Saturday, August 8, 2009

Buổi Thuyết pháp ứng khẩu của Pháp sư Thích Giác Đức - Trần Diệu Quán

    Buổi Thuyết pháp ứng khẩu của Pháp sư Thích Giác Đức.
    Trong dịp ra mắt tập Thơ “Tù” của Đại lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ,
    tại Sydney ngày 14/06/2009
Trần Diệu Quán lược ghi

Trước hết, chúng tôi xin kính chào quý ngài và quý vị. Hôm nay chúng tôi không biết phải nói như thế nào diễn tả được sự vui mừng của chúng tôi khi gặp lại quý ngài và quý vị ở đây. Có những vị mà tôi đã được gặp từ năm 1963 đến bây giờ, tuy là mấy chục năm xa cách, nhưng thoáng nhìn thì thấy có rất nhiều vị đã quen biết và chúng tôi cũng có lời tán thán công đức quý ngài. Ở đây, đáng lý chúng tôi sẽ nói chuyện thật dài, nếu có nhiều thì giờ, nhưng vì thì giờ không có. Ban tổ chức chỉ cho 45 phút. Tôi cũng xin được phép cải chính chức vị của chúng tôi là Tổng Ủy viên kế hoạch của Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo (VP2 VHĐ) kiêm phó Chủ Tịch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) tại Hoa kỳ.

Làm kế hoạch thì tôi dựa vào một số tiêu điểm. Cái tiêu điểm đó tức là những tiêu chuẩn, là những cái gì có lợi cho mình, có lợi cho người, có lợi bây giờ mà về sau vẫn có lợi ích và không có hại cho bất cứ ai thì cái đó có thể xúc tiến được. Và những cái nào mà đem lại lợi ích cho mình mà có hại cho người thì nhất định không làm dù người ấy là người nào. Và những cái nào có lợi cho mình, có lợi cho người, có lợi bây giờ nhưng di hại về sau thì cũng nhất định không làm. Những cái nào có lợi ích cho tổ quốc, cho đạo pháp mình, nhưng di hại cho nhân loại nhất định không làm. Thì đấy là kế hoạch nó khó như vậy Làm sao có một kế hoạch, làm sao có một nền hoà bình mà tránh được chiến tranh?. Có nhiều khi phải làm hòa bình, muốn làm hòa bình thì phải có chiến tranh. Thí dụ như bây giờ người ta cướp nước mình và bảo rằng mình không chiến tranh thì làm sao giữ được nước? Do đó cho nên phải nghiên cứu kế hoạch nào để không phải lưỡng lợi mà đa lợi. Lợi đây là lợi ích chứ không phải lợi lộc. Là một tu sĩ phật giáo không bao giờ mong lợi ích về quyền lực, mà cũng chẳng mong lợi ích về thế lực, và cũng không mong lợi ích gì về những lợi lộc vật chất.

Chúng tôi xin phép được nói tóm tắt về Đức Giáo chủ của chúng ta. Điều thứ hai là nói sơ lược về giáo lý của chúng ta và điều thứ ba là giáo hội của chúng ta.

Chúng ta thấy, nói đến đạo Phật tức là nói đến con đường mà tự mình giải thoát cho mình. Con đường tự mình cứu khổ mình và có thể đem con đường giải thoát của Đức Phật để cứu khổ cho nhân loại. Như vậy, đạo Phật không những là một tôn giáo chỉ ra phương hướng để giải thoát mà còn là con đường hoá độ để cứu khổ cho chúng sinh. "Thượng hoằng Phật Đạo hạ hoá chúng sinh" .....

Đạo Phật là một đạo giải thoát, siêu thoát, nhưng là một đạo nhập thế hoá đạo cứu đời. Cho nên chúng ta thấy đạo phật là một tôn giáo đại đồng cho toàn thể nhân loại. Nhưng đạo Phật lại cũng là một tôn giáo ủng hộ chủ nghĩa quốc gia rất mãnh liệt để bảo toàn lãnh thổ, bảo toàn nền văn minh cho mỗi nơi, mỗi vùng và đặc biệt là tôn trọng nền độc lập của mọi quốc gia. Do đó cho nên chúng ta thấy vị giáo chủ của đạo Phật là Đức Phật, một vị giáo chủ rất hoà bình. Chúng ta có thể nói Đức Phật về nhiều phương diện, nhưng mà không có Đức Phật nào mà không có hoà bình, vì chẳng có tượng Phật nào mà không mỉm cười. Đến chùa thấy tượng Phật là thể nào cũng thấy có tượng Phật mỉm cười rồi:

"Gió luồn khe cửa chao đèn vật.
Một nụ cười xưa phát thệ nguyền.."
(Thanh Tịnh)

Hễ nói đến đạo Phật là người ta nói đến từ bi, đạo từ bi. Và nói đến đạo Phật là người ta nói đến đạo giác ngộ. Bởi vì trước khi Đức Phật nhập niết bàn thì A Nan hỏi rằng:

Bạch Đức thế tôn, sau khi Ngài nhập niết bàn thì chúng con tôn ai làm thầy?

Phật đã nói rằng:

Này A Nan, sau khi Như Lai nhập niết bàn thì các ngươi hãy lấy giới luật làm thầy, từ bi làm chí nguyện và trí tuệ làm sự nghiệp (Kinh Di Giáo).

Có ai làm thầy mình hơn là chính giới luật làm thầy. Không phải một vị sư có quyền phạm giới được. Không phải một nhà vua có quyền phạm giới được. Tất cả từ Tăng chúng sinh đến tín đồ, từ người lớn đến người nhỏ, từ những vua quan, chính quyền cho đến thứ dân và tất cả mọi người đều phải tôn sùng giới luật và pháp luật. Chứ không phải tôi là chính quyền thì tôi muốn bỏ tù ai thì bỏ tù. Đâu có phải tôi là nhà nước thì tôi muốn giết ai thì giết. Không! Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, tức Giới hòa đồng tu.

Hãy lấy giới luật làm thầy. Giới luật là: Một vị cư sĩ ở tại gia có 5 giới. Một vị xuất gia sa di có 10 giới. Một vị pháp sư như chúng tôi thì 58 giới và 10 điều nguyện. Nhưng đã thọ giới rồi và đã giữ giới rồi thì thà chết không phạm giới. Cho nên sau khi Đức Phật nhập diệt hay bất cứ lúc nào, đã là người Phật tử, đã là một người có đạo đức, bắt buộc phải giữ giới. Trong những giới đã thọ mà giữ được toàn thể thì gọi là Toàn Phần Giới Luật, giữ được một phần thì gọi là Thiểu Phần Giới Luật và giữ được phần lớn thì gọi là Đa Phần Giới Luật. Bất cứ ai giữ được những điều giới luật mình đã nguyện thọ trì thì cái đó gọi là tịnh giới. Không thể có người tịnh giới mà thọ rất nhiều giới rồi thì phạm giới lung tung. Không được! Không cho phép. Cho nên giới luật làm thầy, là phải tôn trọng giới luật. Chỗ nào có sự tôn trọng giới luật làm thầy thì chỗ ấy Phật pháp không thể bị suy đồi. Đó là mục đích của thế gian này. Lấy giới luật làm thầy, lấy từ bi làm chí nguyện. Đạo Phật là đạo từ bi, nói đến đạo Phật là thấy sự hiền lành. Chính vì vậy, qua suốt giòng lịch sử trên 2500 năm của đạo Phật trên mặt đất này, không có một chỗ nào mà đạo Phật đã khuyến dụ để có chiến tranh cả. Nhưng đạo Phật cho phép một cư sĩ tại gia hay cả tu sĩ xuất gia, khi giặc đến chiếm đất nước thì phải dấn thân để đi ra bảo vệ tổ quốc, bảo vệ giống nòi và bảo vệ lãnh thổ. Thế nên chúng ta không ngạc nhiên khi biết Trần Hưng Đạo là một nhà sư, Lý Thường Kiệt là một nhà sư, Ngô Thời Nhiệm là một thiền sư và Nguyễn Trãi là một thiền sư. Lịch sử cho phép như vậy và đã chép như vậy đó. Trong thời Trần, một nửa dân chúng ở trong nước là tu sĩ, nhưng ở giòng tu sĩ có gia đình (bán thiên hạ vi Tăng). Các vị mở sử ra mà coi, muốn biết Trần Hưng Đạo là một nhà sư ở đâu thì mở Đại Việt Sử ký toàn thư ở bản kỷ trang 41 a & b thì thấy Trần Hưng Đạo là một nhà sư. Đọc lịch sử thấy Lý Thường Kiệt có phải một chú sa di bỏ giới, phải xả giới để hoàn tục. Từ hoàn tục đến tự cung để đi vào trong triều đình cùng với vua. Vua mới tuyển từ đó ra mặt trận mà làm kinh thiên động địa: phía Bắc thì đánh Liêm Châu, Ung Châu tức Quảng Đông Quảng Tây, miền Nam thì đánh suốt từ bến Nhật Lệ và mấy lần đuổi quân xâm lăng, bảo vệ lãnh thổ với mặt trận ở sông Như Nguyệt như thế nào ... các vị biết rồi đó. Ba lần xả giới. Trần Hưng Đạo xả giới để đại phá quân Mông cổ ra sao. Trận Bạch Đằng như thế nào các vị còn nhớ? Các nhà sư đấy! Hiền lành đấy! Nhưng mà cầm võ khí để chống giặc, bảo toàn lãnh thổ .

Thành ra, chúng ta sống trong một nước Phật giáo như Phật giáo Việt Nam (PGVN), không thể và không giống như Phật giáo Campuchia, không giống như PG Miến Điện. Chúng ta không thể tìm thấy một ngôi chùa, như tất cả các ngôi chùa mà giống hệt nhau ở trên thế giới. Chúng ta thấy lạ lùng là ngôi chùa Tàu giống chùa Tàu, ngôi chùa Việt giống chùa Việt, ngôi chùa Miên giống chùa Miên, ngôi chùa Thái giống chùa Thái. Không có một kiểu nhất loại là bắt tất cả thế giới phải nhất định theo một mẫu mực mà ngược lại Đạo Phật tôn trọng văn hoá của mỗi dân tộc, tôn trọng chủ quyền của mỗi dân tộc, tôn trọng lãnh thổ của mỗi dân tộc và tôn trọng tất cả sự sống của con người và loài vật. Đạo Phật là đạo từ bi, và chúng ta không thấy đạo Phật có chiến tranh và chúng ta thấy những Phật tử hiền lành lắm. Người Campuchia cũng hiền lành, hiền lành mấy nghìn năm cho đến khi chủ nghĩa Cộng sản truyền vào là đẻ ra một Polpot giết mấy triệu người một lúc. Các vị thấy trong lịch sử đó. Các vị thấy những người đang hung hãn, nhưng mà đến khi quy y đạo Phật, như quân Mông Cổ là quân hiếu chiến, mà đến khi quy y đầu Phật thì trở nên một sắc dân hiền lành. Chúng ta đã nhìn thấy thật rõ ràng. Chúng ta thấy đạo hữu của dân tộc ta “sinh ra đời mà không gặp Phật thì thờ phượng cha mẹ, chính là thờ Phật vậy“. (Kinh Hiếu Tử) Và chúng ta thấy sự hiền lành từ bi đã thấm nhuần vào ca dao:

"Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".

Tình thương yêu như vậy mà đến khi ảnh hưởng bởi chế độ CS, thì con chỉ vào mặt mẹ, con lấy đá con ném cho mẹ chết. Vì sao? Thấy không? Có thấy không? Hãy nhìn xem chín năm CS cai trị ở Bắc Việt, đạo Phật ở Bắc Việt còn không? Và tàn tạ như thế nào? Nhìn xem CS cai trị ở Trung Quốc mấy chục năm, bây giờ PG Trung Hoa còn gì không? Cho nên nói: hỏi tức là trả lời. Chúng ta thấy đạo Phật là đạo từ bi, nhưng đạo Phật nhấn mạnh tới trí tuệ. Ở trong kinh có câu rằng “Duy tuệ thị nghiệp“ lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Nếu không có trí tuệ, chúng ta không ngồi đây, không đứng đây. Ngay từ thuở ban sơ, từ thời còn ở dưới hang, còn ăn con vật cả lông, còn ăn sống, chưa biết nướng chín, nấu chín, cho đến tiến bộ như ngày hôm nay, tôi đang cầm micro như thế này chúng ta đang ngồi dưới ánh điện như thế này là nhờ bộ óc của chúng ta theo con đường trí tuệ. Nhờ trí tuệ của chúng ta mà tìm ra chỗ nào có nước uống, để về sông mà uống nước. Về sông uống nước rồi tìm được chỗ nào có cây mọc để ăn trái, ăn củ, ăn lá và ăn rau, và cũng nhờ sông mà có cá ăn, cũng nhờ có trí tuệ, tìm cách làm nhà mà ở và nhờ có trí tuệ phát triển đến ngày hôm nay. Trí tuệ là sự nghiệp. Không có trí tuệ nhân loại chết rồi, không sống được, không tồn tại được. Chúng ta thử hỏi, nếu trí tuệ mất đi, mà chúng ta cứ say sưa, chẳng biết đâu là nhà, đâu là đường. Đường cái không đi, nhè bụi tre mà bước vào còn chửi cha đứa nào trồng tre giữa đường. Ai trồng cây giữa đường? Lý Bạch - một nhà thi hào Trung Hoa, uống rượu say rồi nhảy xuống nước, yêu mặt trăng, ôm mặt trăng mà hôn ... chết tuốt. Ai kéo trăng xuống nước, ai trồng tre giữa đường? Chỉ vì vô minh, mà mất trí tuệ. Do đó cho nên phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp.

Tôi sung sướng quá, ở trong kinh Viên Giác nói rằng bản thể vũ trụ là trí tuệ, là viên giác, tức là giác ngộ hoàn toàn tròn đầy, không còn huyễn hoá. Trong khoa học ngày nay thì nói rằng: The nature of universe is emptiness. Và nhà khoa học hiện nay còn sống, Stephens Hawkins, đang là một nhà toán học của Hoàng gia Anh nói rằng Tôi biết được bản thể vũ trụ là emptiness là Không, là nhờ tôi học thuyết chân không của PG. Trong khoa học tôi thấy ông ta nói: “In the emptiness there’s something, some unseen materials. Trong cái chân không đó, cái bản thể vũ trụ đó có một thứ vật chất mà mắt người không thấy được. Ông ta nói: “Sở dĩ tôi thấy được điều đó là nhờ Đại thừa PG nói rằng “trong chân không có diệu hữu” Kinh nói trong chân-không có diệu hữu và chính vì trong chân không có diệu hữu cho nên trong khoảng trống không mà khoa học thấy đó có một cái gì gọi là thời gian. Vì cái ấy có phát triển cho nên có lịch sử thời gian. Và ông ta viết quyển "The History of times" (Lịch sử thời gian). Trước đó nhà bác học nổi tiếng Albert Einstein cũng nói về thuyết tương đối, có một ít tương tự Thuyết Duyên Sinh huyễn hóa vô thường vô ngã của Phật Giáo.

Cái bản thể chân không mà Đức Phật gọi là viên giác đó tức là trí tuệ tròn đầy. Và gần đây Đức đương kim Giáo hoàng của toà thánh La Mã của người công giáo trên thế giới, Ngài tuyên bố rằng: "Bản thể của vũ trụ là một structure”. Ngài nói là bản thể vũ trụ là một kiến trúc trí tuệ. (The nature of Universe is a structure of intelligence). Tôi đọc đến đoạn đó tôi đứng dậy và tôi cười,tôi Nam mô A di đà Phật , Đức Giáo hoàng nhìn thấy điều này giống như ở trong kinh Viên Giác. Nhưng chưa giống hệt, bởi vì nếu giống hệt, thì bản thể không là một structure, không là một cấu trúc, vì cái gì đã có cơ cấu thì có điều kiện, mà cái gì có điều kiện thì cái đó tương đối huyễn hoá, mà cái gì tương đối huyễn hoá thì không phải cái tuyệt đối. Bản thể phải tuyệt đối. Mà bản thể không dùng trí tuệ phân biệt, tương đối mà thấy được ”ly ngôn thuyết tướng” xa lìa cái tướng lời nói. “Ly danh tự tướng” cũng xa lìa cả sách vở cũng không dùng sách vở mà nói nó được. “Ly tâm luyên tướng” không dùng tư tưởng mà quán triệt nó được (Luận Đại Thừa Khởi Tín). Chỉ có thể dùng đại trí tuệ bát nhã mới thấy được cái bản thể của vũ trụ. Nhưng mà tôi chúc mừng Đức Giáo hoàng. Ngài là người công giáo đầu tiên đã nhìn thấy bản thể của vũ trụ là một cấu trúc, một cơ cấu kiến trúc trí tuệ. Đấy là sự sáng suốt lớn, nếu so với trong quá khứ. Carl Sagan là người đã tìm thấy thuyết Evolution tạm dịch là thuyết phát triển tự nhiên của vũ trụ. Cũng dựa trên Đạo lý duyên sinh của Phật giáo, hiện nay tất cả các đại học trên thế giới đều phải học về thuyết đời sống của một ngôi sao, ngôi sao là mặt trời, Và một mảnh của mặt trời là trái đất. Trong tất cả hư không như khi chúng ta đọc một câu trong kinh:" Nam mô tận hư không biến pháp giới thập phương tam thế". Tận hư không biến pháp giới ở trong cái không là hư không. Thế hư không thì ngoài hư không là chỗ nào? Không có đâu ngoài hư không hết, chỗ nào cũng là hư không. Nếu đã có một cái gì chiếm một thể tích hư không thì chỗ ấy đã có không gian rồi.

Bởi vì vũ trụ là gì?

Vũ trụ là tất cả là không gian và thời gian.

Thời gian thì chẳng phải trước sau. Thời gian chẳng trước chẳng sau. Không gian không có trên, dưới, trong, ngoài. Trên- dưới - trong- ngoài là do con người đặt ra. Trước, sau là quan niệm của con người gắn vào đó mà thôi, và ngày đêm chỉ là bóng dáng của thời gian, chứ tự nó chẳng phải thời gian. Cho nên không gian vô cùng, thời gian vô tận. Nam mô là trở về, là hoà đồng với bản thể tận hư không, là hết khắp các cõi hư không, biến pháp giới là toàn thể vũ trụ, thập phương là mười phương. Nói là 10 phương là nói cho loài người: Phương Đông, phương Tây, phương Nam , phương Bắc (4 phương), Đông Nam , Tây Nam , Đông Bắc, Tây Bắc (8 phương), trên và dưới là 10 phương. Nhưng nói 10 phương là vì chúng ta muốn giả định để biết phương hướng, chỉ gọi nó vậy thôi. Chứ làm gì có một phương nào nhất định là Tây đâu! Bảo Tây là kia nhưng trái đất vẫn quay thì Tây lại sang hướng này. Bảo đây là trên nhưng khi trái đất quay ngược lên trên thì trên kia nay là dưới. Trái đất hình tròn, nó quay “tùm lum“, thành ra chỗ nào trên đầu ta gọi là trên. Nhưng mà khi trái đất nó quay thì đầu ta ở dưới. Cho nên, đứng trên phương hướng mà nói cũng chỉ là đơn giản tượng trưng và tương đối thôi. Vì vậy, đứng trên phương diện trí tuệ, đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo từ bi, đạo giác ngộ, đòi hỏi con người làm nhiều việc lắm. Nhưng có hai việc là tự độ và cứu khổ. “Chúng con khổ, nguyện xin cứu khổ” và “chúng con khổ nguyện xin tự độ”. Nếu mình không cứu mình, Đức Phật chẳng cứu mình được, và nếu mình không muốn cứu mình, thật sự mình có tu chứng thì mình cứu được mình và trong lúc mình cứu được mình thì mình có thể nhờ ơn Đức Phật cứu mình, cứu rỗi mình, cứu độ mình. Tôi đứng ở trên này là đâu phải tôi đứng một mình tôi. Đã có người nào ngày xưa đóng cái bục này, và cái bục này phải có sức hút của trái đất và có biết bao nhiêu những cái nhờ vả, tôi mới đứng ở đây được. Chứ nếu bây giờ có một người làm lệch quỹ đạo mặt trăng đi, trái đất mất sức hút đi thì tôi hết đứng đây. Thành ra “tăng thượng duyên” ở các nơi làm cho chúng ta ngồi đây được, làm cho chúng ta hiểu nhau được, tất cả đâu phải chỉ một mình mình. Cho nên, chúng ta nhờ tha độ đó. Mỗi tôn giáo đều nhờ vào một thần linh của mình. Đạo Phật cũng nhờ vào sự giúp đỡ của Đức Phật. Tha độ là tăng thượng duyên. Tất cả sự giúp đỡ của Đức Phật, những hào quang của Đức Phật, những vũ trụ tuyến, từ bản thể vũ trụ phát ra, ảnh hưởng đến đời sống của con người mỗi ngày. Không có tăng thượng duyên chúng ta không sống được. Cho nên, “chúng con khổ, nguyện xin cứu khổ“, tức là xin cho mình kết tụ được những tăng thượng duyên là những tha độ. Và “chúng con khổ nguyện xin tự độ”, phải tự mình độ mình bằng hanh trì và tu chứng.

Người Hoa rất yêu thương chúng ta. Nhưng CS Trung Hoa của chính phủ Trung Quốc đang lập một chương trình bauxite để cướp đất nước chúng ta. Mà chúng ta cứ nằm im thôi, rồi thì nếu cụ Quảng Độ không nói ra, mà cứ nghe người nào xúi dại, bảo rằng: “Đi tu thì mũ ni che tai, sự ai không biết, ai sao tôi vậy, tôi không nói bậy thôi”. Nếu Cụ Quảng Độ cứ ngồi im thì cả nước, cả thế giới có ai biết rằng mình đang sắp chết đuối mà đến cứu. Phải nói là ngưng bauxite đi! Không có lợi gì đâu. Đó là một cách họ kiếm cớ xây tiền đồn trên mái nhà Đông Nam Á, rồi họ cướp tất cả Đông Nam Á và nước VN bây giờ ...Ngưng đi! Không những thế mà phải ngưng. Tất cả các giòng sông đều bị hoá chất hết. Không những thế mà phải ngưng, núi trọc chết rồi thì nước chảy về, ngập hết. Sau cơn ngập lụt ở trên cao nguyên không chứa được nước, không có nước để thấm dần về đồng bằng, đồng bằng sông Cửu long nước mặn ở dưới trồi lên vì không có nước ngọt dằn xuống, nhà nông chết đói, Sài Gòn và một phần miền Trung không có nước ngọt uống. Chết ... chết ... Ngưng bauxite đi! Thì người ta bảo “Cụ đã tu không lo mà tu đi, cứ nói đến bauxite”. Mà nếu không ngưng bauxite, không ngưng ngay đi thì mất nước Việt đến nơi rồi ... Dân nhà nông chết đói rồi, các sông ngòi không còn nước mà có thể uống được, bị thấm vào khoáng chất rồi mà không có nước ngọt ... Chết, nước mất rồi. Thành ra tu là phải có trí tuệ, phải giác ngộ, phải tự cứu mình và cứu người. Ngài chẳng làm được gì cũng như chúng tôi và cũng như chúng ta, nhưng ngài nói rằng, hãy nghe, hãy giác ngộ, hãy tỉnh lên đi, kêu lên đi, kêu ầm lên đi và cả thế giới quay vào cứu, phản đối . Bây giờ nó khựng lại rồi. Lúc đầu họ (CS) cấm ngặt mấy người quốc hội không được nói đến chữ bauxite, và bây giờ phải nói rồi, và cả thế giới người ta nói rồi. Được rồi, muốn nói thì cho nói, muốn hội thảo, được rồi cho hội thảo. Tưởng rằng người ta khen đảng , không ngờ 135 người (trong quốc hội) ký giấy phản đối phải ngưng ngay! Thành ra chúng ta chết đuối thì chúng ta cũng phải ráng mà ngoi lên mặt nước, đưa tay lên và nếu ngóc được lên mà hét thì có người khác cứu chúng ta. Bây giờ cả thế giới bắt đầu để ý cứu chúng ta rồi. Chúng ta, trên bước đầu, chúng ta được thoát chết chứ không còn mà âm thầm chịu chết nữa. Chắc chắn rằng cả nhân loại không để cho chúng ta chết. Và chắc chắn rằng các quốc gia Đông Nam Á sẽ chia sớt với chúng ta, và cả thế giới chia sớt với chúng ta trong vấn đề đó. Giúp chúng ta để mà giữ được Hoàng sa Trường sa ở phía Đông và ngưng ngay việc trên toan tính cướp nước chúng ta từ phía Tây. Chúng ta mới thoát ra trên lý thuyết thôi. Còn trên thực tế, người của bọn họ còn đó, thế lực CS còn đó, súng đạn còn đó. Có người bảo hừ mấy ông sư, giặc nó đánh đến nhà, không lo mà đánh lại, cứ lo bất bạo động, biểu tình tại gia, tại chỗ, không lẽ trùm mền tranh đấu ai đây. Xin thưa: Đấy là thái độ tranh đấu tại gia, xây dựng ý thức hệ tự chủ, "Nam quốc Sơn Hà Nam Đế Cư" đấy. Không có ý thức đó, không giữ được tổ quốc và lãnh thổ đâu. Mà không có cái đó mà đem ra bắn, anh có bán hết cả tài sản anh có để kiếm lấy vài ngàn hoả tiễn. Bán hết vài ngàn hoả tiễn thì lấy đâu ra bán. Muốn bắn nữa thì phải mua. Mua không được thì phải mời người khác. Mời người khác, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa thì sao đây? Không lẽ nằm yên mà chịu chết. Cho nên biểu tình tại gia, tức là nuôi dưỡng ý chí. Chúng ta ngồi ngay đây, không ra ngoài đường biểu tình, ngồi ngay đây và ý thức rõ ràng, quyền sống của người Việt, cái sự sống của người Việt, lãnh thổ của người Việt và nền văn minh của nước Việt. Chúng ta ý thức được cái đó, chúng ta đang biểu tình tại chỗ đấy, nếu không muốn gọi là tại gia thì nói rằng: Ngay tại chỗ này chúng ta đang rèn chí đấu tranh, bảo toàn lãnh thổ, nhằm kêu gọi nhân loại không cho phép Trung Cộng với sự tiếp sức của tay sai, âm mưu cướp nước ta và chuẩn bị đàn áp cuộc tranh đấu của chúng ta như đã làm ở Thiên an môn.

Việc gì đến sẽ phải đến dù hy sinh để mãi mãi xứng đáng với giống nòi “Anh hùng Hiếu Đạo”. Lời kêu gọi Tháng Năm Biểu tình tại gia Bất Tuân Dân Sự đã kết thúc, gây được tiếng vang mau chóng và nhận được sự hưởng ứng giúp sức của Quốc tế và nhân loại. Trung Cộng và tay sai Cộng sản bản địa đã “khựng lại”. Nhưng việc bảo toàn lãnh thổ và sự sống còn của dân Việt vẫn đòi hỏi phải trường kỳ đấu tranh bất bạo động đầy gian khổ và hy sinh hơn nữa.

(Giá như mà tôi có thì giờ đứng ở đây với các đạo hữu vài tiếng đồng hồ, tôi nói hết. Tôi xin vắn tắt).

Vậy thì Đức Phật không những là đấng đầu tiên dạy nhân loại biết sử dụng lý trí và phát triển trí tuệ của mình đến tuyệt đối, mà còn là người để lại cho nhân loại những tư tưởng lớn nhất và nhiều nhất trong tất cả các nhà tư tưởng của đông tây kim cổ. Không tin cứ mở sách ra mà coi có người nào để lại nhiều tư tưởng cho loài người qua lịch sử bằng Đức Phật không? Tôi thấy Đức Phật, tôi không khen đấng giáo chủ của tôi là nhất đâu, nhưng mà tôi không tìm thấy một nhân vật nào trên thế giới để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng giải thoát và nhiều tư tưởng cứu khổ và nhiều tư tưởng để sống giữa vũ trụ và nhân sinh bằng Đức phật. Voltaire ở thế kỷ XVI là người đầu tiên ở Tây âu kêu gọi nhân loại sử dụng lý trí. Nhưng trước Voltaire, Đức Phật trên 2500 năm đã kêu gọi sử dụng lý trí để phát triển trí tuệ bản chất của lý trí ... (Xin coi kinh Kalama).

Về giáo lý của đạo Phật thì đời vô thường - có đúng vô thường không? Đời khổ - có đúng khổ không? Người ta bảo không. Khổ là vì anh thiếu tình yêu thôi. Anh có tình yêu anh không khổ. Đồng ý! Nhưng mà “đường vào tình yêu, có trăm lần vui, có vạn lần buồn”. Tại anh sai mà anh khổ đấy! Đồng ý! Nhưng mà tại sao có người viết là "anh đã lầm đưa em sang đây". Vậy thì chúng ta có nhìn thấy khi chưa có được cái mà chúng ta khao khát. Có người bảo rằng, tại thiếu tình yêu, thiếu tiền. Vậy thì tôi xin thưa, rất ít người nghèo tự tử nhưng phần lớn là những người giàu - mới khổ chứ! Thử nhìn sự thống kê. Nghèo thì túng, túng thì bần, "bần cùng sinh đạo tặc, phú quý sinh lễ nghĩa". Biết vừa đủ thì luôn luôn đủ (tri túc thường túc). Bần cùng khổ lắm, nhưng trong cảnh bần cùng chúng ta vẫn phải chiụ đựng trên cả ngàn năm. Trong cuộc đời đầy khổ ải này chúng ta vẫn thương nhau, không ai thương chúng ta bằng chính chúng ta.

Các vị đến đây, tôi nhìn thấy, có các vị bận áo len, có những vị bận áo khoác, tôi mừng lắm, vì ít nhất thái độ đầu tiên là mình nghĩ đến là mình thương mình. Tuổi già rồi, chẳng biết đi về có ho hen không, cúm heo thì sao? (Cả hội trường cười ầm lên). Thành ra phải có cái áo khoác. Thành ra mình có thương mình, mình có trọng người khác và mình thương người khác thì đùm bọc. Trong cuộc đời này chúng ta đã nhìn thấy đạo Phật khuyên chúng ta yêu thương đùm bọc là như vậy đó. Và chúng ta biết giáo lý của đạo Phật, tuy rằng trong cuộc đời vô thường, nay còn mai mất, nay có mai không, chẳng cái gì bền vững. Và lớn như một đế quốc, như vũ trụ, nhỏ như một hạt bụi đều chuyển biến. Chuyển biến và đổi thay. Trong một satna là cái thời gian ngắn bằng 1/90 của một giây đồng hồ, như là một cái chớp mắt vậy, mọi sự mọi vật đều chuyển biến qua bốn giai đoạn: cái sinh ra, cái tồn tại, cái hao mòn và cái mất đi. Trong kinh gọi là “ thành, trụ, hoại không“ và trong các loài sinh vật thì "sinh, lão, bệnh, tử" . Chúng ta đang cười và chúng ta nhìn nhau vui ở đây, mà cả anh, cả tôi, cả cụ, cả cháu đều đang già đi một tí đấy. Cuộc đời nó biến chuyển như vậy đó. Thành ra, cuộc đời là đau khổ - Khổ đấy! Nhưng mà trong cái khổ đó nó có cái vui, và người có đạo là người biết nhận cái khổ làm cái của mình và đương đầu phấn đấu với cái khổ. Từ cái khổ ấy để mà tiến lên, mà thoát nghiệp. Người tu đạo Phật là người chuyển nghiệp, chứ không phải là người ôm cái nghiệp vào mình rồi bảo, đây là số mệnh, ta phải chịu. Ta không phải chịu một cái gì hết. Ta phấn đấu để sống và cải tổ cái biệt nghiệp và chúng ta cải tổ cái đồng nghiệp tức là cái cộng nghiệp chung. Từ cái biệt nghiệp là thân phận cá nhân và cái đồng nghiệp hay là cộng nghiệp là cải tổ xã hội. Tu dưỡng bản thân cải tạo xã hội đấy là con đường tu cộng nghiệp và biệt nghiệp. Chứ tu không phải là cúi đầu mà ai đánh thì chịu trận. Không! Từ bi không phải là thụ động, và nhẫn nhục không phải là đê hèn. Từ bi không phải thụ động. Từ bi nhiều lúc phải đánh cho quân giặc một vài cái tát để nó tỉnh lên, nó đừng cướp nước.

Do đó, thưa quý ngài và quý vị.

Chúng ta quan niệm từ bi một cách sai lầm . Vào thế kỷ thứ 12, Hồi giáo tràn vào Ấn Độ tiêu diệt PG. Có nhiều người hiểu lầm rằng, thôi từ bi đừng có đánh nó. Bây giờ vì vậy mà tại Ấn Độ đạo Phật đã suy nhược, không còn như thời xưa nữa. Thành ra năm 1963 khi thuyết trình trước hội đồng hoằng pháp của Tổng hội PGVN tôi phát biểu rằng: “không biết các Ngài nghĩ sao chứ theo chỗ chúng con hiểu thì từ bi không thể là thụ động được. Ai đánh con thì con đỡ. Ai đánh con nữa, con sợ con chạy, nhưng con nếu hết đường chạy thì sao? Không lẽ con đứng đó cho người ta đánh chết à! Bây giờ con phải đánh lại, mà con muốn đánh lại để tự vệ vì Phật không dạy con là phải để yên cho người ta đánh chết. Bởi vì đạo Phật đã sản ra bao nhiêu anh hùng dân tộc”. Có một vị, đó chính là ngài Tịnh Khiết mới chỉ cho tôi rõ, Ngài nói rằng: “chú nói đúng đấy nhưng mà chú diễn tả cái đó một cách dịu dàng hơn” (Năm ấy tôi còn thanh niên). Do đó, chúng ta thấy đạo Phật với những giáo lý của đạo Phật: giáo lý vô ngã, giáo lý vô thường và giáo lý nhiều nhất là nguyên nhân của sự khổ, cách cứu khổ, khổ vì sao mà có và trong khi được cứu khổ rồi thì chúng ta được như thế nào? Đây là giáo lý, những giáo lý vừa hợp với đủ mọi trình độ. Cho nên, chúng ta thấy trong đạo Phật có những nhà bác học. Ba nhà bác học hiện kim nổi tiếng nhất trong khoa học tây phương mà tôi vừa đề cập ở trên đều có cảm tình với đạo Phật và có người còn là Phật tử nữa.

Chúng ta cũng nhìn thấy ở trong đạo Phật có những người rất là bình dân, vì quá bình dân đến mức chất phác, không có óc cầu tiến dù rằng đạo Phật chủ trương: Từ kẻ trí người ngu đều có thể phát triển, đều có Phật tính. Đấy là chúng ta thấy về giáo lý của đức Phật. Thế nên khoa học càng tiến bao nhiêu thì giáo lý của đạo Phật càng được minh chứng bấy nhiêu. Và một giáo lý lạ lùng lắm, ở trong kinh A Hàm có nói rằng, sau đây nhân loại đến một thời gian nào đó, trái đất này sẽ huỷ diệt. A Nan mới hỏi là: Bạch Thế Tôn, tại sao như vậy? Chính vì cái nghiệp con người quá nặng, Đức Phật trả lời.

Năm ấy tôi nhỏ tuổi lắm, tôi lớn lên ở chùa ... tôi mở kinh ở thư viện Chùa Quán Sứ Hà nội, đọc và nghĩ rằng làm gì có chuyện con người tự làm ra cái để tự huỷ diệt mình . Không phải tôi không tin nhưng cứ phân vân cho đến khi tôi học hết ở Chu Văn An năm 1953 trước khi vào Nam một năm. Tôi vẫn cho là thật kỳ lạ. Có ai mà tự làm cái tự huỷ diệt mình không? Dù tôi có nghĩ Đức Phật nói đúng nhưng Đức Phật cho phép rằng đừng có nhắm mắt mà tin. “Các ngươi tin ta mà không hiểu ta là các người bài báng, chê bai ta vậy” Tôi cứ ngẫm nghĩ, mỗi đêm thiền định có suy nghĩ theo cách Chính Tư Duy, nghiên cứu kinh sách chữ Hán. Chịu khó đọc, nhưng cứ tìm mãi đến ngày tôi lớn lên rồi thì mới biết là Đức Phật nói đúng. Cho đến giai đoạn này thì thấy Đức Phật nói rất đúng. Cái nghiệp của con người tự tạo ra và cái nghiệp ấy nó tiêu diệt con người và trái đất - Mô Phật – Lúc này tôi thấy đúng vì nó hiện ra trước mắt rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi thấy nhiều quốc gia đã làm được nguyên tử, thậm chí cả ông Bắc Hàn vừa làm ra nguyên tử. Rồi đến mấy ông khác. Có nguyên tử rồi cũng run, chứ không phải tôi không có nguyên tử rồi tôi không run. Ông Mỹ có nguyên tử cũng run, ông Ấn độ có nguyên tử mà cũng run. Anh đừng làm, đi vào đây, vào cái “cỗ” sáu bên đi. Sợ nguyên tử là vì nếu nguyên tử mà nó nổ thì chết hết cả đám. Chỗ này bấm nút bay chỗ kia, chỗ kia bấm nút bay chỗ này, và nó tự động bay với nhau, ai rồi cũng chết. Trước đây có một lần tôi có một người bạn Mỹ nói cho biết là có người đề nghị dùng vài ba trái bom nguyên tử cỡ trung bình là giải quyết vấn đề miền Bắc VN trong vòng từ ba ngày cho đến một tuần lễ là giải quyết xong chiến tranh VN. Tôi nói không được vì sau cái đó chỉ còn đá quặng thì còn giải quyết được gì nữa. Đất nước tôi không thể thành đá quặng. Đồng bào tôi không thể bị tiêu diệt. Không! chấm dứt. Tôi nói thẳng như vậy. Ai hiểu là ai cũng được. Nhưng mà người đó có thẩm quyền và tôi năn nỉ chấm dứt vì chúng ta có cách khác.

Bây giờ chúng ta nhìn thấy trái đất mỗi ngày mỗi ô nhiễm, nếu không tin nữa thì cứ làm bauxit đi, cả đồng bằng miền Nam, MeKong và cả đồng bằng các sông ở Trung Việt và cả đồng bằng sông ngòi ở Trung Việt sẽ không còn chỗ sống nữa. Một đồng bằng Bắc Việt, không thể nuôi cả dân chúng miền Nam. Đấy, con người - thí nghiệm của con người tự giết con người và nhìn vào chung quanh trái đất ô nhiễm. Chúng ta nhìn thấy trái đất nung nóng như thế nào. Chúng ta nhìn thấy đất nước chúng ta, một khi trái đất nung nóng như thế nào, thì băng giá Bắc cực tan ra, thì nước biển dâng lên, nước biển dâng lên 2 mét nữa thôi thì bao nhiêu vùng đất của quê hương chúng ta chìm xuống biển. Cho nên trong Kinh A Hàm Đức Phật nói từ trước mà chúng ta không có nghe, rằng nhân loại và trái đất này có thể bị huỷ diệt vì chính cái nghiệp, nặng nghiệp của con người gây ra. Vậy thì cái câu xin khuyên là tu cái nghiệp đi một chút. Thiền đi một chút!

Chúng ta nhìn lại đất nước, tôi tin rằng những người CS bây giờ, họ hơn ai hết nói CS macxit muôn năm đấy! CS muôn năm đấy! Đảng muôn năm đấy! Họ nói như vậy . Vì sao họ nói như vậy? Là vì không có mac-xit, CS thì không có đảng, không có đảng thì họ không có độc quyền, không có độc quyền thì không có tiền bỏ túi. Thế nhưng mà nếu bây giờ nói cho họ biết về CS thật đúng như chủ nghĩa CS nói thì họ không dám nghe đâu. Họ thích chuyên chính nhưng không thích vô sản vì họ giàu gấp mấy chục ngàn lần chúng ta. Nếu các vị không tin, (và tôi hy vọng rằng họ nghe vài câu nói của tôi), các bạn cứ thử điều tra xem có bao nhiêu ngân hàng ở Thuỵ sĩ, có bao nhiêu ngân hàng ở Cali đứng tên những lãnh tụ của đảng hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp. Dân VN có thể không đủ phương tiện để kiểm tra nhưng mà người Mỹ họ biết rõ những người nào có bao nhiêu tiền. Một người chuyên viên có thể nhìn thấy xe hơi của tôi đi ngoài đường, họ bấm lên một cái họ biết tôi sinh ngày nào, con ai và ở đâu, tôi có bao tiền trong ngân hàng. Sự thật là như vậy, chứ không phải dấu diếm gì. Vì vậy cho nên một thế giới đầy tham nhũng, đầy tham lam, một thế giới trùm hết lên dân tộc VN đầy tham nhũng, đầy hà khắc, đầy khổ cực và đầy giằn vặt, được cai trị bởi những lính gác gọi là công an, hàng ngày kèm theo theo dõi, dân chúng hằng ngày khổ cực mà cụ Quảng Độ đã gọi là “nhà tù lớn”. Rồi thì họ muốn “bình yên” không bị ai phản đối thì họ phá mình. Họ phá mình, 5 điều như họ đã phá ở trong nước:

Điều thứ nhất, mời Đức tăng thống Thích Huyền Quang đi ra Hà nội ở. Mà người nào đến mời? Vì nó quan niệm là ngài bị giam lỏng thì ngài là tù mà họ là đại tướng công an thì tặng cho họ chức cai tù. Tôi muốn nói đến ông Nguyễn Văn Hưởng là đại tướng công an, đến bạch Ngài Huyền Quang là : “thưa cụ, cụ nên ra Hà Nội ở cho khí hậu nó mát để cụ chữa bệnh ngoài đó. Rồi đại hội sắp đến cụ ra mà nhận ngôi Pháp Chủ”. Đức Tăng Thống trả lời: “ Không, tôi già rồi, tôi chả thích đi đâu nữa, đau yếu, tôi đi làm sao được, tôi ở đây thôi”.

- Không được, cụ đau yếu thì có bác sĩ đi kèm cụ, cụ già không đi được thì chúng tôi cho người võng cụ, cụ phải đi.

Khi nhận được câu ấy gửi về tôi nghĩ: mời cụ đi Hà Nội rồi đến đại hội đảng nó tôn cụ lên ngôi Pháp chủ, cụ nói gì không cần biết, nó cứ để cụ ngồi đó, chụp hình và nó đứng ra đọc một bản văn và nó tuyên bố GHPGVNTN là phản động, và cụ là Pháp chủ chứ không có thèm làm Tăng thống. Thế là nó giải tán viện Tăng Thống. Đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai, cho xây ngay, sửa ngay cái phòng kín mít chỉ đặt một cái lỗ kính ánh sáng ở trên nơi chùa Lý Quốc Sư Hà Nội. Người của tôi đến điều tra xem sửa cái này để làm gì. “Nghe nói là chúng tôi được phép xây, để đem cụ Quảng Độ ra đây ở đấy“. Vậy là giải tán luôn hội đồng VHĐ. Nhưng chưa hết, muốn cho Thầy QĐ với 22 ban đại diện bận rộn, không còn làm gì chống đối được nhà nước CS nữa, bèn ra lệnh công an cấp phường, ngày nào cũng phải bắt những người này, từ viện trưởng cho đến 22 ban đại diện đi làm việc - tức là không sợ thất nghiệp - Cụ Quảng Độ và một số ban đại diện khá lớn không đi. Có một vài người thử đi xem làm sao. Cứ sáng lên tối về, cứ ra đó “nộp mạng”, trình diện và tối về.

Điều thứ ba quan trọng lắm. Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng họp với các tướng công an toàn quốc đưa ra một số kế hoạch đại cương và hạ lệnh rằng “phải xoá sổ GHPGVNTN càng sớm càng tốt”. Như vậy là thủ tướng đã hạ lệnh cho công an chuẩn bị xoá sổ GHPGVNTN.

Điều thứ tư, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ở Tân Tây Lan, một quốc gia gần quý vị đây khi bị người ta hỏi về những dân oan như thế nào, thì chủ tịch nước trả lời rằng, những kẻ nào lợi dụng tôn giáo để âm mưu lật đổ chế độ, sẽ phải đền tội đích đáng trước pháp luật. Kẻ ấy là Ai nếu không phải cụ Quảng Độ? Phải không? Vậy thì đã xây sửa phòng cho Cụ Quảng Độ ở, dù chưa xử án, mà chủ tịch nước đã tuyên án như vậy. Đó là điều thư tư.

Điều thứ năm: cho radio, đài, báo hai tháng rưỡi ròng rả, chửi ròng rã tên cụ Quảng Độ. Ai về nước thì nghe rõ. Hoà thượng Quảng Độ không nói một tiếng nào.

Đó là 5 việc trong nước.

Còn việc ở ngoài thì:

điều thứ nhất, có những phần tử bất đồng chính kiến ở trong Giáo hội, phá trong phá ra, phá trên phá xuống, phá dưới phá lên, vào trong những giáo hội, địa phương có, trung ương có. Và lập ra ba tổ chức. Tổ chức thứ nhất là Tăng Ni Hải Ngoại, ký truyền đơn chửi Giác Đức rằng “tên đầu sỏ Thích Giác Đức”. Chúng tôi hỏi Qúy đại biểu Đại Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Hoa Kỳ và các châu rằng : Bây giờ tôi làm phần việc kế hoạch của giáo hội mà họ gọi tôi là “ tên đầu sỏ”. Dạ thưa quý ngài, quý vị, đài phát thanh nào hay gọi tên đầu sỏ. Có một vị nói lớn lên (trong hàng ngũ chư tăng): Cộng sản. Vậy thì tôi nói CS đang đặt bảng danh dự cho tôi. Do đó chúng ta nhìn thấy những biến cố hiện trạng của PG đang bị như thế nào.

Ngoài cái tổ chức ấy ra chúng ta nhìn thấy: tổ chức thứ hai là Thân hữu Già Lam và tổ chức thứ ba là Về Nguồn. Già Lam là tên một ngôi chùa, ngài trụ trì ở đó là Đại lão HT Thích Trí Thủ. Ngài rất thương tôi và tôi rất kính trọng ngài. Ngài là vị sư mà tôi làm việc bên cạnh nhiều nhất trong đời sống tu hành của tôi.

Chúng tôi đã là người đi tìm đất để làm chùa Già Lam, từng ủng hộ chùa Già Lam ... Nhưng tổ chức Thân Hữu Già Lam thì chỉ mới được kết hợp và thành lập bởi một số ít cựu học Tăng hiện đang sống ở hải ngoại. Và tổ chức thứ ba là Về Nguồn mới họp sơ bộ vài lần bán chính thức thì Giáo Chỉ số 9 ra đời và Về Nguồn đã chính thức ra mắt sau Giáo chỉ số 9 chỉ chừng hơn tuần lễ. Cả ba tổ chức Tăng Ni hải ngoại, Thân hữu Già Lam và Về Nguồn đều có khuynh hướng giống nhau là đứng ngoài GHPGVNTN và ngoài sự lãnh đạo của Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo. Thế nên thành viên của ba tổ chức này đã không khâm tuân Giáo Chỉ số 9 và không tham dự Đại Hội Bất Thường vào tháng 10 năm 2007 tại chùa Bửu Môn để hoán chuyển và bổ sung các chức vụ của GHPGVNTN ngõ hầu cứu nguy cho Giáo Hội. Hơn nữa chúng tôi vẫn tin rằng “Gia bần tri hiếu tử!...” nhưng đã thất vọng vì thấy có những người bạn lâu đời, giờ lại ly khai Giáo Hội. Đây là điểm càng trở nên nghịch lý, là bởi vì GHPGVNTN từ Ngài Đại lão Hoà Thương Thích Tịnh Khiết cho đến suốt bốn đời các Đức Tăng Thống, có biết bao nhiêu các vị Hòa thượng, Thượng Tọa, Đại đức, Tăng ni đã hy sinh và biết bao nhiêu thánh tử đạo đã tự thiêu mới thành lập nên GHPGVNTN thoát ra được dụ số 10. Ba tổ chức này đã làm méo mó tất cả, nên tôi gọi là nghịch lý.

Ba tổ chức hải ngoại và năm biến cố trong nước đều nhằm xóa sổ GHPGVNTN, mà nếu họ không làm được thì biến nó thành một GHPGVNTN có tính cách như giáo hội nhà nước thứ nhì hoàn toàn do đảng CS kiểm soát.

Qua Giáo Chỉ số 9, Đức Đệ Tứ Tăng Thống đã chỉ định Văn Phòng II trong trường hợp khẩn cấp ... có toàn quyền điều hợp cả trong lẫn ngoài, không những các GHPGVNTN trên toàn thế giới mà luôn cả trong nước nữa.

Kính thưa quý ngài, thưa quý liệt vị và anh chị em,

Trước hương linh của Đức cố Tăng thống và trước sự linh thiêng của lá cờ Phật Giáo thế giới, tôi tuyên bố rằng, nếu không có giáo chỉ số 9 thì GHPGVNTN đã tan nát hết rồi, không còn như ngày hôm nay. Cho nên dù bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải bảo vệ GHPGVNTN. Riêng phần chúng tôi, trước khi có Giáo Chỉ số 9, tôi đã làm Phó Chủ Tịch Văn Phòng II, nhưng sau khi có Giáo Chỉ số 9 tôi cũng chỉ là 1 Tổng Ủy viên thôi. Nói thế để trả lời cho sự xuyên tạc rằng Quý Thầy trong Văn Phòng II muốn “có thêm chức vị”.

Chúng tôi vừa trình bày về Đức Giáo Chủ, Đặc tính Giáo Lý và hiện tình Giáo Hội, xin phép được kết luận:

Kính thưa Quý Ngài, quý vị và anh chị em,

GHPGVNTN được thành lập từ năm 1964, nhưng sự thành hình từ các danh hiệu cho đến mọi phiên họp của Đại hội đã được Chư vị Tôn Túc dự trù từ ngày 31/12/1963. Năm ấy tôi 29 tuổi đã được Quý Ngài và Quý Đại biểu chọn là một vị sư trẻ nhất (trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo) để làm chủ toạ tiền hội nghị, thành lập GHPGVNTN. Từ đó cho đến nay tôi chỉ xin một điều là nếu có sự chia rẽ nào, bị ảnh hưởng bên ngoài, thì chúng ta trong Phật giáo phải bao dung nhau; tay phải mà đánh tay trái hay tay trái mà cố tình đánh tay phải thì chúng ta bị thương chứ không phải riêng cánh tay bị thương. Cho nên người phật giáo phải yêu thương nhau và kính trọng nhau.

Tôi xin cảm ơn quý ngài và quý vị và anh chị em. Xin phép hồi hướng công đức.


Thi lão Hà Thương Nhân xin và đạo Công Giáo

    “Tôi xin vào đạo Công Giáo là vì đây là đạo làm cho tôi được sống lâu, sống mãi và sống lại”
Ban Nguyet San YDAN
Phat hanh o San Jose, CA va Denver, CO
ydannews@sbcglobal.net


San Jose (Ý Dân – ảnh Võ Thành Văn): Trong lúc giáo hội Công Giáo Việt Nam tại quê nhà, đặc biệt là các tu sĩ và giáo dân của xứ đạo Tam Tòa thuộc giáo phận Vinh đang bị nhà cầm quyền CSVN bách hại tàn nhẫn,thì tại Hoa Kỳ, thi lão Hà Thượng Nhân, 95 tuổi xin được rữa tội để vào đạo Công Giáo.

“Tôi xin vào đạo Công Giáo là vì đây là đạo
làm cho tôi được sống lâu, sống mãi và sống lại”.
Hà Thượng Nhân
Có khoảng 100 quan khách đã đến tham dự lễ Rửa Tội cho cụ Hà Thượng Nhân tại nhà thờ St Victor, tọa lạc 3150 Sierra Rd, San Jose vào 7 giờ tối ngày thứ bảy 01-08-2009 vừa qua. Trong thành phần khách tham dự, chúng tôi nhận thấy có linh mục quyền chánh xứ Phan Quang Cương, linh mục Cao Phương Kỷ, sư huynh Phan Tuân, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, cựu thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình cùng phu nhân, cụ Mai văn Lựu, các ông Trần Phong Vũ, Trần Văn Cảo, Phạm Bá Cát, Đoàn Xuân Ngọc, Ngô Đức Diễm, Phạm Văn Hướng, Hoàng Ngọc Văn, Hàn Phong Cao, Đông Anh, Chinh Nguyên, Võ Thành Văn, Trần văn Minh, Lê văn Ý, các bà Ngọc Bích, Cao Thị Tình, Vũ Triều Nghi và về phía truyền thông có các nhà báo Vũ Bình Nghi, Nguyễn Vạn Bình và Trương Xuân Mẫn

Đến dự lễ Rửa Tội, cụ Hà Thượng Nhân được tháp tùng bởi cụ bà và các con, tuy sức khỏe còn suy kém, phải ngồi trên xe lăn, nhưng tinh thần của cụ rất minh mẫn, lộ vẻ vui vẻ và xúc động. Chủ lễ là linh mục Cao Phương Kỷ đến từ Nam Cali, là người đã hướng dẫn cho cụ hiểu biết về giáo lý của Công Giáo. Dịp nầy, linh mục Cao Phương Kỷ cũng đã ban phép Xức Dầu để được thêm sức mạnh về thể xác và ban phép Thêm Sức nhằm xin Chúa Thánh Thần ban hồng ân cho cụ Hà Thượng Nhân. Các vị đỡ đầu cho cụ trong phép rửa tội và Thêm Sức là cựu luật sư Phạm Văn Hướng và Giáo sư Ngô Đức Diễm. Cụ Hà Thượng Nhân đã chọn tên thánh cho mình là Phêrô và Phao Lồ. Buổi lễ Rửa Tội đã được kết thúc khi mọi người đồng ca bài “Lạy Mẹ là Ngôi Sao Sáng“ nhằm cầu xin Mẹ Maria ban ơn cho nước Việt Nam và đặc biệt cho cụ.

Sau nghi thức Rửa Tội, Xức Dầu và Thêm Sức tại nhà thờ, mọi người đã được mời xuống hội trường để dự buổi tiếp tân và chúc mừng cụ Hà Thượng Nhân.

Mở đầu, giáo sư Ngô Đức Diễm cho biết ông rất hân hạnh được làm người đỡ đầu cho cụ Hà Thượng Nhân, một thi sĩ lão thành tên tuổi được mọi người kính trọng trong làng văn học Việt Nam và được các thi hữu phong tặng là Hà Chưởng Môn. Giáo sư Diễm cho biết cụ Hà Thượng Nhân tên thật Phạm Xuân Ninh sinh năm 1914 tại Thanh Hóa. Cụ đã từng là giáo sư tại Đại Chủng Viện Dũng Lạc tại Hải Phòng, nay gia nhập vào đạo Công Giáo, cụ lấy tên thánh là Phêrô Dũng Lạc để nhớ lại kỷ niệm đáng nhớ nầy.
Hà Thượng Nhân
Vào Nam, cụ Hà Thượng Nhân nguyên là trung tá, phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến đã từng là chủ nhiệm tờ báo Tiền Tuyến và đóng góp bài vở cho nhiều báo tại quê nhà trước đây và hải ngoại hiện nay. Qua Mỹ năm 1991 theo diện H.O., cụ sinh sống tại San Jose cho đến nay. Theo giáo sư Diễm thì cụ Hà Thượng Nhân đã viết khoảng 10 ngàn bài thơ nhưng lại không in ra thành sách.

Thi sĩ Đông Anh cho biết cụ Hà Thượng Nhân trong tháng 7 vừa qua đã bị té nhiều lần và đã phải bị đưa vào bệnh viện cấp cứu. Cụ đã được bác sĩ may vá các vết thương ở trên đầu và sau đó đã phải bị đưa vào viện dưỡng lão. Nhưng sau ba ngày, thì cụ được bác sĩ cho về nhà để tịnh dưỡng. Nằm dưỡng bệnh tại gia, cụ được linh mục Cao Phương Kỷ hướng dẫn về giáo lý và cụ đã quyết định xin được vào đạo Công Giáo. Theo ông Đông Anh thì cụ Hà Thượng Nhân đã sáng tác hơn 10 ngàn bài thơ gồm bài ngắn 4 câu và bài dài 300 câu. Với hơn 100 ngàn câu thơ chứa đựng tình nhà, tình nước, tình bè bạn, tình yêu cho hết thảy mọi người. Nhưng theo thi sĩ Đông Anh thì tất cả tình yêu đó của cụ dù có gom lại cũng không bằng tình yêu của Thiên Chúa mà cụ Hà Thượng Nhân được nhận lãnh qua phép Rửa Tội ngày hôm nay.

Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, cho biết đã ông quen biết với cụ trong lúc cùng cụ phục vụ trong QLVNCH. Giáo sư Vinh cho rằng ông luôn luôn giữ thái độ kính trọng xem cụ Hà Thượng Nhân là bậc đàn anh của mình.

Trong phần phát biểu, cụ Hà Thượng Nhân cho biết trong suốt thời gian dài của cuộc đời mình, cụ đã cố đi tìm một tôn giáo nào để dạy cụ được có tinh thần bác ái, từ bi và thành con người tử tế. Cụ cho biết ngay cả người bạn đời của cụ là người Công Giáo trước đây cũng đã hiểu lầm là cụ chống lại đạo Công Giáo. Cụ cho biết lúc trẻ đi học trường đạo Công Giáo, mỗi khi đến giờ đọc kinh hay dạy giáo lý là cụ bỏ đi ra ngoài. Vào thời tổng thống Ngô Đình Diệm, cụ được tổng thống Diệm khuyên cụ hãy gia nhập đạo Công Giáo, cụ đã thẳng tay từ chối. Cụ đã trả lời rằng: Tôi theo đạo Công Giáo, không phải vì tổng thống là người Công Giáo, vì thế tôi không muốn bị mang tiếng là vào đạo Công Giáo để kiếm ăn. Cụ cho biết trong cuộc sống không tử tế mà muốn cho mình thành một con người tử tế, cụ đã mắc phải một cái tội là Kiêu Ngạo. Cụ cho biết trong những ngày tháng cuối của cuộc đời mình, cụ đã may mắn được Chúa mở rộng cánh tay đón nhận cụ vào giáo hội Công Giáo. Theo cụ thì lý do cụ xin vào đạo Công Giáo chính vì cụ đã khám phá ra rằng đạo Công Giáo là đạo làm cho cụ được sống lâu, sống mãi và sống lại. Được biết trong kinh thánh Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta là sự thật, Ta là sự sống. Ai theo ta sẽ được sống muôn đời”. Và chính sự Phục Sinh qua mầu nhiệm Chúa sống lại đã minh chứng sự kiện trên.

Qua phần phát biểu của các ông Phạm Văn Hướng kể lại sự việc mà ông được hân hạnh là người đỡ đầu tinh thần cho cụ. Bà Vũ Triều Nghi kể lại những kỷ niệm thân tình giữa cụ Hà Thượng Nhân và thân phụ của bà. Nữ sĩ Ngọc Bích cùng một số thi hữu trong các văn đàn đã đến chúc mừng cụ.

Nhà báo Nguyễn Vạn Bình dịp nầy cũng đã cho biết là ông rất vui khi biết cụ Hà Thượng Nhân, người bạn thân của thân phụ ông là cố nhà báo Nguyễn Vạn An đã được xuất viện và nay xin được rửa tội để gia nhập vào đạo Công Giáo. Theo nhà báo Nguyễn Vạn Bình thì qua lời phát biểu của cụ Hà Thượng Nhân cho rằng cụ có cái tội rất kiêu ngạo, thật ra đây chỉ là một sự tự trọng phải có của một con người muốn thành người tốt trong xã hội. Theo ông Bình thì việc cụ Hà Thượng Nhân xin vào đạo Công Giáo chính là vì cụ đã được một hồng ân đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho cụ mà không phải ai cũng được. Dịp nầy, ông Bình cũng đã nhắc đến nhạc phụ của ông là cố đại tá Mã Sanh Nhơn, vốn là người không thích đạo Công Giáo. Nhưng đến những ngày tháng cuối của cuộc đời, đại tá Mã Sanh Nhơn đã được nước suối Đức Mẹ Lộ Đức cứu sống từ sau những ngày bị hôn mê trong nhà thương và sau cùng khi ông tỉnh dậy, ông đã tin Chúa và Mẹ Maria và khẩn cầu xin được vào đạo Công Giáo.

Cựu thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình dịp nầy cũng đã gởi lời chúc mừng và cầu chúc cụ Hà Thượng Nhân mau bình phục.

Sau đó, sư huynh Phan Tuân đã lên đọc lời cầu nguyện và buổi lễ đã được vào chấm dứt vào 9 giờ tối cùng ngày sau phần cắt bánh, dùng cơm và chụp hình lưu niệm.



Những giọt nước mắt cho MJ của thanh niên trong nước - Vũ Quốc Nam

Vũ Quốc Nam

Michael Jackson (MJ) hôm nay đã thành người thiên cổ. Người ca sĩ Mỹ da đen này nổi tiếng khắp hoàn cầu, nhưng lại đầy mặc cảm về gốc gác của mình. Cũng chính vì mặc cảm về mầu da nên MJ đã phải trải qua nhiều lần giải phẫu để biến đổi mầu da từ đen thành trắng,từ mũi to điển hình người da đen thành mũi nhỏ người da trắng. Vì thế, đã phải dùng thuốc giảm đau liên tục và có lẽ cũng vì thế mà dần dần đến mất ngủ và sau cùng thì lìa đời vì những hệ quả của thuốc, mà điều tra đang cố tìm cho ra. MJ nổi tiếng vì giọng hát, vì lời ca, hay vì giáng bộ nhẩy dẻo và cử chỉ dâm dật khi trình diễn, tay luôn luôn ôm bộ phận sinh dục của mình? Hay là vì cái quyết tâm vùng lên thành người da trắng cho kỳ được? Phải hỏi những người say mê ái mộ MJ thì mới rõ.

Dầu sao thì điều tạo suy nghĩ đối với người Việt nam là hình những thanh niên nam nữ khóc sướt mướt trước những bàn thờ tưởng niệm MJ dựng tạm ngoài đường ở trong nước. Có những kẻ để tang mặc áo thun đen. Có kẻ ôm ảnh MJ như ôm ảnh bố. Có kẻ nước mắt dàn dụa. Có kẻ sì sụp lễ lạy.

Những xúc động trước sự chấm dứt đột ngột của một cuộc đời ồn ào rực rỡ dưới ánh đèn sân khấu, trước một cái chết không chờ đợi, chẳng có gì lạ ở một xã hội vội vã không có nhiều cơ hội để mà rung động. Bởi vì trong hoàn cảnh đó con người thường dễ dàng xót xa trước những chuyện thương tâm dù nhỏ nhặt. Thí dụ như khóc một con chó nhỏ bị xe cán hay một con chim bị gẫy chân. Điều đáng nói là trên đất nước Việt Nam và trước mắt, hàng ngày, có vô số những thảm nạn và oan khiên như vậy hay hơn mà không thấy có ai để tâm. Đến độ có những bài viết trong nước phải dùng mấy chữ “vô tình vô cảm” để diễn tả cái thái độ này của những con người đang hụp lặn trong cái xã hội độc tài bị kìm kẹp nhưng tự do ghê gớm vì làm gì cũng được, trừ lãnh vực chính trị.

Có ai động tâm trước tình trạng những người mẹ lặng lẽ bán thân để lấy tiền nuôi con? Hay trước cảnh người chồng dẫn khách cho vợ bán dâm ngay tại nhà?

Người bố lặng lẽ cho con gái vị thành niên ăn mặc hở hang đón khách đầu ngõ? Ai là người nhỏ nước mắt khóc cho bà mẹ già bị con là kỹ sư làm giáo sư đại học, là thạc sĩ làm luật sư đấm đánh túi bụi mình đầy thương tích? Những tin loại này đầy rẫy trên các báo đảng và nhà nước kiểm soát. Thế nhưng lại có những hạng choai choai khóc một MJ ở một xứ sở xa xăm. Tại sao có hiện tượng này? Phải chăng đó là kết quả chính sách giáo dục thi hành khẩu hiệu “trồng người trăm năm” mà cáo Hồ của những người CS ra công thúc giục? Phải chăng đó là kết quả nhắc nhở thường trực cũng của Hồ chí Minh là phải xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa?

Công bình mà nói, con người mới xã hội chủ nghĩa thời toàn trị không nhảy múa kiểu MJ mà là nhẩy hoà bình liên hoan dưới điệu nhạc Tầu, sau khi đã tố khổ giết chết những người mà các đội cải cách ruộng đất cho là kẻ thù của giai cấp công nông. Những con người hôm nay khóc MJ được lên báo đảng và nhà nước là những con người xã hội chủ nghĩa sau khi đổi mới sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cho rõ thì nó là kinh tế tiêu thụ và hưởng lạc nhanh, ồn ào, dồn dập để bão hoà cảm giác, theo văn hoá Hollywood.

Sự cẩu hợp của hai loại văn hoá tư bản Cộng sản này do đảng và nhà nước CSVN biến thái bảo trợ đã tạo nên một hạng người sống như những khán giả trước màn ảnh cuộc đời. Chỉ kích thích bởi những gì hấp dẫn, ồn ào, rực rỡ, mà nhắm mắt trước những khổ nạn xung quanh mà chính đương sự thường ngày hụp lặn trong đó nên trở thành quen: Như trường hợp những người dân oan ngày này qua tháng khác khiếu kiện lề đường, những ngư phủ bị lính Tầu bắn giết bắt bớ trên biển, hay ngay cả những đồng bào bị công nhân Tầu ngang nhiên đánh đập trên đường phố mà nhà nước lặng im.

Vũ Quốc Nam

Người Xưa Đâu - Võ Thị Vui

Mũ Ðỏ Võ Thị Vui
(Những ngày đầu xa tổ quốc)

(Bài viết dưới đây của Chiến Hữu Võ Thị Vui được ghi chép thời chị Vui còn mạnh khỏe, thời mà đôi mắt chị còn tinh anh, nay thì chị đã ra người thiên cổ; mời bạn đọc theo dõi bài viết với tấm lòng của chị với nghiệp lính và nghề văn đã một thời dấn thân cho quê hương đất nước và dân tộc).

Mũ Đỏ Võ Thị Vui
Sau hơn hai mươi mấy năm tại xứ người lưu lạc, người quân nhân của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa xưa. Những người lính một thời mang quân phục, cầm súng giữ quê hương, ngày nay đã ra thân lữ thứ. Thỉnh thoảng có gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, nhưng khi chia tay nụ cười sao thấy ngậm ngùi. Từ kẻ ra đi năm 1975 cho đến người mới sang sau hàng chục năm bị tù đày, tâm trạng dễ giống nhau và vẫn thấy lạc lõng, thấy bơ vơ. Có chăng khi mặc lại bộ quân phục xưa trong các dịp lễ hoặc hội họp của Quân Ðội. Ta mới thấy nụ cười thực sự nở trên môi các người lính cũ đã từng tung hoành ngang dọc trên mọi chiến trường của bốn Vùng Chiến Thuật. Với nhiệm vụ người dân trong thời chiến, giữ vững an bình trên mọi nẻo đường đất nước.

Trong một buổi họp mặt của binh chủng bạn, tôi đã gặp lại một cấp chỉ huy xưa. Ông là một danh tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sang đây, thỉnh thoảng gặp lại, ông luôn luôn niềm nở thân mật, hỏi han như lúc xưa. Lúc ông còn là Tư Lệnh Sư Ðoàn TQLC của QLVNCH. Một Sư Ðoàn thiện chiến mà lũ Việt Cộng nghe đến đã co cẳng chạy lẹ. Ông gặp tôi cười và nói:

- Bà đã viết nhiều về đời lính của bạn bè, đồng ngũ thuộc các quân binh chủng, bà cũng đã viết về các Nữ Quân Nhân. Vậy tại sao bà không viết về các Nữ Thiên Thần Mũ Ðỏ. Tôi biết Nữ Quân Nhân thuộc QLVNCH không ít, nhưng với binh chủng Nhảy Dù chắc chỉ đếm trên đầu ngón tay, tại sao không viết?
- Trình Trung Tướng, các chị có Bằng Dù trong Sư Ðoàn Dù, thật ra cũng không nhiều. Ða số chuyện xảy ra trong đời người Nữ Quân Nhân Nhảy Dù toàn là chuyện cá nhân. Cho nên không có gì để viết.
- Thì cứ xem như chuyện kỷ niệm của các cô gái… một thời in gót trên “không gian vương dấu giày” (thơ HHC).
- Thưa, tôi sẽ cố gắng…

Vừa chào vị chỉ huy xưa, tôi cũng gặp thêm một số chiến hữu khác, ai cũng khuyến khích tôi ghi lại những kỷ niệm xưa thời trong quân ngũ. Bạn bè còn nói thêm: “Bây giờ không viết, mai mốt chống gậy sức đâu mà viết”.

Viết gì đây? Tôi trả lời, thôi viết về lúc xưa các ông lén bà xã đi du dương với các em gái hậu phương được không.

Bạn bè la hoảng:
- Nè! Bộ muốn đốt nhà … bạn hữu sao?
- Ai biểu lúc đó các ông cứ ca “Anh tiền tuyến, em hậu phương” chi?
- Nhứt bà rồi đó. Thôi thì ghi lại chuyện tình của các Nữ Thiên Thần Mũ Ðỏ. Giữ kín quá, lâu lâu bật mí cho anh em, để bắt chước và để mừng… cho bà.

Thế là trong lúc cao hứng, lỡ hứa với người Chủ Nhiệm KBC. Cho nên đêm nay, trong căn nhà nhỏ quạnh hiu nơi góc núi, tôi để hồn trở về dĩ vãng …

Năm 1955. Lúc đó tôi đã đầu quân vào Quân Ðội. Trong một dịp khao quân, tôi đã gặp Ðại Tá Ðỗ Cao Trí, trong đêm tiệc khao quân chiến thắng Bình Xuyên, ông đã gợi ý cho chúng tôi gia nhập Binh Chủng Nhảy Dù và chính ông cổ võ chúng tôi làm đơn xin được học Nhảy Dù. Lúc ấy tuổi trẻ hăng say, 30 cô gái đã tình nguyện học Nhảy Dù, cũng là khóa I Nhảy Dù của Quân Ðội do chính các quân nhân Việt-Nam thực thụ huấn luyện.

Sau đợt tuyển chọn, chỉ có 9 cô thực sự được theo học Nhảy Dù, khóa II cũng chỉ có 6 cô được theo học. Nhưng trong lúc huấn luyện nhảy thi lấy bằng, một nữ phụ tá xuống dù bị gãy xương mông nên không có bằng. Thế Là QLVNCH từ năm 1955 đến năm 1966 chỉ có 14 cô thực sự có bằng. Nhưng đến năm 1960 thì hai trong 14 cô đã được theo học Nhảy Dù điều khiển, có bằng Huấn Luyện Viên Dù. Sau năm 1967 đến năm 1975, có khoảng 10 cô nữa có bằng Nhảy Dù. Lúc trước năm 1965, muốn có Bằng Dù bất luận nam nữ đều phải nhảy năm lần ban ngày và hai lần ban đêm. Sau năm 1967 thì chỉ cần bốn lần nhảy là được cấp Bằng Dù. Bởi vì nhu cầu chiến trường nên thời gian nhảy huấn luyện rút ngắn lại. Ða số quân nhân Dù mới đều thở dài nhẹ… nhỏm, và mỗi năm người quân nhân Dù phải có bốn Saut nhảy bồi dưỡng để có thể ăn lương Bằng Dù. Ðó là kể những quân nhân Dù. Còn các huấn Luyện Viên dĩ nhiên gấp 10 lần hơn, vì huấn luyện khóa nào cũng phải nhảy theo. Và trong đời lính Nhảy Dù của phái nữ có nhiều vui buồn lẫn lộn, dĩ nhiên là chuyện… đàn bà. Tôi ghi lại đây một số chị em có với tôi nhiều kinh nghiệm, nhiều kỷ niệm của người con gái mang danh là Nữ Thiên Thần Mũ Ðỏ.

1. Dương Thị Kim Thanh:

Chị là một cán sự y-tế ngoài đời, được phục vụ ngành Quân Y. Người miền sông Hương núi Ngự, nhưng giọng nói đã lai … Sài Gòn 50%. Chị tốt nghiệp khóa I Nhảy Dù với tôi. Cũng là một trong 9 cô Nữ Quân Nhân Nhảy Dù đầu tiên của QLVNCH. Lúc đó chị 25 tuổi, là người lớn tuổi nhất trong 9 cô. Chúng tôi xem chị như người chị cả. Hiền lành nhỏ nhẹ. Phục vụ rất tận tâm trong ngành Quân Y, tuy quân số thuộc Sư Ðoàn Nhảy Dù (lúc đó là Lữ Ðoàn Nhảy Dù). Nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Lúc ấy, 9 cô khóa I đều là độc thân (bắt buộc) nên chị là hoa khôi của Tổng Y Viện Cộng-Hòa nhờ vào chiếc Mũ Ðỏ và Bằng Dù chị mang trước ngực. (Thời đó Nữ Phụ Tá mỗi ngành đồng phục, đội mũ calos trên đầu. Chỉ có các cô gái có Bằng Dù, được Bộ TTM cho phép đội Mũ Ðỏ dù phục vụ ở đâu). Chị đã cùng chúng tôi đi nhảy biểu diễn khắp các nơi và trong một Saut đặc biệt, tình yêu đã nở trên không. Ðại Úy Trương Quang Ân, người đứng thủ khoa của Võ Bị Ðà Lạt (khóa 7, năm 1952) đã cùng chị thực hiện lời ước mơ. Ðám cưới kết thúc mối tình không gian. Chị đã có ba con. Sau này chị là phu nhân Tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Ông Bà đã tử nạn trong một tai nạn phi cơ trực thăng lúc đi thăm viếng tiền đồn. Ðể lại vành khăn tang trên đầu ba đứa bé, cùng một lúc mất cha lẫn mẹ. Ðêm nay ngồi đây viết đến dòng chữ này tôi đã không ngăn nổi hai dòng lệ chảy xuống thương cho ba cháu. Không biết bây giờ ra sao?

2. Nguyễn Thị Sang:

Chị cũng cùng khóa với tôi. Nhưng phục vụ ở Ðại đội Kỹ Thuật (Trung đội gấp dù). Chị người miền Nam cao lớn hiền lành vui tánh. Tuy lúc đó 19 tuổi mà chị như con nít, giận ai thì khóc lớn, phải dỗ và năn nỉ gần chết mới chịu. Khi nghe hứa đền cho cái bánh thì cười ngay. Có một lần đi nhảy biểu diễn ở Ban Mê Thuột, nhân dịp hội chợ. Có Tổng Thống Ngô Ðình Diệm chủ tọa. Sau khi nhảy xong, chúng tôi trở về, đề nghị Trung Úy hướng dẫn đi xem thác Drakling. Khi về chị xin ngừng xe một chút. Ông Trung Úy trưởng toán không chịu ngừng. Chị kêu lên nếu Trung Úy không ngừng xe thì … tui chết ông phải chịu … Có lẽ sợ trách nhiệm nên Trung Úy cho ngừng xe. Chị nhảy xuống chạy tuốt vào bìa rừng … Năm phút sau, chị hớn hở chạy ra, tươi tỉnh không cần nhìn đến nét mặt cau có của Trung Úy trưởng toán. Lên xe xong, chị nói tỉnh bơ … “Ai cũng vậy, vua chúa cũng làm dzậy mà. Có dzô thì phải … có ra chứ”. Lúc đó mọi người mới biết là chị đi thi hành cái khoái thứ … tư.

Sau này, chị xin giải ngũ lý do “Má kêu về lấy… chồng”. Cho dù ông Trung Úy Trung đội trưởng gấp dù là người nổi danh khó tánh, cũng phải hi câu chấp thuận, mới chuyển đơn lên Ðại đội trưởng Kỹ thuật (Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sau nầy). Nghe đâu vì sanh khó, nên chị đã từ trần. Nữ Thiên Thần thứ hai đã ra đi, để bạn bè đồng đội ngậm ngùi cho thân phận đàn bà.

3. Nguyễn Thị Thọ:

Chị cũng phục vụ trong TÐGÐ, người Hà Nội. Vào Nam cha mẹ mất chỉ có hai chị em. Chị rất vui tánh, thực thà, một mình thay cha mẹ nuôi em nên người. Chị có nhiều Saut Dù vì tình nguyện cùng chúng tôi đi nhảy biểu diễn khắp nơi. Lúc nào chị cũng thực thà nói với tôi là chị rất yêu thích miền Nam vì tính tình cởi mở, không khách sáo và trù phú dễ làm ăn, không khó khăn như ngoài Bắc quê chị nghèo nàn.

Sau này chị kết duyên với một Huấn Luyện Viên Dù Cao Ðăng Huynh, một trong những huấn luyện viên nhiều Saut Dù nhất. Vì đông con nên chị đã giải ngũ. Thế là khóa I không còn lại mấy người. Hiện gia đình chị bình yên ở Việt-Nam. Các cháu đều lớn cả.

4. Nguyễn Thị Liên:

Chúng tôi cùng chung một khóa học Dù, tuy là hai ngành khác nhau. Nhưng chúng tôi kết bạn xem như “Tình Bắc Duyên Nam”. Chị cũng là con gái Hà Nội, xinh xắn hiền lành, có hai răng thỏ rất có duyên. Sau này chị kết hôn với một sĩ quan Dù, nên giải ngũ ở nhà lo làm vợ hiền. Nhưng sau, Trung Tá Nguyễn Văn Thạnh bị Việt Cộng phục kích chết tại Vùng IV Chiến Thuật. Chị thay chồng nuôi đàn con dại. Không biết hiện giờ chị ở đâu? Tiểu bang nào?

Còn nữa. Trong 9 cô Nhảy Dù được mệnh danh là Nữ Thiên Thần Mũ Ðỏ còn có Khánh, Hương, Hoa (một chị nữa tôi quên tên) đã có Bằng Dù nhưng giải ngũ rất sớm. Hiện tại không biết lưu lạc phương nào. Các chị có ra đi hay còn ở lại?

Và từ khóa II thì có:

5. Ngô Bích Lộc:

Người con gái sinh trưởng tại Thủ đô Hà-Nội. Chính gốc tiểu thư Bắc Hà, dáng gầy cao, nhìn bề ngoài giống con trai nhiều hơn gái. Nó rất tinh nghịch, nhưng mỗi lần đứng trước của phi cơ chờ nhảy chỉ cần nghe tiếng của Huấn Luyện Viên nói “Go!” là phóng ra. Nó còn nhìn lại tôi nháy mắt, hẹn sau Saut Dù phóng ra Hóc Môn ăn bì bún, cái món miền Nam nó mê nhất. Tuy là đầm Tây nhưng lại Việt-Nam hơn cả các bạn Việt-Nam. Xếp của chúng tôi lúc bấy giờ là Trung Úy Nguyễn Ngọc Hạnh (Trung Tá Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh) thường hay bắt chúng tôi ra làm “người mẫu” cho ông chụp. Lúc nào nó cũng nói thầm với tôi rằng: “Khiếp thật! Tao mà ế chồng cũng vì làm người mẫu cho Lão này, mày ạ …”. Tuy thế, nó vẫn có nhiều người xin bàn tay. Nó lại dân Tây cho nên rất tự nhiên trong sự giao thiệp. Cái điều kỵ nhất của các bà xếp chỉ huy, lúc bấy giờ các bà lúc nào cũng muốn nhân viên của mình e ấp … tiểu thư. Bích Lộc chúa ghét lối giả tạo, tôi bắt chước theo. Cho nên hai chúng tôi được các bà chỉ huy liệt vào hạng “ba gai”.

Sau này nó bực mình không chịu ở Quân Ðội, xin giải ngũ, ra làm phóng viên cho hãng Reuter, tiếng Anh như gió, nó sang Mỹ làm việc sớm lắm. Sau 1975, nó mở một nhà hàng trên D.C. Khách hàng của nó từ ông Tổng Thống đến các Bộ Trưởng, nhân viên ngoại giao, Thượng nghị sĩ, Dân Biểu đều đến nhà hàng của nó. Nhà hàng nổi tiếng ngon, khung cảnh đẹp. Lúc tôi sang D.C. tham dự 50 năm kỷ niệm Nhảy Dù của Quân Ðội Mỹ. Nhìn nó tiếp đãi quan khách ở nhà hàng, tôi thấy nó quyết định giải ngũ sớm là đúng.

Thỉnh thoảng hai đứa gặp nhau qua phone cho dù đôi bạn lúc xưa, bây giờ có hai thứ tóc, đều làm chức … Bà cả rồi … Mà vẫn mày mày, tao tao như 40 năm về trước, gặp nhau đều khen nhau đẹp … lão.

6. Trần Xuân Lan:

Sinh trưởng ở miền Hậu Giang, tánh thực thà. Người nhỏ con nên khi mặc bộ đồ Dù, đứng trong hàng chờ điểm danh lên phi cơ chúng tôi đều cho nó lên hàng đầu, vì sợ Huấn Luyện Viên Dù bỏ sót nó. Xuống dù luôn luôn nó xuống sau, dù là nhảy trước. Nó đủ điểm nặng chứ không dư ký thịt da nào. Chúng tôi hay chế nhạo nó đi nhảy phải đeo thêm đá. Nó giận lên mét cấp trên. Làm chúng tôi bị rầy. Tuy thế mà người chỉ huy khi nghe nó khiếu nại cũng phải nở nụ cười kín đáo.

Sau lần dang dở tình yêu với một sĩ quan Mũ Ðỏ nó thề không lấy chồng nữa. Nghe đâu hiện nay nó về quê ở Sa Ðéc làm nghề y tá … vườn rất khá. Không biết có lúc nào nó nhớ lại lúc còn áo hoa Mũ Ðỏ hay không?

7. Bùi Ngọc Thúy:

Cũng sinh đẻ tại Bắc Việt. Nhưng quê nó ở Nam Ðịnh (?) được tính thật thà. Bị bạn bè hay chế nó là “Hăng Rô”. Nó không biết, hỏi tôi rằng: “Tại sao chúng nó gọi tao tên … Tây vậy hở?”. Tôi cười đáp ngay là miền Nam hay nói lái. Hăng Rô … tức là “Thưa cô rằng. Ngược là … Răng cô … thừa …”. Vỡ lẽ ra, nó kêu tên tam đại tụi bạn ra chửi. Ðược thể tụi bạn còn chọc thêm. Tuy xin tình nguyện đi Nhảy Dù nhưng nó sợ lắm. Bao nhiêu lần định bỏ dở, nhờ tôi khuyến khích. Có lần được lệnh đi nhảy ở Bình Ðịnh, tôi dặn nó: “Năm giờ có lệnh tập họp. Mày nên để đồng hồ reo chứ không thì ngủ quên”. Nó hứa chắc.

Saut dù biểu diễn đó, nó không có mặt lúc lên phi cơ. Hôm sau nó trình diện người chỉ huy, với khuôn mặt bầm một bên má, cánh tay thì băng bó, có giấy bác sĩ cho nghỉ ba ngày. Tôi hỏi nó tại sao?. Nó mắng tôi: “Ðồ ranh con. Ông nghe lời mày nên ông không đi nhảy biểu diễn được”. Tôi ngạc nhiên nhìn nó dò hỏi nguyên nhân. Nó bảo: “Tại mày dặn để đồng hồ reo. Khi nó reo tao đang nằm mơ. Tưởng tiếng chuông phi cơ cho lệnh GO nên tao nhảy ra. Từ trên giường hai tầng nhảy xuống mang theo cả màn mền, bị bầm mặt. May mà không gãy… răng là phúc ba đời rồi. Còn hỏi gì nữa? Ông không chửi mày là may cho mày lắm rồi. Còn làm bộ tử tế hỏi móc ông hả?”. Tôi thầm nghĩ: “Ðúng là đồ Bắc Kỳ chanh chua … Làm ơn mắc oán”. Nghĩ thế nhưng tôi không trả lời, hoặc nói ra ý nghĩ đó. Vì sợ nói tạc dzăn nổi giận thì tôi cũng được bác sĩ cho ba ngày … dưỡng thương.

Bây giờ, nó và gia đình định cư, an lạc tại xứ … Úc. Lâu lâu, nó gọi phone sang kêu: “Mày, mày chịu khó sang tao chơi. Tao đãi mày … Mít Ðặc”. Già rồi vẫn còn con nít và mái Tây Hiên của nó vẫn còn … chưa rụng.

8. Nguyễn Thị Thân:

Chị này lớn tuổi nhất của chúng tôi lúc bấy giờ. Chị cũng sinh trưởng ở Bắc Việt, người quê Phát Diệm. Chị góa chồng lúc còn ở Hà Nội, rất xinh đẹp, mắt bồ câu, da trứng gà. Người cao lớn như đầm. Nhưng chỉ giống đầm về nhan sắc và vóc dáng. Khi chị nói thì sặc thổ âm quê của chị. Ví dụ, chị hay lộn chữ D thành chữ R và ngược lại. Khi nhảy dù xuống bãi, thì lệnh bắt buộc cuốn dù lại cho vào bao và vừa chạy về địa điểm tập họp trình diện Sĩ quan Bãi nhảy. Vừa chạy vừa kêu to là “Nhảy Dù cố gắng”. Bất luận nam hay nữ đều phải theo lệnh này. Cho nên chị cũng không ngoại lệ … cứ vừa chạy … vừa la to “Nhảy.. Rzù… cố gắng. Nhảy… Rzù … cố gắng”. Tôi và Bích Lộc chạy theo sau cũng gào to “Nhảy .. Rzù … cố gắng. Nhảy … Rzù… cố gắng”. Chị quay lại mắng ngay “Nằm ký rì mà to mồm vậy …? Ðồ khỉ gió …”“khỉ gió” cứ ngoác mồm la “Nhảy … Rzù … cắn gố…” (cố gắng).

Chị là người cẩn thận, lúc đi nhảy chị băng độn hai đầu gối bằng băng cứu thương thật dầy. Chị nói rằng khỏi sợ bị trầy đầu gối khi xuống dù, mặc jupe không đẹp. Nhưng chị không nhớ là đầu gối không quan trọng bằng đầu, chân và mông khi xuống dù.

Sau này chị tái giá với một sĩ quan Dù, có thêm năm con. Hiện chị ở trên Washington State từ 1975.

9. Mai Thị Minh:

Nếu chị Thân là hoa khôi của Dù từ năm 1956 đến 1960, thì Mai Thị Minh là hoa khôi Dù từ năm 1962 đến 1975. Nó đúng là con gái Hà Nội chính cống. Nhà giàu, chính Trung Tướng Thiệu, Ðại Tướng Viên lúc còn trẻ ra Bắc cũng thuê nhà của nó mà ở. Sau di cư vào Nam, gia đình bẩn chật, nên nó vào Nữ Phụ Tá. Ðúng gái Hà Nội, đẹp và tiếng nói dịu dàng mọi người đều công nhận. Phục vụ tại bệnh viện Ðỗ Vinh của SÐND. Có một vài “bà bác sĩ” (có nghĩa là vợ của bác sĩ) thấy nó bèn ôm ghè tương, nếu hôm đó ông chồng trực tại bệnh viện. Thật tội cho nó vì nó không bao giờ trực đêm cả. Vì nó độc thân nên có nhiều anh hùng để mắt. Có lẽ vì tưng tiu, nó vẫn còn hình bóng của người anh hùng TQLC năm nào ngã gục trên chiến trường ở tận địa đầu giới tuyến, để lại vết thương lòng cho Nữ Thiên Thần Mũ Ðỏ tài sắc.

Hiện nay nó ngày ngày một gánh bún riêu dạo khắp xóm bán nuôi thân. Có ai ngờ người đàn bà lam lũ kia đã có một thời nổi tiếng Hoa Khôi Mũ Ðỏ giầy Saut, nón đỏ áo hoa đã làm một anh hùng nghiêng ngửa …

Còn nhiều nữa. Nào Nguyễn Thị Nguyên Hoành, Lữ Thị Tám. Nguyễn Thị Thịnh, Nguyễn Thị Hợi, Phan Cẩm Phi, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Ðào Thị Phùng, Võ Thị Vui. Những Nữ Thiên Thần Mũ Ðỏ của Quân Lực VNCH lúc xưa. Nay người ra thân lữ thứ, người còn lại quê hương với bao nỗi xót xa. Có lúc nào nhớ lại lúc xưa “không gian vương dấu giày” (HHC). Lúc còn đội chiếc Mũ Ðỏ, tung mình ra không trung mang lại hãnh diện cho con cháu Triệu Trưng. Nếu nhớ lại vô tình dòng lệ tiếc thương lặng lẽ chảy xuống khóc cho mình hay người Nữ Quân Nhân Dù khóc cho quê hương?

Mũ Ðỏ Võ Thị Vui

Đánh kẻ chạy lại? - Nam Hải

I. Cùng một tựa đề này, cách đây hơn mười năm, tôi đã đề cập đến câu chuyện rất ồn áo lúc bấy giờ là ”Có hay không có văn nghệ phản kháng ở trong nước”. Lúc ấy, tôi đã đưa ra một số bằng chứng về những bài viết của Trần mạnh Hảo, Dương Thu Hương …. Và cho rằng, chẳng làm gì có cái chuyện văn nghệ phản kháng với những cái tên tuổi như thế. Đây chẳng qua chỉ là một vụ dàn dựng thành câu chuyện của tập đoàn Việt cộng để nhằm hai mục đích:

*. Làm phân hoá hàng ngũ văn nghệ sỹ cũng như khối người quốc gia tại Hải ngoại.

*. Vờ cởi trói văn nghệ để mở ra một vụ trăm hoa khác ở trong nưóc theo kiểu trăm hoa đua nở ở miền bắc vào năm 1958.

Bạn đọc còn nhó chứ, vào thời gian ấy, trước từ đổi mới của Gobachev, đám đoàn đảng Việt cộng rơi vào hoang mang, bấn loạn, chẳng biết phận mình sẽ ra sao. Muốn đổi mới theo Nga thì sợ Trung cộng bóp cổ (vì chúng ở xát bên cạnh). Muốn bon chen theo chân tây phương để được mở mắt ra nhìn xem đế quốc Mỹ nó to nhớn như thế nảo thì sợ đeo mo vì đồng bào Việt tại hải ngoại đã chiếm mất vị thế chính nghĩa ở ngoài nước. Đã thế, sẽ … chết với người dân ở trong nước vì cái chiêu bài “đánh Mỹ cứu nước” hôm nào còn rất nóng. Tệ hơn thế, cũng vì cái chiêu bài ấy mà không biết bao nhiêu là người dân Việt trên cả hai miền đã chết một cách oan khiên. Nay xin thần phục Mỹ thì …. trả lời làm sao? Nhưng nếu không tìm được cái lỗ thoát thì cái đoàn đảng của chúng còn chết nhanh hơn. Cuối cùng vì túng kế, Nguyễn văn Linh liều há mồm cho từ đổi mới chui ra rồi muốn đến đâu thì đến.

Tuy thế, cái từ đổi mới ấy không được nhiều người đón nhận. Bởi lẽ, ai cũng biết nó không tự nhiên, thật lòng, nhưng được tính toán, và riêng đám văn nghệ văn gừng viết mướn theo lệnh đảng thì được học tập rất kỷ lưỡng về cởi trói rồi trói lại. Kế đến, kinh nghiệm của bài học “Trăm Hoa” năm nào mà những Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn hữu Đang, Phùng Cung vì lý tưởng nhân bản đã bị biến thành những nạn nhân của trò chơi trăm hoa rồi thành thân tàn ma dại. Cho đến khi nhắm mắt lìa đời, họ chẵng bao giờ nhìn thấy hoa nở. Trái lại, chỉ có cửa địa ngục mở ra mà thôi. Nên ngoài một số tên làm cò mồi như Hảo, Hương … chạy cờ cho kế hoạch này, chẳng có ai bị rơi vào cái bẫy cởi trói của Việt cộng ở trong nước. Theo đó cuộc “phản kháng” rất mau tàn. Riêng kẻ chạy cờ thì được chút bổng lộc!

Trong khi đò, vì dễ tin, (cái bệnh của con người nhân bản là vậy), người Việt Hải ngoại (nói đúng ra thì chỉ có những ông bà văn nghệ văn gừng hay chính trị chính em), là trúng kế phản kháng của Việt cộng thôi, chứ đại đa số người dân thì đi cày kiếm cơm áo đã dài người ra, thêm cái vụ “giải phóng” phải chạy vắt dò lên cổ hôm nào, nên cứ trông thấy Vẹm là như nom thấy thần chết và cho đến chết cũng sẽ không bao giờ rơi vào kế của chúng, chứ nói chi đến việc mất thời giờ để bàn về cái chuyện “phản kháng văn nghệ” như ruồi bu ấy.

Đã thế, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu vẫn còn để lại một di chúc quý giá cho mọi người: "Đừng có nghe những gì thằng cộng sản nói, nhưng hãy nhìn kỹ những gì chúng làm". Khi nói toạc ra như thế sẽ có người giận, nhưng sự thật của tập thể đồng bào là thế, không nói ra thì sẽ có lỗi vời những ngưòi đi sau. Rồi ông này bảo có, bà kia bảo không, hai bên bênh, chống, choảng nhau đến vỡ đầu xé tai ra vì cái đòn “phản kháng” gỉa của Việt cộng. Kết qủa, bọn gian ác ở Hà Nội từ Nguyễn văn Linh, Phạm Hùng đến râu rìa của chúng, cũng như chính những cái tên mà báo chí ở hải ngoại ra rả vẽ vời thêm chân là những nhà phản kháng kia phải một phen cười đến vỡ bụng. Trong lúc ta lại thành nhiều phe, giận dỗi nhau! Rõ chán!

Nay thì chuyện “văn nghệ phản kháng” đã rõ trắng đen rồi. Chắc không còn ai muốn nhắc đến cái chuyện phản kháng của công an văn hóa Trần Mạnh Hảo và cán bộ địch vận Dương thu Hương như là những “văn nghệ sỹ phản kháng“ nữa? Chắc không còn ai ca tụng bọn ăn cháo đá bát, đã lợi dụng tình thương, lòng thương xót của đồng bào, rồi trả ơn bằng “đỉnh cao chói lọi” hay hậu “ly thân” nữa nhỉ? Nhưng có lẽ tích cực hơn, người Việt Nam ta đã nhận ra những bộ mặt trong hàng ngũ cán cộng chuyên nghề đi lừa gạt lòng lương thiện của đồng bào ta rồi? Và hơn thế, họ còn biết rằng, nhờ đồng bào mà chúng bán được mớ sách, kiếm đựợc tý danh hoặc kiếm được một chỗ sống tốt hơn, là chúng trở lại nguyên hình của loài mà Kark Mark, ông tổ của loài bất nhân cộng sản này đã định nghĩa trước về chúng rằng: “chỉ có những loài thú mới ngoảnh mặt trước những nỗi bất hạnh của đồng loại”.

Khi viết ra chuyện này, tôi biết có nhiều người không muốn nghe lại, nhưng sự thật của đa số thầm lặng nghĩ như thế. Họ buồn lắm, họ có khi nào đi vỗ tay hoan hô những Tín, Hương, Hảo mà không hảo, để ngày nay họ “được” trả ơn bằng cái tát từ “đỉnh cao chói lọi” đâu? Họ bị “trả ơn” như thế vừa bất công mà cũng là một sự trả ơn bất nhân bất nghĩa nữa!

Tôi gọi đây là sự “trả ơn” bất nhân bất nghĩa của tác gỉa đối với đồng bào tỵ nạn cộng sản nói riêng, và đồng bào nói chung, là vì, có ai nhờ đồng bào để được chạy ra ngoại quốc sinh sống rồi quay ra trả ơn bằng cách ca tụng tội ác của kẻ, là nguyên nhân đẩy đồng bào phải xa quê hương của mình không? Có ai nhận ơn và trả ơn bằng cách quay lại sỉ nhục tập thể đã làm ơn cho mình không? Tôi tin là không có ai. Nhưng thực tế lại có. Thề thì cái có ấy phải thuộc thành phần bất nhân bất nghĩa mời làm đưọc. Trước kia thì Hồ đã làm thế với cụ Phan bội Châu và bây giờ đến lượt Dương thu Hương đối với đồng bào mình.

Hay y thị cho răng y thị không mắc nợ người tỵ nạn? Nếu y thị không nhờ đến đồng bào tỵ nạn, thì ai làm cho cái phản kháng cuội kia thành lớn và cái tên của y thị nổi lềnh bềnh lên trên mặt ao tù? Và nhờ đâu mà Việt cộng lợi dụng y thị thành con cờ “tự do” phản kháng để đẩy y thị đi đây đi đó để làm cuộc tuyên truyền, rồi giúp vốn cho y thị đi tỵ nạn? Y thị tự có cái tài lớn như thế hay sao? Há thị không biết rằng sách của y thị đã bao gồm được hầu như trọn vẹn những từ ngữ dâm ô, tục tĩu, dơ bẩn, không phẩm hạnh, làm cho người đọc có nhân bản phải lợm giọng hay sao? Rồi nếu y thị bảo mình không là con cờ, không là cán bộ văn hóa địch vận của cộng thì hãy nhìn cung cách phản kháng và nhìn cách đối xử của Việt cộng với những người tài trí, tâm đức hơn y thị cả ngàn bậc như Lê thị Cộng Nhân, Nguyễn văn Đài và mới đây là Lê Công Định thì sẽ có câu trả lời chính xác về vai trò của “phản kháng” của y thị.

Đó là nhìn từ phía ta, tuy nhiên, y thị chắc cũng có đủ ngôn từ để biện luận cho một công tác khổ nhục kế, để lừa dối lòng lương thiện của con người nhân bản chú? Dĩ nhiên rối, công ấy là công đầu cứu đảng mà. Bởi lẽ, xưa nay, Việt cộng đã tối mày tốì mặt vì những sách báo vạch ra những tội ác đáng ghê tởm của Hồ chí Minh và đồng bọn. Chúng muốn kiếm một vài tay lót đường, nhưng kiếm không ra. Nay “tự nhiên” có được một mụ từng đóng vai “phản kháng” bị đi tù, rồi “ phải “tỵ nạn ra ngoại quốc, mà lại viết sách dày cả mấy trăm trang để ca tụng công đức của tội ác thì không phát huy chương sao được? Bời vì, nhờ cuốn sách ấy, lại gây ra hoang mang cho người ở hải ngoại. Biết đâu họ lo “choảng” nhau về cái “đỉnh chói loị” mà quên đi những tội ác chúng đang làm ở trong nước như vụ Hòang Sa, Trường Sa và Bauxite tây nguyên thì đảng và nhà nước không muốn mừng cũng phải mừng. Cái công cứu đảng ấy y thị muốn có mấy cái “mề đay” mà chẳng được? DTH viết:

“Trong hội nghị ấy, tuyệt đại đa số uỷ viên đứng về phía Ba Danh và Sáu, họ muốn có một vinh quang phương trượng hơn vinh quang của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ muốn có cuộc chiến tranh này. Đó là một đam mê, một đam mê bất khả kìm chế. Một cuộc tình định mệnh quyến rũ cả một dân tộc trong cơn cuồng si. Nỗi đam mê trở thành anh hùng còn hung dữ hơn nỗi đam mê nhục dục. Trong ngọn lửa thiêu đốt của dục vọng, không lý lẽ nào tồn tại”

Khá lắm! DTH đáng được huy chương sao vàng vì đã tự ý hay có chỉ đạo, đổ tội cho cái gọi là bộ chính trị VC làm mọi thứ chuyện để cứu Hồ, một cái phao duy nhất cho chúng bám vúi vào để bảo vệ quyền lợi của phe nhóm? Nhưng y thị có biết răng, viết như thế thì lại làm cho cái “đỉnh cao chói lọi” của DTH quá hèn và trở thành một hình nộm, bảo gì làm nấy! Việc này, theo anh bạn tôi bảo, viết thế là không công bằng, viết như thế là không rõ. Lý do, nếu Hồ chí Minh là một cái hình nộm thì chắc phải có văn nô, thi nô tầm cỡ hay ai kia làm nghề “cầm cần” cho Hồ chủ tịch “chơi” Nông Thị Xuân chứ? Hồ có tự làm chủ được mình đâu? Ở ngoài chả có ai hay biết chuyện này, hy vọng khi tái bản, tác gỉa ghi lại cụ thể vụ việc … nâng … đỡ cụ hồ thế nào để cho cuốn sách tăng thêm phần thuyết phục!

"Cô Xuân đã yêu anh Cả cũng vào thời gian ấy ... Mối tình oan nghiệt này bắt đầu vào mùa chiến dịch năm I953 ... năm 53( vào thời gian này Nông thị Xuân còn ở tuổi vị thành niên) ; chắc chắn là như vậy. Người ta bảo đấy là năm con Rắn, Quý Tỵ, con rắn xanh. ... " (trang 63)…

Khá đấy! Dụ dỗ, ăn ở với trẻ vị thành niên thì bị tội gì và kẻ dắt mối phạm tội gì? Không biết trong cái xã hội Việt cộng có vấn đề luân lý cấm “ăn ở” với trẻ vị thành niên hay không? Nếu có thì kẻ “ăn ở” với trẻ vị thành niên có bị đưa ra trưóc toà án hay không? Nếu đã có kẻ bị đưa ra toà án về tội này, thì Hồ chí Minh có được miễn thứ hay không? Hay có điều khoản nào cho hưởng ngoại lệ?

Sau đây tôi trích lại một phần bản tin về phiên xử của toà án ND Hà Nội. đăng ngày 26/06/2009, vnexpress/phápluật về loại tội tương tự như Hồ chí Minh:

“Dù ông Sinh (Cung? 72 tuổi) một mực không thừa nhận đã hiếp dâm, nhưng VKS khẳng định quá trình tố tụng của vụ án đã làm đúng quy định, không có chuyện bức cung ... Xét bị cáo là cán bộ có cống hiến, nhân thân tốt, là thương binh 3/4, lại có vấn đề về thần kinh đang phải điều trị tại bệnh viện, nên VKS đề nghị tòa tuyên mức án dưới khung hình phạt, chỉ là 7-9 năm tù. Cuối cùng, TAND Hà Nội tuyên phạt ông Sinh 9 năm tù về tội hiếp dâm trẻ em (nguồn VNexpress/pháp luật/26-6/2009)”

Có lẽ cái toà này đã nhầm khi đem ra xử vụ này chăng? Bỏi lẽ, trong “đỉnh cao chói lọi” DTH gọi loại quan hệ này là tình yêu. Kế đến, việc làm của ông Sinh, là cựu thương binh, là người đã đi theo Việt cộng, nên trong vụ án này, xét cho cùng, ông Sinh cũng chỉ là học tập và làm theo gương của “ bác hồ vĩ đại “ mà thôi. Đã thế, ông ta cũng chỉ làm lén mấy lần và không giết nạn nhân! Tại sao ông ta bị lôi ra trước tòa án Việt cộng vì học tập và làm theo bác, trong khi đó người làm gương là Hồ lại trở thành cha gìa của Việt cộng?. Lạ thật!

“Tôi biết cậu giận tôi lắm. Cậu chưa đến mức căm thù hay manh động đã là may. Bởi ai cũng biết cậu là người gắn bó nhất với ông cụ trong đời sống tình cảm. Rằng hồi ở chiến khu chính cậu đã sang bên thành đoàn để gặp gỡ cô Thanh Tú. Cũng chính cậu can thiệp để cô Minh Thu thôi vác chăn vác chiếu đến ngôi nhà sàn. Rồi cũng chính cậu dẫn cô Xuân đến nơi ấy. Rằng cậu là người duy nhất mà cô Xuân tin cậy và phó thác tổ chức cuộc đời. Rằng cậu cũng là người duy nhất mà ông cụ có thể nói mọi chuyện một cách không kiêng dè, không ý tứ (262)”

Tội nghiệp chưa? Người ta cứ tưởng Vũ đi làm cách mạng, và làm được nhiều chuyện kha khá, ai ngờ, Vũ (tức Vũ Kỳ), cha của Vũ thư Hiên dưới ngòi bút của DTH trở thành một tay dắt mối chuyên nghiệp!

Chỉ cần xét qua vài đoạn văn ngắn này, dù dưới bất cứ một lý luận nào, y thị không thể chối cải được việc làm tay sai, giết mướn nền văn hóa nhân bản của dân tộc Việt thay cho Việt cộng bằng một thứ ngôn ngữ không luân thường đạo lý. Về điểm này, Y thị xứng đáng là đồ đề ruột thịt của Tố Hữu trong vai “ thổi kèn” Hồ chí Minh. Khi Hồ hiếp dâm một em bé tuổi vị thành niên nhiều lần, hiếp đến mang bầu đẻ con, rồi giết chết em để bịt miệng, mà y thị lại ca tụng đó là một “đỉnh cao chói lọi” và là “cha gìa của Việt cộng”!, (tôi xác định, có thể y là cha già của Việt cộng thôi, chứ đối với nhân dân Việt Nam thì sẽ không bao giờ) thì người Việt Nam chúng tôi tưởng tượng không ra, hiểu không thấu cái triết lý và hoàn cảnh của Việt cộng được. Thế mới biết, tính cách của một “nhà văn nhớn” của Việt cộng chuyên nghề thổi kèn là thế đấy. Họ thiếu hẳn chữ lương thiện, nếu như không muốn nói là, họ không còn biết đến nhân luân, đạo lý, lễ nghĩa của loài người là gì nữa! Thật đáng ghê sợ.

Sợ vì, nếu khi còn là một đảng viên, sau này vì khổ nhục kế mà chấp nhận bị khai trừ, DTH không biết đến điều luân lý cơ bản của xã hội loài ngưởi cũng là lẽ thường. Nhưng khi sang Pháp sinh sống, y thị chắc đã mở mắt và phải biết rằng, trong xã hội nhân bản, có luật pháp người ta tôn trọng nhân phẩm con người ra sao, và cách riêng những người cầm bút trong tinh thần tự do sẽ có thái độ như thế nào? Chắc chắn không một ai bênh vực những tên cường đồ đạo tặc hiếp dâm trẻ vị thành niên. Nhưng DTH là khác người, y thị không làm theo khuôn mẫu Nhân Lễ, luân lý, đạo nghĩa của con người, mà lại đi ca tụng chuyện hãm hiếp trẻ vị thành niên của Hồ. Thế mới biết rằng, “trẻ ăn trộm gà, già ăn trộm trâu!” kẻ đã có đảng tính trong máu thì máu ấy khó đổi vì nhân tính không còn!

Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến vụ Trần Trường cũng như B40 của Paris by Night dạo nào. Tôi không cho những phản ứng cũa đồng bào là quá đáng, hay có ý bịt miệng, ngăn cấm những ngưòi ấy không được hành sử quyền tự do tư tưởng và ngôn luận của mình. Nhưng chỉ có ý bảo cho họ biết là họ làm không đúng chỗ, không đúng nơi mà thôi. Trường hợp họ không đến những nơi có đồng bào Việt Nam tỵ nạn cộng sản, hay đến những nơi không có người ghê tởm tội ác của Hồ chí Minh thì tha hồ họ muốn làm gì thì họ làm. Hoặc gỉa, họ cứ ở trong nước mà “yêu bác” bằng tay, bằng mồm ai cấm! DTH cũng vậy!

II. Ai cũng biết, người mình giàu nhân tính, sống vì cảm tính và dễ tin nguòi quá. Điều ấy thì có lợi cho tình cảm nhưng vào cuộc tranh đấu thì chúng ta đã bị lừa, đang bị lừa và sẽ còn bị lừa cho đến chết. Lạ thật, biết là kế lừa mà vẫn bị mắc lừa.

Những lúc gần đây, thỉnh thoảng có đôi ba bài báo chợ bảo rằng, vào lúc gần cuối đời ấy, Hồ đã không còn chỉ huy được ai, những chuyện gian ác kia là do đám Duẫn, Thọ đạo diễn cả. Mục đích của bài báo là gì nhỉ? Thả bong bóng, tìm cách chạy tội cho Hồ chí Minh chăng? Thế khi ra lệnh cho Phạm văn Đồng ký Công Hàm bán nước cho Tàu năm 1958, Hồ cũng bị bọn đàn em chỉ đạo hay sao? Rồi vụ đấu tố từ 1953-1958, cũng do người khác lãnh đạo cả, Hồ chẳng có trách nhiệm gì hết. Vụ sơi tái Nông thị Xuân rồi giết NTXuân cũng không do Hồ chí Minh chủ động à? Chẳng lẽ Hồ chí Minh là một tên mù sống trong thiên đường mù hay sao? Tin thế là nhẹ dạ qúa!

Cũng chưa hết, khi Võ văn Kiệt ngỏm theo Hồ, lại có người cho rằng y cũng vì dân vì nước mà đổi mới đấy. Y đổi mới chuyện gì vậy? Nếu Y có lòng với dân với nước thì tại sao Y không làm “đổi mới” khi có quyền hành trong tay, lại chờ đến khi sắp xuống lỗ, không còn tý quyền hành nào rồi mới vẽ vời ra cái chuyện hòa giải, hòa hợp. Mà nói cho ngay cái luận điệu, bỏ dĩ vãng, hòa giải của Y thì chỉ có về đầu hàng Việt cộng thôi, chứ làm gì có thảo luận về dân chủ, về đa nguyên. Hay y làm đổi mới vì từ một tên việt cộng trốn chui trốn nhủi ở trong rừng, cơm không đủ no., áo không đủ ấm, nhưng chỉ mấy năm làm “giải phóng”, y đã vơ vét của cải của nhân dân để cái trương mục của y dấu trong ngân hàng ở ngoại đã lên đến hơn một tỷ đô la Mỹ (theo báo chí có đang tải).

Nếu chỉ vin vào vài ba câu nói ngớ ngẩn của những tên Việt cộng đã hết thời mà bảo rằng chúng cũng vì dân vì nước, vì dân chủ, vì độc lập, vì tự do thì qúy vị cứ chờ đấy, sẽ còn nhiều dịp để mà viết thêm nhưng bài ca kế tiếp. Bởi lẽ, tất cả những tên Việt cộng hết thời, không còn quyền thế cũng sẽ ỡm ờ để đẩy chúng ta vào rọ cuối cùng trong kế sách lừa của chúng. Không có ngoại lệ. Bởi vì, bao lâu còn cộng sản, thì bấy lâu còn lừa dối. Tin chúng thì cứ đổ thóc giống ra mà ăn. Khốn nỗi vốn cũng không còn, lấy gì mà tin?

Nay lại đến chuyện của Nguyễn Hộ. Ai ở Sài Gòn vào sau ngày 30-04-1975 mà không nghe biết Nguyễn Hộ như một tên hung thần trong cái ủy “ban quanh quẩn thành phố” và đặc biệt trong ”tôn giáo vụ, mặt trận tổ quốc”. Hãy nghe tiếng nói tâm huyết tận đáy lòng Nguyễn Hộ đây thì quý vị sẽ hiểu được Nguyễn Hộ: “Đôi với bọn ngụy quân, ngụy quyền, nhà của chúng ta ở, vợ của chúng ta xài, con của chúng ta bắt làm nô lệ, còn bọn chúng nó ta giam cho đến chết”. Thử hỏi xem, có người miền nam nào thoát ra ngoài vòng kìm tỏa của “lý tưởng” cướp của giết người của lời phát biẻu ấy hay không? Theo đó, chỉ cần một câu nói mang tính vô đạo bât lương này, thì có hàng tấn sách sau khi bị thất sủng hắn viết ra để lên án cộng sản, mà không có hành động tích cực sửa sai, hối lỗi, xin lỗi thì cái con người ấy cũng là kẻ cần phải bỏ đi, chúng ta không nên nhắc đến làm gì nữa.

Tại sao tôi viết như thế. Xin thưa, Những sách vở ấy nếu có chống đảng cộng sản thì chỉ chống vi quyền lợi cá nhân, đã bị thất sủng, không còn được hưỏng những đặc quyền, đặc lợi như những kẻ khác mà thôi. Nó không hề mang ý nghĩa chống cộng nhằm hủy bỏ chế độ để trả lại Tự Do Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý lại cho người dân. Nó chẳng qua chỉ là những sảo ngôn hòng lừa dối người khác. Nó không hề mang theo tính hành động. Điều này thì đã chứng minh rõ ràng trong đời sống của ông ta cho đến khi chết. Ấy là chưa kể đến trường hợp hai mặt nạ, kế chạy tội khi cộng sản bị tan?

Kế đến, làm gì có loài cán cộng chân chính ở trên thế gian này như Nguyễn Hộ ảo tưởng. Chẳng lẽ đến bây giờ ông ta cũng không biết được là: Đã sinh ra và trở thành đảng viên cộng sản thì phải đạt hai tiêu chuẩn trong đảng tính là: Ngôn từ thì lừa dối, hành động thì vô đạo, bất nhân hay sao? Không có hai yếu tố cơ bản này không bao giờ trở thành đảng viên Việt cộng được. Điều này thì chính Nguyễn Khải, Trần Quốc Thuận cũng đã công khai nhìn nhận: “Ngày nay người ta phải lừa dối nhau mà sống … Nói dối lem lẻm, nói dối ở mọi nơi mọi chốn …. Và đó là đạo đức của cách mạng Việt cộng”.

Như thế làm gì có người chân chính đi theo cộng sản và đào ở đâu ra người cộng sản chân chính? (chân chính như Hồ chăng?) Sự chân chính ở đây chỉ cần mang ý nghĩa rất hạn hẹp là họ không sảo trá, lừa dối là được, chứ chưa cần phải nói đến phần tích cực của chân chính là có đạo đức làm ngùơi. Chẳng lẽ Nguyễn Hộ lại tự cho mình là cái hình mẫu của người cộng sản chân chính, yêu nước thương dân? Hay chân chính như lòi tuyên bố của Nguyễn Hộ khi có quyền hành, và rụt cổ khi bị thất sủng? Theo đó người ta sẽ tự hỏi rằng, may cho miền nam hay thêm bất hạnh cho miền nam khi Nguyễn Hộ nắm quyền. Chín phần mười là thêm bất hạnh, vì khi chưa lên ông ta đã tuyên bố “điều kiện ứng cử” như thế, khi tranh được quyền hành, con người ấy còn bất nhân biết mấy! Điều này là có cơ sở . Bởi vì, lòi cổ nhân xưa đã bảo: “Con người sắp chết nói câu nói thật” Nguyễn Hộ có biết nói lên một lời xin lỗi miền nam vì câu tuyên bố thập phần vô đạo, bất nhân kia không?

Theo đó, cộng sản đứng trong cái thế khác, nghĩ cách khác để nhìn cách khác và lừa gạt chúng ta. Niềm vui của cán cộng là tạo ra được những cuộc lừa dối lớn và cho đến chết, chúng cũng không từ bỏ cái thú tính này.

Tóm lại, tôi cứ thắc mắc mãi là: Tại sao chúng ta không tin đưọc nhau mà lại đi bám víu, tin vào những cái phao chìm, phao thối của Việt cộng đã loại bỏ đi. Những kẻ bị bỏ đi này lại có khả năng lãnh đạo dân ta và đất nước ta trong tương lai hay sao?

Tại sao chúng ta không nhìn đến những nhân vật trẻ như Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Lê Công Định … Dương Nguyệt Ánh, Lương xuân Việt, để quanh đó, chúng ta xây dựng một tương lai mới cho Việt Nam mà chỉ hoài phí sức, tốn công vào những việc như chính chúng đã cần phải bỏ đi?

Dĩ nhiên, việc xây dựng là phải tốn công, tốn của, mất thời gian. Thời gian không phải là vài ba tháng một đôi năm, nhưng có thể phải tính bằng con số 5 con số 10. Nhưng chúng ta vẫn có một chỗ đứng để đứng. Chúng ta có một hướng đi để đi, có một chương trình để hành động, có một tòa nhà để xây dựng, có một ước mơ để thành công, còn hơn là ngồi chờ sung rụng. Hoặc tệ hơn thế, nhặt sung rụng. Sung rụng ư? Hầu hết sung rụng là sung đã thối!

Nam Hải


ĐCS VN đang đồng lõa trước sự xâm lăng của Trung Cộng - Nguyễn Hiệp

Nguyễn Hiệp

Âm mưu thôn tính đất nước VN cũng như muốn đồng hoá dân tộc VN của Trung Hoa đã có từ bao ngàn năm trước. Cha ông của chúng ta đã bị người Trung Hoa đô hộ hơn một ngàn năm mà chúng ta hay gọị là một ngàn năm Bắc thuộc. Cũng may cho dân tộc chúng ta, thế hệ cha ông của chúng ta đã không chỉ đấu tranh bằng những tấm lòng nhiệt tình yêu nước mà thêm vào đó là ể chí sắt thép và lòng quật cường, dũng cảm mà dân tộc VN nam đã may mắn thoát ra khỏi sự đô hộ tàn ác và hà khắc của Trung Hoa. Biết bao tấm gương hy sinh dũng liệt, kiên cường yêu nước thà chết không bao giờ chịu khuất phục làm tôi mọi cho kẻ thù Bắc phương, biết bao cuộc khởi nghĩa long trờì lở đất làm cho đoàn quân xâm lược Trung Hoa phải kinh hoàng bỏ chạy thoát thân.

Tiếc thay cho dân tộc VN chúng ta ngày hôm nay, đất nước đang bị cai trị bởi một chính quyền độc tài, tham nhũng, hèn nhát và khiếp nhược trước kẻ xâm lăng là Trung Cộng. Một chính quyền chỉ lo đi đàn áp những người thế cô, những tấm lòng nhiệt tình yêu nước. Chính vì lẽ đó mà CSVN hiện nay không huy động được sức mạnh của toàn dân, người dân VN đã nhìn thấy rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của người CSVN, họ chỉ yêu ĐCS chứ họ không yêu nước, họ chỉ vì quyền lợị của cá nhân đảng phái chứ không phải vì quyền lợi của dân tộc. Đây chính là điểm yếu của ĐCS VN và Trung Cộng họ thừa biết điều đó cho nên hiện nay đang là thời điểm tốt nhất để Trung Cộng đưa VN từ từ lọt hẳn vào vòng quỹ đạo của bàn tay Trung Cộng, và bằng cách này hay cách khác từ từ thôn tính hoàn toàn đất nước VN. Họ muốn biến VN trở thành một hay nhiều tỉnh của Trung Quốc, tương tự như những vùng đất Tân Cương hay Tây Tạng mà họ đã chiếm lĩnh.

Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy được rằng cha ông chúng ta đã nhiều lần phải chịu sự đô hộ của người Trung Hoa qua nhiều thời kỳ khác nhau.
  • Thời kỳ thứ nhất: Từ năm 207 đến năm 111 trước tây lịch: Đây là thời kỳ nước Âu Lạc bị thôn tính bởi Triệu Đà.

  • Thời kỳ thứ hai: Từ năm 111 trước tây lịch đến năm 40 sau tây lịch : Đây là những năm nhà Tây Hán đặt nền đô hộ lên đất nước Giao Chỉ.

  • Thời kỳ thứ ba: Từ năm 43 đấn năm 544, hơn 500 năm nước ta bị lệ thuộc vào các vương triều Trung Quốc từ Đông Hán đến Nam Bắc Triều.

  • Thời kỳ thứ 4: Từ năm 603 đến năm 939, nước ta bị lệ thuộc và nhà Tùy và nhà Đường.

  • Thời kỳ thứ 5: Từ năm 1407 đến năm 1428, đây là thời kỳ nhà Minh chiếm cứ nước ta.
Như vậy bất cứ khi nào đế quốc Trung Hoa được ổn định là nghĩ ngay đến chuyện xâm lăng và thống trị đất nước Việt Nam, vì Việt Nam nhỏ bé , có một vị trí thuận tiện, lại nằm ngay sát nách người bá quyền phương Bắc. Và rõ ràng lịch sử của VN là lịch sử của những năm tháng triền miên chịu sự xâm lăng, dòm ngó hoặc đô hộ của người Trung Hoa.

Khi nhìn vào lịch sử cận đại, chúng ta hãy cùng nhìn qua những diễn biến qua lại giữa ĐCS VN và ĐCS TQ thì sẽ thấy ngay sự tiếp tay của ĐCS VN trong việc bán rẻ đất nước VN cho ngoại bang:

1. Vào ngày 15/06/1956: Ngoại trưởng của CH XHCN VN là ông Ung văn Khiêm đã tuyên bố: "Hà Nội nhìn nhận chủ quyền Trung Cộng tại Hoàng Sa và Trường Sa mà TC gọi là Tây Sa và Nam Sa".

2. Ngày 14/09/1958 công hàm bán nước của thủ tướng Phạm văn Đồng vâng lệnh chủ tịch nước là Hồ chí Minh đã xác nhận chủ quyền hải phận của TC tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Ngày 26/04/1968 sau khi TC tiến chiếm Trường Sa, báo Nhân Dân, tiếng nói chính thức của ĐCS VN đã viết: ‘Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, thì VN phải tranh thủ sự gắn bó của TC, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên.’

4. Vào tháng 5/1976 báo Sài Gòn Giải Phóng đã viết: ‘Trung Cộng vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là đồng chí, mà còn là người thầy tín cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc VN hay TC cũng vậy thôi.’

Qua những sự việc nêu trên chúng ta đã thấy rõ sự tiếp tay của ĐCS VN trong việc cống nạp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho ĐCS Trung Quốc.

Để hợp thức hóa việc lấn chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN, vào tháng 11/2007 Quốc Vụ Viện TC ban hành văn kiện thành lập Huyện Tam Sa để quản lể các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một mặt chúng ăn cướp trắng trợn các hải đảo của VN, một mặt chúng ra văn kiện để hợp thức hoá những vùng đất ăn cướp này, thế nhưng ĐCS VN chỉ phản đối chiếu lệ, không có bất kỳ một phản ứng quyết liệt nào trước biến cố vô cùng trọng đại này.

Để áp đảo Việt Nam cũng như đe dọa ngư dân VN, Trung Cộng đã dã tâm bắn thẳng vào những tàu thuyền đánh cá của ngư dân VN, viện cớ là xâm phạm hải phận Trung Cộng. Liên tiếp trong nhiều năm qua, Trung Quốc cho tàu thuyền với tải trọng lớn hơn đâm thẳng vào các tàu thuyền đánh cá VN gây lên một làn sóng sợ hãi của các ngư dân khi phải ra khơi. Mới đây chính đài truyền hình TC cho trình chiếu cảnh Ngư Chính TC bắt tàu đánh cá VN, và hình ảnh những ngư dân VN vái lạy nhân viên Ngư Chính Trung Cộng vì sợ bị đánh đập. Cũng trong đoạn phim này người ta được nhìn thấy một xác ngư dân VN được để nằm trong một chiếc thúng bằng tre, và chung quanh đổ đầy đá lạnh, những thúng đá lạnh này thay vì dùng để ướp cá sau khi đánh bắt thì nay là để ướp xác ngư dân. Khi nhìn thấy cảnh này, ai là người Việt mà không thấy đau đớn, uất hận và tủi nhục.

Trên phương diên hành chánh thì Trung Cộng cũng đã chèn ép Việt Nam. Vào ngày 30/12/1999 hiệp ước biên giới Việt Trung đã được kể kết giữa VN và TC, qua đó VN đã nhường cho TC 720 cây số vuông, và khoảng một năm sau đó thì Hiệp ước vịnh Bắc Bộ lại được kể kết giữa VN và Trung Cộng vào ngày 25/12/2000. Qua hiệp ước này, VN lại để mất vào tay Trung Cộng. hàng chục ngàn cây số vuông lãnh hải với biết bao tài nguyên tôm cá và khoáng sản. Việc mất đất và mất biển vào tay TC đã được những nhà nghiên cứ chuyên môn ước tính sau khi so sánh với các bản đồ của hiệp ước Thiên Tân kể năm 1885 với TC và hiệp ước vịnh Bắc Bộ kể năm 1887. Nhưng CSVN thì lập lờ và dấu nhẹm người dân về cả hai hiệp ước này. Tuy nhiên mới đây, một quan chức của CSVN đã tiết lộ và thú nhận những tội lỗi của ĐCS VN trong hai hiệp ước này. Vào ngày 02/07/2009 qua một cuộc phỏng vấn của phóng viên Mặc Lâm đài RFA, thì ông Dương Danh Di một cựu tổng lãnh sự của CH XH CNVN tại Quảng Châu Trung Cộng đã trả lời về việc mất đất mất biển như sau: ‘Tôi nói thật, tôi đã từng đi điều tra biên giới trên bộ nhiều lần, và tôi thấy có những cái đúng là sự ngây ngô khờ dại, thế là mình mất toi mấy chục hecta, làm thế nào được. Đấy, lúc đó là trong hoàn cảnh thời chiến. Người ta giúp mình, mình chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện đó, có thể là không nghĩ ra, có thể là dốt, vân vân. Bây giờ thì muốn trách cứ thế nào thì cũng phải chịu thôi.’

Ông Dương Danh Di cũng thừa nhận rằng giới lãnh đạo CSVN sẵn sàng bán rẻ Tổ Quốc để đánh đổi sự ủng hộ của đàn anh CS TQ.

Theo tiến sĩ Mai Thanh Truyết, việc xâm chiếm VN của Trung Cộng có thể được nối kết bằng bảy sự kiện đang được triển khai ở VN và các nước lân cận đó là:

1. Công trình xây dựng xa lộ Trường Sơn.

2. Mở rộng đưòng số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Đồng Hới.

3. Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất.

4. Dự án quốc tế giữa Trung Cộng, Lào và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tải nặng có thể lưu thông trên thủy lộ này.

5. Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh và Hà Nội.

6. Miễn hộ chiếu cho người Trung Hoa vào tận mũi Cà Mau.

7. Dự án khai thác Bauxit ở Tây Nguyên.

Vì thờì gian có hạn, chúng ta chỉ nhắc đến một dự án đang gây nhiễu phẫn nộ trong dân chúng đó là dự án Bauxit ở Tây Nguyên. Mặc cho có sự phản đối mãnh liệt của nhiều tầng lớp của người dân khắp mọi miền, ĐCS VN vẫn để cho Công Ty Chinaco của Trung Cộng tiến hành khai thác Bauxit mà hậu qủa không ai có thể lường trước được. Trước mắt thì người Trung Quốc từ những đoàn quân lao động không chính thức đã theo đoàn quân lao động chính thức, hoà theo dòng người chảy ồ ạt vào VN và tản ra các nơi ở khắp mọi miền đất nước. Nơi các nhà máy thì những khu định cư được tới tấp mọc lên và chung quanh đấy là các tiện nghi như nhà hàng, khu giải trí với những hàng chữ Việt-Trung đã bắt đầu được dựng lên. Nói tóm lại Bauxit Tây Nguyên là một dự án được coi là dự án trọng điểm của ĐCS VN trong kế hoạch phát triển đất nước thì tự nó đã là một dự án trọng điểm để tàn phá môi sinh, gây tai họa cho con ngư ời và tàn phá đất nước. Khi nhìn theo con mắt của những nhà quân sự thì dự án này có khác chi ĐCS VN đã rước voi về dày nát mồ mả tổ tiên ngay trên lưng của đất Mẹ Việt Nam.

Như vậy rõ ràng là ĐCS VN vì tham quyền cố vị, đã đang tâm bán rẻ Đất Nước VN cho ngoại bang. Việc này đã xảy ra ngay từ khi HCM và CSVN vâng lệnh đệ tam quốc tế CS, can tâm làm đội quân tiên phong cho Staline va Mao Trạch Đông, quên đi nguồn gốc dòng giống Lạc Hồng, lúc nào cũng giương cao cờ máu, lúc nào cũng xem TC là quan thầy, là môi với răng, là sông với núi, là anh em đồng chí vì tổ quốc XHCN sống chết bên nhau. Qùy lụy Trung Công như một chư hầu trong mọi hành động, luôn luôn khiếp nhược, hèn kém và gian manh khi che dấu người dân VN để can tâm cắt đất và nhượng biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc VN. Trong nước đối với người dân thì ĐCS VN đang quyết tâm dập tắt những tiếng nói yêu nước, đàn áp, bắt bớ và bỏ tù những ngườì dám mạnh dạn đứng lên nói lên tiếng nói đòi lại chủ quyền của dân tộc, khẳng định chủ quyền trước những vùng đất vùng biển mà cha ông chúng ta đã bỏ ra biết bao máu xương để vun bồi và gìn giữ cho con cháu.

Đất nước VN là của mọi người dân Việt Nam, từ trong nước ra đến hải ngoại, Đất Nước là trường cửu là vĩnh viễn, ĐCS VN chỉ là tạm thời, chỉ là giai đoạn, thể chế nào rồi cũng phải qua đi để Đất Nước tiến lên. ĐCS VN ngày hôm nay đang là những kẻ phản dân hại nước, cõng rắn cắn gà nhà, gây điêu đứng cho người dân VN qua những kế hoạch, chính sách của họ khi phải qùy lụy, phục tùng Trung Cộng. Chắc chắn sử sách ngày sau sẽ ghi dấu tội ác tày trời này của ĐCS VN đối với Dân Tộc Việt Nam.

Nguyễn Hiệp
01.08.2009