Monday, August 10, 2009

Hai tháng Chín: Quốc Khánh hay Quốc Nhục ? - Nguyễn Quang Duy

Nguyễn Quang Duy

Bấy lâu nay đảng cộng sản vẫn trơ trẽn, lãng phí tiền thuế của dân, rềnh rang tổ chức ngày cướp được chính quyền. Năm nay một đòan văn công hằng trăm người đã được sửa soạn để sang Melbourne Crown Casino mừng “ngày vui của đảng cộng sản Việt Nam”, ngày đã cướp được chính quyền. Ngày này sẽ được trực tiếp truyền hình và phát về Việt Nam tuyên truyền lường gạt đồng bào quốc nội “Úc châu mừng Quốc Khánh 02/09/2009”.

Quốc khánh phải là ngày vui của toàn dân tộc. Một sự thật không thể chối cãi dân tộc Việt chưa có ngày vui này. Người Việt Tự Do ngược lại xem ngày 2 tháng 9 là ngày quốc nhục.

Cộng sản cướp chính quyền

Ngày 09/03/1945, người Pháp đã bị người Nhật loại khỏi chính trường Đông Dương. Vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ các hòa ước đã được triều đình Huế ký kết trước đó với Pháp. Sau đó đến lượt người Nhật đầu hàng. Vua Bảo Đại và chính phủ Trần trọng Kim đại diện chính danh và hợp pháp cho Việt Nam Độc Lập Tự Do.

Chính phủ Trần trọng Kim vừa lo thu hồi độc lập, vừa lo nạn đói, lo cải cách xã hội và giáo dục, lo soạn thảo hiến pháp, lo xây dựng một quốc gia dân chủ và giầu mạnh. Nhưng an ninh quốc gia lại bị Việt Minh cộng sản đe dọa, vì tổ chức này chủ trương dùng bạo lực nổi dậy cướp chính quyền.Trong tình hòa hợp dân tộc, ít nhất năm lần chính phủ Trần Trọng Kim đã tiếp xúc với đại diện Việt Minh cộng sản mời hợp tác nhưng không thành.

Nhân ngày 17/08/1945, công chức chính phủ Trần trọng Kim đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn. Việt Minh cộng sản lợi dụng cơ hội, trà trộn vào hàng ngũ công chức, chăng những cờ cộng sản, những biểu ngữ riêng và hô những khẩu hiệu riêng. Trong hồi Ký Thượng tướng quân đội Cộng sản Hoàng Cầm, viết rất rõ về hành động của kẻ cướp nước như sau: “… Theo hiệu lệnh đã quy định, ba đội viên tuyên truyền xung phong xông lên, chĩa súng dồn "ban tổ chức" vào một góc, lập tức một đội viên tự vệ của chúng tôi tiến nhanh tới chân kỳ đài vung lưỡi dao bén sắc chém đứt dây lá cờ "quẻ ly" của chính quyền bù nhìn do Nhật dựng lên …”

Ngày 19/08/1945, Việt Minh tổ chức biểu tình cướp chính quyền. Trong hồi ký, Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ, chủ tịch của Ủy Ban Giám Đốc Chính Trị Miền Bắc, đã diễn tả hành động này như sau: “… sau những lời vẫn có vẻ thân mật nhưng không đi đến một quan điểm chung, thanh niên đã vào nói chuyện tôi hôm trước, tiến tới chỉa một ngọn súng lục vào mổ y sĩ và nói: Trong đại sự, phải gạt bỏ tình nghĩa riêng tây, tôi yêu cầu ông mở cửa …” Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ cho biết ông đã chỉ tay vào khẩu súng và nói: “Ông không cần phải giơ súng ra. Tôi không sợ bị đe dọa, nhưng tôi buồn cho tương lai nước nhà.”

Ngày 02/09/1945 là ngày đảng cộng sản tuyên bố cướp được chính quyền. Ngày này tại Quảng Trường Ba Đình Hà Nội, lãnh đạo cộng sản Hồ Chí Minh đã đọc “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mở đầu là lời trích từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của Hoa Kỳ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền đựơc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc." Toàn bản Tuyên Ngôn không đá động gì đến đảng cộng sản, đến chủ nghiã xã hội hay chủ nghĩa cộng sản.

Rồi từ ngày 02/09/1945 Hồ chí Minh và đảng cộng sản đã từng bước cướp đi mọi quyền làm người. Những quyền mà ông cha ta đã phải đổ bao xương máu giành lại từ Tầu Tây Nhật.

Cộng sản trước bắt tay với Pháp tiêu diệt mọi thành phần, mọi tầng lớp không theo cộng sản. Sau đảng cộng sản làm nhiệm vụ quốc tế đưa đất nước vào 4 cuộc chiến gây bao tang thương, chết chót, hận thù. Mà trong đó đã có 2 cuộc chiến với các quốc gia cộng sản khác, Cam Bốt và Trung Cộng. Hai cuộc chiến sau chỉ vì những tranh chấp nội bộ quốc tế cộng sản. Vì thế khi nhắc đến Việt Nam mọi người đều nghĩ ngay đến xứ sở của chiến tranh.

Theo lệnh Nga Tầu, đảng cộng sản thi hành đấu tranh giai cấp, cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản,… gây bao tang thương đổ vỡ cho dân tộc Việt Nam. Sử dụng súng đạn Nga Tầu, đảng cộng sản xé bỏ các hiệp định quốc tế Genève và Paris, xua quân cưỡng chiếm miền Nam chém giết dân lành vô tội, đưa cả nước vào nhà tù cộng sản.

Mất tự do hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, hy sinh trên biển cả hay tha hương trên đất khách quê người. Đảng cộng sản còn đày hàng triệu lao nô Việt để lấy ngoại tệ trả nợ chiến tranh hay để duy trì quyền lực.

Sau sáu mươi năm cầm quyền, đảng cộng sản nay đứng đầu thế giới về tham nhũng. Ngược lại, Việt Nam là một nước nghèo và lạc hậu nhất thế giới. Văn hoá, xã hội, giáo dục thì suy đồi khủng hoảng. Tình cảnh Việt Nam đã được đồng bào Quốc nội diễn tả như sau: (trích Lời kêu gọi cho Quyền thành lập và hoạt động đảng phái tại Việt Nam) hay "... là sự hư hỏng lương tâm, tồi tệ nhân cách, bế tắc giáo dục, gian dối thông tin, tùy tiện luật pháp, hỗn loạn xã hội; là cán bộ đảng viên lộng quyền và tham nhũng tràn lan và ngang nhiên; là Nhân dân bị bóc lột tài sản và công sức, bị hăm dọa cuộc sống và nghề nghiệp; là dân tình điêu đứng và phẫn uất; là giới trẻ mất niềm tin, lý tưởng sống và định hướng tương lai; là các tôn giáo bị lũng đoạn và tước đoạt; là đồng bào hải ngoại ngao ngán và bất hợp tác; là biên cương Tổ quốc bị ngoại bang lấn chiếm và đe dọa; là chính thể bị phê phán lạc hậu, độc tài và Quốc thể bị coi thường; ... ""... Việt Nam hôm nay trở thành Quốc gia bị tụt hậu quá xa so với các Nước trong khu vực và thế giới. Quốc nhục này và các quốc nạn khác khó bề tẩy xóa ..." (trích Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 2006).

Độc lập dân tộc không còn giữ được, đảng cộng sản lộ nguyên hình tay sai cho ngoại bang Trung cộng. Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc, vịnh Bắc Bộ và nhiều phần đất nước đã được dâng hiến cho đảng cộng sản Trung Hoa. Đảng Cộng sản Việt Nam lại cấu kết với Trung Cộng tận dụng mọi tài nguyên đất nước.

Mọi tiếng nói kêu đòi công bằng, dân chủ và bảo vệ tổ quốc Việt Nam đều bị đảng cộng sản bắt bớ, khủng bố, sách nhiễu... Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiếp tục cuộc chiến chống lại mọi thành phần dân tộc, không chấp nhận độc quyền cộng sản.

Hai Tháng Chín Ngày Quốc Nhục

Ngày Quốc nhục vì là ngày đảng cộng sản đã sử dụng bạo lực để cướp chính quyền.

Ngày Quốc nhục vì Hồ chí Minh và đảng cộng sản đã phản bội Tổ Quốc và Dân tộc theo lệnh Tầu Nga xây dựng một chế độ cộng sản tại Việt Nam.

Ngày Quốc nhục vì từ đó Hồ chí Minh và đảng cộng sản đã từng bước cướp đi mọi quyền làm người, mà ông cha ta đã phải đổ bao xương máu giành lại từ Tầu Tây Nhật.

Ngày Quốc nhục vì đảng cộng sản làm nhiệm vụ quốc tế đưa đất nước vào 4 cuộc chiến, đấu tranh giai cấp, cải cách ruộng đất, … gây bao tang thương chết chót cho dân tộc. Hồ chí Minh đã chết đúng vào ngày quốc nhục 02/09/1969. Cũng là ngày để chúng ta xét tội Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam.

Ngày Quốc nhục vì đảng cộng sản xé bỏ các hiệp định quốc tế Genève và Paris, làm nhiệm vụ quốc tế, sử dụng súng đạn Nga Tầu, xua quân cưỡng chiếm miền Nam chém giết dân lành vô tội, đưa cả nước vào nhà tù cộng sản.

Ngày Quốc nhục vì hàng triệu dân Việt không sống được dưới chế độ độc tài đảng trị đã phải bỏ nước ra đi tha hương nơi đất khách quê người.

Ngày Quốc nhục vì Việt Nam nay là một nước nghèo nàn và lạc hậu nhất thế giới. Văn hoá, giáo dục, xã hội suy đồi.

Ngày Quốc nhục vì đảng cộng sản đã dâng Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc, vịnh Bắc Bộ và nhiều phần đất nước cho ngoại bang Trung Cộng.

Ngày Quốc nhục vì đảng cộng sản đã và đang đàn áp mọi tiếng nói dân chủ và yêu nước. Chúng sẽ tiếp tục đàn áp nếu chúng ta không cùng lên tiếng hổ trợ cho cuộc đấu tranh của đồng bào Quốc nội.

Ngày Quốc nhục vì đảng cộng sản đã lấy ngày cướp nước 2-9 làm ngày "Quốc Khánh" của Việt Nam. Tiếp tục dùng tiền thuế cuả dân tuyên truyền cho công trạng cướp và phá hoại đất nước của chúng. Năm nay lại một đoàn văn công hằng trăm người đã được sửa soạn để sang Melbourne Crown Casino mừng “ngày cướp nước”. Ngày này sẽ được trực tiếp truyền hình và phát về Việt Nam tuyên truyền lường gạt đồng bào quốc nội “Úc châu mừng Quốc Khánh 2/9/2009”. Tủi nhục nếu chúng ta không tích cực hành động bẻ gẫy trò bịp bợm này.

Đóng góp và tham gia biểu tình phản đối trò bịp bợm “Úc châu mừng Quốc Khánh 02/09/2009”

Cộng đồng đã lên tiếng kêu góp không tiếp tay đảng cộng sản chào mừng “quốc khánh Việt Cộng”, không quảng cáo, không bán vé, không mua vé, không đi xem, kêu gọi tẩy chay và tích cực tham gia các cuộc biểu tình chống lại trò bịp bợm ném đá dấu tay của đảng cộng sản Việt Nam.

Đóng góp và tham gia biểu tình là đồng thanh cho đảng cộng sản biết cộng đồng Úc châu chúng ta coi ngày này là ngày quốc nhục.

Đóng góp và tham gia cuộc biểu tình cũng là tiếp tay hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh đòi tự do và dân chủ cho Việt Nam. Đòi đảng cộng sản phải bảo vệ lãnh thổ tổ tiên để lại, phải công bố lộ trình cho một cuộc bầu cử tự do, công bằng với giám sát quốc tế bầu ra một Quốc hội Lập Hiến và một chính phủ dân chủ.

Đóng góp và tham gia cuộc biểu tình là gia tăng tiếng nói, gia tăng sức đấu tranh tạo điều kiện quốc nội đứng lên giải thể chế độ độc tài cộng sản.

Như thế đóng góp và tham gia cuộc biểu tình chính là góp tay góp sức xoá bỏ ngày “Quốc nhục mất nước” để tạo ngày vui chung toàn dân tộc Việt Nam: Ngày Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam.

Ông bà ta đã dạy "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao." Cũng thế cuộc đấu tranh giành chính nghiã, cho tự do, cho dân chủ, cho vẹn toàn lãnh thổ chỉ có thể thành công với sự góp công góp sức cuả mỗi người trong cộng đồng chúng ta.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
10/08/2009


HẬU QUẢ BA NĂM XÁO TRỘN TẠI MIỀN TRUNG (1964 - 1967) - Mường Giang

Mường Giang

Theo J.Race viết trong The lost revolution cho biết ý đồ xâm lăng Miền Nam VN của Hồ Chí Minh và cộng đảng, đã có từ năm 1958 khi Hà Nội ra lệnh cho các cán bộ nằm vùng tại VNCH, khui lại các hầm vũ khí được cán binh chôn dấu trước khi tập kết ra Bắc, khi đất nước chia hai vào tháng 7-1954. Cũng trong năm này, khi Lê Duẩn từ miền Nam trở ra Bắc, thì Hà Nội lập tức họp Trung ương đảng lần thứ 15 để thành lâp đảng bộ miền Nam, tức Mặt Trận Giải Phóng vào ngày 20- 12-1960, tấn công VNCH bằng hai mặt trận chính trị và võ trang, mà mở đầu là ba cuộc nổi loạn, gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng Ngãi), Mõ Cầy (Bến Tre) và Bắc Ruộng (Bình Thuận).

Ngày nay dù có bị bôi bác đến mức nào chăng nửa, thì sự thật cũng là sự thật. Ðó là thành quả sau chín năm hiện hữu của nền đệ nhất Cọng Hòa Miền Nam từ 1955 đến ngày 01-11-1963, đã tạo được một chính quyền hợp hiến và nền an ninh trật tự, suốt từ Bến Hải vào tới Cà Mâu. Nên ai muốn nói gì thì nói, tính cho tới ngày mất nước, mất đạo sau tháng 4-1975, Giáo Hội Phật giáo-Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) tại Miền Nam VN, nhờ hoàn cảnh thuận tiện của đất nước, nên đã thăng hoa rực rỡ nếu đem so sánh với thời kỳ từ năm 1954 trở về trước, hay với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh của Bắc Việt từ 1945-1975, vì đã thực hiện rất nhiều công trình lợi ích cho xã hội, trong đó quan trọng nhất vẩn là lãnh vực giáo dục.

Từ năm 1964 Viện Hóa Ðạo hoạt động rất mạnh, đào tạo được một số tăng ni trẻ tuổi, có kiến thức văn hoá lẫn Phật pháp cao và đã trở thành những cao tăng, học giả, kiến thức cũng như đạo đức vang vọng khắp năm châu. Nhiều người trong số này, được gởi sang tu học tại Ấn Ðộ, Tích Lan, Nhật, Pháp kể cả Hoa Kỳ. Khắp nơi chùa chiền được tu bổ cũng như xây dựng thêm, nổi tiếng như các chùa Việt Nam Quốc Tự, Vĩnh Nghiêm.

Tại các tỉnh thị, thành phố kể cả các thị trấn lớn từ bên này cầu Hiền Lương-Quảng Trị, vào tận Cà Mâu, Hà Tiên ... ở đâu cũng có các Khuông Hội Phật Giáo và các trường tiểu-trung học Bồ Ðề. Theo thống kê của Tổng Vụ Giáo Dục, thuộc Viện Hóa Ðạo, tính tới ngày 16-06-1967, khắp Miền Nam đã có 80.000 học sinh tiểu trung học, do 400 giáo chức, dạy dỗ tại 112 trường Bồ Ðề.

Ngoài ra Ðại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, cũng đã được khai giảng từ niên khóa 1967, do sư ông Thích Minh Châu ( Ðinh Văn Nam) làm viện trưởng. Bên cạnh còn có thượng tọa Thích Thiện Ân tốt nghiệp tại Mỹ, là khoa trưởng Văn Khoa và Nhân Văn. Vì nhà trường áp dụng theo lối giáo dục Hoa Kỳ, cấp chứng chỉ cho các khóa học hằng ba tháng ... nên sinh viên theo học rất đông, để có chứng chỉ hoãn dịch. Sau tháng 5-1975, tất cả các cơ sở cũng như chùa chiền, nhà thờ của Phật giáo, đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Ðài, Hòa Hảo. đều bị giặc Hồ cướp đoạt tích biên, để đảng làm của riêng hay công sở. Nhiều chức sắc tôn giáo, bị giam tù đến chết nơi ngục thất, trong số này có nhiều tuyên uý, bị gạt đi tù tận các trại giam nơi biên giới Hoa-Lào-Việt.

Nay đọc lại những bài báo cũ của Lý Chánh Trung, đăng rải rác trên các tờ Ðất Mới, Ðối Diện, Ðiện Tín, Tin Sáng, Lập Trường ... công khai nhục mạ, chống đối chính quyền Miền Nam VN, đồng thời hết lòng trung hiếu, ca tụng Hồ Chí Minh và VC, ta mới thấy thấm thía về cái giá tự do, mà người VN từ sau ngày 30-04-1975 đã đổi bằng máu lệ, vàng tiền cùng sinh mạng, khi liều chết vượt biển tìm tự do trên biển Ðông. Tất cả đều là tội lỗi oan nghiệt, qua những tiếng khóc nức nở của các nạn nhân chiến tranh trong suốt 20 năm qua. Tất cả đều do Hồ Chí Minh và cộng đảng, vì tham lợi đảng phái và sự nghiệp cá nhân, mà bất chấp mọi thủ đoạn gây nên cảnh núi xương sông máu, khiến cho không biết bao nhiêu triệu đồng bào phải vong thân khổ lụy, lôi kéo theo đất nước và dân tộc Việt sắp bị Tàu đỏ thôn tính và đồng hóa trong một tương lai gần, có thể đếm được trên đầu mười ngón tay.

Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết vào năm 1954, tại Huế CS gài lại một số cán bộ nằm vùng làm cơ sở, móc nối dụ dỗ nhiều thành phần khoa bảng, thượng lưu của đất thần kinh vào đảng. Huế muôn đời vẫn còn đó, nên ai làm sao có thể quên được những tên tuổi trí thức đương thời như Lê Khắc Quyến, Nguyễn Tuyên, Bùi Tường Huân, Nguyễn Duy Tài, Trần Quang Thuận ... và Ðai Học Huế với một số sinh viên theo giặc, lợi dụng tự do tín ngưỡng và nền dân chủ pháp trị phôi thai của VNCH, để “dùng chính quả tim mình, làm trái phá mở đường rước xe tăng và bộ đội Hà Nội vào đô hộ dân tộc”.

Huế những năm chống Mỹ cứu đảng, từ 1964-1967 qua các giáo sư sinh viên CS nằm vùng trong đại học như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Lê Minh Trường, Nguyễn Ðắc Xuân. Những người này đến đại học trốn lính và mượn phương tiện Quốc Gia, để vót nhọn thơ thành chông xuyên qua gan những người lính trận VNCH, đang bảo vệ mạng sống cho mình. Cũng sẽ mài thơ như kiếm sắt, chặt đầu đồng bào Miền Nam theo đạo Thiên Chúa tại Huế, Ðà Nẳng, để đào sâu thêm sự chia rẽ lương giáo.

Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên phản tặc sát nhân đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968, đã vênh váo thừa nhận là bọn chúng chỉ lợi dụng sự học hành, để tranh đấu, nổi loạn, ném lựu đạn đuổi Mỹ, chống Quốc Gia, hoàn thành sự nghiệp rước cọng sản về dầy mã tổ Hồng Lạc, như ngày nay chúng ta đã thấy. Tóm lại sự nhục nhã của một thời loạn lạc nay đã là một pho sử miệng, muôn đời cười chê đám trí thức no cơm ấm cật, dư thừa thể xác ký sinh, nên không biết làm gì hơn bằng làm tay sai cho giặc, đâm sau lưng chiến sĩ và đồng bào mình.

Sau khi hổn loạn chính trị miền Trung được dập tắt vào giữa năm 1966. Tại Thừa Thiên-Huế, Trung tá Phan Văn Khoa làm Tỉnh Trưởng, được lệnh Trung Ương mở lại hồ sơ có liên quan tới Hoàng Phủ Ngọc Tường và các nhân vật tại trường Bồ Ðề (Huế), có dính dấp tới VC nhưng Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh này là Ðoàn Công Lập, một cán bộ VC nằm vùng, đã cố tình che chở cho đồng bọn, bằng cách thi hành án lệnh một cách chậm trể và sơ sài, giúp cho những tên trên có đủ thời gian thoát thân, để hoàn tất kế hạch tổng tấn công và tắm máu đồng bào Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968.

Ngay trong ngày 27-1-1973, khi Lê Ðức Thọ cùng Kissinger đang nâng ly mừng hiệp ước ngưng bắn tại Nam VN được ký kết ở Ba Lê, thì cũng trong thời gian đó, khắp hang cùng ngõ hẹp trên lãnh thổ VNCH, bộ đội VC đã tấn công dành dân chiếm đất. Tại Bình Thuận, cùng lúc VC tấn công 21 xã ấp, từ Tuy Phong vào tới ranh giới Bình Tuy, nhưng quy mô nhất vẫn là tại Sa Huỳnh tỉnh Quảng Ngãi, trong ý đồ của Hà Nội là chiếm vùng này để cắt đôi lãnh thổ VNCH. Ngày 25-03-1973, VC tấn công và bao vây Trại Tống Lê Chân cách An Lộc 15 km, do TĐ 92 Biệt Ðộng Quân trấn giữ.

Trong bờ, khói lửa triền miên, thì ở ngoài biển Ðông qua sự đồng tình của Nixon-Kissinger, cùng với tờ văn tự bán nước của Hồ Chí Minh-Phạm Văn Ðồng ký năm 1958, Trung Cộng xua tàu chiến cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 17-01-1974. Tháng 10-1974 quận Thường Ðức tỉnh Quảng Nam bị thất thủ. Kế tiếp tỉnh Phước Long, mở đầu cho cuộc xâm lăng công khai của CS Bắc Việt, qua cái gọi là Hiệp định ngưng bắn hòa bình mà Mỹ đã dàn dựng với cọng sản quốc tế tại Pháp năm 1973. Máu đổ thành sông, thây cao hơn núi, đó cũng là nhờ phần công đức của một ít người miền Nam, ăn cơm Quốc Gia thờ Ma VC, đâm lén những vết dao trí mạng vào hông đồng bào, đồng đội mình.

Rồi trong lúc cọng sản Bắc Việt đêm ngày tấn công VNCH trên khắp các mặt trận, kể cả tại Sài Gòn cũng như các thành phố lớn khác. Người lính VNCH lúc đó vừa phải trực diện với cái chết từng giây phút tại mặt trận, để bảo vệ mạng sống ký sinh cặn bã của bọn phản chiến, thiên cộng đang ẩn núp khắp nơi ở hậu phương, trong chùa, nhà thờ, tòa soạn, trường học. Bọn này đang sống như người ngoại cuộc, dửng dưng trước sự đau khổ chết chóc của đồng bào, dù chúng cũng là người VN cũng phải ăn và thở để mà sống, nên cũng phải có trách nhiệm làm người đi bằng chân chứ không phải bò lết như súc vật ?

Càng bi thảm hơn là lúc cộng sản đang tiến quân như vũ bão, thì hậu phương Miền Nam có những bộ óc hư hoại điên khùng, hết bày trò ký giả đi ăn mày, tới biểu tình đòi hòa hợp. Tất cả đang say men phản chiến của đám Hippy nghiện ngập ma túy “The Beatles” đã làm loạn tại Mỹ, của Bertraud Russell, Jean Paul Sartre, Herbert, Marcuse công khai tán tụng Hồ Chí Minh và cọng sản, hô hào hòa bình, đòi quân dân miền Nam phải buông súng đầu hàng, để chim bồ câu trắng từ Hà Nội bay tới, mang hạnh phúc no ấm cho đồng bào miền Nam, như trong ca khúc phản chiến của Tôn Thất Lập.

Tai Hoa Kỳ, Pháp, Nhật nhiều con ông cháu cha của VNCH được học bổng du học, vừa có tương lai, lại tha hồ trốn nghĩa vụ quân dịch nhưng nhiều tên no cơm ấm cật, tán tận lương tâm, chạy theo phản chiến chống lại đồng bào mình. Trong số trên, hung hăng nhất vẫn là Nguyễn Thái Bình theo học ngành kỹ sư. Tên Việt gian này vì làm loạn quá tại Mỹ nên bị trục xuất về nước và ngay khi phi cơ vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất-Sài Gòn, đã dở trò không tặc cướp máy bay, nên bị lực lượng an ninh bắn chết năm 1972.

Ðồng thời hằng ngày trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Ðất Nước, Tin Văn, Vấn Ðề, Ðiện Tín ... với Nhất Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn văn Trung (chủ biên Hành Trình), Thế Nguyên (Trình bày), Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Trọng Văn (Tin Văn), Lữ Phương, Chân Tín ... công khai phỉ báng chính quyền qua các bài viết ca tụng cọng sản một chiều. Các sự kiện này, nếu xảy ra trên đất Bắc hay tại VN sau ngày 30-04-1975, liệu bọn sâu bọ mang lớp người trên, có được toàn mạng trước Bắc Bộ Phủ hay không? Ðó mới là chân lý ‘ không có gì bằng độc lập tự do’ dù là tối thiểu tại VNCH từ 1955-1975.

Các bài báo và sách vở loại này, hiện được đảng tái bản và lưu hành tràn lan tại các tiệm sách hải ngoại, muốn biết cứ mua mà đọc cho biết. Ðiều này cũng đâu có gì lạ, vì từ tháng 6-1967 tới tháng 4-1975, các tờ báo trên là cơ quan tuyên truyền của Mặt Trận GPMN do cán bộ văn công Hà Nội là Nguyễn văn Bổng chỉ đạo. Còn Vũ Hạnh, Minh Trang, Ngụy Ngữ thì len lỏi vào các tạp chí Bách Khoa, Văn để phun nọc.

1966 là năm cực kỳ hỗn loạn tại miền Nam. Ðây là hậu quả của ba năm xáo trộn chính trị, sau khi nhà Ngô bị sụp đổ vào ngày 1-11-1963. Quyền lực của chính phủ quốc gia rơi rớt đâu có khác gì cỏ rác, được chuyền từ tay bọn loạn tướng Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm tới Nguyễn Khanh, Nguyễn Cao Kỳ và tạm chấm dứt tranh giựt vào cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu, được bầu làm Tổng Thống nền đệ nhị cọng hòa miền Nam. Cũng từ đó, an ninh trật tự mới được vãn hồi.

Ðối với các sử gia hiện đại, thì giai đoạn 1964-1967 là thời kỳ của LOẠN TƯỚNG - KIÊU TĂNG, vì say mê giấc mộng kê vàng, mờ mắt trước tiện nghi vật chất Mỹ và quyền lực của thế nhân, đã gây nên cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ, trong lúc xã hội đang thăng hoa, trên con đường phát triển tột bực về vật chất lẫn tinh thần.

Quân Ðoàn I hỗn loạn vì cuộc nội chiến đẫm máu từ ngày 10/3/1966 - 24/6/1966, giữa quân đội trung ương và phe ly khai tại Huế, Ðà Nẳng, Quảng Ngãi của Nguyễn văn Mẫn, Phan xuân Nhuận, Ðàm quang Yêu chỉ với lý do bộ ba ‘Thiệu-Kỳ-Có‘ chưa kịp lập chính phủ dân sự theo ý muốn của phe đối lập cũng như đã cách chức Nguyễn Chánh Thi.

CS Bắc Việt đã ợi dụng cơ hội trên để tổ chức lực lượng võ trang, qua cái gọi là “lực lượng tranh thủ cách mạng” của Bùi Tường Huân, Lê Tuyên, Lê Khắc Quyến trà trộn trong phe ly khai, xúi giục Phật Tử đem bàn thờ Phật từ chùa ra ngoài đường, để ngăn chận các cuôc tiến quân từ Sài Gòn ra dẹp loạn. Ðồng thời chọn các chùa đình làm công sự phòng thủ, mục đích gây cảnh đổ vỡ chết người, để phe đối lập và Hà Nội có cớ hội, tố cáo chính quyền VNCH đàn áp Phật Giáo VN, qua báo chí trong và ngoài nước, nhất là tổ chức Liên Hiệp Quốc lúc nào cũng chực chờ chia phần ăn ké các chiến lợi phẩm, để dâng công làm vui bác đảng.

Trong lúc người quốc gia đâm chém tận tuyệt, thì CS nằm vùng trong trường học, chùa nhà thờ, đêm ngày không những vót thơ văn thành chông giết người, mà còn lợi dụng những hoá chất học cụ trong phòng thí nghiệm, để làm thành những chai bom đặc nổ cháy, có sức công phá không thua gì lưu đạn. Ngô Kha giáo sư, em rể Trịnh Công Sợn, chỉ huy du kích VC qua tên “chiến đoàn Nguyễn Ðại Thức” chận đánh TQLC. Hoa Kỳ trên đèo Hải Vân, bị bắt làm tù binh và chết trong khám. Trần quang Long cũng bị thương, được thả, tiếp tục theo VC rồi chết tại Tây Ninh trước 1975. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân chỉ huy Ðoàn Phật Tử Quyết Tử phá làng đốt xóm, thất bại trốn ra bưng và theo bộ đội Bắc Việt trở về Huế trong tết Mậu Thân 1968, chôn sống, giết đồng bào, đau thương không kể xiết, ngàn năm bia miệng còn truyền.

Tóm lại lý do chính của các cuộc biến động chính trị năm 1966, ngoài việc đảo lộn đen trắng để bôi bác chính quyền VNCH qua màn đàn áp tôn giáo, bịa chuyện từ cửa miệng sư Bất Hạnh việc trực thăng võ trang Mỹ, hạ cánh xuống làng quê Nam VN, để bắt cóc đàn bà, con gái, mà băng nhạc Thúy Nga 40 đã từng dàn dựng. Tất cả các sự kiện trên, đều không phải là sự trùng hơp hay ngẫu hứng, mà là hành động có nghị quyết chỉ thị của đảng, trước một khúc quanh lịch sử, trong cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ II (1960-1975), khi người Mỹ và các nước Ðồng Minh của Hoa Kỳ chính thức đổ quân vào giúp VNCH, ngăn chận cuộc xâm lăng Miền Nam, của Ðế quốc đệ tam cọng sản quốc tế.

Theo các tài liệu hiện còn lưu trữ, từ ngày 7-9/2/1966 Mỹ và Nam VN đã họp thượng đỉnh tại Honolulu. Phía Hoa Kỳ gồm có TT.Johnson và các phụ tá J.Gardner, Orville Freman, Robert Koman, James Humprey, Phía VNCH, phái đoàn do các tướng Thiệu, Kỳ, Có, Thắng. cầm đầu. Sau đó, hơn nửa triệu quân Mỹ cũng như Ðồng Minh (Úc, Tân Tây Lan, Ðại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân và Ðài Loan) liên tục vào giúp VNCH.

Nói chung, từ năm 1966 ố 1973 quân Mỹ đã hiên diện khắp nơi, chiến đấu bên cạnh QLVNCH lấy lại thế chủ động chiến trường, làm cho CS từ trong Nam ra ngoài Bắc đều giao động lung túng. Năm 1966 cũng là thời điểm Ðồng Minh và Mỹ tại VNCH hành quân “ TÌM VÀ DIỆT DỊCH”, phá tan gần như tất cả các căn cứ sào huyệt của VC kể cả Cục R tại Củ Chi, Hố Bò, Tây Ninh. Trong lúc đó, QLVNCH thì đặt trọng tâm “Bình Ðịnh Nông Thôn” sàng lọc, khám phá những thành phần VC nằm vùng. Hai kế hoạch hành quân một lúc, cộng thêm với sự có mặt của các sư đoàn tinh nhuệ Hoa Kỳ, Ðại Hàn, Úc, Tân Tây Lan tại Sài Gòn cũng như các tỉnh, đã đánh bật VC ra khỏi nông thôn, thành thị từ lúc đó.

Và hậu quả của các biến cố chính trị khắp hậu phương miền Nam, mà trọng điểm ở Huế, Ðà Nẳng.. qua ba năm xáo trộn (1964-1967) cũng chỉ là sự thay đổi sách lược đấu tranh cưởng chiếm miền Nam, của Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh trước cường độ leo thang của chiến tranh mỗi ngày một ác liệt. Cũng từ đó, chiến dịch “Chống Mỹ cứu đảng” hầu như lan tràn khắp nước, chẳng những lôi kéo các tôn giao vào mê hồn trận, mà còn dụ bịp các tâm hồn nam nữ học sinh trong trắng, nhất là giới trung lưu con ông cháu cha, thừa mứa thì giờ và tiền bạc, nên rất dễ sa vào miệng lưởi tuyên truyền của các cán bộ đảng viên CS chuyên nghiệp..

Viết tại Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng 8-2009
Mường Giang


Cái Pháo đài cũ - Nguyễn Ðạt Thịnh

Nguyễn Ðạt Thịnh

Khi chưa bắt tay được với Trung Cộng, Hoa Kỳ sử dụng Nam Việt làm pháo đài để be bờ, không cho làn sóng Ðỏ tràn lan khắp Ðông Nam Á. Nhu cầu be bờ của Mỹ phù hợp với nhu cầu chống cộng, bảo vệ tự do của Nam Việt, nên chúng ta đã đồng minh với Mỹ và đã bị Mỹ phản bội khi họ bắt tay được với cả Trung Cộng lẫn Việt Cộng.

Họ rút quân, Việt Nam hoá chiến tranh bằng cách cắt “sạch” mọi viện trợ, “sạch” đến mức tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ xin chưa đầy một tỉ bạc để mua đạn Mỹ giữ pháo đài Mỹ, Mỹ vẫn không cho, xin phân nửa của con số chưa đầy tỉ bạc đó, quốc hội Mỹ cũng bác.

Ðó là chuyện chiến tranh Việt Nam từ năm 1973 đến 1975; những năm tháng quân đội VNCH hấp hối, người lính Việt Nam Cộng Hòa không đồng minh, khẩu súng họ cầm trên tay không có đạn, chiếc máy bay thám thính bị cắt nhiên liệu, không đủ săng để bao vùng giúp bộ binh trên một tiếng đồng hồ, anh pháo thủ chỉ được bắn 3 viên đạn yểm trợ đồn bạn bị tấn công. Đó là điều kiện buồn thảm mà quân đội anh hùng của chúng ta vẫn chiến đấu chống cộng sản Bắc Việt, với toàn bộ khối nhân lực và quân dụng dồi dào của Nga và Tầu sau lưng họ.

Giờ này, 34 năm sau, Hoa Kỳ lại giật mình trước sự lớn mạnh quân sự của Trung Cộng, và lại bắt đầu đi … be bờ bằng cách xây dựng lại cái pháo đài bỏ xập nát ngày xưa; họ đưa ra chương trình “Người Lính Không quân đối thoại trực tiếp với nhau” (Pacific Air Forces' Airman-to-Airman Talks program) của Không đoàn Thái Bình Dương.

Dẫn đầu phái đoàn Không quân Mỹ là Trung tướng Chip Utterback, Tư lệnh Không đoàn 13.

Ông tướng Mỹ nói:

"Quan tâm của chúng tôi tại các cuộc thảo luận này là xây dựng các quan hệ có ích cho tương lai. Qua các cuộc gặp trực tiếp với Không quân các nước trong khu vực và đối thoại với cùng một ngôn ngữ của Quân chủng Không quân, chúng ta có thể tìm thấy các điểm tương đồng và các cơ hội hợp tác trong tương lai."

Trong cuộc họp mặt ở Hà Nội hôm 22/07, đại diện Không đoàn 13 giới thiệu với đại diện Bộ Tư lệnh Phòng không Việt Nam về Không lực Hoa Kỳ và các chương trình huấn luyện phi công của Mỹ.

Thiếu tá Nate Flint, một phi công lái C-17, giới thiệu về chương trình tập huấn của Không quân Mỹ nhận xét rằng cho dù lịch sử giữa hai nước có như thế nào, các Sĩ quan Không quân hai bên (Mỹ - Việt Cộng) vẫn có thể trao đổi để học hỏi lẫn nhau.

Thiếu tá Flint hoàn toàn không nhớ gì cả về cuộc “trao đổi để học hỏi lẫn nhau” của Thiếu tá John McCain 40 năm trưóc. Khẩu súng hay chiếc khu trục đều vô tri, không có lập trường chính trị, trừ khẩu súng trong tay nguời lính VNCH, và chiếc khu trục do anh phi công VNCH bay bổng.

Tiếp xúc không quân lần này là nỗ lực mới nhất trong quá trình mở rộng hợp tác quân sự giữa hai nước cựu thù.

Hồi tháng Sáu, Việt Nam đồng ý để Mỹ tìm kiếm nhân đạo ngoài khơi và trước đó ngày 22 tháng Tư, lần đầu tiên hàng chục sĩ quan Việt Cộng đã lên thăm hàng không mẫu hạm USS John Stennis đậu ở hải phận quốc tế cách bờ biển Việt Nam chừng 290 hải lý.

Những diễn biến này được đánh giá là hai bên đã "thoải mái" hơn trong trao đổi quân sự.

Một khác biệt trong việc lịch sử (Mỹ) tái diễn, là lần này Mỹ không đơn phương be bờ chặn làn sóng đỏ Trung Cộng nữa, bên cạnh Mỹ còn có Nga.

Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov vừa ghé “thăm” Việt Nam từ ngày 24 đến 26 tháng Bẩy, sau khi dự hội nghị các ngoại trưởng Asean tại Phuket, Thái Lan.

Hãng thông tấn Nga Itar-Tass nói hai bên sẽ "thảo luận các vấn đề có liên quan đến nghị trình song phương, hành động để tăng cường giao lưu quốc tế, chủ yếu ở Hội đồng Bảo an."

Ngoại trưởng Nga cũng thảo luận với Việt Cộng về một thời khắc biểu cho những cuộc gặp gỡ chính trị trong thời gian tới.

“Cuộc hí trường” chính trị thế giới lại tái diễn tại Việt Nam, nhưng lần này với những điều kiện khả quan hơn. Mỹ đã học được bài học cay đắng của thói phản bạn, và Việt Cộng cũng đã nhìn thấy bộ mặt phản bội này của anh đồng minh mới của họ, cũ của ta.

Tuy nhiên chúng ta không thể dửng dưng đứng ngoài nhìn Mỹ-Việt Cộng “hồ hởi phấn khởi” xây pháo đài, be bờ Trung Cộng được, vì chúng ta còn quan tâm đến số phận của đồng bào quốc nội, ngay một thảm thương hơn.

Nguyễn Ðạt Thịnh

THƯ GỬI BỌN CHÓ ÐẺ - Bùi Bảo Trúc



Cho Tao Chửi Mày Một Tiếng
Trạch Gầm

Đụ má, cho tao chửi mày một tiếng,
Đất của Ông Cha sao mày cắt cho Tàu?
Ngậm phải củ gì mà mày cứng miệng,
Đảng của mày, chết mẹ … đảng tào lao.

Chế độ mày vài triệu tay cầm súng,
Cầm súng làm gì … chẳng lẽ hiếp dân.
Tao không tin lính lại hèn đến thế,
Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm.

Mày vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngõ,
Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
“Môi liền răng” à thì ra vậy đó
Nó cạp mày, mày thin thít lặng thinh.

Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước,
Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu.
Thân phận mày cũng là Lê, là Nguyễn
Hà cớ gì … mày hèn đến thế sao!

Chuyện mày làm Toàn Dân đau như thiến,
Mày chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn.
Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi,
Cứ đà này … chết tiệt còn sướng hơn.

Đàn gảy tai trâu … xem chừng vô ích,
Giờ mày nghe tao chửi còn hơn không ….

Tao không thể dùng bất cứ một từ ngữ nào khác hơn để gọi chúng mày. Bởi vì chúng mày chính là một bọn chó đẻ đàn em chó đẻ Hồ Chó Minh.

Càng ngày những việc chúng mày làm và những việc chúng mày không dám làm đều cho thấy chúng mày là một bọn chó đẻ không hơn không kém.


Vừa có tin nói là chúng mày đang áp lực chính phủ Indonesia dẹp bỏ những di tích ở Galang, những chứng tích ghi lại thảm cảnh của mấy trăm ngàn người Việt, những người phải bỏ đất nước ra biển liều chết đi tìm sự sống. Những người tị nạn khốn khổ ấy trong khi bị chúng mày đối xử tàn tệ đến nỗi phải bỏ trốn đi thì lại được những người dân Indonesia giúp đỡ, bảo bọc trên đường lánh nạn. Thực là đau đớn và chua xót cho người dân Việt cùng da vàng máu đỏ, cùng tổ quốc, giống nòi với chúng mày thì bị chúng mày ngược đãi đối xử như quân thù quân hằn trong khi ở Indonesia, những người xa lạ không cùng giòng máu Việt lại dành cho họ những đối xử tử tế, nhân đạo vào những lúc khốn cùng nhất.

Mấy tấm bia ghi lại những đối xử tốt đẹp ấy đã bị chúng mày tìm mọi cách để đục phá cho bằng được, để xóa hết những dấu tích xấu xa của chúng mày, nhưng lại là những ghi dấu lòng tử tế nhân đạo của người dân Indonesia không cùng huyết thống.

Chúng mày tuy phá được những tấm bia trên mấy hòn đảo năm 2005 nhưng những điều xấu xa của chúng mày thì vẫn còn nguyên. Chúng mày tưởng làm như thế là những chuyện xấu xa của chúng mày tan biến đi hết hay sao? Người dân ở các đảo nơi có những tấm bia bị phá đó sẽ còn nhớ mãi vì sao lại có những tấm bia đó, họ sẽ luôn luôn nhớ những con thuyền mỏng manh cập vào những đảo ấy, chở theo những thân tàn ma dại vì chúng mày mà phải bỏ nước ra đi.

Chúng mày phá được những tấm bia đó thì vẫn còn cả triệu người Việt ở hải ngoại ghi nhớ vì sao họ phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ quê hương, bỏ mồ mả tổ tiên đi tha hương tìm sống. Người Việt ở trong nước cũng sẽ còn nhớ mãi những điều đó. Chúng mày sẽ không thể xóa được những điều xấu xa đó. Không bao giờ.

Chúng mày làm đủ mọi cách để dẹp những tấm bia trên những hòn đảo xa lạ cách xa đất nước ngàn dặm, trong khi có rất nhiều điều chúng mày phải làm, nhưng lại không làm, và chắc là không dám làm ở ngay trong nước cũng như ở những nơi nằm sát cạnh Việt Nam.

Như khi những người dân Việt sinh sống bằng nghề đánh cá ở miền Trung mới đây bị một bọn vô lại khốn nạn ngang ngược cấm đánh cá ở ngay vùng biển của nước Việt Nam thì chúng mày tránh, né không dám lên tiếng. Chúng mày khiếp nhược, run sợ không dám nói tới quốc tịch của những chiếc tầu gây phiền nhiễu, tạo thiệt hại vật chất, sinh mạng cho người đánh cá Việt Nam trong khi ai cũng biết đó là những chiếc tầu của hải quân Trung Cộng, treo cờ Trung Cộng, thủy binh mặc đồng phục hải quân Trung Cộng, và chuyện đó chính báo chí Trung Cộng cũng công nhận, không thèm che giấu.

Nhưng chúng mày thì không dám hé miệng can thiệp, bênh vực cho nhũng người đánh cá Việt Nam khốn khổ đó.

Bọn tứ ngược, như chữ của Nguyễn Trãi dùng trong Bình Ngô Ðại Cáo, ngang nhiên đem quân chiếm lấy những đảo của Việt Nam thì chúng mày không dám hé môi nói được lấy một nửa tiếng để phản đối. Những hy sinh của các chiến sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hòa can đảm đánh lại bọn bá quyền Trung quốc trong vụ quần đảo Hoàng Sa thì bị chúng mày lờ đi không dám nhắc đến. Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, người sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho chữ “Ngụy” trở thành đẹp đẽ biết là bao. Ngụy như thế thì chúng tao là Ngụy hết. Chúng tao là Ngụy, là những người cùng lý tưởng, cùng dòng máu anh hùng của hạm trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ 10.

Điều nhục nhã nhất là trong khi TQ xâm chiếm lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam, cướp đoạt, giam cầm, bắn giết ngư dân Việt Nam, thì tên thái thú Nông Đức Cạp vẫn tiếp tục liếm gót TQ qua 16 chữ vàng và 4 tốt. Hành động này hoàn toàn trái ngược với những lời lẽ tuyên bố đanh thép của VNCH khi Trung cộng xâm chiếm Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974, xin đăng lại dưới đây:
    Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào ngày 14 / 02 / 1974 trước sự xâm chiếm của Trung Cộng trên Quần đảo Hoàng Sa

    Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết nhất của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ của quốc gia. Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết làm tròn nghĩa vụ này, bất luận những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp những sự phản đối không căn cứ, dầu xuất phát từ đâu.

    Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng vũ lực trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:

    Quần Ðảo Hoàng Sa và quần Ðảo Trường Sa là những phần bất khả phân của Việt Nam Cộng Hòa. Chính Phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy.

    Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ ấy của Việt Nam Cộng Hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực, thì chừng ấy Chính Phủ và nhân dân Việt Nam còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình.

    Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.

    Trong dịp này, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những hải đảo nằm ở ngoài khơi bờ biển Trung Phần và bờ biển Nam Phần Việt Nam, từ trước đến nay vẫn được coi là một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa, căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý, và thực tại không chối cãi được.

    Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện.

    Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, những vụ tranh chấp quốc tế có thể xãy ra về những hải đảo ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.

    Làm tại Sài Gòn ngày 14 tháng 2 năm 1974.
Chúng mày lờ sự hy sinh cao quý của thiếu tá Ngụy Văn Thà đi để che dấu cái thái độ hèn nhát bán nước của chúng mày và cái công hàm mà tên thủ tướng mặt chó Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai để tặng không Trường Sa và Hoàng Sa cho Tầu đỏ. Gọi đó la bán nước thì cũng không đúng, vì đổi lại, chúng mày cũng không được bọn Tầu khốn nạn trả cho một cắc.

Ngày nay, ở Sài Gòn, chỉ cần mặc cái áo có hình quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng bị bắt vì phạm húy. Những ai lên tiếng về đất nước, về sự vẹn toàn của tổ quốc là bị đàn áp thẳng tay như đã thấy.

Sự im lặng của chúng mày, cách hành động của chúng mày trong vụ Ải Nam Quan, Bản Giốc, trong những tranh chấp ở biển Ðông chỉ là để che giấu những việc làm đê hèn của chúng mày.

Nay chúng mày đòi Indonesia dẹp chứng tích cuối cùng về giai đoạn bi thảm của Việt Nam trên đảo Galang cũng là vì chúng mày sợ sự thật, chúng mày sợ những dấu tích đó sẽ tiếp tục làm cho hình ảnh của chúng mày xấu đi.

Nhưng chúng mày có bao giờ tử tế và tốt đẹp đâu.

Chúng mày nhắm mắt để cho bọn chó má đem phụ nữ trẻ em Việt Nam bán cho các ổ điếm ở Campuchea, đưa đi làm tôi tớ ở các nước ngoài, tổ chức những vụ bán nô lệ như thời mọi rợ cho những thằng đàn ông Cao Ly, Ðài Loan, Malaysia … đến xem và mua về làm nô lệ tình dục, để mặc cho phụ nữ Việt bị nhốt trong những lồng kính ở Singapore cho khách mua dâm tới xem mà lựa chọn … Chúng mày táng tận lương tâm để cho bọn cai phu ngoại quốc đánh đập công nhân Việt Nam ngay ở trong nước, rồi còn để cho những thằng công nhân Tầu khốn nạn ngang nhiên kéo đến đánh đập những người dân Việt sống ở gần công trường xây cất ngay trên quê hương của mình.

Chúng mày im thin thít.

Nhưng chúng mày lại rất hăng hái, dùng đủ mọi thủ đoạn đê hèn nhất để tìm cách che giấu những việc làm chó má của chúng mày, nói là những di tích ấy bầy ra những hình ảnh không đẹp của chúng mày.

Ðể tao chỉ cho chúng mày một chỗ thực sự lăng mạ chúng mày coi chúng mày có dám làm gì không. Mới đây, tại cuộc lễ dâng đất cho bọn Tầu Cộng mà chúng mày gọi là cắm cột mốc biên giới, bọn Tầu khốn nạn dựng ngay gần nơi diễn ra cuộc lễ một bức tường với những hình ảnh của cuộc nổ súng ở biên giới miền bắc giữa hai bọn chó dại. Ðứng từ xa nhìn cũng thấy đó là những hình chụp bọn lính Tầu tiến đánh một số vị trí trong lãnh thổ Việt Nam. Trong trận này, bọn Tầu còn gây thiệt hại nặng cho cái hang chồn Păc Bó, cái mả tổ Cộng Sản của chúng mày. Ðó, có giỏi thì đòi Trung Cộng dẹp những bức hình đó coi có dám làm không.

Tao mong sao chúng mày chết đi sớm chừng nào may chừng ấy cho dân tộc Việt Nam. Chừng đó, tao bảo đảm mồ mả chúng mày sẽ không bao giờ được để cho nguyên vẹn, kể cả cái xác thối của thằng đại lưu manh chó đẻ Hồ Chó Minh ở Ba Ðình đang làm bẩn cái tên lịch sử Cần Vương quá đẹp của Ðinh Công Tráng và Phan Ðình Phùng này.

Lịch sử chắc chắn sẽ không nhẹ tay với bọn chó đẻ đàn em chó đẻ Hồ Chó Minh là chúng mày.

Ký tên:
Một người Việt Nam không Cộng Sản

(*) Với những đứa từng gọi “thằng Diệm” và “thằng Thiệu” thì cách gọi này dành cho chúng mày vẫn còn là nhẹ. Nếu có phải nói thêm điều gì về cách xưng hô này thì chắc phải là đôi ba lời xin lỗi mấy con chó vì cách gọi đó đã cho chúng mày được làm con những con chó ấy.

Sunday, August 9, 2009

Từ chuyện ướp xác xây lăng tới việc phong thánh "Bác" - Mường Giang


Mường Giang

Sau ngày 30-04-1975 cọng sản VN làm chủ cả nước, đã hành xử như những đế quốc thực dân Tàu, Pháp, Nhật từng chiếm đóng nước ta buổi trước. Vì đã tự coi mình là ‘ đỉnh cao trí tuệ loài người ‘nên chúng đã hủy bỏ tư cách làm người, làm dân của đồng bào cả nước, chứ không riêng gì Miền Nam chiến bại, từ vĩ tuyến 17 trở vào. Cũng từ đó, xã hội VN xuất hiện thành phần thực dân đỏ, bao gồm nhà cầm quyền mới và nhân dân mới, hầu hết đều là người miền Bắc hay Miền Nam tập kết, cán bộ đảng, công an bộ đội và bọn nằm vùng, trở cờ miền Nam. Tất cả đều kiêu ngạo, lì lợm, tự phụ, vì đã nắm giữ hết các quyền lợi, truyền thông, tạo thành nếp sống mới, yêu nước là phải nhắm mắt hi sinh, bằng lòng chấp nhận xưng tụng, tôn thờ tổ quốc xã hội chũ nghĩa.

Phận người Miền Nam chiến bại thành công dân hạng hai, bất kể ở thành phố hay nông thôn, nguỵ hay loại đâm sau lưng chiến sĩ ngày trước, sống lêu bêu bên lề xã hội đói nghèo. Thì ra cách mạng cung chỉ là sự thay ngôi đổi chủ, nhờ phương tiện máu xương của nhiều thế hệ và cuối cùng hầu hết những người có công giúp đảng, đều ôm nhau tủi nhục, trong cảnh đói nghèo, mất hết tất cả tự do kể cả quyền được làm một kiếp người rất bình thường, chỉ cần có cơm ăn áo mặc, một sự việc nếu đem so sánh với cuộc nhân sinh qua các giai đọan lịch sử của dân tộc, thì còn tệ mạt cả trăm lần hồi Pháp thuộc, nói chi tới thời VNCH hai mươi năm, dù bị chiến tranh liên tục, nhưng đâu thấy ai đói cơm rách áo và bị bóp nghẹt đời sống riêng tư, ai phải làm dâu khắp xứ hay bán xác lao động, bán thân làm đĩ điếm vợ người như hiện nay, cho dù thời đó có một vài phụ nữ do hoàn cảnh chiến tranh đã phải làm vợ người ngoại quốc.

Nói chung cả hai miền VN đều sống bằng ngoại viện, chứ không phải chỉ có miền Nam. Có điều chính phủ VNCH từ TT Ngô Ðình Diệm, các tướng Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, cho tới TT Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương và cuối cùng là Dương Văn Minh tuy phải xin quân viện Mỹ để có phương tiện chiến đấu giữ nước nhưng không hề có một cấp lãnh đạo nào, đã cắt bán hay bí mật nhượng đất đai của tổ quốc mình cho ngoại bang. Trái lại Việt Gian Cộng Sản từ Hồ Chí Minh, Phạm văn Ðồng, Lê Duẩn cho tới Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, Võ Văn Kiệt, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết. Tất cả từ lớn tới nhỏ, lúc nào cũng bí mật thậm thụt đủ điều, tìm đủ mọi cách mãi quốc cầu vinh để giữ đảng, giữ chức nên đã bán đứng Hoàng Sa, Biên Giới Việt-Bắc và Biển Ðông cho giặc Tàu và ngoại bang, tới nay ai cũng biết. Ðây mới chính là điều sỉ nhục nhất trong giòng sử Việt.

Ngày nay, qua cuộc phong trần, trước đống núi tài liệu và bằng cớ xác thực những hành động quan liêu, phong kiến, bán nước và hủ bại của những người cộng sản, nhất là trong cung cách suy tôn Hồ Chí Minh, kể cả đám táng, cái xác thối nằm ở Ba Ðình và những tuyên truyền lố lăng coi thường dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là việc phung phí công khố quốc gia, để bảo quản suốt mấy chục năm qua cái xác ướp của Hồ, rồi còn lập chùa, đúc tượng đồng mạ vàng thật, để Hồ chễm chệ ngồi ngang hàng với Phật-Thánh và Quốc Tổ Hùng Vương, hiện nay diễn ra khắp nước mà lố lăng nhất là đám phường chèo đang bày trò khỉ đột, tại một ngôi chùa quốc doanh trong tỉnh Bình Dương. Do trên dân chúng VN lại hát: ‘Ba Ðình còn gấp chục lần. Dân đen gãy cổ, mát thân cụ Hồ.’

Trò hề kéo xác chết Hồ ra khỏi nhà mồ vĩ đại Ba Ðình, xây chùa tạc tượng, bắt mọi người sùng bái như Phật-Thánh, chẳng qua chỉ để dựng lại những huyền thoại tưởng tượng, tuy có gây chút hào khí nơi bọn đảng viên VC già nua trong nước và một đám Việt gian trí thức, ăn chén đá bát, no cơm rửng mỡ nơi hải ngoại, thì cũng không thể dấu nổi Sự Ngiệp Vĩ Ðại Bán Nước và làm tôi tớ cho Nga Tàu, của Cáo Hồ và đồng đảng trong tám mươi năm qua.

- ÐI TÌM CHÂN TƯỚNG HỒ CHÍ MINH, QUA CÁC LỐI MÒN TRONG THÂM CUNG BÍ SỬ DƯỚI TRIỀU HỒ:

Tới bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền Bắc, vẫn không biết đích thực ‘Hồ Chí Minh‘ là ai ? vì từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã thay tên đổi họ tới 26 lần (Nguyễn tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh). Năm 1944 Hồ từ Côn Minh về nước, chỉ mới 53 tuổi nhưng bắt buộc mọi người gọi mình là ‘Cụ’. Lúc đó Trần Huy Liệu đang làm trưởng ban tuyên truyền của đảng, nghe các cán bộ gốc Thanh, Nghệ, Tỉnh mỗi khi gọi Hồ là ‘Cụ’ lại phát âm như không có dấu nặng, nên âm thanh rất chướng tai và bất nhã. Vì vậy Ðảng không cho mọi người gọi Hồ là ‘Cụ’ mà đổi thành ‘Bác‘.

Sau ngày 30-04-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã hết cơ hội, để ‘Bác‘ tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc doanh, còn dám bẽ cong ngòi bút, để tuyên truyền dụ dổ những người nhẹ dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi trước:

Bởi vì các thế hệ VN, kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên được những cuộc thanh trừng đẵm máu của Hồ và phe cánh, đối với những người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng, suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xả thân chống Pháp, để dành độc lập cho dất nước và nửa mảnh sơn hà cho Hồ. Ai quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò ‘Ðánh Mỹ-Ngụy cứu nước‘.

Nhờ đó mọi người mới thấu triệt được ‘sự nghiệp cách mạng của Hồ‘ suốt 80 năm qua, chủ yếu dựa trên nền tảng của ‘Thần Quyền‘ để trấn áp mọi người. Ðiều này cũng dể hiểu vì Hồ vốn xuất thân từ lò chính trị ‘Ðông Phương‘ do Lê Nin sáng lập. Trong khi đó họ Lê trước khi lập Ðảng CS chống lại Nga Hoàng vốn xuất thân từ giới quý tộc, nên đã nhận thức rõ ràng về giá trị thần quyền của tín ngưỡng. Vì vậy Lê Nin đã tôn giáo hóa lập thuyết kinh tế chính trị của cả Mark và minh, tổng hợp thành ‘Học Thuyết Mác Lê‘ để các nước Xã Hội Chủ Nghĩa trong đó có Ðảng CSVN, đã được Hồ và các lãnh tụ khác mang về nước, làm thành Ý Hệ Cầm Quyền cho tới ngày nay vẫn không có gì thay đổi.

Ðó là tất cả nguyên lý bất khả phân của Ðảng CSVN suốt 80 năm qua, tự coi mình như là một thần tượng, một thứ Tôn Giáo qua giáo lý ‘Bác Hồ chỉ Một, Ðảng không thể Hai‘. Có vậy mới Thần Hóa Ðảng, Thánh Hóa Nhà Nước để Ðảng và Nhà Nước thay Trời cai trị cả nước theo đường lối chính sách Giáo Ðiều, cấm không cho ai được chỉ trích phê phán. Bởi thế dưới triều đại Thiên Ðàng Xã Nghĩa, toàn bộ quyền lực các cấp thuộc Ðảng đều ‘ Bất Khả Xâm Phạm ‘ , đặc biệt Hồ Chí Minh, đã hóa kiếp thành Thần Linh ngay lúc còn sống, nên khi chết phải có lăng tẩm Ba Ðình và tạc tượng đem vào thờ phụng trong các đình chùa cả nước. Sự tâng bốc Hồ của Ðảng CSVN qua núi tài liệu Ðảng vừa công bố, cho thấy Hoàng Ðế Ðỏ Hồ Chí Minh khi băng hà tới nay, đâu có thua gì bạo chúa Tần Thỉ Hoàng của Tàu hơn 2000 năm về trước.

Nhưng Hồ Chí Minh là ai, tới bây giờ đố ai biết hết, ngoại trừ chính bản thân của đương sự. Vì chỉ riêng năm sinh của ‘bác’ theo các tài liệu hiện hành đã có tới năm thời điểm khác nhau như 1890, 1891, 1892, 1894 và 1895. Trong thông hành vào Liên Bang Sô Viết lần đầu, Hồ mang tên Nguyễn tất Thành bí danh Chen Vang, sinh năm 1895. Năm 1920, Hồ qua thông hành mang tên Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1894. Sau khi cướp được chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh công bố vào năm 1946 sinh ngày 19-05-1890.

Về ngày sinh của Hồ là 19-05 cũng là huyển hoặc, được ngụy tạo vì nhu cầu chính trị mà thôi. Theo nhiều nguồn tài liệu được phổ biến, thì sở dĩ Hồ bịa ngày sinh của mình là 19-05, để hôm đó bắt nhân dân Hà Nội mở hội hoa đăng nói là ăn mừng sinh nhật Hồ, mặt thật là để đón tiếp Cao Ủy Pháp là Ðô Ðốc D’ Argenlieu khi hắn tới nơi này. Cũng nhờ có cuộc đón tiếp long trọng trên, mà Hồ và thực dân Pháp đã đạt được sự đồng thuận, cho phép quân Pháp từ Sài Gòn đổ bộ lên đất Bắc tiếp tục gây chến tranh. Có như vậy Hồ mới nhân danh là lãnh tụ Mặt Trận Liên Hiệp Việt Minh, kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến chống Pháp từ cuối năm 1946. Còn Pháp thì vin vào cớ Việt Minh gây chiến, nên phải đánh nhau, chứ không phải vì muốn cướp nước VN như dư luận thế giới đã lên án.

Ngoài ra để danh chánh ngôn thuận như Phạm Văn Ðồng thường nói ‘Bác là ánh sáng dân tộc‘ . Bắc Bộ Phủ đã sửa soạn cho Hồ rất chu đáo trước khi ra diễn tuồng. Ðảng ra lệnh cho Cao Xuân Huy, Ðào Duy Anh, Trần Văn Giáp ngay từ năm 1956, phải ngụy tạo cho ‘bác‘ một lá số tử vi thật le lói vì có chân mạng đế vương, cốt cách thần thánh. Có vậy Hồ mới tuyên truyền dụ dỗ được dân chúng Miền Nam theo Ðảng đánh Mỹ-Ngụy cứu nước.

Về tướng diện của Hồ Chí Minh, qua các bức ảnh cũ trên báo chí sách vở lưu hành trong và ngoài nước, trước năm 1955 là niên lịch Hồ sang Nga sửa sắc đẹp. Theo tướng mệnh học, thì mặt Hồ thuộc loại tứ phủ trơ xương, râu lơ thơ như râu tôm kho có thể đếm được. Trong các giác quan, đôi tai không thay đổi từ lúc sinh ra cho tới chết và là biểu hiện đặc tính của con người. Tai Hồ to thuộc loại luân quách phản, đó là tướng của người bất nhân độc ác. Do hình tướng như vậy, nên trước năm 1955, mọi người xếp Hồ vào loại ‘Mặt Dơi Tai Chuột‘.Và dù sau đó qua Nga sửa mặt, cấy râu cấy tóc để có dung nhan của cha già dân tộc Nhưng tai Hồ cho tới khi chết vẫn là tai chuột, vì khoa học thẩm mỹ thời đó bất lực.

Lịch sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Ho và Ðảng chiếm được nữa nước VN từ bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-04-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn và từ ấy đến nay (2009) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt thật của Hồ và Ðảng là gì ?. Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết biển thù quốc hận suốt bao chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành cái ‘ Thần ‘của Việt Sử, một sự trái ngược hoàn toàn với những câu chuyện ‘Sử Ngụy Tạo‘ của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.

- CHUYỆN DÀI CỦA HOÀNG ÐẾ HỒ CHÍ MINH QUA SÁCH BÁO ÐẢNG:

1955-1975, Hồ Chí Minh làm hoàng đế nửa nước VN nên đảng mặc sức tuyên truyền , chẳng những bằng hò vè thơ truyện, mà còn đề ra sách lược đánh bóng và đưa lãnh tụ lên tận mây xanh, trong đó có những bịa đặt lịch sử địa chất liên quan tới dân tộc Việt ngay từ thời Tổ Hùng dựng nước Văn Lang. Ðây là mục đích chính của đảng CSVN, vì các vua Hùng được chứng minh là có thật trong lịch sử Việt, chẳng qua để tạo cơ hội cho Hồ có dịp nói ‘Các vua Hùng đã có công dựng nước, ‘bác’ cháu ta phải cùng nhau giữ nước‘. Có như vậy, Hồ mới theo chân Lê Nin, Stalin cũng ướp xác, xây lăng như các bậc đế vương thời trước, bắt quần chúng rồng rắn xếp hàng chờ vào thi hành bổn phận ‘chiêm ngưỡng một xác ướp‘ .

Thật sự chuyện Hồ và đảng CS lợi dụng lịch sử vào mục đích chính trị, xét cho cùng cũng đã xa xưa như trái đất nhưng điều đang nói ở đây là những mẫu chuyện có liên quan tới Hồ , đã trở thành kinh nhật tụng cho đảng và cả một hệ thống quan lại cung đình mới, đã dùng truyền thống theo một dụng ý trục lợi, đã khiến cho ai đọc tới cũng thấy xấu lây và đau xót , phần chính không phải vì Miền Nam đã bị Hà Nội cưởng chiếm vào trưa ngày 30-04-1975, mà còn phải bắt buộc tiếp nhận một hình tượng ác quỹ là Hồ Chí Minh , được đảng nâng vai trở thành ‘vị cha già dân tộc‘ và mang tên của một thành phố xinh đẹp quan trọng vào bậc nhất của nước Việt.

- Những ngày tháng cuối cùng của Hồ Chí Minh: Báo đảng viết, kể từ tháng 5-1967 sức khỏe của Hồ càng ngày càng sút kém, nên bộ chính trị do Lê Duẩn chủ trì, đã mở cuộc họp bí mật bàn về việc giữ xác Hồ lâu dài khi hắn về chầu tổ Mác. Có làm vậy, đảng qua Duẩn, Thọ, Ðồng.. mới tiếp tục sử dụng được sự mù quáng cuồng tín của cán binh bộ đội đang sinh bắc tử nam, giúp đảng hoàn thành sứ mệnh nghĩa vụ quốc tế. Dịp này đảng sai Lê Thanh Nghi sang Liên Xô, để điều dinh về việc dạy nghề ướp xác chết cho cán bộ y tế VN, còn Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trực tiếp nuôi bệnh và chăm sóc Hồ vào những ngày cuối đời.

Cũng theo lời đảng nói thì Hồ có để lại di chúc, muốn hỏa táng thi hài sau khi chết nhưng đảng lại muốn ướp xác Hồ để sống mãi với thời gian. Sau thảm bại Tết Mậu Thân (1968) tại Miền Nam, Hồ tuyệt vọng đến nổi bị nhồi máu cơ tim. Tháng 5-1969 Hồ sửa lại bản di chúc viết từ năm 1965 , được coi như một tài liệu tối mật, vì cho tới giờ, ngoài Hồ và đám cận thần quyền thế lúc đó như Duẩn, Thọ chưa ai biết được Hồ muốn gì, thì làm sao khẳng định là ‘bác‘ thích hỏa táng ? để biệt tích, đối với một kẻ đầy tham vọng và hám danh như Nguyễn Tất Thành. Cuối cùng, lúc 9 giờ 47 ‘ngày 02-09-1969, Hồ về nước Thiên Ðường Xã Nghĩa gặp lại tổ Lê Mác.

Từ ngày xuất hiện tới khi qua đời, Hồ Chí Minh luôn tự coi mình như vua chúa nên đã cuồng điệu hình thành một bước thang giai cấp trong chốn cung đình dưới triều Hồ. Ðể tạo ra một thứ ma lực trấn áp hồn phách dân chúng, hầu duy trì vững chắc chế độ, nên đảng đã đề ra nhiều điều cấm kỵ đối với Hồ cho tới lúc chết, dù chỉ còn là một xác ướp bất động nằm trong hòm kính. Sự kiện đảng ngày nay xuất công khố để cấp cho các địa phương xây dựng nhiều đình chùa thờ Cốt Hồ, đặt ngồi ngang hàng với Phật và Quốc Tổ, chẳng qua cũng chỉ muốn mượn sức mạnh của thần linh, để dọa dẵm, uy hiếp những người dân thường, khiến cho họ phải phục tùng và tiếp tục phục vụ cho đảng. Ðiều này cho thấy sự tham tàn bạo ngược có một không hai của Việt Cộng, khi chúng đã thâu tóm trọn vẹn chủ quyền của đất nước trong tay, nay còn ham hố tìm đủ mọi cách sang đoạt luôn thần quyền trong mọi tín ngưỡng, bằng cách gây xáo trộn khắp các tôn giáo đang hiện hữu trong nước.

Theo dõi chuyện dài của Hồ Chí Minh và giới lãnh đạo CSVN, khiến cho ai cũng cảm thấy xiêu hồn bạt vía về những hành động tàn độc, gian hùng, tán tận lương tâm đối với cả dân tộc, người sống lẫn kẻ chết, làm cho ho xiêu mồ lạc nấm, nát cửa tan nhà, hủy hoại cả một nền văn hóa truyền thống và cương thường của nòi giống Lạc Hồng. Lúc sống thì buôn dân ban nước, làm di hại tới nhiều thế hệ của đất nước. Lúc chết lại hóa thân thành Hồ Ly Tinh từ xác ướp trong hòm kính nằm giữa lăng Ba Ðình, trù ếm và phá hỏng cả dòng sinh mệnh dân tộc phải tuột dốc xuống tận địa ngục đói nghèo lạc hậu, mà ai cũng đã hứng nhận suốt mấy chục năm qua.

- TỪ CHUYỆN XÂY LĂNG TỚI VIỆC PHONG THÁNH BÁC:

Khong biết Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng sau khi qua đời, có được Ðảng xây lăng đắp tẩm hay không nhưng trước mắt ngoài lăng Ba Ðình vĩ đại của Hồ Chí Minh, còn có khu lưu niệm to lớn của Tôn Ðức Thắng, được xây dựng trên một khu đất rộng trên 6 ha đất , thuộc Cù lao ông Hổ tỉnh An Giang. Chi riêng đền thờ ‘bác Tôn‘ đã chiếm một một diện tích rộng 110 m2, mái cong, trên nóc có trang trí rồng cọp đang tranh châu, tượng trưng cho các địa danh trong vùng như Rạch Hàm Rồng, cù lao ông Hổ là sinh quán của Tôn Ðức Thắng. Có 19 bậc tam cấp dẫn đền thờ. Tượng đồng của Thắng nói là do hảng Ba Son đúc . Ngoài ra còn có Nhà trưng bày di tích lịch sử, lưu lại những vặt vãnh của một tay tứ chiếng giang hồ, xuất thân là anh chị trong làng dao búa, nên cũng được đảng phong chức ‘ bác ‘ như ‘ bác Hồ ‘ sống mãi trong quần, chúng ta.

- Lăng Ba Ðình: Ðược cóp theo đúng nguyên bản lăng tổ Lênin ở Mạc Tư Khoa, có chiều cao 21,6 m gồm 3 lớp, nằm trên một phần đất của chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột, là một trong những di tích nổi tiếng nhất của Thăng Long như Hồ Gươm, Tháp Bút, Cột Cờ Thủ Ngữ, Khuê Văn Các, Quốc Tử Giám vì ngôi chùa đã hơn 1000 năm tuổi. Chùa được xây dựng vào đời vua Lý Thái Tôn (1028-1054) ứng theo điều mộng, nên đã kiến tạo ngôi Phật Tự có hình dạng một đóa hoa sen, đặt trên một cột đá đứng giữa hồ sen Linh Chiểu, để phụng thờ Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, chuyên cưú nhân độ thế, rất phù họp với triều đại và các vị thánh quân đời Lý

Ngôi chùa được trùng tu cũng như xây cất thêm các cơ sở, đúc chuông, dựng tháp và đặc biệt là nơi tổ chức Ðại Lễ Phật Ðản hằng năm vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, suốt triều Lý. Hiện Chùa Một Cột Hà Nội chỉ còn là huyền thoại trong những trang cổ sử, từ khi giặc Pháp lẫn Cộng Sản VN nắm quyền làm chủ đất nước . Cả hai đế quốc đâu có khác gì bọn Hồi giáo cực đoan Taliban khi chiếm được A Phú Hản vào năm 1998, đã ra lệnh tàn phá hết mọi di tích và tượng Phật bằng đá trong thung lũng Bamiyan. Pháp thì chiếm đất chùa để lập Dinh Toàn Quyền Ðông Dương, sau năm 1955 cơ sở này biến thành quảng trường Ba Ðình. Từ năm 1967, Nga giúp xây Lăng Hồ trên nền cũ của lễ đài, mặt trước hướng về phía đông, coi như che khuất hoàn toàn ngôi cổ tự nằm phía sau lăng, vì chiều cao toàn thể ngôi chùa chỉ có 2,20m.

Theo các nhà phong thủy, thì chính cái nhà mồ vĩ đại của Hồ là đầu giây mối nhợ gây nên sự ô nhiểm sinh khí của vận mệnh dân tộc, vì phát xuất từ một tử thi dù là xác ướp. Vì xác bị đặt trong hòm kính vô sinh, lâu ngày bí hơi nên đã xì ra ngoài mùi xú uế, khiến cho mặt mũi của ‘ bác ‘ đổi dạng, làm đảng phải đóng cửa mồ nhờ chuyên viên Nga sang giúp. Ðó là chưa nói tới chuyện hàng năm phải tiêu phí không biết bao nhiêu công khố, để bảo trì, ngâm tẩm trong bồn hóa chất định kỳ thời gian 6 tháng. Phung phí tiền bạc hằng tỉ tỉ đồng, suốt thời gian từ tháng 9-1969 tới nay (2009) với mục đích chỉ để ‘ bác còn sống mãi.

Từ đầu năm 1975, sau khi chiếm được Phước Long và biết chắc Hoa Kỳ đã bỏ rơi VNCH, nên CS Bắc Việt một mặt dồn hết khả năng quân sự để cưởng đoạt Miền Nam, mặt khác lo thủ tục đem xác ướp ‘bác‘ về lăng Ba Ðình. Tại K84, đảng ra lệnh cho đoàn 69 là lực lượng chính bảo vệ xác Hồ từ cuối tháng 12-69 phải hoàn tất việc tập luyện công tác di chuyển ‘xác ướp Hồ‘ về lại Hà Nội. Song song, có 150 cán binh thuộc Lữ đoàn 144 lên tận đồi núi tỉnh Vĩnh Phú, dựng một lăng giả theo đúng nhà mồ Ba Ðình để thực tập các động tác liên quan tới việc phục vụ xác Hồ trong tương lai.

Bắt đầu ngày 26-05-1975, Ðoàn 69 được lệnh tu bổ lại đường xá cầu cống từ căn cứ K84 về Hà Nội. Ngày 15-07-1975 Phạm Ngọc Mậu, Phùng Thế Tài, Kinh Chi đại diện đảng lên tận chổ để kiểm tra đôn đốc mọi công tác. Ngày 17-07 một số cán bộ quân y, chuyên chở các dụng cụ ướp xác về thủ đô trước. Sau đó lúc 16 giờ chiều ngày 18-07-1975, xác ướp của Hồ Chí Minh nằm trong hòm kính, được di chuyển về lăng Ba Ðình bằng chiếc xe tải lớn của Nga chế hiệu Pap. Sau rốt Ðảng chính thức khánh thành ngôi nhà mồ vĩ đại, được xây dựng ngay trung tâm thủ đô ngàn năm văn vật của dân tộc Hồng Lạc vào ngày 29-08-1975, vừa là nhà tù cùm xích vĩnh viễn xác thân của Hồ, cũng là tử huyệt dùng để trù ếm phá thối tất cả mọi nguồn sinh khí của đất nước. Thảm kịch trên đã khiến cho VN, từ một quốc gia oai hùng văn hiến rạng rở trong cõi Ðông Nam Á Châu, trở thành một xứ sở nghèo hèn mạt rệp, suy đồi phong hóa, giáo dục, đến nổi người dân phải bỏ quê hương đi tứ xứ tha phương cầu thực, ai mà không biết, ai mà không từng là nạn nhân trầm thống hận hờn, ngoại trừ đảng CSVN và các thành phần Việt Gian phù trợ .

Ðây là một sự báo ứng ghê gớm trong thời đại chúng ta, nên Trời Phật mươn tay Ðảng hành hạ trừng phạt một tên đại gian hùng, buôn dân bán nước cho ngoại bang để thỏa mãn dục vọng cá nhân. Ðó là việc Ðảng đem xác ướp Hồ làm món hàng câu khách du lịch và những kẻ hiếu kỳ, đồng thời dựa vào đó như một tấm bình phong để bảo tồn quyền lực của chủ nghĩa xã hội.Theo truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt (trừ duới chế độ CS) , thì chết là an giấc nghìn thu, nên mồ mã phải được yên ổn thì con cháu đời sau mới phát tài hạnh phúc. Từ khi VN bị VC đô hộ, cả nước bị động mồ mã, nên luôn luôn gặp tai họa triền miên, thiên tai bảo lụt, động đất cúm gà, cúm heo đó là chưa kể tới những thảm họa chiến tranh giữa VC, Miên Cộng và Trung Cộng từ 1975-1990 gây thương vong cho hàng triệu đồng bào cả nước.

Ðó cũng là lý do mà các vua chúa ngày xưa của Tàu lẫn VN, đều chọn những chốn thâm sơn cùng cốc để được yên mồ. Hồ Chí Minh thì khác đời, thi hài chẳng những không được chôn cất hay hỏa táng, trái lại để nằm trong hòm kính hằng ngày được máy trục lên đẩy xuống cho người điểm mặt. Ngoài ra theo định kỳ, mỗi năm xác Hồ lại phải chở tới Nga Sô để ngâm trong bồn hóa chất, vào khoảng tháng 11-12. Riêng lăng Ba Ðình, theo nhận xét chung của mọi người, thì đâu có khác gì một sà lim vĩ đại với cửa nhỏ ra vào, có lính gác trong ngoài ngày đêm cẩn mật, đâu khác các lò thiêu xác dân Do Thái thời đệ nhị thế chiến của Ðức quốc xã ?

Cường điệu tới mức trời hờn người kinh là việc đảng cho ‘bác‘ thành ‘Phật Thánh được ngồi bên cạnh Vua Hùng và Ðức Phật khắ[ các đình chùa. Nhưng trò chơi quý tộc này tồn tại được bao lâu nữa, trong khi cả nước đang sôi sục đứng lên để bứt xiềng xích nô lệ và tiêu diệt chế độ phi nhân phi thú của CSVN. Lịch sử vẫn còn lưu lại hằng ngàn trang nói về cái thói đời đua đòi khoe mẽ rởm rác của nhân loại.

Nhưng cõi đời là một cuộc biển dâu, nên đâu có ai biết được ngày mai sẽ ra sao, bởi vậy nhìn cái gương của các vị hoàng đế Tàu ngày trước, chỉ vì muốn làm cho mình bất tử, nên đã lảng phí công khố để xây lăng tạc tượng. Ðâu có ai ngờ chính chuyện làm lãng xẹt đó, mà ngày nay số phận của họ bị trôi nổi hà phương, vì trò cướp mộ để đoạt báu vật, qua hình thức hoa mỹ là ‘khảo cổ‘. Tính đến nay, khu vực lăng mộ của 72 vị vua các đời Hán, Ðường, Tống kể cả lăng mộ của Tần Thỉ Hoàng, ở Cam Túc, Thiểm Tây, Hà Bắc đều bị Trung Cộng đào xới tan hoang để tìm kho báu vật dưới lòng đất.

Cùng chung số phận, là lăng mộ của các hoàng đế triều Minh, Mãn Thanh ở vùng đông bắc Trung Hoa. Xui xẽo nhất là lăng mộ của 17 vị hoàng đế Tây Tạng, được chôn rãi rác từ cực tây Tứ Xuyên tới Lhassa cũng bị cướp mồ, khi Trung Cộng xâm lăng và đô hộ nước này từ năm 1949. Biết trước số phận của mình sẽ bị phanh thây không sớm thì muộn, nên Thành Cát Tư Hãn (Mông Cổ) đã được chôn cất một nơi vô cùng bí mật, mà tới nay chẳng ai biết kể cả người Nhật hằng bao thế kỷ cố tìm mò ra vết tích nhưng đều bị thất bại. Ðó cũng là lý do Mao Trạch Ðông khi chết, xác cũng được đảng ướp nhưng lại được đem chôn giấu lặng lẽ một nơi nào đó, không hề nghe ai nhắc tới.

Chỉ có Nga Sô và CSVN thì biểu dương lực lượng: Lênin được ướp xác xây lăng và mở cửa triển lãm vào ngày 26-05-1924 nhưng vì bị động mồ nên thần tượng Lênin và đảng CS Liên Xô chỉ tồn từ năm 1917 tới 1990 thì diệt tuyệt. Mới đây tại Ðài Loan, đài tưởng niệm Tổng Thống Tưởng Giới Thạch cũng bị đổi tên vì bị người Tàu kết tội làm mất lục địa. Những cuộc dâu biển trước mắt diễn ra không ngừng như vậy ‘bác sẽ còn sống mãi‘ trong chiếc hòm kinh bịt bùng tại Ba Ðình được bao lâu, nói chi tới những tượng đài ngoài đường, cốt khỉ trong chùa.. những thứ mà bất cứ người VN nào cũng chờ, chính tay mình được hủy hoại như người Ðức phá bức tường ô nhục Bá Lonh, người Nga giựt đổ tượng Lênin trên đất nước họ, vào những ngày đảng CS bị tiêu diệt.

Bổng dưng thấy thấm thía vô cùng khi đọc được những câu vè dân gian. do các thế trẻ Hà Nội làm sau ngày 30-04-1975, khi đất nước đã không còn chiến tranh và coi như thống nhất:

‘Cáo Hồ nằm ở trong lăng
nhiều năm cáo bỗng nghiến răng giật mình ...



chiều chiều lại nhớ chiều chiều
dưới chân tượng Cáo, đĩ nhiều hơn dân ... ’

Viết từ Xóm Cồn Ha Uy Di

Tháng 7-2009
Mường Giang

Vị Thế Tam Tòa - Lê Văn Ấn


Lê Văn Ấn

Vị thế Tam Tòa hiện nay là vị thế chung của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam . Xác định vị thế của Tam Tòa là xác định vị thế của Giáo Hội đối với Đất Nước, đối với chế độ Việt Cộng. Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc, người Công Giáo là một giáo dân tốt phải là một công dân tốt. Một công dân tốt phải chung vai với các thành phần khác của dân tộc để cứu nguy khi đất nước lâm nguy, kiến thiết khi đất nước hòa bình.

Qua Thông cáo số 4 của Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh, được Linh mục An Tôn Phạm Đình Phùng, Chánh Văn Phòng Tòa Giám Mục ký tên đóng dấu gửi ra ngày 30 tháng 7 năm 2009, đáng chú ý những chi tiết sau đây:

1. Sự việc 2 linh mục và một số giáo dân bị nhóm “côn đồ” đánh đập tại Tam Tòa trước sự chứng kiến của những người mang sắc phục công an là “chắc chắn có sự việc trên”.

2. Chiều ngày 27/07/2009, linh mục Phaolồ Nguyễn Đình Phú và mấy giáo dân bị đánh đã về đến Kỳ Anh Hà Tĩnh lúc 21 giờ cùng ngày, riêng linh mục Phêrô Ngô Thế Bính được đưa về phòng khám Đa Khoa của tòa giám mục Xã Đoài, giáo dân chứng kiến các vết thương của cha Bính đã rất phẫn nộ VC.

3. Chiều ngày 27.07.2009, chị Yên, Phó ca đoàn Tam Tòa bị bắt đã được VC Quảng Bình trả tự do, anh sinh viên Thống bị bắt mang đi cũng được VC Quảng Bình “tống ra đường” tức không giam giữ nữa.

4. Sáng 28/07/09, phái đoàn Tòa Giám Mục đến thăm cha Phú tại giáo xứ của ngài được cha Phú kể lại “âm mưu ác độc của nhóm côn đồ và những kẻ tiếp tay trong sắc phục công an đứng chứng kiến cảnh tượng kinh khủng đó”

5. Tại phòng khám đa khoa Tòa Giám Mục, từng đoàn người đến thăm cha Bính, dù đang bị vết thương hành, cha Bính vẫn cố gắng kể lại sự việc làm cho sự phẫn nộ của giáo dân lên cao, cha Tổng Đại Diện và các linh mục khác khuyên giáo dân nên bình tĩnh.

6. Tối 28/07/2009 một số gia đình có người bị bắt, được công an gọi đi làm thủ tục đón người nhà về nhưng cho đến ngày 29 vẫn chưa xong thủ tục.

7. Chiều 29.07.2009, phái đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội tới tòa giám mục địa phận thăm Giáo phận Vinh và gởi quà cho giáo dân.

8. Lúc 10 giờ ngày 30.07.2009, ông Nguyễn Đức Thịnh, Vụ phó vụ Công giáo (!) và bà Đào Thị Đượm, Chuyên viên Công giáo thuộc Ban Tôn giáo chính phủ VN tới tòa Giám Mục gặp và trao đổi với linh mục Võ Thanh Tâm, Tổng Đại Diện Giáo Phận và linh mục Phạm Đình Phùng, Chánh Văn Phòng Tòa Giám Mục, với mục đích để nghe ý kiến của giáo phận và được cha Tổng Đại diện trình bày:

- Sự việc lúc đầu chỉ là viẹc nhỏ. Giáo dân chỉ đến dựng cái lán che trên nền nhà thờ Tam Tòa. Thế mà công an Quảng Bình đã đánh đập tàn nhẫn, bắt giữ trái phép giáo dân đến nay chưa thả, chiếm đoạt Thánh Giá, chiếm đoạt tài sản của Giáo Hội và giáo dân. Họ còn đánh trọng thương 2 linh mục và giáo dân.

- Về phía Giáo Hội: Các linh mục cố trấn an giáo dân vì họ đang phẫn nộ sục sôi trước hành động tàn nhẫn của công an Quảng Bình.

- Nếu chỉ có “giáo dân” và “lương dân” xô xát, tại sao công an chỉ bắt giữ, đánh đập giáo dân và chưa cho về? Trái lại không một ai trong đám “lương dân” bị bắt giữ, điều tra về hành vi đả thương người và “gây rối trật tự”?

- Công an đến “dẹp” hay giải tán xô xát mà sao lại lấy máy quay phim, chụp hình của giáo dân mà đến nay vẫn chưa trả? Không để giáo dân đưa hình ảnh làm bằng chứng tố cáo những thủ phạm hành hung người vô tội.

- Nếu đến để dẹp việc gây rối sao lại tịch thu vật liệu mà không lập biên bản.

- Linh mục Tổng Đại Diện yêu cầu VC:

1. Thả ngay các giáo dân bị công an Quảng Bình bắt

2. Săn sóc chữa lành những giáo dân bị công an đánh đập đang bị bắt giữ.

3. Bồi thường tại chỗ lán che của giáo xứ Tam Tòa.

4. Trả lại Thánh Giá và tài sản của giáo hội và giáo dân

5. Dừng ngay việc xuyên tạc sự thật, bôi nhọ tôn giáo, gây chia rẽ lương giáo.

6. 2 linh mục và giáo dân bị đánh đập, UBND Tỉnh Quảng Bình phải chịu trách nhiệm viêc chữa trị và điều tra, xét xử “côn đồ” theo pháp luật.

Đọc qua thông báo này chúng ta nhận thấy Việt Cộng đúng là kẻ vừa ăn cướp, vừa la làng, là công an có bổn phận bảo vệ an ninh trật tự, dù ai phải, ai trái bổn phận của công an vẫn phải “can gián” những kẻ tấn công, phải binh vực nạn nhân, đằng này, chẳng những bình thản chứng kiến mà còn bắt giam giữ những nạn nhân, lấy những vật liệu của nạn nhân, như vậy công an có đồng nghĩa với những kẻ hôi của, hợp tác với kẻ xấu đánh người cướp của hay dùng bạo lực đàn áp kẻ yếu?

Âm mưu thâm độc:

Thập niên 50, Hồ Chí Minh đã vâng lệnh Trung Cộng thi hành chiến dịch “Cải cách ruộng đất” chẳng những giết hại mấy trăm ngàn người dân vô tội (con số do CSVN đưa ra là 170.000 người, thực tế còn gấp 3 lần), phá nát hàng trăm ngàn gia đình, cô lập các phần tử còn lại trong gia đình địa chủ. Nhưng điều quan trọng nhất, tai hại nhất là Việt Cộng đã phá vỡ nề nếp an bình nông thôn, tạo căm thù giữa 2 giai cấp trong làng xã. Ngày nay, trong vụ Thái Hà, Đất Tòa Khâm Sứ cũ và những nơi khác, VC huy động, thuê mướn những tên côn đồ, mua chuộc những lương dân ngây thơ, dễ tin đàn áp người công giáo, phá vỡ tình đoàn kết dân tộc.

Sự kiện “muốn được Tòa Giám Mục đưa ra những đề xuất” chỉ là một âm mưu tạo nên cớ hoãn binh và ngụy tạo “bằng chứng tỏ thiện chí” của chúng mà thôi. Sau khi “Đại diện Ban Tôn giáo chính phủ đến tiếp xúc với Tòa Giám Mục thì “Lúc 18 giờ ngày 30.7.09 công an Quảng Bình đã thả thêm 4 giáo dân bị bắt giữ. Hiện còn 3 giáo dân còn bị giữ”. Như thế, “Ban Tôn Giáo chính phủ” đã “thỏa mãn” đề xuất của Tòa Giám Mục (qua linh mục Tổng Đại diện), việc “trả lại Thánh Giá, trả lại tài sản của Giáo Hội và tài sản của giáo dân” quá tổng quát.

Trong khi đó thì công an Quảng Bình vẫn ngăn cấm, vẫn dùng côn đồ và “lương dân” bao vây, cô lập giáo xứ Tam Tòa cũng như ngăn cấm đe dọa sự đi lại của giáo dân Đồng Hới, cụ thể là linh mục Phê rô Lê Thanh Hồng, quản xứ Tam Tòa vẫn không thể đến dâng lễ Chủ Nhật, 2/8/09 cho giáo dân Tam Tòa, dù là cử hành tại tư gia ông Trần Công Lý, vì thế, các giáo dân đành phải ở nhà đọc kinh thay Thánh Lễ chủ nhật. Có nghĩa là tình trạng giáo dân giáo xứ Tam Tòa còn tồi tệ hơn gấp nhiều lần trước khi “che lán để có nơi che mưa, nắng lúc dâng lễ”.

Tòa Giám Mục thiếu đòi hỏi tích cực:

Từ khởi đầu cho đến nay, Tòa Giám Mục chưa bao giờ đưa ra một “Thỉnh Nguyện Thư”, một “đề nghị” hay một “đòi hỏi” chính thức nào đối với công an Quảng Bình và yêu cầu họ trả lời bằng văn bản. Trong cuộc tiếp xúc với “Ban Tôn Giáo Chính Phủ” linh mục Tổng Đại Diện đã “đề xuất” trả lại “tài sản của giáo hội và giáo dân” một cách quá mơ hồ, thay vì “phải xóa bỏ” cái tên “di tích tội ác chiến tranh”, trả lại nhà thờ Tam Tòa và phải để cho giáo phận và giáo xứ xây dựng lại nhà thờ mới ngay trên nền nhà thờ cũ. Trong bức thư của Đức Giám Mục Giáo Phận cũng không nêu rõ mục đích, mà ngài chỉ nói: “… cầu nguyện cho giáo phận, đặc biệt cho giáo xứ Tam Tòa sớm được thái bình và công lý” mà thôi. Nhưng Đức Giám Mục Giáo Phận Vinh là một giám mục thâm niên nhất, đã sống qua các thời kỳ chiến tranh trong lòng Cộng Sản, có nhiều kinh nghiệm Cộng Sản nhất, có thể ngài dành “sự đòi hỏi chính thức” khi ngài trở về chăng? Vì đối với Cộng Sản mà chỉ cầu nguyện và hiệp thông không thể nào chúng thỏa mãn được nguyện vọng của chúng ta. Với Cộng Sản chỉ có đấu tranh, đặt trước mặt chúng bàn cân và phần nguy hiểm thiệt hại nặng nề sẽ về phía chúng, lúc đó, họa may chúng mới suy nghĩ lại và đáp ứng nhu cầu của chúng ta. “Họa may” vì bọn chúng luôn luôn trả thù nguội, luôn luôn nuốt lời, biết bao nhiêu hiệp định, hiệp thương, chưa bao giờ chúng thực hiện phần vụ của chúng.

Với khí thế nửa triệu giáo dân sẵn sàng đấu tranh bất bạo động để nhận được công bằng và bình an, nếu Đức Giám Mục và các linh mục giáo phận hướng dẫn khôn ngoan, cuộc đấu tranh sẽ có thắng lợi vẻ vang. Nhưng với thái độ hiện nay của Tòa Giám Mục, Việt Cộng sẽ áp dụng những tiểu xảo sở trường của chúng, chúng sẽ trả thù giáo xứ Tam Tòa nói riêng và giáo phận Vinh nói chung. Ngoài ra, với kinh nghiệm tại Tam Tòa, chắc chắn VC cũng sẽ rút kinh nghiệm và áp dụng vào các trường hợp tương tự một cách chặt chẽ và hoàn chỉnh hơn. Giáo dân Tam Tòa sẽ chịu những sự trả thù dai dẳng không dứt và cuối cùng phải “bỏ đất mà đi”.

“Sự im lặng đáng sợ”:

Sự im lặng mà linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh (OFM) gọi là đáng sợ, thực ra là hết sức đáng sợ, là tuyệt vọng, cùng đường, SỰ IM LẶNG CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM. Trong lúc cả thế giới quay quắt, đau đớn và hiệp thông cầu nguyện lên tiếng phản đối Việt Cộng, trong khi giáo dân Tam Tòa đang chịu những đòn vọt dã man của công an Quảng Bình, trong khi Thánh Giá là biểu tượng thiêng liêng bị công an cướp đi mà HĐGMVN vẫn im lặng, coi như “bốn phương yên ổn, 2 kinh vững vàng”, hay Tam Tòa là một giáo xứ ở tận rừng rậm Phi Châu! Nếu Công giáo là một tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, v.v… khiến cho Cộng Sản nói chung, Việt Cộng nói riêng, phải kiêng sợ chỉ vì các chủ chăn luôn luôn đi trước đàn chiên, thậm chí hy sinh mạng sống vì đoàn chiên chứ không bỏ chạy hay đi sau đoàn chiên như Chúa Giê Su đã từng đề cập. HĐGMVN hôm nay đang đi sau đoàn chiên, và cũng có thể đã phú đoàn chiên cho lang sói.

Những duyên cớ thường được các bậc vị vọng trong Giáo Hội VN đưa ra là: “quyền hạn của Giám Mục trong giáo phận là bất khả xâm phạm” – – “Đức Giám Mục Cao Đình Thuyên chưa kêu cứu” “HĐGMVN không thể lên tiếng!” “Giáo Hội không làm chính trị”“Con đường của Giáo Hội là đối thoại chứ không đối đầu!” ... Tất cả những lý do này không thuyết phục được ai.

Trong quá khứ, biết bao nhiêu lần HĐGMVN đã im lặng, đã bỏ mặc cho giáo sĩ và giáo dân cho lang sói. Tình trạng này chẳng những làm đà cho Việt Cộng đàn áp, hành hạ giáo sĩ và giáo dân một cách “có lai sân” mà còn làm cho bộ mặt Đức Kitô qua Giáo Hội Việt Nam bị biến đội một cách thảm hại.

“Giáo Hội không làm chính trị” để tranh đoạt quyền hành, nhưng Giáo Hội có thái độ chính trị, nhất là khi phải binh vực “những kẻ cô thế, mồ côi, góa bụa, v.v…” Giáo hội không làm chính trị không có nghĩa là “nhắm mắt trước những tội ác xâm phạm đến con người”, là chính Chúa Giê Su như những vụ buôn bán phụ nữ, hàng chục, hàng trăm phụ nữ trần truồng để một vài người ngoại quốc xem hàng và chọn lựa trước khi mua, mà rốt cuộc gia đình thiếu nữ được chọn chỉ nhận có 200 mỹ kim. Trước cảnh hàng triệu những dân oan, những tội ác cướp bóc của nhà cầm quyền, Hội Đồng Giám Mục vẫn im lặng. Tại sao? HĐGMVN đang áp dụng loại Thánh Kinh nào ngoài 4 Phúc Âm và Tông truyền?

Từ khi đổi mới đến nay, thái độ của HĐGMVN đã phát sinh ra những dư luận, những nhận định hết sức bất lợi cho uy tín Giáo Hội, cho bộ mặt của Đức Kitô. Cách nay hơn 20 năm, 200 giáo sĩ và giáo dân đã dâng thư lên vị đại diện Tòa thánh, xin các Giám Mục hãy can đảm, dù phải sống trong hầm trú, chứ không nhu nhược trước Việt Cộng. Dĩ nhiên, không ai nghe những tin đồn nhảm nhí, không ai kết tội các giám mục một cách hồ đồ. Nhưng có những sự việc không thể chối cãi đã lan nhanh trong giáo dân cũng như lương dân, ví dụ như Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể đã để cho công an Huế dùng nhà thờ làm nhà giam linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, đã im lặng trước phiên tòa bất công của cha Lý. Nhất là im lặng trước biến cố Việt Cộng cướp hơn 100 hét ta đất của Dòng Thiên An, để sau này, khi bà Bội Trân dùng đất Dòng Thiên An dựng nên một cơ ngơi đế vương thì người ta được biết bà là “bạn” của Đức Tổng. Bà là phụ nữ duy nhất được đồng bàn với 4 Đức Cha, gần 10 linh mục kể cả linh mục Việt kiều yêu nước, kể cả linh mục “Đảng biểu trong quốc hội”, và được tặng hoa trong cuộc Hội thảo mang tên “SỐNG ĐẠO THEO CUNG CÁCH VIỆT NAM” do Tổng Giáo Phận Huế tổ chức từ 20 đến 22.04.2004 tại Huế. Bà hơn cả các nữ tu, các phụ nữ Công giáo. Không phải chỉ là lời đồn đãi, nói khơi khơi mà có hình ảnh chứng minh. Không biết bà có phải là con chiên ngoan đạo trên mức bình thường hay là người lương, nghề nghiệp của bà không ai rõ ràng, chỉ biết là một nghệ nhân. Không biết bà trở nên bạn của Đức Tổng trước vụ Dòng Thiên An hay sau đó, khi cơ ngơi của bà được dựng trên đất Dòng Thiên An bị VC ăn cướp?! Kẻ viết bài này chỉ là một giáo dân bình thường, bất xứng, nhưng Chúa là Đàng, là Sự Thật và là Sự Sống! Đức Tổng giáo phận Huế nghĩ gì khi làm như vậy? Những tin tức này cộng với sự im lặng của HĐGMVN làm cho nhiều giáo dân và giáo sĩ rất đau khổ. Sự im lặng trong vụ Dòng Thiên An như vậy, còn các vụ khác?

Nếu HĐGMVN nhận thấy cần phải hợp tác chặt chẽ với Việt Cộng, chấp nhận những chủ trương, đường lối, kế hoạch của Việt Cộng, xin ban huấn từ rõ ràng để Giáo dân (kể cả một số linh mục) không còn đứng lên đòi hỏi VC những điều mà họ nghĩ, họ thấy là cần thiết. Để cho giáo dân (kể cả linh mục) khỏi phải chịu những sự hành hạ, đánh đập, cướp đoạt tài sản, trả thù v.v…mà HĐGMVN làm ngơ như những người xa lạ. Giáo dân Tam Tòa rồi đây sẽ sống trong địa ngục nếu không bỏ giáo xứ, quê hương mà đi nơi khác vì không chịu nỗi sự trả thù của VC mà ai cũng tin đó là sự thật.

Vị thế của Tam Tòa:

Hiện nay, giáo dân Tam Tòa đã và đang bị công an hợp tác với côn đồ hành hạ, bao vây, đang cô đơn (cha xứ cũng không đến được) trong khi Đức Cha Cao Đình Thuyên, Giám Mục Giáo Phận còn ở hải ngoại, giáo dân và linh mục thì sẵn sàng hy sinh, cảm thông và cầu nguyện, và chắc chắn họ cũng sẽ sẵn sàng đến cơ quan công quyền đòi hỏi công bằng và sự thật cũng như đòi lại quyền làm chủ nhà thờ Tam Tòa cho giáo dân Tam Tòa. Nếu HĐGMVN, nếu Đức Giám Mục “buông tay” thì xin để cho giáo sĩ và giáo dân được tự phát đấu tranh giành lại nhà thờ, giành lại quyền được hành đạo và bình an. Hoặc là giáo quyền đứng ra thay mặt giáo dân trực tiếp đòi hỏi những quyền căn bản con người mà quyền tự do tôn giáo, cụ thể là được đi lễ tại nơi nhà thờ đổ nát (của mình) và được quyền yêu cầu công an Quảng Bình cất bỏ mấy chữ “di tích tội ác Mỹ” trên nhà thờ này bằng văn bản và cam kết. Vì Việt Cộng đã không dành cho di tích chiến tranh và tội ác Mỹ những nơi xứng đáng hơn thì không có lý do gì lại dùng nhà thờ Tam Tòa làm nơi di tích tội ác Mỹ. “Giữ nhà thờ Tam Tòa như là một chứng tích tội ác của Mỹ” thì tại sao hiện nay Việt Cộng lại rước Mỹ vào Việt Nam? Có phải VC muốn những tội ác của Mỹ sẽ thực hiện thêm một lần nữa trên đất nước VN? Còn nếu tội ác của Mỹ làm cho cán bộ VC trở nên giàu có, có con cái qua Mỹ du học kể cả con của Thủ Tướng cũng lấy Việt kiều, cũng hy vọng được con gái bảo lãnh qua Mỹ thì lưu lại chứng tích Tam Tòa có phải là một cái tát vào mặt mình, nhất là tát vào mặt Tưởng Thú Nguyễn Tấn Dũng?

Có những kẻ giả ngây thơ hay cố ý tiếp tay VC gây chia rẽ giữa các tôn giáo, giữa giáo dân và lương dân, đã lên tiến trách cứ và đòi hỏi các tôn giáo bạn, nhất là Hòa Thượng Quảng Độ phải lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của Tam Tòa. Thử hỏi trong những khó khăn của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, mà Hòa thượng Thích Quảng Độ là người đứng đầu, đang phải đấu tranh, những người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo VN đã bao giờ lên tiếng ủng hộ chưa? Làm sao lại đòi hỏi Hòa Thượng Thích Quảng Độ lên tiếng được? Trong khi đó, các Phật tử khắp nơi đã lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ.

Đã đến lúc HĐGMVN phải minh định lập trường, vì các vị là chủ chăn, là đại diện cho giáo dân trước chính quyền, phải tỏ thái độ dứt khoát cho con chiên biết quý vị còn trách nhiệm chủ chăn nữa không? Giáo dân không bắt buộc HĐGMVN can đảm đương đầu với bạo lực VC, vì các vị cũng là con người, nhưng giáo dân và giáo sĩ muốn HĐGMVN có thái độ rõ rệt để họ khỏi phải chịu những sự trả thù, chấp nhận ông chủ Việt Cộng, chấp nhận làm nô lệ kẻ vô thần, con đẻ của ma quỷ. Hay đi tìm một Đức Giê Su đích thực, một Giáo Hội mà Đức Giê Su đã xây trên đá, với gương sáng chói của Thánh Gioan Baotixita, với 2 thánh tử vì đạo của Tam Tòa là Thánh Nguyễn Văn Phượng, Thầy giảng và Nguyễn Văn Hoan, linh mục.

Xác định Vị thế của Tam Tòa: là một nhóm giáo dân tự phát đứng lên đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo hay là một giáo xứ được giáo phận và Giáo Hội Việt Nam binh vực, hoàn tòan tùy thuộc Hội Đồng Giám Mục VN và Giám mục Phêrô Maria Cao Đình Thuyên.

Lê Văn Ấn

Col. Viet Luong, commander of the 3rd Brigade Combat Team, 101st Airborne Division



Colonel Luong is 1st Vietnamese-American BCT commander

By Kristin M. Hall - The Associated Press
Posted : Thursday Jul 23, 2009 16:53:09 EDT


Col. Viet Luong, commander of the 3rd Brigade Combat
Team, 101st Airborne Division, came to America in 1975
as a refugee from Vietnam and is the first Vietnamese-
American to command an Army combat brigade
FORT CAMPBELL, Ky. — Fresh off a 14-month deployment to Iraq, the 3rd Brigade Combat Team of the 101st Airborne Division is preparing for a new Afghanistan mission with a new commander who brings a unique perspective to the ongoing wars.

Col. Viet Luong came to America in 1975 with his family as refugees from Vietnam. He said he is considered the first Vietnamese-American to command an Army combat brigade, having taken up his post in February.

From growing up amid a war to preparing a battle-hardened brigade for its fifth deployment, he describes his rise to the post as a deeply satisfying journey.

“To me it’s very profound and it’s everything this country stands for: the opportunities, liberty, equality and fraternity,” he said.

The brigade he is leading has its own history with Vietnam. It deployed to Vietnam in 1967 and fought extensively throughout the country.

“It’s a great honor to be in this brigade”, he said. “It’s a great unit with a gallant tradition and every day we try to live up to those standards. We’re very well connected to the veterans of this brigade and for me, it’s a privilege to be here.”

Luong began his military career after graduating from the University of Southern California and has mostly served with the Army’s airborne units, including the 82nd Airborne Division in North Carolina and the 173rd Airborne Brigade in Italy.

The military announced earlier this month that the brigade’s 3,800 soldiers would be leaving for Afghanistan by year’s end. Most of the unit’s previous deployments have been to Iraq, although it had a tour of Afghanistan in 2002.

President Barack Obama has ordered 21,000 additional U.S. troops to Afghanistan to fight a resurgent Taliban, shifting the global war focus away from Iraq.

Luong, who has served in Iraq, said the brigade has experience that will help it adjust to the different circumstances of Afghanistan.

“Some of the agricultural and economic initiatives that some of these leaders have brought with them from Iraq, I think will be monumental in Afghanistan,” Luong said. “Many people will tell you that all the stuff that you learned in Iraq you can go ahead and flush because Afghanistan is different. I don’t completely agree with that because there are a lot of good things in Iraq that I think will transfer over.”

The unit is beginning training this month for the deployment, but Luong stressed that his brigade will remain flexible because of the rapidly changing situation in Afghanistan.

Training will include cultural and language skills and learning to use new equipment, such as lightweight mine-resistant vehicles, called MRAPs.
Douglas Brady, Philip W. Blake and John Wilson were among the
American veterans objecting to placing a Vietnamese-American
monument in Veterans Memorial Park
Without specific assignment orders at the moment, Luong said the brigade will be prepared for a full-spectrum of operations from combat to civil support.

With an Afghan presidential election scheduled in August, the Army’s role in supporting the government will be an important part of whatever mission they have, he noted.

“Really our job is to assist the government of Afghanistan connect itself to the people and be viewed as competent, legitimate government,” he said.

Luong said efforts to improve the Afghan economy have been successful through collaboration between the military, aid organizations and the State Department.

One challenge he is currently facing is giving his soldiers enough time at home with family before they have to leave again. With only 12 or 13 months expected between deployments, the stress can weigh heavily on soldiers and their families, he said. “This brigade combat team is the most deployed brigade in the Army,” he said. “Over time it’s a significant stress on the force and it’s a significant stress on the family. And I am always concerned about that. To the best of our ability, we try to mitigate time away from home.”


Những tên Vịt kìu về Việt Nam để vào tù !

Việt cộng làm tiền, khi xét AH1N1

Vừa xuống Phi trường Tân Sơn Nhất, trời nóng nực.
Chưa ra khỏi Hải Quan thì bị tóm cổ kéo vô đây đè ra đo nhiệt độ.


Già trẻ gì cũng không tha.


Cô nhân viên (Bắc kỳ) của VN Airlines sợ bị tốn tiền,
chạy trốn khi hành khách hỏi nhờ mượn điện thoại để gọi cho thân nhân.


Nhân viên vợi giọng điệu Bắc kỳ tra hỏi khách hàng như đang tra hỏi tù nhân.
"Pát-Po đâu!?" "Cùi Vé đâu?!" "Mấy tuổi!?" "Tên gì!?"


Cha này chỉ chỏ la ó làm cho hành khách lo lắng thêm.
Khi bị đo nhiệt độ xong cha rút ra hô to "38 chấm nhăm, phải đi bệnh viện thôi!"
Không tin nên hỏi cho coi, nhưng nhận được câu trả lời "Coi nàm gì ? Anh không cần biết!"


Phi trường Los Angeles, Taipei nhiều du khách hơn và lớn hơn gấp mấy lần
phi trường TSN mà không thấy 1 nhân viên nào đeo khẩu trang.

Ở VN thì ... bình thường hiếm thấy nhân viên nở nụ cười,
bây giờ nhe răng cười cả ngày đi nữa cũng không ai thấy.


Anh đội mủ càm ràm, Chị áo xanh khóc lóc.
Mình im lặng coi kế tiếp là trò khỉ gì đây.


Bị tống vào xe cứu thương như chở bò, ngồi trên giường bệnh
khi xe thắng thì mọi người ngả ngiêng.

Trời nóng, xe không mở máy lạnh, hú còi mà xe chẳng chạy,
chậm còn hơn rùa bò. Gần nữa tiếng sau mới tới bệnh viện.


Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Tới nơi mồ hôi nhầy nhụa, bị đè ra đo nhiệt độ tiếp. Lần này rút kinh nghiệm, coi nhiệt độ trước khi y tá tới, kết quả là 37.5c. Xong rồi bị soi mũi họng để thử nghiệm cúm H1N1. Sau 24-48 tiếng sẽ có kết quả. Trong thời gian đó bệnh nhân phải ở lại đây.


Mọi người hỏi Bác sĩ cho mượn điện thoại để liên lạc với người nhà mà ông Bác sĩ lắc đầu bảo rằng không có điện thoại. Ai cũng bực tức hỏi tại sao bắt giam ở đây mà không cho liên lạc với người nhà?. Bà con đang nhốn nháo thì ông Bác sĩ đáp lại rằng "Việc đó không phải của tôi!"


Mọi người bày kế lén lút viết giấy bo tiền Bà y tá nhờ ra ngoài liên lạc với người nhà. Người nhà phải đứng ngồi đợi ở ngoài, không được tới gần phòng cách ly. Ăn uống bệnh nhận tự lo lấy, người nhà đem cơm nước vô thì phải bo tiền cho cảnh vệ đem vào đưa qua cửa sổ.