Saturday, May 2, 2009

Chăn Gối Với Kẻ Thù - Huong Giang Nguyen

James Webb
chuyển ngữ
May/June 1997

Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.

Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.

Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.

Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.

Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.

Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”

Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.

Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”

Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.

Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.

Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.

Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.

Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.

Tại sao?

Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.

Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.

Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.

Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.

Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.

Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.

James Webb, cựu tiểu đoàn trưởng TQLC ở Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, hiện là Thượng Nghị Sĩ của tiểu bang Virginia

Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.

Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”

Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.

Nguồn: (1) Sleeping With the Enemy. By James Webb, 30 April 2003

SLEEPING WITH THE ENEMY
(Somethings never change)
The American Enterprise
May/June 1997
James Webb
Posted on Monday, April 07, 2003 9:43:16 AM by Valin

Anti-war protesters boast that there will be "no business as usual" until the war in Iraq ends. In Washington, San Francisco, and New York, peace activists have taken to the streets to block traffic, burn the President in effigy, and vomit on the steps of federal buildings. These activists represent a variety of causes but most share the belief that America, an evil nation, deserves to be defeated. In the May/June 1997 issue of The American Enterprise, James Webb took a closer look at what the Vietnam era protesters-- many of whom are at anti-war protests today--really wanted:

It is difficult to explain to my children that in my teens and early twenties the most frequently heard voices of my peers were trying to destroy the foundations of American society, so that it might be rebuilt according to their own narcissistic notions. In retrospect it's hard even for some of us who went through those times to understand how highly educated people--most of them spawned from the comforts of the upper-middle class--could have seriously advanced the destructive ideas that were in the air during the late '60s and early '70s. Even Congress was influenced by the virus.

After President Nixon resigned in August of 1974, that fall's congressional elections brought 76 new Democrats to the House, and eight to the Senate. A preponderance of these freshmen had run on McGovernesque platforms. Many had been viewed as weak candidates before Nixon's resignation, and some were glaringly unqualified, such as then-26-year- old Tom Downey of New York, who had never really held a job in his life and was still living at home with his mother.
This so-called Watergate Congress rode into town with an overriding mission that had become the rallying point of the American Left: to end all American assistance in any form to the besieged government of South Vietnam. Make no mistake--this was not the cry of a few years earlier to stop young Americans from dying. It had been two years since the last American soldiers left Vietnam, and fully four years since the last serious American casualty calls there.

For reasons that escape historical justification, even after America's military withdrawal the Left continued to try to bring down the incipient South Vietnamese democracy. Future White House aide Harold Ickes and others at "Project Pursestrings"--assisted at one point by an ambitious young Bill Clinton--worked to cut off all congressional funding intended to help the South Vietnamese defend themselves. The Indochina Peace Coalition, run by David Dellinger and headlined by Jane Fonda and Tom Hayden, coordinated closely with Hanoi throughout 1973 and 1974, and barnstormed across America's campuses, rallying students to the supposed evils of the South Vietnamese government. Congressional allies repeatedly added amendments to spending bills to end U.S. support of Vietnamese anti-Communists, precluding even air strikes to help South Vietnamese soldiers under attack by North Vietnamese units that were assisted by Soviet-bloc forces.

Then in early 1975 the Watergate Congress dealt non-Communist Indochina the final blow. The new Congress icily resisted President Gerald Ford's January request for additional military aid to South Vietnam and Cambodia. This appropriation would have provided the beleaguered Cambodian and South Vietnamese militaries with ammunition, spare parts, and tactical weapons needed to continue their own defense. Despite the fact that the 1973 Paris Peace Accords called specifically for "unlimited military replacement aid" for South Vietnam, by March the House Democratic Caucus voted overwhelmingly, 189-49, against any additional military assistance to Vietnam or Cambodia.

The rhetoric of the antiwar Left during these debates was filled with condemnation of America's war-torn allies, and promises of a better life for them under the Communism that was sure to follow. Then-Congressman Christopher Dodd typified the hopeless naiveté of his peers when he intoned that "calling the Lon Nol regime an ally is to debase the word.... The greatest gift our country can give to the Cambodian people is peace, not guns. And the best way to accomplish that goal is by ending military aid now." Tom Downey, having become a foreign policy expert in the two months since being freed from his mother's apron strings, pooh-poohed the coming Cambodian holocaust that would kill more than one-third of the country's population, saying, "The administration has warned that if we leave there will be a bloodbath. But to warn of a new bloodbath is no justification for extending the current bloodbath."

On the battlefields of Vietnam the elimination of all U.S. logistical support was stunning and unanticipated news. South Vietnamese commanders had been assured of material support as the American military withdrew--the same sort of aid the U.S. routinely provided allies from South Korea to West Germany--and of renewed U.S. air strikes if the North attacked the South in violation of the 1973 Paris Peace Accords. Now they were staring at a terrifyingly uncertain future, even as the Soviets continued to assist the Communist North.

As the shocked and demoralized South Vietnamese military sought to readjust its forces to cope with serious shortages, the newly refurbished North Vietnamese immediately launched a major offensive. Catching many units out of position, the North rolled down the countryside over a 55-day period. In the ensuing years I have interviewed South Vietnamese survivors of these battles, many of whom spent ten years and more in Communist concentration camps after the war. The litany is continuous: "I had no ammunition." "I was down to three artillery rounds per tube per day." "I had nothing to give my soldiers." "I had to turn off my radio because I could no longer bear to hear their calls for help."

The reaction in the United States to this debacle defines two distinct camps that continue to be identifiable in many of the issues we face today. For most of those who fought in Vietnam, and for their families, friends, and political compatriots, this was a dark and deeply depressing month. The faces we saw running in terror from the North Vietnamese assault were real and familiar, not simply video images. The bodies that fell like spinning snowflakes toward cruel deaths after having clung hopelessly to the outer parts of departing helicopters and aircraft may have been people we knew or tried to help. Even for those who had lost their faith in America's ability to defeat the Communists, this was not the way it was supposed to end.

For those who had evaded the war and come of age believing our country was somehow evil, even as they romanticized the intentions of the Communists, these few weeks brought denials of their own responsibility in the debacle, armchair criticisms of the South Vietnamese military, or open celebrations. At the Georgetown University Law Center where I was a student, the North's blatant discarding of the promises of peace and elections contained in the 1973 Paris Accords, followed by the rumbling of North Vietnamese tanks through the streets of Saigon, was treated by many as a cause for actual rejoicing.

Denial is rampant in 1997, but the truth is this end result was the very goal of the antiwar movement's continuing efforts in the years after American withdrawal. George McGovern, more forthcoming than most, bluntly stated as much to this writer during a break in taping a 1995 edition of cnn's "Crossfire." After I had argued that the war was clearly winnable even toward the end if we had changed our strategy, the 1972 presidential candidate who had offered to go to Hanoi on his knees commented, "What you don't understand is that I didn't want us to win that war." Mr. McGovern was not alone. He was part of a small but extremely influential minority who eventually had their way.

There is perhaps no greater testimony to the celebratory atmosphere that surrounded the Communist victory in Vietnam than the 1975 Academy Awards, which took place on April 8, just three weeks before the South's final surrender. The award for Best Feature Documentary went to the film Hearts and Minds, a vicious piece of propaganda that assailed American cultural values as well as our effort to assist South Vietnam's struggle for democracy. The producers, Peter Davis and Bert Schneider [who plays a role in David Horowitz's story--see page 31], jointly accepted the Oscar. Schneider was frank in his support of the Communists. As he stepped to the mike he commented that "It is ironic that we are here at a time just before Vietnam is about to be liberated." Then came one of the most stunning--if intentionally forgotten--moments in Hollywood history. As a struggling country many Americans had paid blood and tears to try to preserve was disappearing beneath a tank onslaught, Schneider pulled out a telegram from our enemy, the Vietnamese Communist delegation in Paris, and read aloud its congratulations to his film. Without hesitating, Hollywood's most powerful people rewarded Schneider's reading of the telegram with a standing ovation.

Those of us who either fought in Vietnam or supported our efforts there look at this 1975 "movie moment" with unforgetting and unmitigated amazement. Who were these people who so energetically poisoned the rest of the world's view of us? How had they turned so virulently against their own countrymen? How could they stand and applaud the victory of a Communist enemy who had taken 58,000 American lives and crushed a struggling, pro-democratic ally? Could they and the rest of us be said to be living in the same country anymore?

Not a peep was heard then, or since, from Hollywood regarding the people who disappeared behind Vietnam's bamboo curtain. No one has ever mentioned the concentration camps into which a million South Vietnamese soldiers were sent; 56,000 to die, 250,000 to stay for more than six years, and some for as long as 18. No one criticized the forced relocations, the corruption, or the continuing police state. More to the point, with the exception of the well-intentioned but artistically weak Hamburger Hill, one searches in vain for a single major film since that time that has portrayed American soldiers in Vietnam with dignity and in a true context.

Why? Because the film community, as with other elites, never liked, respected, or even understood those who answered the call and served. And at a time when a quiet but relentless battle is taking place over how history will remember our country's involvement in Vietnam, those who ridiculed government policy, avoided military service, and actively supported an enemy who turned out to be vicious and corrupt do not want to be remembered as having been so naive and so wrong.

Among everyday Americans, attitudes during this troubled time were much healthier. Behind the media filtering and distortion on Vietnam, the fact is that our citizenry agreed far more consistently with those of us who fought than with those who undermined our fight. This was especially true, interestingly, among the young Americans now portrayed as having rebelled against the war.

As reported in Public Opinion, Gallup surveys from 1966 to the end of U.S. involvement show that younger Americans actually supported the Vietnam war longer than any other age group. Even by January of 1973, when 68 percent of Americans over the age of 50 believed it had been a mistake to send troops to Vietnam, only 49 percent of those between 25 and 29 agreed. These findings that the youth cohort as a whole was distinctly unradical were buttressed by 1972 election results--where 18- to 29-year-olds preferred Richard Nixon to George McGovern by 52 to 46 percent.

Similarly, despite persistent allegations to the contrary by former protesters who now dominate media and academia, the 1970 invasion of Cambodia--which caused widespread campus demonstrations, including a riot that led to four deaths at Kent State University-- was strongly supported by the public. According to Harris surveys, nearly 6 in 10 Americans believed the Cambodian invasion was justified. A majority in that same May 1970 survey supported an immediate resumption of bombings in North Vietnam, a complete repudiation of the antiwar movement.

Vietnam veterans, though persistently maligned in film, news reports, and classrooms as unwilling, unsuccessful soldiers, have been well thought of by average Americans. In the most comprehensive study ever done on Vietnam vets (Harris Survey, 1980, commissioned by the Veterans Administration) , 73 percent of the general public and 89 percent of Vietnam veterans agreed with the statement that "The trouble in Vietnam was that our troops were asked to fight in a war which our political leaders in Washington would not let them win." Seventy percent of those who fought in Vietnam disagreed with the statement "It is shameful what my country did to the Vietnamese people." Fully 91 percent of those who served in Vietnam combat stated that they were glad they had served their country, and 74 percent said they had enjoyed their time in the military. Moreover, 71 percent of those who expressed an opinion indicated that they would go to Vietnam again, even knowing the end result and the ridicule that would be heaped on them when they returned.

This same survey contained what was called a "feelings thermometer," measuring the public's attitudes toward various groups on a scale of 1 to 10. Veterans who served in Vietnam rated a 9.8 on this scale. Doctors scored a 7.9, TV reporters a 6.1, politicians a 5.2, antiwar demonstrators a 5.0, and draft evaders who went to Canada came in at 3.3.

Contrary to persistent mythology, two-thirds of those who served during Vietnam were volunteers rather than draftees, and 77 percent of those who died were volunteers. Of those who died, 86 percent were Caucasian, 12.5 percent were African-American, and 1.2 percent were from other races. The common claim that it was minorities and the poor who were left to do the dirty work of military service in Vietnam is false. The main imbalance in the war was simply that the privileged avoided their obligations, and have persisted since that time in demeaning the experience in order to protect themselves from the judgment of history.

And what of these elites who misread not only a war but also their own countrymen? Where are they now, other than in the White House? On this vital historical issue that defined our generation, they now keep a low profile, and well they should.

What an eerie feeling it must have been for those who staked the journey of their youth on the idea that their own country was an evil force, to have watched their naiveté unravel in the years following 1975. How sobering it must have been for those who allowed themselves to move beyond their natural denial, to observe the spectacle of hundreds of thousands of South Vietnamese fleeing the "pure flame of the revolution" on rickety boats that gave them a 50 percent chance of death at sea, or to see television pictures of thousands of Cambodian skulls lying in open fields, part of the millions killed by Communist "liberators." How hollow the memories of drug-drenched and sex-enshrined antiwar rallies must be; how false the music that beatified their supposedly noble dissent.

Indeed, let's be frank. How secretly humiliating to stare into the face of a disabled veteran, or to watch the valedictory speech of the latest Vietnamese-American kid whose late father fought alongside the Americans in a cause they openly mocked, derided, and despised. And what a shame that the system of government that allowed that student to be so quickly successful here is not in place in the country of her origin.

— James Webb, a Marine rifle platoon and company commander in Vietnam, has served as Secretary of the Navy and is the author of several novels.
The American Enterprise Online


Hồi chuông thức tỉnh - Nam Dao


Nam Dao

Kể từ sau hiệp định Genève 1954 cho tới nay, hơn nửa thế kỷ qua Cộng sản Việt Nam đã xử dụng bạo lực và cai trị dân bằng bao tử để củng cố quyền lực. Chính sách tem phiếu hộ khẩu là một hình thức kiểm soát bao tử ép người dân phải nô lệ nhà nước từng giọt dầu, từng hạt muối, từng thước vải đã làm thui chột tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên của con người. Một nhà cầm quyền có trách nhiệm phải biết vun bồi tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vươn lên trong lòng dân vì đây là vũ khí quan trọng để chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Tội ác lớn của Cộng sản Việt Nam là đã làm thui chột tinh thần trên đã được cha ông ta dày công vun bồi suốt chiều dài bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Lời kêu gọi “Một tháng biểu tình tại gia để chống việc lấy Vàng tức dân tộc đổi Nhôm nước ngoài” của Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng không đi ngoài mục đích kêu gọi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước hãy làm sống dậy trong tâm hồn mình tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên trước hiểm họa đất nước sắp rơi vào vòng kim cô nô lệ giặc Tầu.

Hòa thượng Thích Quảng Độ không làm chính trị. Ngài đang làm tròn bổn phận của một công dân gương mẫu, trước hiểm họa sơn hà nguy biến phải lên tiếng đấu tranh sao cho phù hợp với hoàn cảnh bị giam lỏng tại Thanh Minh thiền viện. Với tấm lòng từ bi bác ái thương dân, Ngài đã đưa ra một giải pháp đấu tranh khá an toàn cho toàn dân và tương đối khả thi cho nhiều người là “biểu tình tại gia”. Một hành động hoàn toàn không vi phạm luật pháp cho nên bạo quyền không có cớ và nhất là không có đủ tay sai công an đến từng nhà để gây sự. Lời kêu gọi trên cũng không mang tính chất đấu tranh bất bạo động theo kiểu xin cho. Bởi vì tuy với cái vỏ bề ngoài ôn hòa bất bạo động, nhưng hành động của nó nếu được thể hiện ở tầm vóc quy mô sẽ gây thiệt hại lớn và có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài. Lịch sử thế giới đã chứng minh cho thấy rằng những cuộc biểu tình lãng công quy mô của dân chúng bất hợp tác với nhà cầm quyền sẽ làm tê liệt guồng máy quốc gia dẫn đến sự sụp đổ của chế độ khó tránh khỏi.

Cuộc chiến đấu lật đổ bạo lực và chống lại ngoại xâm nào mà chả gian truân với những thất bại lót đường cho chiến thắng cuối cùng. Từ ngàn xưa cho tới nay các vị anh hùng dân tộc như Trần Bình Trọng hay Nguyễn Thái Học và các anh hùng liệt sĩ Yên Bái, dẫu biết rằng xác xuất thành công rất thấp khi phải đối đầu với kẻ thù khổng lồ Pháp đầy đủ súng ống tối tân, nhưng vẫn coi nhẹ thất bại và ra quân. Sự thất bại mang tính chất giai đoạn trong dòng sử đấu tranh chống Pháp đã để lại cho dân tộc Việt Nam thời đó một gia tài đấu tranh to tát là tinh thần đối kháng bất khuất vùng lên làm sống dậy ngọn lửa Diên Hồng ngày càng lan rộng khắp ba miền, khai tử trang sử buồn 100 năm đô hộ giặc Tây.

Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng vậy. Với cái nhìn xa về con đường đấu tranh Ngài không đặt vấn đề thành bại mang tính chất giai đoạn. Ngày hôm nay trước hiểm họa nô lệ giặc Tầu, qua Lời kêu gọi biểu tình tại gia Hòa thượng Thích Quảng Độ muốn gửi đến toàn dân một thông điệp đấu tranh rất quan trọng là kêu gọi toàn dân hãy làm sống dậy trong tâm hồn mình tinh thần phản kháng và ý chí quật cường vùng lên lật đổ chế độ bán nước buôn dân đang tiếp tay với Trung Cộng thực hiện ý đồ Hán hóa Việt Nam qua việc để cho Tầu mang hàng trăm ngàn dân Tầu cộng sang khai thác Bauxite ở Tây Nguyên.

Tinh thần biểu tình tại gia phản kháng chế độ không phải chỉ chấm dứt sau tháng Năm 2009, mà nó còn phải được duy trì ngày càng quyết liệt hơn. Một khi ngọn lửa đối kháng đã bùng cháy trong lòng mình thì mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày sống với ý thức biểu tình tại gia. Với ý thức đó, mỗi người sẽ thể hiện tinh thần đối kháng bằng những hành động khác nhau phù hợp với hoàn cảnh sống cá nhân và phương tiện có trong tay. Khi ngọn lửa phản kháng và bất khuất vùng lên đã thắp sáng trong lòng dân, tất nhiên lịch sử VN sẽ được lật sang trang mới, ghi lại những thành qủa hào hùng cứu nước bảo toàn đất tổ.

Lời kêu gọi biểu tình tại gia của Hòa thượng Thích Quảng Độ trong lúc này chính là hồi chuông đánh thức tinh thần phản kháng và ý chí quật cường của toàn dân Việt đã bị Cộng sản Việt Nam làm soi mòn từ hơn nửa thế kỷ qua.

Nam Dao (Adelaide)

Tài Liệu:
(Ỷ Lan phỏng vấn Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ)

Ỷ Lan: Bạch Hòa thượng, biểu tình tại gia là một danh từ mới lạ, đồng thời là một động thái biểu dương chưa hề xẩy ra trong thế giới. Kính xin Hòa thượng giải thích cho thính giả được biết vì sao Hòa thượng chọn hành động này để phản đối nguy cơ khai thác bô-xít Tây nguyên ? Sao không xuống đường biểu tình như thường lệ ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ: Ở các nước tự do, dân chủ thật sự thì mọi quyền làm người của công dân đều được tôn trọng, kể cả quyền biểu tình nơi công cộng để nói lên ngưỡng vọng chính đáng của mình trong trật tự, kỷ luật. Không ai đàn áp, bắt bớ, bỏ tù. Nhưng ở Việt Nam hiện nay toàn dân đang sống dưới chế độ độc tài, công an trị. Tất cả quyền sống của con người đều bị bóp nghẹt. Nếu dân chúng xuống đường biểu tình thì tức khắc bị đàn áp và tống vào trại giam.

Vì thế Giáo hội phải chọn phương pháp Vô Tướng, tức biểu tình ở nhà, không khẩu hiệu, không biểu ngữ, không hoan hô đả đảo ai. Chỉ nói lên ước vọng của mình bằng sự im lặng. Cho nên công an có muốn bắt cũng không biết đâu mà bắt. Không lẽ đến từng nhà gõ cửa hỏi người ta: Ông bà cô bác có đang biểu tình ngồi đấy không ?!

Thực ra phương pháp này không có gì mới mẻ đâu. Nó bắt nguồn từ phương pháp bất bạo động đó thôi. Nhưng vì ở Việt Nam theo luật cộng sản hiện hành, ra đường tụ tập 5 người trở lên cũng đã vi phạm pháp luật rồi. Dù không bạo động cũng bị đàn áp. Cho nên phải biểu tình trong nhà, thế thôi. Đây là động thái chưa từng xẩy ra trên thế giới như cô Ỷ Lan nói, thì đúng đấy.

Nhưng nó sẽ xẩy ra ở Việt Nam trong tháng 5 tới.

Ỷ Lan: Kính xin Hòa thượng cho biết một tháng biểu tình tại gia trong hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, dân đói nghèo, việc này có khả thi không ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ: Chính tôi khi đưa ra khoảng thời biểu đó cũng nghĩ đến việc này. Đồng bào Việt trong nước, nhất là ở miền Bắc từ sau năm 1954 đến 1986 phải sống dưới chế độ bao cấp. Cái gì cũng phải có tem có phiếu mới mua được. Gạo… tất cả các thứ thực dụng hằng ngày, từng giọt dầu, từng hạt muối… năm nhà hai tháng được chung một cuộn chỉ đưa ra chia nhau, đo từng tấc từng thước, khổ cực vô cùng. Tôi ra miền Bắc năm 1982 sống đến 1986, chế độ tem phiếu vẫn còn chặt chẽ. Ba bốn người chung nhau mỗi năm mới được một mét vải. Có khi là họ lấy vải hai màu, một màu hết phải lấy hai màu. May cái quần một ống trắng một ống đen. Rất kỳ khôi (cười). Nó khổ đến như thế đấy. Thế thì hằng chục năm như thế. Còn đồng bào miền Nam thì bắt đầu từ năm 1975 cho đến 1986 cũng là mười năm ăn bo bo mỏi răng thôi. Cực khổ vô cùng.

Nghĩ lại những hàng chục năm khổ cực như thế mà còn chịu được. Bây giờ đây một tháng biều tình tại gia không đến nỗi như hàng chục năm kia đâu. Có thể là khổ, là thiếu thốn, nhưng không đến nỗi khổ cực hằng chục năm dưới chế độ tem phiếu, bao cấp. Suy nghĩ lại, đây là mình chịu khổ thắt lưng buộc bụng một tháng thôi. Nhưng trong một tháng này chia làm ba phần, cố gắng cho mỗi miền mười ngày. Tức là :

- Đồng bào miền Bắc biểu tình trong nhà từ ngày mồng 1 tháng 5 đến ngày mồng 10 tháng năm 2009.

- Sau đó thì bắt đầu đến đồng bào miền Trung từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 biểu tình trong nhà. Chỉ ngồi trong nhà, không đi đâu.

- Cuối cùng đợt thứ ba là từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 31 tháng 5 dành cho đồng bào miền Nam.

Tôi chia ra ba đợt như vậy thì mỗi đợt chỉ có mười ngày thôi. Xin toàn thể đồng bào từ Nam chí Bắc dốc hết tâm lực vào trong 10 ngày biểu tình ngồi trong nhà. Cứ đóng cửa hoặc mở cửa như thường. Cứ ngồi trong nhà thôi. Cũng không lo bị bắt. Ai biết đâu mà bắt. Không lẽ công an đi vào từng nhà mà hỏi ông bà đang biểu tỉnh đấy à ?! Ai mà coi được.

Cái việc làm đây mà nếu được kết quả thực sự, đồng lòng mà làm chừng ba mươi chục triệu người hưởng ứng thôi. Làm một tháng như thế cũng có kết quả đấy. Kết quả này là kết quả lớn lắm. Nó là sự sống còn của cả một dân tộc, một đất nước. Nếu làm được như vậy là một cách đánh động dư luận trong nước và ngoài nước một luồng không khí mới thổi vào trong cuộc vận động cho dân chủ, cho nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam hiện nay.

Cho nên qua các cơ quan thông tấn, báo chí, đài phát thanh ở nước ngòi… tôi rất mong rằng quý vị cố cổ động, rồi thì hội thảo trên các Paltalk, diễn đàn để cố sao chuyển đạt được cái tin này, lời kêu gọi này về Việt Nam đến đồng bào ba miền Nam Trung Bắc, đến được nhiều nhà chừng nào tốt chừng đó.



ACRL: TS Trần Mỹ Vân vinh danh HT Thích Quảng Độ

Từ trái: Dân biểu Con Sciacca, Sheikh Abdul Rahman, TGM Peter Jensen, Thượng tọa Thích Phước Nhơn, TS Trần Mỹ Vân, TGM George Pell, Cựu Phó thủ tướng John Anderson, Chủ tịch ACRL Rocky Mimmo, Gambhir Watts (Ấn giáo)

TS Trần Mỹ Vân phát biểu tại ACRL
Sydney - Tiến sĩ Trần Mỹ Vân, giáo sư môn Á châu học tại Đại học South Australia, đã tạo sự chú ý lớn lao của một cử tọa gồm các giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc về tình trạng đàn áp Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ dưới bàn tay nhà cầm quyền CSVN.

Hôm thứ Năm 23/4/09, buổi lễ khai mạc Trung tâm Ambrose cho Tự do Tôn giáo (Ambrose Centre for Religious Liberty - ACRL) đã mời TS Trần Mỹ Vân lên phát biểu về tình hình Phật giáo tại Việt Nam. Được biết ACRL là một trung tâm nghiên cứu với mục đích bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng căn bản của con người. Buổi lễ khai mạc diễn ra tại Quốc hội tiểu bang New South Wales được chủ toạ bởi Cựu Phó thủ tướng Úc, ông John Anderson. Trong số khoảng 150 vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc, người ta cũng nhận thấy sự hiện diện của nhiều khuôn mặt tiếng tăm như đức Hồng y George Pell (Tổng giám mục Sydney của đạo Công giáo), Tiến sĩ Peter Jensen (Tổng giám mục Sydney của Anh giáo), đại diện của nhiều tôn giáo như Ấn giáo, Hồi giáo, Bahai, nhiều dân biểu Quốc hội tiểu bang lẫn liên bang, v.v...

Riêng về phía Phật giáo thì có sự hiện diện của Thượng tọa Thích Phước Nhơn vị đại diện của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất tại Úc châu. Từ tiểu bang Nam Úc, người ta nhận thấy có Dân biểu Jack Snelling, chủ tịch Hạ viện Nam Úc và là một người luôn hỗ trợ các cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của cộng đồng người Việt.

Trong một bài phát biểu gây xúc động mãnh liệt trong cử tọa, TS Mỹ Vân nói:

“Suy ngẫm về kinh nghiệm tâm linh bản thân, tôi thấy rõ quyền tự do tôn giáo là quan trọng. Nhưng buồn thay, không phải ai ai trên thế giới cũng được hưởng tự do đó. Tôi rất buồn phiền khi được biết rằng người dân Tây Tạng ngay trên đất nước của họ, không có quyền giữ hình của đức Đạt lai Lạt ma, vị lãnh đạo tâm linh của họ. Họ phải giấu hình ngài đi, hoặc phải tiêu huỷ, nếu không sẽ bị trừng phạt và tra tấn. Tôi thiển nghĩ đức Lạt ma có dạy điều gì chống lại nhân loại và hoà bình đâu. Ngược lại là đằng khác, ngài chỉ dạy tình thương, sự hiểu biết, lòng khoan dung và tha thứ... Tự do tôn giáo không phải là chuyện không có cũng chẳng sao, mà là một quyền con người căn bản mà không một nhà cầm quyền nào có thể tước đoạt.

“Khi nghĩ tới Việt Nam thì tôi lại càng buồn phiền hơn nữa. Việt Nam ngày nay bị cai trị bởi một chế độ độc tài cộng sản. Nhiều nhà sư, linh mục, nữ tu sĩ và tín đồ đã bị sách nhiễu, bỏ tù, giam lỏng tại gia chỉ vì họ giữ vững đức tin tâm linh của riêng họ, hoặc vì họ mong muốn chính quyền không can thiệp vào tôn giáo, vì họ đòi hỏi tự do tín ngưỡng và dân chủ cho Việt Nam. Giản dị là không ai có thể bắt họ cải đạo để trở thành người theo chủ nghĩa cộng sản...

“Tôi xin mượn cơ hội này để nêu lên trường hợp của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Giáo hội đã bị cấm không được hoạt động, tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội đã từng bị bắt giam ròng rã nhiều năm, bị đi đày ngay trên xứ sở họ, và tiếp tục bị cầm tù, chỉ vì họ từ chối khuất phục chế độ cộng sản. Hoà thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo của giáo hội bị cấm đoán này, là một học giả xuất chúng, một vị chân tu và tác giả nhiều thơ văn. Ngài đã hiến trọn đời mình cho đạo Phật và cho lợi ích nhân loại. Vậy mà suốt 3 thập niên qua, ngài đã gặp đủ mọi khó khăn chẳng khác gì vị Tăng thống trước là Hoà thượng Thích Huyền Quang. HT Quảng Độ đã được trao tặng giải Thoroft Rafto, một giải thưởng lẫy lừng, và ngài cũng từng được đề cử 9 lần cho giải Nobel Hoà bình. Ngài đã trở thành biểu tượng của phong trào Phật giáo tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền.”

Được biết khi nói đến đó, TS Trần Mỹ Vân đã giương lên cho cử toạ thấy những bức tem thư với hình HT Quảng Độ mà bà đã được phép cho in ấn đặc biệt. Những tấm tem HT Quảng Độ đã được cử toạ hoan nghênh nhiệt thành. Trong thời gian tới, Trung tâm ACRL dự định sẽ tổ chức nhiều buổi hội thảo tại các tiểu bang khác xứ Úc.

Bà Trần Mỹ Vân là giáo sư Phân khoa Quốc tế học, chuyên giảng dạy Á châu học tại Đại học South Australia. Trước kia bà du học Úc châu theo chương trình Colombo và góp phần thành lập Cộng đồng người Việt Tự do tại Úc trong những buổi đầu.



Những gì đã xảy ra tại chùa Chánh Giác ? - Nhật Thường

Nhật Thường

Lời tòa soạn: Vào ngày 23/3/2009 chúng tôi có nhận được một số tài liệu gởi từ Perth bao gồm một DVD và một UBS, trong đó có nhiều video clip dài tổng cộng gần 2 giờ đồng hồ. Đó là những hình ảnh đã quay được bên trong chùa Chánh Giác do cư sĩ Lê Tấn Kiết đang trụ trì, đồng thời ông Kiết cũng đang là Chủ Tịch Hội Phật Giáo Việt Nam Tây Úc. Nội dung của những tài liệu này tố cáo hành động lạm dụng tình dục của ông Kiết với một phụ nữ từ Việt Nam mới qua. Sau đó chúng tôi có liên lạc với một số người có liên hệ để kiểm chứng nguồn tin và đồng thời gởi một phóng viên đến Perth để tìm hiểu thêm sự việc, lắng nghe từ hai để có cái nhìn khách quan và chính xác hơn.

Sau đây là bài tường thuật của ký giả Nhật Thường sau chuyến đi Perth với những gì mắt thấy tai nghe. Tất cả những lần tiếp xúc đều có ghi âm với sự đồng ý của đương sự, ngay cả lần gặp ông Lê Tấn Kiết tại chùa Chánh Giác.
http://vietluanonline.com/030409/nhunggixayraochuachanhgiac.html

*
* *
Cô Huệ, Khang và Cư sĩ Lê Tấn Kiết

Tôi rời Sydney lúc 6am và đến Perth lúc 9.30am, chuyến bay kéo dài 4 tiếng rưỡi, xa hơn từ Sydney đi ngoại quốc như New Zealand hay một số đảo ở Thái Bình Dương. Tại phi trường Perth, tôi mướn một chiếc xe để đi đến một số nơi cần thiết. Nhờ có mang theo GPS nên việc đi lại thật dễ dàng.

Khi xảy ra việc này tôi được quen với anh T., một đồng hương sống hơn 20 năm tại Perth, anh tình nguyện bỏ ra trọn một ngày để làm hướng dân viên cho tôi. Nhân dịp này cho tôi gởi đến vợ chồng anh chị T. lời cám ơn đặc biệt. Hai anh chị này đã quá tử tế với tôi.

Từ phi trường tôi chạy xe đến nhà anh T., rồi từ đó chúng tôi đến gặp cô Nguyễn Thị Huệ, hiện tạm thời sống tại nhà của một hội viên của hội Connecting Communities Vietnam, viết tắc là CCV, thuộc vùng ngoại ô của Perth. Chúng tôi chỉ gặp có chị thôi, còn An Khang thì đang đi học tiếng Anh tại một trường chuyên dạy sinh ngữ để chuẩn bị cho các du học sinh vào trung học hay đại học. Tôi hẹn gặp Khang và bà Lyn lúc 4 giờ chiều tại đó sau khi Khang tan học. Trong thời gian này bà Lyn thường xuyên đưa đón Khang.

Sau vài câu câu trao đổi với cô Huệ, tôi nhận ra ngay ở cô cái nét chất phát của các cô gái Nam Kỳ Lục Tỉnh, tôi hỏi gì cô trả lời đó, kiểu “có sao nói vậy” không có chút gì cầu kỳ kiểu cách. Cô nói chuyện với tôi như những lời tâm tình hơn là một cuộc phỏng vấn.

Dưới đây tôi viết lại những gì đã ghi nhận sau khi gặp Cô Nguyễn Thị Huệ.

Cô Huệ năm nay 40 tuổi, khi còn ở Việt Nam sống tại ấp Giồng Nổi, xã Tam Kỳ, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Cô học lên đến hết lớp 12 thì bỏ học vì gia đình không có khả năng tài chánh để học tiếp lên đại học, cô ở nhà phụ giúp gia đình làm ruộng.

Cô quen anh Phạm Thành Niên từ năm cô 18 tuổi, người cùng quê, lớn hơn cô 5 tuổi. Sau khi tốt nghiệp trường Nông Lâm Súc tại Vĩnh Long, anh Niên học tiếp lên Đại Học Hải Sản Nha Trang, chương trình 5 năm, nhưng theo lời cô thì đến năm thứ 5 anh Niên phải bỏ học vì gia đình anh làm ăn sa sút không còn đủ khả năng trang trải chi phí cho anh ăn học nữa.

Không lâu sau khi trở về quê thì hai người lấy nhau (lúc đó cô Huệ 23 tuổi còn anh Niên 28 tuổi), họ có một mối tình kéo dài 5 năm thật đẹp như phần lớn các cuộc tình của những đôi trẻ khác.

Sau khi lấy nhau họ sống bằng nghề làm ruộng, sau đó có nhau 2 người con: An Khang sinh năm 1993 và một đứa em trai sinh năm 1995.


cô Huệ (áo bông) tại nhà cô ở ấp Giồng Nổi, xã Tam Kỳ, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh

Là một người có học thức nhưng cuối cùng phải sống một cuộc đời lam lũ, nhà tranh vách đất, làm ruộng chỉ đủ sống qua ngày, khiến ông Niên trở thành người thất chí, càng lớn tuổi ông càng thích tìm rượu để giải sầu, sau những lần say xỉn trở về, nhiều lần ông đã đánh đập vợ con một cách vô cớ. Có 2 lần ông đánh chị nặng đến độ phải chở vô bệnh viện.

Theo lời chị thì từ lúc nhỏ Khang tỏ ra là một bé thông minh, về môn toán Khang thường khi đứng
nhất trong lớp. Đến năm 12 tuổi, Khang hơi lơ đãng chuyện học và có thú thích chơi bida. Trong lúc đó ông Niên cấm Khang không được chơi bida, nhưng thỉnh thoảng Khang trốn cha đi chơi lén. Chiều ngày 25 tháng 8 năm 2005 trên đường đi nhậu về, ông Niên phát hiện con mình đang chơi bida, ông kéo con về nhà rồi trót lại đổ dầu vô châm lửa đốt. Ngay sau lúc đó cô Huệ đang đi về nghe con mình la hét chạy vô dập tắt ngọn lửa, nhưng đã trễ, vết phỏng đã quá nặng. Họ chở Khang xuống bệnh viện Chợ Rẫy rồi sau đó chuyển qua Bệnh Viện Nhi Đồng 1, nằm ở đó 4 tháng, thì phải trở về nhà là vì gia đình cô Huệ không còn tiền để trả chi phí bệnh viện và bác sĩ Việt Nam cũng bó tay trước vết thương quá nặng của Khang.

Trong 4 tháng đó ông Niên có phụ với vợ để chăm sóc cho Khang ở bệnh viện, nhưng sau đó ông bị
tòa tuyên án 9 năm tù, kể từ đó cô Huệ phải một mình lo cho 2 đứa con. Trong cơn tuyệt vọng, cô được người ta chỉ đến Hội Y Sĩ Quốc Tế ở Sài Gòn. Hội này email cho bà Lyn Annadale, chủ tịch hội Connecting Communities Vietnam về trường hợp của Khang. Theo lời bà Lyn kể lại thì lúc đó nhìn thấy những tấm hình này bà thương tâm quá nên làm đơn ngay gởi cho Bộ Duy Trú Úc xin cho Khang qua đây chữa bệnh, đồng thời bà liên lạc với Bác sĩ Fiona Woods, là bác sĩ giỏi nhất của Úc chuyên về chữa phỏng, để nhờ giúp đỡ cho trường hợp của Khang. Bs Woods đồng y ngay và sẵn sàng chữa miễn phí cho Khang, hội CCV chỉ lo trả chi phí cho bệnh viện mà thôi.

Sau đó Bộ Di Trú đồng ý cho Khang qua Úc chữa bệnh với điều kiện là phải có người bảo đảm chỗ ăn ở. Bà Lyn liên lạc với cộng đồng người Việt tại Tây Úc và được giới thiệu đến ông Lê Tấn Kiết – trụ trì chùa Chánh Giác, ông Kiết ký giấy đồng ý giúp cho mẹ con cô Huệ được ở tại chùa miễn phí.

Cuối cùng mẹ con cô Huệ đến Úc vào ngày 15/12/2007. Kể từ ngày bà Lyn nhận được email đầu tiên về Khang cho đến ngày em được Úc mất khoảng 1 năm.

Từ đó đến nay Khang đã trải qua 3 cuộc giải phẩu lớn: cổ, hai nách và tay. Cuộc giải phẩu cổ và nách thì thành công, còn tay thì không thành công. Khó khăn nhất đối với Khang hiện này là không thể ăn được như người bình thường, vì xương hàm bị dính lại cho nên không thể mở miệng lớn được, hiện tại Khang chỉ ăn thức ăn xay nhiễn ra rồi dùng ống hút để hút. Khang cũng không thể tắm được một mình vì không thể vơ hai cánh tay lên cao. Theo Bs Woods cho biết thì bước sắp tới bà sẽ giải phẩu xương hàm để Khang có thể ăn uống được như người bình thường. Hiện tại chưa làm được là vì kháng thể trong người Khang yếu, sợ không đủ sức chống lại nếu trường hợp vết thương bị nhiễm trùng.

Cô Huệ phải làm việc như thế nào ở chùa?

Ông Kiết sống tại chùa Chánh Giác một mình (vợ của ông chỉ thỉnh thoảng vào chùa), từ hơn một
năm nay thì thêm mẹ con cô Huệ. Theo cô Huệ cho biết thì cô coi chùa như nhà của mình, hơn thế nữa chùa này đã cưu mang gia đình cô trong cơ hoạn nạn, cho nên ngoài việc chăm sóc cho con, cô không bao giờ câu nệ làm tất cả các công việc trong chùa như quét dọn, lau chùi, nấu ăn cho ông Kiết v.v.. Những ngày rầm, ngày lễ hay có đám tang thì làm nhiều hơn bình thường. Các nhân viên của CCV mỗi khi đến thăm đều thấy cô làm việc, họ không hài lòng nhưng cô cho biết cô thích làm việc hơn là ở không, nên họ cũng không thắc mắc nữa.

Làm việc cô không ngại, nhưng điều làm cho cô Huệ buồn và khóc nhiều lần là thái độ của ông Kiết đối với mẹ con cô.

Theo những người sống lâu năm tại Tây Úc mà tôi có dịp tiếp xúc đều nhận xét về ông Kiết là một con người “cực kỳ thủ đoạn và nham hiểm”. Nhận xét chung của tôi là phần đông đều ghét ông nhưng tất cả đều sợ ông. Họ cho tôi biết rất nhiều tin tức về ông nhưng tất cả đều yêu cầu tôi phải giữ kín tên tuổi của họ đừng để lộ, nếu không họ hoặc gia đình có thể bị trả thù. Nói như thế mới thấy sự sợ hãi bao trùm lên cộng đồng của chúng ta khi đụng đến các thế lực tôn giáo, mặc dầu chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh và có luật pháp.

Những thủ đoạn ông Kiết áp dụng với mẹ con cô Huệ

Theo cô Huệ thì ông Kiết áp dụng hai cách sau đây đối với mẹ con cô:

Ông Lê Tấn Kiết

1. Trước mặt mọi người ông Kiết luôn tìm cách nói xấu mẹ con cô Huệ và cô lập mẹ con cô với các phật tử đến chùa

2. Khi mọi người đã ra về thì đó là lúc ông “dỗ ngọt” cô Huệ và nói xấu người khác, ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại với cô câu này “Không ai tốt với mày đâu, chỉ có tao mới là người tốt thôi” (ông Kiết luôn luôn xưng mầy tao với cô Huệ).

Theo những người sống lâu tại Tây Úc và hiểu rõ ông Kiết, tất cả những việc làm của ông Kiết đều có tính toán.

Theo họ, ông cần phải cô lập mẹ con cô Huệ với mọi người là để cô và Khang không có cơ hội tiết lộ những hành động tồi bại của ông.

Lý do ông cần phải bêu xấu mẹ con cô Huệ để mọi người nghĩ đây là những người xấu (bad reputation), cho nên dù mẹ con cô Huệ có tiết lộ những chuyện xấu về ông chăng nữa thì người ta cũng không tin.

Còn lý do ông cần phải dỗ ngọt cô Huệ là để cô tiếp tục phục vụ sinh lý cho ông.

Ông Kiết bắt đầu dở trò với cô Huệ từ lúc nào?

Trong cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiết tại chùa Chánh Giác, ông Kiết cho biết là trước đây ông có thuê một cô Việt Nam tên V. mỗi tuần đến đấm bóp cho ông mỗi tuần 3 lần, mỗi lần $50. Một phật tử trong chùa thấy vậy đề nghị với ông là thay vì trả cho cô V. $50 mỗi lần làm massage, tại sao ông không thuê cô Huệ để cô có chút tiền gởi về Việt Nam nuôi con. Cho nên bắt đầu từ tháng 5 năm 2008 ông dùng cô Huệ thay thế cho cô V. đấm bóp cho mình. Tôi có kiểm tra lại chuyện này với cô Huệ thì được cô Huệ cho biết như sau:

- Khoảng tháng 5/2008 cô bắt đầu đấm bóp cho ông Kiết nhưng không phải mỗi tuần 3 lần mà là mỗi ngày.

- Ông Kiết không có trả tiền cho cô Huệ $50 mỗi lần như ông nói với tôi, nhưng chỉ thỉnh thoảng cho tiền cô thôi.

Ông Kiết áp dụng chiến thuật tranh thủ “dành dân lấn đất”. Lúc đầu chỉ có đấm bóp thuần túy rồi thêm thắt từ từ. Theo lời cô Huệ thì từ 8/2008 lấy lý do là cần thêm “nhân điện” để làm phật sự, ông cần được đấm bóp toàn người. Rồi tiếp thêm bước nữa là trong lúc cô đấm bóp thì một tay ông rờ rẫm vào người của cô Huệ.

Rồi sau cùng bắt đầu từ đầu tháng 12 năm rồi cho đến giữa tháng 3 năm nay, ông bắt cô Huệ phục vụ sinh lý cho ông.

Trả lời câu hỏi phỏng vấn của tôi tại chùa Chánh Giác vào chiều hôm thứ Sáu vừa rồi (27/3/2009), ông Kiết xác nhận cuốn băng thu hình là có thật, ông cũng có trong tay DVD thu hình đó, nhưng ông nói rằng ngoài chuyện đấm bóp r5a, chuyện “cởi quần” chỉ xảy ra duy nhất có hai lần thôi như trong cuốn thu băng đó thôi, chớ không phải lâu dài như lời cô Huệ đã nói với tôi. Ông cũng nói thêm rằng ông năm nay đã 90 tuổi rồi, đã hết khả năng làm tình từ năm 75 tuổi, và nếu không làm tình thì không thể gọi là xâm phạm tình dục. Theo ông Kiết, 2 lần đó xảy ra, ông nghĩ là do cô Huệ bỏ thuốc vào ly sửa đậu nành của ông. Tất cả những chi tiết trong cuộc phỏng vấn với ông Kiết đã được thâu băng đầy đủ (với sự đồng ý của ông Kiết) và sẽ được đăng tải trong số báo tới.

DVD gởi cho chúng tôi được thu trong những ngày đầu của tháng 3, nhưng theo cô Huệ cho biết thì ông Kiết đã giở trò với cô từ khoảng tháng 8 năm rồi cho đến 1 tuần trước khi cô rời khỏi chùa Chánh Giác vào 23/3/2009. Đến giữa tháng 3 khi biết những việc làm của ông đã bị thu băng, ông Kiết đã tìm đủ cách để thuyết phục cô và Khang hủy bỏ những video đó, nếu họ đồng ý thì ông sẽ đưa ngay $4000 và sau khi cô trở về Việt Nam thì mỗi tháng sẽ gởi về vài trăm phụ cấp. Nhưng cô Huệ cho biết là cô từ chối tất cả.

Khi tôi hỏi là tại sao cô phải “phục vụ” cho ông Kiết trong một thời gian dài như vậy mà không báo hội CCV biết, cô Huệ trả lời là vì cô sợ và lòng mang ơn.

Cô sợ là nếu rời khỏi chùa không biết ở đâu, cô không muốn tạo thêm gánh nặng cho hội CCV, bởi vì những cuộc giải phẩu của Khang đã làm hao tốn của hội CCV và ROMAC gần $100,000.

Cô sợ một con người đầy quyền lực như ông Lê Tấn Kiết có thể sẽ tìm cách trả thù mẹ con cô.

Đồng thời cô cũng mang ơn ông Kiết đã cưu mang mẹ con cô trong cơn hoạn nạn – chính 2 điều này khiến cô phải cam chịu trong một thời gian dài như vậy.

Theo lời cô Huệ, để được tiếp tục được thỏa mãn sinh lý, ông Kiết thuyết phụ cô là nhờ cô mà đầu
óc ông được minh mẫn, yêu đời, có sức để tiếp tục đóng góp cho phật pháp.

Tại sao cô Huệ quyết định tố giác chuyện này?

Đến một lúc gần đây cô cảm thấy không còn có thể tiếp tục như vậy được nữa, nên đã tâm sự với Khang: “Chỉ vì con mà má phải hy sinh làm những việc như vậy, má cảm thấy tội lỗi quá”.

Khang và cô Huệ quyết định phải làm một cái gì đó để chấm dứt chuyện này. Khi gặp Khang, tôi có hỏi về điều này thì Khang cho biết chính em đã thâu những các video clip này. Tôi hỏi Khang nguyên nhân nào thúc đẩy Khang làm điều này, thì Khang trả lời nguyên văn như sau: “Ông Kiết là người rất nguy hiểm, phần lớn phật tử chỉ tin lời của ông thôi, nếu không có chứng cớ làm sao con và má cãi lại ông ấy.”

Khang đã dùng mobile phone để thâu hình ảnh này, không phải một đêm mà liên tiếp 5,6 đêm. Cuối cùng khoảng ngày 19/3/2009 Khang kể cho bà Lyn biết tất cả và cho bà ấy xem video mà Khang thâu được. Đến đến sáng thứ Hai 23/3/2009, bà Lyn đã đến chở mẹ con cô Huệ ra đồn cảnh sát để khai tất cả sự thật và sau đó chở đến sống tạm tại nhà của một hội viên của CCV.

Cô Huệ cho biết là khi ở Việt Nam mặc dầu gia đình cô theo đạo Phật nhưng cô không hiểu gì về giáo lý nhà Phật cả. Mỗi khi gặp nạn cô chỉ van vái Trời Phật chớ không biết gì khác. Cô cho rằng mình thật may mắn là trong thời gian ở chùa Chánh Giác cô có một phật tử tên H. thường xuyên lui tới đến chùa, cô kính trọng ông H. như người anh ruột thịt vì chính ông là người đã giảng cho cô hiểu được giáo lý của đạo Phật và những bước căn bản để tu thân. Cô muốn tu để cầu xin Trời Phật phù hộ cho đứa con bất hạnh của cô, cứu vớt cho Khang được trở lại như người bình thường.

Lòng muốn tu nhưng bị bắt buộc phải làm những việc trái luân thường đạo lý khi phải “phục vụ” cho ông Kiết, chính điều này đã làm cho cô dằn dặt lương tâm suốt nhiều tháng qua. Cô cho biết cô đã khóc thầm nhiều đêm vì sự dằn dặt này.

Gặp Khang và bà Lyn Đúng như giờ hẹn tôi gặp Khang bên ngoài trường của em, vì đã trông thấy hình rồi cho nên tôi đã chuẩn bị trước tinh thần. Bà Lyn có lẽ cố tình đến trễ để cho tôi và Khang nói chuyện được thoải mái. Sau vài phút nói chuyện tôi nhận ra ngay là Khang mặc dầu bị tàn phế thân thể nhưng đầu óc thông minh. Khang cho biết là trong những môn học Khang giỏi nhất là môn toán, thường khi đứng đầu trong lớp.

Tôi không đủ cam đảm để nói em kể lại tai nạn, nhưng bổng nhiên Khang nói là em không thể quên ngày rầm tháng rầm tháng 7 Âm lịch tức ngày ngày 20/8/2005 Dương lịch, vì ngày đó là ngày tai nạn xảy ra đến với em.

Sau đây là cuộc đối thoại giữa tôi và Khang:

- Khang có thể tha thứ cho cha được không?

- Có thể được.

- Khang có thương ba nhiều không?

- Chỉ ít thôi.

- Ba Khang có bao giờ nói xin lỗi hay có khóc trước mặt Khang không?

- Có xin lỗi và khóc nhiều lần.

- Giữa Úc và Việt Nam Khang thích sống ở đâu hơn?

- Ở Úc hơn.

- Tại sao?

- Bởi vì ở Úc bạn bè và đặc biệt là thầy cô đối xử rất tốt với con.

- Ước mơ lớn nhất của Khang lúc này là gì?

- Con có 2 ước mơ lớn, thứ nhất là bác sĩ sẽ giải phẩu thành công để con có thể ăn uống bình thường và có thể tự tắm rửa được và ước mơ thứ hai là khi trở vào lại trường trung học vào giữa năm nay con sẽ theo kịp bạn bè.

Điều thật đáng mừng là vì thấy hoàn cảnh đáng thương của Khang cho nên chính phủ Úc cấp cho Khang học bổng 6 năm.

Càng sống lâu tại đây tôi càng thấy quý trọng những giá trị nhân bản của dân Úc, tôi không nhớ vị danh nhân nào đã nói câu này: “Người ta đánh giá sự văn minh của một quốc gia qua sự đối xử với người tàn tật”.

Giữa năm nay Khang sẽ vào học lớp 10, tôi cầu Trời cho Khang vượt qua được những khó khăn lúc
đầu. Tôi khuyên Khang phải cố gắng học vì đó là con đường duy nhất để có tương lai tươi sáng, Khang trả lời: “Con biết điều đó”.

Khoảng 4 giờ rưỡi thì Lyn đến. Đúng như tôi mong đợi, đây là một phụ nữ trung niên với khuôn mặt và giọng nói thật nhân ái. Tôi nói với bà rằng tôi không dám đại diện cho ai cả, nhưng xin thay mặt cho bán tuần báo Việt Luận gởi đến bà lời cám ơn đặc biệt, bà đã giúp cho đồng bào của tôi những việc mà bản thân tôi không làm được.

Tôi nói tiếp: “Tôi biết tất cả những lời cám ơn đối với bà đều dư thừa nhưng cho phép tôi được nhắc lại câu ngạn ngữ của người Do Thái "Cứu một mạng người cũng gần giống như cứu cả thế giới" (Save one life is as if you have saved the world)”

Bà Lyn trả lời khiêm tốn rằng thấy hoàn cảnh thương tâm như vậy bà chỉ làm theo tiếng gọi của lương tâm.

Đáng tiếc là bà không thể cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn, vì luật sư của CCV không cho phép bà được tuyên bố bất cứ điều gì với báo chí liên quan đến việc “sách nhiễu tình dục” của ông Lê Tấn Kiết cho đến khi họ có một quyết định.

Cả bà và một hội viên khác trong CCV tên là Sue mà tôi có dịp gặp trước đó đều tỏ bực tức về sự tiết lộ muộn màng của cô Huệ, họ cho rằng đúng ra cô Huệ phải thông báo ngay cho họ biết khi có những chuyện như vậy xảy ra.

Khi từ biệt, bà nắm tay Khang và nói với tôi “He is my son” (cậu ta là con của tôi). Tôi cầu Trời những người như bà Lyn sẽ mãi mãi thương yêu Khang như thương yêu chính đứa con của bà, những người như Khang cần một tình thương để làm lại cuộc đời. Tôi biết lúc đó bà nói thật với lòng mình, tôi nhìn họ bước đi mà không sao cầm được nước mắt và tự hỏi tại sao lại có những người ngoại quốc tốt với đồng bào của tôi như thế.

Ai là chủ nhân thật sự của chùa Chánh Giác?

Một nhân vật quan trọng khác có liên hệ với chùa Chánh Giác mà tôi có dịp gặp trong chuyến đi vừa rồi là ông Lâm Ngọc A. Theo ông A thì chính ông mới là chủ nhân thật sự của chùa Chánh Giác, ông đưa cho tôi xem title nhà (bảng chánh) đang giữ và tất cả các chi phiếu mà ông đã trả cho ngân hàng, ông đồng ý cho tôi giữ tất cả các bảng photocopy.

Trong lúc gặp ông Lê Tấn Kiết tại chùa Chánh Giác tôi có nêu câu hỏi này, thì ông Kiết phủ nhận lời nói của ông A. Ông Kiết đồng ý là ông A có trả cho ngân hàng số tiền là $380,000 vào tháng 12 năm 1994 để thanh toán tất cả số nợ của chùa Chánh Giác, nhưng tài sản ngôi chùa này thuộc về ông Kiết dưới tên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tây Úc. Coi như ông A đã tặng cho Giáo Hội của ông Kiết rồi chớ không còn là của ông A nữa.

Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về vấn đề này trong những số báo tới.

Tôi rời Perth bằng chuyến bay lúc 12 giờ 30 phút khuya, tức là 2 giờ 30 phút sáng theo giờ Sydney, mệt thật nhưng tôi ngồi trên máy bay suốt 2 tiếng đồng hồ sau vẫn không sao nhắm mắt được, những hình ảnh của Khang, của cô Huệ, của bà Lyn, Sue và các bạn VN khác ở Perth… cứ hiện ra trong trí tôi và dĩ nhiên có cả những hình ảnh của ông Lê Tấn Kiết ...

Nhật Thường


Friday, May 1, 2009

HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA


HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA

QUỐC HỘI LẬP HIẾN
Chung quyết trong phiên họp
Ngày 18 tháng 3 năm 1967


LỜI MỞ ÐẦU

Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.

Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Ðộc Lập Tự Do Dân Chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.

Chúng tôi một trăm mười bảy (117) Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến đại diện nhân dân Việt Nam, sau khi thảo luận, chầp thuận Bản Hiến Pháp sau đây:

* * *
    CHƯƠNG I: ÐIỀU KHOẢN CĂN BẢN
ÐIỀU 1

1. VIỆT NAM là một nước CỘNG HÒA, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
2. Chủ quyền Quốc Gia thuộc về toàn dân.

ÐIỀU 2

1. Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân.
2. Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái.

Ðồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc.

3. Mọi công dân có nghĩa vụ góp phần phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc.

ÐIỀU 3

Ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự Do, Dân Chủ và Công Bằng Xã Hội.

ÐIỀU 4

1. Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức.

2. Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ.

ÐIỀU 5

1. Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận các nguyên tắc quốc tế pháp không trái với chủ quyền quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.

2. Việt Nam Cộng Hòa cương quyết chống lại mọi hình thức xâm lược và nỗ lực góp phần xay dựng nền an ninh và hòa bình thế giới.
    CHƯƠNG II: QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CÔNG DÂN
ÐIỀU 6

1. Quốc Gia tôn trọng nhân phẩm.

2. Luật pháp bảo vệ tự do, sinh mạng, tài sản và danh dự của mọi công dân.

ÐIỀU 7

1. Quốc Gia tôn trọng và bảo vệ quyền an toàn cá nhân và quyền biện hộ.

2. Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ nếu không có mệnh lệnh hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền luật định, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp.

3. Bị can và thân nhân phải được thông báo tội trạng trong thờ hạn luật định. Mọi sự câu lưu phải đặt dưới quyền kiểm soát của cơ quan Tư Pháp.

4. Không ai có thể bị tra tấn, đe dọa hay cưỡng bách thú tội. Sự nhận tội vì tra tấn. Ðe dọa hay cưỡng bách không được coi là bằng chứng buộc tội.

5. Bị can phải được xét xử công khai và mau chóng.

6. Bị can có quyền được luật sư biện hộ dự kiến trong moi giai đoạn thẩm vấn kể cả trong cuộc điều tra sơ vấn.

7. Bị can về các tội Tiểu Hình, chưa có tiền án quá ba (3) tháng tù về các tội phạm cố ý, có thể được tại ngoại hầu tra nếu có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn. Nữ bị can về các tội tiểu hình. Có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn, nếu có thai trên ba (3) tháng.

8. Bị can được suy đoán là vô tội cho đến khi bản án xác nhận tội trạng trở thành nhất định.

Sự nghi vấn có lợi cho bị can

9. Bị can bị bắt giữ oan ức, sau khi được tuyên bố vô tội, có quyền đòi Quốc Gia bồi thường thiệt hại trong những điều kiện luật định.

10. Không ai có thể bị câu thúc thân thể vì thiếu nợ.

ÐIỀU 8

1. Ðời tư, nhà cửa và thư tín của công dân phải được tôn trọng.

2. Không ai được quyền xâm nhập, khám xét nơi cư trú và tịch thâu đồ vật của người dân, trừ khi có lệnh của Tòa Aùn hoặc cần bảo vệ an ninh và trật tự công cộng trong phạm vi luật định.

3. Luật pháp bảo vệ tánh cách riêng tư của thư tín, những hạn chế, nếu có phải do một (1) đạo luật qui định.

ÐIỀU 9

1. Quốc Gia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do truyền giáo và hành đạo của mọi công dân miễn là không xâm phạm đến quyền lợi quốc gia, không phương hại đến an ninh, trật tự công cộng và không trái với thuần phong mỹ tục.

2. Quốc Gia không thừa nhận một tôn giáo nào là Quốc Giáo. Quốc Gia vô tư đối với sự phát triển của các tôn giáo.

ÐIỀU 10

1. Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục.

2. Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí.

3. Nền giáo dục Ðại Học được tự trị.

4. Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.

5. Quốc Gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật.

ÐIỀU 11

1. Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.

2. Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.

ÐIỀU 12

1. Quốc Gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục.

2. Chế độ kiểm duyệt không được chấp nhận, ngoại trừ các bộ môn điện ảnh và kịch trường.

3. Một đạo luật sẽ ấn định qui chế báo chí.

ÐIỀU 13

1. Mọi công dân đều có quyền tự do hội họp và lập hội trong phạm vi luật định.

2. Mọi công dân đều có quyền bầu cử , ứng cử và tham gia công vụ trên căn bản bình đẳng theo điều kiện và thể thức luật định.

3. Quốc Gia tôn trọng các quyền chính trị của mọi công dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp pháp.

ÐIỀU 14

Mọi công dân đều có quyền tự do cư trú, đi lại, xuất ngoại và hồi hương, ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do y tế, an ninh và quốc phòng.

ÐIỀU 15

1. Mọi công dân đều có quyền, có bổn phận làm việc và được hưởng thù lao tương xứng để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.

2. Quốc Gia nỗ lực tạo công việc làm cho mọi công dân.

ÐIỀU 16

Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được tôn trọng trong phạm vi và thể thức luật định.

ÐIỀU 17

1. Quốc Gia công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc Gia khuyến khích, nâng đỡ sự thành lập gia đình, săn sóc sản phụ và thai nhi.

2. Hôn nhân được đặt căn bản trên sự ưng thuận, sự bình đẳng và sự hợp tác giữa vợ chồng.

3. Quốc Gia tán trợ sự thuần nhất gia đình.

ÐIỀU 18

1. Quốc Gia nỗ lực thiết lập chế độ an ninh xã hội.

2. Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập chế độ cứu trợ xã hội và y tế công cộng.

3. Quốc Gia có nhiệm vụ nâng đỡ đời sống tinh thần và vật chất của các chiến sĩ quốc gia, bảo trợ và dưỡng dục các quốc gia nghĩa tử.

ÐIỀU 19

1. Quốc Gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.

2. Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân.

3. Sở hữu chủ các tài sản bị truất hữu hoặc trưng dụng vì lý do công ích phải được bồi thường nhanh chóng và thoả đáng theo thời giá.

ÐIỀU 20

1. Quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh được công nhận nhưng không được hành xử để nắm giữ độc quyền, độc chiếm hay thao túng thị trường.

2. Quốc Gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác kinh tế có tánh cách tương trợ.

3. Quốc Gia đặc biệt nâng đỡ những thành phần xã hội yếu kém về kinh tế.

ÐIỀU 21

Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.

ÐIỀU 22

Trên nguyên tắc quân bình giữa nghĩa vụ và quyền lợi, công nhân có quyền cử đại biểu tham gia quản trị xí nghiệp, đặc biệt về những vấn đề liên quan đến lương bổng và điều kiện làm việc trong phạm vi và thể thức luật định.

ÐIỀU 23

1. Quân Nhân đắc cử vào các chức vụ dân cử, hay tham chánh tại cấp bậc trung ương phải được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương, tuỳ theo sự lựa chọn của đương sự.

2. Quân Nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái.

ÐIỀU 24

1. Quốc Gia công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam.

2. Quốc Gia tôn trọng phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. Các tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử một số các vụ án phong tục giữa các đồng bào thiểu số.

3. Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số.

ÐIỀU 25

Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể Cộng Hòa.

ÐIỀU 26

Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Hiến Pháp và tôn trọng luật pháp.

ÐIỀU 27

Mọi công dân đều có nghĩa vụ thi hành quân dịch theo luật định.

ÐIỀU 28

Mọi công dân đều có nghĩa vụ đóng thuế theo luật định.

ÐIỀU 29

Mọi sự hạn chế các quyền công dân căn bản phải được qui định bởi một đạo luật có ấn định rõ phạm vi áp dụng trong thời gian và không gian. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, tánh cách thiết yếu của các quyền công dân căn bản vẫn không được vi phạm.
    CHƯƠNG III: LẬP PHÁP
ÐIỀU 30

Quyền Lập Pháp được quốc dân ủy nhiệm cho Quốc Hội.

Quốc Hội gồm hai viện:

- Hạ Nghị Viện.
- Thượng Nghị Viện.

ÐIỀU 31

Hạ Nghị Viện gồm từ một trăm (100) đến hai trăm (200) Dân Biểu.

1. Dân Biểu được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức đơn danh, trong từng đơn vị lớn nhất là tỉnh.

2. Nhiệm kỳ Dân Biểu là bốn (4) năm. Dân Biểu có thể được tái cử.

3. Cuộc bầu cử tân Hạ Nghị Viện sẽ được kết thúc chậm nhất là một (1) tháng trước khi pháp nhiệm cũ chấm dứt.

ÐIỀU 32

Ðược quyền ứng cử Dân Biểu những công dân:

1. Có Việt tịch từ khi mới sanh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất bảy (7) năm, hoặc đã thủ đắc hoặc hồi phục Việt tịch ít nhất năm (5) năm tính đến ngày bầu cử.

2. Ðủ hai mươi lăm (25) tuổi tính đến ngày bầu cử.

3. Ðược hưởng các quyền công dân.

4. Ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch.

5. Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Dân Biểu.

ÐIỀU 33

Thượng Nghị Viện gồm từ ba mươi (30) đến sáu mươi (60) Nghị Sĩ.

1. Nghị Sĩ được cử tri đoàn toàn quốc bầu lên trong một cuộc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức Liên Danh đa số. Mỗi Liên Danh gồm từ một phần sáu (1/6) đến một phần ba (1/3) tổng số Nghị Sĩ.

2. Nhiệm kỳ Nghị Sĩ là sáu (6) năm, mỗi ba (3) năm bầu lại phân nửa (1/2). Nghị Sĩ có thể được tái cử.

3. Các Nghị Sĩ trong pháp nhiệm đầu tiên sẽ được chia làm hai nhóm đều nhau, theo thể thức rút thăm. Nhóm thứ nhất có nhiệm kỳ sáu (6) năm, nhóm thứ hai có nhiệm kỳ ba (3) năm.

4. Cuộc bầu cử các tân Nghị Sĩ phải được tổ chức chậm nhất là một (1) tháng trước khi phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ chấm dứt pháp nhiệm.

ÐIỀU 34

Ðược quyền ứng cử Nghị Sĩ những công dân đủ ba mươi (30) tuổi tính đến ngày bầu cử, hội đủ các điều kiện dự liệu trong đạo luật bầu cử Nghị Sĩ và các điều kiện qui định ở Ðiều 32.

ÐIỀU 35

1. Trong trường hợp khống khuyết Dân Biểu vì bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức trong hạn ba (3) tháng, nếu sự khống khuyết xảy ra trên hai (2) năm trước ngày chấm dứt pháp nhiệm.

2. Trong trường hợp khô&ng khuyết Nghị Sĩ vì bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức chung với cuộc bầu cử phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ gần nhất.

ÐIỀU 36

Các thể thức và điều kiện ứng cử, bầu cử Dân Biểu và Nghị Sĩ, kể cả Dân Biểu đồng bào Thiểu số, sẽ do những đạo luật quy định.

ÐIỀU 37

1. Không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ vì những sự phát biểu và biểu quyết tại Quốc Hội.

2. Trong suốt thời gian pháp nhiệm, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ, nếu không có sự chấp thuận của ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ.

3. Trong trường hợp quả tang phạm pháp, sự truy tố hay bắt giam sẽ được đình chỉ nếu có sự yêu cầu của Viện sở quan.

4. Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền bảo mật về xuất xứ các tài liệu trình bày trước Quốc Hội.

5. Dân Biểu và Nghị Sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác.

6. Dân Biểu và Nghị Sĩ có thể phụ trách giảng huấn tại các trường đại học và cao đẳng kỹ thuật.

7. Dân Biểu, Nghị Sĩ và người hôn phối không thể tham dự những cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền.

ÐIỀU 38

1. Trong trường hợp can tội phản quốc hay các trọng tội khác, Dân Biểu hay Nghị Sĩ có thể bị Viện sở quan truất quyền.

2. Sự truất quyền phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ đề nghị.

3. Quyết định truất quyền phải được ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ chấp thuận.

4. Ðương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truất quyền.

ÐIỀU 39

Quốc Hội có thẩm quyền:

1. Biểu quyết các đạo luật.

2. Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế.

3. Quyết định việc tuyên chiến và nghị hòa.

4. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh.

5. Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chánh sách Quốc Gia.

6. Trong phạm vi mỗi viện, quyết định hợp thức hóa sự đắc cử của các Dân Biểu hay Nghị Sĩ.

ÐIỀU 40

1. Mỗi viện với một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ có quyền yêu cầu Thủ Tướng hay các nhân viên chính phủ ra trước Viện sở quan để trả lời các câu chất vấn về sự thi hành chánh sách quốc gia.

2. Chủ tịch Ủy Ban của mỗi viện có quyền yêu cầu các nhân viên chánh phủ tham dự các phiên họp của Uûy Ban để trình bày về các vấn đề liên quan đến Bộ sở quan.

ÐIỀU 41

Thượng Nghị Viện có quyền mở cuộc điều tra về sự thi hành chánh sách quốc gia và yêu cầu các cơ quan công quyền xuất trình các tài liệu cần thiết cho cuộc điều tra này.

ÐIỀU 42

1. Quốc Hội có quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chánh phủ với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ.

2. Nếu Tổng Thống không có lý do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực.

3. Trong trường hợp Tổng Thống khước từ, Quốc Hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Sự khuyến cáo sau này của Quốc Hội có hiệu lực kể từ ngày chung quyết.

ÐIỀU 43

1. Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các dự án luật.

2. Tổng Thống có quyền đề nghị các dự thảo luật.

3. Các dự án luật và dự thảo luật, gọi chung là dự luật phải được đệ nạp tại văn phòng Hạ Nghị Viện.

4. Trong mọi trường hợp Hạ Nghị Viện chấp thuận hoặc bác bỏ một dự luật. Viện này đều chuyển dự luật sang văn phòng Thượng Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tròn.

5. Nếu Thượng Nghị Viện đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được chuyển sang Tổng Thống để ban hành hoặc sẽ bị bác bỏ.

6. Nếu Thượng Nghị Viện không đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được gởi về văn phòng Hạ Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tròn, kèm theo quyết nghị có viện dẫn lý do.

7. Trong trường hợp sau này, Hạ Nghị Viện có quyền chung quyết dự luật với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu.

8. Nếu Hạ Nghị Viện không hội đủ đa số hai phần ba (2/3) nói trên, quan điểm của Thượng Nghị Viện được coi là chung quyết.

9. Thời gian thảo luận và biểu quyết một dự luật tại Thượng Nghị Viện chỉ có thể bằng phân nửa (1/2) thời gian thảo luận và biểu quyết tại Hạ Nghị Viện. Thời gian thảo luận và chung quyết một dự luật tại Hạ Nghị Viện chỉ có thể gấp đôi thời gian thảo luận và biểu quyết tại Thượng Nghị Viện.

ÐIỀU 44

1. Các dự luật được Quốc Hội chung quyết sẽ được chuyển sang Tổng Thống trong thời hạn ba (3) ngày tròn.

2. Thời gian ban hành là mười lăm (15) ngày tròn kể từ ngày Tổng Thống tiếp nhận dự luật.

3. Trong trường hợp khẩn cấp do Quốc Hội thẩm định, thời hạn ban hành là bảy (7) ngày tròn.

4. Nếu Tổng Thống không ban hành trong các thời hạn kể trên, dự luật đã được Quốc Hội biểu quyết đương nhiên thành luật và sẽ được Chủ Tịch Thượng Nghị Viện ban hành.

ÐIỀU 45

1. Trong thời hạn ban hành, Tổng Thống có quyền gởi thông điệp có viện dẫn lý do yêu cầu Quốc Hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản của dự luật.

2. Trong trường hợp này, Quốc Hội sẽ họp khoáng đại lưỡng viện để chung quyết dự luật vớ đa số quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nếu Quốc Hội chung quyết bác bỏ lời yêu cầu phúc nghị của Tổng Thống, dự luật đương nhiên thành luật và được chuyển sang Tổng Thống để ban hành.

ÐIỀU 46

1. Dự thảo ngân sách được đệ nạp tại văn phòng Hạ Nghị Viện trước ngày ba mươi tháng chín (30-09).

2. Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các khoản chi mới nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương.

3. Hạ Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi tháng mười một (30-11) và chuyển bản văn đã được chấp thuận đến văn phòng Thượng Nghị Viện chậm nhất là ngày một tháng mười hai (1-12).

4. Thượng Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi mốt tháng mười hai (31-12).

5. Trong thời hạn nói trên, nếu Thượng Nghị Viện yêu cầu Hạ Nghị Viện phúc nghị một hay nhiều điều khoản trong dự thảo ngân sách, thủ tục qui định tại điều 43 phải được áp dụng. Trường hợp này Tổng Thống có quyền ký sắc luật cho thi hành từng phần ngân sách tương đương với một phần mười hai (1/12) ngân sách thuộc tài khoá trước cho đến khi Hạ Nghị Viện chung quyết xong dự thảo ngân sách.

ÐIỀU 47

1. Mỗi Viện họp những khóa thường lệ và những khóa bất thường.

2. Hằng năm mỗi viện họp hai khóa thường lệ. Một khóa họp bắt đầu ngày thứ Hai đầu tiên trong tháng Tư dương lịch, một khóa họp bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng Mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không thể lâu quá chín mươi (90) ngày. Tuy nhiên Hạ Nghị Viện có thể triển hạn khóa họp để chung quyết dự thảo ngân sách.

3. Mỗi viện có thể triệu tập các khóa họp bất thường khi có sự yêu cầu của Tổng Thống hoặc một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ. Nế khóa họp bất thường do Tổng Thống yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp do Tổng Thống ấn định.

ÐIỀU48

1. Quốc Hội họp công khai trừ khi quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ hiện diện yêu cầu họp kín.

2. Trong các phiên họp công khai, biên bản tường thuật toàn vẹn cuộc thảo luận và các tài liệu trình bày tại Quốc Hội sẽ được đăng trên Công Báo.

ÐIỀU 49

1. Mỗi viện bầu Chủ Tịch và các nhân viên văn phòng.

2. Mỗi viện thành lập các Uûy Ban thường trực và các Ủy Ban đặc biệt.

3. Mỗi viện trọn quyền ấn định nội quy.

4. Văn phòng hai (2) viện ấn định thủ tục liên lạc và sinh hoạt giữa hai (2) viện.

ÐIỀU 50

1. Chủ Tịch Thượng Nghị Viện triệu tập và chủ tọa các phiên họp khoáng đại lưỡng viện.

2. Trường hợp Chủ Tịch Thượng Nghị Viện bị ngăn trở, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện sẽ thay thế Chủ Tịch Thượng Nghị Viện trong nhiệm vụ này.
    CHƯƠNG IV: HÀNH PHÁP
ÐIỀU 51

Quyền Hành Pháp được Quốc Dân ủy nhiệm cho Tổng Thống

ÐIỀU 52

1. Tổng Thống và Phó Tổng Thống cùng đứng chung một liên danh, được cử tri toàn quốc bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín.

2. Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống là bốn (4) năm. Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể được tái cử một lần.

3. Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống chấm dứt đúng mười hai (12) giờ trưa
ngày cuối cùng tháng thứ bốn mươi tám (48) kể từ ngày nhậm chức và nhiệm kỳ của tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống bắt đầu từ lức ấy.

4. Cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống được tổ chức vào ngày chúa nhật bốn (4) tuần lễ trước khi nhiệm kỳ của Tổng Thống tại chức chấm dứt.

ÐIỀU 53

Ðược quyền ứng cử Tổng Thống hoạc Phó Tổng Thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây:

1. Có Việt tịch từ khi mới sanh ra và liên tục cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam ít nhất mười (10) năm tính đến ngày bầu cử.

Thời gian công cán và lưu vong chánh trị tại ngoại quốc được kể như thời gian cư ngụ tại nước nhà.

2. Ðủ ba mươi lăm (35) tuổi tính đến ngày bầu cử.

3. Ðược hưởng các quyền công dân.

4. Ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch.

5. Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.

ÐIỀU 54

1. Tối cao Pháp viện lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức của cuộc bầu cử và tuyên bố kết quả.

2. Các ứng cử viên được hưởng đồng đều phương tiện trong cuộc vận động tuyển cử.

3. Một đạo luật sẽ qui định thể thức ứng cử và bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.

ÐIỀU 55

Khi nhậm chức, Tổng Thống tuyên thệ trước quốc dân với sự chứng kiến của Tối cao Pháp viện và Quốc Hội: “Tôi long trọng tuyên thệ trước quốc dân sẽ bảo vệ Tổ Quốc, tôn trọng Hiến Pháp, phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc và tận lực làm tròn nhiệm vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa”.

ÐIỀU 56

1. Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể chấm dứt trước hạn kỳ trong những trường hợp:

a. Mệnh chung.

b. Từ chức.

c. Bị truất quyền.

d. Bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc Hội xác nhận với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa.

2. Trong trường hợp nhiệm vụ của Tổng Thống chấm dứt trên một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ.

Tổng Thống trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống cho nhiệm kỳ mới.

3. Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng Thống chấm dứt dưới một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống đến hết nhiệm kỳ, ngoại trừ trường hợp Tổng Thống bị truất quyền.

4. Nếu vì một lý do gì Phó Tổng Thống không thể đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống.

ÐIỀU 57

Tổng Thống ban hành các đạo luật trong thời hạn qui định ở điều 44.

ÐIỀU 58

1. Tổng Thống bổ nhiệm Thủ Tướng; theo đề nghị của Thủ Tướng, Tổng Thống bổ nhiệm các nhân viên Chánh Phủ.

2. Tổng Thống có quyền cải tổ toàn bộ hay một phần Chánh Phủ, hoặc tự ý, hoặc sau khi có khuyến cáo của Quốc Hội.

ÐIỀU 59

1. Tổng Thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thượng Nghị Viện:

a. Các trưởng nhiệm sở ngoại giao.

b. Viện Trưởng các viện Ðại Học.

2. Tổng Thống thay mặt Quốc Gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao.

3. Tổng Thống ký kết và sau khi được Quốc Hội phê chuẩn, ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế.

ÐIỀU 60

Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh tối cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

ÐIỀU 61

1. Tổng Tống ban các loại huy chương.

2. Tổng Thống có quyền ân xá và ân giảm hình phạt các phạm nhân.

ÐIỀU 62

1. Tổng Thống hoạch định chánh sách quốc gia.

2. Tổng Thống chủ tọa Hội Ðồng Tổng Trưởng.

ÐIỀU 63

1. Tổng Thống tiếp xúc với Quốc Hội bằng thông điệp. Vào mỗi khóa họp thường lệ và mỗi khi thấy cần, Tổng Thống thông báo cho Quốc Hội biết tình hình quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chánh Phủ.

2. Thủ Tướng và các nhân viên Chánh Phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc Hội hoặc của các Ủy Ban để trình bày và giải thích về các vấn đề liên quan đến chánh sách quốc gia và sự thi hành chánh sách quốc gia.

ÐIỀU 64

1. Trong các trường hợp đặc biệt, Tổng Thống có thể ký sắc luật tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên một phần hay toàn lãnh thổ.

2. Quốc Hội phải được triệu tập chậm nhất mười hai (12) ngày kể từ ngày ban hành sắc luật để phê chuẩn, sửa đổi hoặc bải bỏ.

3. Trong trường hợp Quốc Hội bải bỏ hoặc sửa đổi sắc luật của Tổng Thống, các tình trạng đặc biệt đã được ban hành sẽ chấm dứt hoặc thay đổi hiệu lực.

ÐIỀU 65

Trong tình trạng chiến tranh không thể tổ chức bầu cử được, với sự chấp thuận của hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ, Tổng Thống có quyền lưu nhiệm một số các cơ quan dân cử và bổ nhiệm một số tỉnh trưởng.

ÐIỀU 66

1. Phó Tổng Thống là Chủ tịch hội đồng văn hóa giáo dục, hội đồng kinh tế xã hội và hội đồng các Sắc Tộc thiểu số.

2. Phó Tổng Thống không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào trong Chánh phủ.

ÐIỀU 67

1. Thủ Tướng điều khiển Chánh Phủ và các cơ cấu hành chánh quốc gia.

2. Thủ Tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chánh sách quốc gia trước Tổng Thống.

ÐIỀU 68

1. Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các nhân viên Chánh Phủ không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào thuộc lãnh vực tư, dù có thù lao hay không.

2. Trong mọi trường hợp người hôn phối của các vị này không được tham dự các cuộc đấu thầu hoặc kết ước với các cơ quan công quyền.

ÐIỀU 69

1. Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia có nhiệm vụ:

- Nghiên cứ các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng.

- Ðề nghị các biện pháp thích ứng để duy trì an ninh quốc gia.

- Ðề nghị tuyên bố tình trạng bắo động, giới nghiêm, khẩn trương hoặc chiến tranh.

- Ðề nghị tuyên chiến hay nghị hòa.

2. Tổng Thống là Chủ Tịch Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia.

ÐIỀU 70

1. Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.

2. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành nền hành chánh địa phương.

ÐIỀU 71

1. Các cơ quan quyết định và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành các tập thể địa phương phân quyền sẽ do cử tri bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín.

2. Riêng ở cấp xã, xã trưởng có thể do hội đồng xã bầu lên trong số các hội viên hội đồng xã.

ÐIỀU 72

Các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền là:

- Xã trưởng ở cấp xã.
- Tỉnh trưởng ở cấp tỉnh.
- Thị trưởng ở cấp thị xãÐô trưởng ở thủ đô.

ÐIỀU 74

Chánh Phủ bổ nhiệm bên cạnh các Ðô Trưởng, Thị Trưởng, Xã Trưởng hai (2) viên chức có nhiệm vụ phụ tá về hành chánh và an ninh cùng các nhân viên hành chánh khác.

ÐIỀU 75

Nhân viên các cơ quan quyết nghị và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền có thể bị Tổng Thống giải nhiệm trong trường hợp vi phạm Hiến Pháp, luật pháp quốc gia hay chánh sách quốc gia.
    CHƯƠNG V: TƯ PHÁP
ÐIỀU 76

1. Quyền Tư Pháp độc lập, được ủy nhiệm cho Tối Cao Pháp Viện và được hành xử bởi các Thẩm Phán xử án.

2. Một đạo kuật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành ngành Tư Pháp.

ÐIỀU 77

Mọi Tòa Án phải do một đạo luật thiết lập với một thành phần Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố chuyên nghiệp và theo một thủ tục tôn trọng quyền biện hộ.

ÐIỀU 78

1. Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố được phân nhiệm rõ rệt và có qui chế riêng biệt.

2. Thẩm Phán xử án quyết định theo lương tâm và pháp luật dưới sự kiểm soát của Tối Cao Pháp Viện.

3. Thẩm Phán công tố theo dõi sự áp dụng luật pháp để bảo vệ trật tự công cộng dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp.

ÐIỀU 79

Thẩm Phán xử án chỉ có thể bị giải nhiệm trong trường hợp bị kết án, vi phạm kỷ luật hay bất lực về tinh thần hoặc thể chất.

ÐIỀU 80

1. Tối Cao Pháp Viện gồm từ chín (9) đến mười lăm (15) Thẩm Phán. Tối Cao Pháp Viện do Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống bổ nhiệm theo một danh sách ba mươi (30) người do Thẩm Phán Ðoàn, Công Tố Ðoàn và Luật Sư Ðoàn bầu lên.

2. Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện phải là những Thẩm Phán hay Luật Sư đã hành nghề ít nhất mười (10) năm trong ngành Tư Pháp.

3. Nhiệm kỳ của Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là sáu (6) năm.

4. Thành phần cử tri thuộc Thẩm Phán Ðoàn, Công Tố Ðoàn và Luật Sư Ðoàn phải đồng đều.

5. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Tối Cao Pháp Viện.

ÐIỀU 81

1. Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền giải thích Hiến Pháp, phán quyết về tánh cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, sắc luật; tánh cách hợp hiến và hợp pháp của các sắc lệnh, nghị định và quyết định hành chánh.

2. Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chánh thể Cộng Hòa.

3. Trong trường hợp này, Tối Cao Pháp Viện sẽ họp khoáng đại toàn viện, các đại diện Lập Pháp hoặc Hành Pháp có thể tham dự để trình bày quan điểm.

4. Những quyết định của Tối Cao Pháp Viện tuyên bố một đạo luật bất hợp hiến hoặc giải tán một chánh đảng phải hội đủ đa số ba phần tư (3/4) tổng số Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện.

ÐIỀU 82

Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về các vụ thượng tố các bản án chung thẩm.

ÐIỀU 83

Tối Cao Pháp Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để quản trị ngành Tư Pháp.

ÐIỀU 84

1. Hội Ðồng Thẩm Phán có nhiệm vụ:

- Ðề nghị bổ nhiệm, thăng thưởng, thuyên chuyển và chế tài về kỷ luật các Thẩm Phán xử án.

- Cố vấn Tối Cao Pháp Viện về các vấn đề liên quan đến ngành Tư Pháp.

3. Hội Ðồng Thẩm Phán gồm các Thẩm Phán xử án do các Thẩm Phán xử án bầu lên.

4. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Thẩm Phán.
    CHƯƠNG VI: CÁC ÐỊNH CHẾ ÐẶC BIỆT
Ðặc Biệt Pháp Viện

ÐIỀU 85

Ðặc Biệt Pháp Viện có thẩm quyền truất quyền Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ Trưởng, các Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện và các Giám Sát Viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác.

ÐIỀU 86

1. Ðặc Biệt Pháp Viện do Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện giữ chức Chánh Thẩm và gồm năm (5) Dân Biểu và năm (5) Nghị Sĩ.

2. Khi Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện là bị can, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện giữ chức Chánh Thẩm.

ÐIỀU 87

1. Ðề nghị khởi tố có viện dẫn lý do phải được quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ ký tên. Quyết định khởi tố phải được đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận.

Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống đề nghị khởi tố có viện dẫn lý do phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ ký tên.

Quyết định khởi tố phải được đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận.

2. Ðương sự phải đình chỉ nhiệm vụ từ khi Quốc Hội biểu quyết truy tố đến khi Ðặc Biệt Pháp Viện phán quyết.

3. Ðặc Biệt Pháp Viện phán quyết truất quyền theo đa số ba phần tư (3/4) tổng số nhân viên. Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống phán quyết truất quyền theo đa số bốn phần năm (4/5) tổng số nhân viên.

4. Ðương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truy tố.

5. Sau khi bị truất quyền, đương sự có thể bị truy tố trước các tòa án có thẩm quyền.

6. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức, điều hành và thủ tục trước Ðặc Biệt Pháp Viện Giám Sát Viện.

ÐIỀU 88

Giám Sát Viện có thẩm quyền:

1. Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.

2. Thẩm tra kế toán đối với các cơ quan công quyền và hợp doanh.

3. Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Dân Biểu, Nghị Sỉ, Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện.

4. Riêng đối với Chủ Tịch Giám Sát.

5. Viện và các Giám Sát Viên, việc kiểm kê tài sản do Tối Cao Pháp Viện đảm trách.

ÐIỀU 89

1. Giám Sát Viện có quyền đề nghị các biện pháp chế tài về kỷ luật đối với nhân viên phạm lỗi hoặc yêu cầu truy tố đương sự ra trước tòa án có thẩm quyền.

2. Giám Sát Viện có quyền công bố kết quả cuộc điều tra.

ÐIỀU 90

1. Giám Sát Viện gồm từ chín (9) đến mười tám (18) Giám Sát viên, một phần ba (1/3) do Quốc Hội, một phần ba (1/3) do Tổng Thống và một phần ba (1/3) do Tối Cao Pháp Viện chỉ định.

2. Giám Sát viên được hưởng những quyền hạn và bảo đảm cần thiết để thi hành nhiệm vụ.

ÐIỀU 91

Giám Sát Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để tổ chức nội bộ và quản trị ngành giám sát.

Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Giám Sát Viện.

Hội Ðồng Quân Lực

ÐIỀU 92

1. Hội Ðồng Quân Lực cố vấn Tổng Thống về các vấn đề liên quan đến Quân Lực, đặc biệt là việc thăng thưởng, thuyên chuyển và trừng phạt quân nhân các cấp.

2. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Quân Lực.

Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục

ÐIỀU 93

1. Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục có nhiệm vụ cố vấn Chánh Phủ soạn thảo và thực thi chánh sách văn hóa giáo dục.

Một Lâm Viện Quốc Gia sẽ được thành lập.

2. Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.

3. Các dự luật liên quan đến văn hóa giáo dục có thể được Hội Ðồng tham gia ý kiến trước khi Quốc Hội thảo luận.

ÐIỀU 94

1. Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục gồm:

- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.

- Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức văn hóa giáo dục công và tư, các hiệp hội phụ huynh học sinh đề cử.

2. Nhiệm kỳ của Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục là bốn (4) năm.

3. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục.

Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội

ÐIỀU 95

1. Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về những vấn đề kinh tế và xã hội.

2. Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.

3. Các dự luật kinh tế và xã hội có thể được Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội tham gia ý kiến trước khi Quốc Hội thảo luận.

ÐIỀU 96

1. Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội gồm:

- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.

- Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức công kỹ nghệ, thương mại, nghiệp đoàn, các hiệp hội có tánh cách kinh tế và xã hội đề cử.

2. Nhiệm kỳ Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội là bốn (4) năm.

3. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng Kinh Tế Xã Hội.

Hội Ðồng các Sắc Tộc

ÐIỀU 97

1. Hội Ðồng các Sắc Tộc có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số.

2. Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Ðồng các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.

3. Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội Ðồng các Sắc Tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc Hội thảo luận.

ÐIỀU 98

1. Hội Ðồng các Sắc Tộc gồm có:

- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.

- Hai phần ba (2/3) hội viên do các Sắc Tộc Thiểu Số đề cử.

2. Nhiệm kỳ Hội Ðồng các Sắc Tộc là bốn (4) năm.

3. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Ðồng các Sắc Tộc.
    CHƯƠNG VII: CHÁNH ÐẢNG VÀ ÐỐI LẬP
ÐIỀU 99

1. Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.

2. Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.

ÐIỀU 100

Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

ÐIỀU 101

Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.

ÐIỀU 102

Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.
    CHƯƠNG VIII: TU CHÍNH HIẾN PHÁP
ÐIỀU 103

1. Tổng Thống, quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay quá bán (1/2) tổng số Nghị Sĩ có quyền đề nghị tu chính Hiến Pháp.

2. Ðề nghị phải viện dẫn lý do và được đệ nạp tại văn phòng Thượng Nghị Viện.

ÐIỀU 104

Một Ủy Ban lưỡng Viện sẽ được thành lập để nghiên cứu về đề nghị tu chính Hiến Pháp và thuyết trình trong những phiên họp khoáng đại lưỡng Viện.

ÐIỀU 105

Quyết định tu chính Hiến Pháp phải hội đủ hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ.

ÐIỀU 106

Tổng Thống ban hành đạo luật tu chính Hiến Pháp theo thủ tục quy định ở Ðiều 44.

ÐIỀU 107

Không thể huỷ bỏ hoặc tu chính điều một (1) và điều này của Hiến Pháp.
    CHƯƠNG IX: ÐIỀU KHOẢN CHUYỂN TIẾP
ÐIỀU 108

Hiến Pháp bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày ban hành và Ước Pháp tạm thời ngày mười chín tháng sáu năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm (19.06.1965) đương nhiên hết hiệu lực.

ÐIỀU 109

Trong thời gian chuyển tiếp, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đại diện Quốc Dân trong phạm vi lập pháp.

1. Soạn thảo và chung quyết:

- Các đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện.

- Cá đạo luật tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát Viện.

- Các quy chế chánh đảng và báo chí.

2. Phê chuẩn các Hiệp Ước.

ÐIỀU 110

Kể từ khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đảm nhiệm quyền Lập Pháp cho đến khi Quốc Hội pháp nhiệm một (1) được triệu tập.

ÐIỀU 111

Trong thời gian chuyển tiếp, Uûy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Uûy Ban Hành Pháp Trung Ương lưu nhiệm cho đến khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức.

ÐIỀU 112

Trong thời gian chuyển tiếp, các Tòa Aùn hiện hành vẫn tiếp tục hành xử quyền Tư Pháp cho đến khi các định chế Tư Pháp qui định trong Hiến Pháp này được thành lập.

ÐIỀU 113

Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) sẽ lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức và tuyên bố kết quả cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1).

ÐIỀU 114

Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng Thống có thể bổ nhiệm các Tỉnh Trưởng.

ÐIỀU 115

Cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống phải được tổ chức chậm nhất sáu (6) tháng kể từ ngày ban hành Hiến Pháp này.

ÐIỀU 116

Cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp, việc tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát.
    Chủ Tịch Ủy Ban Thảo Hiến
    ÐINH THÀNH CHÂU
Viện phải được thực hiện chậm nhất là mười hai (12) tháng kể từ ngày Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức.

ÐIỀU 117

Các cơ cấu khác do Hiến Pháp qui định phải được thiết lập chậm nhất là hai (2) năm kể từ ngày Quốc Hội pháp nìệm một (1) được thành lập.

Bản Văn Hiến Pháp này đã được Quốc Hội chung quyết trong phiên họp ngày 18 tháng ba năm 1967.
    Sài gòn, ngày 18 tháng 3 năm 1967
    Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến
    PHAN KHẮC SỬU