Saturday, May 2, 2009

Âm Mưu Văn Hóa Đỏ Của cộng sản Việt Nam - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Đối với những người đã nghiên cứu qua thuyết Marx-Lênin hoặc bất cứ ai từng sống dưới chế độ cộng sản thì những âm mưu văn hóa đỏ trình bày trong bài viết nầy không có gì mới lạ. Ngược lại với giới trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 lớn lên hoặc sinh trưởng ở hải ngoại, chắc chắn đây là những vấn đề chưa được nghe đến. Tôi nghĩ vậy vì gia đình nào vừa đặt chân đến vùng đất tự do, cha mẹ phải dành trọn thời giờ để làm lại cuộc đời và lo tương lai cho con cháu. Nhưng rất tiếc, một số lớn bậc phụ huynh đã lơ là bổn phận giáo dục hoặc dành rất ít thời gian để hướng dẫn thế hệ đi sau về phương diện văn hóa cũng như chính trị. Đây là bài học đau lòng mà ngày hôm nay thế hệ thứ nhất phải nhận lấy những hậu quả không mấy tốt đẹp khi một số thanh niên thuộc thành phần trẻ thế hệ 1, 5 và 2 trở lại chống đối cha mẹ mình Các bạn trẻ hải ngoại được cha mẹ, gia đình và xã hội nuông chiều trong những môi trường quá tự do, khi thành công thì quên hẳn nguồn gốc rồi tự cao tự đại, trở mặt miệt thị đấng sinh thành cũng như các bậc chú bác là thành phần ít học, sống bám vào trợ cấp, tranh đấu hung hăng, chống cộng một cách điên cuồng…làm ô danh cộng đồng và xấu hổ cho lớp trẻ !

Lý do nào đã đưa đến tình trạng nầy ? Trước khi đi vào chi tiết xin tất cả hãy ghi nhận một thực tế: Giới trẻ tại Âu-Mỹ sống dưới chế độ tự do, được hấp thụ một nền văn hóa nhân bản nhưng thành phần nầy lại ăn phải bã văn hóa đỏ của cộng sản mà vẫn không hay biết. Có thể vì giới trẻ không có nhiều thời gian để sống chung với gia đình hoặc cha mẹ quá bận rộn công ăn việc làm rồi lơ là trong vấn đề chăm sóc con cái. Đừng quên rằng, gia đình chính là môi trường cần thiết để gặp gở, tạo thông cảm, trao đổi, học hỏi và chuyện trò thân mật với nhau, giữa cha mẹ, anh em, họ hàng thân thuộc. Ngoài ra còn lý do chính cũng nên nói ra, là một số cha mẹ bị mặc cảm thua kém con cháu nên thường tránh né đề cập đến những kinh nghiệm hiểu biết của mình hoặc những suy tư thời cuộc, lý do tranh đấu và tương lai của đất nước. Chính điều nầy càng tạo thêm hoặc đào sâu những cái hố ngăn cách về quan niệm sống, tinh thần đạo lý cũng như chính trị giữa hai lớp tuổi già với trẻ hay nói đúng hơn, giữa cũ và mới.

Trường học, thư viện, hội đoàn, câu lạc bộ, các tổ chức văn hóa nghệ thuật là những môi trường hữu hiệu để đào tạo và phát triển con người nhất là giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại. Cộng sản đã lợi dụng nơi đây để tuyên truyền, mua chuộc, biến thành lò cấy và trồng người ngắn hạn qua chương trình kiều vận của chúng. Thành phần trẻ là cái đích mà Hà Nội nhắm vào, chúng không từ một phương tiện gì, từ tình cảm, tiền bạc cho đến những hứa hẹn suông. Ngoài ra Hà nội còn xử dụng thủ đoạn hăm dọa khi một thành phần trẻ nào đó bị ‘dính chàm’ do cái bẫy giăng sẵn về tiền bạc, trai gái hoặc tội phạm. Chúng chụp ngay cơ hội để buộc con mồi phải thi hành các chỉ thị thâm độc của chúng. Cái đểu của cộng sản là lợi dụng thành phần thuộc thế hệ 1,5 và 2 hải ngoại bằng cách đánh vào tâm lý thanh niên, khơi động lòng yêu nước, nghĩa đồng bào và tinh thần hăng say phục vụ bất vụ lợi để biến thành phần nầy trở một lực lượng vừa chống lại cha ông, chú bác, anh em và cộng đồng bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Mục đích chính của cộng sản là nhuộm đỏ những con thiêu thân trẻ nhẹ dạ ở hải ngoại để mai kia xử dụng thành phần thay thế lớp già là những người đã kiên trì chống chế độ chúng từ ba mươi bốn năm qua.

Để thực hiện mưu đồ thu gọn cộng đồng người Việt trong thời gian sắp đến, nghĩa là sau khi thế hệ thứ nhất hết khả năng tranh đấu hoặc đến tuổi phải rủ nhau về chầu ông bà, đảng cộng sản đã và đang thi hành một kế hoạch chuẩn bị đưa thành phần thuộc giới đỏ lên thay thế, lãnh đạo cộng đồng để thi hành âm mưu hòa giải hòa hợp, nghĩa là đem nguyên cộng đồng người Việt tỵ nạn dâng cho đảng. Một đội ngũ hùng hậu được tung ra, ngoài cán bộ tuyên truyền đội lốt ngoại giao, các tay nằm vùng, những văn nghệ sĩ đầu đỏ ba xu, bọn cò mồi ăn lương tháng, Hà nội còn gởi hằng trăm ngàn ‘rắn con’ là những du sinh ra nước ngoài để chiêu dụ thành phần trẻ hải ngoại nhất là sinh viên học sinh trong các trường trung cũng như đại học. Đám du sinh nầy được huấn luyện kỹ thuật tuyên truyền, nói như vẹm, miệng tráo trở như rắn và nếu cần, chúng xử dụng luôn tình cảm cá nhân để thuyết phục thành phần nai tơ hải ngoại.

Nhiệm vụ chính của đám rắn con nầy: Một, chiêu dụ lớp trẻ hải ngoại phản bội cha ông để quay về bắt tay hòa giải hòa hợp với cộng sản theo chương trình kiều vận. Hai, kiếm vợ kiếm chồng xứ ngoài, tìm nơi nương tựa cho bản thân và gia đình sau nầy, đồng thời thi hành lệnh Hà nội bằng cách cấy người, xâm nhập vào ngay trong tập thể cộng đồng người Việt tỵ nạn bằng hình thức hôn nhân. Điều nầy không lạ vì có một ít gia đình chống cộng ở hải ngoại nhưng sau ngày thành sui gia với cán bộ đỏ thì tự nhiên đổi ngay thái độ, né tránh hoặc ngang nhiên chống lại cộng đồng. Họ được ‘đổi đời’ lần thứ hai nhờ bám vào cộng sản, chỉ trong một sớm một chiều đã lên ngay chức thông gia, ngang hàng với quan quyền chế độ đỏ, đồng thời trở nên giàu có với số ‘hồi môn’ ân huệ do sui gia tặng dưới hình thức mua dâu mua rể !

Tôi không ngạc nhiên khi một số bạn trẻ hải ngoại ra mặt chống lại cha ông mình vì thành phần trẻ hải ngoại vô tình hoặc thiếu thông tin và giáo dục chính trị, nên chỉ thấy ‘cái hay cái đẹp’ của chế độ cộng sản qua xảo quyệt tuyên truyền của những tay cộng sản, để rồi ngang bướng chống lại các đấng sinh thành và miệt thị chương trình tranh đấu của cộng đồng nhằm giải thể chế độ cộng sản. Bài viết "Âm Mưu Văn Hóa Đỏ" không ngoài mục đích gởi đến giới trẻ hải ngoại thuộc thế hệ 1, 5 và 2:

Cộng sản nhân danh thành phần nông công để cướp chính quyền từ chế độ quân chủ Nga và bành trướng chủ nghĩa vô sản nhằm mưu đồ nhuộm đỏ nhân loại. Cướp được nơi nào cộng sản xóa ngay nền văn hóa truyền thống đồng thời thay thế bằng một "quái thai văn hóa", mục đích chính là gột rửa, tẩy xóa tính chất nhân bản – hay gọi là văn hóa tự do - tốt đẹp của con người. Đó chính là đường lối cai trị đất nước và phục vụ quyền lợi riêng tư của đảng cộng sản. Văn hoá vô sản chính là phương tiện nhồi sọ con người nhằm ‘thần tượng hóa đảng’ cũng như ca tụng ‘lãnh tụ đỏ’ của chúng, đồng thời đây cũng là vũ khí tinh thần để bảo vệ chế độ của chúng. Ngoài ra, văn hóa đỏ còn chủ trương ‘ngu muội hóa’ và ‘bần cùng hóa’ con người mà trong quá khứ cộng sản đã dùng tất cả phương tiện nhằm đưa cả dân tộc đến tận cùng ngu dốt và nghèo đói. Người dân dưới chế độ cộng sản, một khi đã dốt mà còn đói nữa thì chắc chắn sẽ trở thành con vật, không biết gì hơn là phải ngoan ngoãn phục tùng nhà nước để được phân phối thực phẩm Như vậy chủ trương cộng sản là dùng bao tử để trị dân, tức là hình thức khốn nạn của một giống súc vật man ri mọi rợ, xử dụng miếng ăn để sai khiến con người ! Đây chính là âm mưu đen tối, thâm độc và vô nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản mà "văn hóa đỏ" đóng một vai trò tối quan trọng trong đời sống hằng ngày của người dân dưới chế độ của chúng.

Nhưng rồi từ chủ nghĩa cho đến các tập đoàn cầm quyền cộng sản đều bị thành phần bị trị cũng như toàn thể thế giới tự do khinh tởm, tẩy chay và hạ bệ. Liên Sô cũng như các xứ Đông Âu đã thẳng tay liệng thuyết Marx-Lenin vào sọt rác và lật đổ bọn cầm quyền qua những cuộc cách mạng xanh trong thế kỷ vừa qua. Thế giới ngày nay chỉ còn lại bốn tập đoàn lì lợm, vẫn ngoan cố dùng kẽm gai súng đạn làm phương tiện duy trì quyền lực để bảo vệ vĩnh viễn ngai vàng của chúng. Trong đó đảng cộng sản Việt Nam là tập đoàn ù lì nhất, khốn nạn nhất, tham nhũng nhất và thâm độc nhất đang dẫn đầu bọn cộng sản thế giới ! Giới trẻ cần phải ghi nhận một điều, tất cả tập đoàn cộng sản ngày nay không còn núp bóng danh từ vô sản cũng như dựa vào thành phần nông công để cai trị và vinh thân phì gia, mà chúng lợi dụng cái vỏ của đảng làm thành trì bảo vệ ngai vàng, tài sản và dòng họ của chúng. Như vậy bốn chữ "chuyên chính vô sản" đã lỗi thời, thành phần nông dân thợ thuyền ngày nay trở thành nạn nhân hàng đầu của chế độ cộng sản: Chính giới vô sản bị bọn tỷ phú đỏ bóc lột đến tận cùng xương tủy, điều nầy không lạ gì, giới thợ thuyền nông dân là thành phần lao động căn bản của xã hội nhưng lại nghèo đói nhất trong cái thiên đường cộng sản lạc hậu và khốn nạn nhất của nhân loại. Các thành phần nầy phải lệ thuộc, sống bám vào các điều kiện của nhà nước, bán mồ hôi, đổi máu để kiếm bữa cơm bữa cháo qua ngày. Vậy, tính từ giới lãnh đạo xuống đến đảng viên của Việt cộng, Tàu cộng, Hàn cộng cũng như Cuba cộng đều là những tay tỷ phú, thì những chữ "chủ nghĩa vô sản", "văn hóa vô sản" là những danh từ bịp bợm do chúng đẻ ra cũng hoàn toàn lỗi thời, cần phải đổi thành ‘tư bản đỏ’ và "văn hóa đỏ" thì đúng và chính xác.

Như đã trình bày ở phần trên, cộng sản lợi dụng giới "vô sản" để kích động, gây căm thù và xúi giục thành phần nông công đứng lên chống lại chế độ quân chủ thời đó. Nhưng trong cái vỏ ‘vô sản’ mị dân đó lại gồm có ba cái ‘vô’, chủ trương đi ngược với luân thường đạo lý con người và văn minh tiến bộ xã hội: Đó là vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo … là những âm mưu để tiêu diệt tình cảm gia đình, tình yêu tổ quốc và niềm tin tôn giáo, nhằm biến con người thành một sinh vật vô tri giác do đảng sinh ra và chỉ biết phụng sự đảng !

1. Gia đình là đơn vị căn bản và tối cần thiết để đào tạo và giáo dục con người trở thành những công dân hữu ích cho xã hội và đất nước. Một xã hội vô gia đình, theo chủ trương của cộng sản, chẳng khác gì một đơn vị sản xuất, nơi mà trẻ con sinh ra được huấn luyện để thành những cái máy nhằm để phục vụ đảng như tổ chức loài ong, loài kiến … Như vậy con người dưới xã hội chủ nghĩa đã biến thành một loại sinh vật không nguồn gốc, không tình cảm, không lý trí, suốt đời phải lao động để được phân phối khẩu phần ăn theo khả năng làm việc. Có thể nói rằng cộng sản xem gia đình như một "xưởng đẻ" nhỏ để sản xuất con người theo tiêu chuẩn và kế hoạch của nhà nước, cha mẹ chỉ có bổn phận sinh con, nuôi ăn từ lúc mới sinh đến khi biết đi biết nói. Tới tuổi cắp sách đến trường thì phải dâng con cho đảng để đảng giáo dục và huấn luyện trong các đội nhi đồng, thiếu niên cờ đỏ, đoàn thanh niên lao động. Nếu lý lịch tốt thuộc thành phần con cháu cán bộ, gia đình tử sĩ hay có công với chúng thì được cân nhắc vào đảng, bằng không, sẽ bị liệt vào hạng công dân thứ yếu, thuộc thành phần bị trị, là sâu bọ của xã hội và cuối cùng nhà nước tập trung thành một lực lượng để bán ra xứ ngoài làm nô lệ lao động và nô lệ tình dục.

Theo tinh thần của nền văn hóa nhân bản thì cha mẹ giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cháu. Gia đình chính là lớp học đầu tiên, nơi khai trí bằng bài vở lòng ‘tiên học lễ hậu học văn’ từ lúc đứa trẻ vừa biết nói. Khi vừa đủ trí khôn con cái cũng được chính gia đình giáo dục tiếp về "công dung ngôn hạnh" và "trung hiếu lễ nghĩa" để tạo cho lớp trẻ phải biết bổn phận với quê hương tổ quốc, đạo hiếu thảo với cha mẹ, đạo xử thế với đồng bào và đạo làm người với Trời Đất. Chủ trương vô gia đình chính là mục đích mà cộng sản muốn xóa bỏ công lao sinh thành và nuôi dưởng của cha mẹ đồng nhồi sọ lớp trẻ chối bỏ trách nhiện và bổn phận đối với gia đình, quên người thân để trở thành những con thiêu thân chỉ biết tuân lệnh, phụng sự, sống và chết cho đảng. Chủ trương nầy cũng không ngoài âm mưu tách rời liên hệ máu mủ và tình cảm gia đình giữa cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, người thân ruột thịt, để con cái sinh ra trở thành những đứa trẻ vô thừa nhận xem bậc sinh thành, người thân như kẻ thù nghịch. Như vậy có thể kết luận, con người sinh ra dưới chế độ cộng sản là những con vật do đảng sinh ra, giáo dục, kiểm soát từng cá nhân một từ tư tưởng, hành động, tình cảm cho đến cuộc sống hằng ngày như ăn ngủ, học hành, làm việc, tiếp xúc, giao tế, cưới vợ gã chồng, đau ốm, sống chết đều do nhà nước an bài.

Cộng sản thay gia đình giáo dục gì cho trẻ thơ ? Ngay từ ngày cắp sách đến trường chúng đã nhồi vào trí óc non dại những bài học nói láo rập theo lối tuyên truyền của cộng sản, phản bội bằng cách theo dõi hành động, nghe ngóng lời ăn tiếng nói của cha mẹ để báo cáo với cô giáo, thù hận đối với quân dân cán chính VNCH, chém giết những ai chống lại đảng và nhà nước và nặc mùi sắt máu phải tranh đấu đến giọt máu cuối cùng ! Chúng còn dạy cho trẻ con mới lọt lòng mẹ đã biết căm thù tư bản và chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ đồng thời đem già Hồ ra so sánh và bôi nhọ từ Chúa đến Phật. Tôi vắn tắt vài chuyện nhỏ để biếu cho thành phần trẻ theo cộng sản cũng như những tên chủ trương hòa giải hòa hợp với Hà nội. Đây là những chuyện thật được in ra trong các sách giáo khoa và truyện bằng hình vẽ dành cho trẻ em, ví dụ:

- Bài toán cộng trừ cho các lớp nhỏ tiểu học: Có 5 thằng ngụy đi vào làng cướp của hiếp người, quân ta anh dũng bắn hạ một lượt 4 thằng. Vậy còn mấy thằng chạy thoát ?

- Truyện bằng tranh dành cho các lớp mẫu giáo: Cô giáo đưa ra một truyện vẽ bằng bốn bức họa và giải nghĩa rằng, không có Chúa cũng không có Phật nào cả mà chỉ có bác Hồ vĩ đại của các cháu mà thôi. Chính bác Hồ đem lại cơm ăn áo mặc cho các cháu. Bây giờ các cháu nhắm mắt lại xin Chúa xin Phật cho các cháu kẹo xem thử có đứa nào cho không ? Nếu không, thì bây giờ các em nhắm mắt và xin Bác Hồ thì bác Hồ sẽ cho ngay ! Thế là kẹo bánh được liệng vào từ các cửa sổ !

- Nhồi sọ trẻ con ngay từ lúc biết đánh vần: Trong việc đánh Mỹ cứu nước, các chị nông dân miền Bắc đã dùng súng trường bắn rơi hàng ngàn chiếc máy bay thả bom B52 của Mỹ Ngụy và trẻ chăn trâu thì dùng ná cao su hạ hàng vạn máy bay lên thẳng của địch !

- Tuyên truyền láo khoét gây căm thù cho dân chúng miền Bắc: Thằng Ngô Đình Diệm kéo cái máy chém đi khắp miền Nam, hằng ngày nó đã chém đầu hàng ngàn quân dân anh hùng của chúng ta ! Bài học sau cùng nầy chúng vẫn còn đem ra giảng dạy trong thời kỳ đầu cho những người đi tù cải tạo !

Đó có phải là những bài học vở lòng rất "đạo đức" và "văn hóa" để dạy cho trẻ con tại Việt Nam ngay khi chúng vừa cắp sách đến trường ! Ngày nay, đối với thành phần ngây thơ hải ngoại thì những chuyện lố bịch nầy có lẽ cũng không thể đem ra thuyết phục, chúng đổi chiến lược bằng những trò xảo thuật kín đáo qua hình thức ca tụng công lao đảng vì dân vì nước đồng thời tráo trở, biến tên tội đồ thành cha gia dân tộc, không ngoài mục đích níu kéo lòng ngưỡng mộ của thành phần trẻ và những người nhẹ dạ, mục đích đánh lận con đen, kêu gọi bắt tay hòa giải hòa hợp và gởi tiền về xây dựng đất nước.

Không có gia đình thì không còn xã hội, ý tôi muốn nói là một xã hội có tôn tri trật tự, thấm nhuần đạo đức và mang nặng tính nhân bản. Một khi không còn gia đình và xã hội, con người sẽ mắt hẳn nguồn gốc đạo lý và căn nguyên hướng thiện mà Trời đã ban sẵn cho mỗi người khi mới lọt lòng mẹ. Cái gốc con người khi vừa sinh ra bao giờ cũng tốt, chỉ có xã hội xấu mới tạo ra con người xấu. Thử tính xem những trẻ con xuất thân trong hoàn cảnh thiếu mái ấm gia đình, không tình thương cha mẹ, không người chăm sóc dạy dỗ, thiếu giáo dục nhà trường thì đại đa số trở nên tội phạm của xã hội. Vậy gia đình là gốc của con người, là cái nôi của đạo lý và là môi trường giáo dục con người từ lúc mở mắt chào đời đến lúc trưởng thành khôn lớn. Chỉ có cộng sản mới chủ trương vô gia đình, nghĩa là diệt bỏ tình thân ruột thịt để con người không còn bận bịu tình cảm riêng tư. Điều nầy chứng minh trẻ con sinh ra dưới chế độ cộng sản không có con tim và khối óc, lớn lên thành những người mang dòng máu lạnh, sẵn sàng bán đứng cha mẹ anh chị em mình để trở nên đảng viên cuồng tín, sặc mùi tranh đấu và sẵn sàng biến thành con thiêu thân trọn đời hiến dâng cho đảng.

Trước đà tiến bộ của nhân loại cũng như sự phát triển về truyền thông, cộng sản Việt Nam không dám ngang nhiên tuyên truyền như trước kia ba cái ‘vô’ khốn nạn của chúng, nhưng chúng vẫn âm thầm tráo trở, đặt lên hàng đầu ba âm mưu diệt gia đình, tổ quốc cũng như tôn giáo trong lề lối cai trị của chúng. Hậu quả của chủ trương ‘vô gia đình’ có nghĩa là biến xã hội thành một tập thể thiếu giáo dục, do đó Việt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản được đánh giá bởi người ngoại quốc : Một xã hội không có tình người, không còn luân lý đạo đức.

Một xã hội chỉ biết gian manh dối trá và vật chất là cái thước để đo con người. Thậy vậy, thiên đường ngày nay dưới chế độ cộng sản là một xã hội:

- Không còn luân lý: Mất đạo đức dẫn đến tình trạng mẹ bán con đi làm điếm. Ăn thai nhi cường dương bổ thận. Những tên già lấy trẻ con đáng tuổi cháu chắt. Con gái chưa sạch mũi, cần tiền bán ngay trinh tiết. Trong gia đình không còn tôn tri trật tự, ai có tiền làm chủ. Ngoài xã hội đồng tiền cái thước, là chiếc cân để đo giá trị con người. Trường hợp điển hình, một tên tỉnh ủy thành phố Sàigòn bất lực đã dụ mua trái thận của một sinh viên nghèo và anh nầy đã chết sau khi bán gần toàn bộ trái thận của mình !

- Không có tình người: Văn hóa đỏ đã làm cho mọi người trong gia đình, láng giềng, hàng xóm nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ, mở miệng ra thì sợ lở lời liên lụy đến bản thân. Bổn phận của người dân là phải báo cáo từ tư tưởng đến hành động của người thân, bạn bè, láng giềng, người làm việc cùng sở cho công an, cho chính ủy cơ quan ! Mọi người ra đường thì nhắm mắt làm ngơ vì sợ liên lụy mỗi khi bắt gặp ai bị thương vì tai nạn hoặc đau nặng vì trúng gió…

- Gian manh dối trá: Xem những tờ báo của cộng sản phát hành trong nước, ai cũng thấy trên hai phần ba tin tức đều đăng các tin ăn quỵt, cướp giựt, đâm chém, giựt vợ chém chồng xảy ra từng giây phút. Đánh nhau, gây thương tích án mạng cũng vì những chuyện nhỏ nhặt như tranh nhau một củ khoai, vài đồng bạc, bó rau, ký gạo….

- Xô bồ vật chất: Mua quan bán chức, mua bằng các cấp, mua trinh đủ loại, mua mạng người dễ dàng như đi chợ mua con gà con vịt. Tiền bạc vật chất giải quyết được tất cả mọi việc một cách hiệu quả và nhanh chóng. Muốn có tiền, với một người không còn lương tri tình cảm thì họ không bao giờ bỏ qua bất cứ hình thức tội phạm nào. Một xã hội chỉ biết tiền và tiền, đua đòi vật chất thì đồng tiền vật chất đã làm mất hẳn lý trí con người. Đây là hậu quả của âm mưu văn hóa đỏ nhằm xóa bỏ vai trò giáo dục gia đình qua chủ trương ‘vô gia đình’ của cộng sản !

- Sa đọa trầm trọng: Con người dưới xã hội chủ nghĩa hiện giờ chỉ còn hai cái quan trọng nhất : Ăn và Ôm ! Chưa có xứ nào mà tình trạng ăn uống ngoài bữa cơm gia đình ồn áo náo nhiệt như ở Việt Nam. Từ trong ngỏ hẻm ra đến đường, cảnh ăn uống tấp nập từ lúc vừa thức dậy cho đến quá khuya. Gánh hàng nhỏ lớn bày ngay giữa đường, xe đẩy chen nhau dành chỗ, người ngồi la liệt dưới đất và ăn uống một cách ngon lành, dù là trái cóc, con khô cho đến gói xôi, ly chè, tô cháo nhậu với nước lạnh pha cồn mà lúc nào cũng đát khách ! Ăn (và uống) để quên đời ! Dù kéo xe, đạp xích-lô, làm thợ vịn, bán hàng rong… ngày kiếm được vài chục ngàn (chừng 1 hay 2 US$) nhưng trước khi về nhà cũng ghé qua quán nhậu làm vài ly để quên ! Người dân lao động muốn quên đi nỗi cực nhọc thân xác, uống cho say rồi về ngủ để ngày mai tiếp tục đi cày. Giới trẻ sinh viên học sinh thì không còn hy vọng, học được ngày nào hay ngày đó, uống cho say để quên đi cái tương lai đen như mõm chó. Giới có tiền thì ngồi chật nhà hàng từ sáng đến tối, ăn trả thù đời cho những ngày đói khổ trước kia. Lúc nào còn tiền thì cứ việc hưởng thụ, không cần suy nghĩ để mặc cho đời đưa đẩy. Những con quỷ đỏ cán bộ cán bộ ăn no rững mỡ lại bị bất lực, chúng phải lùng kiếm những thứ gì cường dương bổ thận. Bất cứ con gì, củ gì giúp chuyện phòng the, dù bao nhiêu cũng ra lệnh cho đàn em cung phụng. Khốn nạn nhất là đám cán bộ nhà nước nghe theo lời mấy thằng Tàu, ăn thai nhi còn sống lấy ra từ bụng người mẹ, càng nhỏ thì kết quả càng cao ! Và cái xã hội thiếu đạo đức đã sinh nhiều cảnh đau lòng, những cô gái các bà mẹ nạo thai con mình đem bán lấy tiền !

Thú thứ hai độc đáo nhất địa cầu, cũng phát sinh ra từ dưới chế độ cộng sản nhằm giúp cho con người đi tìm cảm giác : Đó là ôm ! Việt Nam là một động ôm khổng lồ, từ Bắc kéo xuống Nam, từ hang ổ chủ tịch tới ủy ban xã, từ thành phố đến thôn quê, từ đêm đến ngày, từ trong nhà ra ngoài ngỏ, từ trên khô xuống dưới nước … với các hình thức: Café ôm, bia ôm, nhậu ôm, câu ôm, tắm ôm, chòi ôm, võng ôm, (đi) học ôm, đấm bóp ôm, hớt tóc ôm, karaôm, du lịch ôm, tham quan ôm … nhằm giải quyết thất nghiệp cho phụ nữ và thỏa mãn dục vọng cho nam giới. Văn hóa đỏ đã biến con người dưới chế độ cộng sản bại hoại tinh thần, suy nhược thể xác, con người trở thành thiêu thân, ngụp lặn trong đam mê hèn hạ, mất niềm tin để trở thành công cụ phục vụ đảng.

2. Vô tổ quốc có thể hiểu rằng dưới chế độ cộng sản không còn tổ quốc. Đảng đã thay thế vai trò tổ quốc để giáo dục và lãnh đạo con người và con người chỉ còn bổn phận độc nhất với đảng qua châm ngôn "trung với đảng hiếu với lãnh tụ". Âm mưu vô tổ quốc của cộng sản không ngoài mục đích của nhà nước là chủ trương "quản lý" cả thể xác lẫm tâm hồn người dân dưới chế độ. Chúng muốn biến tất cả từ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc đến mồ hôi và xương máu trở thành công cụ phục vụ đảng. Cộng sản chủ trương rằng lý tưởng quốc gia phải bị tiêu diệt, người dân không có quyền yêu nước theo con tim và lý trí của mình, mà tất cả suy tư cũng như hành động đều phải được chỉ đạo và chịu kiểm soát bởi nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao cảnh giác tinh thần yêu nước của người dân khi đưa ra chủ trương vô tổ quốc. Chúng quan niệm rằng phải tận diệt tinh thần quốc gia, lòng yêu nước chân chính để che giấu âm mưu già Hồ bán đứng người quốc gia cho phát xít Nhật và thực dân Pháp trong thế kỷ vừa qua, đồng thời đem chủ nghĩa cộng sản khốn nạn của Nga Tàu về đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam và tình nguyện làm tôi mọi cho quan thầy đỏ Nga Tàu. Mới đây cộng sản đàn áp lòng yêu nước của người dân, nhất là thành phần trẻ khi họ đồng thanh vùng dậy xuống đường chống việc Tàu cộng xâm chiếm lãnh thổ.

Cộng sản chủ trương vô tổ quốc cũng nhằm chận đứng tinh thần yêu nước của người Việt tha phương. Chúng sợ những tổ chức yêu nước từ quốc nội ra đến xứ ngoài mở màn cho một cuộc cách mạng. Chúng sợ những cuộc nổi dậy của người dân cũng như các lực lượng quân sự từ nước ngoài xâm nhập vào. Chúng sợ những nhà tranh đấu đang xuất hiện kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân. Chúng sợ những ngòi bút kích động lòng yêu nước, hướng dẫn dư luận và vạch trần tội ác. Chúng sợ thành phần trẻ bất mãn vì chuyện bán đất nhượng biển mà già Hồ và đảng cộng sản đã ký công hàm dâng cho Tàu cộng.

Tiếng hát "Quê hương là chùm khế ngọt" và hình ảnh "duyên dáng áo dài", là những miếng mồi chiêu dụ người Việt hải ngoại về thăm quê hương, mục đích đem tiền của về để cứu vớt chế độ đang trên đà tuột dốc kinh tế. Cộng sản đã chứng tỏ chủ trương vô tổ quốc qua vụ bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu cộng mà cả thế giới đều biết và gắt gao lên án. Trong nước, những ai yêu tổ quốc đều bị theo dõi, hăm dọa tù đày cũng như cuộc xuống đường nào mang tinh thần yêu nước đều bị trấp áp bằng kẽm gai, súng đạn và nhà tù. Xin nhắc nhở bạn trẻ một điều, những ai đụng đến quan thầy Tàu cộng đều phải tù tội, như vậy đối với cộng sản, tổ quốc bây giờ không còn là Việt Nam mà chính là Tàu cộng !

3. Cộng sản vô thần chúng cho rằng tôn giáo là một loại thuốc phiện mê hoặc con người. Không có Ông Bà Thần Thánh Phật Chúa mà chỉ có độc nhất đảng và lãnh tụ là thần tượng phải thờ phượng. Thực ra cộng sản rất sợ tôn giáo, vì tôn giáo không chấp nhận một xã hội vô thần và tôn giáo là thành phần đối đầu quan trọng với chủ nghĩa vô thần cộng sản. Ngoài ra, tôn giáo nào cũng được tổ chức chặt chẽ, có niềm tin, có tinh thần, có chỉ huy và tín đồ tin tuyệt đối vào đấng Thần Linh, họ sẵn sàng nghe mệnh lệnh các chủ chăn hay lãnh đạo giáo hội để bảo vệ đạo giáo. Con chiên sẽ tranh đấu đến hơi thở cuối cùng, Phật tử có thể tự thiêu vì đạo pháp, đó là mối lo sợ của cộng sản. Tôn giáo là những tập thể lớn đủ khả năng đánh bại bạo quyền cộng sản. Do đó chúng nhất quyết phải loại bỏ tôn giáo, xóa tan niềm tin người dân vào Thượng Đế vào Đức Phật. Muốn đạt được mục tiêu, trước tiên cộng sản tạo lên những thần tượng và bắt dân chúng thờ phượng thay Chúa thay Phật. Liên sô thì Staline, Tàu có Mao và Việt Nam, cộng sản phải thần tượng tội đồ dâm tặc Hồ thành kẻ yêu nước, cha già dân tộc không ngoài mục đích bắt dân chúng tôn sùng thờ phượng.

Ngày nay cộng sản không thể bưng bít, bịp bợm và tiếp tục xảo trá nhồi sọ dân chúng ba cái chủ nghĩa súc vật ‘vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc’ nữa, chúng phải âm mưu tạo ra những trò bịp bợm có vẻ văn minh và hợp lý để lừa dân chúng đồng thời che mắt quốc tế. Mặt trận tổ quốc là một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, đóng vai trò thu tóm các tôn giáo, đoàn thể để kiểm soát, thao túng và chỉ đạo theo đường hướng đảng đã vạch ra: Các hội đoàn yêu nước, công giáo, phật giáo, cao đài quốc doanh là những tổ chức do các đảng viên cộng sản trá hình sáng lập và lãnh đạo để thu các tổ chức khác về một mối. Đối với bên ngoài, tôn giáo nào dưới chế độ cộng sản cũng phát triển, được tôn trọng những bên trong là những tổ chức chỉ được hoạt động theo chỉ thị của đảng và nhà nước mục đích gây xáo trộn và làm suy thoái tinh thần đạo giáo để những tổ chức nầy trở nên cộng cụ phục vụ cho nhà nước.

Gần đây trên các diễn đàn vừa xuất hiện một bài viết tuyên truyền cho cộng sản, tác giả bài viết cho rằng cộng sản Việt Nam ngày nay đã thực sự chấp nhận tôn giáo. Bằng chứng ngay tên đầu nậu đảng Lê Khả Phiêu trong nhà còn có bàn thờ Phật và luôn luôn có một ni cô (trông thật mát mắt !) luôn đi kèm bên cạnh tên dâm dục Lê Khả Phiêu ! Xin đừng ngây thơ hoặc chủ mưu tuyên truyền cho cộng sản, một khi chúng kêu Trời Đất, Chúa, Phật bằng thằng Trời, thằng Chúa, thằng Phật thì trong gia đình chúng nó cả chục bàn thờ thì cũng chỉ là hình thức đánh lận con đen ! Khu Đại Nam cách Sàigòn khoảng 40 cây số (cách thị xã Thủ Dầu Một 5 cây số) là một vùng lâu đài cộng sản cho xây trên một diện tích 450 ha, vĩ đại như cung vua chúa bên Tàu ngày xưa, trong đó, ngay chánh điện có tượng Đức Phật và chúng đã ngang nhiên đặt thêm tượng già Hồ khốn nạn để cho dân chúng đến thắp hương vái lạy ! Thật ra đó chính là cung điện để tưởng niệm già Hồ (như lăng Ba Đình ở Hà nội) nhưng bọn cộng sản chưa dám nêu đích danh mà phải núp bóng Phật để tráo trở bán vé cho khách vào vái lạy. Chúng tạm thời phải mượn danh Phật giáo lừa gạt dân chúng xem như đây là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam với lối kiến trúc phí tổn hàng trăm tỷ đồng. Nếu các vị trong hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam không khôn khéo thì mai đây đám quốc doanh cũng sẽ đem già Hồ vào trong các nhà thờ để dân chúng đến đọc kinh cầu nguyện hằng ngày !

Xin đừng nhìn một cách hời hợt trước những trò giả tạo như tổ chức ngày lễ Vua Hùng, lễ Hội dân tộc, Thi Hoa Hậu trong nước hoặc các chương trình văn hóa cổ truyền do các đoàn văn công Việt Cộng trình diễn ở xứ ngoài. Đây là hình thức mà chế độ cộng sản dùng để che đậy âm mưu tội đồ của chúng trước sự tồn vong của dân tộc và đất nước mà quan trọng, tôi xin nhấn mạnh, thật quan trọng là việc suy đồi văn hoá.

Tóm lại, cộng sản thường vỗ ngực tuyên truyền rằng nhờ văn hóa đỏ mà Việt Nam trở thành trung tâm ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘chiếc nôi của nhân loại’. Nhưng thực ra chúng đã đem lại gì cho quê hương tổ quốc sau trên 60 năm cai trị ? Về phương diện văn hóa thì, luân lý đảo lộn, thú (Việt cộng) lên làm người và người (dân miền Nam) trở xuống thú, xã hội xô bồ, trộm cắp, cướp giật, đĩ điếm, tình người biến mất. Tính mạng con người không đáng vài xu, anh em giết nhau vì vài đồng bạc, cha mẹ bán con vì củ khoai ký gạo. Cái thâm độc của cộng sản là đã biến xã hội thành thiên đường của ăn chơi đàng điếm để hủy hoại tinh thần đạo đức, tình người cao thượng của dân tộc Việt Nam. Dưới chế độ cộng sản hiện giờ, muốn sống còn thì phải biết lừa thầy phản bạn, dối gạt cha mẹ anh em, lừa lọc bạn bè hàng xóm. Những gì đã và đang xảy ta dưới xã hội chủ nghĩa của cộng sản Việt Nam cho thấy đạo đức và tình người đã khoát áo ra đi nhường chỗ gian manh tội ác ngự trị.

Ngoài ba triệu đảng viên và thành phần đỏ vinh thân phì gia nhờ bám vào chế độ cộng sản, còn lại vẫn còn trên một nửa dân số sống trong nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc, con cái không được học hành và đau ốm thiếu nơi chăm sóc chữa trị. Đừng nhìn những kiến trúc vật chất dành cho thành phần tỷ phú đỏ và người nước ngoài, lối sống phô trương chụp giựt của kẻ ‘đổi đời’ học làm sang mà cần nhìn vào thực trạng xã hội, cần suy nghĩ để thấy rằng ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn hàng triệu người lương thiện phải đi ăn xin, lượm rác để sống, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ phải ra nước ngoài làm nô lệ hoặc chấp nhận bán mình làm điếm khắp năm châu. Trên địa cầu nầy, dù những nơi chậm tiến, thiếu văn minh nhưng vẫn không đến nỗi tồi tệ như thiên đường cộng sản Việt Nam hiện nay.
Tài sản vật chất của quê hương tổ quốc bị tàn phá hoặc mất mát thì có thể sửa chữa và xây dựng lại trong vòng vài năm, vài chục năm. Nhưng một khi văn hóa và đạo lý con người hoàn toàn suy sụp thì phải tính từ thế hệ nầy qua thế hệ khác và mất hằng thế kỷ mới có thể phục hồi lại nguyên vẹn. Đó là cái tột lớn đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam mà đảng cộng sản đã gây ra. Sử sách sẽ ghi lại, nghìn đời để cho hậu thế phán xét.

Đinh Lâm Thanh
Paris, 15.02.2009



Chăn Gối Với Kẻ Thù - Huong Giang Nguyen

James Webb
chuyển ngữ
May/June 1997

Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.

Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.

Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.

Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.

Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.

Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”

Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.

Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”

Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.

Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.

Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.

Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.

Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.

Tại sao?

Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.

Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.

Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.

Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.

Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.

Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.

James Webb, cựu tiểu đoàn trưởng TQLC ở Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, hiện là Thượng Nghị Sĩ của tiểu bang Virginia

Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.

Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”

Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.

Nguồn: (1) Sleeping With the Enemy. By James Webb, 30 April 2003

SLEEPING WITH THE ENEMY
(Somethings never change)
The American Enterprise
May/June 1997
James Webb
Posted on Monday, April 07, 2003 9:43:16 AM by Valin

Anti-war protesters boast that there will be "no business as usual" until the war in Iraq ends. In Washington, San Francisco, and New York, peace activists have taken to the streets to block traffic, burn the President in effigy, and vomit on the steps of federal buildings. These activists represent a variety of causes but most share the belief that America, an evil nation, deserves to be defeated. In the May/June 1997 issue of The American Enterprise, James Webb took a closer look at what the Vietnam era protesters-- many of whom are at anti-war protests today--really wanted:

It is difficult to explain to my children that in my teens and early twenties the most frequently heard voices of my peers were trying to destroy the foundations of American society, so that it might be rebuilt according to their own narcissistic notions. In retrospect it's hard even for some of us who went through those times to understand how highly educated people--most of them spawned from the comforts of the upper-middle class--could have seriously advanced the destructive ideas that were in the air during the late '60s and early '70s. Even Congress was influenced by the virus.

After President Nixon resigned in August of 1974, that fall's congressional elections brought 76 new Democrats to the House, and eight to the Senate. A preponderance of these freshmen had run on McGovernesque platforms. Many had been viewed as weak candidates before Nixon's resignation, and some were glaringly unqualified, such as then-26-year- old Tom Downey of New York, who had never really held a job in his life and was still living at home with his mother.
This so-called Watergate Congress rode into town with an overriding mission that had become the rallying point of the American Left: to end all American assistance in any form to the besieged government of South Vietnam. Make no mistake--this was not the cry of a few years earlier to stop young Americans from dying. It had been two years since the last American soldiers left Vietnam, and fully four years since the last serious American casualty calls there.

For reasons that escape historical justification, even after America's military withdrawal the Left continued to try to bring down the incipient South Vietnamese democracy. Future White House aide Harold Ickes and others at "Project Pursestrings"--assisted at one point by an ambitious young Bill Clinton--worked to cut off all congressional funding intended to help the South Vietnamese defend themselves. The Indochina Peace Coalition, run by David Dellinger and headlined by Jane Fonda and Tom Hayden, coordinated closely with Hanoi throughout 1973 and 1974, and barnstormed across America's campuses, rallying students to the supposed evils of the South Vietnamese government. Congressional allies repeatedly added amendments to spending bills to end U.S. support of Vietnamese anti-Communists, precluding even air strikes to help South Vietnamese soldiers under attack by North Vietnamese units that were assisted by Soviet-bloc forces.

Then in early 1975 the Watergate Congress dealt non-Communist Indochina the final blow. The new Congress icily resisted President Gerald Ford's January request for additional military aid to South Vietnam and Cambodia. This appropriation would have provided the beleaguered Cambodian and South Vietnamese militaries with ammunition, spare parts, and tactical weapons needed to continue their own defense. Despite the fact that the 1973 Paris Peace Accords called specifically for "unlimited military replacement aid" for South Vietnam, by March the House Democratic Caucus voted overwhelmingly, 189-49, against any additional military assistance to Vietnam or Cambodia.

The rhetoric of the antiwar Left during these debates was filled with condemnation of America's war-torn allies, and promises of a better life for them under the Communism that was sure to follow. Then-Congressman Christopher Dodd typified the hopeless naiveté of his peers when he intoned that "calling the Lon Nol regime an ally is to debase the word.... The greatest gift our country can give to the Cambodian people is peace, not guns. And the best way to accomplish that goal is by ending military aid now." Tom Downey, having become a foreign policy expert in the two months since being freed from his mother's apron strings, pooh-poohed the coming Cambodian holocaust that would kill more than one-third of the country's population, saying, "The administration has warned that if we leave there will be a bloodbath. But to warn of a new bloodbath is no justification for extending the current bloodbath."

On the battlefields of Vietnam the elimination of all U.S. logistical support was stunning and unanticipated news. South Vietnamese commanders had been assured of material support as the American military withdrew--the same sort of aid the U.S. routinely provided allies from South Korea to West Germany--and of renewed U.S. air strikes if the North attacked the South in violation of the 1973 Paris Peace Accords. Now they were staring at a terrifyingly uncertain future, even as the Soviets continued to assist the Communist North.

As the shocked and demoralized South Vietnamese military sought to readjust its forces to cope with serious shortages, the newly refurbished North Vietnamese immediately launched a major offensive. Catching many units out of position, the North rolled down the countryside over a 55-day period. In the ensuing years I have interviewed South Vietnamese survivors of these battles, many of whom spent ten years and more in Communist concentration camps after the war. The litany is continuous: "I had no ammunition." "I was down to three artillery rounds per tube per day." "I had nothing to give my soldiers." "I had to turn off my radio because I could no longer bear to hear their calls for help."

The reaction in the United States to this debacle defines two distinct camps that continue to be identifiable in many of the issues we face today. For most of those who fought in Vietnam, and for their families, friends, and political compatriots, this was a dark and deeply depressing month. The faces we saw running in terror from the North Vietnamese assault were real and familiar, not simply video images. The bodies that fell like spinning snowflakes toward cruel deaths after having clung hopelessly to the outer parts of departing helicopters and aircraft may have been people we knew or tried to help. Even for those who had lost their faith in America's ability to defeat the Communists, this was not the way it was supposed to end.

For those who had evaded the war and come of age believing our country was somehow evil, even as they romanticized the intentions of the Communists, these few weeks brought denials of their own responsibility in the debacle, armchair criticisms of the South Vietnamese military, or open celebrations. At the Georgetown University Law Center where I was a student, the North's blatant discarding of the promises of peace and elections contained in the 1973 Paris Accords, followed by the rumbling of North Vietnamese tanks through the streets of Saigon, was treated by many as a cause for actual rejoicing.

Denial is rampant in 1997, but the truth is this end result was the very goal of the antiwar movement's continuing efforts in the years after American withdrawal. George McGovern, more forthcoming than most, bluntly stated as much to this writer during a break in taping a 1995 edition of cnn's "Crossfire." After I had argued that the war was clearly winnable even toward the end if we had changed our strategy, the 1972 presidential candidate who had offered to go to Hanoi on his knees commented, "What you don't understand is that I didn't want us to win that war." Mr. McGovern was not alone. He was part of a small but extremely influential minority who eventually had their way.

There is perhaps no greater testimony to the celebratory atmosphere that surrounded the Communist victory in Vietnam than the 1975 Academy Awards, which took place on April 8, just three weeks before the South's final surrender. The award for Best Feature Documentary went to the film Hearts and Minds, a vicious piece of propaganda that assailed American cultural values as well as our effort to assist South Vietnam's struggle for democracy. The producers, Peter Davis and Bert Schneider [who plays a role in David Horowitz's story--see page 31], jointly accepted the Oscar. Schneider was frank in his support of the Communists. As he stepped to the mike he commented that "It is ironic that we are here at a time just before Vietnam is about to be liberated." Then came one of the most stunning--if intentionally forgotten--moments in Hollywood history. As a struggling country many Americans had paid blood and tears to try to preserve was disappearing beneath a tank onslaught, Schneider pulled out a telegram from our enemy, the Vietnamese Communist delegation in Paris, and read aloud its congratulations to his film. Without hesitating, Hollywood's most powerful people rewarded Schneider's reading of the telegram with a standing ovation.

Those of us who either fought in Vietnam or supported our efforts there look at this 1975 "movie moment" with unforgetting and unmitigated amazement. Who were these people who so energetically poisoned the rest of the world's view of us? How had they turned so virulently against their own countrymen? How could they stand and applaud the victory of a Communist enemy who had taken 58,000 American lives and crushed a struggling, pro-democratic ally? Could they and the rest of us be said to be living in the same country anymore?

Not a peep was heard then, or since, from Hollywood regarding the people who disappeared behind Vietnam's bamboo curtain. No one has ever mentioned the concentration camps into which a million South Vietnamese soldiers were sent; 56,000 to die, 250,000 to stay for more than six years, and some for as long as 18. No one criticized the forced relocations, the corruption, or the continuing police state. More to the point, with the exception of the well-intentioned but artistically weak Hamburger Hill, one searches in vain for a single major film since that time that has portrayed American soldiers in Vietnam with dignity and in a true context.

Why? Because the film community, as with other elites, never liked, respected, or even understood those who answered the call and served. And at a time when a quiet but relentless battle is taking place over how history will remember our country's involvement in Vietnam, those who ridiculed government policy, avoided military service, and actively supported an enemy who turned out to be vicious and corrupt do not want to be remembered as having been so naive and so wrong.

Among everyday Americans, attitudes during this troubled time were much healthier. Behind the media filtering and distortion on Vietnam, the fact is that our citizenry agreed far more consistently with those of us who fought than with those who undermined our fight. This was especially true, interestingly, among the young Americans now portrayed as having rebelled against the war.

As reported in Public Opinion, Gallup surveys from 1966 to the end of U.S. involvement show that younger Americans actually supported the Vietnam war longer than any other age group. Even by January of 1973, when 68 percent of Americans over the age of 50 believed it had been a mistake to send troops to Vietnam, only 49 percent of those between 25 and 29 agreed. These findings that the youth cohort as a whole was distinctly unradical were buttressed by 1972 election results--where 18- to 29-year-olds preferred Richard Nixon to George McGovern by 52 to 46 percent.

Similarly, despite persistent allegations to the contrary by former protesters who now dominate media and academia, the 1970 invasion of Cambodia--which caused widespread campus demonstrations, including a riot that led to four deaths at Kent State University-- was strongly supported by the public. According to Harris surveys, nearly 6 in 10 Americans believed the Cambodian invasion was justified. A majority in that same May 1970 survey supported an immediate resumption of bombings in North Vietnam, a complete repudiation of the antiwar movement.

Vietnam veterans, though persistently maligned in film, news reports, and classrooms as unwilling, unsuccessful soldiers, have been well thought of by average Americans. In the most comprehensive study ever done on Vietnam vets (Harris Survey, 1980, commissioned by the Veterans Administration) , 73 percent of the general public and 89 percent of Vietnam veterans agreed with the statement that "The trouble in Vietnam was that our troops were asked to fight in a war which our political leaders in Washington would not let them win." Seventy percent of those who fought in Vietnam disagreed with the statement "It is shameful what my country did to the Vietnamese people." Fully 91 percent of those who served in Vietnam combat stated that they were glad they had served their country, and 74 percent said they had enjoyed their time in the military. Moreover, 71 percent of those who expressed an opinion indicated that they would go to Vietnam again, even knowing the end result and the ridicule that would be heaped on them when they returned.

This same survey contained what was called a "feelings thermometer," measuring the public's attitudes toward various groups on a scale of 1 to 10. Veterans who served in Vietnam rated a 9.8 on this scale. Doctors scored a 7.9, TV reporters a 6.1, politicians a 5.2, antiwar demonstrators a 5.0, and draft evaders who went to Canada came in at 3.3.

Contrary to persistent mythology, two-thirds of those who served during Vietnam were volunteers rather than draftees, and 77 percent of those who died were volunteers. Of those who died, 86 percent were Caucasian, 12.5 percent were African-American, and 1.2 percent were from other races. The common claim that it was minorities and the poor who were left to do the dirty work of military service in Vietnam is false. The main imbalance in the war was simply that the privileged avoided their obligations, and have persisted since that time in demeaning the experience in order to protect themselves from the judgment of history.

And what of these elites who misread not only a war but also their own countrymen? Where are they now, other than in the White House? On this vital historical issue that defined our generation, they now keep a low profile, and well they should.

What an eerie feeling it must have been for those who staked the journey of their youth on the idea that their own country was an evil force, to have watched their naiveté unravel in the years following 1975. How sobering it must have been for those who allowed themselves to move beyond their natural denial, to observe the spectacle of hundreds of thousands of South Vietnamese fleeing the "pure flame of the revolution" on rickety boats that gave them a 50 percent chance of death at sea, or to see television pictures of thousands of Cambodian skulls lying in open fields, part of the millions killed by Communist "liberators." How hollow the memories of drug-drenched and sex-enshrined antiwar rallies must be; how false the music that beatified their supposedly noble dissent.

Indeed, let's be frank. How secretly humiliating to stare into the face of a disabled veteran, or to watch the valedictory speech of the latest Vietnamese-American kid whose late father fought alongside the Americans in a cause they openly mocked, derided, and despised. And what a shame that the system of government that allowed that student to be so quickly successful here is not in place in the country of her origin.

— James Webb, a Marine rifle platoon and company commander in Vietnam, has served as Secretary of the Navy and is the author of several novels.
The American Enterprise Online


Hồi chuông thức tỉnh - Nam Dao


Nam Dao

Kể từ sau hiệp định Genève 1954 cho tới nay, hơn nửa thế kỷ qua Cộng sản Việt Nam đã xử dụng bạo lực và cai trị dân bằng bao tử để củng cố quyền lực. Chính sách tem phiếu hộ khẩu là một hình thức kiểm soát bao tử ép người dân phải nô lệ nhà nước từng giọt dầu, từng hạt muối, từng thước vải đã làm thui chột tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên của con người. Một nhà cầm quyền có trách nhiệm phải biết vun bồi tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vươn lên trong lòng dân vì đây là vũ khí quan trọng để chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Tội ác lớn của Cộng sản Việt Nam là đã làm thui chột tinh thần trên đã được cha ông ta dày công vun bồi suốt chiều dài bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Lời kêu gọi “Một tháng biểu tình tại gia để chống việc lấy Vàng tức dân tộc đổi Nhôm nước ngoài” của Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng không đi ngoài mục đích kêu gọi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước hãy làm sống dậy trong tâm hồn mình tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên trước hiểm họa đất nước sắp rơi vào vòng kim cô nô lệ giặc Tầu.

Hòa thượng Thích Quảng Độ không làm chính trị. Ngài đang làm tròn bổn phận của một công dân gương mẫu, trước hiểm họa sơn hà nguy biến phải lên tiếng đấu tranh sao cho phù hợp với hoàn cảnh bị giam lỏng tại Thanh Minh thiền viện. Với tấm lòng từ bi bác ái thương dân, Ngài đã đưa ra một giải pháp đấu tranh khá an toàn cho toàn dân và tương đối khả thi cho nhiều người là “biểu tình tại gia”. Một hành động hoàn toàn không vi phạm luật pháp cho nên bạo quyền không có cớ và nhất là không có đủ tay sai công an đến từng nhà để gây sự. Lời kêu gọi trên cũng không mang tính chất đấu tranh bất bạo động theo kiểu xin cho. Bởi vì tuy với cái vỏ bề ngoài ôn hòa bất bạo động, nhưng hành động của nó nếu được thể hiện ở tầm vóc quy mô sẽ gây thiệt hại lớn và có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài. Lịch sử thế giới đã chứng minh cho thấy rằng những cuộc biểu tình lãng công quy mô của dân chúng bất hợp tác với nhà cầm quyền sẽ làm tê liệt guồng máy quốc gia dẫn đến sự sụp đổ của chế độ khó tránh khỏi.

Cuộc chiến đấu lật đổ bạo lực và chống lại ngoại xâm nào mà chả gian truân với những thất bại lót đường cho chiến thắng cuối cùng. Từ ngàn xưa cho tới nay các vị anh hùng dân tộc như Trần Bình Trọng hay Nguyễn Thái Học và các anh hùng liệt sĩ Yên Bái, dẫu biết rằng xác xuất thành công rất thấp khi phải đối đầu với kẻ thù khổng lồ Pháp đầy đủ súng ống tối tân, nhưng vẫn coi nhẹ thất bại và ra quân. Sự thất bại mang tính chất giai đoạn trong dòng sử đấu tranh chống Pháp đã để lại cho dân tộc Việt Nam thời đó một gia tài đấu tranh to tát là tinh thần đối kháng bất khuất vùng lên làm sống dậy ngọn lửa Diên Hồng ngày càng lan rộng khắp ba miền, khai tử trang sử buồn 100 năm đô hộ giặc Tây.

Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng vậy. Với cái nhìn xa về con đường đấu tranh Ngài không đặt vấn đề thành bại mang tính chất giai đoạn. Ngày hôm nay trước hiểm họa nô lệ giặc Tầu, qua Lời kêu gọi biểu tình tại gia Hòa thượng Thích Quảng Độ muốn gửi đến toàn dân một thông điệp đấu tranh rất quan trọng là kêu gọi toàn dân hãy làm sống dậy trong tâm hồn mình tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên lật đổ chế độ bán nước buôn dân đang tiếp tay với Trung Cộng thực hiện ý đồ Hán hóa Việt Nam qua việc để cho Tầu mang hàng trăm ngàn dân Tầu cộng sang khai thác Bauxite ở Tây Nguyên.

Tinh thần biểu tình tại gia phản kháng chế độ không phải chỉ chấm dứt sau tháng Năm 2009, mà nó còn phải được duy trì ngày càng quyết liệt hơn. Một khi ngọn lửa đối kháng đã bùng cháy trong lòng mình thì mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày sống với ý thức biểu tình tại gia. Với ý thức đó, mỗi người sẽ thể hiện tinh thần đối kháng bằng những hành động khác nhau phù hợp với hoàn cảnh sống cá nhân và phương tiện có trong tay. Khi ngọn lửa phản kháng và bất khuất vùng lên đã thắp sáng trong lòng dân, tất nhiên lịch sử VN sẽ được lật sang trang mới, ghi lại những thành qủa hào hùng cứu nước bảo toàn đất tổ.

Lời kêu gọi biểu tình tại gia của Hòa thượng Thích Quảng Độ trong lúc này chính là hồi chuông đánh thức tinh thần phản kháng và ý chí quật cường của toàn dân Việt đã bị Cộng sản Việt Nam làm soi mòn từ hơn nửa thế kỷ qua.

Nam Dao (Adelaide)

Tài Liệu:
(Ỷ Lan phỏng vấn Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ)

Ỷ Lan: Bạch Hòa thượng, biểu tình tại gia là một danh từ mới lạ, đồng thời là một động thái biểu dương chưa hề xẩy ra trong thế giới. Kính xin Hòa thượng giải thích cho thính giả được biết vì sao Hòa thượng chọn hành động này để phản đối nguy cơ khai thác bô-xít Tây nguyên ? Sao không xuống đường biểu tình như thường lệ ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ: Ở các nước tự do, dân chủ thật sự thì mọi quyền làm người của công dân đều được tôn trọng, kể cả quyền biểu tình nơi công cộng để nói lên ngưỡng vọng chính đáng của mình trong trật tự, kỷ luật. Không ai đàn áp, bắt bớ, bỏ tù. Nhưng ở Việt Nam hiện nay toàn dân đang sống dưới chế độ độc tài, công an trị. Tất cả quyền sống của con người đều bị bóp nghẹt. Nếu dân chúng xuống đường biểu tình thì tức khắc bị đàn áp và tống vào trại giam.

Vì thế Giáo hội phải chọn phương pháp Vô Tướng, tức biểu tình ở nhà, không khẩu hiệu, không biểu ngữ, không hoan hô đả đảo ai. Chỉ nói lên ước vọng của mình bằng sự im lặng. Cho nên công an có muốn bắt cũng không biết đâu mà bắt. Không lẽ đến từng nhà gõ cửa hỏi người ta: Ông bà cô bác có đang biểu tình ngồi đấy không ?!

Thực ra phương pháp này không có gì mới mẻ đâu. Nó bắt nguồn từ phương pháp bất bạo động đó thôi. Nhưng vì ở Việt Nam theo luật cộng sản hiện hành, ra đường tụ tập 5 người trở lên cũng đã vi phạm pháp luật rồi. Dù không bạo động cũng bị đàn áp. Cho nên phải biểu tình trong nhà, thế thôi. Đây là động thái chưa từng xẩy ra trên thế giới như cô Ỷ Lan nói, thì đúng đấy.

Nhưng nó sẽ xẩy ra ở Việt Nam trong tháng 5 tới.

Ỷ Lan: Kính xin Hòa thượng cho biết một tháng biểu tình tại gia trong hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, dân đói nghèo, việc này có khả thi không ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ: Chính tôi khi đưa ra khoảng thời biểu đó cũng nghĩ đến việc này. Đồng bào Việt trong nước, nhất là ở miền Bắc từ sau năm 1954 đến 1986 phải sống dưới chế độ bao cấp. Cái gì cũng phải có tem có phiếu mới mua được. Gạo… tất cả các thứ thực dụng hằng ngày, từng giọt dầu, từng hạt muối… năm nhà hai tháng được chung một cuộn chỉ đưa ra chia nhau, đo từng tấc từng thước, khổ cực vô cùng. Tôi ra miền Bắc năm 1982 sống đến 1986, chế độ tem phiếu vẫn còn chặt chẽ. Ba bốn người chung nhau mỗi năm mới được một mét vải. Có khi là họ lấy vải hai màu, một màu hết phải lấy hai màu. May cái quần một ống trắng một ống đen. Rất kỳ khôi (cười). Nó khổ đến như thế đấy. Thế thì hằng chục năm như thế. Còn đồng bào miền Nam thì bắt đầu từ năm 1975 cho đến 1986 cũng là mười năm ăn bo bo mỏi răng thôi. Cực khổ vô cùng.

Nghĩ lại những hàng chục năm khổ cực như thế mà còn chịu được. Bây giờ đây một tháng biều tình tại gia không đến nỗi như hàng chục năm kia đâu. Có thể là khổ, là thiếu thốn, nhưng không đến nỗi khổ cực hằng chục năm dưới chế độ tem phiếu, bao cấp. Suy nghĩ lại, đây là mình chịu khổ thắt lưng buộc bụng một tháng thôi. Nhưng trong một tháng này chia làm ba phần, cố gắng cho mỗi miền mười ngày. Tức là :

- Đồng bào miền Bắc biểu tình trong nhà từ ngày mồng 1 tháng 5 đến ngày mồng 10 tháng năm 2009.

- Sau đó thì bắt đầu đến đồng bào miền Trung từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 biểu tình trong nhà. Chỉ ngồi trong nhà, không đi đâu.

- Cuối cùng đợt thứ ba là từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 31 tháng 5 dành cho đồng bào miền Nam.

Tôi chia ra ba đợt như vậy thì mỗi đợt chỉ có mười ngày thôi. Xin toàn thể đồng bào từ Nam chí Bắc dốc hết tâm lực vào trong 10 ngày biểu tình ngồi trong nhà. Cứ đóng cửa hoặc mở cửa như thường. Cứ ngồi trong nhà thôi. Cũng không lo bị bắt. Ai biết đâu mà bắt. Không lẽ công an đi vào từng nhà mà hỏi ông bà đang biểu tỉnh đấy à ?! Ai mà coi được.

Cái việc làm đây mà nếu được kết quả thực sự, đồng lòng mà làm chừng ba mươi chục triệu người hưởng ứng thôi. Làm một tháng như thế cũng có kết quả đấy. Kết quả này là kết quả lớn lắm. Nó là sự sống còn của cả một dân tộc, một đất nước. Nếu làm được như vậy là một cách đánh động dư luận trong nước và ngoài nước một luồng không khí mới thổi vào trong cuộc vận động cho dân chủ, cho nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam hiện nay.

Cho nên qua các cơ quan thông tấn, báo chí, đài phát thanh ở nước ngòi… tôi rất mong rằng quý vị cố cổ động, rồi thì hội thảo trên các Paltalk, diễn đàn để cố sao chuyển đạt được cái tin này, lời kêu gọi này về Việt Nam đến đồng bào ba miền Nam Trung Bắc, đến được nhiều nhà chừng nào tốt chừng đó.



ACRL: TS Trần Mỹ Vân vinh danh HT Thích Quảng Độ

Từ trái: Dân biểu Con Sciacca, Sheikh Abdul Rahman, TGM Peter Jensen, Thượng tọa Thích Phước Nhơn, TS Trần Mỹ Vân, TGM George Pell, Cựu Phó thủ tướng John Anderson, Chủ tịch ACRL Rocky Mimmo, Gambhir Watts (Ấn giáo)

TS Trần Mỹ Vân phát biểu tại ACRL
Sydney - Tiến sĩ Trần Mỹ Vân, giáo sư môn Á châu học tại Đại học South Australia, đã tạo sự chú ý lớn lao của một cử tọa gồm các giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc về tình trạng đàn áp Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ dưới bàn tay nhà cầm quyền CSVN.

Hôm thứ Năm 23/4/09, buổi lễ khai mạc Trung tâm Ambrose cho Tự do Tôn giáo (Ambrose Centre for Religious Liberty - ACRL) đã mời TS Trần Mỹ Vân lên phát biểu về tình hình Phật giáo tại Việt Nam. Được biết ACRL là một trung tâm nghiên cứu với mục đích bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng căn bản của con người. Buổi lễ khai mạc diễn ra tại Quốc hội tiểu bang New South Wales được chủ toạ bởi Cựu Phó thủ tướng Úc, ông John Anderson. Trong số khoảng 150 vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc, người ta cũng nhận thấy sự hiện diện của nhiều khuôn mặt tiếng tăm như đức Hồng y George Pell (Tổng giám mục Sydney của đạo Công giáo), Tiến sĩ Peter Jensen (Tổng giám mục Sydney của Anh giáo), đại diện của nhiều tôn giáo như Ấn giáo, Hồi giáo, Bahai, nhiều dân biểu Quốc hội tiểu bang lẫn liên bang, v.v...

Riêng về phía Phật giáo thì có sự hiện diện của Thượng tọa Thích Phước Nhơn vị đại diện của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất tại Úc châu. Từ tiểu bang Nam Úc, người ta nhận thấy có Dân biểu Jack Snelling, chủ tịch Hạ viện Nam Úc và là một người luôn hỗ trợ các cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của cộng đồng người Việt.

Trong một bài phát biểu gây xúc động mãnh liệt trong cử tọa, TS Mỹ Vân nói:

“Suy ngẫm về kinh nghiệm tâm linh bản thân, tôi thấy rõ quyền tự do tôn giáo là quan trọng. Nhưng buồn thay, không phải ai ai trên thế giới cũng được hưởng tự do đó. Tôi rất buồn phiền khi được biết rằng người dân Tây Tạng ngay trên đất nước của họ, không có quyền giữ hình của đức Đạt lai Lạt ma, vị lãnh đạo tâm linh của họ. Họ phải giấu hình ngài đi, hoặc phải tiêu huỷ, nếu không sẽ bị trừng phạt và tra tấn. Tôi thiển nghĩ đức Lạt ma có dạy điều gì chống lại nhân loại và hoà bình đâu. Ngược lại là đằng khác, ngài chỉ dạy tình thương, sự hiểu biết, lòng khoan dung và tha thứ... Tự do tôn giáo không phải là chuyện không có cũng chẳng sao, mà là một quyền con người căn bản mà không một nhà cầm quyền nào có thể tước đoạt.

“Khi nghĩ tới Việt Nam thì tôi lại càng buồn phiền hơn nữa. Việt Nam ngày nay bị cai trị bởi một chế độ độc tài cộng sản. Nhiều nhà sư, linh mục, nữ tu sĩ và tín đồ đã bị sách nhiễu, bỏ tù, giam lỏng tại gia chỉ vì họ giữ vững đức tin tâm linh của riêng họ, hoặc vì họ mong muốn chính quyền không can thiệp vào tôn giáo, vì họ đòi hỏi tự do tín ngưỡng và dân chủ cho Việt Nam. Giản dị là không ai có thể bắt họ cải đạo để trở thành người theo chủ nghĩa cộng sản...

“Tôi xin mượn cơ hội này để nêu lên trường hợp của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Giáo hội đã bị cấm không được hoạt động, tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội đã từng bị bắt giam ròng rã nhiều năm, bị đi đày ngay trên xứ sở họ, và tiếp tục bị cầm tù, chỉ vì họ từ chối khuất phục chế độ cộng sản. Hoà thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo của giáo hội bị cấm đoán này, là một học giả xuất chúng, một vị chân tu và tác giả nhiều thơ văn. Ngài đã hiến trọn đời mình cho đạo Phật và cho lợi ích nhân loại. Vậy mà suốt 3 thập niên qua, ngài đã gặp đủ mọi khó khăn chẳng khác gì vị Tăng thống trước là Hoà thượng Thích Huyền Quang. HT Quảng Độ đã được trao tặng giải Thoroft Rafto, một giải thưởng lẫy lừng, và ngài cũng từng được đề cử 9 lần cho giải Nobel Hoà bình. Ngài đã trở thành biểu tượng của phong trào Phật giáo tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền.”

Được biết khi nói đến đó, TS Trần Mỹ Vân đã giương lên cho cử toạ thấy những bức tem thư với hình HT Quảng Độ mà bà đã được phép cho in ấn đặc biệt. Những tấm tem HT Quảng Độ đã được cử toạ hoan nghênh nhiệt thành. Trong thời gian tới, Trung tâm ACRL dự định sẽ tổ chức nhiều buổi hội thảo tại các tiểu bang khác xứ Úc.

Bà Trần Mỹ Vân là giáo sư Phân khoa Quốc tế học, chuyên giảng dạy Á châu học tại Đại học South Australia. Trước kia bà du học Úc châu theo chương trình Colombo và góp phần thành lập Cộng đồng người Việt Tự do tại Úc trong những buổi đầu.



Những gì đã xảy ra tại chùa Chánh Giác ? - Nhật Thường

Nhật Thường

Lời tòa soạn: Vào ngày 23/3/2009 chúng tôi có nhận được một số tài liệu gởi từ Perth bao gồm một DVD và một UBS, trong đó có nhiều video clip dài tổng cộng gần 2 giờ đồng hồ. Đó là những hình ảnh đã quay được bên trong chùa Chánh Giác do cư sĩ Lê Tấn Kiết đang trụ trì, đồng thời ông Kiết cũng đang là Chủ Tịch Hội Phật Giáo Việt Nam Tây Úc. Nội dung của những tài liệu này tố cáo hành động lạm dụng tình dục của ông Kiết với một phụ nữ từ Việt Nam mới qua. Sau đó chúng tôi có liên lạc với một số người có liên hệ để kiểm chứng nguồn tin và đồng thời gởi một phóng viên đến Perth để tìm hiểu thêm sự việc, lắng nghe từ hai để có cái nhìn khách quan và chính xác hơn.

Sau đây là bài tường thuật của ký giả Nhật Thường sau chuyến đi Perth với những gì mắt thấy tai nghe. Tất cả những lần tiếp xúc đều có ghi âm với sự đồng ý của đương sự, ngay cả lần gặp ông Lê Tấn Kiết tại chùa Chánh Giác.
http://vietluanonline.com/030409/nhunggixayraochuachanhgiac.html

*
* *
Cô Huệ, Khang và Cư sĩ Lê Tấn Kiết

Tôi rời Sydney lúc 6am và đến Perth lúc 9.30am, chuyến bay kéo dài 4 tiếng rưỡi, xa hơn từ Sydney đi ngoại quốc như New Zealand hay một số đảo ở Thái Bình Dương. Tại phi trường Perth, tôi mướn một chiếc xe để đi đến một số nơi cần thiết. Nhờ có mang theo GPS nên việc đi lại thật dễ dàng.

Khi xảy ra việc này tôi được quen với anh T., một đồng hương sống hơn 20 năm tại Perth, anh tình nguyện bỏ ra trọn một ngày để làm hướng dân viên cho tôi. Nhân dịp này cho tôi gởi đến vợ chồng anh chị T. lời cám ơn đặc biệt. Hai anh chị này đã quá tử tế với tôi.

Từ phi trường tôi chạy xe đến nhà anh T., rồi từ đó chúng tôi đến gặp cô Nguyễn Thị Huệ, hiện tạm thời sống tại nhà của một hội viên của hội Connecting Communities Vietnam, viết tắc là CCV, thuộc vùng ngoại ô của Perth. Chúng tôi chỉ gặp có chị thôi, còn An Khang thì đang đi học tiếng Anh tại một trường chuyên dạy sinh ngữ để chuẩn bị cho các du học sinh vào trung học hay đại học. Tôi hẹn gặp Khang và bà Lyn lúc 4 giờ chiều tại đó sau khi Khang tan học. Trong thời gian này bà Lyn thường xuyên đưa đón Khang.

Sau vài câu câu trao đổi với cô Huệ, tôi nhận ra ngay ở cô cái nét chất phát của các cô gái Nam Kỳ Lục Tỉnh, tôi hỏi gì cô trả lời đó, kiểu “có sao nói vậy” không có chút gì cầu kỳ kiểu cách. Cô nói chuyện với tôi như những lời tâm tình hơn là một cuộc phỏng vấn.

Dưới đây tôi viết lại những gì đã ghi nhận sau khi gặp Cô Nguyễn Thị Huệ.

Cô Huệ năm nay 40 tuổi, khi còn ở Việt Nam sống tại ấp Giồng Nổi, xã Tam Kỳ, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Cô học lên đến hết lớp 12 thì bỏ học vì gia đình không có khả năng tài chánh để học tiếp lên đại học, cô ở nhà phụ giúp gia đình làm ruộng.

Cô quen anh Phạm Thành Niên từ năm cô 18 tuổi, người cùng quê, lớn hơn cô 5 tuổi. Sau khi tốt nghiệp trường Nông Lâm Súc tại Vĩnh Long, anh Niên học tiếp lên Đại Học Hải Sản Nha Trang, chương trình 5 năm, nhưng theo lời cô thì đến năm thứ 5 anh Niên phải bỏ học vì gia đình anh làm ăn sa sút không còn đủ khả năng trang trải chi phí cho anh ăn học nữa.

Không lâu sau khi trở về quê thì hai người lấy nhau (lúc đó cô Huệ 23 tuổi còn anh Niên 28 tuổi), họ có một mối tình kéo dài 5 năm thật đẹp như phần lớn các cuộc tình của những đôi trẻ khác.

Sau khi lấy nhau họ sống bằng nghề làm ruộng, sau đó có nhau 2 người con: An Khang sinh năm 1993 và một đứa em trai sinh năm 1995.


cô Huệ (áo bông) tại nhà cô ở ấp Giồng Nổi, xã Tam Kỳ, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh

Là một người có học thức nhưng cuối cùng phải sống một cuộc đời lam lũ, nhà tranh vách đất, làm ruộng chỉ đủ sống qua ngày, khiến ông Niên trở thành người thất chí, càng lớn tuổi ông càng thích tìm rượu để giải sầu, sau những lần say xỉn trở về, nhiều lần ông đã đánh đập vợ con một cách vô cớ. Có 2 lần ông đánh chị nặng đến độ phải chở vô bệnh viện.

Theo lời chị thì từ lúc nhỏ Khang tỏ ra là một bé thông minh, về môn toán Khang thường khi đứng
nhất trong lớp. Đến năm 12 tuổi, Khang hơi lơ đãng chuyện học và có thú thích chơi bida. Trong lúc đó ông Niên cấm Khang không được chơi bida, nhưng thỉnh thoảng Khang trốn cha đi chơi lén. Chiều ngày 25 tháng 8 năm 2005 trên đường đi nhậu về, ông Niên phát hiện con mình đang chơi bida, ông kéo con về nhà rồi trót lại đổ dầu vô châm lửa đốt. Ngay sau lúc đó cô Huệ đang đi về nghe con mình la hét chạy vô dập tắt ngọn lửa, nhưng đã trễ, vết phỏng đã quá nặng. Họ chở Khang xuống bệnh viện Chợ Rẫy rồi sau đó chuyển qua Bệnh Viện Nhi Đồng 1, nằm ở đó 4 tháng, thì phải trở về nhà là vì gia đình cô Huệ không còn tiền để trả chi phí bệnh viện và bác sĩ Việt Nam cũng bó tay trước vết thương quá nặng của Khang.

Trong 4 tháng đó ông Niên có phụ với vợ để chăm sóc cho Khang ở bệnh viện, nhưng sau đó ông bị
tòa tuyên án 9 năm tù, kể từ đó cô Huệ phải một mình lo cho 2 đứa con. Trong cơn tuyệt vọng, cô được người ta chỉ đến Hội Y Sĩ Quốc Tế ở Sài Gòn. Hội này email cho bà Lyn Annadale, chủ tịch hội Connecting Communities Vietnam về trường hợp của Khang. Theo lời bà Lyn kể lại thì lúc đó nhìn thấy những tấm hình này bà thương tâm quá nên làm đơn ngay gởi cho Bộ Duy Trú Úc xin cho Khang qua đây chữa bệnh, đồng thời bà liên lạc với Bác sĩ Fiona Woods, là bác sĩ giỏi nhất của Úc chuyên về chữa phỏng, để nhờ giúp đỡ cho trường hợp của Khang. Bs Woods đồng y ngay và sẵn sàng chữa miễn phí cho Khang, hội CCV chỉ lo trả chi phí cho bệnh viện mà thôi.

Sau đó Bộ Di Trú đồng ý cho Khang qua Úc chữa bệnh với điều kiện là phải có người bảo đảm chỗ ăn ở. Bà Lyn liên lạc với cộng đồng người Việt tại Tây Úc và được giới thiệu đến ông Lê Tấn Kiết – trụ trì chùa Chánh Giác, ông Kiết ký giấy đồng ý giúp cho mẹ con cô Huệ được ở tại chùa miễn phí.

Cuối cùng mẹ con cô Huệ đến Úc vào ngày 15/12/2007. Kể từ ngày bà Lyn nhận được email đầu tiên về Khang cho đến ngày em được Úc mất khoảng 1 năm.

Từ đó đến nay Khang đã trải qua 3 cuộc giải phẩu lớn: cổ, hai nách và tay. Cuộc giải phẩu cổ và nách thì thành công, còn tay thì không thành công. Khó khăn nhất đối với Khang hiện này là không thể ăn được như người bình thường, vì xương hàm bị dính lại cho nên không thể mở miệng lớn được, hiện tại Khang chỉ ăn thức ăn xay nhiễn ra rồi dùng ống hút để hút. Khang cũng không thể tắm được một mình vì không thể vơ hai cánh tay lên cao. Theo Bs Woods cho biết thì bước sắp tới bà sẽ giải phẩu xương hàm để Khang có thể ăn uống được như người bình thường. Hiện tại chưa làm được là vì kháng thể trong người Khang yếu, sợ không đủ sức chống lại nếu trường hợp vết thương bị nhiễm trùng.

Cô Huệ phải làm việc như thế nào ở chùa?

Ông Kiết sống tại chùa Chánh Giác một mình (vợ của ông chỉ thỉnh thoảng vào chùa), từ hơn một
năm nay thì thêm mẹ con cô Huệ. Theo cô Huệ cho biết thì cô coi chùa như nhà của mình, hơn thế nữa chùa này đã cưu mang gia đình cô trong cơ hoạn nạn, cho nên ngoài việc chăm sóc cho con, cô không bao giờ câu nệ làm tất cả các công việc trong chùa như quét dọn, lau chùi, nấu ăn cho ông Kiết v.v.. Những ngày rầm, ngày lễ hay có đám tang thì làm nhiều hơn bình thường. Các nhân viên của CCV mỗi khi đến thăm đều thấy cô làm việc, họ không hài lòng nhưng cô cho biết cô thích làm việc hơn là ở không, nên họ cũng không thắc mắc nữa.

Làm việc cô không ngại, nhưng điều làm cho cô Huệ buồn và khóc nhiều lần là thái độ của ông Kiết đối với mẹ con cô.

Theo những người sống lâu năm tại Tây Úc mà tôi có dịp tiếp xúc đều nhận xét về ông Kiết là một con người “cực kỳ thủ đoạn và nham hiểm”. Nhận xét chung của tôi là phần đông đều ghét ông nhưng tất cả đều sợ ông. Họ cho tôi biết rất nhiều tin tức về ông nhưng tất cả đều yêu cầu tôi phải giữ kín tên tuổi của họ đừng để lộ, nếu không họ hoặc gia đình có thể bị trả thù. Nói như thế mới thấy sự sợ hãi bao trùm lên cộng đồng của chúng ta khi đụng đến các thế lực tôn giáo, mặc dầu chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh và có luật pháp.

Những thủ đoạn ông Kiết áp dụng với mẹ con cô Huệ

Theo cô Huệ thì ông Kiết áp dụng hai cách sau đây đối với mẹ con cô:

Ông Lê Tấn Kiết

1. Trước mặt mọi người ông Kiết luôn tìm cách nói xấu mẹ con cô Huệ và cô lập mẹ con cô với các phật tử đến chùa

2. Khi mọi người đã ra về thì đó là lúc ông “dỗ ngọt” cô Huệ và nói xấu người khác, ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại với cô câu này “Không ai tốt với mày đâu, chỉ có tao mới là người tốt thôi” (ông Kiết luôn luôn xưng mầy tao với cô Huệ).

Theo những người sống lâu tại Tây Úc và hiểu rõ ông Kiết, tất cả những việc làm của ông Kiết đều có tính toán.

Theo họ, ông cần phải cô lập mẹ con cô Huệ với mọi người là để cô và Khang không có cơ hội tiết lộ những hành động tồi bại của ông.

Lý do ông cần phải bêu xấu mẹ con cô Huệ để mọi người nghĩ đây là những người xấu (bad reputation), cho nên dù mẹ con cô Huệ có tiết lộ những chuyện xấu về ông chăng nữa thì người ta cũng không tin.

Còn lý do ông cần phải dỗ ngọt cô Huệ là để cô tiếp tục phục vụ sinh lý cho ông.

Ông Kiết bắt đầu dở trò với cô Huệ từ lúc nào?

Trong cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiết tại chùa Chánh Giác, ông Kiết cho biết là trước đây ông có thuê một cô Việt Nam tên V. mỗi tuần đến đấm bóp cho ông mỗi tuần 3 lần, mỗi lần $50. Một phật tử trong chùa thấy vậy đề nghị với ông là thay vì trả cho cô V. $50 mỗi lần làm massage, tại sao ông không thuê cô Huệ để cô có chút tiền gởi về Việt Nam nuôi con. Cho nên bắt đầu từ tháng 5 năm 2008 ông dùng cô Huệ thay thế cho cô V. đấm bóp cho mình. Tôi có kiểm tra lại chuyện này với cô Huệ thì được cô Huệ cho biết như sau:

- Khoảng tháng 5/2008 cô bắt đầu đấm bóp cho ông Kiết nhưng không phải mỗi tuần 3 lần mà là mỗi ngày.

- Ông Kiết không có trả tiền cho cô Huệ $50 mỗi lần như ông nói với tôi, nhưng chỉ thỉnh thoảng cho tiền cô thôi.

Ông Kiết áp dụng chiến thuật tranh thủ “dành dân lấn đất”. Lúc đầu chỉ có đấm bóp thuần túy rồi thêm thắt từ từ. Theo lời cô Huệ thì từ 8/2008 lấy lý do là cần thêm “nhân điện” để làm phật sự, ông cần được đấm bóp toàn người. Rồi tiếp thêm bước nữa là trong lúc cô đấm bóp thì một tay ông rờ rẫm vào người của cô Huệ.

Rồi sau cùng bắt đầu từ đầu tháng 12 năm rồi cho đến giữa tháng 3 năm nay, ông bắt cô Huệ phục vụ sinh lý cho ông.

Trả lời câu hỏi phỏng vấn của tôi tại chùa Chánh Giác vào chiều hôm thứ Sáu vừa rồi (27/3/2009), ông Kiết xác nhận cuốn băng thu hình là có thật, ông cũng có trong tay DVD thu hình đó, nhưng ông nói rằng ngoài chuyện đấm bóp r5a, chuyện “cởi quần” chỉ xảy ra duy nhất có hai lần thôi như trong cuốn thu băng đó thôi, chớ không phải lâu dài như lời cô Huệ đã nói với tôi. Ông cũng nói thêm rằng ông năm nay đã 90 tuổi rồi, đã hết khả năng làm tình từ năm 75 tuổi, và nếu không làm tình thì không thể gọi là xâm phạm tình dục. Theo ông Kiết, 2 lần đó xảy ra, ông nghĩ là do cô Huệ bỏ thuốc vào ly sửa đậu nành của ông. Tất cả những chi tiết trong cuộc phỏng vấn với ông Kiết đã được thâu băng đầy đủ (với sự đồng ý của ông Kiết) và sẽ được đăng tải trong số báo tới.

DVD gởi cho chúng tôi được thu trong những ngày đầu của tháng 3, nhưng theo cô Huệ cho biết thì ông Kiết đã giở trò với cô từ khoảng tháng 8 năm rồi cho đến 1 tuần trước khi cô rời khỏi chùa Chánh Giác vào 23/3/2009. Đến giữa tháng 3 khi biết những việc làm của ông đã bị thu băng, ông Kiết đã tìm đủ cách để thuyết phục cô và Khang hủy bỏ những video đó, nếu họ đồng ý thì ông sẽ đưa ngay $4000 và sau khi cô trở về Việt Nam thì mỗi tháng sẽ gởi về vài trăm phụ cấp. Nhưng cô Huệ cho biết là cô từ chối tất cả.

Khi tôi hỏi là tại sao cô phải “phục vụ” cho ông Kiết trong một thời gian dài như vậy mà không báo hội CCV biết, cô Huệ trả lời là vì cô sợ và lòng mang ơn.

Cô sợ là nếu rời khỏi chùa không biết ở đâu, cô không muốn tạo thêm gánh nặng cho hội CCV, bởi vì những cuộc giải phẩu của Khang đã làm hao tốn của hội CCV và ROMAC gần $100,000.

Cô sợ một con người đầy quyền lực như ông Lê Tấn Kiết có thể sẽ tìm cách trả thù mẹ con cô.

Đồng thời cô cũng mang ơn ông Kiết đã cưu mang mẹ con cô trong cơn hoạn nạn – chính 2 điều này khiến cô phải cam chịu trong một thời gian dài như vậy.

Theo lời cô Huệ, để được tiếp tục được thỏa mãn sinh lý, ông Kiết thuyết phụ cô là nhờ cô mà đầu
óc ông được minh mẫn, yêu đời, có sức để tiếp tục đóng góp cho phật pháp.

Tại sao cô Huệ quyết định tố giác chuyện này?

Đến một lúc gần đây cô cảm thấy không còn có thể tiếp tục như vậy được nữa, nên đã tâm sự với Khang: “Chỉ vì con mà má phải hy sinh làm những việc như vậy, má cảm thấy tội lỗi quá”.

Khang và cô Huệ quyết định phải làm một cái gì đó để chấm dứt chuyện này. Khi gặp Khang, tôi có hỏi về điều này thì Khang cho biết chính em đã thâu những các video clip này. Tôi hỏi Khang nguyên nhân nào thúc đẩy Khang làm điều này, thì Khang trả lời nguyên văn như sau: “Ông Kiết là người rất nguy hiểm, phần lớn phật tử chỉ tin lời của ông thôi, nếu không có chứng cớ làm sao con và má cãi lại ông ấy.”

Khang đã dùng mobile phone để thâu hình ảnh này, không phải một đêm mà liên tiếp 5,6 đêm. Cuối cùng khoảng ngày 19/3/2009 Khang kể cho bà Lyn biết tất cả và cho bà ấy xem video mà Khang thâu được. Đến đến sáng thứ Hai 23/3/2009, bà Lyn đã đến chở mẹ con cô Huệ ra đồn cảnh sát để khai tất cả sự thật và sau đó chở đến sống tạm tại nhà của một hội viên của CCV.

Cô Huệ cho biết là khi ở Việt Nam mặc dầu gia đình cô theo đạo Phật nhưng cô không hiểu gì về giáo lý nhà Phật cả. Mỗi khi gặp nạn cô chỉ van vái Trời Phật chớ không biết gì khác. Cô cho rằng mình thật may mắn là trong thời gian ở chùa Chánh Giác cô có một phật tử tên H. thường xuyên lui tới đến chùa, cô kính trọng ông H. như người anh ruột thịt vì chính ông là người đã giảng cho cô hiểu được giáo lý của đạo Phật và những bước căn bản để tu thân. Cô muốn tu để cầu xin Trời Phật phù hộ cho đứa con bất hạnh của cô, cứu vớt cho Khang được trở lại như người bình thường.

Lòng muốn tu nhưng bị bắt buộc phải làm những việc trái luân thường đạo lý khi phải “phục vụ” cho ông Kiết, chính điều này đã làm cho cô dằn dặt lương tâm suốt nhiều tháng qua. Cô cho biết cô đã khóc thầm nhiều đêm vì sự dằn dặt này.

Gặp Khang và bà Lyn Đúng như giờ hẹn tôi gặp Khang bên ngoài trường của em, vì đã trông thấy hình rồi cho nên tôi đã chuẩn bị trước tinh thần. Bà Lyn có lẽ cố tình đến trễ để cho tôi và Khang nói chuyện được thoải mái. Sau vài phút nói chuyện tôi nhận ra ngay là Khang mặc dầu bị tàn phế thân thể nhưng đầu óc thông minh. Khang cho biết là trong những môn học Khang giỏi nhất là môn toán, thường khi đứng đầu trong lớp.

Tôi không đủ cam đảm để nói em kể lại tai nạn, nhưng bổng nhiên Khang nói là em không thể quên ngày rầm tháng rầm tháng 7 Âm lịch tức ngày ngày 20/8/2005 Dương lịch, vì ngày đó là ngày tai nạn xảy ra đến với em.

Sau đây là cuộc đối thoại giữa tôi và Khang:

- Khang có thể tha thứ cho cha được không?

- Có thể được.

- Khang có thương ba nhiều không?

- Chỉ ít thôi.

- Ba Khang có bao giờ nói xin lỗi hay có khóc trước mặt Khang không?

- Có xin lỗi và khóc nhiều lần.

- Giữa Úc và Việt Nam Khang thích sống ở đâu hơn?

- Ở Úc hơn.

- Tại sao?

- Bởi vì ở Úc bạn bè và đặc biệt là thầy cô đối xử rất tốt với con.

- Ước mơ lớn nhất của Khang lúc này là gì?

- Con có 2 ước mơ lớn, thứ nhất là bác sĩ sẽ giải phẩu thành công để con có thể ăn uống bình thường và có thể tự tắm rửa được và ước mơ thứ hai là khi trở vào lại trường trung học vào giữa năm nay con sẽ theo kịp bạn bè.

Điều thật đáng mừng là vì thấy hoàn cảnh đáng thương của Khang cho nên chính phủ Úc cấp cho Khang học bổng 6 năm.

Càng sống lâu tại đây tôi càng thấy quý trọng những giá trị nhân bản của dân Úc, tôi không nhớ vị danh nhân nào đã nói câu này: “Người ta đánh giá sự văn minh của một quốc gia qua sự đối xử với người tàn tật”.

Giữa năm nay Khang sẽ vào học lớp 10, tôi cầu Trời cho Khang vượt qua được những khó khăn lúc
đầu. Tôi khuyên Khang phải cố gắng học vì đó là con đường duy nhất để có tương lai tươi sáng, Khang trả lời: “Con biết điều đó”.

Khoảng 4 giờ rưỡi thì Lyn đến. Đúng như tôi mong đợi, đây là một phụ nữ trung niên với khuôn mặt và giọng nói thật nhân ái. Tôi nói với bà rằng tôi không dám đại diện cho ai cả, nhưng xin thay mặt cho bán tuần báo Việt Luận gởi đến bà lời cám ơn đặc biệt, bà đã giúp cho đồng bào của tôi những việc mà bản thân tôi không làm được.

Tôi nói tiếp: “Tôi biết tất cả những lời cám ơn đối với bà đều dư thừa nhưng cho phép tôi được nhắc lại câu ngạn ngữ của người Do Thái "Cứu một mạng người cũng gần giống như cứu cả thế giới" (Save one life is as if you have saved the world)”

Bà Lyn trả lời khiêm tốn rằng thấy hoàn cảnh thương tâm như vậy bà chỉ làm theo tiếng gọi của lương tâm.

Đáng tiếc là bà không thể cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn, vì luật sư của CCV không cho phép bà được tuyên bố bất cứ điều gì với báo chí liên quan đến việc “sách nhiễu tình dục” của ông Lê Tấn Kiết cho đến khi họ có một quyết định.

Cả bà và một hội viên khác trong CCV tên là Sue mà tôi có dịp gặp trước đó đều tỏ bực tức về sự tiết lộ muộn màng của cô Huệ, họ cho rằng đúng ra cô Huệ phải thông báo ngay cho họ biết khi có những chuyện như vậy xảy ra.

Khi từ biệt, bà nắm tay Khang và nói với tôi “He is my son” (cậu ta là con của tôi). Tôi cầu Trời những người như bà Lyn sẽ mãi mãi thương yêu Khang như thương yêu chính đứa con của bà, những người như Khang cần một tình thương để làm lại cuộc đời. Tôi biết lúc đó bà nói thật với lòng mình, tôi nhìn họ bước đi mà không sao cầm được nước mắt và tự hỏi tại sao lại có những người ngoại quốc tốt với đồng bào của tôi như thế.

Ai là chủ nhân thật sự của chùa Chánh Giác?

Một nhân vật quan trọng khác có liên hệ với chùa Chánh Giác mà tôi có dịp gặp trong chuyến đi vừa rồi là ông Lâm Ngọc A. Theo ông A thì chính ông mới là chủ nhân thật sự của chùa Chánh Giác, ông đưa cho tôi xem title nhà (bảng chánh) đang giữ và tất cả các chi phiếu mà ông đã trả cho ngân hàng, ông đồng ý cho tôi giữ tất cả các bảng photocopy.

Trong lúc gặp ông Lê Tấn Kiết tại chùa Chánh Giác tôi có nêu câu hỏi này, thì ông Kiết phủ nhận lời nói của ông A. Ông Kiết đồng ý là ông A có trả cho ngân hàng số tiền là $380,000 vào tháng 12 năm 1994 để thanh toán tất cả số nợ của chùa Chánh Giác, nhưng tài sản ngôi chùa này thuộc về ông Kiết dưới tên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tây Úc. Coi như ông A đã tặng cho Giáo Hội của ông Kiết rồi chớ không còn là của ông A nữa.

Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về vấn đề này trong những số báo tới.

Tôi rời Perth bằng chuyến bay lúc 12 giờ 30 phút khuya, tức là 2 giờ 30 phút sáng theo giờ Sydney, mệt thật nhưng tôi ngồi trên máy bay suốt 2 tiếng đồng hồ sau vẫn không sao nhắm mắt được, những hình ảnh của Khang, của cô Huệ, của bà Lyn, Sue và các bạn VN khác ở Perth… cứ hiện ra trong trí tôi và dĩ nhiên có cả những hình ảnh của ông Lê Tấn Kiết ...

Nhật Thường