cảnh biểu tình tuyệt thực kéo dài hết năm này qua năm khác. Cuộc biến động đã bị các đoàn thể tôn giáo, chính trị, đảng phái, sinh viên … lên án vì đã tạo ra tình trạng rối loạn tại hậu phương có lợi cho Cộng Sản. Khoảng gần một năm sau, các sĩ quan cao cấp tham gia biến động đã bị đưa ra toà chịu biện pháp kỷ luật.

Cuộc biến động sau đó bị chìm vào quên lãng vì thực ra nó không có tầm vóc lớn hay nói khác đi tầm vóc Quốc gia mà chỉ là những cuộc biểu tình, ly khai của một số đơn vị miền Trung nhất là Ðà Nẵng, Huế. Sở dĩ chúng tôi nói là không có tầm vóc Quốc gia vì nó không phát triển mạnh tại Trung ương tức Thủ đô Sài Gòn hồi đó, những cuộc biểu tình của Phật giáo chống chính phủ năm 1963 và năm 1964 để lật đổ các chính phủ Ngô đình Diệm và Trần Văn Hương mới có thể coi là có tầm vóc quốc gia .

Thời gian sau, chiến tranh ngày càng mở rộng hầu như báo chí, đài phát thanh không thấy ai bàn tới biến cố này, có thể họ không coi đó là một vấn đề to tát. Gần đây chúng tôi có được đọc bài Biến động Miền Trung của cựu Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi cho rằng phong trào tranh đấu của Phật giáo hồi đó là để đòi chính phủ quân nhân thực hiện bầu cử để miền Nam có một chính quyền dân cử, nhưng dù nói bằng danh từ hoa mỹ nào thì cuộc biến động miền Trung hồi 1966 đã phá rối trị an, có lợi cho Cộng Sản.

Thế rồi 40 năm đã trôi qua nay cuộc biến động đã được làm sống lại trong cuốn hồi ký Biến Ðộng Miền Trung (BÐMT) của cựu Thiếu tá cảnh sát Liên Thành (LT), mới đầu chúng tôi thấy khoảng năm 2005, 2006 tuần báo Sài Gòn nhỏ có đăng một số bài trích trong cuốn sách chưa xuất bản này, một thời gia sau Liên Thành cho in thành sách và ra mắt sách tại một số nơi. Cuốn sách được nhiều người hưởng ứng mua ủng hộ và càng ngày càng được phổ biến. Một điều hơi lạ một đề tài xưa như trái đất, không hấp dẫn gì cho lắm, nó không có tầm vóc quốc gia đã bị thời gian chôn vùi từ trên 40 năm qua nay tự nhiên lại “nổi đình đám” khắp nơi, ngày càng dữ dội rất là “hot” nóng, ngày càng được ra mắt sách tại nhiều nơi tại Mỹ cũng như tại Úc, ngày càng được bàn thảo tranh cãi khắp nơi tại hải ngoại, trên các diễn đàn điện tử, người ta tranh cãi nhau dữ dội, thậm chí xỉ vả, chửi bới lẫn nhau vì bất đồng ý kiến.

Nhiều người khen ông Liên Thành can đảm nói lên những sự thật lịch sử đã được dấu kín bay lâu nay. Dần dần có nhiều người phản ứng chỉ trích trên báo chí về sự sai lạc của các dữ kiện trong cuốn sách, một số nhân chứng cho là ông Liên Thành không nói đúng sự thật. Sau đó có một vài sĩ quan cao cấp trong ngành cảnh sát cũng lên tiếng trên báo Sài Gòn Nhỏ chỉ trích những điểm sai trong cuốn sách. Chúng tôi có hỏi ý kiến một cựu sĩ quan cảnh sát có chức vụ và cấp bậc khá lớn trước 1975, ông này theo Công giáo đã lắc đầu tỏ vẻ không tán thành việc làm của Liên Thành và cho rằng nó sẽ gây xáo trộn trong cộng đồng hải ngoại. Ở đây chúng tôi không bàn về nội dung cuốn sách đúng, sai, hay, dở mà chỉ nêu một số ảnh hưởng không tốt do nó gây ra trong cộng đồng. Có điều đáng nói là ông Liên Thành đã không được giới cảnh sát Quốc gia ủng hộ, bằng cứ là trong các cuộc ra mắt sách của ông không nghe nói Cảnh sát tổ chức ra mắt hay có đại diện tới dự.

Nguyễn Phúc Liên Thành

Ông Liên Thành sinh năm 1942, học lực tú tài, năm 1966 là sĩ quan cấp thiếu uý biệt phái sang làm phó ty Cảnh Sát Thừa Thiên, ông không tốt nghiệp học viện Cảnh Sát quốc gia như nhiều trưởng ty khác, năm 1975 LT giữ cấp bậc Thiếu tá chức vụ cảnh sát trưởng Thừa Thiên. Như vậy năm 1966 ông LT chỉ là một sĩ quan cấp bậc chức vụ nhỏ, học lực trung bình, 24 tuổi, những sự kiện ông kể lại trong sách không thể coi là có tầm vóc Quốc gia được mà chỉ coi như là những biến cố địa phương của một tỉnh lẻ xa xôi. Mặc dù cấp bậc, chức vụ nhỏ, biến cố tại Huế nơi ông làm việc không phải là vấn đề to tát nhưng cuốn sách của ông đã được thổi phồng quá đáng, người ta có cảm tưởng như chức vụ của ông ngang hàng Tổng giám đốc hoặc chỉ huy trưởng Cảnh sát trung ương tại Sài Gòn vì ông kể lại toàn những chuyện to tát, động trời.

BÐMT không thể coi là có tầm vóc bí mật Quốc gia vì nó chỉ kể lại những biến động tại một tỉnh lẻ trong một địa phương nhỏ mà thôi, nếu nói là tầm vóc lớn chúng ta phải kể Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập hoặc Khi Ðồng Minh Tháo Chạy của Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng vì nó liên quan đến những việc Quốc gia đại sự , những điều tác giả NTH tiết lộ là những bí mật Quốc gia có liên quan đến giới chức cao cấp trong chính quyền Việt Mỹ và vận mệnh miền Nam trước 1975, tuy nhiên ngay như hai cuốn sách này cũng không được quảng bá rầm rộ như cuốn BÐMT.

Nói về ảnh hưởng của cuốn BÐMT thì ta khó mà chối cãi được, năm ngoái năm kia, trong khi dân oan khiếu kiện tại Sài Gòn, Hà Nội ầm ĩ, đồng bào Công giáo Thái Hà đòi đất, giáo dân đòi toà khâm sứ Hà Nội đang nóng hổi thì Biến Ðộng Miền Trung cũng nổi đình đám ầm ĩ tại Hải ngoại át hẳn vụ toà Khâm sứ và vụ Thái Hà của Giáo dân trong nước, có một nhà báo đã nói cuốn sách này có thể khiến người ta quên đi vụ Thái Hà, Toà Khâm Sứ. Hư thực ra sao chưa rõ nhưng chúng ta phải công nhận nó đã gây xáo trộn khá nhiều trong cộng đồng hải ngoại. Cho tới nay Biến Ðộng Miền Trung vẫn được tiếp tục ra mắt sách, tiếp tục được quảng cáo, lăng sê ầm ĩ .

Trên nhiều diễn đàn ngày càng có thêm những viết bài chỉ trích, than phiền về cuốn BÐMT của LT, cách đây vài tháng trên DCV.online một bài góp ý vơi LT được đưa lên diễn đàn này, ngay sau đó có hàng mấy chục rồi gần một trăm người góp ý, họ đem tác giả bài viết ra đấu tố y hệt như cải cách ruộng đất năm 1955 ngoài Bắc . Những người bênh vực ủng hộ LT chửi rủa, tru tréo, mạt sát tác giả bài viết và sau đó những người ủng hộ tác giả phản pháo lại dữ dội, họ làm như muốn ăn tươi nuốt sống nhau . Ðiều đáng sợ là trong đó vấn đề tôn giáo đã được hai bên đem ra làm đối tượng tranh cãi, bên này chỉ trích nói xấu tôn giáo bên kia, chia rẽ tôn giáo đã thực sự thành vấn đề. Như chúng ta đã biết Cộng Sản thường len lỏi vào cộng đồng để đâm bị thóc chọc bị gạo, CS lợi dụng tối đa sự chia rẽ của người Việt Quốc gia để tạo phân hoá nghi kỵ. BÐMT được đề cập có khi hàng tuần, hàng tháng trên các diễn đàn, được tranh cãi, chỉ trích chửi bới nhau giữa các độc giả hay tranh cãi, dĩ nhiên trong đó CS giả vờ đóng vai độc giả để chửi bới bên kia, đâm bị thóc chọc bị gạo chia rẽ cả hai bên.

Việc ông Liên Thành đem chuyện xưa viết hồi ký không có gì là sai trái, đó là quyền tự do cá nhân của ông, nếu như ông có quảng cáo tối đa tác phẩm BÐMT của ông để bán lấy nhiều tiền hay để đánh bong, khoe khoang cho cá nhân ông thì cũng là quyền của ông. Nhưng vấn đề chúng tôi muốn nói ở đây là tác phẩm của ông nay gây quá nhiều tranh cãi, chia rẽ nặng nề trong cộng đồng Hải ngoại, dù là vô tình hay cố ý nó cũng không có lợi cho chúng ta trong lúc này. Ông LT là người Quốc gia chắc cũng biết rằng xáo trộn chia rẽ là có lợi cho CS, họ chỉ trông đợi có thế như vậy dù việc gây xáo trộn do vô tình hay cố ý chúng ta cũng đều nên tránh né.

Tôi thiết nghĩ tác phẩm của ông nay đã tới tay nhiều người đọc, ông đã bán được khá nhiều sách, ông đã từ một người vô danh tiểu tốt không ai biết tới trở thành nhân vật nổi tiếng và như thế chúng tôi nghĩ cũng là được quá rồi. Có lẽ ông nên thôi ra mắt sách, thôi lên các diễn đàn trả lời người đọc vì gần đây ông ra mắt sách tại Bắc Cali mới khiến cho một người lên tiếng phản bác cuốn sách của ông trên diễn đàn gây lên nhiều tranh cãi chia rẽ như họ đã làm trên các trang diễn đàn khác. Có lẽ là người Quốc gia ông nên nghĩ tới quyền lợi của cộng đồng để phục vụ công cuộc tranh đấu chung của người Việt hải ngoại hơn là đi tranh luận đỏ mặt, tía tai về những chuyện ruồi bu, cũ rích.

Ông LT là nhân chứng lịch sử nhưng không có nghĩa tất cả những điều ông kể lại đều được người ta tin hết, người đọc họ cũng không ngây thơ như vậy đâu.

Trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh, ông Cao Văn Viên đã kết luận.

“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim ‘Rashomon’. Một trăm nhân chứng, một trăm sự thật. Ðịnh kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hãy để cho hậu thế lượng định và phán xét”
(Lâm Lễ Trinh, Về Nguồn, trang 276.)

Trong phim Rashomon (Nhật, 1951), cái chết của một hiệp sĩ trong rừng đã được năm người nhân chứng khai khác nhau, không biết đâu là sự thực. Ngay như giữa hai ông cựu tướng Cao Văn Viên và Ngô Quang Trưởng khi kể lại tình hình tháng 3-1975 cũng đã có sự khác biệt rõ rệt. Ông Trưởng nói ngày 13-3-1975 ông được triệu về Sài Gòn, tại dinh Ðộc Lập chỉ có một mình ông vào gặp Tổng thống và Thủ tướng và Tổng thống Thiệu buộc ông phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm 13-3-1975. Ông Cao Văn Viên lại nói buổi họp ngày 13-3 có Tổng thống, Thủ tướng , Trung Tướng Ðặng Văn Quang, ông Cao Văn Viên và hai vị Tư lệnh quân khu III và QK I, ông Thiệu chưa cho lệnh rút quân bất cứ nới nào lúc đó ( 13-3-75).

Chúng tôi nghĩ có lẽ ông Liên Thành nên khiêm tốn như ông Cao Văn Viên, ông không nên quả quyết một cách chắc chắn những sự kiện do mình đã làm nhân chứng, vả lại trong bài CIA Và Các Ông Tướng ông Trần bình Nam có nói.

“Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác”

Chúng tôi nghĩ có lẽ ông LT nên bớt chỉ trích tố giác người này người nọ vì nó không có lợi cho cá nhân ông, thí dụ như trên Ðàn Chim Việt trong bài nói về Rút bỏ Quân đoàn Một và bài nói về Biến động miền Trung đã có hai nhân chứng là cựu quân nhân rút chạy tại Huế góp ý nói rằng ông Liên Thành tháng 3-1975 đã bỏ một lô đàn em ở Thuận An chạy tháo thân trước và họ đã chỉ trích nặng nề hành động này.

Cộng sản đã được hưởng lợi rất nhiều ở tình hình biến động miền trung năm 1966, nay chúng ta không thể để cho họ lợi dụng Biến Ðộng Miền Trung một lần thứ hai. Cộng đồng người Việt Hải ngoại nay đang có rất nhiều việc trước mắt cần làm như: yểm trợ các nhà đấu tranh dân chủ trong nước, hỗ trợ các tôn giáo tranh đấu cho quyền tự do tín ngưỡng, giúp đỡ thương phế binh VNCH tại Việt Nam, ngăn chận sự xâm nhập của CS nằm vùng vào cộng đồng, biểu tình chống Trung Quốc lấn đất, lấn biển …. ngoài ra chúng ta cần phải đánh giặc chia rẽ.

Trước mắt chúng ta là hằng hà sa số những việc có ý nghĩa cần phải làm cho nhân dân, cho đất nước, việc tranh cãi chửi bới nhau về những chuyện ruồi bu, kiến đậu, xưa như trái đất hơn 40 năm về trước chỉ thêm tốn nước bọt một cách vô ích, nó đã không cần thiết lại có hại cho tình đoàn kết của cộng đồng.

Trọng Ðạt

Bàn Về Những “Chiêu Bài Mị Dân” - Song Chi

Song Chi

Để giữ vững vị trí độc tôn lãnh đạo, để tiếp tục ru ngủ số đông người dân khờ khạo đồng thời dẹp yên những mầm mống tư tưởng hoài nghi, bất phục và đối kháng trong một thiểu số “cứng đầu”, những nhà nước chuyên chế độc tài luôn luôn phải có những “chiêu bài mị dân” của họ. Ví dụ, với nhà nước Trung Quốc hiện nay, người ta thấy rất rõ những chiêu bài đó là sự phát triển kinh tế và niềm tự hào, tự tôn về dân tộc. Chính những thành tích về phát triển kinh tế, sự lớn mạnh về khả năng quân sự quốc phòng, viễn cảnh về một siêu cường quốc trong tương lai… của Trung Quốc chắc chắn đã tạo nên trong lòng đa số dân chúng của họ một cảm giác bằng lòng và tự hào để tạm quên đi khát vọng về tự do dân chủ, nhân quyền được tôn trọng cũng như sự bức xúc trước muôn vàn bất công, phi lý, những điều tồi tệ trong xã hội. Và hai “lá bài” này phải nói là mạnh, bởi vì với đà phát triển kinh tế như hiện nay, với vị thế của một đất nước khổng lồ trên một tỷ dân và với một tham vọng bành trướng, bá quyền đã có “truyền thống” từ xưa, Đảng và Nhà nước cộng sản Trung Quốc có thể yên tâm mà tại vị khá lâu nữa, nếu như không có bất cứ một khúc ngoặt bất ngờ nào đó của thời cuộc.

Học theo đàn anh, Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam cũng có những “chiêu bài mị dân” riêng của mình. Trước đây những “chiêu bài” quen thuộc được sử dụng bao nhiêu năm là thành tích về “sự chiến thắng vĩ đại của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh thần thánh chống Pháp và chống Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước” và huyền thoại về vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh. Cho đến giờ phút này, những điều này vẫn thường xuyên được lặp đi lặp lại từ trên các phương tiện truyền thông của nhà nước cho đến chương trình giáo khoa suốt 12 năm trung học và cả bậc đại học. Thậm chí, sợ người dân xao lãng, nhà nước còn phát động rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân những cuộc học tập theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất là quy mô và tốn kém, bắt cả sư thầy ni cô trong các nhà chùa cũng phải học!

Từ khi thực hiện chính sách “mở cửa” về kinh tế, chính quyền chuyển sang khuyến khích người dân lao vào kiếm tiền, làm giàu bằng đủ mọi cách và sử dụng lá bài “ổn định chính trị, phát triển kinh tế” để người dân quên đi những nhu cầu khác cũng như những câu hỏi lớn khác về đời sống xã hội chính trị của đất nước. Đối lập với sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, một lập luận thường xuyên được những người cầm quyền đưa ra để “hù doạ” nhân dân đó là mọi sự đa đảng, đa nguyên sẽ chỉ dẫn đến sự xáo trộn, rối loạn về chính trị, xã hội và cả kinh tế, lý do là bởi vì trình độ dân trí Việt Nam còn thấp nên mô hình độc đảng với sự lãnh đạo của Đảng CSVN như lâu nay là đúng đắn, tối ưu.

Phải nói là có không ít người dân, nếu không đọc thêm các nguồn thông tin khác hoặc có thêm những trải nghiệm cá nhân về những môi trường sống khác trong những thể chế chính trị xã hội khác, đã tin hoặc tạm bằng lòng với những lý luận như vậy.

Những người cầm quyền đã lừa mị nhân dân của họ với khái niệm về sự ổn định. Tuy nhiên, một xã hội gọi là ổn định về chính trị do được cai trị bởi bàn tay sắt của một thể chế chính trị độc tài, độc đảng không có nghĩa là ổn định về kinh tế và xã hội. Bên dưới cái bề mặt có vẻ ổn định về chính trị, một xã hội được điều hành theo cơ chế “đảng trị” bởi một đảng duy nhất thâu tóm mọi quyền lực trong tay như ở Trung Quốc và Việt Nam luôn luôn chất chứa những mâu thuẫn, nghịch lý do không có sự cạnh tranh, san sẻ, khống chế và kiểm soát lẫn nhau trong quyền lực chính trị và điều hành đất nước, không có một nền luật pháp rõ ràng, minh bạch để điều chỉnh mọi sự sai lệch trong phát triển xã hội cũng như phát triển kinh tế. Chưa kể chính cái thể chế chính trị độc tài độc đảng đã tạo điều kiện cho bao nhiêu bất công, phi lý, những vấn nạn xã hội tồn tại và sinh sôi nảy nở không sao giải quyết nổi như nạn tham nhũng, hối lộ, tệ cửa quyền, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn, bản thân người dân thì không có tự do dân chủ và nhân quyền thì bị chà đạp… Còn trong phát triển kinh tế, sự thiếu vắng một nên luật pháp minh bạch và sự cạnh tranh sòng phằng cũng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó có nhiều bất ổn, rủi ro. Tất cả những điều đó sẽ tạo nên những mâu thuẫn từ trong bản chất chế độ, như những đợt sóng ngầm âm ỉ chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là trào lên phá vỡ sự ổn định bề mặt kia bất cứ lúc nào.

Cũng như nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn đem những thành tích tăng trưởng về kinh tế và sự thay đổi trên bề mặt xã hội để xoa dịu nhân dân và biện minh cho sự thống trị của Đảng.

Trong khi đó, bị nỗi ám ảnh về cái đói cái nghèo của thời bao cấp, cả xã hội Việt Nam ngày nay đang lao vào kiếm tiền, và không ít người dân tự an ủi rằng so với thời bao cấp chưa xa thì cuộc sống bây giờ đã dễ thở hơn, còn nếu so với cái thời miền Bắc trước năm 1975 thì rõ ràng một trời một vực rồi.

Nhung như đã nói, phát triển kinh tế chỉ mới là một phần trong việc chứng tỏ xã hội đó đang đi lên theo chiều huớng tích cực, còn bao nhiêu vấn đề khác: khoảng cách giàu-nghèo và sự bất công quá lớn trong xã hội, tài nguyên của đất nước bị khai thác đến cạn kiệt, thiên nhiên bị tàn phá không thương tiếc, môi truờng sống bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng cuộc sống của đa số người dân chưa đuợc cải thiện tận gốc và chế độ an sinh xã hội chưa đuợc quan tâm đến, chưa kể là sự xuống cấp, tha hóa về đạo đức xã hội, mọi giá trị đều bị lệch chuẩn… Như thế là một xã hội đang phát triển một cách phi nhân tính và lệch lạc, chệch hướng so với con đuờng phải đi là xã hội phải ngày một văn minh, con nguời ngày một tự do, tự chủ, đuợc coi trọng và hạnh phúc hơn!

Thế nào là một xã hội phát triển lành mạnh, nhân bản, đúng hướng?

Khi mà trong xã hội đó tất cả mọi mục tiêu hướng tới đều phải vì con người, đặt sự tự do hạnh phúc của con người lên trên hết.

Khi mà trong xã hội đó mọi người dân có quyền đi bầu chọn những người xứng đáng nhất lên điều hành đất nước và có quyền lên tiếng phê phán kêu gọi những người này phải từ bỏ chức vụ nếu họ bất tài, thất đức hoặc có những hành vi sai trái làm hại cho đất nước, cho nhân dân. Người dân có quyền lên tiếng bày tỏ chính kiến, quan điểm chính trị xã hội của mình một cách ôn hoà, có quyền phê bình, phản biện mọi chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước mà không bị chụp mũ phản động, phản quốc, bị gây khó dễ thậm chí bị bắt bớ, cầm tù.

Khi mà trong xã hội đó người dân biết rằng nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra họ có thể trông cậy vào luật pháp, luật pháp sẽ bảo vệ họ, nhà nước sẽ bảo vệ họ nếu họ đúng, nếu họ bị những kẻ côn đồ hành hung hoặc những kẻ lạ mang danh nước láng giềng anh em đánh cướp, bắt giữ…

Khi mà trong xã hội đó con người từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi luôn luôn cảm thấy an tâm rằng nếu họ lương thiện, đi làm và đóng thuế đầy đủ cho nhà nước thì ngược lại, khi cần họ có thể trông cậy vào sự hỗ trợ của nhà nước như lúc thất nghiệp, khi đau yếu lúc già cả không nơi nương tựa… Và do đó họ có thể sống một cuộc đời nhẹ nhàng ít lo nghĩ, không phải bon chen giành giật mọi cơ hội, chỉ biết chăm chăm thu vén cho cá nhân mình vì khi có việc gì xảy ra không biết trông vào đâu.

Khi mà trong xã hội đó người dân tin rằng đồng tiền đóng thuế từ bao mồ hôi công sức của họ được nhà nước sử dụng một cách hợp lý, công khai và minh bạch.

Mọi người dân đều được tạo điều kiện tốt nhất để học hành và khi đến trường những đứa trẻ không phải học những kiến thức vô bổ, những điều dối trá mà ngay người thầy dạy chúng cũng không tin và bản thân chúng cũng biết như vậy.

Mọi người dân đều có những cơ hội như nhau để thành đạt và bằng cấp, tước vị, chỗ làm đều không thể mua mà có.

Khi mà trong xã hội đó người dân không phải chịu những tai hoạ, những cái chết oan uống có thể đến từ bất cứ đâu, từ bất cứ lý do nào do sự vô trách nhiệm, làm ăn gian dối của người khác như cầu gãy, nhà sập, điện giật trên đường hố ga sụp dưới chân hay sữa nhiễm độc, phở ướp phóoc-môn…

Khi mà trong xã hội đó sự vất vả của người nông dân công nhân được đền bù xứng đáng, tiếng nói của người trí thức được coi trọng, tài năng của người nghệ sĩ được phát triển tối đa trong sự tự do không ai cấm đoán…

Khi mà trong xã hội đó báo chí được quyền nói lên sự thật, được quyền đứng về phía lẽ phải, đứng về phía nhân dân và những giọt nước mắt.

Mọi lời nói phải cũng như mọi tiếng kêu oan không lọt thỏm vào sự im lặng.

Khi mà trong xã hội đó con người không có quá nhiều nỗi lo, cho dù những nỗi lo có lý hay vô lý. Khi con người không có quá nhiều nỗi sợ, và mọi nỗi sợ đều do chính quyền tạo ra.

Khi cái tốt, cái thiện, điều tử tế không phải là điểu hiếm hoi hay bất bình thường và cái xấu, cái ác, điều không tử tế lại tràn ngập khắp nơi và trờ thành bình thường.

Khi con người không vô cảm trước mọi điều tồi tệ đang xảy ra hàng ngày, không cúi đầu bạc nhược trước cường quyền, biết đau đớn trước vận mệnh của đất nước và của dân tộc.

Khi mà trong xã hội đó mọi người biết xấu hổ, kẻ làm quan biết đến đến hai chữ xin lỗi – xin lỗi nhân dân, xin lỗi lịch sử và biềt đến văn hoá từ chức. Khi lòng yêu nước không bị kết tội còn kẻ xu nịnh, phản quốc lại được tôn vinh.

Chỉ khi đó xã hội ấy mới là một xã hội đang phát triển đúng hướng, lành mạnh, và nhân bản.

Còn nếu không, đừng nói với nhân dân tôi về độc lập, tự do và hạnh phúc, về công lao của Đảng, về chủ nghĩa Mác – Lê Nin bách chiến bách thắng và tư tưởng của Hồ Chí Minh vĩ đại.

Đừng nói với nhân dân tôi muôn vàn những khái niệm, lý luận, những mỹ từ sáo rỗng…

Bởi vì, khi không đem lại được độc lập tự do hạnh phúc cho nhân dân sau hơn sáu mươi năm điều hành đất nước, còn có lý do gì để Đảng cầm quyền đó tiếp tục tại vị?
Nguồn: talawas.org


Chuyến về quê đặc biệt của một hạm trưởng hải quân Hoa Kỳ gốc người Việt tỵ nan CS


Ben Stocking,
Associated Press Cymbidium,
X-Cafe chuyển ngữ

Đà Nẵng, Việt Nam – Ngày Miền Nam thất thủ, Lê Bá Hùng (LBH), một cậu bé lên 5, di tản cùng với 400 người tỵ nạn chen chúc trên một chiếc thuyền đánh cá chật chội. 34 năm sau, cậu bé này trở về quê hương trong một tình huống không ai ngờ – hạm trưởng của một khu trục hạm Hoa Kỳ.

Hôm thứ Bảy, Hạm Trưởng LBH điều khiển chiếc khu trục hạm Hoa Kỳ Lassen cập bến Đà Nẵng, quê của “China Beach”, nơi mà ngày xưa binh sĩ Mỹ dùng làm nơi dưỡng quân sau các cuộc hành quân trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến này đã chấm dứt vào ngày 30 tháng Tư, 1975, ngày Sài Gòn bị quân cộng sản Miền Bắc Việt Nam đánh chiếm.

Đó cũng là ngày LBH và gia đình khởi đầu một cuộc hành trình vô định trên một chiếc thuyền đánh cá được lèo lái bởi cha của LBH, một sĩ quan chỉ huy của hải quân Miền Nam Việt Nam. Họ được chiếc tàu hải quân Hoa Kỳ Barbour County cứu vớt ngoài khơi, đưa đến một căn cứ Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân, rồi đến một trại tỵ nạn ở California, và sau cùng đến định cư tại tiểu bang Virginia, nơi đó họ xây dựng lại cuộc đời.

LBH trở về trên chiếc Lassen, một khu trục hạm dài 155 mét giá 800 triệu đô la, được trang bị hỏa tiễn tầm xa Tomahawk và một thủy thủ đoàn 300 người. Chiếc Lassen cùng với chiếc USS Blue Ridge, một soái hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, đang hoàn tất những đợt thăm viếng hữu nghị cuối cùng đến Việt Nam bắt đầu từ năm 2003 khi chiếc USS Vandergriff ghé thăm TP HCM, ngày xưa là Sài Gòn.

Hạm trưởng LBH tuyên bố sau khi đặt chân lên bờ hôm thứ Bảy “Tôi nghĩ sẽ có ngày trở lại nhưng thật tình là tôi đã không dự đoán là trở về với cương vị hạm trưởng của một tàu chiến Hoa Kỳ. Đây là một vinh dự cá nhân cao quý”. Ông ta chập chững nói vài chữ tiếng Việt “Tôi tự hào là người Mỹ, nhưng tôi cũng rất tự hào về nguồn gốc Việt Nam của tôi.”

Những chuyến thăm viếng này tiêu biểu cho những cố gắng của Hoa Mỳ và Việt Nam để phát triển mối quan hệ giữa hai bên để làm quân bình thế lực Trung Quốc trong vùng, mà không làm bất bình người hàng xóm khổng lồ phương bắc.

Thẳng về phía Đông Đà Nẵng là quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc và Việt Nam đang có vấn đề tranh cãi sôi nổi về chủ quyền, đó cũng là nơi Trung Quốc đã đánh bật quân đội miền Nam vào năm 1974. Hai bên cũng đang tranh chấp về Trường Sa, một chuỗi đảo được xem là có khối lượng dự trữ dầu hỏa và khí đốt đáng kể.

LBH lớn lên ở Huế, một thành phố ở bờ biển miền trung cách Đà Nẵng khoảng 105 kí lô mét về hướng bắc, nơi ông vẫn còn nhiều họ hàng. Ông trở về một xứ sở đã thay đổi rất nhiều so với những ngày tháng chiến tranh.

Dọc theo bờ biển Đà Nẵng nơi mà các quân lính Hoa Kỳ đã thường bơi lội và lướt sóng, các khách sạn hạng sang như Hyatt và Marriott đang mọc lên. Du khách đổ dồn về vùng này để có thể chơi một vài đường banh ở sân gôn được thiết kế bởi tay gôn thượng hạng Colin Montgomerie.

Mối giao hảo giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng thay đổi rất nhiều từ khi hai cựu thù bình thường hoá quan hệ vào năm 1995. Giao thương giữa hai nước tăng vọt và liên hệ ngoại giao, quân sự của hai bên cũng trở nên gần gũi hơn.

Biểu tượng sâu sắc của sự quan hệ đang đổi thay có thể được nhận thấy ở nơi không xa chỗ LBH đặt chân lên bờ. Đó là một căn cứ không quân ngày xưa nơi mà quân đội Hoa Kỳ từng lưu trữ, pha trộn và bơm thuốc khai quang Da Cam lên máy bay. Quân đội Hoa Kỳ rải thuốc Da Cam chứa đựng độc tố dioxin để quân đội Cộng Sản Bắc Việt Nam không có chỗ trú ẩn. Cả hai quốc gia đang hoạt động với nhau để dẹp chất dioxin khỏi căn cứ, chất này tồn tại trong đất sau cả chục năm.

Nhưng vẫn có dấu hiệu của những cản trở, buổi lễ chào mừng những thủy thủ Hoa Kỳ bị đình trệ hai tiếng trong khi hai bên bàn cãi cách dương quốc kỳ của hai quốc gia trên soái hạm Blue Ridge.
Sĩ quan chỉ huy dân sự vụ Jeff Davis của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ nói bên Hoa Ký muốn treo hai quốc kỳ ở trên boong chính, trong khi bên Việt Nam muốn thượng kỳ ở cột cờ. Rốt cuộc, họ treo lên cột cờ.

Khi LBH rời Việt Nam vào năm 1975, chỉ có bốn trong tám người con thoát được. Số con còn lại kẹt ở Việt Nam cho đến khi được đoàn tụ với gia đình vào năm 1983. LBH không nhớ nhiều về chuyến đi ba ngày trên tàu đánh cá, chấm dứt sau khi họ cạn lương thực, nước uống và nhiên liệu.

Nhưng ông còn nhớ một cách sâu sắc những hình ảnh của người cha gương mẫu, ông Lê Bá Thông, hiện nay đã 69 tuổi và chưa bao giờ trở lại Việt Nam. Sau khi gia đình định cư ở bắc Virginia, ông Thông làm việc trong một siêu thị, đi từ chức người gói hàng cho đến vị trí quản lý.

LBH nói “Tôi lúc nào cũng muốn trở thành một người như cha tôi. Ông luôn luôn kiên trì và đã vượt qua nhiều thử thách.”

Nguồn: Ben Stocking,
Associated Press
Cymbidium,
X-Cafe chuyển ngữ