Wednesday, June 3, 2009

HỒ SƠ THIÊN AN MÔN - Từ Nguyên Nguyễn Văn Thuận



Cuộc tuần hành của 100,000 sinh viên Trung Hoa trên đường phố Bắc Kinh
(mùng 2 tháng 6 năm 1989)

Sự can đảm của một sinh viên vô danh

Từ Nguyên Nguyễn Văn Thuận


Biến có Thiên an môn xẩy ra đã gần 12 năm. Tình tiết về vụ thảm sát những người sinh viên đấu tranh cho tự do, dân chủ tại Trung hoa lục địa vào ngày 4 tháng 6 năm 1989 đã được sách báo nói đến nhiều. Thế giới ngày nay không còn những ốc đảo che kín bởi những bức màn sắt, những bức màn tre như hồi mấy chục năm về trước, nên những sự thật, hay ít nhất là một phần của sự thật đã được phơi bày trung thực, mặc cho những âm mưu che đậy của nhà cầm quyền. Thiên an môn là một vết nhơ, cọng thêm vào trăm ngàn tội ác diệt chủng của những con người nhân danh ý thức hệ cộng sản để áp đặt bá quyền chuyên chính lên nhân loại.

Nhưng với những chiến sĩ tự do, Thiên an môn mãi mãi là thiên anh hùng ca. Ngày nay, những vũng máu trên cái quảng trường rộng lớn nhất thế giới đó đã được rửa sạch, những

bức tường thành đã được sơn quét lại cho đẹp hơn nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập cộng hòa nhân dân Trung quốc. Nhưng du khách ghé thăm nơi đó vẫn như còn thấy đâu đây hình ảnh người sinh viên lấy thân xác nhỏ nhoi ngăn chận đoàn xe thiết giáp của bè lũ cướng quyền, vẫn còn thấy hàng ngàn xác người gục ngã trước làn đạn của quân đội giải phóng nhân dân, vẫn còn thấy những oan hồn vất vưỡng, vẫn còn thấy ý chí bất khả tiêu diệt của những con người vùng lên đấu tranh cho quyền sống của con người.

Bởi thế, cũng không lạ khi gần đây, vào thượng tuần tháng giêng năm nay, Thiên an môn lại được làm sống lại trong dư luận thế giới qua một tài liệu vừa được ấn hành và phát hành rộng rãi, cuốn “Những tài liệu về Thiên an môn”, The Tiananmen Papers, hợp soạn bởi Zhang Liang, Andrew J. Nathan và Perry Link, qua nhà xuất bản Public Affairs tại Nữu ước.

“Những tài liệu về Thiên an môn” là một tập hợp gần như toàn bộ những tài liệu mật xuất xứ từ cơ quan đầu não trung ương của chế độ: ủy ban thường vụ chính trị bộ, được sắp xếp theo thứ thự ngày tháng, trong khoảng thời gian bắt đầu tứ cái chết của Hồ diệu Bang ngày 15 tháng 4, 1989 cho đến ngày cuối của phiên họp lần thứ tư ủy ban trung ương đảng vào ngày 24 tháng 6 năm đó. Tài liệu gồm tin tức, phúc trình, báo cáo từ các dảng bộ địa phương , từ bộ công an, cơ quan tình báo trung ương, từ Tân hoa xã với các văn phòng khắp trên thế giới. Tài liệu cũng bao gồm biên bản các phiên họp hội đồng nhà nước, chính trị bộ, những cuộc nói chuyện riêng của cac cấp quyền cao nhất, hay những chỉ thị bên lề nhưng mang tính quyết định.

Hàng ngày, những khối lượng lớn tin tức, báo cáo, phúc trình có tính tối mật được gởi về Trung Nam Hải, tổng hành dinh trung ương đảng. Các tài liệu này chỉ được phân phối đến khoảng 40 đảng viên cao cấp đang nắm giữ những chức vụ trọng yếu nhất trong đảng, và chính quyền. Trong nhiều trường hợp, sự hạn chế còn gắt gao hơn, hồ sơ mật chỉ được trình lên năm ủy viện trong ủy ban thường vụ chính trị bộ, và 8 đảng viên kỳ cựu trong hội đồng chỉ đạo. Và do vậy, mọi vấn đề quan trọng liên quan đến sự sống còn của đất nước, của trăm, ngàn triệu dân đều được giải quyết bởi một nhúm lãnh đạo, nhiều khi chỉ bởi một, hai người được xem là đầu não ( core ) của chế độ.Hồ sơ mật, sau đó, bị tiêu hũy hay được cất giữ trong văn khố. Người ngoài cuộc, dẫu nắm giữ những chức vụ trọng yếu nhất về sau nhiều khi cũng không nắm vững được vấn đề, vì càng biết nhiều, càng dễ chết. Hồ sơ mật thiên an môn cũng nằm trong trường hợp đó. Do vậy, khi đọc “ Những tài liệu về Thiên an môn “, một số câu hỏi phải được đặt ra: ai đã tiết lộ hồ sơ, bằng cách nào, mức độ khả tín , và dụng ý của người tiết lộ.

Vấn đề thứ nhất: người nào đã tiết lộ hồ sơ mật Thiên an môn?

Cuốn sách ( the Tiananmen papers ) in lại những tài liệu mật về vụ Thiên an môn, dày trên 500 trang, đến tay người đọc qua nhiều lần lọc lựa. Tài liệu được chọn in tiết lộ những quyết định quan trọng dẫn đến cuộc tắm máu quảng trường. Hơn thế, tài liệu chỉ được trích dẫn, mà không được in lại toàn bộ. Tập tài liệu, sau khi được lọc lựa, dày 516 trang, khoảng 570 ngàn chữ hoa ngữ. Ấn bản tiếng Anh mà chúng ta đang có chỉ gồm 1/3 tài liệu. Toàn bộ hồ sơ sẽ được xuất bản bằng hoa ngữ trong vài tháng tới.

Ai có thể chuyển lậu ra ngoài hàng ngàn tài liệu mật? Công việc đó không thể là công việc của một người, mà phải là công việc của nhiều người, của một tập thể, của một phe nhóm trong chính quyền hiện hữu của Trung cộng. Người chuyển tài liệu đã xác nhận điều đó. Và để có thể thủ đắc được những tài liệu này, cá nhân và nhóm tiết lộ phải ở những vị thế tối quan trọng vào thời điểm vụ Thiên an môn xẩy ra, và vẫn còn đang trong guồng máy lãnh đạo.

Mấy năm trước, Andrew Nathan, một giáo sư chính trị học tại đại học Columbia, chuyên trách về Trung hoa, được một người tên là Zhang Liang – lẽ dĩ nhiên là tên giả – tiếp xúc, và yêu cầu giúp đở để phơi bày sự thật về vụ thảm sát Thiên an môn. Trong quá khứ, Andrew Nathan cũng là người đã tham dự vào việc xuất bản cuốn The Private Life of Chairman MAO của bác sĩ Lý Phục Huy, ấn bản tiếng Việt Bí mật cuộc đời Mao Trạch Đông, và những bức thư viết từ trong tù của Ngụy kinh Sinh. Ban đầu, Andrew Nathan ngần ngại không muốn can dự vào những vấn đề chính trị của Trung quốc, nhưng càng đọc, ông càng bị cuốn hút vào những tình tiết phức tạp, bi thương của sự việc, nên sau rốt, ông đã cùng Perry Link, giáo sư Hoa ngữ thuộc đại học Princeton, hoàn tất công trình lọc lựa và phiên dịch tài liệu này để xuất bản.

Cuốn sách không nói gì về người thu tập tài liệu, Zhang Liang, vì lý do an ninh cho ông và gia đình ông. Cũng không nói gì về cách chuyển lậu tài liệu ra ngoài.

Vấn đề thứ hai: động cơ tiết lộ hồ sơ mật Thiên an môn

Trong bài “ Những suy nghĩ về ngày 4 tháng 6”, đề tựa cho cuốn sách, Zhang Liang cho thấy dụng ý của ông, và nhóm của ông về việc cho tiết lộ hồ sơ mật Thiên an môn. Bài viết rất hay, nên xin lược dịch:

“Mười hai năm chỉ là một khoảnh khắc trong lịch sử, nhưng lại khá dài trong đời sống con người. Với người đã kinh qua, biến cố 4 tháng 6 năm 1989 vẫn mãi đè nặng trong tâm khảm. Lịch sử như đóng băng lại ở đó. Viết về 4 tháng 6 là gợi lại máu của hàng ngàn người trẻ đã đổ trên đường phố quanh đại lộ Tràng an ở Bắc kinh. Thời gian có thể đã rửa sạch vết máu, nhưng không thể làm mờ ký ức. Lịch sử và nhân loại cuối cùng rồi cũng sẽ phán định ngày đó như một trong những giai đoạn quan trọng và bi hùng nhất của công cuộc đấu tranh cho dân chủ trên thế giới trong thế kỳ 20. Còn với Trung quốc, thì chắc chắn đó là sự cố lớn lao nhất trong nỗ lực dân chủ hóa đất nước.

“Vì 4 tháng 6 không chỉ đơn thuần là một sự phản kháng của sinh viên hay phong trào dân chủ ái quốc. Đó là cái kết quả cuối cùng của những cuộc biểu dương lực lượng hổ trợ dân chủ lớn rộng, kéo dài và ảnh hưởng nhất của thế kỷ, để rồi chấm dứt trong bi thảm, trong máu, và trong chiến thắng về phía cường quyền.

“Thất bại của phong trào 4 tháng sáu là tất nhiên, Nhưng phong trào cũng đạt được những tác động đáng kể. Phong trào đã đi sâu vào quần chúng từ thành thị đến thôn quê, đến các trường học, hầm mỏ, xí nghiệp, công sở, với gần cả trăm triệu người tham gia dưới hình thức này hay hình thức khác. Phong trào tự phát, và có phần hỗn loạn, nỗ bùng ra vì sự bất mãn và giận dữ của quần chúng đối với chính quyền. Nhưng phong trào đã thất bại vì sự yếu kém của nhóm cải cách trong giai tầng lãnh đạo cao cấp của đảng, vì sự chia rẽ trong nhóm biểu dương, vì thiếu một chương trình hành động chặt chẽ, vì sự ngăn cách giữa trí thức, công nhân và nông dân. Điều đó cho thấy những cáo buộc của chính quyền gán cho phong trào là một cuộc bạo loạn phản cách mạng có tổ chức là không đúng.

“Trung quốc đã thay đổi nhiều trong những năm sau đó. Bình tĩnh nhìn lại biến cố ngày đó, tôi rút tĩa được 4 bài học:

Thứ nhất, con đưởng dẫn tới dân chủ tại Trung quốc tùy thuộc ở nhân dân Trung hoa.. Dẫu chế độ cộng sản trong nước đã hủ hóa ( tham nhũng ) từ trên xuống dưới, thì chính quyền đó cũng đã tạo được những tăng trưởng kinh tế đáng kể, và nâng cao đời sống của người dân, đồng thời thiết lập được một hệ thống xâm nhập vào mọi góc cạnh của đời sống. Không một lực lượng chính trị nào có thể đối kháng được chế độ đó. Người dân không chấp nhận đảng không còn lối đi nào khác ngoài chính họ. Sự cáo chung của chế độ cộng sản tại Trung quốc là điều đương nhiên, nhưng sự sụp đổ của đảng cộng sản Trung hoa sẽ được thực hiện bởi chính những đảng viên, chứ không bởi một lực lượng nào khác ngoài đảng.

Thứ hai, phán quyết về biến cố 4 tháng 6 phải được xét lại. Đó là một tất yếu của lịch sử, và cũng là ý nguyện của toàn dân Trung hoa. Nhóm lãnh đạo đảng đã bị chia rẽ từ ngày đó. Những cá nhân trách nhiệm trong vụ đàn áp, như Đặng tiều Bình, cũng đã chết rồi. Đòi hỏi xét lại vụ án ngày càng mạnh, từ trong cũng như ngoài đảng, và chắc chắn lực lượng tự do trong đảng sẽ nắm lấy cơ hội lịch sử để đảo ngược phán quyết, rồi từ đó giải thể chế dộ.

Thứ ba, nhóm hổ trợ dân chủ trong đảng là lực lượng nòng cốt đẩy mạnh đổi thay chính trị tại Trung quốc. Đảng cộng sản Trung hoa, đã từ lâu không còn là một đảng thuần nhất. Đảng nay là một hổn hợp của nhiều phe nhóm, nhiều khuynh hướng, nhiều hệ tư tưởng. Sự khác biệt giữa nhóm cực đoan và nhóm bảo thủ trong đảng ngày nay còn sâu xa hơn cái đối nghịch giữa đảng cộng sản và đảng quốc dân ngày trước. Tình trạng bây giờ giống như tình trạng cộng đảng Nga năm 1989, và cái bề ngoài vững chắc đó có thể bị vỡ vụn ra từng mãnh bất kỳ lúc nào, để rồi một lực lượng mới sẽ trồi lên từ những cái sai lầm, rữa nát đó để xây dựng một hệ thống lãnh đạo dân chủ và lành mạnh hơn.

Thứ tư, vấn đề xây dựng một chế độ dân chủ tại Trung quốc là việc làm của những lực lượng ngay ở trong nước. Những vấn đề căn bản phải được giải quyết ngay từ trong nước. Nhân dân Trung hoa phải noi gương Triệu Tử Dương, lao mình vào lửa, chấp nhận hiểm nguy, chấp nhận hy sinh để cứu nước. Người Trung hoa hải ngoại, thương nước thương nòi thì hãy trở về, sẵn sàng dâng đời mình cho đất mẹ.

Từ những bài học đó, là phải trả lại cho lịch sử, cho nhân dân Trung hoa cái sự thật của lịch sử. Trong mục đích đó, tập tài liệu này được tiết lộ và phổ biến.

Thiên An Môn 1989

Vấn đề thứ ba: mức độ xác tín của tài liệu.

Không ai có thể trả lời câu hỏi này. Người đọc, tùy theo khả năng tri thức, có thể đưa ra những nhận định khác nhau. Và chỉ có cách đối chiếu những dữ kiện trong tài liệu với kiến thức tích lũy mới có thể có được một ý niệm về mức độ xác tín của tài liệu.

Trong cuốn sách này có bài viết của Orville Schell, khoa trưởng khoa báo chí đại học Berkely, về vấn đề thẩm định giá trị tài liệu (Reflections on Authentication).

Guồng máy cực quyền cộng đảng Trung quốc vẫn còn khép kín, đó là một loại thâm cung bí sử, không những chỉ đối với người dân, mà còn ngay cả đối với những người trong cuộc. Thông thường, khi một tin được tung ra ngoài đều có một hậu ý chính trị. Riêng trong trường hợp này, nhóm tiết lộ tài liệu đã nói rõ: họ hy vọng phục hồi nhóm ôn hòa trong đảng và làm sống lại công cuộc cải cách chính trị tại Trung quốc. Điều này có thể tin được.

Thiên an môn, trong thực tế, đã từ lâu không còn là một bí mật. Vai trò của Đặng tiểu Bình và Lý Bằng trong vụ thảm sát đã được nói đến nhiều. Đặng tiểu Bình không hẵn chỉ vì nghe theo những báo cáo bị bóp méo của Lý Bằng, chủ tịch Quốc vụ viện – thủ tướng -, để ra lệnh dẹp sạch Thiên an môn. Cho đến cuối đời, ông vẫn nghĩ ông không có cách nào khác hơn là phãi sử dụng quân đội và cảnh sát để dẹp bạo động. Bảy người còn lại trong tổ tám người “ lão nhân gia” ( the elders), thật sự không có tiếng nói mạnh. Những người này, nay cũng hoặc đã nghỉ hưu, hoặc đã chết. Nhóm 5 người trong ủy ban thường vụ chính trị bộ, thì 3 người theo phe Triệu Tử Dương, tổng bí thư cộng đảng, chủ trương hòa hoãn và đối thoại với sinh viên để tìm giải pháp. Nhóm 3 người này đã bị thanh trừng từ ngày đó. Triệu tử Dương nay sống âm thầm trong một ngỏ ngách nào đó, và vẫn còn bị quản chế. Nhưng số phận Lý Bằng cũng không mấy sáng sủa: vì là người dính đến vụ Thiên an môn, về sau này, ông bị bứng ra khỏi chức vụ thủ tướng, và dầu nay vẫn còn là chủ tịch quốc hội, con đường chính trị của ông cũng được xem như sắp hết.

Máu đổ trên quảng trường Thiên An Môn

Vậy sự tiết lộ hồ sơ Thiên an môn không nhằm mục dích tranh chấp hoặc trả thù cá nhân, nhưng nặng hơn, là một tranh chấp phe nhóm khác biệt nhau về hệ tư tưởng. Ngày Mao trạch Đông còn sống cũng đã có những thanh trừng đẩm máu nội bộ vì quyền lợi. Sau Mao trạch Đông, vấn đề tranh chấp tư tưởng càng rõ ràng hơn, và dẫu Đặng tiểu Bình vẫn là đầu não của thế hệ lãnh đạo thứ hai, hai trong ba tổng bí thư trung ương đảng, Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, đã chủ trương một chính sách hòa dịu, đổi mới phải là cải tổ chính trị song hành với cải tổ kinh tế. Như vậy, cho thấy rõ điều Zhang Liang nói là đúng.

Giang trạch Dân, hiện tại là lãnh tụ đầu não hệ thứ ba của chế độ cộng sản Trung quốc, nắm giũ cả ba chức vị chủ tịch nước, tổng bí thư đảng, và chủ tịch quân ủy. Ông không dính gì đến vụ Thiên an môn, nhưng ông đã cai trị dưới cái bóng của Đặng tiểu Bình. Đặng chết mấy năm rồi. Hùm thiêng khi chết thì bộ lông cũng rữa, nên ảnh hưởng của Đặng cũng lần hồi phai mờ. Lại nữa, nhiệm kỳ của Giang cũng sẽ chấm dứt vào tháng 10 năm2002. Ông không đủ uy thế như Đặng để kéo dài quyền lực. Cho nên, bây giờ là lúc sửa soạn cho cuộc đấu giữa các phe nhóm. Và dẫu trong một chế độ chuyên chính cực quyền, ngày nay theo với đà toàn cầu hóa, tiếng nói và ý nguyện của người dân bắt đầu có giá hơn, nên vấn đề tranh thủ nhân tâm có thể đã lần hồi trở nên yếu tố quyết định.

Nếu hiểu như vậy, là hiểu được ý đồ của vụ tiết lộ hồ sơ mật Thiên an môn.

Không có gì phải đặt nghi vấn về mức độ xác tính của tập tài liệu này. Tin một phần, tin nhiều phần, cũng tìm được ở đó nhiều điều hữu ích. Có thể có những thêm bớt, có thể có một phần ngụy tạo. Nhưng phần chính của sự thật được phơi bày trung thực. Một ngày sau khi tập tài liệu được tung ra, chính quyền Trung cộng đã phủ nhận và cho rằng đây chỉ là một tập tài liệu giả. Phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung cộng tuyên bố: “ Mọi ý đồ quan trọng hóa sự việc nhằm gây rối cho Trung quốc bằng những phương cách ti tiện, mạo hóa tài liệu hay bóp méo sự việc đều vô hiệu.” Và “Dẹp bạo loạn là điều cần thiết cho sự ổn cố và phát triển của Trung quốc.”

Bài viết này không nhằm phân tích và trình bày những bí ẩn được tiết lộ qua tập tài liệu về Thiên an môn. Vì thật ra người đọc cũng không có được những ngạc nhiên về những điều được tiết lộ. Bài này chỉ nhằm nói về một cuộc chơi chính trị trong nội bộ đảng cộng sản Trung quốc ở cấp đầu não, với một hy vọng những người chủ trương cởi trói chính trị, dân chủ hóa Trung quốc sẽ giành được phần thắng trong cuộc tranh chấp quyền lực.

Ở quê ta, chính quyền chuyên chính cộng sản vẫn dùng con ngáo ộp “ diễn biến hòa bình” để hù dọa người dân, và làm lý cớ đàn áp mọi phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ. Họ vẫn nói như một lũ vẹt “ biên giới của nước Mỹ kéo dài đến tận ải Nam quan”, mà không bao giờ ý thức được rằng người dân từ mấy ngàn năm đã lo sợ vì “ biên giới của nước Tàu kéo dài xuống đến tận mũi Cà mâu”. Nước ta bị cái bất hạnh là nằm ngay dưới chân một Trung quốc khổng lồ. Ngày nào chế độ cộng sản Trung hoa chưa cáo chung, ngày đó chế độ cộng sản Việt nam vẫn tồn tại.

Cho nên, nói chuyện nước người là để tìm ở đó chút niềm hy vọng cho nước mình vậy.

Từ Nguyên Nguyễn văn Thuận

Sách đọc thêm:

“The Tiananmenmen Papers, the Chinese Leadership’s Decision to Use Force Against Their Own People – in Their Own Words”. Compiled by Zhang Liang. Edited by Andrew J. Nathan and Perry Link. Public Affairs, New York. $30.00.

Dân Chủ Hóa - Đoạn Đường Không Thể Tránh Của Bắc Kinh và Hà Nội - Lâm Lễ Trinh

Lâm Lễ Trinh

Để Tưởng Niệm Thiên An Môn


Vấn đề then chốt ảnh hưởng đến chính sách Hoa kỳ hiện nay và đang phân tán mạnh công luận Mỹ là hướng tiến chính trị của Trung Hoa và Việt Nam. Quốc hội và giới truyền thông Mỹ chỉ trích Hoa kỳ thiếu viễn kiến và hành động tùy thời. Theo dân chúng nhận xét, Bắc kinh và Hà nội không mấy thay đổi sau nhiều năm tham gia kinh tế thị trường: vẫn áp chế quần chúng không nương tay, dân chủ hóa rùa bò và khủng bố tôn giáo dài dài. Trung cộng và Việt cộng, cả hai, từ chối nhân nhượng về nhân quyền. Hơn nữa, Trung hoa trở nên mối đe dọa lớn vì phổ biến kỹ thuật chế tạo võ khí hạt nhân và ứng dụng những phương thức mậu dịch bất chánh.

Clinton lẫn Bush biện minh rằng không nên cô lập Bắc kinh và cần đối thoại xây dựng, constructive engagement để đạt mục tiêu chiến lược dài. hạn. Lập luận này không trấn an được dư luận

Gs Minxin Pei, thuộc đại học Princeton, cho đăng trong tạp chí Foreign Affairs một bài nghiên cứu súc tích phân tách căn nguyên của cuộc tranh luận sôi nổi nói trên. Theo Gs Pei, Hoa kỳ chỉ chú ý đến những cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình mà không tìm hiểu những thay đổi chính trị làm rung chuyển tận gốc nước Tàu từ trên hai thập niên. Ngày nay, sau Mao và Đặng, một thế hệ lãnh tụ thứ ba - Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào là thí dụ điển hình - đã lên nắm quyền tại Bắc kinh. Hoa Thịnh Đốn cần thẩm định khả năng thực tế của lục địa Trung hoa.

Ảnh Hưởng Sâu Rộng Của Các Canh Tân Chính Trị Của Đặng Tiểu Bình:

Thông thường, người Mỹ hiểu cải cách chính trị theo nghĩa hẹp và đồng hóa cải cách với dân chủ hóa. Họ đánh giá sự tiến bộ cải cách ở các xứ khác theo tiêu chuẩn duy nhứt: việc tổ chức bầu cử tự do và cởi mở. Tuy nhiên, dân chủ hóa không phãi là yếu tố đơn độc của cải cách ở các quốc gia còn thiếu những định chế cai trị thô sơ. Tại Tây phương và những nước đang mở mang, tiến trình canh tân chính trị gồm có ba phần tối yếu:

1. Đặt ra quy tắc chung chi phối cấp lãnh đạo

2. Tái lập các định chế điều hòa mối liên hệ giữa các ngành của chính phủ (như việc phân quyền Tư pháp, Lập pháp và Hành pháp) và

3. Củng cố phương thức tham chính của dân chúng.

Năm 1978, Đặng Tiểu Bình - nạn nhân của ba cuộc thanh trừng - thừa kế một chế độ hỗn mang thoát thai từ nhiều thập niên độc tài cá nhân sắt máu, với một hệ thống pháp lý, kinh tế và thư lại hoàn toàn bị đảo lộn bởi chủ trương “Bước Tiến Nhãy Vọt“ và “Cách Mạng Văn Hóa“. Duới thời Mao, quần chúng xuống đường và bạo động theo lịnh của lãûnh tụ. Đó là phương thức “dân tham chính“ kiểu Mao ít. Gần hai thập niên, Đặng chấn chỉnh kinh tế nhưng không kèm theo cải cách dân chủ. Về nội trị, tuy chưa có dân chủ thật sự nhưng Đặng đã thành công ổn định bằng các biện pháp thực tiển sau đây:

1. Thể hiện thủ tục chuyển quyền chính trị cởi mở và dựa vào cạnh tranh hơn trước. Trong nhiều năm, đảng CS Trung hoa - đặc biệt thành phần được xem là ưu tú - bị bầm giập vì cách lảnh đạo độc tôn của Mao. Thất bại trong việc tranh quyền luôn luôn đem lại tù đày hay bức tử. Các cấp chỉ huy sống trong sự phập phồng hằng ngày. Tháng 2.1980, Đặng cho phổ biến một văn kiện lịch sử mệnh danh “Vài quy tắc về đuờng lối nội bộ Đảng“ xác định quyền căn bản của đảng viên CSTH. Khó mà biết được các quyền này có được bảo vệ thực tế hay không. Tuy nhiên, với Đặng, nước Tàu có một bộ mặt chính trị văn minh và nhân tính hơn. Hai nhân vật nối tiếp Đặng, - Triệu Tử Dương và Hồ Điệu Bang - về vườn vì thất bại nhưng họ được rời chức một cách tương đối êm thấm. An toàn bản thân không bị đe dọa và đặc quyền vật chất không sứt mẻ. Các người “ngã ngựa“ khác trên chính trường, nhờ thế, bớt khốn khổ. Không còn những loạt thanh trừng, thủ tiêu dã man của thời Mao. Trong nhiều trường hợp, các kẻ thắng vẫn dùng lại phần đông đệ tử của người thua.

2. Đặng còn đặt ra tuổi hưu trí bắt buộc đối với nhân viên chính quyền và đảng viên CS. Bắt đầu từ 1982, các Tổng trưởng, Bí thơ và Thống đốc phải nghỉ việc khi đúng 65, còn các phụ tá, khi tới tuổi 60. Tất cả chức vụ trong Đảng và Chính phủ không được giữ quá hai nhiệm kỳ. Sự phối hợp hai quy định kể trên chấm dứt tệ đoan “bám quyền “, đồng thời thúc đẩy thế hệ mới dấn thân phục vụ. Các “bình vôi“ i tờ từ nay phải nhường chổ cho lớp chuyên viên trung niên. Cho đến 1982, tuổi trung bình của cấp Tổng trưởng và Thứ trưởng trong Hội đồng Quốc gia là 64; 37% có trình độ đại học. Khi việc về hưu trở nên bắt buộc, tuổi trung bình của những chức vụ vừa kể sụt xuồng 58 và tỷû lệ xuất thân đại học tăng lên 52%. Tại Trung ương đảng bộ, sau 15 năm áp dụng luật hưu trí, tuổi trung bình của đảng viên giảm từ 59 xuống 56 và tỷ lệ những người tốt nghiệp đại học vọt từ 55 lên 92% (tài liệu Minxin Pei) .

Địa phương cũng có thay đổi: Năm 1982, ở cấp tỉnh, tuổi trung bình của bí thơ và thống đốc là 62. Năm 1983, tuổi sụt xuống còn 55 và đến nay, vẫn giữ mức củ. Trình độ học vấn củng tăng từ 20% (1982) lên 79% (1996). Tại Nga, Mikhail Gorbatchev cho áp dụng tuổi bắt buộc về hưu (70) lần đầu tiên vào tháng 6.1988. Vì có sự giới hạn nói trên nên ở Trung hoa, chỉ có lối phân nửa đảng viên thiệt thọ được tái đắc cử vào Hội đồng lảnh đạo trung ương trong khi tỷ lệ này đạt đến con số 80- 89 % dưới trào Brezhnev vào thập niên 70 và 80. Sự cải cách của Đặng đem lại hai kết quả: Một mặt, tiết giảm những tranh chấp trong chế độ vì giới trẻ bớt bất mản, có thêm cơ hội tăng tiến và ít bị lôi cuốn vào các âm mưu chống đối hay khuynh đảo chính quyền. Mặt khác, giới chỉ huy trở nên đồng nhứt hơn về văn hóa, tuổi tác và kinh nghiệm xã hội lẩn chính trị. Dưới một khía cạnh nào đó, xung đột thế hệ và bất đồng về ý thức hệ củng bớt gay gắt.

3. Sự chạy đua để dành các chức vụ trong Đảng bị giới hạn. Mục tiêu thật sự là tránh nạn lý thuyết gia hữu khuynh và tã khuynh “trăm hoa đua nở“. Năm 1987, Đặng Tiểu Bình viện lý do dân chủ hóa nội bộ Đảng để cho thông qua quyết nghị ấn định số ứng cử viên vào chức đại biểu trong Đại hội đảng phải 20% nhiều hơn số ghế chính thức. Đồng thời, số ứng viên để trở thành đảng viên CS thiệt thọ và thành viên của Hội đồng Trung ương phải nhiều hơn số chức vụ theo tỷ lệ 5% và 12%. Biện pháp này tìm cách ngăn ngừa các thành phần bảo thủ và cấp tiến quá khích xuất hiện trong hàng ngủ của đảng. Một hậu quả bất ngờ khác là con cái - các “vương tôn“, princelings - của lớp công thần lập quốc CS củng lần hồi bị loại khỏi Đại hội và Trung ương Đảng. Có thể nói họ không còn là mối họa chính trị giữa thập niên 90. Quyền bính nhờ thế đã chuyển ôn hòa từ thế hệ Đặng Tiểu Bình qua ê kíp Giang Trạch Dân. Lớp lảnh tụ thời hậu Đặng có thể thỏa hiệp về chính sách chủ yếu và các vấn đề cá nhân mà không cần tranh dành quyền lực bằng súng đạn.

A. Vấn Đề Gây Cấn Nhứt Là Tái Cấu Trúc Quốc Gia Cách Nào Mà Không Giảm Quyền Bính Của Đảng Cộng Sản?

Trung hoa, thật vậy, cần chuyển gấp qua một thể chế bớt trung ương tập quyền hơn và tiến vào thị trường tự do từ một nền kinh tế chỉ huy. Hai nhu cầu này đòi hỏi phải tái định nghĩa thẩm quyền của các cơ cấu quốc gia. Vì chưa được minh xác trong Hiến pháp, sự tản quyền chính trị không khỏi gây đụng chạm trong guồng máy nhà nước. Và các cải cách theo hướng kinh tế thị trường sẽ bị thể chế chính trị cũû cản trởû. Khác với các quốc gia kỷ nghệ dân chủ Tây phương, nước Tàu vào cuối thập niên 70 không có những định chế cần thiết cho mậu dịch tự do. Khác hơn Tây phương, Trung hoa bị thách đố phải tái thiết cơ sở chính trị và đồng thời, canh tân kinh tế. Đà phát triển mau chóng về kinh tế gây bất hòa hằng ngày giữa trung ương và địa phương, Nhà nước và xã hội. Sau bức bình phong thành công hào nhoáng, ẩn núp biết bao đổ vỡ và đảo lộn về giá trị và xác tín. Trong lúc đề cao vị thế tối thượng của đảng CS, Bắc kinh đã thuận cải tổ các định chế một cách giới hạn. Nếu thực hiện điều này cho đến cùng trong tương lai, hậu quả của sự phân quyền sẽ vô cùng sâu rộng. Hai cải tổ đáng được đặc biệt lưu ý:

A. Củng cố lần hồi Viện Quốc Dân, National People’s Congress hay NPC. Đặng Tiểu Bình đã biến Quốc hội Trung hoa - chuyên đóng trước kia vai trò “nghị gật” - thành một địch thủ của Đảng CS đang nắm độc quyền cai trị và làm luật. Tuy chưa trực diện đối đầu với Đảng về các dự luật chính yếu, thành viên Viện Quốc Dân hiện trình dự án riêng của họ, tích cực tranh luận và tu chính luật lệ được đề nghị, chận giữ hay bỏ phiếu chống các dự luật hệ trọng. Viện có quyền công nhận hay bác bỏ những quyết định bổ nhiệm của Đảng và gần đây, đã gây lúng túng cho Đảng với một loạt biểu quyết chống đối. Trong kỳ họp tháng 3.1995, một phần ba dân biểu từ chối phê chuẩn việc chỉ định một thành viên Chính trị bộ vào chức Phó Thủ tướng. Tại các tỉnh, cơ quan dân cử bất đồng ra mặt với đảng. Năm 1988, đại diện của viện dân biểu địa phương được phép chỉ định ứng viên để tranh với những người được đảng chọn vào chức Thống đốc và Phó thống đốc. Đôi khi viện nhân dân địa phương không chấp nhận quyết định bổ nhiệm của đảng và thay thế bằng các con gà của họ. Tại 20 tỉnh, theo thống kê, có ít nửa 15% ứng viên địa phương được bầu vào địa vị chỉ huy.

Viện Quốc Dân tăng uy tín nhờ tỏ ra càng ngày càng độc lập. Cuối 1994, tạp chí Far Eastern Economic Review thăm dò dư luận thì được biết 22% trong quần chúng xem Viện này như cơ quan tíếp nhận những khiếu nại và yêu sách của họ. Năm 1988, tỷ lệ thấp hơn, 13%. Sự tản quyền trong chế độ là lý do để Viện Quốc Dân đòi hỏi chính đáng một vai trò lập pháp. Việc bổ nhiệm những nhân vât chính trị nặng ký để chủ tọa Ban thường trực của Viện ban cho cơ chế này thêm quyền thương lượng trong giới lãnh đạo. Tại các tỉnh, củng như thế.Trong số 30 viện dân biểu địa phương, năm 1996, có 9 cựu đệ nhứt bí thơ đảng CS, 3 cựu thống đốc và 11 phó bí thơ CS giữ chức chủ tịch.

Màu sắc chính trị trong Viện Quốc Dân củng thay đổi từ 1978. Từ 1978 đến 1993, số dân biểu vô đảng phái tăng chậm. Trong nhiệm kỳ 1993, tuổi trung bình của các dân biểu là 53. 69% có bằng đại học và 50% tổng số là trí thức và công chức. Tỷ lệ dân biểu gốc quân nhân, nông dân và công nhân - thành phần thường ủng hộ Đảng - suy giãm: từ 62% năm 1978 xuống còn 30% năm 1993.

B. Vấn Đề Pháp Trị.

Để tránh tái phạm những sai lầm nguy hại của cuộc “Cách mạng Văn hóa“ và đặt nền tảng pháp lý cho kinh tế thị trường, Viện Quốc dân ban hành 175 đạo luật từ 1978 đến 1994 còn các viện địa phương thì không dưới 3000. Trên giấy tờ, luật lệ nước Tàu dựa khá nhiều vào các học thuyết pháp lý, khái niệm, thủ tục và danh từ chuyên môn Tây phương. Mậc dù việc chấp hành luật còn quá thiếu sót (chỉ có phân nửa tổng số bản án thương mại được thi hành), người dân cũng như giới thương gia - càng ngày cáng đông - tin tưởng nơi pháp luật để bảo vệ tài sản và quyền cá nhân của họ. Kiện cáo trước tụng đình gia tăng mau chóng từ 1986 đến 1996 trong lãnh vực buôn bán (387%), hành chính (12,483%, phần đông khiếu nại chính phủ) và dân sự (212%). Những cuộc thăm dò dư luận giữa thập niên 90 cho thấy 78% quần chúng ý thức về quyền tư hữu mà họ xem như “thiêng liêng và không được vi phạm“. 77% không đồng ý với lời tuyên bố “Khi có tranh chấp giữa cá nhân và đoàn thể, bản án nên thiên về đoàn thể“. 47% chống và chỉ có 28%ø ủng hộ việc “cảnh sát giam giử nhân danh an ninh công cọng dù không thể xác định người bị bắt có tội”

Đảng CS Trung hoa khó thể đảo ngược khuynh hướng đòi pháp trị vì các thành phần hưởng lợi trong những cải cách pháp luật (dù giới hạn) có nhiều thế lực: giới doanh gia tư nhân, công ty đầu tư ngoại quốc và giai cấp trung lưu đang mở rộng. Yếu tố thuận lợi khác là một cộng đồng luật gia đã thành hình. Nhân số luật sư tăng từ 31,000 năm 1988 lên 90,000 năm 1995. Họ tranh đấu quyết liệt cho quyền biện hộ. Hiện nay, uy quyền của Đảng CS Trung hoa bị gián tiếp thách đố trong phạm vi làm luật. Không như việc đòi hỏi thể chế đa nguyên và bầu cử tự do, sự thách đố này chưa đe dọa cấp thời độc quyền lảnh đạo của Đảng. Nhưng khi các định chế pháp lý tiếp tục phát triển, kế hoạch cải cách pháp luật giới hạn của Bắc kinh sẽ phải tiến từ hệ thống luật pháp, system of law, đến chế độ pháp trị, rule of law.

Vì Sao Bắc Kinh Tiếp Tục Chống Đối Dân Chủ Hóa?

Thời Mao, các khám đường Trung hoa không khác loại gulags của Stalin. Trong thời khoảng 1953 - 1975, 39% can phạm mang nhản hiệu “phản cách mạng “. Tỷ lệ này sụt xuống 13% năm 1980 và 0,5% năm 1989. Chính phủ hủy tội danh trên đây năm vừa qua. Thống kê cho biết thượng tuần 1997, có 2,026 can phạm (tức 0, 46% tổng số tù phạm toàn quốc) bị truy tố về “tội ác đe dọa an ninh quốc gia “. Thời Đặng Tiểu Bình, Đảng CS đổi chiến thuật: giảm đàn áp đám đông, mass repression, và duy trì áp lực trên một thiểu số đối kháng chính trị, selective repression. Thí dụ: Ngụy Kinh Sinh, Vương Đán...

Nhóm lãûnh tụ Bắc kinh e dè dân chủ hóa vì lo ngại cho địa vị cá nhân và thấu hiểu sự xuống dốc của Đảng CS củng như cái thế mỏng manh của chế độ. Quyền hạn và vai trò của các bộ phận quốc gia vẫn chưa được minh xác và những định chế chính trị có trách vụ giải quyết tranh chấp còn quá thiếu sót và bất hợp thời. Mở cửa cho quần chúng thí nghiệm dân chủ đương nhiên gây rối loạn. Một dư luận cho rằng Gorbatchev sai lầm vì cải cách chính trị trước khi canh tân kinh tế. Lập luận này bỏ sót một điểm hệ trọng: Gorbatchev thất bại là vì y để cho dân tham gia dân chủ trước khi hoàn tất những thay đổi hiến định dẫn đến việc củng cố các định chế cần thiết cho tiến trình dân chủ hóa. Nhóm lãûnh đạo Trung hoa lo sợ sụp đổ kiểu Nga sô nếu họ cải cách dân chủ trước khi tái phối trí xong các cơ cấu hiến định hiện hữu.

Ngày nay, đảng CS suy yếu trầm trọng về tổ chức, với 58 triệu đảng viên (thống kê 1997) chia thành 3,4 triệu tiểu tổ vẫn còn bị xao động tâm lý bởi biến cố Thiên An Môn 1989. Xã hội Tàu củng thay đổi, ít tùy thuộc Nhà nuớc và Đảng hơn trước, tiếp nhận những giá trị ngoại bang mới và không dễ bị nhồi sọ về ý thức hệ. Ngoài ra, cải cách thị truờng làm cho hệ thống đảng lung lay: Năm 1994, một nhân vật thuộc Trung ương Đảng công nhận rằng trong 35% tổng số hội thảo của các xí nghiệp quốc doanh không tìm ra một bóng đảng viên mạc xít. Đảng cũng không hiện diện cụ thể trong lãnh vực tư nhân đang lên. Theo một thống kê năm 1994 về 3,092 công ty liên doanh với ngoại quốc trong 34 đặc khu kinh tế, đảng chỉ thành công lập tiểu tổ trong 704 xí nghiệp. Nguy cơ lớn nhứt là tình trạng tan rã của tổ chức nông thôn. Sự giải tán các công xá nhân dân, people’s communes, từ 1980 đến 1982 là một vố nặng cho Đảng tại thôn quê. Trên giấy tờø, có 26 triệu đoàn viên CS gài trong 900,000 tổ. Phúc trình chính thức tiết lộ 8% của mạng lưới này “không thể họat động hay sụp đổ “ và 60% “bê bối“ . Công nhân thay đổi vùng để tìm việc làm mới trên thị truờng mở rộng là căn nguyên của bi kịch. Ngân sách quốc gia eo hẹp không cho phép tài trợ tổ chúc đảng tại nông thôn. Lương trảû cho một xã trưởng CS là 1, 000 yuan tức 120 mỹ kim hằng năm. Vì thế không còn mấy ai tha thiết hy sinh phục vụ. Theo thống kê 1995, chỉ có lối 12% tổng số xã trưởng đương nhiệm là dưới 35 tuổi và hơn phân nửûa, thất học hay thuộc bậc tiểu học, thiếu kinh nghiệm chỉ huy. Rất dễ hiểu vì sao nông thôn căng thẳng và dân bớt ủng hộ Đảng.Tham nhủng lan tràn, luật pháp vắng bóng và xung đột bộc phát giữa dân và nhà nước ở nhiều nơi. Tại Guizhou và Sichuan, quần chúng nổi lọạn, giết nhà chức trách địa phương và đốt nhà của họ. Đảng không còn trông cậy vào nông thôn để bảo vệ an ninh. Võ lực vì thế là phương pháp khó tránh để tái lập trật tự.

Trước tình cảnh đó, Bắc kinh sẽ tiếp tục chống chế dân chủ hoá, ưu tiên củng cố đảng và thận trọng cải cách hầu gia tăng khả năng của Nhà nước đối đầu với những thách đố phát xuất từ sự phát triển kinh tế mau chóng của Trung hoa. Đặc biệt, cải cách luật pháp và các định chế đại diện. Gần đây, Giang Trạch Dân tuyên bố nuớc Tàu sẽ “cai trị chiếu theo luật lệ, rule according to law” và tiến trình này sẽ hoàn tất trong hạn...15 năm!. Canh tân thuế vụï đã bắt đầu từ 1994. Tư hữu hóa xí nghiệp quốc doanh, đặt chế độ hưu bổng, sửa đổi chương trình bảo vệ sức khỏe quân chúng, cứu trợ xã hội...v..v..được chính quyền hứa hẹn. Việc cho phép dân tham chính rộng rãi và tự do còn phải đợi cho đến lúc hệ thống chính trị nói trên có hy vọng tồn tại. Trong khi chờ đợi, Đảng áp dụng một vài thí nghiệm vô thưởng vô phạt ở cấp đia phuơng như tổ chức bầu cử khép mở, semi-open elections, tại những tỉnh nhỏ. Điều này chưa thỏa mản giới Mỹ đang đả kích đường lối đối thoại của Clinton. Clinton và các Tổng thống Hoa kỳ về sau sẽ rất vất vả mới thuyết phục nổi dư luận Hoa kỳ rằng chính sách của họ đạt kết quả mong mỏi đối với sự tiến hóa chính trị của Trung hoa.

Còn Việt Nam Thì Sao?

Vì thiếu sáng kiến canh tân và viễn kiến chính trị cho nên từ 1975 đến nay, nhóm cầm quyền tại Hànội không ngớt hướng về Bắc kinh để tìm giải pháp đưa họ ra khỏi thế bí ý thức hệ và kinh tế. Cuộc chiến đẩm máu năm 1979 không xóa được lòng khâm phục của Bắc bộ phủ đối với người đàn anh khổng lồ láng giềng. Lý do khác là hai đảng CS Việt và Tàu đồng chung một căn bịnh. Việt cộng bịnh hoạn ngặt nghèo hơn vì nội tình bê bối thập bội và đất nước thiếu lãûnh đạo khá như Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ. Tham nhũûng, bè phái, dốt nát ù lì, kỳ thị địa phương và trí tuệ, nền giáo dục quốc gia buông thả, môi sinh tệ hại, pháp trị ấu trỉ.....đang đưa Việt Nam từ thất bại đến phá sản. Đất nước tiến vào thế kỷ 21 bằng cách thụt lùi. Đó là nổi nhục của dân tộc ! Với mức độ cao hơn Trung Hoa, nông thôn Việt bất ổn và bắt đầu sôi động từ Bắc vào Nam.vì bất mản tột cùng. Tại nhiều nơi, nông dân đã xuống đường và bạo động chống cường hào ác bá, sưu cao thuế nặng, bất công xã hội, thất mùa, đói khát...Không khác thời thực dân Pháp và kháng chiến với chiến dịch “Cải cách Ruộng đất “! Nông thôn không còn là thành đồng che chở xã hội chủ nghĩa và sẽ là mồ chôn của lý thuyết mac xít. Dân thành thị và giới công nhân củng khởi đầu rục rịch với thất nghiệp lan tràn, xì ke ma túy, mãi dâm, nghèo giàu chênh lệch, dinh dưởng số không và sinh viên bị đối xữ bất công như tại Đại học Văn Lang.

Các tôn giáo sẽ không bỏ qua cơ hội để xách động quần chúng vì tự do tín ngưởng nghẹt thở. Dấu hiệu nổi bật nhứt làm thế giới theo dỏi là trong và ngoài đảng, nhiều tiếng nói thành tâm và uy tín đã, đang và sẽ tiếp tục vang lên để báo nguy tình thế, cảnh cáo chế độ và kêu gọi thức tỉnh, mỗi người một cách. Tuy nhiên, áp lực mạnh nhứt - vì thực tại và cấp thời - là nguy cơ sụp đổ về kinh tế tài chính. Tại VN, đầu tư ngoại quốc giãm sút, tiền tệ mất giá ít nữa 10%, xuất cảng ngất ngư, du khách thối lui, 6300 xí nghiệp quốc doanh thua lổ và không giải tán theo lời đốc thúc của Ngân hàng thế giới vá Quỷ tiền tệ quốc tế. Cuộc khủng hoảng Á châu càn quét Đông Á không chừa nước nào, từ Thái lan, Hồng kông, Mã Lai qua Nhựt, Nam Hàn, Singapour...Chế độ độc tài Nam Dương sụp đổ sau trên 30 năm cầm quyền. Rồi sẽ đến những thủ phủ khác. Việt Nam CS nằm trong trung tâm con trốt, với tất cả điều kiện và yếu tố để bị thổi bay. Trước tình thế khẩn trương, CS Việt Nam đã có hai quyết định u tối: chỉ định Nguyễn Tấn Dũng, một trùm công an dốt dặc về kinh tế, đứng ra điều khiển Ngân hàng quốc gia. Dũng nay được Đại hội CS đưa vào thay thế Thủ tường Phan Văn Khải. Mặt khác, buộc dân chúng học tập chủ thuyết Máïc Lê và tư tưởng họ Hồ. Có lẽ vì tuyệt vọng, Lê Khã Phiêu (khi còn giữ chức Tổng Bí thơ) và các đồng chí nghĩ rằng chỉ có Mác và Hồ đội mồ về mới có thể cứu nguy chế độ. Để vuốt đuôi Bắc kinh, Phiêu còn tuyên bố với báo giới, nhái lại Giang Trạch Dân: VN cần 15 năm để dân chủ hóa !

Bắc kinh và Hà nội nên mở to mắt ngó về Nam Dương, rồi Mã Lai và sau đó, Bắc Hàn và Miến Điện. No ấm và phúc lợi của dân quyết định sự sống còn của chế độ chớ không phải mưu toan và tính toán của nhà đương quyền. Súng đạn không trấn áp được khí thế của dân tộc. Tự do vắng bóng là áp chế. Những kỳ công đẹp nhứt và gợi hứng nhứt của nhân loại đều được tạo ra trong tự do. Xã hội chủ nghĩa chỉ mang lại nô lệ câm hờn và bóp nghẹt sáng tạo . Ngọn thủy triều dân chủ đang biến thành trận bão lớn. Khắp mọi nơi ở Á châu, các nhóm đối lập đã tạo được phong trào nhờ thế giới ủng hộ bằng dư luận và áp lực kinh tế. Toàn dân - nông dân, công nhân, sinh viên và tôn giáo - sớm muộn sẽ kết khối với đối lập. Không thể tống giam toàn dân vì đối lập.

Với hệ thống truyền thông thần tốc hiện đại, thế giới ngày nay thu hẹp lại như một ngôi làng nhỏ. Khái niệm liên đới và đoàn kết nối liền các quốc gia. Mọi lãnh vực đều bị toàn cầu hóa, nhiều hay ít. Dưới sức ép từ nhiều phía, bên trong và bên ngoài, nội tâm củng như ngoại lực, chắc chắn Trung hoa và Việt Nam sẽ dân chủ hóa trước thời hạn, muốn hay không muốn. Vì ýÙ Dân là ý Trời. Tự giải thể hay bị tiêu diệt, tạo cơm áo cho dân và trả quyền lại cho dân, Cộng sản cùng đường không có lối thoát thứ hai. Vấn đề hiện tại là rút ngắn thời hạn dân chủ hóa. Bằng mọi cách. Càng sớm càng hay.

Lâm Lễ Trinh


Từ Công Nhận Cờ Vàng Tới Cấm Treo Cờ Đỏ cộng sản Việt Nam - Lý Đại Nguyên


Lý Đại Nguyên

Nhiều thành phố, quận hạt, tiểu bang Hoakỳ công nhận Lá Cờ Vàng của Quốc Gia Việt Nam là biểu tượng tinh thần Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền của Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoakỳ, là một bằng chứng hùng hồn nói lên rằng: Những cơ quan đại diện trực tiếp của Người Dân Hoakỳ đã đồng tình và triệt để hỗ trợ cho những cuộc tranh đấu chống lại chế độ độc tài toàn trị của Việtcộng, để đòi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho toàn dân Việtnam của Người Việt Tỵ Nạn sống trên đất Mỹ và ở toàn thế giới. Lá Cờ Vàng, do đó, vừa là hiệu lệnh thống nhất, và duy nhất để quy tụ lực lượng đối kháng lại những âm mưu thao túng Cộng Đồng của Việtcộng, vừa là thứ vũ khí hữu hiệu trong tay các đoàn biểu tình bất bạo động, để dằn mặt, làm nhụt nhuệ khí, vô hiệu hóa khả năng tuyên truyền của Việtcộng trước dư luận quốc tế cho các chuyến công du của phái đoàn cấp cao Việtcộng chính thức viếng thăm Mỹ, và các nước khác có Cộng Đồng Người Việt hiện diện.

Mở đầu cho phong trào “Công Nhận Cờ Vàng”, khởi đi từ vùng Little Sàigòn, thủ đô của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, sau 53 ngày đêm người Việt Hải Ngoại kiên trì bất bạo động, chống lại sự xuất hiện của hình Hồ Chí Minh và lá Cờ Đỏ Sao Vàng của Việtcộng tại phố Bolsa. Với 2 Nghị quyết công nhận Cờ Vàng của 2 thành phố Westminster và Garden Grove, do hai nghị viên trẻ là Andy Quách và Trần Thái Văn của 2 thành phố đó là những tác giả của 2 bản Nghị Quyết lịch sử này. Để tới nay, hàng trăm thành phố, quận hạt, và tiểu bang có người Việtnam sinh sống, đều đã công nhận Lá Cờ Vàng tiêu biểu cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn. Sau khi Việtcộng công bố Nghị Quyết 36, chúng liền vận động với Bộ Ngoại Giao Mỹ để cho một phái đoàn Quốc Hội của chúng, công khai, ngang nhiên đến ‘tham quan’ khu Little Sàigòn, bằng xe limousine cắm cờ đỏ, được Cảnh Sát Mỹ hộ tống. Ngay lập tức, thành phố Garden Grove ra Nghị Quyết không cho các phái đoàn của Việtcộng chính thức quá cảnh, hoặc thăm viếng thành phố. Nghị quyết này do nghị viên Trẩn Thái Văn đệ nạp và được toàn thể hội đồng thành phố chấp thuận ngày 11/05/2004. Tiếp đến là thành phố Westminster cũng ban hành nghị quyết tương tự. Mục đích của nghị quyết 36 nhằm công khai hóa mọi sinh hoạt của Việtcộng trong Cộng Đồng Việtnam tại Hoakỳ đã bị bẻ gẫy.

Mặc dù vậy, việc treo cờ của các nước ngoài, ở các trường học, có học sinh của nước đó theo học là quyền của mỗi nhà trường. Nhất là các Đại Học có quy chế tự trị rất cao. Chính vì thế mà, vì vô tình, hay cố ý, nhiều trường ở các thành phố, quận hạt, tiểu bang đã công nhận Cờ Vàng vẫn treo Cờ Đỏ của Việtcộng, khiến cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tốn rất nhiều công sức. Nên việc 2 tiểu bang Massachusetts, và mới đây là tiểu bang Texas đã ra Nghị Quyết cấm treo Cờ Đỏ của Việtcộng là một thắng lợi lớn đối với Cộng Đồng Tỵ Nạn Cộng Sản. HCR258, là nghị quyết do dân biểu tiểu bang Texas, gốc Việt, Hubert Võ đệ trình trước quốc hội tiểu bang, đã được Thượng Viện và Hạ Viện tiểu bang Texas thông qua hôm 30/05/2009. “HCR258 là Nghị quyết luật pháp khuyến cáo các trường Đại Học Houston (University of Houston) và tất cả các trường đại học tại tiểu bang Texas phải treo Cờ Vàng là biểu tượng của người Việt quốc gia, đại diện cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Texas, chứ không treo Cờ Đỏ của Việtcộng nữa”.

Sở dĩ có một vài trường đại học mượn cớ, là trường của họ có một số du sinh tại Việtnam theo học, nên họ phải treo Cờ Đỏ của chế độ Việtcộng, cũng như họ treo cờ của các nước khác. Nhưng việc này đã là một đả kích lớn đối với các sinh viên Mỹ gốc Việt, vốn là những người tỵ nạn cộng sản, ông bà, cha mẹ, anh chị em và chính bản thân họ đã từng bị chế độ đó đầy đọa, khủng bố, tước đọat quyền sống, cả quyền học hành, thế mà nay tới được bến bờ tự do, lại vẫn phải đến học dưới mái trường có Lá Cờ Đỏ ngạo nghễ tung bay, thì tâm tình, tinh thần đâu chịu đựng nổi. Nhất là trong khi đó, tại thành phố, quận hạt và tiểu bang ấy lại đã chính thức có nghị quyết công nhận Lá Cờ Vàng là tiêu biểu của cộng đồng mình. Còn đối với các du sinh từ Việtnam qua, thì họ đã có tự do để lựa chọn trường lớp và nước đến học. Đó là quyền của họ, không thể vì làm vừa lòng một thiểu số Việtcộng, mà quên đi nguyện vọng của đa số con em người Mỹ gốc Việt được.

Quả thật việc giới trẻ Việtnam tham gia vào chính trường Hoakỳ, nếu họ giữ vững được tâm hồn và ý chí của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, luôn luôn hướng về quê hương Việtnam, quyết tâm vận động cho một nước Việtnam Tự Do, Dân Chủ, Phú Cường thực sự, thì tiến trình Dân Chủ Hoá Việtnam chắc chắn sẽ rút ngắn lại nhiều. Vì các Nghị Viên thành phố, các Giám Sát Viên quận hạt, là những đơn vị trực tiếp hỗ trợ hữu hiệu cho công cuộc xây dựng thế vững mạnh cho Cộng Đồng Chống Cộng. Các Dân Biểu tiểu bang và Liên Bang đưa các nghị quyết, luật lệ có lợi cho công cuộc Dân Chủ Hoá Việtnam. Dân biểu tiểu bang California, Trần Thái Văn đã vận động thành công để tiểu bang công nhận Cờ Vàng, rồi được chính thống đốc Arnold Schwarzenegger đến tận Little Saigon ký ban hành. Đến nay Dân Biểu tiểu bang Texas, Hubert Võ đã thành công trong việc vận động Quốc Hội tiểu bang không cho treo Cờ Đỏ Việtcộng tại các trường đại học trong toàn tiểu bang

Còn dân biểu liên bang gốc Việt, Cao Quang Ánh đã vận động thành công để Hạ Viện Hoa Kỳ, ngày 28/04/2009, thống nhất thông qua Dự Luật H.Res.342 lấy ngày 02 tháng 05 hàng năm làm Ngày Của Người Tị Nạn Việt Nam, để vinh danh chuyến đi tới tự do của người Mỹ gốc Việt. Về Tự Do Tôn Giáo, dân biểu Cao Quang Ánh và dân biểu Ed Royce bảo trợ cho điều luật bổ sung của Dự Luật H.R.2410, khuyến cáo chính phủ Mỹ đưa Việtnam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo – CPC, đã được Hạ Viện Mỹ thông qua, và chờ Thượng Viện Mỹ biểu quyết. Bộ ngoại giao Hoakỳ đã đưa nhà nước Việtcộng vào danh sách này từ năm 2004 đến 2006. Trong thời gian ấy, Hànội đã nới lỏng tự do tôn giáo tại Việtnam đôi chút. Nhưng sau khi Mỹ lấy tên Việtnam ra khỏi danh sách đó, thì Việtcộng lại xiết chặt các tôn giáo dân lập tại Việtnam thêm nữa. Đồng thời dùng thứ "Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo" ma quái "xin cho" đặt các tôn giáo đang được sinh hoạt công khai tại Việtnam dưới sự chi phối, kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc công cụ của Cộng đảng, ngày càng gắt gao. Đứng ở thế quốc tế, Hoakỳ vẫn là một thế lực mạnh trong việc áp lực Việtcộng phải sớm Dân Chủ Hóa. Chính vì thế, mà người Mỹ gốc Việt chân chính càng đạt tới điạ vị cao trong mức thang Dân Cử Hoa Kỳ, thì càng thiết thực giúp ích cho đất nước khốn khổ Việtnam sớm thoát khỏi bàn tay cai trị của bọn đầy tớ Bắckinh mau hơn.

Lý Đại Nguyên

http://danviet.de/baiMitMenu.php?bai=1192&LinkIndex=index.php?&vung=&muc=0&AnfPos=0&Ausw%20ahl=&Eingabe=&Gr=0&Eb1=0&Eb2=0&Eb3=0&TypEb=&ReiterA=0&ReiterB=0

Hứa Vạng Thọ (Tin Paris) Chuyện công và chuyện tư - Nguyễn văn Hoàng

Nguyễn văn Hoàng

Kính thưa bà con,

Điều đầu tiên đệ muốn chia sẻ trong thư này là một cái nhìn.

CHUYỆN CÔNG

Tin Paris viết:

Biến chống Cộng thành "trò hề" tức là tiếp tay cho CS, và đó cũng là "chiến thuật" thâm độc của CSVN , như Mặt Trận Hoàng Cơ Minh , các chính phủ Đào Minh Quân, Nguyễn hữu Chánh, Lý tòng Bá (Việt Nam Cộng Hòa Foundation), Phan văn Song Chủ tịch Đại Việt QDĐ, tiến sĩ giả, v.v.. mà mọi người đều biết rõ nhưng không dám nói. Chuyện "Chống Cộng" là quan trọng, ai cho các anh đại diện Cộng Đồng ở Hải Ngoại có quyền "phong chức" bừa bãi y như trong các gánh hát "bầu tèo"? Đó là hành vi của những kẻ "lưu manh", lường gạt và tiếm danh.

Đệ nghĩ rằng VC luôn luôn tìm cách gài nằm vùng vào các tổ chức chống chúng. Nếu không phá sập các tổ chức, VC hướng nó trở thành một tổ chức chống Cộng cuội. Người nào nguy hiểm cho chúng thì chúng sẽ tìm cách thanh toán, hay vô hiệu hóa bằng cách này hay cách khác. VT hay các tổ chức chính trị lớn của hải ngoại khó lòng thoát khỏi nanh vuốt này. Dạo thường liên lạc với nhân vật cao cấp của VT, đệ vẫn hỏi là làm sao VT tránh được nằm vùng của VC, nhưng không có câu trả lời.

VC có muốn các tổ chức cuội thực sự mạnh hay không? Chắc chắn là không. Ngay cả con đẻ của CS Hà Nội là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà nó còn đì sát ván, không có lý do gì VC muốn tổ chức chính trị hải ngoại, dù là cuội, mạnh. VC chỉ muốn đảng chống Cộng cuội đủ hấp lực để thu hút người chống chúng, đặc biệt là người trong nước, gom về một mối, rồi tỉa từ từ. Mặt khác, VC cũng phải đánh cho các đảng này mềm mềm để nói không đủ mạnh để lấn chúng. Do đó quý vị sẽ thấy một mặt thì báo Công An chửi VT, chửi chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, làm người chống Cộng trong nước tin tưởng rằng các đảng này là địch thủ nguy hiểm của VC. Mặt kia thì cũng có những websites ở hải ngoại được VC phân công đặc trách chửi các đảng này tối ngày sáng đêm để đánh cho đảng này mềm ở hải ngoại. Do đó, không phải website nào đánh VT, CP Nguyễn Hữu Chánh cũng là websites của người chống Cộng chân chính. Tin Paris nằm trong "diện" này. Ở đây tiểu đệ không nói đến các cá nhân chỉ trích các đảng cuội, đệ chỉ xin quý vị lưu ý đến những websites, mở ra không thấy xây dựng, mà chỉ thấy đánh phá. Đệ cũng không nói Tin Paris là VC, điều đệ muốn tâm tình là không phải thấy Tin Paris đánh tùm lum thì ta cho website này là chống Cộng tích cực.

Chống Cộng tích cực là đánh VC tích cực, là xây dựng thế lực của tự do dân chủ chớ không phải đánh người và tổ chức hải ngoại ì xèo như Tin Paris. Đánh người và tổ chức ở hải ngoại như Tin Paris là điều CSVN muốn làm.

Quý vị thường đọc bài sẽ thấy có những bài chống chủ trương của các đảng chính trị một cách đàng hoàng, nhiều bài chửi rủa, hề hóa các đảng phái này. "Biến chống Cộng thành " trò hề " tức là tiếp tay cho CS, và đó cũng là "chiến thuật" thâm độc của CSVN". Câu này do Tin Paris viết, cũng là điều Tin Paris làm.

CHUYỆN TƯ

Kính thưa quý vị,
Trong mươi ngày qua, từ khi Take2tango phê bình Tin Paris, nhiều người cũng đã lên tiếng bất mãn về việc đánh phá tứ tung của website này, đặc biệt là sự tấn công lỗ mãng của họ đối với HT Thích Quảng Độ. Liên quan đến sự kiện này, một số bài viết được Tin Paris bắn trả. Tuy nhiên, một lần nữa, Tin Paris xác định điều người ta lên án website này là đúng: Tin Paris tiếp tục giở ngón bêu xấu người khác.

Cách đây vài ba hôm, một người bạn forward cho tiểu đệ một bài viết của Tin Paris, bổn cũ soạn lại, tấn công tiểu đệ. Tin Paris, ông Hứa Vạng Thọ, dựa vào tài liệu của một nick tên là Hue Tran. Đồng thời ông cho biết cậu của tiểu đệ là ông Trần Quang Long ở Mỹ xác định thư của Hue Tran là chính xác. Vì thư của Huệ Trân viết có nhiều chi tiết, có việc đúng, có việc hoàn toàn sai, tiểu đệ cũng không biết cậu Trần Quang Long xác nhận đoạn nào đúng, nên thật khó trần tình.

Trước đây, khi bị Tin Paris tấn công, tiểu đệ có lên tiếng bào chữa thì một vài bằng hữu khuyên rằng không cần đôi co với Hứa Vạng Thọ làm chi. Tiểu đệ vốn dĩ không xem những điều người ta bôi lọ mình là quan trọng, nhưng trong thư của Hue Tran mà Tin Paris dùng để tấn công đệ, có nhiều đoạn có thể gây ra ngộ nhận cho thân phụ của tiểu đệ. Bản thân có thể bỏ qua, nhưng việc bênh vực người ngay, dù là người lạ hay là thân thích, là bổn phận của người có nhân tính. Thông thường tiểu đệ không nói về bản thân và người nhà, vì hiểu rằng cái tôi là cái đáng ghét, song hôm nay xin được phá lệ.

Tin Paris viết:

Chúng tôi có hỏi thăm Nhạc sĩ Trần Quan Long để xác nhận những tài liệu mà chúng tôi có được của HueTran, và xin phép được đua tên ông ra làm nhân chứng. Ns Trần quan Long là cậu bảy của Nguyên văn Hoàng, cho biết là những tài liệu của HUETRAN là đúng, và nếu cần chúng tôi nên hỏi thêm Khúc Vượng & Trần Thị Lan Australia 011 61 7 37 14 99 77 Ông Khúc Vượng là dượng tám của BS NVH ( bà Khúc Vượng, tức Trần Thị Lan, là dì ruột (thứ tám) của Bs NVH). Một người bạn khác cũng cho chúng tôi tin về người chị Hai của Ông Nguyễn văn Trích là Bà Hai Én, có chồng Bs Ánh, trước đây làm việc cho Labo dược phẩm KIM của Dược sĩ Nguyễn Kim Loan, đường Cao Thắng Saigon. Sau 1975, bà hai Én rất giàu vì làm "áp phe" với các chóp bu CSVN.

Những kẻ làm tình báo cho CSVN làm sao mà biết rõ được họ ? Trừ khi nào họ bị bắt như Huỳnh văn Trọng hay Vũ Ngọc Nhạ, hoặc sau 1975 khi "ván bài đã lật ngửa" như Trần văn Chiêu, Tướng Nguyễn hữu Hạnh, Phạm Xuân Ẩn thì chúng ta mới biết được. Trường hợp ông Nguyễn văn Trích, một công chức cao cấp của Miền Nam VNCH, sau 1975 vẫn còn ở nhà của mình, con cái đi học đàng hoàng, không bị "kỳ thị" lý lịch không đi "cải tạo" , xin để quý đọc giả suy luận. Sau 1975, ông Khúc Vượng đã năn nỉ các người bạn của mình "tha Ông Nguyễn văn Trích" sau khi công tác "phá hoại Nhà đèn" của CSVN tại Saigon do nhóm của ông Khúc Vượng chủ trương đã thất bại. Ai muốn tìm hiểu thêm thì cứ liên lạc thẳng với những người "trong gia đình" như Ns Trần Quan Long hay Ông Khúc Vượng thì biết rõ sự thật. Đây không phải là trọng tâm của TinParis.net ngày hôm nay.

Kính thưa bà con,

Thân phụ của tiểu đệ, ông Nguyễn văn Trích, vốn học cùng khóa Quốc Gia Hành Chánh với bác Nguyễn Bá Cẩn. Ông là một công chức gương mẫu, không theo phe cánh. Chức vụ cuối cùng của ông trong chính quyền VNCH là Tổng Thơ Ký bộ Kế Hoạch và Phát Triển Quốc Gia. Năm 1973, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tác giả của quyển Khi Đồng Minh Tháo Chạy, về làm tổng trưởng bộ Kế Hoạch và thân phụ của tiểu đệ đã thuyên chuyển qua làm ở công ty Đường VN đầu năm 1974. Đây là một công ty hợp doanh, thân phụ của tiểu đệ giữ chức Tổng Kiểm Soát, kim phụ tá hành chánh tài chánh. Từ đó ông không còn làm trong chính phủ VNCH.

Năm 1975, khi VC vô thì ông Tổng Giám Đốc của công ty đường di tản, thân phụ của đệ trở thành nhân vật cao cấp nhất của công ty Đường. Khi VC kêu đi học tập thì ông đã chuẩn bị khăn gói, nhưng Ba Hội, người tiếp quản công ty ra lệnh ông chỉ đi học tập ở trụ sở Hạ Viện vì nhiều lý do. Thứ nhất, Ba Hội bảo thân phụ của tiểu đệ đã không làm trong chính phủ VNCH, không phải là "ngụy quyền" đương quyền. Thứ nhì, nếu ông cũng rời công ty thì không còn viên chức cao cấp nào biết được việc điều hành của công ty, mà VC thì rất dốt. Thứ ba, lúc ấy VC quan niệm "bí thư" mới là lớn, còn "tổng thơ ký" thì bất quá chỉ làm sếp của thơ ký mà thôi.

Nhờ vậy mà thân phụ của tiểu đệ không phải ở tù dài hạn.

Cậu Trần Quang Long đi từ năm 1975, từ ấy chưa gặp mặt, thậm chí chưa liên lạc với thân phụ của tiểu đệ lần nào, cho nên nếu có làm chứng điều gì thì cũng chỉ có giá trị với việc xảy ra trước năm 1975 mà thôi. Cả câu chuyện dựng đứng là cô Hai Én của tiểu đệ làm áp phe với VC, chắc cậu Trần Quang Long cũng không làm chứng cho Tin Paris. Thật tội cho cô Hai, sau khi VC vô, nhiều cô chú đi di tản, VC vào chiếm nhà, sau cùng từ một biệt thự cô phải về sống trong một căn gác hẹp. Thân phụ của tiểu đệ một đời đóng góp cho miền Nam, liêm khiết đến mức độ không mua được một căn nhà riêng. Thật bất nhẫn khi người ta vì ghét con của ông mà bêu xấu một công chức tận tụy.

Bây giờ đệ xin kể đến đoạn sau mà Tin Paris đề cập, tức là đoạn có liên quan đến ông Khúc Vượng.

Thưa bà con, hình như năm ấy là 1979, trong một đêm mưa gió tầm tã, khoảng 11.30 khuya, có người dộng cửa nhà của tiểu đệ. Lúc ấy giới nghiêm lúc 12 giờ, 11.30 mà có người dộng cửa thì lành ít dữ nhiều. Ra mở cửa thì thấy ông Khúc Vượng. Ông đẩy xe honda vào nhà, thì thầm với thân phụ của tiểu đệ chừng 10 phút. Ông trao cho ba của đệ một cái phù hiệu bằng vải bố và bảo rằng sáng hôm sau sẽ có cuộc tổng nổi dậy ở Hồ Con Rùa của một nhóm phục quốc. Ông Khúc Vượng kêu ba của tiểu đệ ra Hồ Con Rùa tiếp ứng.

Trời mưa suốt đêm. Đến sáng, thân phụ của tiểu đệ đạp xe đạp ra Hồ Con Rùa đường Duy Tân thì thấy mọi sinh hoạt như bình thường. Sau này mới được ông Khúc Vượng cho biết là các nhóm nổi dậy đã bị bắt ở bến xe và những điểm tập họp khác. Bây giờ thì có người bịa đặt việc phá hoại nhà đèn, định bôi lọ thân phụ của tiểu đệ, thật ác tâm.

Sở dĩ họ dựng đứng những câu chuyện về thân phụ của tiểu đệ chỉ vì họ muốn tấn công tiểu đệ. Tin Paris viết:

Trở lại vấn đề "Diễn Đàn Mail Phố Nắng" của Ông Nguyễn văn Hoàng TinParis đã nêu lên 2 điểm chánh:

1. Ông Nguyễn văn Hoàng trước đây là người của Mặt Trận HCM tức Băng Đảng Việt Tân sau nầy.
2. Ông NVH viết những điều có lợi cho CSVN trong "Xóm vắng" với các Nickname như Võ Thủy Tiên, QLD,v.v...CSVN sẽ mừng lắm khi gặp một người chống cộng kiểu ông NVH !

Thực là khôi hài vì tất cả những người ở Brisbane, hiểu tiểu đệ, sinh hoạt chung với tiểu đệ, kể cả đảng viên của Việt Tân, đều biết tiểu đệ không hề là người của Mặt Trận. Trơ trẽn như Tin Paris thì phải gọi là thượng thừa. Còn nếu tiểu đệ sợ người ta nghĩ mình từng dùng bút danh Thủy Tiên thì đã không tự nhận mình là Thủy Tiên. Lý do mà tiểu đệ tự nhận như sau.

Ngày trước, nhà tiểu đệ ở sát vách với ông Hoàng Cơ Định. Gia đình ông thường qua lại. Người chú út của đệ thứ 16, bà nội tiểu đệ mến ông Định nên gọi ông là "thằng 17", xem như con. Trong thời gian tiểu đệ viết dưới bút danh là Thủy Tiên thì có liên lạc với "uncle 17" Hoàng Cơ Định, và đảng VT biết Thủy Tiên là tiểu đệ. Sau khi nhận thấy đảng VT có chủ trương giúp đào mương hốt giếng, ngược lại với lập trường của đệ thì tiểu đệ lên tiếng phản đối. Đệ từng ủng hộ Little Saigon ở San Jose, viết nhiều bài phê bình đảng Việt Tân. Khi đệ quyết định mở diễn đàn Phố Nắng, biết sẽ bị tấn công, nhất là khi người ta nắm cái tẩy Thủy Tiên của tiểu đệ, đệ đã công khai bút danh này.

Cũng trong thời điểm này thì nick Hue Tran nhào ra bôi nhọ đệ và gia đình. Tiếp theo là Tin Paris khai thác sự tấn công này mặc dù đệ và Tin Paris chưa hề có qua lại trước đó.

"Những kẻ làm tình báo cho CSVN làm sao mà biết rỏ được họ ? Trừ khi nào họ bị bắt như Huỳnh văn Trọng hay Vũ Ngọc Nhạ, hoặc sau 1975 khi " ván bài đã lật ngửa" như Trần văn Chiêu , Tướng Nguyễn hữu Hạnh, Phạm Xuân Ẩn thì chúng ta mới biết được." Câu này Tin Paris viết, xin kính hoàn lại cho Hứa Vạng Thọ.


Trân trọng,
Nguyễn văn Hoàng
(hoang4eb@gmail.com )

---------- Forwarded message ----------
From: Hien Phan >
Date: 2009/6/2
Subject: [PhoNang] Hua Vang Tho Tin paris
To: PhoNang@yahoogroups.com

Ông Hứa Vạng Thọ bị khai trừ khỏi LMDCVN từ năm 1990.
Hắn ta đánh phá LMDCVN sau khi hắn đề nghị LMDCVN mở website đăng tin giựt gân để câu đọc giả nhung LMDCVN kho^ng dong y'. kho^ng ngac nhien khi Tin Paris lau lau dang tin vi.t, thuong xuyen chui vc, lau lau quay qua chui nguoi chong cong.
________________________________________
http://www.take2tango.com/?display=7111


Liên Minh Dân Chủ Việt Nam
Dân Bản – Tự Do – Độc Lập – Hoà Bình – Trung Lập

ỦY BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

THÔNG CÁO




Kính thưa Quý Vị

Gần đây, nhiều độc giả của điện báo Take2Tango và một số diễn đàn khác có đề cập đến Hứa Vạng Thọ và liên hệ của Ông này với Liên Minh Dân Chủ Việt Nam và với cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy.

Nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề, kính xin Quý Vị vui lòng phổ biến rộng rãi Thông Cáo này:

1. Từ ngày cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời, có rất nhiều người đã “nhân danh” Ông, thậm chí còn “trích dẫn lời của GS Nguyễn Ngọc Huy”…, để che đậy những hành vi sai trái của mình hay của phe nhóm mình.

2. Đoàn thể chánh trị do cố GS Nguyễn Ngọc Huy sáng lập, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam có một lập trường rất rõ ràng và đơn giản:

- LIÊN MINH hàm ý Đoàn Thể của chúng tôi không chủ trương tranh đấu đơn độc, mà Liên lập với tất cả những đoàn thể quốc gia bạn.

- DÂN CHỦ VIỆT NAM là mục tiêu chiến lược tối hậu của Đoàn Thể chúng tôi.

Tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội, qua chủ trương và đường lối phản quốc, phản dân chủ, đã đưa đất nước Việt Nam xuống vực thẵm; cho nên họ là kẻ thù duy nhứt mà chúng tôi phải ưu tiên triệt hạ.

3. Chính vì thế mà LMDCVN chủ trương TUYỆT ĐỐI KHÔNG CHỐNG PHÁ BẠN.

- Công tác nào chúng tôi nhận thấy có lợi cho mục tiêu chiến lược nêu trên, LMDCVN sẽ chủ xướng hoặc cộng tác một cách chân thành, sao cho công tác được thành công hữu hiệu.

- Việc gì chúng tôi không đồng ý hay nhận thấy không thể cộng tác chung thì chúng tôi chủ trương “việc ai nấy làm”. LMDCVN TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐẢ KÍCH, CHỐNG PHÁ.

Vì thế cho nên, những việc làm của Ông Hứa Vạng Thọ hoàn toàn trái ngược với lập trường và chủ trương của LMDCVN. Và chúng tôi xin tái xác nhận: ông Hứa Vạng Thọ đã không còn liên hệ gì đến LMDCVN chúng tôi từ đầu thập niên 1990.

Ngày 26 tháng 05 năm 2009

Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương
Nguyễn Quốc Nam


Tuesday, June 2, 2009

Tự do báo chí hay tự do bóp ghẹt báo chí (!?) - Trần Việt Trình

Trần Việt Trình

Tuần rồi, liên tiếp trong 3 ngày, nhật báo The Age của Melbourne Úc Châu đã chạy trang nhất phanh phui hợp đồng làm ăn đáng ngờ giữa công ty Securency của Úc mà Ngân Hàng Trung Ương Úc (Australia's Reserve Bank) có một nửa cổ phần với một công ty Việt Nam có liên hệ với con trai của cựu Thống Đốc Ngân Hàng CSVN. Hai nhà báo Nick McKenzie và Richard Baker của báo The Age đã mở loạt bài điều tra cho hay công ty Securency đã trả hàng triệu đôla tiền hoa hồng cho công ty CFTN (Company For Technology and Development) của VN có công ty con Banktech thuộc quyền quản lý của Lê Đức Minh, con trai của cựu Thống Đốc Ngân Hàng CSVN Lê Đức Thuý. Đọc báo người mà nghĩ đến báo ta. À không, đọc báo người mà nghĩ đến báo VC, mà ngán ngẩm. Nếu như ở VN, hai nhà báo này đã bị bắt giữ, bị thâu thẻ hành nghề, bị buộc tội lạm dụng quyền hạn và "thông tin sai lạc".

Năm 2005, báo chí trong nước bắt đầu phanh phui một vụ tham nhũng trong đơn vị hạ tầng cơ sở có tên là PMU18 của Bộ Giao Thông Vận Tải, cáo buộc các viên chức hữu trách đã biển thủ ngân quỹ và dùng những món tiền này để cá độ bóng đá. Vụ tai tiếng tham nhũng này đã khiến Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải phải từ chức. Tháng 8 năm rồi, chính phủ VN cho hay 4 nhà báo bị tịch thu thẻ hành nghề vì đã viết và duyệt đăng những tin tức "thất thiệt" về một vụ chống tham nhũng và vì đã bênh vực cho các đồng nghiệp bị bắt giữ vì các bài tường thuật của họ trong vụ này. Ba tháng trước đó, hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải, đã bị bị cơ quan an ninh điều tra, khởi tố và bắt giam vì tội "lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích của Nhà Nước". Nhật báo Thanh Niên đòi trả tự do cho các nhà báo lương thiện. Nhật báo Tuổi Trẻ cũng lên tiếng cho rằng nhà báo của họ đã phải trả một cái giá quá đắt cho việc đưa tin. Hai ngày sau, các báo này đã phải ngưng ngay những lời phản kháng sau khi nhận được một lời cảnh cáo của chính phủ. Đúng là “TỰ DO BÁO CHÍ” ở một nước "TỰ DO"!!!

Ấy thế mà Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đứng đầu nhà nước, trả lời phỏng vấn nhân chuyến thăm Anh quốc tháng 3 năm rồi tuyên bố “Việt Nam có tự do báo chí rất tốt, rất cởi mở, rất thông thoáng”. Nỗi uất ức của công luận chưa kịp nguôi ngoai trước sự kiện 2 nhà báo của Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt giam cùng với 7 nhà báo khác đồng loạt bị tước thẻ hành nghề vì những bài viết phanh phui vụ tham nhũng PMU18, thì đầu tháng 8 năm 2008, Ban Bí Thư Trung Ương Đảng ban hành Chỉ Thị số 25 khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng” đối với báo chí.

Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948 điều 19 đã ghi: “Ai cũng có quyền tự do bày tỏ quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.

Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được biểu quyết năm 1966, mà CSVN đã xin được tham gia năm 1982, điều 19 cũng đã ghi:

1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.

2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ”.

Hiến pháp Nước Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 69 có ghi “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

Nhà cầm quyền CSVN đã sử dụng cụm từ “theo qui định của pháp luật” để xảo trá phủ nhận tất cả các quyền về Tự do, Thông tin và Ngôn luận được Hiến pháp qui định. Do đó, trên thực tế, CSVN hoàn toàn độc quyền định hướng và khống chế thông tin, độc quyền sở hữu các phương tiện thông tin. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ đảng và chế độ. Vì thế truyền thông và thông tin trong chế độ CSVN luôn mang tính một chiều, bưng bít, và dối trá.

Trái với những gì CSVN xảo trá rêu rao, quyền thông tin ngôn luận như được xác định trên đây vẫn luôn bị bóp nghẹt trầm trọng như từ bao nhiêu năm qua, bản chất tuyệt nhiên không thay đổi. Không cấm mở các đài truyền thanh từ nước ngoài được và không bịt được tai của dân thì đảng lại tìm mọi cách khóa con mắt của dân. Nhà cầm quyền VN kiểm soát gắt gao Internet, không nhằm mục đích bảo vệ thuần phong mỹ tục mà hòng ngăn chận mọi thông tin trái với lập trường và quan điểm của đảng CS. Nghe lén điện thoại, đọc lén email, phá hủy bưu thư, kiểm soát điện thư, ngăn chặn văn bản, ấn phẩm là những thủ thuật thường dùng của CS. Ngoài ra, CSVN còn dựng lên vô số bức tường lửa để ngăn chận các trang web có nội dung vạch trần sự thật, tố cáo bất công, đòi hỏi tự do chính trị hay tự do tôn giáo ở trong nước cũng như ngoài nước của người Việt lẫn ngoại quốc; khủng bố và bắt bớ những công dân sử dụng diễn đàn thông tin điện tử "trái phép". Cụ thể nhất là việc phạt tù các nhà đấu tranh Nguyễn Vũ Bình và Phạm Hồng Sơn vì họ đã sử dụng Internet để bày tỏ chính kiến; là việc phá huỷ trang Web mới thành lập của Phong trào Dân chủ Việt Nam, và việc phạt tiền Nhà đấu tranh Đỗ Nam Hải.

Tháng 11 năm ngoái, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới RSF (Reporters Sans Frontières) phổ biến bảng xếp hạng các nước trên thế giới về việc tôn trọng tự do báo chí. Theo bảng xếp hạng này, VN đứng gần chót, chung nhóm với các nước độc tài, quân phiệt và cuồng tín. Trong số 173 quốc gia mà RSF khảo sát và đánh giá, VN được xếp hạng thứ 168, còn thua cả Trung Quốc. Trung Quốc đứng hàng thứ 167. Bảng xếp hạng căn cứ vào các tài liệu, khảo sát và đánh giá trên 49 tiêu chuẩn liên quan tới tự do báo chí cho thời điểm từ 1/9/2007 đến 1/9/2008 tại từng quốc gia. RSF chỉ thuần tuý căn cứ vào căn cứ những vi phạm hay mức độ tôn trọng quyền tự do diễn đạt, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí của người dân tại mỗi nước. Một số các tiêu chuẩn được RSF xét đến chẳng hạn như: giết người bịt miệng, bỏ tù, hành hung, đe dọa các tổ chức và cá nhân người cầm bút. RSF xét đến cả những hành động sử dụng những tổ chức bí mật, những thế lực đen để đàn áp giới cầm bút. Ðối với các tổ chức thông tin thì đó là việc khủng bố, kiểm duyệt, tịch thu hoặc cấm xuất bản.

Tưởng cũng cần nhắc lại, trong những bảng xếp hạng trước đây, VN thường xuyên nằm trong nhóm cuối bảng. Năm 2002, RSF gọi tổng bí thư đảng CSVN Nông Ðức Mạnh là “con dã thú sát hại báo chí” (“a predator of press freedom”). Trên trang web của RSF (http://www.rsf.org/article.php3?id_article=1087) có đăng hình 40 "con dã thú” trên khắp thế giới. Những con dã thú này có quyền lực kiểm duyệt, bắt bớ, bắt cóc, tra tấn và tệ hại hơn nữa là có thể cả thủ tiêu nhà báo (“these predators of press freedom have the power to censor, imprison, kidnap, torture and, in the worst cases, murder journalists”). Trong 40 tay sát thủ của các nhà báo đó Nông Đức Mạnh đứng đầu, được đặc biệt chiếu cố và được đăng to nhất. Nông Ðức Mạnh đã quyết liệt dùng mọi cách để làm tắt tiếng những tiếng nói dân chủ tại VN (“Nong Duc Manh has decided to use every means possible to silence the human rights and pro-democracy activists who got together to form Bloc 8406 and who have defied the government by launching two underground magazines that are distributed abroad and clandestinely within Vietnam”). Cả Nông Ðức Mạnh lẫn Nguyễn Tấn Dũng, bất chấp hiến pháp Việt Nam, đã nhiều lần tuyên bố thẳng thừng là VN không chấp nhận báo chí tư nhân.

Đầu năm nay, một tổ chức khác gọi là Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ (Committee to protect Jounalists) trụ sở tại New York, Hoa Kỳ, cũng công bố một bản phúc trình lên án nhà cầm quyền VN trong năm qua đã đàn áp nhiều ký giả, nhiều người viết blogs, cùng các nhà dân chủ, khiến họ bị tù tội và trù dập. Theo CPJ thì VN là một trong những nước kiểm soát Internet nghiêm ngặt nhất tại Á Châu và Hà Nội tổ chức ngăn chận mọi web sites cùng những tài liệu trên internet mà họ xem là đe dọa đến chính thể của họ. Bản phúc trình của CPJ nhắc đến trường hợp nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, nổi tiếng dưới cái tên quen thuộc là blogger Điếu Cày, bị Hà Nội kết án 30 tháng tù với tội trốn thuế, một hành động mà CPJ cho là trả thù của Hà Nội, sau khi blogger Điếu Cày tường thuật về những vụ biểu tình chống TQ xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đã vậy, CSVN không chỉ giới hạn việc kiểm soát giới truyền thông trong nước mà thôi. Bản phúc trình cũng nêu lên hành động đàn áp một nhà báo ngọai quốc vào tháng 9 năm ngoái khi công an VN hành hung và giam giữ phóng viên Ben Stocking của hãng thông tấn AP, khi ông đến tận nơi để tường thuật vụ biểu tình của giáo dân ở Thái Hà. CPJ trích dẫn nguồn tin của hãng thông tấn AP mô tả công an VN đấm, đá ký giả Stocking khi ông yêu cầu trả lại máy ảnh. Theo các quy định chính thức tại VN, số ký giả ngoại quốc (vốn chẳng bao nhiêu người) phải làm việc trong phạm vi Hà Nội, đồng thời phải xin phép nếu muốn đi ra ngoài khu vực ấn định để tường thuật. Cần lưu ý là đôi khi phép này vẫn bị nhà cầm quyền từ khước. Hầu hết các ký giả Tây Phương làm việc tại VN đều ngầm hiểu rằng mọi cuộc điện đàm qua điện thoại và mọi trao đổi qua Email cùng các hoạt động của họ đều bị chính phủ Việt Nam theo dõi.

Hiện nay, CSVN đang bị thế giới chỉ trích và lên án nặng nề về vi phạm nhân quyền, đặc biệt về quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí nên họ tìm cách tạo ra một thứ tự do ngôn luận và tự do báo chí giả tạo để đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế. Trong hoàn cảnh tự do lập lờ và giả tạo này, các nhà báo được quyền nói gần như bất cứ điều gì miễn là không gây nguy hiểm cho chế độ là được. Hiện nay một số báo chí rất ít ỏi đang khôn khéo tìm cách xé rào chút ít nhưng chưa đáng kể. Báo chí ngày càng được đăng tải những loại bài giật gân, những bài về "người xấu việc xấu" như trộm cấp, cướp giựt, hãm hiếp và tội ác kiểu báo lá cải để lôi kéo độc giả. Họ có quyền chống tham nhũng “trong giới hạn”, ví dụ như chỉ trích hoặc đưa tin về sự tham nhũng hay ăn cướp của những cán bộ cấp thấp, được phép chỉ trích chính sách của nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế ở “mức độ cho phép”. Dựa theo đó chính phủ VN khôn ngoan chộp lấy những bài tường thuật của báo chí trong nước về những vụ tham nhũng ở các cơ quan của nhà nước làm bằng cớ để rêu rao rằng VN có tự do báo chí.

“Tự do báo chí” của VN không được tự do ở chỗ các nhà báo không được phép phê bình chỉ trích đảng và nhà nước về chính trị, nhất là không được phê bình tính độc tài, độc đảng; tuyệt đối không được nói nguyên nhân của những tệ nạn xã hội là do cơ chế độc tài độc đảng của chế độ. Chính phủ VN vẫn thường xuyên lập luận rằng "báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc". Việc chống tham nhũng của đảng và nhà nước cũng chỉ là chống giả tạo hầu làm thuyên giảm sự bất mãn của dân chúng, đồng thời để tỏ thiện chí đối với dư luận trong và ngoài nước. Nhà báo nào dám tố cáo những cán bộ CS cao cấp tham nhũng, cướp đất đai tài sản của dân hay tham ô của công thì đều bị đều bị xem là có tội, là “vi phạm pháp luật”, là đụng chạm đến an ninh của nhà nước. Mọi hành vi tham nhũng, ăn cướp của các cán bộ cao cấp đều được CSVN xem là “bí mật nhà nước”. Tham nhũng hay ăn cướp càng lớn thì càng được xem là “tối mật”. Tiết lộ “bí mật nhà nước” là “vi phạm pháp luật”.

Việt Nam hiện có một hãng thông tấn quốc gia, hàng trăm cơ quan báo chí, ấn phẩm báo chí, gần cả trăm đài phát thanh truyền hình, hàng chục báo điện tử, hàng trăm trang thông tin điện tử, và hàng vạn nhà báo; tất cả đều do đảng và nhà nước cấp thẻ hoạt động thì làm gì có tự do được. Tự do dân chủ không bao giờ xin mà được, phải đấu tranh mới có. Nhìn những gì CSVN đã làm, dùng luật pháp và toà án để trừng trị những nhà báo đã dám "bứng cây động rừng" cho thấy cường quyền, bạo lực tuy có ảnh hưởng nhất thời nhưng về lâu về dài chẳng những không diệt được tự do báo chí, mà còn tạo môi trường cho mầm tự do nảy sinh, tạo ra sức bật mới cho những nhà báo có lý tưởng, lương tâm, trách nhiệm và có đức nghiệp.

Hai ba thập niên trước không ai có thể tưởng tượng ra được mầm tự do, dân chủ và nhân quyền có thể sinh sôi nẩy nở ở VN như bây giờ. Thực sự mầm mống ấy đã nảy sinh dù môi trường CS vô cùng khắc nghiệt. Cũng thể như trong hệ thống chính trị độc tài toàn diện mà CS Hà Nội kềm kẹp nhân dân chặt chẻ như gọng kềm, vẫn có những người bất chấp ngục tù CS, vì đạo pháp và dân tộc dấn thân đấu tranh cho tôn giáo, cho tự do, dân chủ, và nhân quyền VN. Chúng ta đã có những nhà dân chủ như Lm Nguyễn Văn Lý, Ls Nguyễn Văn Đài, và Ls Lê Thị Công Nhân dám hành động mà không sợ tù tội. Chúng ta cũng sẽ có những Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài, và Lê Thị Công Nhân trong lãnh vực báo chí, dám hành động và cũng không sợ tù tội, đem lại sinh khí cho phong trào tự do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam.

Trần Việt Trình
2 tháng 6, 2009
***

Nguồn: http://www.rsf.org/article.php3?id_article=1087

Vietnam: Nong Duc Manh

Secretary-general of the ruling Communist Party

He is one of the architects of the relentless crackdown on opposition groups and dissident publications in Vietnam. Two journalists and around 15 cyber-dissidents have been sentenced to long prison sentences since January 2007. They include Catholic priest Nguyen Van Ly, who was given an eight-year term on a charge of “propaganda against the Socialist Republic of Vietnam” for launching an underground magazine called Tu do Ngôn luan (Free Expression) in the central city of Hue. When one of those who helped him, Nguyen Phong, was given a six-year sentence, he told the judge: “I will continue to fight for the values of freedom and democracy.”
Nong Duc Manh has decided to use every means possible to silence the human rights and pro-democracy activists who got together to form Bloc 8406 and who have defied the government by launching two underground magazines that are distributed abroad and clandestinely within Vietnam. Regarded as an economic reformer, he also distrusts the Internet and had several people arrested in 2007 for demanding more democracy on online forums.


Nghị Quyết "Cấm Cờ Đỏ" Trên các trường Đại Học tại Tiểu Bang Texas

  • Nghị Quyết HCR258 Khuyến Cáo Trường Đại Học Houston và các trường Đại Học tại Tiểu Bang Texas trong việc cấm treo Cờ Đỏ tại trường Đã Được Thông qua.

  • Thay Mặt Cộng Đồng Việt Nam Tại Hoa kỳ VAC-USA, Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ tại UH và Đại Diện gia đình phụ huynh con em đang theo học tại University of Houston xin chân thành cảm ơn Dân Biểu Hubert Võ đã sốt sắng hỗ trợ mạnh mẽ và cương quyết cho Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ của VC tại UH trong những ngày tháng qua trên quyết tâm Hạ Cờ Đỏ của VC tại UH.

    Vào lúc 3 giờ 15 ngày thứ năm 22 tháng 5 năm 2009, Dân biểu Hubert Võ đã cho chúng tôi biết là Đại diện của UH hứa sẽ hạ cờ đỏ tại UH vào ngày thứ ba 26 tháng 5 năm năm 2009 với điều kiện là Dân Biểu Hubert Võ hãy thu hồi lại nghị quyết cấm treo cờ đỏ tại các trường Đại Học. Dân Biểu Hubert Võ đã trả lời cho ông Đại diện UH rằng nghị quyết này sẽ áp dụng trên toàn trường Đại Học tại Texas chứ không riêng gì tại UH.

    Khi chúng tôi xuống UH Center vào ngày thứ ba thì cờ đỏ vẫn chưa hạ nhưng lại có cờ Vàng treo lên. Chúng tôi đã thấy ngay âm mưu cuả bọn CS nằm vùng quyết ăn thua đủ trong việc Hạ Cờ Đỏ tại UH. Tôi gọi ngay cho Bân Biểu Hubert Võ và sau khi Dân Biểu Hubert Võ gọi cho trường UH thì Ban Giám Đốc cho biết đã có chỉ thị hạ cờ đỏ nhưng chưa biết schedule ngày nào.

    Hôm nay qua nghị quyết HCR258 cuả Dân Biểu Hubert Võ đệ trình và với trong một thời gian kỷ lục 7 ngày nghị quyết HCR258 đã được thông qua cả thượng viện và hạ viện.

    HCR258 là nghị quyết luật pháp khuyến cáo các trường Đại Học Houston (University of Houston) và tất cả các trường đại học tại tiểu bang Texas phải treo cờ Vàng là biểu tượng của người Việt Quốc gia đại diện cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn CS tại Texas chứ KHÔNG ĐƯỢC TREO CỜ ĐỎ CỦA VC nữa.

    Được biết nghị quyết HCR258 của dân biểu Hubert Võ đã được thông qua vào lúc 8 giờ 05 phút tối hôm qua ngày 30 tháng 5 năm 2009.

    Theo Dân biểu Hubert Võ Cộng Đồng VN tại Austin hiện giờ (Tối chủ nhật) đã đem thức ăn vào cảm ơn các nghị sĩ dân biểu cuả TB Texas vừa passed nghị quyết HCR258.

    Sự đấu tranh và sự quyết tâm của người Việt tỵ nạn CS tại Houston trong việc Hạ Cờ Đỏ tại Đại Học Houston là một bài học cho những ai chưa tin vào sự phẫn nộ đồng loạt của đồng hương trước những âm mưu đen tối trong những sự việc đi ngược lại nguyện vọng cuả người dân. Đây cũng lại là một bài học đích đáng cho những tên Việt gian đang làm tay sai cho CS tại thành phố này.

    Một lần nữa chúng tôi xin thay mặt Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ tại UH, Gia Đình Phụ Huynh Con em đang theo học tại UH và Cộng Đồng VN tại Hoa Kỳ xin ca ngợi Tinh Thần Phục Vụ của Dân Biểu Hubert Võ trên quyết tâm không chấp nhận Cờ Đỏ treo chung với cờ Vàng cũng như xin thành kính tri ân Dân Biểu Hubert Võ đã thực sự đáp ứng được nguyện Vọng của người Dân.

    Thay Mặt Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ:
    Ông Nguyễn Toàn Vẹn Chủ Tịch
    Ông Đỗ Quãng Cố Vấn
    Cựu Đại Tá Nguyễn văn Nam Yễm Trợ
    Ông Lưu Quý Tùng Vận động.
    Bà Tôn Nữ Hoàng Hoa Ngoại giao

    Thay mặt Cộng Đồng VN tại Hoa Kỳ VACUSA
    Tôn Nữ Hoàng Hoa
    Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành

    * Mời quý vị vào xem ở Link này về HCR258 của dân Biểu Hubert Võ: http://www.legis.state.tx.us/BillLookup/History.aspx?LegSess=81R&Bill=HCR258#vote65


    Bill: HCR 258
    Legislative Session: 81(R) Council Document: 81R 36084 CBE-D
    Add to Bill List | Add to Alert List
    Last Action:06/01/2009 H Signed in the House

    Caption Version:Introduced
    Caption Text:Urging the University of Houston and other institutions of higher education to cease displaying the flag of the Socialist Republic of Vietnam and to replace it with the Freedom and Heritage Flag.

    Author:Vo | Hilderbran | Pitts | Dunnam | Taylor

    Coauthor:Alonzo | Alvarado | Bohac | Bolton | Brown, Fred | Button | Chisum | Davis, Yvonne | Driver | Dutton | Edwards | Frost | Gallego | Geren | Gonzalez Toureilles | Guillen | Gutierrez | Harper-Brown | Hernandez | Herrero | Hochberg | Hodge | Hopson | Hughes | Hunter | Isett | Jones | Keffer | Kent | Kolkhorst | Laubenberg | Legler | Lewis | Maldonado | Mallory Caraway | Marquez | Martinez, "Mando" | McClendon | Merritt | Miller, Doug | Orr | Ortiz, Jr. | Otto | Paxton | Phillips | Quintanilla | Rios Ybarra | Rose | Sheffield | Shelton | Smith, Wayne | Thibaut | Vaught

    Sponsor:Hinojosa

    Subjects:VIETNAM, SOCIALIST REPUBLIC OF (G0441)
    Resolutions--Legislative Policy (I0685)
    FLAGS (S0254)
    UNIVERSITY OF HOUSTON (U0033)

    House Committee:Higher Education
    Status:Out of committee
    Vote:Ayes=0 Nays=0 Present Not Voting=0 Absent=0

    Actions: (descending date order)
    Viewing Votes: Most Recent House Vote | Most Recent Senate Vote
    Description Comment Date Time Journal Page
    H Signed in the House
    06/01/2009

    H Reported enrolled
    06/01/2009 07:50 AM
    H Senate passage reported
    05/30/2009

    S Record vote
    05/30/2009

    S Adopted
    05/30/2009

    S Read
    05/30/2009

    S Laid before the Senate
    05/30/2009

    S Rules suspended-Regular order of business
    05/30/2009

    S Received from the House
    05/25/2009
    2893
    H Record vote RV#1128 05/25/2009
    4668
    H Adopted
    05/25/2009

    H Rules suspended
    05/25/2009

    H Referred to Higher Education
    05/21/2009
    4301
    H Adopted
    05/21/2009
    4668
    H Rules suspended
    05/21/2009
    4668
    H Filed
    05/21/2009

    Monday, June 1, 2009

    Bài học giữ Đất & Nước của Tổ Quốc - Nguyễn Văn Minh


    Nguyễn Văn Minh


    Độc Lập Hoàn Toàn và Toàn Vẹn Lãnh Thổ là lập trường tranh đấu bất di bất dịch của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính vì lập trưởng này mà ông đã nhiều lần từ chối lời mời của Pháp, của Quốc Trưởng Bảo Đại, đứng ra thành lập Chính phủ. Giữ vững lập trường này, ông đã từ chối đề nghị của Thủ Tướng Chu Ấn Lai, sau khi Hiệp định Geneva được ký kết: Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận Chính phủ Miền Nam Việt Nam; hai bên sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia độc lập. Khi cầm quyền, ông đã rất cứng rắn và khôn khéo giữ gìn, không chịu để mất một tấc đất của Tổ Quốc. Cuối cùng thì ông đã chấp nhận cái chết, không để cho cường lực xâm phạm đến Chủ quyền Quốc gia, tức là nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc.

    Ngày nay, trước nỗi đau đất nước đang bị bọn “Thái Thú” của Tàu cộng, mang tên Việt, ăn cơm từ lúa gạo của đồng ruộng Việt, uống nước từ sông, suối Việt, cắt đầu này, xén đầu kia dâng cho quan thầy. Thiết tưởng chúng ta nên ôn lại bài học này. Dĩ nhiên với một sự kiện đã xảy ra cách nay hơn nửa thế kỷ, nếu cần, điều chỉnh cho hợp tình hợp cảnh hầu có thể thực hiện tinh thần ấy cho phù hợp với thời thế ngày nay.

    1. Tại Biên giới phía Tây.

    Tháng 5-1958, bắt đầu có những rắc rối xảy ra trên đường biên giới phía Tây, quân đội Cam Bốt ngang nhiên dời cột mốc biên giới sang đất Việt Nam 3 cây số ở vùng Pleiku và một số vùng khác như Tây Ninh, Hà Tiên, Kiến Tường v.v... Tiếp theo là những vụ cướp phá xảy ra tại các làng trong những vùng này. Được báo cáo về tình hình này, Tổng Thống Diệm liền yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu biệt phái về Phủ Tổng Thống một sĩ quan Pháo binh có khả năng. Sĩ quan được biệt phái là Đại úy Lê Châu Lộc, đang là huấn luyện viên tại trường Đại Học Quân Sự. Ông được Tổng Thống đích thân giao nhiệm vụ đi cắm lại các cột mốc suốt dọc đường biên giới Việt Nam-Cambodia, theo bản đồ từ thời Pháp thiết lập, và quan sát đất đai, sinh hoạt của dân chúng sống hai bên đường biên giới. Với một xe jeep, một hạ sĩ quan truyền tin và hai hộ vệ, khởi sự từ tháng 6-1958, ông đi kiểm tra lại các cột mốc phân ranh suốt từ Hà Tiên đến Pleiku, cắm lại tất cả những cột đã bị di dời. Nhưng nhiệm vụ ông được giao, không dễ dàng được hoàn thành, vì sự ngoan cố của phía Cam Bốt. Những cột mốc bị dời sai đường ranh theo bản đồ, lấn sang đất của ta, được di đến đúng đường ranh. Nhưng khi trở lui kiểm soát, thì thấy chúng lại đã bị dời về địa điểm cũ, trên phần đất bị lấn chiếm, và dĩ nhiên, chúng lại được di về đúng trên đường ranh. Hai bên cứ giằng co di đi, dời lại như thế hai ba lần. Cuối cùng ông được phép dùng biện pháp mạnh, gài lựu đạn dưới những cột mốc đã được cắm lại. Kết quả là người của quân đội Cam Bốt đến dời cột mốc về lại đia điểm lấn chiếm, đã bị thương hoặc tử vong.

    Vì lập trường chính trị không đồng nhất, sự giao hảo giữa Việt Nam và Cam Bốt vốn không được tốt đẹp lắm, dù hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao đến cấp Đại sứ. Nay thêm hậu quả của vụ tranh chấp biên giới này, phong trào chống người Việt Nam được thổi bùng lên tại Camb Bốt. Nam Vang ồ ạt biểu tình đả kích Việt Nam, hành hung Việt kiều, chính phủ Cam Bốt hạn chế giờ dạy tiếng Việt trong các trường Việt Nam trên đất Cam Bốt chỉ còn 2 giờ một tuần v.v…

    Nhằm ngăn chặn tình hình trở nên xấu thêm và để tỏ thiện chí, Tổng Thồng Ngô Đình Diệm gửi lời mời Quốc Trưởng Sihanouk qua Sài Gòn hội đàm, và gửi Cố vấn Ngô Đình Nhu sang Nam Vang thảo luận về chương trình đàm phán giữa đôi bên. Ông Sihanouk nhận lời mời sang Việt Nam, nhưng họ đã nạp đơn khiếu nại tại Tòa án quốc tế La Haye về đường biên giới giữa Việt Nam và Cam Bốt. Kết quả họ bị thua kiện.

    Về nhiệm vụ quan sát đất đai và sinh hoạt của dân chúng sống hai bên đường biên giới. Đại úy Lộc đã báo cáo với Tổng Thống về một vùng đất rộng mênh mông dọc theo con đường nhỏ thường được gọi là Piste Kinda chạy ra đường 13, đi về Banmêthuột, đất đỏ rất mầu mỡ. Vùng đất này trước kia là mật khu của Việt cộng, chúng vẫn còn có người khai thác trồng hoa màu bắp (ngô), khoai, sắn (khoai mì) rất tốt. Sau khi cho nghiên cứu, Tổng Thống Diệm đã thành lập tại khu này một tỉnh mới: Tỉnh Phước Long. Chính phủ khuyến khích, kêu gọi dân chúng, và có chính sách giúp đỡ cho những người đến đây lập nghiệp. Về sau, tại tỉnh Phước Long, dân chúng làm ăn rất phát đạt, ngoài hoa mầu còn có những đồn điền cao su rất thành công.

    2. Qua biên giới phía Đông.

    Ở phía Đông, nước Việt Nam ta tuy nhỏ, nhưng thiên nhiên ưu đãi dành cho một biên giới phía Đông dải cả ngàn cây số với vùng biển Thái Bình Dương tương đối hiền hòa, bao la nước, trời. Tài nguyên biển chúng ta giầu có, lại được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, của chìm (dầu lửa, khí đốt), của nổi (cát trắng, phân chim), kích thích sự thèm muốn của nhiều nước xung quanh, gây nên nhiều tranh chấp, nhất là từ khi các mỏ dầu được tìm thấy, như chúng ta chứng kiến hiện nay.

    Từ thời xa xưa, người Anh và các nước Âu Châu đã sớm nhìn ra ưu điểm nước, trời, của biển cả, đã dốc hết tâm trí khai thác, xử dụng sức mạnh này, nhờ vậy mà họ đã chinh phục gần trọn cả thế giới. Với Việt Nam chúng ta, tiếc rằng, người xưa chưa ý thức được để khai thác, xử dụng sức mạnh trời cho: Trên một ngàn cây số bờ biển thênh thang với hai pháo đài ngoài khơi và một vịnh Cam Ranh tuyệt đẹp và an toàn nhất thế giới!

    Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I, mỏ dầu chưa được phát hiện, nhưng ta đã khai thác mỏ cát trắng, loại cát dùng để chế biến thành thủy tinh, pha lê. Công ty Catraco được thành lập để khai thác nguồn tài nguyên này. Tuy rằng, vì kỹ thuật và phương tiện khai thác còn thô sơ, thiêu thốn, số lượng cát được khai thác chưa được nhiều, nhưng ta cũng đã xuất cảng khá đều đặn loại cát này sang thị trưởng Nhật Bản. Cùng trong thời gian này, công việc nghiên cứu giá trị kinh tế của mỏ phân chim trong khu vực hai quần đảo đang được tiến hành tốt đẹp.

    Từ đó cả Trung Hoa Dân Quốc và Trung Cộng đều nhảy vào tranh chấp, bên nào cũng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của họ. Riêng với Trung Hoa Dân Quốc, đang có mối quan hệ rất tốt đẹp với Việt Nam, cá nhân hai vị Tổng Thống cũng quý mến và kính trọng nhau đặc biệt đến nỗi, khi hay tin Tổng Thống Diệm bị sát hại, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã nói: “Một trăm năm nữa Việt Nam chưa có được một người như Ngô Đình Diệm”.

    Chính phủ Việt Nam sau nhiều lần chính thức công bố xác nhận chủ quyền của mình trên hai quần đảo này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có một cử chỉ bày tỏ chủ quyền của Việt Nam một cách rất đặc biệt: Ông mặc Quốc Phục ra kinh lý đảo Lý Sơn, thường được gọi là cù lao Ré, nơi có miếu Hoàng Sa. Trong suốt chín năm cầm quyền, đây là lần duy nhất ông mặc quốc phục khi đi kinh lý. Đến năm 1961, Tổng thống Ngô Ðình Diệm ban hành sắc lệnh số 174 NV, thành lập một xã mới với tên gọi là là xã Ðịnh Hải, bao gồm trọn quần đảo Hoàng Sa, trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, do một phái viên hành chánh trông coi.

    Và từ đó cho đến hết thời Việt Nam Cộng Hòa I, không thấy có những tuyên bố nhận chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ các nước chung quanh nữa.

    Đất nước Việt Nam tuy nhỏ, dân không đông, nhưng tinh thần hào hùng bất khuất thì không thiếu. Nhờ có tinh thần hào hùng, bất khuất mà từ ngày lập quốc, cha ông ta, tuy phải triều cống người láng giềng khổng lồ phương Bắc, nhưng lời chỉ dạy của các bậc Minh Vương như vua Trần Nhân Tôn dưới đây, luôn được con cháu muôn đời ghi tâm khắc cốt và thực hiện chu toàn:
      "Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo.

      Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa.

      Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:

      "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác.

      Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
    Nguyễn Văn Minh

    Cáo Phó Của Gia Đình Cựu Thiếu tướng QLVNCH Bùi Đình Đạm

    CÁO PHÓ

    Gia đình chúng tôi đau buồn báo tin cùng thân bằng quyến thuộcvà bạn hữu xa gần:

    Chồng, Cha, Ông của chúng tôi là:

    GIUSE BÙI ÐÌNH ÐẠM

    Cựu Thiếu tướng QLVNCH
    Tốt nghiệp Khoá 1 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam


    Sanh ngày 26 tháng 6 năm 1926 tại Hà Đông, Việt Nam
    Ðã qua đời lúc 01 giờ sáng ngày 30 tháng 5 năm 2009,
    tại San Jose, California, Hoa Kỳ.

    HƯỞNG THỌ 83 TUỔI

    Linh cửu được quàn tại DARLING & FISCHER GARDEN CHAPEL
    Số 471 E Santa Clara Street, San Jose, CA 95112.
    Ðiện thoại: 408-998-2226

    Chương trình tang lễ sẽ được thông báo sau:.


    TANG GIA ÐỒNG KHẤP BÁO
    Vợ: Bà Quả phụ Bùi Ðình Ðạm
    Các Con và Các Cháu.

    CÁO PHÓ NÀY THAY THẾ THIỆP TANG
    XIN MIỄN PHÚNG ÐIẾU



    Một nền giáo dục thời bình - Phạm Đình Viễn


    Phạm Đình Viễn

    Làm thế nào để con em chúng ta, thế hệ tương lai của đất nước, có được những phẩm chất của một nhân cách lớn? Câu hỏi này quá tham vọng, nhưng nó đáng để chúng ta suy nghĩ. Hẳn chúng ta mong muốn những cá thể của thế hệ tương lai có một đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh, giàu lòng nhân ái, có tinh thần khách quan và độ lượng, và tự tin ở các phẩm chất của cá nhân mình. Vậy thì đó cũng chính là những yêu cầu trong đơn đặt hàng của chúng ta cho nền giáo dục đương thời.

    Sự phát triển tâm lý tự nhiên ở trẻ em

    Khi các em còn bé, cha mẹ mua về những món đồ chơi. Không phải ngẫu nhiên mà những món đồ chơi này mô phỏng sự vật thường ngày. Chiếc ô tô, tàu thuỷ, búp bê, những món đồ hàng, đều là sự mô phỏng các hình ảnh cuộc sống thường ngày quanh ta. Khi chơi đùa với chúng, bề ngoài ta đơn giản chỉ thấy các em vui vẻ. Còn thực chất bên trong là một sự phát triển hài hoà về tâm lý. Đó là cảm giác kiểm soát được cuộc sống, yên tâm về cuộc sống, và xây dựng, sáng tạo trên nền tảng của sự yên tâm ấy.

    Khi các em lớn hơn, trí tưởng tượng mở rộng hơn do sự nghe nhìn phong phú hơn. Những món đồ chơi đơn sơ không còn làm cho các em thoả mãn. Một cách tự nhiên, trẻ em tìm niềm vui theo cách khác. Ở các đô thị phát triển, trẻ em ham mê đọc truyện tranh, hay chơi game điện tử. Đối tượng ưa thích của các em thường là những người hùng, hoặc những nhân vật nổi tiếng. Bằng việc hoá thân vào nội dung truyện tranh, game, vào vai trò người hùng hoặc người nổi tiếng, các em cảm thấy sự yên tâm, tự chủ, và giá trị cá nhân được khẳng định.

    Nhu cầu làm chủ cuộc sống và được khẳng định vị thế là điều tự nhiên trong con người nói chung, trong đó có trẻ em. Sẽ phản tự nhiên nếu người lớn tìm cách kiềm chế, đè nén nhu cầu này của các em. Nhưng chúng ta cũng biết rằng tuổi thơ là khoảng thời gian quan trọng nhất trong việc hình thành cá tính, nhân cách của trẻ, và chuẩn bị cho các em sau này trở thành những con người gánh vác các trách nhiệm thực tế. Những hoạt động giải trí mà chúng ta đề cập ở trên, chỉ mới giúp thoả mãn nhu cầu tâm lý nhất thời, chứ chưa giúp bồi dưỡng nhân cách và rèn luyện khả năng thích nghi với thực tế cuộc sống. Thậm chí những truyện tranh và game điện tử mang tính chất bạo lực thường kích thích tính hiếu thắng, khiến trẻ cảm thấy có thể dễ dàng khẳng định được giá trị cá nhân thông qua việc phá huỷ các chướng ngại, tiêu diệt các đối thủ. Chúng không hề giúp rèn luyện những phẩm chất quan trọng cho nhân cách của trẻ, như tính kiên nhẫn và độ lượng, sự trân trọng các vẻ đẹp, những thành quả được vun đắp, xây dựng bởi tạo hoá hay con người.

    Hệ lụy từ tính bạo lực trong nội dung giáo dục

    Tính bạo lực là sự đối nghịch với lòng nhân ái. Nó phổ biến vì dễ dàng phát sinh từ nhu cầu con người muốn nhanh chóng vượt qua các trở ngại để khẳng định vị thế của mình. Đáng lo ngại là nội dung giáo dục của chúng ta từ vài thập kỷ trở lại đây nhuốm khá nhiều màu sắc bạo lực. Lịch sử dân tộc bị phủ bóng bởi các cuộc xung đột vũ trang. Những tấm gương anh hùng đa số là hình ảnh những người cầm gươm ra trận. Văn, thơ khắc họa chiến tranh vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Những ấn tượng đó có thể tác động tiêu cực tới sự hình thành lòng nhân ái trong nhân cách của trẻ. Chúng cũng dễ tạo ra suy nghĩ trong trẻ thơ rằng điều quan trọng nhất mà cha ông ta trong lịch sử làm được là việc tiêu diệt kẻ thù.

    Không phủ nhận rằng lịch sử đất nước ta gắn chặt với một quá trình giữ nước và dựng nước có tính bền bỉ liên tục. Rằng chiến tranh chỉ mới xa rời chúng ta được ba, bốn thập kỷ. Nhưng lịch sử của người Việt đáng tự hào không chỉ vì cha ông ta chiến đấu giỏi và luôn cố gắng giữ lấy đất, mà còn vì dân tộc ta đã xây dựng nên được một nền văn hiến sâu sắc, phong phú và có bề dày lâu đời.

    Có lẽ việc chú trọng giảng dạy về chiến tranh vốn xuất phát từ nhu cầu xã hội của một thời kỳ loạn lạc. Nhưng không thể sống trong thời bình mà vẫn giáo dục con người theo cách của thời loạn. Hệ quả tiêu cực ngoài mong muốn là những gì chúng ta đã và đang được thấy hằng ngày. Đạo đức xã hội suy thoái. Môi trường thiên nhiên bị tàn phá, hủy hoại. Những công trình xây dựng kém chất lượng nhanh chóng xuống cấp. Các di sản văn hóa bị xâm phạm. Nguyên nhân của tất cả những hiện tượng trên xuất phát từ con người, cũng là sản phẩm của một đường lối giáo dục tiêu cực kéo dài.

    Xem nhẹ con người cá nhân liệu có là phản giáo dục?

    Làm sao để những sự kiện lịch sử không nhất thiết cứ phải là ta thắng, địch thua, thì mới thu hút trẻ?
    Làm sao để trẻ em tìm thấy hưng phấn, sự đồng cảm khi tiếp thu các giá trị văn hóa nhân bản?

    Làm sao để những tên người, những địa danh, gắn với những ấn tượng sống động thay vì khô khan, tẻ nhạt?

    Sự đồng cảm giữa người học với kiến thức chỉ xảy ra sau một sự đối chiếu giữa nội dung thông tin được học với kinh nghiệm cá nhân của người học.

    Trẻ em là những cá thể đang chập chững học cách vào đời, tìm kiếm một chỗ đứng trong cuộc sống, với nhu cầu được đồng cảm và tôn trọng. Vì vậy mà các em rất dễ hóa thân vào các nhân vật. Thông qua hành xử của nhân vật và thái độ của chúng ta với nhân vật, trẻ em học ứng xử, tư duy. Nếu chúng ta tỏ ra kính trọng nhân vật, trẻ em cũng sẽ kính trọng nhân vật. Nếu chúng ta khắc họa cá nhân nhân vật với những chi tiết mà trẻ có thể hiểu và đồng cảm được, trẻ sẽ yêu nhân vật.

    Nhưng nếu không có sự khắc họa thân phận cá nhân con người thì không có sự đồng cảm với người học. Như vậy thì sẽ không có giá trị văn hóa đáng kể nào được truyền thụ. Và cũng không thể có tấm gương cụ thể để trẻ em rèn luyện noi theo.

    Hơn nữa, nếu chúng ta muốn giáo dục trẻ em về tinh thần trách nhiệm của cá nhân, về ham muốn phát huy sáng tạo cá nhân, vậy thì chính chúng ta phải trân trọng con người cá nhân. Tư duy giáo dục sai lệch trước đây, chỉ khắc họa thành quả của tập thể mà xem nhẹ vai trò cá nhân, đã dẫn đến hệ quả ngoài mong muốn là thói lợi dụng danh nghĩa tập thể và nấp bóng tập thể để lảng tránh trách nhiệm cá nhân.

    Dạy tính khách quan và đại lượng như thế nào?

    Hai phẩm chất cần thiết đầu tiên là tính khách quan và đại lượng. Vậy thì phương pháp giáo dục phải ra sao? Qua hai vấn đề chính mà chúng ta vừa đề cập thì có thể thấy như sau.

    Phải giảm nhẹ tính bạo lực trong nội dung giáo dục. Tinh thần đối kháng gay gắt vốn phần nào xuất phát từ tính tiểu khí. Nó hoàn toàn vô ích khi giáo dục trẻ em.

    Phải tôn trọng cá nhân người học, song song với việc giáo dục sự tôn trọng cá nhân người thầy. Và tất nhiên, người thầy phải tự giáo dục mình sao cho xứng đáng với sự tôn trọng ấy
    .
    Phải nêu cao những tấm gương lớn về nhân cách của những con người có công với xã hội và đất nước. Họ không chỉ là những chiến binh, mà cả các nhà văn hoá, khoa học, nghệ sĩ, ... Thậm chí nên cân nhắc cả những người mà lịch sử trước đây từng có đánh giá lệch lạc. Điển hình như nhà văn hoá Phạm Quỳnh, nhà thơ Trần Dần, hay Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Họ đều là những nhân cách lớn, với những đóng góp thầm lặng mà xã hội đang dần công nhận rộng rãi. Việc bảo tồn những tên tuổi này trong sử sách sẽ là minh chứng cho sự tiến bộ của xã hội, theo xu hướng khách quan hơn, đại lượng hơn.

    Phải giảm bớt khối lượng những bài vở nặng về tính kỹ thuật. Thay vào đó mở rộng sự phong phú của những nội dung xã hội và nhân văn, nhằm giúp các em có thêm cơ hội tự do phát huy trí tưởng tượng của mình. Cuộc sống là hành trình để khám phá chứ không đơn thuần là một chuỗi những sự vụ ép buộc phải hoàn thành. Chúng ta cần các em tập dượt để sau này làm chủ cuộc sống chứ không cần những người thợ bị lệ thuộc vào gánh nặng. Một đời sống mang quá nhiều gánh nặng, với những mục tiêu quá cụ thể, sẽ làm thiếu không gian để phát triển nhân cách lớn.

    Nhưng có lẽ mấu chốt quan trọng nhất chính là sự giáo dục từ gia đình. Như đã đề cập, mọi trẻ em đều có nhu cầu tâm lý chính đáng là được trân trọng và làm chủ được cuộc sống. Những bậc phụ huynh có thể do thiếu kinh nghiệm, hoặc thời gian, hoặc cả hai, thường đáp ứng điều này một cách dễ dàng. Nhưng chính những đứa trẻ được nuông chiều lại là những cá thể thường xuyên cảm thấy không được thoả mãn. Sự tôn trọng đến một cách quá dễ dàng cũng gần với sự thiếu được tôn trọng. Các em cần được vượt qua thử thách. Trong bài viết Trên ghế nhà trường (1), tác giả Cao Huy Thuần từng đề cập tới sự quan trọng của việc giáo dục trẻ em tính chuyên cần, làm việc gì cũng tới nơi tới chốn. Tính chuyên cần này không chỉ giúp các em sau này trở thành những người làm việc giỏi trong mọi lĩnh vực. Nó cũng là chìa khoá giúp mọi người có một đời sống tinh thần khoẻ khoắn. Cảm giác trọn vẹn vượt qua một thử thách là điều cần thiết, và không thể thay thế được trong đời sống mọi cá thể. Nó cho phép con người tự tin ở mình. Từ đó mới có được sự độ lượng và khách quan chân thật.

    Lời kết:

    Những yêu cầu đặt ra trong bài viết này thật bình thường. Chúng hiển nhiên phải có trong một xã hội tiến bộ. Nếu chúng ta tin tưởng rằng xã hội mình tất yếu phải đi tới sự tiến bộ, thì nghiễm nhiên ai cũng phải đối diện với câu hỏi của một thế hệ trong tương lai. Rằng chúng ta đã và đang làm gì cho sự tiến bộ mà ai cũng mong muốn này?
    ----------
    (1) Cao Huy Thuần, Trên ghế nhà trường, Tạp chí Tia Sáng, số 2&3 ngày 15/01/2009

    Phạm Đình Viễn