Saturday, February 21, 2009

SỨC MẠNH CHỐNG BẮC XÂM - ÐỗTháiNhiên

Ðỗ Thái Nhiên

Có thể nói được rằng: lich sử Việt Nam là lịch sử chống xâm lược Trung Quốc. Mặt khác, chính lịch sử chống Bắc xâm của dân tộc Việt Nam đã là những bức tranh hoành tráng giúp thế giới thấy được lòng yêu nước vô song của dòng giống Lạc Hồng. Hai Bà Trưng, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Huệ... là những thanh âm vang vọng muôn đời rằng hàng rào phòng thủ bao quanh đất nước Việt Nam chính là lòng yêu nước và rằng không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác, nam nữ, mọi người Việt Nam đều yêu nước nồng nhiệt. Câu hỏi được đặt ra là: Liệu chừng có sự khác biệt hay không giữa lòng yêu nước của người Việt xưa và người Việt nay?

Phát âm hai chữ yêu nước rất dễ. Dùng chính xương máu của mình để biểu lộ lòng yêu nước không phải là chuyện đơn giản. Yêu nước phải có sức mạnh. Sức mạnh của một dân tộc được qui định bởi hai yếu tố: tinh thần và vật chất.

Ðời sống thể chất của người dân sẽ lớn mạnh nếu trẻ em không bị nuôi dưỡng bởi sữa pha melamine hoặc sữa giả chỉ có dưới 2% chất đạm (Tin báo chí quốc nội: Từ 08/2008 cho đến nay 02/2009 sữa giả bị khám phá nhưng vẫn tràn ngập thị trường Việt Nam, CSVN bất động). Câu chuyện về sữa dành cho trẻ em chỉ là sự nhấn mạnh: đời sống thể chất của người dân chỉ đươc chăm sóc hợp lý trong trường hợp nhà cầm quyền không thối nát.

Ðời sống tinh thần hay nói rõ hơn, lòng yêu đồng bào, yêu nước của người dân chỉ cất cánh bay cao nếu người dân được sinh sống trong một môi trường văn hóa truyền thống và lành mạnh. Muốn vậy văn hóa phải được rao giảng từ giáo dục học đường và giáo dục truyền thông xã hội. Cả hai nguồn cội giáo dục trọng yếu kia đều bị què quặt dưới ách cai trị của nhà cầm quyền phi chính thống: CSVN.

Năm 1954 Miền Bắc Việt Nam, sau đó năm 1975 toàn thể Việt Nam bị tràn ngập bởi một hình thái văn hóa quái dị: tham ô và hối lộ được nâng lên hàng phong tục. Khi nhà nước muốn cướp đất của dân thì lập tức đất của dân biến thành công viên cây xanh. Sau đó chẳng bao lâu công viên cây xanh trở thành đất làm nhà cho cán bộ thống trị.

Khi nhà nước muốn “ổn định chính trị” thì lập tức nhà riêng của những công dân yêu chuộng tự do dân chủ bị bôi trét bởi khối lượng lớn phân người pha trộn dầu nhớt. Hành động pha trộn kia nhằm làm cho công việc tẩy rửa mùi xú uế cực kỳ khó khăn. (Xin tham khảo hồ sơ Cụ Hoàng Minh Chính và nhà văn Trần Khải Thanh Thủy).

Khi CSVN muốn bảo vệ “uy tín” của đảng thì tội nhận hối lộ 2 triệu 600 ngàn Mỹ Kim của một công ty Nhật Bản lập tức biến thành tội cho thuê công ốc để bỏ túi riêng 70.000 Mỹ Kim.

Sau nhiều thập niên ngụp lặn trong văn hóa đá cá lăn dưa như vừa mô ta,Ư dân tộc tình và dân tộc tính của một số người Việt quốc nội đã có những thoái trào nào chăng? Câu trả lời nằm trong các thảm cảnh điển hình sau đây:

Thảm cảnh một: Ngày 1 tháng Giêng/2009, nhà cầm quyền Hà Nôi long trọng mở lễ hội Hoa Xuân 2009. Sau giờ khai mạc chẳng bao lâu, người Hà Nội, đặc biệt là đông đảo giới trẻ Hà Nội, đã thô bạo nhảy vào hội hoa. Người bẻ cành hoa, kẻ ôm nguyên chậu cây kiểng, mạnh ai nấy cướp hoa, trộm lá. Họ hiên ngang hành động như hội hoa bỗng nhiên hiện ra ở chốn rừng xanh không người. Chỉ thoáng chốc hoa chưa kịp nở đã vội tàn. Nhìn cảnh hội hoa bi tấn công tàn tệ có người thở dài cho rằng văn hóa Hà Nội ngày nay đang bị đè bẹp bởi “Văn hóa của bầy ruồi”.

Một khi quần chúng phải ứng xử với nhau và với xã hội bằng văn hóa của bầy ruồi làm gì quân chúng kia còn có được ý thức yêu nước?

Thảm cảnh hai: Tin từ Vietnamnet, báo điện tử của CSVN, cho biết: tối ngày 20/01/2009, trên quốc lộ (I), xe vận tải mang bảng số 29z-0495, chở gỗ tràm theo hướng Bắc Nam, khi tới xã Kỳ Ðồng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã đâm thẳng vào một xe chạy ngược chiều. Xe này chở trái cây mang bảng số 34l-2265. Tai nạn xảy ra làm hai tài xế cùng hai phụ xe bị thương rất nặng. Xác người bị thương, trái cây hòa với máu văng tung tóe trên quốc lộ (I), tạo thành cảnh tượng tan nát đến rợn người. Ngay khi tai nạn vừa xày ra, dân chúng từ các làng xã chung quanh vội vàng kéo tới. Thế nhưng thay vì cấp cứu những người bị thương, đám dân chúng kia chỉ biết cướp trái cây, mang chạy về nhà. Ðồng bào không thương yêu đồng bào. Làm gì có sự việc đồng bào yêu nước?

Thảm cảnh ba: Tin từ Hà Nội cho biết ngày 05/02/2009, lúc 04 giờ sáng trạm kiểm dịch Hà Ðông đã bắt giữ một xe vận tải chuyên chở 1500 gà vịt với giấy kiểm dịch bị cạo sửa. Vì vậy nhà cầm quyền thú y quyết định tiêu hủy số gà vịt vừa kể. Buổi chiều cùng ngày, 30 nhân viên y tế mang số gia cầm bị bắt tới bãi cát Hồng Vân, Thường Tín để thực hiện lệnh tiêu hủy. Khi nhân viên hữu trách bắt đầu ném gà vịt xuống hố và châm lửa hỏa thiêu thi dân chúng địa phương ào ạt nhảy vào cướp gà vit. Ngay cả khi 20 lít xăng đã đổ xuống hố và châm lửa, dân chúng vẫn nhảy xuống hố để cướp gà vịt. Có người bỏ gia cầm cướp được vào bao bố. Có ngừơi nhảy xuống hố ném gia cầm ngược lên miệng hố để cho người nhà chụp bắt. Có người leo lên xe chở gà vịt và lái xe ra giữa bãi cát để hành động cướp giật được thực hiện dễ dàng hơn. Kết quả chỉ có khoảng 300 gà vịt bị tiêu hủy 1200 con còn lại chạy vào bụng quần chúng địa phương.

Bản tin về vụ cướp gà ngay giữa huyện Thường Tín, Quận 10 Hà Nội cho thấy một số người Hà Nội ngày nay chủ trương thà ăn gà vịt bệnh còn hơn sống trong đói khổ.

Ðứng giữa tình huống người dân quyết định “Vì vịt quên mình, vì gà bỏ mạng”, nhóm chữ “Vị quốc vong thân” nghe thật là mơ hồ và xa lạ!

Chỉ trong vòng 36 ngày, Miền Bắc Việt Nam đã bộc lộ ba thảm trạng nói lên ba tử điểm của văn hóa. Một là người dân phủ định giá trị của đời sống xã hội. Hai là người dân chỉ yêu trái cây vấy máu chứ không xót thương đồng bào lâm nạn. Ba là người dân xem miếng thịt gà H5N1 quan trọng hơn mạng sống của chính mình.

Ðọc đến đây hẳn nhiên đảng CSVN sẽ lớn tiếng tố cáo bài viết này là bài viết có mục đích “Nói xấu người Việt Nam”. Chẳng ai có quyền lợi gì khi phải làm cái công việc bị gọi là “Người Việt nói xấu người Việt”. Vấn đề không là nói xấu hay nói tốt. Vấn đề chính là những tin tức được viện dẫn là những tin tức tuyệt đối chính xác. Vấn đề chính là muốn trị bệnh, bệnh nhân phải nói thật, nói rất thật cho bác sĩ biết mọi chi tiết về diễn tiến của bệnh trạng.

Nói thật như thế kia không có nghĩa là bệnh nhân đã “nói xấu” cơ thể của chính đương sự. Một người muốn trị bệnh nhưng lại né tránh nói về bệnh lý của mình, người đó chẳng khác nào loài chim đà điểu. Có truyền thuyết cho rằng chim đà điểu trốn bảo cát bằng cách cắm đầu vào những đống cát. CSVN hãy từ giã bộ óc của chim đà điểu, hãy bình tĩnh đối diện với hiện tượng “văn hóa của bầy ruồi”.

Mang ba tin tức về tử điểm của văn hóa cộng với những tin tức về đời sống cơm áo của người dân đặt cạnh những tin tức về ải Nam Quan, thác Bản Giốc, về Hoàng Sa, Trường Sa, vể bauxite Tây Nguyên ... một người dầu lạc quan tới đâu cũng không thể phủ nhân sự thực rằng lịch sử Viêt Nam hiện đang chìm sâu trong đêm đen mênh mông và bất tận. Trong đêm đen kia đi tìm sức dân để chống ngoại xâm Trung Quốc quả là việc làm của một kẻ nhảy xuống đáy giếng để tìm đường tiếp cận với mặt trăng. Sức dân được trình bày như một tổng hợp của hai yếu tố tinh thần và thể chất. Tuy nhiên, không người nào không nhận biết rằng: ngày nào “văn hóa của bầy ruồi” còn tồn tại ngày đó sức dân chỉ là sức sống héo mòn của những người bị bệnh liệt kháng. Liệt kháng tim óc là trọng tâm. Liệt kháng thể xác là hệ lụy. Vì vậy vấn đề tiên quyết là sự phục hồi dân tộc tình, dân tộc tính. Phục hồi văn hóa Việt. Câu hỏi cần nêu lên là: Làm thế nào để có thể xác nhận đâu là nguyên nhân của sự việc văn hóa Việt Nam biến đổi thành văn hóa của bầy ruồi? Câu trả lời nằm ở bài toán trừ.

Thực vậy, cùng là người Việt Nam tại sao người Việt ở Nam vỹ tuyến 17 (gọi tắt là người Nam) lễ độ và lịch sự hơn rất nhiều lần so với người Việt sanh ra và lớn lên ở bắc vỹ tuyến 17 (gọi tắt là người Bắc)?

Xin thưa rằng: 1975 trừ đi 1954 chúng ta có đáp số là 20 năm.

Nói rõ ra: Người Bắc hơn người Nam 20 năm ngụp lặn trong guồng máy giáo dục của đảng CSVN. Ðó là lý do giải thích tại sao người Bắc “dữ dằn” hơn người Nam.

Không còn nghi ngờ gì nữa, giáo dục Marx Hồ chính là cội nguồn sản sinh ra “văn hóa của bầy ruồi”. Muốn phục hồi văn hóa Việt, muốn phục hồi sức dân để đương đầu với Bắc xâm, người Việt Nam trong cũng như ngoài nước không còn chọn lựa nào khác hơn là cùng nhau nỗ lực đẩy đảng CSVN rơi vào hố đào thải của lịch sử./.

Ðỗ Thái Nhiên
(http://www.vietvusa.com)


Cali Today phỏng vấn Kiêm Ái v/v recall Madison Nguyễn

Trả lời câu hỏi của nhật báo Cali Today:

NÊN HAY KHÔNG NÊN RECALL MADISON NGUYỄN?

Kiêm Ái xin trả lời: Trước hết, xin kính chào quý vị khán thính giả của hệ thống truyền thông Cali Today, kính chào anh Nguyễn Xuân Nam.

Khi đặt vấn đề recall hay không, người ta thường trả lời những câu hỏi:

- Nghị viên Madison Nguyễn đã làm gì mà phải recall?

- Tại sao người Việt lại recall một người Việt đầu tiên tại San Jose vào được Hội Đồng Thành Phố (HĐTP)?

- Nghị viên là ai? Câu trả lời ngắn gọn là người đại diện cho cư dân trong một khu vực, với Madison Nguyễn là khu vực 7. Nói cách khác là người (lắng nghe, tìm hiểu những nguyện vọng, nhu cầu của người dân và tranh đấu, thực hiện, đáp ứng những nguyện vọng và nhu cầu ấy), chứ không phải là người cai trị dân chúng. Nghị viên Madison đã không phân biệt được điều này, hay là bà Madison đã cố tình lợi dụng chức vụ để cai trị dân chứ không là người đại diện cho dân.

Việc đầu tiên để đi đến kết luận Madison Nguyễn cai trị dân là kể từ khi đắc cử, bà đã không sinh hoạt với cử tri (để tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu cũng như nguyện vọng của họ).

- Cho đến khi được thành phố chấp thuận một ngân khoản 2.75 triệu Mỹ kim để lập một Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng (TTSHCĐ), bà ta cũng không thèm cho cộng đồng Việt Nam nói chung và cử tri khu vực 7 nói riêng biết chuyện này. Trái lại: bà ta đã trao trọn dự án này để bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi toàn quyền thực hiện. CĐVN chỉ được biết khi Madison Nguyễn ra thông báo mời đồng bào tham dự buổi tiệc gây quỹ và ra mắt Ban Quản Trị (còn gọi là Ban Đại diện Cộng Đồng) xây dựngTTSHCĐ. Trước sự việc này, (để trả lời và giải thích thắc mắc cho đông đảo Hội đoàn, đồng hương Việt Nam), Ban Đại Diện CĐVN đã mở phiên họp khoáng đại, mời Madison Nguyễn đến họp và giải thích. Khi được hỏi tại sao không cho CĐVN biết, bà ta nói rằng: Vì nếu cho CĐVN biết thì phạm luật (!) còn giao trọn gói để bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi thực hiện dự án với cấp khoản gần 3 triệu mỹ kim thì “Vì năm ngoái khi cháu ra ứng cử, bác sĩ Ngãi đã giúp cháu rất nhiều!”. Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi có khả năng xây dựng một TTSHCĐ hay không? Câu trả lời là KHÔNG! Bác sĩ Ngãi đã đứng ra xây dựng một Vườn Truyền Thống Việt, có trong tay hơn 5 triệu Mỹ kim, nhưng sau một thời gian dài, tiêu mỗi năm 150 ngàn dollars, cho đến hôm nay, cái Vườn Truyèn Thống Việt vẫn chỉ là một đám đất hoang trồng cỏ dại. Nói rằng Madison lấy quyền lợi của cử tri để phục vụ phe đảng của bà ta không oan chút nào. Khi Madison Nguyễn nói trao dự án này cho bác sĩ Ngãi để đền ơn vì đã giúp bà ta trong cuộc tranh cử là bà ta đã khinh miệt cử tri, dù bác sĩ Ngãi có cho bà ta bao nhiêu triệu bạc, đã chạy theo bà 24/24 giờ để giúp đỡ bà ta đi nữa, nếu cử tri không bỏ phiếu cho bà ta thì làm sao đắc cử? Giữa bác sĩ Ngãi và cử tri khu vực 7 nói riêng, Cộng Đồng Việt Nam (CĐVN) nói chung, ai là người đích thực làm ơn cho bà, đưa bà vào chức vụ nghị viên Khu Vực 7? Thế mà bà lấy quyền lợi của cử tri trả ơn cho bác sĩ Ngãi. Một sự bất công mà ai cũng thấy rõ.

Vấn đề “lợi dụng chức vụ để phục vụ bè phái” của Madison Nguyễn còn được lập lại một lần nữa trong vụ Little Saigon. Qua những emails trao đổi giữa bà Madison Nguyễn và văn phòng HĐTP, bà Helen de Runa, chúng ta thấy nghị viên Madison Nguyễn đã âm thầm cùng ông Tăng Thành Lập vạch kế hoạch từ A tới Z, từ kiểu các monuments cho đến các lá phướn, nhất là việc đặt tên cho khu được mệnh danh là “để vinh danh cộng đồng Việt Nam”. Và cũng như lần trước, Madison Nguyễn đã cố tình dấu nhẹm vụ này, không cho cử tri khu vực 7 và CĐVN biết, bằng cớ là Madison Nguyễn đã gởi email hỏi văn phòng thành phố “nếu ông Tăng Thành Lập chịu hầu hết phí tổn thì có cần một buổi hearing không?” Khi được cho biết là PHẢI CÓ HEARING, Madison Nguyễn đã không thông báo cho CĐVN cũng như truyền thông báo chí biết. Buổi hearing đó chỉ có ông Tăng Thành Lập và 2 ủng hộ viên của bà ta. Khi ông Nguyễn Ngọc Tiên hỏi tại sao chọn tên cho khu vực thương mại để vinh danh người Việt mà không hỏi ý kiến người Việt? Madison Nguyễn đã hỏi ngược lại: Tại sao các chú, các bác trong CĐ không đến họp để nêu ý kiến và một khi HĐTP đã quyết định thì không thể sửa chửa được. Nói năng ngang ngược như vậy là tư cách của Madison Nguyễn!

Câu hỏi được đặt ra một lần nữa, có phải Madison Nguyễn đã lợi dụng cộng đồng Việt Nam để phục vụ cho bè đảng của cô ta không? Câu trả lời là CÓ với những bằng chứng cụ thể như trên đã chứng minh.

Nghị viên là người thi hành nguyên vọng của dân chúng, dĩ nhiên là phải những nguyện vọng đó phải chính đáng. Vậy chúng ta xét xem ý muốn đặt tên Little Saigon cho một khu vực để vinh danh người Việt có chính đáng không?

Về mặt tiêu cực, đổi từ tên Vietnam Town (y hệt như tên cơ sở đang xây cất dở dang của Tăng Lập) qua tên Little Saigon có thiệt hại gì cho ai không? Không, nhất là khi 2 tên này còn nằm trên lý thuyết, ngoại trừ làm trái ý của ông Tăng Thành Lập. Về vật chất thì tốn kém tiền bạc, mỹ quan, vệ sinh, an ninh v.v… không có gì đáng nói. Vậy thì một bên là ông Tăng Thành Lập muốn, một bên là 10 ngàn người, hay nói rõ hơn 7 ngàn cử tri khu vực 7 muốn với “giấy chứng nhận, với chữ ký của họ”, một người khách quan, thậm chí một đứa con nít cũng biết là nên chọn tên nào, thế mà Madison không biết, hay không cần biết. Câu hỏi quan trọng được đặt ra là tại sao một vị dân cử lại dứt khoát bỏ cử tri để phục vụ một cá nhân? Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi còn có chút công lao “giúp cháu rất nhiều”, còn ông Tăng Thành Lập có công gì mà Madison Nguyễn bỏ luôn bổn phận đại diện dân, bất chấp cả tương lai tái cử của mình để binh vực cái tên do Tăng Thành Lập đặt?

Về mặt tích cực, ý nghĩa của 2 cái tên có gì khác biệt? Vietnam Town có nghĩa là một thành phố Việt Nam tại Hoa Kỳ, tại San Jose, còn Little Saigon có nghĩa là hình ảnh thủ đô Saigon của VNCH tại Hoa Kỳ. Bất cứ thành phố nào của Việt Nam ở nội địa cũng không còn là của Việt Nam đích thực nữa, mà của người Cộng Sản, dân Việt Nam chỉ là kẻ bị trị, y hệt như Việt Nam bị Pháp cai trị ngày xưa, còn hơn thế nữa. Hai chữ Việt Nam đã bị Cộng Sản lợi dụng, toàn dân Việt Nam đã bị Việt Cộng lợi dụng để ăn nói với quốc tế chứ thực ra “chủ nhân ông” Việt Nam là Cộng Sản. Trong phiên họp khoáng đại của CĐVN tại trường Yerba Buena, giám sát viên (nay là Phó thị trưởng Milpitas), Pete McHugh đã phát biểu: "Không thể lấy tên Khu Thương Mại Việt Nam, vì tên Việt Nam bao gồm cả những người đã đánh chúng ta, những người đã từng xóa tên Saigon”. Người Việt bỏ nước ra đi đã chối bỏ cái chế độ cai trị Việt Nam của Cộng Sản. Do đó, khi nghe Tăng Thành Lập và Madison Nguyễn đạt được “danh hiệu Việt Nam Town” là báo chí Việt Cộng đã ca ngợi.

Little Saigon là hình ảnh thủ đô Saigon của Việt Nam Cộng Hòa thu nhỏ lại, tượng trưng cho chế độ VNCH, là một chế độ tự do dân chủ. Người Pháp thường hay dùng chữ “Ile de France” đặt tên cho những chiếc tàu du lịch, những nhà hàng hay một khu vực nào đó, như gần đây họ đã xây dựng một khu “Ile de France ở Thiểm Tây ben Tàu, trong đó “tất cả đều là Pháp”. Nghị viên Madison hiểu rất rõ Little Saigon tượng trưng cho thủ đô VNCH nên cô đã phát biểu với ký giả Joshua Molina của San Jose Mercury News: Little Saigon có hàm ý chống Cộng! Cũng vì hiểu rõ ý nghĩa này nên bà Madison đã quyết tâm loại nó cho bằng được.

Sau 30.4.1975, Hoa Kỳ nhận cho người Việt Nam định cư trên đất nước họ với danh nghĩa tị nạn Cộng Sản. Hơn 30 năm qua, người Việt tại đây vẫn trung thành với tư cách tị nạn Cộng Sản, không chấp nhận Cộng Sản, vậy thì Madison Nguyễn đại diện cho ai mà tìm trăm phương ngàn kế, kể cả việc vi phạm luật pháp, những trò gian dối, lường gạt để bác bỏ tên Little Saigon hàm ý chống Cộng? Hơn nữa, tên Little Saigon cũng đã được nhiều nơi xử dụng. Gần đây nhất, San Francisco cũng đã được hội đồng thành phố này đặt tên theo nguyện vọng của dân chúng, nhất là người Mỹ gốc Việt.

Tư cách của Madison ra sao?

- Sau nhiều cuộc họp để trao đổi ý kiến giữa Cơ quan Tái Phát triển thành phố (RDA), Madison Nguyễn và Tăng Lập, chiều ngày 4.4.07, bà Helen de Runa thuộc cơ quan RDA gởi cho Madison một email gồm 10 điểm, trong đó đáng chú ý nhất là 2 điẻm:

- Khu vực sẽ được chính thức gọi là: Vietnamtown Business District.

- RDA sẽ cấp 100 ngàn cho dự án này.

Nhưng chỉ 46 phút sau, Madison Nguyễn đã trả lời – cũng bằng email cho bà Helen gồm 4 điểm, trong đó có điểm: “Danh xưng là Vietnam Town Busines District, tách rời 2 chữ Vietnam và chữ Town thì tốt hơn”. Thế mà trong phiên họp với cử tri khu vực 7 ngày 15.8.2007 Madison Nguyễn đã chối, cho rằng khu vực này chưa được đặt tên. Madison đã nói láo không ngượng mồm.

- Cũng trong buổi họp ngày 15.8.07, Madison khẳng định chỉ có ý kiến của cư dân và thương gia ở trên đường Story, giới hạn 1,000 feet về việc đặt tên mới có giá trị. Sau đó, Madison Nguyễn đã đề nghị và Cơ Quan Phát triển thành phố đã mở một cuộc thăm dò cư dân và thương gia “trong 1,000 feet” do Madison giới hạn, kết quả được Cơ Quan Tiá Phát Triển Thành Phố báo cáo trong buổi họp ngày 10.10.2007 như sau:

1. Little Saigon: 37.6%

2. Vietnamese American Business District: 13.7%

3. Không tên: 13.7%

4. Saigon Town: 12.8%

5. Vietnamese Business District: 10.3%

6. New Saigon Business District: 6.8%

7. Saigon Business District: 5.1%

Một người biết tự trọng chắc chắn phải chọn Little Saigon, nhưng Madison Nguyễn đã tìm cách khác để loại tên Little Saigon và dùng cái tên đứng chót là Saigon Business District. Ngày 15.11.2007, thị trưởng Chuck Reed, Phó thị trưởng Dave Cortese, và các Nghị Viên Madison Nguyễn, Sam Riccardo, và Judy Chriro mở cuộc họp báo tại City Hall thông báo: Saigon Business District là một tên đứng chót trong kết quả thăm dò của Cơ Quan Phát Triển Thành Phố, nhưng là một tên thích hợp để tránh gây chia rẻ trong cộng đồng!

Đây là một gáo nước dơ mà Madison Nguyễn tưởng rằng đã tạt vào mặt CĐVN, nhưng nó đã tát ngược trở lại vào mặt Madison và 4 người khác trong cuộc họp báo này. Điều này còn được chứng minh qua lời nói vô liêm sỉ của thị trưởng Chuck Reed: “Nhóm người đòi tên Little Saigon chỉ là một thiểu số to mồm!”

- Sự dàn dựng này dẫn đến kết quả trong phiên họp của thành phố đêm 20.11.2007, với số phiếu 8/3, HĐTP đã chập nhận đặt tên Saigon Business District. Nhưng sau đó, người ta phát giác ra rằng, nghị viên Madison Nguyễn đã vận động ngầm các đồng viện mà điển hình là nghị viên William Forest đã công khai thú nhận trên TV của ông Nguyễn Mạnh. Nghị viên Madison đã vi phạm luật Brown Act.

Phong Trào Cử Tri San Jose đòi dân chủ lập tức tố giác sự việc và kiện thành phố ra tòa án. Cả HĐTP hoảng hốt, luật sư của thành phố tuy phủ nhận sự việc, nhưng lại yêu cầu và được ông Chuck Reed và Madison chấp nhận qua một đề nghị (Memorandum) ngày 11.2.08 xin rút lại quyết định ngày 20.11.2007 bải bỏ cái tên Saigon Business District. Nếu không vi phạm luật Brown Act dễ gì Madison và Chuck Reed buông bỏ cái tên Saigon Business District? Vừa nói láo, vừa lươn lẹo.

- Với sự kiện “gấp rút chạy tội” của Madison Nguyễn và Chuck Reed như vậy, ai cũng đinh ninh là trong phiên họp tới, Little Saigon phải được HĐTP chấp nhận. Nhưng không, trong phiên họp ngày 4.3.2008, khi HĐTP đã nghe xong những lời phát biểu của dân chúng, chỉ còn bỏ phiếu để chọn tên Little Saigon như đề nghị của nghị viên Kansen Chu, thì nghị viên Sam Liccardo đã kêu đích dânh Lê Văn Hướng tức Henry Le lên diễn đàn trình bày Thỉnh nguyện thư mà Lê Văn Hướng cho rằng do 92 thương gia trong khu vực “1 ngàn feet trên đường Story” do ấn định của Madison Nguyễn, yêu cầu HĐTP đừng đặt tên gì cho khu vực này. Thế là Chuck Reed và Mdison căn cứ vào cái văn bản thổ tả này để bác bỏ đề nghị đặt tên Little Saigon do nghị viên Kansen Chu đề nghị. Nhưng, Lê Văn Hướng đã giả mạo chữ ký của các thương gia trong vùng. Lê Văn Hướng cho biết khi đi thu thập chữ ký này họ đã nói cho Madison biết. Đây là một âm mưu bỉ ổi nhất của Madison. Nó làm cho CĐVN xấu hỗ với các sắc dân khác vì đã có một đại diện vô liêm sỉ như Madison.

Sau khi đã dùng hết các thủ doạn cũng như quyền lực, vẫn không vùi dập được CĐVN, vẫn bị buộc phải tổ chức cuộc bầu cử bãi nhiệm Madison, thị trưởng Chuck Reed và Madison lại dở trò khác: đề nghị HĐTP cho tất cả cử tri bầu bằng thư. Đề nghị này đã được bà Lee Price, lục sự của thành phố tthông báo cho anh Lê Lộc, Chủ tịch Ủy Ban Bãi Nhiệm Madison Nguyẽn và chính bà ngày, ngày 19.12.08 đã lên TV của ông Nguyễn Mạnh xác nhận vấn đề này do Chuck Reed và Madison đề nghị! Vừa bị phản đối, vừa thấy đây là một “sáng kiến” quái đản, nên sáng sớm ngày 20.12.08 cả 2 anh chị đã lên đài Quê Hương chối bay chối biến, cho đó chỉ là tin đồn. Chuyện khó tin nhưng có thật.

Trong một cuộc phỏng vấn của ông Nguyễn Mạnh trên TV Việt Nam, ông Hoàng Thế Dân đã cho rằng thị trưởng Chuck Reed và HĐTP sẽ vùi dập cuộc bãi nhiệm Madison Nguyễn, vì họ phải “ôm nhau mà sống”, họ sẽ dùng quyền lực để thực hiện mục đích. Đúng như vậy, Madison Nguyễn và Chuck Reed đã dùng những thủ đoạn bỉ ổi, dùng quyền lục trong tay, nay ra memorandum này, mai đưa memorandum khác, mốt ra memorandum khác nữa, cái sau phủ nhận cái trước, và đẻ ra âm mưu mới, nhưng rốt cuộc Chuck Reed phải chào thua trước chính nghĩa đấu tranh vì tự do dân chủ của CĐVN, do đó, ngày 15.2.09 vừa qua, Chuck Reed phải vứt bỏ quyền lực, đội mưa xuống đường đi từng nhà năn nỉ cử tri xin cho Madison được ngồi lại ghế nghị viên. Nhìn cảnh ông Chuck Reed và Madison chầu chực trước những cánh cửa không mở, nghe âm thanh chó sửa thay câu trả lời để cuối cùng cả 2 anh chị phải rút lui, dân chúng San Jose lấy làm tủi nhục cho ông thị trưởng của mình. Cái quyền lực của Chuck Reed bây giờ là quyèn lực đi xin. Bất cố liêm sỉ, bất chấp luật pháp, bất chấp hy vọng được tái đắc cử nhiệm kỳ tới để binh vực Madison, dùng quyền lực vùi dập không được nay phải xuống đường đi xin. Thật là:

“Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường” (Kiều)

Với con mắt của cử tri bất cứ sắc tộc nào, một thị trưởng quá tận tình với một người đàn bà như vậy, ai cũng cho là kỳ cục, là một hiện tượng bất thường. Trong tương lai, khó có ông thị trưởng nào theo đòi cái “nghiệp” này.

Đến đây thì câu hỏi của nhật báo Cali Today đã được trả lời: Vì Madison Nguyễn lợi dụng chức vụ nghị viên của mình để phục vụ bè đảng của bà ta, do đó:

RECALL MADISON NGUYỄN LÀ MỘT VIỆC NÊN LÀM, VÀ PHẢI LÀM.


Câu hỏi thứ 2 của Cali Today:

Vụ bãi nhiệm tốt hay xấu đối với CĐVN?

Trước mắt, bãi nhiệm Madison Nguyễn là một việc phải làm.

Những người binh vực cho Madison lập luận rằng bãi nhiệm Madison thì những người trẻ sẽ “không dám ra ứng cử”, tốn tiền của thành phố, sẽ bị các sắc dân khác coi thường chúng ta, chia rẽ cộng đồng, v.v… Đó là những điểm mà phe của Madison cho là “Xấu”. Đã có Tổng Thống bị ám sát, đã có thống đốc, nghị sĩ, dân biểu, nghị viên bị bãi nhiệm, nhưng người ta vẫn ra ứng cử. Người trẻ Việt Nam chắc cũng không ngoại lệ, Nhưng qua cuộc bãi nhiệm Madison Nguyễn, những người trẻ Việt Nam sau này có một bài học giá trị rất cao: nhận định đúng vai trò của một dân cử, vì quyền lợi của đa số cử tri, không phục vụ bè phái, cá nhân. Các sắc dân khác có coi thường chúng ta thật, nhưng họ coi thường chúng ta vì hành vi và tư cách của Madison Nguyễn và nếu chúng ta toa rập với bà nghị viên bất xứng này thì không những bị họ coi thường mà còn khinh bỉ chúng ta nữa. Trái lại, khi chúng ta đứng lên loại trừ Madison cũng đồng nghĩa với dứt bỏ những trò phản dân chủ cho thành phố, hôm nay cũng như về lâu về dài là một việc làm đáng ca ngợi, là đóng góp vào công cuộc bảo vệ và phát huy nền dân chủ HK ngày một tốt đẹp hơn, các sắc dân khác chắc chắn phải nhận ra điều đó. Vấn đề “làm tan nát cộng đồng” chỉ là sự vu khống. Đêm 20.11.2007, cả ngàn người đã rơi nước mắt tủi hận và thề siết chặt tay nhau đấu tranh cho dân chủ, cho Little Saigon. Các đoàn thể trước đây không hợp tác với nhau, nay đã kết hợp, đoàn kết. Trên dưới 10 chương trình phát thanh thuê mướn đài Quê Hương đã rút lui để hợp tác với CĐVN, chỉ vì đài Quê Hương ủng hộ Madison.

Như trên đã nói, loại một nghị viên bất xứng, nói láo không ngượng miệng, dùng thủ đoạn bỉ ổi dù người đó thuộc sắc dân nào cũng là việc tốt phải làm, nhất là trong cuộc bãi nhiệm này, Chuck Reed đã dùng quyền lực vùi dập cộng đồng Việt Nam qua thủ đoạn đưa tên Lê Văn Hướng với 92 chữ ký giả mạo để đàn áp người Việt, vi phạm luật Brown Act, đề nghị bầu cử bằng thư cho toàn thể cử tri khu vực 7 để có dịp gian lận, v.v… Nếu chúng ta loại được Madison Nguyễn là làm trong sạch guồng máy HĐTP hôm nay và ngày mai.

- Theo lời bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi thì Madison vừa mới tuyên thệ xong, chưa tổ chức được văn phòng đã ký cho Vườn Truyèn Thống Việt của ông ta nử triệu Mỹ kim, không do dự. Sau đó còn vận động thành phố cho thêm tiền, tổng cọng lên tới 1.8 triệu Mỹ kim nhưng cho đến nay thì cái Vườn này vẫn không có gì lạ. Madison đã đề nghị cho một đội banh tư nhân một triệu rưỡi Mỹ kim, nhưng HĐTP chỉ chấp thuận 8 trăm ngàn. Chưa kể trong cuộc tranh cử lần 2, Madison không có đối thủ, nhưng vẫn quyên được 62 ngàn Mỹ kim. Madison Nguyễn đã dùng phần lớn số tiền này để vào các cửa hàng, make up. Điều khôi hài là trong bảng chi tiêu ghi trả cho một “thông dịch viên” trong khi ông này khi ra làm chứng một vụ kiện lại phải nhờ đến thông dịch viên! Vì cố gắng loại cho bằng được tên Little Saigon, Madison và Chuck Reed đã tốn biết bao nhiêu tiền cho các cuộc bầu cử bãi nhiệm, các buổi họp, họp báo, v.v… chứng tỏ 2 anh chị này xài tiền thuế của dân vô tội vạ.

Có thể kết luận mặt xấu duy nhất là cuộc bãi nhiệm làm cho cộng đồng Việt Nam tốn nhiều tiền bạc, công sức, mồ hôi nước mắt và chút nữa thì tính mạng Lý Tống phải hy sinh. Nhưng bù lại, chúng ta đã mang lại cho cộng đồng VN nói riêng và thành phố nói chung những lợi ích đáng kể.

Câu hỏi thứ 2:

CHỈ ĐỊNH HAY TỔ CHỨC BẦU CỬ?

Kiêm Ái xin trả lời: Chỉ định hay tổ chức bầu cử, ông Chuck Reed cũng đều nhắm vào mục đích có lợi cho Madison mà hành động. Khi buộc phải tổ chức bầu cử bãi nhiệm Madison Nguyễn, ông Chuck Reed đã không tổ chức cùng một lúc chọn người thay thế. Kế hoạch này tiết kiệm được ngân sách, nhưng ông Chuck Reed sợ cử tri chọn ứng cử viên mới sẽ loại Madison một cách dễ dàng. Khi thấy nguy cơ Madison Nguyễn không thể qua khỏi ải bị bãi nhiệm, Chuck Reed đã thăm dò việc chỉ định người thay thế. Có lẽ việc làm này bị Madison Nguyễn “nhéo” nên ông ta bỏ ý định đó, dù có sự cấm đoán người được chỉ định không ra ứng cử lần tới. Bây giờ thì ông ta cương quyết tổ chức bầu cử sau khi Madison bị bãi nhiệm, tốn khoảng 1 triệu mỹ kim. Ai cũng biết kế hoạch này tạo cơ hội cho Madison ứng cử lần nữa, và nhằm vận động ảnh hưởng có lợi lớn lao cho Madison trong cuộc bầu cử Recall ngày 3/3 sắp tới, với hy vọng cử tri sẽ bỏ phiếu No vì sợ tốn thêm tiền, tốn công tổ chức bầu cử. Đã bao lần Chuck Reed vì binh vực Madison đã muối mặt làm nhiều điều mà một ông thị trưởng không thể hành động như vậy. Nhưng cũng bấy nhiêu lần ông thất bại, vì loại Madison Nguyễn là ưu tiên một của cử tri khu vực 7 và cũng của dân chúng San Jose. Do đó, NÊN CHỈ ĐỊNH NGƯỜI THAY THẾ hơn là tổ chức bầu cử. Đã tiết kiệm được ngân quỹ mà còn tránh cho dân chúng – không phải oán trach CĐVN mà oán trách ông Chuck Reed chỉ biết chạy theo “lợi nhuận” của Madison mà bất chấp sự “thiệt hại” cho thành phố.

Kiêm Ái xin kính chào quý khán thính giả và kính chào anh Nguyễn Xuân Nam.

Kiêm Ái


Về 2 Tấm Hình Của Phan Thị Kim Phúc (Napalm Girl) - Phạm Thắng Vũ

Phạm Thắng Vũ

Ngày 8 tháng 6 năm 1972 lúc quá trưa, chiến đấu cơ Skyraider thả bom Napalm xuống một vùng giao tranh tại Trảng Bàng, một quận lỵ thuộc phía Nam của tỉnh Tây Ninh. Trên con đường nhựa quốc lộ 1 (nay là quốc lộ 22) một bé gái trần truồng chạy (chung với vài trẻ em khác) tản cư trong dòng người dân về phía Củ Chi. Một phóng viên hãng tin AP người Việt trẻ tuổi tên Huỳnh Công Út (có tên là Nick Út, khi đó khoảng 21 tuổi) có mặt trên con đường nhựa (đứng chung với các chiến sĩ miền Nam VNCH) đã chụp được tấm hình của bé gái bị thương nầy. Tấm hình sau đó đã được văn phòng (chi nhánh đại diện AP tại thủ đô Sài Gòn) chuyển ngay về cho tổng hành dinh AP tại New York-USA và sau đó, tấm hình đã được in (và được in lại nhiều lần ở các quốc gia khác) với cái tên là Napalm Girl. Tấm hình đã nổi tiếng khắp thế giới về sự tàn phá khủng khiếp của bom Napalm và sự bi thương của chiến tranh tại miền Nam VNCH.

Cô bé trần truồng trong tấm hình nổi tiếng đó tên là Phan Thị Kim Phúc hiện đang sống (cùng chồng và con) tại Canada

Bom Napalm là loại bom gì và tại sao cô bé nầy đã bị cháy bởi loại bom đó? Napalm (trong tiếng Việt thường được gọi là bom Na Pan) là tên gọi của các loại chất lỏng dễ bắt cháy được sử dụng trong chiến tranh, thường là xăng được làm đông đặc. Thực ra, Napalm là chất làm đặc trong các loại chất lỏng này, loại chất mà khi trộn với xăng sẽ thu được một dạng keo cháy. Napalm được phát triển tại Hoa Kỳ trong thời Đệ Nhị Thế Chiến (bởi một nhóm các nhà hóa học ở Đại học Havard, đứng đầu là Louis Fieser) Napalm được Hoa Kỳ và các nước đồng minh sử dụng trong súng phun lửa và trong một số loại bom cháy làm tăng hiệu quả của chất lỏng cháy. Nó là chất được thiết kế cho các mức độ cháy cụ thể và độ bám dính vào vật thể khi cháy. Napalm được trộn với xăng theo các tỷ lệ nhất định để chúng đạt được điều đó. Khi được dùng trong bom, Napalm nhanh chóng hút hết Oxy trong không khí, đồng thời tạo ra một lượng lớn chất Carbon Monoxide (CO) gây ngạt thở. Cũng có khi bom Napalm được sử dụng trong chiến tranh để phát quang các vùng đất trống cho máy bay trực thăng hạ cánh để dễ dàng đổ quân tiếp viện. Quận lỵ Trảng Bàng trong thời kỳ đó (mùa hè năm 1972) là nơi giao tranh giữa các các đơn vị thuộc Công Trường 5 của Việt Cộng miền Nam(Mặt Trận Giải Phóng) với binh sĩ của Sư Đoàn 25 Bộ Binh Quân Lực VNCH. Binh sĩ Việt Cộng thường lẩn lút vào dân chúng miền Nam (dựa vào dân chúng và dùng dân chúng như là tấm bia) để quấy phá và đó là lý do mà cô bé Phan Thị Kim Phúc (9 tuổi) đã bị thương bởi bom Napalm nầy. Công trường 5 Việt Cộng khi khuấy phá vùng Trảng Bàng nầy là để hộ trợ cho đồng bọn cùng phe (quân chính quy Cộng Sản miền Bắc) trong cuộc chiến mùa hè năm 1972 tại các chiến trường chính khác ở Quảng Trị, Komtum và An Lộc (mà báo chí thường gọi là trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa). Ở nơi giao tranh nầy, Việt Cộng đã chiếm được một số khu vực trong vùng Trảng Bàng và cắt đứt quốc lộ 1 (thông thương từ Sài Gòn-Tây Ninh) khiến binh sĩ Sư Đoàn 25 Bộ Binh (căn cứ trú đóng tại Củ Chi-Hậu Nghĩa) được lệnh phải tái chiếm lại vùng Trảng Bàng. Dân lành trong vùng giao tranh (giống như trong tất cả các trận đánh trên khắp miền Nam VNCH) đều gồng gánh hàng hoá, dìu kéo thân nhân ... bỏ chạy về phía phe quân đội miền Nam VNCH. Đó cũng là hình ảnh của cô bé Phan Thị Kim Phúc trong ngày giao tranh hôm đó và cô đã gặp những người lính miền Nam VNCH cũng như phóng viên Huỳnh Công Út.

Nếu cô Phan Thị Kim Phúc bỏ chạy về phía phe Việt Cộng khi đó (giả dụ là vậy) thì đã không có tấm hình nầy và cô có khi đã chết (chắc chắn là vậy). Việt Cộng đời nào chúng chữa trị cho cô (họ lấy đâu ra phương tiện) thậm chí (tin đồn) cho là khi người chiến sĩ bên phe Việt Cộng (khi bị thương khá nặng) còn bị (đồng đội) bắn bỏ (cho rảnh tay, đỡ gánh nặng chăm sóc) và tránh hình ảnh người thương binh trong cặp mắt của dân chúng hậu phương trong vùng CS cai trị. Đó cũng là lý do tại sao có quá ít thương binh bên phía phe Việt Cộng miền Nam và CS miền Bắc (sau khi chấm dứt chiến tranh). Và, phóng viên phương Tây nào được phe Việt Cộng cho phép đi theo (trong các cuộc hành quân) để chụp hình.

Các máy bay ném bom Napalm lúc đó không rõ thuộc Không Lực Hoa Kỳ hay Không Quân miền Nam VNCH nhưng điều đáng để ý là khi Phan Thị Kim Phúc chạy về hướng các phóng viên, những người lính miền Nam VNCH thì cô đã được họ đưa ngay vào nhà thương quận lỵ Củ Chi (cách Trảng Bàng khoảng 15km) cứu chữa kịp thời. Sau 14 tháng điều trị và qua 17 lần giải phẩu da, cô Phan Thị Kim Phúc đã bình phục về nhà. Nhờ tấm hình Napalm Girl nầy mà phóng viên chiến trường của hãng tin AP Huỳnh Công Út (Nick Út) đã đoạt giải Pulitzer năm 1973 và cũng làm cho cô gái Phan Thị Kim Phúc nổi tiếng khắp thế giới.

Trên: Hình thật (Bà Phan Thị Kim Phúc dùng tấm hình nầy trong các buổi nói chuyện của bà)

Dưới: Hình giả

Ngay khi tấm hình Napalm Girl xuất hiện thì phe phía CS miền Bắc và Việt Cộng miền Nam cũng đã dùng tấm ảnh nầy trong việc tuyên truyền cho cái mà họ gọi là tội ác của bè lũ Mỹ-Nguỵ. Sau khi chiếm được miền Nam VNCH thì chính quyền CSVN đã đưa cô Phan Thị Kim Phúc đi học đại học. Trong khi những cậu bé, cô bé khác (có mặt trong tấm hình) như Phan thanh Tâm (12 tuổi, mặc áo trắng, anh ruột), Phan Thanh Phước (5 tuổi, chạy đàng sau, em ruột) và Hồ Văn Bơ, Hồ Thị Tính (bà con trong họ, đứng phía bên phải) không được họ ngó đến (vì không nổi tiếng như Phan Thị Kim Phúc). Năm 1986 cô Phan Thị Kim Phúc được chính quyền CSVN cho sang nước Cu Ba du học rồi cô lấy chồng (năm 1992) và trong chuyến bay từ Nga về (hưởng tuần trăng mật), máy bay ghé lại Newfoundland-Canada (để tiếp thêm xăng) thì cô và người chồng (tên Bùi Huy Toàn) rời khỏi máy bay để quyết định ở lại (xin tỵ nạn chính trị) luôn (và trở thành công dân Canada năm 1997). Cũng năm 1977 nầy, bà (đã có chồng) Phan Thị Kim Phúc là Đại Sứ Thiện Chí của tổ chức UNESCO-Liên Hiệp Quốc (Goodwill Ambassador). Bà Phan Thị Kim Phúc còn xuất hiện tại nhiều nơi (nhiều quốc gia) và được nhiều người nổi tiếng đón tiếp nữa. Đó là phần thưởng cho nỗi đau đớn vì bom Napalm trên cơ thể mà bà đã gánh chịu năm xưa.

Bà Phan Thị Kim Phúc và Ông Nick Út được Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị tiếp kiến

Bà Phan Thị Kim Phúc tại Luxemburg

Việc bà Phan Thị Kim Phúc nổi tiếng và được chính quyền CSVN ưu ái (rõ ràng họ còn lợi dụng được hình ảnh của bà mà ai cũng biết) như vậy mà sau cùng bà phải chọn con đường xin tỵ nạn chính trị tại Canada. Lý do tại sao bà cùng chồng quyết định làm như vậy thì tác giả bài viết nầy không phân tích ra ở đây mà chính là cùng với tấm hình nổi tiếng của bà (do Huỳnh Công Út (Nick Út) chụp) thì cũng đã thấy xuất hiện vài tấm hình khác ... được ghi chú hoặc trích dẫn là hình của Phan Thị Kim Phúc. Rồi lại có cả các đoạn Video Clip quay cảnh (hình mầu) cô bé Phan Thị Kim Phúc bị trúng bom Napalm bỏ chạy nữa. Trong 2 tấm hình, đối chiếu từng tấm một thì độc giả nào tinh mắt sẽ thấy có sự khác biệt giữa 2 cô bé Phan Thị Kim Phúc thật và giả. Cô Phúc thật khóc than thảm thiết (bị dính bom Napalm và trong khung cảnh giao tranh thật) và cô Phúc giả (không khóc, mặt tỉnh bơ dù được hóa trang những vết lột da trên người). Vị trí chạy của các cô, cậu bé trong 2 tấm hình cũng khác biệt (để ý phía cô bé mặc quần đen Hồ Thị Tính). Còn Video Clip thì người đàn bà bồng con (bà nầy là bà con ruột của Phan Thị Kim Phúc) thì người xem dễ dàng thấy vẻ ráo hoảnh, không một chút đau xót nào lộ trên khuôn mặt của bà (khi trên tay đang bế cháu bé mà da bị lột từng mảng). Số phận cháu bé nầy không được may mắn như cô bé Phan Thị Kim Phúc dù là chịu nhiều đau đớn hơn. Cũng không thấy cô bé Phan Thị Kim Phúc kêu gào: Nóng quá ... Nóng quá như chúng ta đã biết .

Hình thật của người đàn bà bế con nhỏ trong tay. Trông gầy hơn so với người trong Video Clip

Tại sao lại có tấm hình Napalm Girl mới và Video Clip nầy? Ai làm ra chúng, khi nào và để dùng cho mục đích gì? Tác giả bài viết nầy cũng đã suy nghĩ và tạm đi đến một kết luận sau: Chắc chắn phóng viên Huỳnh Công Út (Nick Út) không thèm làm chúng vì ông đã quá nổi tiếng và đoạt giải Pulitzer rồi thì ông cần gì phải làm thêm một tấm giả thứ hai nữa. Bà Phan Thị Kim Phúc cũng không phải là tác giả (vì bà còn nổi tiếng hơn cả ông Nick Út nữa) . Cả hai người nầy (ông Nick Út và bà Phúc) cũng không phải là tác giả của Video Clip mầu kèm theo trong bài nầy (dù là có trộn với những cảnh chiến tranh khác vào). Tấm hình và Video Clip mới được dàn dựng (mà người ta thường gọi là rebuild hay edit lại) ở ngay nơi giao tranh cũ (khúc quanh trên đường lộ gần một Thánh Thất Cao Đài tại Trảng Bàng) . Cũng không phải những người thuộc phe phía chính quyền miền Nam VNCH vì tấm hình thật của Phan Thị Kim Phúc đã gây nhiều bất lợi cho họ trong cái nhìn của cộng đồng quốc tế tại thời điểm đó (năm 1972). Vậy tác giả là những người thuộc phe phía CSVN (còn ai trồng khoai đất nầy) vì họ có có phương tiện trong tay (như người, quân phục, vũ khí của binh sĩ miền Nam VNCH bỏ lại). Mục đích là để lưu giữ luận điệu tuyên truyền của họ: Quân đội miền Nam VNCH và quân đội Hoa Kỳ đã vô cùng tàn ác với dân lành trong thời chiến tranh 1954-1975.

YouTube - Vietnam Napalm

Video Clip mới về Napalm Girl Phan Thị Kim Phúc. Hãy để ý cô bé mặc áo trắng, quần đen trong Video Clip và trong tấm hình của Huỳnh Công Út chụp.

Chiến tranh đã lùi xa từ lâu. Việc (ai đó) tạo dựng tấm hình thứ hai và Video Clip đó để làm gì khi mà hầu hết người dân Việt muốn quên đi cảnh chiến tranh cũ mà lẽ ra đã có thể tránh được. Không biết ông Huỳnh Công Út (Nick Út) và bà Phan Thị Kim Phúc có biết đến tấm hình thứ hai và Video Clip nầy không?

Phạm thắng Vũ
Feb 21, 2009.


Friday, February 20, 2009

Đời Đời Nhớ Ơn quân cướp nước? - Ngô Nhân Dụng

Ngô Nhân Dụng

Tôi đi thăm La Phù Sơn ở tỉnh Quảng Ðông vào đầu Tháng Hai 2009. Trong sân trước Xung Hư Cổ Quán, một ngôi đền theo Ðạo giáo rất đông đảo khách thập phương, với những lư thắp nhang khổng lồ nghi ngút khói, một người Trung Hoa tò mò hỏi chúng tôi người nước nào. Khi biết chúng tôi là người Việt Nam, anh ta đã lớn tiếng nói, như giải thích cho những người Trung Hoa đứng chung quanh cùng nghe. Tôi nghe lỏm bõm, nhưng biết anh muốn nói rằng họ nên “hữu hảo” với ông già người Việt này. Vì các nước Miến Ðiện, Cao Ly, và Việt Nam cùng với Trung Quốc, bốn nước thực ra chỉ là một nước mà thôi, tất cả cũng như là đồng bào! Anh có dáng điệu mạnh bạo, quả quyết khi đưa tay giảng cho những người đang xúm lại lắng nghe. Nhưng khi nhìn tôi anh có đôi mắt sắc khiến tôi cảm thấy rờn rợn.

Ðúng là vào đời Ðường thì nước ta, Hàn Quốc, Tây Tạng, có lúc đã được nhập vào nước Trung Hoa hàng mấy thế kỷ. Nếu không có Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền, nếu không có Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, thì có thể biên giới Trung Quốc bây giờ lan tới tận Pleiku và Hà Tiên hoặc Xiêm Rệp! Người Quảng Ðông đã từng lập vương quốc Nam Việt khi văn hóa của họ còn khác hẳn người Hán, nhưng bây giờ họ hãnh diện là con dân của Trung Quốc. Nước Ðại Lý cũng là một quốc gia hùng cường, độc lập, cho tới thế kỷ 12 bị quân Mông Cổ xâm chiếm, từ đó người Bạch trở thành người Tầu. Nhưng rất khó giải thích cho người Trung Hoa hiểu rằng dân Việt Nam đã độc lập từ thế kỷ thứ 10, và nhóm người Việt này không bao giờ muốn được hơn một tỷ người Trung Quốc coi là đồng bào cả.

Mười năm trước, tôi đã có lúc thấy cảm giác rợn người giống như vậy, trong một chuyến đi thăm Quế Lâm. Một cô hướng dẫn địa phương đón chào nhóm du khách chúng tôi cũng hỏi thăm mọi người từ nước nào tới. Sau khi cho biết cả đoàn gốc đều là người Việt Nam, mắt cô sáng lên. “Việt Nam?” Cô hỏi, phát âm theo tiếng Việt chứ không gọi là “Duế Nàn” theo tiếng Tầu. Xác nhận rồi, cô bèn nhoẻn miệng cười rất tươi và cất tiếng hát, bằng tiếng Việt: “Việt Nam, Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông!” Giọng ca cô rất tốt và hát đúng giai điệu, phát âm tiếng Việt rõ từng chữ!

Nghe câu hát đầy thiện cảm của cô gái xinh đẹp và lịch duyệt đó, tôi cảm thấy ớn lạnh dọc đường xương sống. Nghe hãi thật. Núi liền núi, sông liền sông, đi mấy bước là tới! Có lẽ tôi thuộc loại người dễ xúc động quá nên mới có phản ứng như vậy. Nhưng có lẽ nhiều người Việt cũng sẽ cảm thấy thế sau mấy ngày đi qua các thành phố ở nước Trung Hoa thấy họ đầy những người là người, người đi nờm nợp, người bước ào ào, chen chân nhau trên lề đường, lách tránh nhau trên xa lộ, đông người quá. Và sau khi đã chứng kiến cảnh muôn ngàn người Trung Hoa làm việc, buôn bán, rán dầu cháo quẩy, đẩy xe, rao hàng, mặc cả, tiêu thụ, ăn uống trong nhà hàng, cười nói oang oang, ca hát, nhẩy múa, tập Thái Cực quyền khắp các chỗ đất trống ngoài công viên, bên bờ hồ, ngay ngã tư đường, khắp nơi. Ai cũng phải cảm thấy nước họ lớn quá, dân họ mạnh quá, và đông người quá, cảm thấy điều đó ngay trong da trong thịt muốn tức thở của mình! Nghĩ đến nước Việt Nam mình thì thấy người mình ít, dân lại nghèo, kinh tế còn chậm tiến hơn họ rất nhiều. Khi tai nghe một người Trung Quốc hát câu “núi liền núi, sông liền sông” đúng giọng y như người Việt, thấy hãi quá! Giá như có thêm núi, thêm sông ngăn cách xa hơn một chút, thì chắc yên tâm hơn!

Tôi đoán nếu có người Việt Nam nào sang Campuchia mà hát một bài đại ý, “Việt Nam, Cam Bốt, núi liền núi, sông liền sông” thì nhiều người Campuchia nghe cũng sẽ cảm thấy lạnh gáy, tự hỏi những người Việt này có “ý đồ” gì!

Khi Hồ Chí Minh còn sống, đảng Cộng Sản Việt Nam thân thiện với Cộng Sản Trung Hoa cho nên đã có những bài hát ca ngợi mối tình “trước là đồng chí, sau là anh em” giữa hai đảng, rồi kéo cả nước Việt Nam vào làm anh em hữu hảo với Trung Quốc luôn, di hưởng đến bay giờ.

Trong bài hát của Ðỗ Nhuận có những câu thân thiện, nghe còn rợn người hơn nữa: Bên sông tắm cùng một dòng - Tôi nhìn sang đấy, anh nhìn sang đây - Sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy cùng. Á a! Chung một ý, chung một lòng - Ðường ta đi rực mầu cờ cách mạng. Á a, nhân dân ta ca muôn năm: Hồ Chí Minh, Mao Trạch Ðông!”

Thử tưởng tượng người dân Việt ở Thanh Hóa hay Pleiku mà hát Á a như điệu Hồ Quảng, rồi nghĩ mình có ngày “tắm cùng một dòng sông” và “sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy” cùng với các đồng chí Trung Quốc ở Quảng Ðông, thì cũng hãi thật! Nếu tránh được thì ai cũng cố tránh! Bây giờ đảng Cộng Sản Trung Quốc dù không theo chủ nghĩa nào thì chắc họ cũng không bỏ ý muốn “núi liền núi, sông liền sông!”

Tôi xin xác nhận trong lòng không nuôi mối thù oán nào đối với người Trung Hoa. Trái lại, đi thăm đất nước họ nhiều lần, chỉ vì tôi rất yêu văn hóa Trung Hoa, từ ông Khổng Tử đến các ông Ðỗ Phủ, Lý Bạch, Tô Ðông Pha, cũng như Chiêu Quân, Thúy Kiều. Trong chuyến đi vừa rồi tôi đã “gặp lại” Tô Ðông Pha ở Tây Hồ thành phố Huệ Châu, ở cây cầu Hội Tiên Kiều bên cạnh hồ Bạch Liên ở La Phù Sơn. Cả trong đường hầm với những hang động đào xuyên ngọn núi này, nơi các sư tổ đời xưa luyện công phu và thiền quán, cũng có tượng Tô Ðông Pha nữa! Mỗi lần, lại thấy như gặp cố nhân từ nhiều kiếp trước!

Nhưng người Việt Nam quý mến văn hóa Trung Hoa đến đâu cũng không quên được là phải giữ mình, không nên bất cẩn, nếu không dân mình sẽ thành dân Trung Quốc hết. Và khi chìm trong cái nước vĩ đại đó, cả dân tộc mình sẽ thành một nhóm thiểu số, một nhóm rất nhỏ, giống như người Hồi, người Bạch, người Choang, người Tây Tạng vậy.

Nhiều người Việt Nam thán phục nền văn minh Trung Hoa, chúng ta đã học hỏi được rất nhiều và sẽ còn học thêm nhiều nữa. Nhưng trên mặt chính trị, ngoại giao, thì không người Việt Nam nào không dè dặt, lo ngại khi nghĩ đến chuyện phải đối đầu với quốc gia vĩ đại này.

Một điều nguy hiểm là chính quyền nước đó hiện giờ là một nhà nước độc tài, họ không chịu trách nhiệm với dân chúng. Họ có thể hy sinh dân họ, vì những lý do không ý nghĩa, không bổ ích, mà không lo sẽ bị dân bỏ phiếu bất tín nhiệm. Thí dụ như cuộc chiến tranh Trung Việt năm 1979. Ðặng Tiểu Bình xua quân sang đánh Việt Nam, san thành bình địa những thành thị, những xóm làng, nhiều lần giết tập thể hàng trăm thường dân, chỉ vì muốn dậy cho đảng Cộng Sản Việt Nam một bài học về tội vong ân. Cuộc chiến kéo dài hai, ba tuần làm chết hàng chục ngàn người mỗi bên, cuối cùng không ích lợi gì cho nước Trung Hoa cả. Nhưng không một người Trung Hoa nào dám tỏ ra bất đồng ý kiến với nhà lãnh tụ cộng sản.

Ðứng ở địa vị người dân Trung Hoa thì nếu nước họ không do một đảng độc tài cai trị, nếu họ có quốc hội độc lập để kiểm soát Hành pháp, nếu có báo chí tự do phê phán nhà nước, thì chắc bao nhiêu binh lính của họ không phải bỏ mạng ở Việt Nam vào năm 1979, những cai chết vô ích. Cái hại của những chế độ độc tài là như thế. Cho nên trong lịch sử không thấy những nước theo chế độ dân chủ tự do lại gây chiến với nhau. Khi người dân được quyền phán xét và quyết định thì bao giờ dân cũng tìm cách tránh chiến tranh.

Cái hại của chế độ độc tài ở Việt Nam cũng giống hệt như ở Trung Quốc. Tại sao Ðặng Tiểu Bình muốn dậy Cộng Sản Việt Nam một bài học? Vì Lê Duẩn đã vong ân đối với Cộng Sản Trung Quốc thật. Sau bao nhiêu năm được Bắc Kinh viện trợ từ cây đinh, từ sợi chỉ đến nắm cơm sấy nuôi quân để xâm chiếm miền Nam Việt Nam, Lê Duẩn đã quay ngược lại, suy tôn Liên Xô là tổ quốc thứ hai, đoạn giao đến mức ghi vào hiến pháp gọi Trung Quốc là một kẻ thù truyền kiếp! Ðó là nguyên nhân chính gây ra tất cả những xung đột giữa hai nước sau đó, kể cả cuộc xâm lăng năm 1979. Nếu Việt Nam được sống trong một chế độ tự do dân chủ thì người dân không bao giờ cho phép chính quyền có những chính sách ngoại giao dại dột như vậy. Gây thù hận và làm mất thể diện một quốc gia lớn láng giềng là điều không thể tưởng tượng nổi. Một chính quyền độc tài đảng trị, khi họ chỉ cần theo ý đảng không cần hỏi đến ý dân, mới có những quyết định điên rồ, để đưa tới một cuộc chiến tranh tàn hại như cuộc chiến Việt Hoa vào Tháng Hai năm 1979.

Một điều đáng kinh ngạc là cũng chính đảng Cộng Sản Việt Nam đó, bây giờ lại đổi thái độ quay ngược chiều, không những kết thân với Trung Quốc mà còn hoàn toàn thần phục, quỵ lụy đến mức lố bịch đối với nước đàn anh cộng sản. Có chứng cớ hiển nhiên.

Ngày hôm qua trên Nhật Báo Người Việt đã đăng tin về cảnh những người Việt được dẫn đi thăm nghĩa trang “Long Châu, Thủy Khẩu Trung-Việt Liệt Sĩ Mộ Viên,” nơi chôn những người lính Trung Quốc chết khi sang đánh Việt Nam, và những người lính Việt Nam bị thương và bị bắt mang về Trung Quốc rồi chết ở đó nhưng không được trả xác về quê hương mình.

Chúng ta kính trọng những tử sĩ hy sinh vì quốc gia của họ, người Việt hay người Trung Quốc cũng thế. Dù họ làm theo lệnh chế độ nào chỉ huy, họ đều xứng đáng được tưởng niệm và ai điếu. Những ai đến biên thùy Pháp Ðức, đi thăm nghĩa trang chôn tử sĩ của hai đạo quân thù nghịch qua bao trận chiến tranh, đều có thể đến nghiêng mình trước những người lính đã hy sinh cho tổ quốc của họ.

Nhưng người Việt Nam khi đến thắp hương trên mộ những tử sĩ của quân đội Trung Quốc có thấy mình phải tỏ lòng “biết ơn” các chiến sĩ Hồng quân Trung Hoa đã sang đánh nước mình hay không? Chắc chắn là không.

Nhất là những người dân xã Ðề Thám, thuộc thị xã Cao Bằng. Hai thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn đã bị quân đội Trung Quốc “làm cỏ” trong hai tuần lễ xâm lăng. Ðài phát thanh BBC mới kể chuyện bà Hoàng Thị Lịch, năm nay 72 tuổi, đã chạy trốn khỏi nhà ở huyện Hòa An, Cao Bằng khi quân Trung Quốc đánh, trước đây 30 năm. Bà cho biết, 18 ngày sau khi quân Trung Quốc phải rút về, họ đi qua vùng bà ở, và họ đã bắt 43 thường dân, gồm những đàn bà, trẻ con, người già không chạy được, đem chém giết hết. Ngày hôm qua Nhật Báo Người Việt đã in bức hình tấm bảng ghi lại cuộc thảm sát này, chôn dưới chân một bụi tre ở xã Hưng Ðạo, huyện Hòa An. Trong tấm bảng ghi nguyên văn là “Quân Trung Quốc xâm lược dùng cọc tre, búa bổ củi, đập chết 43 phụ nữ và trẻ em, quăng xuống giếng nước.” Cảnh tàn sát thường dân không phải chỉ xẩy ra ở xã Hưng Ðạo, huyện Hòa An. Nơi nào quân Trung Quốc đi qua trong cuộc xâm lăng năm 1979 đều có thể diễn ra những cảnh như vậy.

Bên cạnh hình ảnh tấm bảng đó, hôm qua báo Người Việt in hình ảnh một vòng hoa ở nghĩa Trang Long Môn, với hàng chữ viết: “Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Xã Ðề Thám - Ðời Ðời Nhớ Ơn Các Liệt Sĩ Trung Quốc.”

Không tưởng tượng nổi! Nếu vì phép lịch sự khi viếng mộ, người ta có thể viết hai chữ “Kính Viếng” hoặc “Thương Xót” những người đã chết, dù họ từng là kẻ thù của dân tộc mình. Nhưng tại sao phải nói “Ðời Ðời Nhớ Ơn?” Ơn gì? Ơn cướp nước, ơn đốt nhà, phá cầu, phá đường, ơn tàn sát những thường dân vô tội hay sao?

Chúng ta biết rằng chính quyền một xã như xã Ðề Thám không bao giờ dám quyết định viết “Ðời Ðời Nhớ Ơn” những người lính Trung Hoa đã sang giết dân mình. Họ phải được lệnh của cấp trên. Hoặc ít nhất họ đã hỏi ý cấp trên trước khi đặt vòng hoa, và được khuyến khích viết những hàng chữ “Nhớ Ơn” như thế. Cấp trên nào? Cấp huyện? Cấp tỉnh? Không chắc những người ở những cấp này dám quyết định bắt dân chúng Việt Nam “Ðời Ðời Nhớ Ơn” những người lính đã đánh nước mình. Chỉ có những người chỉ huy trên cao nhất, là Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam mới có quyền quyết định những điều quan trọng như vậy.

Họ quyết định như vậy để làm gì? Có phải cũng vì những lý do giống như khi họ cho các công ty Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Việt Nam, mặc dù các chuyên gia người Việt đã yêu cầu ngưng để nghiên cứu lại ảnh hưởng trên môi trường, hay không?

Nhưng khi bán tài nguyên quốc gia cho nước ngoài một cách mù quáng thì cũng chỉ làm thiệt hại của cải vật chất mà thôi. Còn khi bắt người dân Việt Nam phải “Ðời Ðời Nhớ Ơn” những người lính Trung Quốc đã sang nước mình tàn sát người mình, thì đó là một hành đồng làm nhục cả một dân tộc, một mối nhục ngàn đời khó rửa sạch.

Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc có muốn người Việt mình phải cúi đầu chịu một mối nhục tập thể hay sao? Nếu là những người có học, chắc họ không làm việc đó. Hay là chính những người cầm đầu đảng Cộng Sản Việt Nam tự nguyện làm công việc nhục nhã này? Chỉ những người vô học mới có những hành động quỵ lụy ngu dốt như vậy.

Khi các ông Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng đi Trung Quốc, không biết các ông ấy đã được giới lãnh đạo Bắc Kinh hứa hẹn những gì mà họ nhẫn tâm bắt dân Việt Nam phải “Ðời Ðời Nhớ Ơn” đám quân xâm lược giết thường dân vô tội đó? Họ có được tặng những biệt thự ở gần Trung Nam Hải để về nghỉ hưu (khi cần sống lưu vong) hay không? Bắc Kinh có yêu cầu Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam lập đền thờ để ghi công ơn của Toa Ðô, Liễu Thăng, nữa hay không? Những ông đó cũng là những “liệt sĩ Trung Quốc” vào thế kỷ 13 và 15, họ cũng bị tử vong trong các hoàn cảnh giống như những “liệt sĩ Trung Quốc” đánh nước ta năm 1979 vậy!

Một chính quyền do dân bầu cử tự do không bao giờ dám làm những việc nhẫn tâm làm nhục dân nước mình đến mức bắt dân phải Ðời Ðời Nhớ Ơn quân xâm lược. Chính quyền nào làm như vậy sẽ bị dân bỏ phiếu đuổi đi ngay. Vì không một dân tộc nào lại chấp nhận sống nhục nhã.



Ngô Nhân Dụng


Bồ Tát, Bồ cạp, Bồ ... dao găm - Lê Minh Khôi

Lê Minh Khôi

Trong một chương trình xuất hiện trên đài SBTN mới đây, nhà tu Hoằng Trường đã có ít lời về nhà tu Nhất Hạnh như sau: “ Sư ông Nhất Hạnh là một Bồ Tát tại thế và chúng ta có thể đến với vị Bồ Tát tại vườn Lộc Uyển (Cali.).

Nói đến chữ Tu thì cũng có nhiều thứ. Có vi là bậc Chân Tu khả kính, nhưng cũng không thiếu những kẻ khoác áo nhà tu để làm bình phong, mượn danh đạo tạo danh đời. Kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Chánh Tà có ghi : Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn bảy trăm năm và nhẫn về sau này, ma Ba-tuần sẽ ngăn trở và cố tâm làm hư hại chánh pháp. Giống như bọn thợ săn mà mặc Pháp Y của nhà Phật, ma vương Ba-tuần cũng giả hình Tỳ-kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà Di. Ma vương cũng đem thân hữu lậu hóa làm thân vô lậu để cố tình làm hư hại chánh pháp.

Về ngôn ngữ kinh điển chúng ta không dám lạm bàn, nhưng với những kẻ khoác áo tu để mưu lợi cá nhân dối đời gạt thế thì ngôn ngữ nhân gian gọi là Tu Bịp, Tu Hú. Tu như Ni Sư Huỳnh Liên với nhóm Ngô Bá Thành thì là loại Tu Chùa Một Cột (có người còn thêm thắt hai hột hai bên).

Bây giờ hãy xét xem lời nói và việc làm của nhà tu Nhất Hạnh để xem Nhất Hạnh thuộc về loại nhà tu nào.

Là một tăng nhân xuất thân ở chùa Từ Hiếu ngoài Huế, được Miền Nam nuôi dưỡng cho đi du học, có bằng cấp, có kiến thức, đã viết và in ấn một số sách có chủ đề về Phật Giáo và từng được trọng vọng. Đúng lẽ ra, mặc áo nhà Phật ăn cơm Phật hưởng lộc Phật thì nhà tu Nhất Hạnh phải thể hiện Phật Tánh, làm những điều tốt điều hay, nói những điều lành điều thiện, hay chí ít cũng phải giữ được ngũ giới như một Phật Tử. Ngược lại, chúng ta thấy Nhất Hạnh đã làm những gì:

Hoa Sen Trong Biển Lửa là một trong những tác phẩm của Nhất Hạnh xuất bản vào năm 1966, giữa lúc cuộc chiến sôi động . Hoa sen tượng trưng cho Phật Giáo, và như vậy Nhất Hạnh cho rằng con cái nhà Phật đang nằm trong biển lửa hủy diệt. Thật ra không riêng con cái nhà Phật mà con cái của Chúa Ky Tô, của Tin Lành của Cao Đài, Hòa Hảo cũng đều khốn khổ trong khói lửa chiến tranh. Chiến tranh đó khởi đầu từ cuộc họp do Hồ Chí Minh chủ trì vào tháng 1-1959 đưa ra nghị quyết số 15, thành lập đoàn 559 (viết tắt của tháng 5-1959) mở đường mòn xâm nhập người và vũ khí đánh phá Miền Nam. Cựu Đại Tá Quân Đội Miền Bắc kiêm Phó Tổng Biên Tập tờ báo Nhân Dân của Trung Ương Đảng Cộng Sản, ông Bùi Tín, trong quyển Hoa Xuyên Tuyết trang 126 cũng đã xác nhận lời nói của Tổng Bí Thư Lê Duẫn: Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lự lượng ở Miền Nam, không tập kết tất cả. Như vậy, rõ ràng chính phạm của cuộc chiến tranh dai dẵng 30 năm trên đất nước ta với hơn chục triệu người chết là do Miền Bắc và Hồ Chí Minh gây nên. Vào thời điểm đó Miền Nam thân cô thế yếu nên phải nhờ vào Hoa Kỳ để tự vệ. Cứ cho rằng Hoa Kỳ lợi dụng cơ hội để bán vũ khí và bành trướng thế lực thì đầu mối nguyên ủy gây nên cuộc chiến cũng như tai họa cho dân tộc là Hồ Chí Minh và băng đảng Cộng Sản, còn Miền Nam chỉ là nạn nhân. Quân đội Mỹ chỉ đến Việt Nam khi chiến tranh đã leo lên cao độ.

Một người đọc nhiều biết rộng và khoác áo nhà tu như Nhất Hạnh không thể không biết nhưng đã cố tình lờ tịt sự thật đó. Đã thế, trong tập sách Hoa Sen Trong Biển Lửa, một bản in bằng Anh Ngữ có tên Lotus On Sea Of Fire, Nhất Hạnh lại còn thêu dệt bịa đặt ra những chuyện lếu láo nực cười, chuyện trực thăng võ trang Mỹ hạ cánh xuống làng quê bắt gái hãm hiếp như chuyện phim Hollywood, hoặc con gái Việt Nam phải đổi cả đời con gái để lấy miếng bánh mì, viết phỏng theo những thảm cảnh tại Âu Châu hồi thế chiến thứ 2. Với Hoa Sen Trong Biển Lửa Nhất Hạnh có dụng ý hướng dẫn người đọc rằng chiến tranh Việt Nam là do Miền Nam và Mỹ gây nên. Thật ra, như đã trưng dẫn chứng liệu ở trên, chính Hồ Chí Minh cùng băng đảng Cộng Sản Việt Nam vâng lệnh quan thày gây nên cuộc chiến này. Nga Sô tạo cuộc chiến để bán vũ khí và biến Việt Nam thành chư hầu. Trung Cộng tạo cuộc chiến để người Việt giết người Việt, dễ dàng cho âm mưu thôn tính và bành trướng về phương Nam. Thời gian và lịch sử đã phơi bày sự thật: Mười sáu tấn vàng cướp được của Miền Nam đã được Hà Nội đem đi trả nợ vũ khí cho Nga Sô, và còn cam kết trả tiếp cho đến đời con đời cháu chúng ta vẫn chưa hết nợ. Đó cũng là lý do tại sao hàng năm người Việt hải ngoại gữi về bảy tám tỷ đô la mà đất nước vẫn nghèo đói. Về phần Trung Cộng thì được đền đáp bằng những hiệp định cắt đất biên giới, cống nạp lãnh hải. Năm 1999 và năm 2000 đại diện Cộng Sản Hà Nội là Nguyễn Manh Cầm, Lê Công Phụng ký kết hiệp định biên giới trên đất liền nhường hơn 4000 km2 thuộc các tỉnh Cao Bằng Lạng Sơn Thái Nguyên Hà Giang cho Trung Cộng. Hiệp ước lãnh hải năm 2000 cũng đã dâng cho Trung Cộng hơn 11,000 km2 trên mặt biển

NHẤT HẠNH: TRẬN CHIẾN TẾT MẬU THÂN VÀ BÀI THUYẾT PHÁP TẠI THÁNH ĐƯỜNG RIVERSIDE, NEWYORK

Như chúng ta cùng biết vào dịp Tết Mậu Thân 1968 quân đội cả hai bên Nam và Bắc đều ngưng chiến để người dân được đón Tết mừng Xuân theo thông lệ. Bất ngờ, vào đúng giờ giao thừa đêm 30 Tết, Hồ Chí Minh lên đài đọc khẩu lệnh mở cuộc Tổng Tấn Công Miền Nam qua mấy câu thơ gọi là thơ chúc Tết:

… Xuân này hơn hẵn mấy xuân qua
Chiến thắng tin vui khắp mọi nhà ….

Lời và ý rõ ràng như thế. Trận chiến bắt đầu từ đêm 30 Tết và cả nước trở thành biển lửa. Người chết, nhà cháy, thành thị tan nát. Số thiệt hại của hai bên là điều không thể tránh được, nhưng điều dã man nhất là vụ thảm sát tại Huế. Hơn 5000 người dân vô tôi bị giết và nhiều ngàn người bị xâu tay bằng giây kẽm gai rồi bị đem đi chôn sống, trong số đó có vô số người già và phụ nữ. Trịnh Công Sơn, người bị coi là phản chiến và thân Cộng cũng đã xúc động viết bài “Hát Trên Nhưng Xác Người” để nói về những cái chết oan khuất tức tưởi này

… Chiều đi lên Bãi Dâu hát trên những xác người. Tôi đã thấy, tôi đã thấy những hố hầm chôn xác anh em ….

Trịnh Công Sơn sinh ở Huế và Trịnh Công Sơn xúc động. Nhất Hạnh cũng ăn cơm Huế, uống nước Huế, tu tại chùa Từ Hiếu gần sát Khu Bãi Dâu và Chùa Tỉnh Hội, có lý nào Nhất Hạnh không thấy không nghe không biết việc Cộng Sản chôn sống hàng ngàn người dân vô tôi. Nhưng rồi Nhất Hạnh vẫn ngậm câm, và cho đến nay, sau khi chuông mõ phèng la võng lọng đi lập trai đàn chẩn tế với Giáo Hội Quốc Doanh trong nước, cũng chưa thấy Nhất Hạnh lập Đàn Tràng Giải Oan cho những nạn nhân oan khuất này. Phật Tánh của Nhất Hạnh nằm ở đâu? Đã thế, Nhất Hạnh còn điêu ngoa vọng ngữ qua buổi thuyết pháp Ôm Nỗi Giận Hờn (Embracing The Anger). Nhất Hạnh đui, mù, câm, điếc trước oan khiên tang tóc của đồng hương ngay sát mình chỉ năm ba cây số nhưng lại hung hăng Ôm Nỗi Giận Hờn về một chuyện không hề xảy ra ở một nơi cách xa cả ngàn cây số. Làm sao giải thích được nghịch lý này?

Hãy đọc đôi giòng quảng cáo của buổi thuyết pháp Embracing The Anger.đăng liên tiếp trên tờ New York Times trong hai ngày 24 và 25-9-2001, giá biểu ¼ trang là US$25,000.00 và nguyên trang là US$80,000.00 chỉ vì một vài tên du kích Việt Cộng bắn vu vơ tầm bậy lên trời mà Hoa Kỳ đã thả bom “xóa sổ” thị xã Kiến Hòa.( Nhất Hạnh dùng chữ “destroyed” với ý nghĩa là giết sạch 300,000 dân của thị xã)

Quảng cáo của Nhất Hạnh nguyên bản in như sau:

EMBRASSING ANGER

An evening of Peace and Healing with Thich Nhat Hanh

Vietnamese poet, Zen master and peacemaker

FOR WARMTH

I hold my face in my two hands

No, I am not crying

I hold my face in my two hands

to keep my loneliness warm

two hands protecting,

two hands nourishing,

two hands preventing

My soul from leaving me in anger.

I wrote this poem during the Vietnamese War after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300,000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound.

Lược dịch:

ÔM NỖI GIẬN HỜN

Một Buổi Chiều Về Hòa Bình Và Hàn Gắn Với Thích Nhất Hạnh
Nhà thơ Việt Nam, Thiền Sư Và Một Người Kiến Tạo Hòa Bình

CHO SỰ NỒNG ẤM
Tôi gục mặt vào hai bàn tay
Không, tôi không khóc
Tôi gục mặt vào hai bàn tay
để sưởi ấm nỗi cô đơn
hai bàn tay che chở
hai bàn tay nuôi dưỡng
hai bàn tay ngăn cản
linh hồn tôi không rời bỏ tôi trong cơn giận dữ

Tôi đã viết bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được nghe thành phố Bến Tre bị bỏ bom hủy diệt . Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì bảy du kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng đau đớn của tôi thật tột cùng.

Bài thuyết pháp của Nhất Hạnh tối 25.09.2001 tại thánh đường Riverside ở New York cũng lập lại tấu khúc này

Tôi rất giận dữ . Có một lần tôi được biết rằng thành phố Bến Tre ,một thành phố có 300,000 người , đã bị máy bay Mỹ ném bom chỉ vì vài tên du kích đến trong thành phố và cố gắng bắn rơi máy bay Mỹ .Các tên du kích không đạt dược kết quả nào và sau đó chúng bỏ đi mất. Và thành phố đã bị tiêu hủy . Sau đó một viên chức quân sự có trách nhiệm về việc này đã tuyên bố rằng ông ta phải tiêu hủy thành phố Bến Tre để cứu thành phố đó .Tôi rất giận dữ…

Chưa vội đi tìm những chứng tích khác, chỉ ngay trong bài giảng nói trên Nhất Hạnh đã để lòi đuôi là một tên ăn không nói có

- Thứ nhất: Tại sao lại chỉ có bảy du kích bắn không kết quả rồi bỏ đi. Tại sao không là mười tên hay một trung đội, một đại đội. Và từ đâu Nhất Hạnh lại có một con số chính xác bảy tên du kích?

- Thứ hai: Dân số thị xã Bến Tre chưa bao giờ lên tới 300,000. Người viết bài này có một thời gian là Quan Sát Viên Phi Cơ của Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Mỗi buổi sáng xe đưa ra phi trường Bình Đức hoặc sân bay Kiến Hòa, leo lên máy bay L19 rảo vòng vòng trên vùng trách nhiệm, tìm kiếm và phát hiện những điều khác lạ. Xong nhiệm vụ có xe ra sân bay đón về đơn vị, nhưng gần như lần nào cũng ghé lại thị xã Bến Tre hay thị xã Mỹ Tho uống cà phê, ăn trưa. Cả khu vực thị xã Bến Tre không có một hố bom nào trừ khu chợ bị cháy và vách tường còn rất nhiều lổ chổ dấu đạn. Mấy con đường ở thị xã Bến Tre đi riết rồi trở thành quen thuộc, và nhìn theo số nhà trong thị xã thì dân số thị xã Bến Tre không quá 100,000 người. Sau khi đọc bài của Nhất Hạnh, để được chính xác hơn, người viết liền kiểm chứng với một bạn thân là anh Trần Huỳnh Hội từng làm Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Kiến Hòa. Anh Trần Huỳnh Hội xác định cả thị xã Bến Tre chỉ chừng 100,000 người. Những ngày kế tiếp nói chuyện với các anh Trần Huỳnh Châu, bào đệ của anh Trần Huỳnh Hội, cựu Phó Tỉnh Trưởng tỉnh Bến Tre (1969-1973) và anh Trần Ngọc Châu, cựu Tỉnh Trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), cựu Dân Biểu, có người em là Trần Ngọc Hiền, cũng đều xác nhận dân số thị xã Bến Tre cũng chỉ vào khỏang đó. Kết quả cuộc kiểm tra dân số của Việt Cộng tính đến ngày 01-4-1999 được Tuần Báo Thời Mới số ra ngày 4-10-2001 tại Virginia đăng lại thì dân số thị xã Bến Tre cũng chỉ có 129,690 người.

Vì sự việc này mà Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại và Hội Đồng Hương Bến Tre tại California đã mở một buổi “Họp Mặt Cho Sự Thật” có sự hiện diện của ông Trần Huỳnh Châu, Phó Tỉnh Trưởng Bến Tre, ông Nguyễn Văn Cất, cựu Chủ Tịch Hội Đồng Tỉnh, ông Bùi Văn Truyền Xã Trưởng xã An Hội (thị xã Bến Tre nằm trên địa phận xã An Hội) Thiếu Tá Đặng Trần Vũ phục vụ tại Bến Tre thập niên 1960, ông Châu Văn Để, đại diện Hội Ái Hữu Bến Tre, ông Nguyễn Đôn, cựu Trưởng Ban Điều Hành Đồn Quân Cảnh Bến Tre, Đại Úy Đoàn Viết Chính thuộc Trung Đoàn 10, có nhiệm vụ bảo vệ thị xã Bến Tre, ông Huỳnh Hữu Thuận Giang Đoàn Trưởng Sông Rạch Bến Tre. Trong buổi “Họp Mặt Cho Sự Thật” với 600 đến 800 đồng hương tham dự có sự hiện diện của Đại Đức Thích Pháp Hiền. Ban Tổ Chức cho biết đã mời Nhất Hạnh nhưng có lẽ vì “bận Phật sự” nên không đến được. (con số sai biệt 200 người là vì các tờ báo tại Cali đưa ra khác nhau, nhưng 600 cũng đã là đông rồi)

Phải viết dài giòng và rõ ràng như thế để biết Nhất Hạnh khoác áo nhà tu mà đã ngoa ngôn vọng ngữ như thế nào. Chúng ta sinh ra tại Việt Nam, lớn lên tại Việt Nam cũng có người không biết Bến Tre nằm ở đâu, dân số bao nhiêu, huống hồ chi người Mỹ hoặc người các nước khác. Con số 300,000 người Nhất Hạnh đưa ra không phải là một con số biểu kiến. Nhất Hạnh điêu ngoa trắng trợn thổi phồng lên con số này là có chủ đích, đưa ra con số này là nhắm vào người Mỹ và người các nước khác. Buổi thuyết pháp Ôm Nỗi Giận Hờn được tổ chức tại nhà thờ Riverside New York là để nói với thế giới chứ đâu phải nói với người Việt Nam. Và như thế một số người đến nghe sẽ tin rằng thành phố Bến Tre 300,000 dân đã bị hủy diệt chỉ vì bảy tên du kích Việt Cộng bắn vu vơ. Hủy diệt thị xã 300,000 dân là một tội ác của Miền Nam và của Mỹ.

Không nói đến chuyện áo gấm về làng, không nói đến chuyện chuông trống phèng la võng lọng kịch cỡm, không nói đến những việc làm thầm kín hoặc những riêng tư bí mật, chỉ một vài chuyện nhỏ nói trên cũng đã thấy Nhất Hạnh là người như thế nào.

Nếu còn một chút liêm sĩ tự trọng thì Nhất Hạnh không nên nhập nhằng như thế. Hãy trả màu áo nâu sồng lại cho nhà Phật rồi muốn ăn gian nói dối, muốn tìm danh tiếng lợi lộc, muốn chống bên này phá bên kia, muốn bợ đỡ Việt Cộng, đó là quyền của Nhất Hạnh không ai thèm lý tới. Còn như Nhất Hạnh vẫn xưng là tu sỹ, thiền sư, khoác áo nhà Phật mà ngoa ngôn vọng ngữ dối trá lường gạt thì thật là đau lòng Đức Phật trên cao và đau lòng cho con Phật.
Rõ ràng không có Bồ Tát Nhất Hạnh như nhà sư Hoằng Trường nói. Chỉ có Bồ Cạp hay Bồ Dao Găm.

Lê Minh Khôi


SỰ PHẢN BỘI CỦA SƯ THÍCH NHẤT HẠNH - Phạm Cố Quốc

Phạm Cố Quốc

Lời tác giả: Bài viết này được lược trích từ bài "Sự Thật Che Giấu Sự thật" và đổi lại tựa đề cho đúng với hoàn cảnh thực tại của Sư ông Nhất Hạnh. Sư ông Nhất Hạnh đã phản bội lý tưởng của ông ta qua hai hành động về Việt Nam để

1. giải độc cho CSVN trong thời điểm mà Thế giới lên án CSVN đang khốc liệt đàn áp Tôn giáo, và

2. bành trướng môn phái Tu sĩ có quyền lấy vợ.

... Người viết xin được đưa ra một số sự thật như sau:

Sự thật về sự khủng bố:

1. Vào ngày 11.9.2001, đã có trên dưới 7 ngàn dân Mỹ và các dân khác trên thế giới đã bị thiệt mạng dưới những khối bê tông cốt sắt khổng lồ tại Nữu Ước và Ngũ Giác Đài – Đó là sự thật!

2. Qua quá trình điều tra của cơ quan FBI, chính thực rõ ràng tên trùm khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn đã trực tiếp gây ra vụ thảm sát đẫm máu này – Đó là sự thật!

3. Nếu vì lý do bất đồng chính kiến với một thể chế chính trị nào đó, Laden có thể nhắm ngay đầu não của một chính quyền, là một chuyện khác; nhưng thật sự Laden đã cố tình giết hại những người dân vô tội tại Trung tâm Mậu dịch Quốc tế. Rõ ràng Laden và đồng bọn là những tên sát nhân, thú vật, mất hết lương tri, cố tình diệt chủng, không thua gì Cộng sản Việt Nam – Đó là sự thật!

4. Chính quyền Taliban đã đập nát tất cả những tượng Phật, di tích Phật giáo có tầm cỡ lịch sử, hủy diệt một nền văn hóa có tự ngàn xưa, đã chứng tỏ cho thế giới thấy được sự thật về những hành động dã man của bọn chúng . Thể chế chính quyền Taliban hiện nay đang diệt chủng, diệt tông, không thể tha thứ – Điều này không thể chối cãi!

Sự thật về Thiền sư Nhất Hạnh:

1. Thiền sư Nhất Hạnh đã cố tình quên đi hành động dã man của tập đoàn khủng bố, mặc nhiên trước những sinh linh vô tội, nỗi đau đớn của thân nhân và nhân dân Hoa Kỳ, nỗi lo sợ của toàn thế giới trước âm mưu tiêu diệt nhân loại của tập đoàn này qua biến cố vừa qua . Trước nỗi thống khổ của nhân loại, Thiền sư đã không thể hiện tinh thần Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh qua lời Phật dạy trong Lục Độ Thập Kinh: "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu muôn dân ra khỏi chốn lầm than". Đó là sự thật!

2. Từ ngày bọn Cộng sản áp đặt nền chuyên chính trên toàn nước Việt, chúng ra sức bóc lột nhân dân, tham nhũng cực độ, đàn áp khốc liệt, tiêu diệt tôn giáo, khủng bố chứng nhân và các nhà ái quốc yêu tự do, thủ tiêu Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Trí Thủ … giam cầm và quản chế Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ … thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một Giáo hội Dân lập được truyền thừa gần 2000 năm của Lịch Đại Tổ Sư, một Giáo hội đã dày công nuôi dưỡng Thiền sư Nhất Hạnh và nhờ sự trưởng dưỡng đó mới được đến ngày nay, thế mà khi Giáo hội trong cơn Pháp nạn, kêu cứu từ hơn một phần tư thế kỷ qua mà sư vẫn thiền, vẫn còn tự cho mình là "nhất hạnh" . Đó là sự thật!

3. Sư Nhất Hạnh đã chọn thành phố New York để tổ chức một buổi thuyết trình, Thiền sư đã quảng cáo 2 lần, một lần ¼ trang và sau đó quảng cáo nguyên trang. Trong quảng cáo có đăng bài thơ với phần ghi chú rằng, Bến Tre - thị xã ba trăm ngàn dân - đã bị phá hủy chỉ vì 7 du kích bắn vu vơ. Trong quảng cáo lần thứ nhì, con số "7" bị rút đi vì gặp sự phản ứng của dư luận, nhất là qua cuộc Họp Mặt Cho Sự Thật tại miền Nam Cali vào ngày 14.10.2001 đã minh xác lời của Thiền Sư Nhất Hạnh là sai trái. Đó là sự thật!

4. Sư Nhất Hạnh đã buộc tội quân đội Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh Hoa Kỳ một cách hàm hồ như sau:

- Chỉ có "7" hoặc "vài" du kích quân Việt Cộng vào thành phố.

- Du kích quân bắn máy bay Mỹ, không trúng.

- Du kích quân rút đi.

- Mỹ ném bom hủy diệt thành phố ba trăm ngàn dân Bến Tre.

- Viên chức Mỹ tuyên bố: hủy diệt thành phố Bến Tre để cứu nó.

... Những hành vi như đã kể ra ở trên chứng tỏ Thiền sư Nhất Hạnh đã đi ngược lại với nguyện vọng đấu tranh cho công lý của mọi người, thiết thực nhất là nguyện vọng đấu tranh đòi hỏi Cộng sản phải thực thi tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam của toàn thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại. Xin nhấn mạnh một lần nữa là Người Việt Tỵ nạn Cộng sản, nghĩa là tỵ nạn chính trị, nghĩa là không chịu nỗi sự đàn áp chém giết khốc liệt của tập đoàn Cộng sản nên phải tỵ nạn, chứ không phải tỵ nạn kinh tế! Do đó, người Việt lưu vong đó đây được các chính phủ tự do nhân đạo cứu vớt đón nhận để cho ăn nhờ ở đậu, cư trú tạm thời. Nếu là tỵ nạn kinh tế, chúng tôi tin chắc rằng đã không có quốc gia nào đón nhận. Chính vì vậy, bất cứ những tuyên cáo, hoạt động nào nằm trong phương hướng bảo vệ chính nghĩa quốc gia, chống Cộng sản, đều là việc chung của mọi người Việt Tỵ nạn Cộng sản. Mặc dù họ không có nói ra, nhưng trong tâm tư của mỗi người Việt lưu vong hải ngoại sau 1975 đều mang ý nghĩ như vậy, ngoại trừ những tên đã tự đổi cốt của chính mình từ tỵ nạn Cộng sản sang tỵ nạn kinh tế để kiếm sống qua ngày, và sẵn sàng giao lưu, hiệp thông với Cộng sản. (Những tên này đã đánh mất lương tri nhân loại, đánh mất lập trường chính trị để tiếp tay với lũ côn đồ giết hại dân lành, tiêu diệt đạo pháp) .

... Điều mà ai cũng biết Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ giỏi (Điều nổi bật nhất là Thiền sư Nhất Hạnh giỏi ru ngủ. Những ai đang được Thiền sư Nhất Hạnh ru ngủ rồi, thì dù bất cứ tiếng kêu la thống thiết nào, ngay cả bom nguyên tử nổ bên tai, cũng không tài nào thức tỉnh họ được), thông hiểu triết lý nhà Phật, và là tác giả của nhiều cuốn sách . Nhưng GIỎI là đặc điểm cá nhân của Thiền sư Nhất Hạnh. Nếu Thiền sư Nhất Hạnh không đem cái GIỎI của mình để cứu đạo, cứu đời, thì GIỎI trở nên vô dụng và không ăn thua gì đến công cuộc đấu tranh của tập thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản hiện nay. Không những thế, Thiền sư Nhất Hạnh đã nhúng tay vào làm công việc phản chiến và ngụy hòa, đã kêu gọi tha thứ cho quân khủng bố trong lúc quân khủng bố cứ liên tục phát động chiến dịch đẫm máu này (cướp máy bay lao vào World Trade Center) đến chiến dịch đẫm máu khác (vi khuẩn anthrax, giựt sập cầu, đánh rớt máy bay dân sự …) để giết hại dân vô tội, đến nỗi người Mỹ đã thay đổi hẳn tình cảm đối với người Việt Nam, cho nên bắt buộc mọi người phải gióng lên những tiếng nói cho công lý và chính nghĩa. Sống trên nước Mỹ, người dân thường thấy, khi mở radio, truyền hình, sau vụ khủng bố, không có tin gì ngoài những tin thương hại do độc khuẩn của bọn khủng bố tạo ra và những lời cảnh giác của phóng viên truyền hình, báo chí. Một con sâu làm rầu bát canh! Sau khi nghe bài thuyết trình "độc nhất vô nhị" của Thiền sư Nhất Hạnh tại Nữu Ước, dân Mỹ quá sức phẫn nộ đã phải hô to lên rằng: "Vietnamese go home!" Thái độ của người Mỹ đối với người Việt Tỵ nạn Cộng sản, nay là thế đó. Từ tình cảm ưu ái, thân thiện, đã trở thành thù ghét đắng cay. Càng thù ghét người Việt quốc gia tại hải ngoại chừng nào, người Mỹ càng trở nên thân thiện gần gũi với bọn Cộng sản nhiều hơn. Và, trận chiến sẽ xoay chiều. Người Mỹ sẽ coi chúng ta là những kẻ đồng lõa, là những người bao che cho tạo tội ác nên giúp tội ác tạo tội ác. Thế rồi, công cuộc đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo tại quốc nội sẽ dư thừa. Không có ai tin chúng ta cả. Người Mỹ sẽ nghĩ rằng chúng ta muốn phát động phong trào khủng bố để chống chính quyền Cộng sản ở Việt Nam, chứ không phải để đòi hỏi tự do, nhân quyền và dân chủ, vì đất nước Việt Nam có tự do thật sự, có nhân quyền hẳn hoi . Hơn nữa, dần dần những tin tức xấu xa do Thiền sư Nhất Hạnh khơi động này sẽ được loan chuyển khắp mọi nơi trên thế giới . Không những người Mỹ, mà dân chúng trên thế giới đều có một nhận định xấu xa về công cuộc vận động đấu tranh cho tự do tôn giáo của người Việt khắp nơi trên toàn cầu. Từ đó, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trên chiến trường chống Cộng và phục hưng đất nước. Chúng ta không hiểu được điều đó sao ? Thế thì, ai đã gây ra ảnh hưởng xấu ? Không phải là Thiền sư Nhất Hạnh thì còn ai vô đây ? Chúng ta không thể tiếp tục ra sức bao che cho tội ác, biện minh che cho sự phản bội của Thiền sư Nhất Hạnh!

Đó chỉ mới bàn về những ảnh hưởng tác hại của sự phản chiến của Thiền sư Nhất Hạnh mà thôi . Riêng, trong bài thuyết trình tại Nữu Ước và tại những trang quảng cáo ầm ĩ của Thiền sư Nhất Hạnh trên báo New York Times, chúng ta rất dễ tìm những luận điệu vu khống, bôi nhọ quân đội Cộng hòa, lẫn những lợi điểm cho Cộng sản, như đã liệt kê ở trên. Điều đáng buồn là Thiền sư Nhất Hạnh đã đại vọng ngữ để đưa ra những con số không thật, những tin tức láo khoét khi nói về con số tử thương tại Bến Tre với mục đích gán ghép chồng chất tội ác lên đầu quân nhân Mỹ-Việt Cộng hòa. Thiền sư Nhất Hạnh đã bôi nhọ lên mặt Cộng hòa và tô son trên môi Cộng sản!

... Một điều cần biết là Thiền sư Nhất Hạnh giao du tứ phương để lấy lòng dân. Thiền sư Nhất Hạnh được lòng rất nhiều người. Người theo Thiền sư Nhất Hạnh cũng không phải ít. Nếu Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ biết lo cho dân tộc (quốc nạn) và đạo pháp (pháp nạn), chỉ cần Thiền sư gióng lên tiếng nói cứu độ quần sinh thôi, thì đảng Cộng sản Việt Nam đã tiêu diêu miền khói lửa lâu rồi, chứ đâu mà cảnh địa ngục trần gian còn day dưa đến hôm nay trên đất Việt? (Xin được chú thích: Nói thế không phải để đề cao Thiền sư Nhất Hạnh, nhưng để buồn cho Thiền sư Nhất Hạnh có vũ khí tốt mà không biết dùng, nhất là trong tình trạng khẩn thiết của Đạo pháp hiện nay). Nhưng, tiếc thay, nhìn vào đội ngũ đông đảo "hùng hậu" của Làng Hồng, Làng Mai, người ta chỉ thấy một đám người đang ngủ gà ngủ gật …

Sở dĩ mà dân New York hô lên "Vietnamese go home" nhưng không nói "Thich Nhat Hanh go home" là vì Thiền sư Nhất Hạnh dẫn cả một đại đội tiến về New York. Nhìn vào đám đông này, người ta chỉ thấy họ là Vietnamese, không phải là Thich Nhất Hanh! "Con sâu làm rầu bát canh" ở chỗ đó! Rõ ràng Thiền sư Nhất Hạnh đã ô nhục toàn dân tỵ nạn CS ở hải ngoại, ô nhục nước Mỹ. Vụ thảm sát vào ngày 11.9.2001 đó, ít nhiều, cũng đã tạo cơ hội cho giới truyền thông báo chí của bọn Cộng sản, như ở Hồng Kông, Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba thừa nước đục thả câu, tuyên truyền với dân chúng rằng Mỹ là con cọp giấy . Chưa đủ, chúng còn thâu băng, làm phim để kinh tài và hạ nhục Mỹ Quốc. Tại sao Thiền sư Nhất Hạnh không đi qua Afghanistan để "thuyết pháp" cho bọn côn đồ đừng có hủy diệt tượng Phật, đừng có tiếp tục giết người vô tội, ngưng ngay những hành động khủng bố, mà Thiền sư cố nài nỉ người Mỹ tha cho bọn chúng ? (Mặt khác, Thiền sư Nhất Hạnh cố tạo ra những con số bất thật để ghép tội người Mỹ, rồi tạo áp lực tinh thần và nhân tính để bắt buộc người Mỹ nhận thấy rằng chính người Mỹ cũng đã gây khủng bố ở Bến Tre, nên phải tha cho quân khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn). "Từ bi, Vị tha" kiểu ngược đời như thế này, không biết Thiền sư Nhất Hạnh đã tìm đâu ra ở trong Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo ? Tạo cơ hội cho kẻ ác hành hung bằng cách khuyên người hiền nên cố tâm chịu đựng! Sao mà hao hao giống luận điệu của Cộng sản vậy kìa: "Bà con ơi, nên chịu đựng đi, đừng nhúc nhích mà chết, tại vì Đảng đã lỡ nắm quyền hành rồi, cho nên bắt buộc Đảng phải bóc lột, ăn cướp, hút máu dân để cho thỏa lòng tham vô cùng vô tận của Đảng, đừng có thắc mắc hoặc khiếu nại mà bị chặt đầu, vì đó là luật Đảng. Tốt nhất là phải chịu đựng, chịu đựng và tha thứ cho Đảng thì mới được sống an thân!…" Thảm khổ!!!

Điều nổi bật hơn về Thiền sư Nhất Hạnh là Thiền sư đã được trưởng thành trong căn nhà của Giáo hội (GHPGVNTN), Thiền sư cùng tu, cùng ăn, cùng ở với những đồng đạo của mình. Thế nhưng, trong mấy chục năm qua, Giáo hội của mình bị bức tử, đồng đạo của mình bị tù đày, quản chế, 80 triệu dân quốc nội của mình không ngừng kêu cứu, thậm chí giáo pháp của Đức Phật cũng bị bọn côn đồ đảng Cộng sản đảo lộn, bôi nhọ, bảo rằng còn thua xa với thuyết lý Mác-Lê-Hồ rồi mang vào trường học để nhồi sọ sinh viên, miệt thị Phật giáo; Thiền sư Nhất Hạnh vẫn ngậm miệng, giả câm, giả điếc. Là một trưởng tử của Như Lai, Thiền sư Nhất Hạnh đã làm gì để lấy lại hương vị tinh nguyên của Giáo lý nhà Phật khi bị đảng Cộng sản đang bỏ chung vào một soong để chiên xào xáo trộn với chủ nghĩa ma quái Mác-Lê ? Sau này, thế hệ trẻ tại Việt Nam sẽ bị đầu độc rằng: Giáo pháp của Phật chẳng hơn gì lý thuyết Mác-Lê-Hồ cả, thi hành theo chủ nghĩa của Mác coi bộ thực tiễn hơn. Khi đó, Thiền sư sẽ nghĩ gì ? Đây mới chính là thời kỳ mạt pháp! Phật pháp đang trên đường băng hoại!

Chưa hết, trong thời gian Ngài Quảng Độ bị cầm tù trong ngục, Ngài đã làm 300 bài thơ tranh đấu, Ngài tin tưởng và chuyển ra hải ngoại cho Thiền sư Nhất Hạnh. Thiền sư Nhất Hạnh đã liệng vào sọt rác. Thiền sư Nhất Hạnh tưởng rằng không ai hay biết, vì cứ đinh ninh rằng Hòa thượng Quảng Độ sẽ bị chết trong tù, hoặc ít nhất cũng sẽ không bao giờ thấy được ánh sáng mặt trời. Nhưng trời cao có mắt. Kẻ ác bất khả hại hiền nhân. Nhờ sức vận động hy hữu của tất cả các hội đoàn, Cộng đồng, nhất là của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tại Paris và của Văn phòng II Viện Hóa đạo đến với các chính giới hải ngoại đã làm áp lực lớn mạnh, bắt buộc Cộng sản phải phóng thích Ngài Quảng Độ. Sau đó, qua cuộc phỏng vấn của Giáo sư Võ Văn Ái với Ngài Quảng Độ bằng điện thoại viễn liên sau những ngày tù tội, Ngài Quảng Độ có đề cập đến 300 bài thơ trong tù đã được gởi sang cho Thiền sư Nhất Hạnh để nhờ chuyển qua cho Giáo sư Ái. Gs Võ Văn Ái quá đổi ngạc nhiên, trả lời rằng là Anh không có nhận bài thơ nào của Ngài Quảng Độ do Thiền sư Nhất Hạnh chuyển đến cả. Ngài Quảng Độ chỉ phản ứng một cách rất nhẹ nhàng: "Vậy à?". Ngài Quảng Độ còn bảo rằng Ngài còn ghi nhớ tất cả 300 bài thơ ấy ở trong trí óc của Ngài, khi rảnh rỗi, Ngài sẽ chép lại và gởi qua cho Anh Ái để in thành một tập thơ … (Xin quý vị liên lạc với Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để xin bản sao của cuộc phỏng vấn này, nếu cần) .

Sau khi tin tức bị tiết lộ, Thiền sư Nhất Hạnh giả vờ làm một bài thơ "ca ngợi" sự chịu đựng và tinh thần hy sinh cho Đạo pháp của Ngài Quảng Độ, với mục đích là để che đậy sự tráo trở của mình, đề phòng lòng phẩn uất và cũng để thoa dịu sự bất bình của mọi người dân khi họ biết là Thiền sư Nhất hạnh đã dẹm kín 300 bài thơ của Ngài Quảng Độ . (Người viết đã có đọc được bài thơ này của Thiền sư Nhất Hạnh trên một web site nào đó – tạm thời không nhớ rõ là đăng trên web nào.)

Tủi hổ thay, mồ cha không khóc, Thiền sư Nhất Hạnh đi khóc đống tro tàn!

Với tư cách là một trưởng tử của Như Lai, hãy lấy Phật pháp làm sinh mạng, lấy Sự thật làm nền tảng . Vì, căn bản Giáo lý của Đạo Phật là lấy Sự thật làm nền tảng cho sự tu học, hoằng hóa . Chính vì vậy mà Đạo Phật là Đạo Như Thật . Hơn nữa, trên phương diện dẫn chứng lịch sử, thời gian và con số phải được trích dẫn chính xác không sai chạy mỗi khi đề cập đến, cho hợp với câu "Lịch sử đã chứng minh …"

Với cương vị của một công dân, hãy lấy Quốc gia làm đầu, lấy Dân tộc làm gốc.

Với thân phận của một kẻ tỵ nạn lưu vong, nên lấy Tổ quốc làm trọng, phải nổ lực đấu tranh để mong có được ngày về.

Nhưng đau buồn thay, Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ Phật giáo mà không làm được chuyện đó! Ngược lại, Thiền sư đã vọng ngữ, bóp méo lịch sử, đưa ra những dữ kiện sai lạc nhằm vu cáo quân lực chính nghĩa Cộng hòa, làm lợi cho Cộng sản, trong lúc mà phong trào tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo đang lên cao. Thiết nghĩ, việc làm của Thiền sư Nhất Hạnh cần phải được chỉnh đốn.

Phạm Cố Quốc


Thursday, February 19, 2009

Có Nên Dùng Ngôn Ngữ của VC? - Đào Văn Bình

Đào Văn Bình

Có điều rất lạ là cho dù chúng ta (Miền Nam) và cả Miền Bắc trước khi có cộng sản - cũng đã có “tiếng Việt trong sáng “ đã học nó, đã xử dụng nó, đã gần gũi quen thuộc với nó. Bỗng dưng gần đây trên báo, đài phát thanh hoặc liên mạng tòan cầu lại xuất hiện một loại ngôn ngữ bắt chước VC: Đó là dùng hai chữ Thông Tin để thay cho hai chữ Tin hoặc Tin Tức!

1) Về hai chữ Thông Tin (Sự loan truyền tin tức)

Ở duới xã ngày xưa chúng ta có: Phòng Thông Tin. Ở trung ương (Sài Gòn) chúng ta có Bộ Thông tin và các Phòng Thông Tin Quốc Ngọai tại các tòa đại sứ.

Chữ Thông Tin ở đây có nghĩa là gửi đi, truyền đi các tin tức. Vậy rõ ràng Thông Tin là một Động Từ (verb). Nếu nó là Danh Từ (noun) thì nghĩa của nó là sự loan truyền, sự gửi đi tin tức. Tự thân chữ Thông Tin không bao giờ có nghĩa là Tin Tức cả. Ngày xưa chúng ta thường nói “Thông tin cho nhau”.

2) Còn tin tức/tin = news.

Các hãng thông tấn gửi đi bản tin chứ không gửi đi Bản thông tin. ( Bản tin là nói đến các tin tức thu lượm được. Bản thông tin là bản để liên lạc, thông báo cho nhau cái gì đó. Hai chữ hòan tòan khác nhau)

Tin vắn, tin ngắn (news in brief) chứ không phải thông tin vắn

Tin hàng đầu (headlines) chứ không phải thông tin hàng đầu.

Tin khẩn cấp chứ không phải thông tin khẩn cấp. Thông tin khẩn cấp có nghĩa là thông báo khẩn cấp.

Tin trong nước chứ không phải thông tin trong nước

Tin nước ngòai, tin ngọai quốc chứ không phải thông tin ngọai quốc

Các ký giả đi săn tin chứ không đi săn thông tin.

Tin giật gân chứ không phải thông tin giật gân

Tin nhảm nhí chứ không phải thông tin nhảm nhí. Khi chúng ta nói thông tin nhảm nhí thì người đọc/người nghe có thể hiểu lầm là cơ quan đó, hãng thông tấn đó chuyên loan tin nhảm nhí.

Tin tức mình chứ không phải thông tin tức mình

Tin mừng chứ không phải thông tin mừng

Tin vui ( như cưới hỏi) chứ không phải thông tin vui.

Tin buồn ( như tang ma) chứ không phải thông tin buồn

Tin động trời chứ không phải thông tin động trời.

Tin sét đánh ngang đầu chứ không phải thông tin sét đáng ngang đầu

Tin hành lang chứ không phải thông tin hành lang. Thông tin hành lang là đi săn tin ở ngòai hành lang, nghe lóm, không qua phỏng vấn, trực tiếp truyền hình, họp báo v.v.. Còn tin hành lang là tin nghe lóm được từ hành lang. Hai thứ hòan toan khác nhau.

Tin chó cán xe, xe cán chó chứ không phải thông tin chó cán xe, thông tin xe cán chó.

Do đó khi chúng ta nói thông tin chó cán xe có nghĩa là chúng ta làm công việc đưa tin về con chó cán xe! Như thế là sai, mà phải nói là tin chó cán xe.

Ngày xưa khi gặp nhau, muốn tìm hiểu về tình hình thời sự chúng ta đều hỏi “Anh có tin tức, có tin gì mới lạ không?” Nếu chúng ta nói “ Anh có thông tin gì không?” thì người ta sẽ ngạc nhiên họăc không hiểu. Họăc người nào hiểu biết có thể nghĩ rằng:

1) Thằng cha này nó muốn hỏi mình có đi loan truyền tin tức gì không?

2) Hoặc thằng cha này chắc ở ngòai Bắc với VC lâu ngày nên tiêm nhiễm ngôn ngữ của VC!

Dùng hai chữ Thông Tin để thay cho chữ Tin hoặc Tin Tức chẳng khác nào nói:

- Con sâu mỡ để thay cho cái lạp xưởng.

- Cái nồi ngồi trên cái cốc để thay cho cà-phê phin.

- Đồng hồ 2 cửa sổ thay cho đồng hồ chỉ ngày và giờ.

- Khẩn trương để thay cho nhanh lên

- Xưởng đẻ thay cho nhà bảo sanh

- Nhà ỉa thay để thay cho cầu tiêu.

- Chùm ảnh để thay cho một lọat những hình ảnh, một vài hình ảnh

- Anh muốn quản lý đời em thay vì anh muốn về chung sống với em, anh muốn lấy/cưới em.

- Tham quan để thay cho du ngoạn, thăm viếng

- Sự cố thay cho trở ngại, trục trặc

- Tranh thủ thay cho cố gắng, ráng lên

- Anh muốn liên hệ tình cảm với em để thay anh muốn làm quen với em , muốn kết bạn với em.

- Căn hộ thay cho căn nhà.

- Tư liệu thay cho tài liệu

- Đại trà để thay cho cỡ lớn, quy mô.

- Đại táo để thay cho nấu ăn tập thể, ăn chung.

- Kênh phát sóng thay cho Đài: Đài Fox News, Đài CNN, Đài Số 5, Đài SBTN…

- Phi Khẩu Tân Sơn Nhất thay cho Phi Cảng Tân Sơn Nhất ( Khẩu là cửa sông chính để ra vào, không thể dùng cho một phi trường được)

- Trời hôm nay có khả năng mưa thay vì “hôm nay trời có thể mưa”

- Người dân địa phương chủ yếu là người H’mong Hoa - thay cho “Dân địa phương phần lớn là người H’mong Hoa”

- Đồng Bào Dân Tộc để thay cho Đồng Bào Sắc Tộc. (Dân tộc là People, Sắc Tộc là Ethnic)

- Lính gái thay cho nữ quân nhân

- Thu nhập thay cho lợi tức (lợi tức mỗi năm, mỗi tháng, lợi tức tính theo đầu người v.v..) Thuế lợi tức (income tax)

- Vietnam Air Traffic Management ngày xưa chúng ta dịch là: Quản Trị Không Lưu Việt Nam, ngày nay cán ngố VC dịch là: Trung Tâm Quản Lý Bay Dân Dụng Việt Nam!!! Thật điên đầu và không hiểu gì cả!

- Đầu Ra, Đầu Vào (input, output) để thay cho Xuất Lượng và Nhập Lượng.

- Rất ấn tượng thay vì đáng ghi nhớ, đáng nhớ

- Đăng ký thay vì ghi tên, ghi danh, đăng bạ.

- Các anh đã quán triệt chưa? Thay vì các anh đã hiểu rõ chưa?

- Học tập tốt thay vì học giỏi. Tôi còn nhớ sau ngày cộng quân cưỡng chiếm Miền Nam, trong khi chờ đợi lệnh “học tập cải tạo” của Ủy Ban Quân Quản, nghe bài diễn văn của Phạm Văn Đồng mà vừa buồn vừa xấu hổ cho bọn lãnh đạo Miền Bắc, nào là: Học tập tốt, lao động tốt, báo cáo tốt, tư tưởng tốt, quán triệt tốt, quản lý tốt, quy họach tốt, sản xuất tốt, quan hệ tốt, cảnh giác tốt…cái gì cũng tốt. Chỉ còn thiếu : Ăn tốt, đái tốt, ngủ tốt, ỉa tốt nữa là xong!Vào tù chúng tôi cứ than thở với nhau “ Nó ngu dốt thế mà nó thắng mình mới đau chứ!” Ôi ! Quân Hung Nô tràn vào Trung Hoa!

- Doanh nghiệp để thay cho công ty. (Công ty là một hình thức tổ hợp, hùn vốn để kinh doanh. Còn doanh nghiệp giống như thương nghiệp là nghề nghiệp kinh doanh, buôn bán, nông nghiệp là làm nông, ngư nghiệp là đánh cá. Ngày hôm nay tại Việt Nam hai chữ doanh nghiệp được dùng lan tràn để thay thế cho hai chữ Công Ty. Sau đây mà một mẩu tin ngắn của tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn “ Hội chợ A&F Expo 2005 sẽ diễn ra tại TPHCM trong năm ngày, từ ngày 6 đến 104-2005 với 100 doanh nghiệp xuất khẩu tham dự.”

- Tiêu dùng thay vì tiêu thụ

- Cây xanh thay vì cây ( Cây nào mà lá chẳng xanh? Nói thêm chữ xanh là thừa. Nếu tìm hiểu kỹ hơn nữa thì tại Hoa Kỳ này chúng ta thấy khó khá nhiều cây lá màu nâu, nâu đậm. Nếu nói cây xanh là sai. Nói cây là bao gồm tất cả rồi. Xin mấy ông bà ở hải ngọai đừng bắt chước VC dùng hai chữ cây xanh.)

- Quan chức để thay cho viên chức. Thật quái gở nếu ở hải ngọai này chúng ta đưa tin như sau” Một số vị lãnh đạo các đòan thể và cộng đồng tỵ nạn đã gặp gỡ một số quan chức ở Bộ Ngọai Giao.”

- Xử lý thay vì giải quyết, chấn chỉnh, tu sửa v.v.. Vì VC ngu dốt, thiếu chữ cho nên cái gì cũng dùng hai chữ xử lý: Bộ điều khiển trong máy điện tử cũng gọi là bộ xử lý. Bác sĩ giải phẫu được một ca khó khăn cũng nói là xử lý. Giải quyết giấy tờ, hồ sơ, đơn khiếu nại của dân chúng cũng gọi là xử lý. Bỏ tù người ta “mút mùa lệ thủy” cũng gọi là xử lý thích đáng!

- Bài nói thay vì bài diễn văn.

- Người phát ngôn thay cho phát ngôn viên.

- Bóng đi rất căng thay vì quả banh/bóng đi rất mạnh.

- Cú shock thay vì bàng hòang, kinh hoàng.

- Tinh hình căng lắm thay vì tình hình căng thẳng. Tiếng Mỹ căng như sợi dây căng (stretch) còn tình hình căng thẳng là (intense situation)

- Liên Hoan Phim thay để cho đại hội điện ảnh. Ngày xưa chúng ta dùng chữ Đại Hội Điện Ảnh Canes.

- Ô tô con để thay cho xe du lịch.

- Ùn tắc để thay cho kẹt xe, xe cộ kẹt cứng.

- Bức xúc để thay cho dồn nén, dồn ép, bực tức, đè nén.

- Đề xuất để thay cho đề nghị.

- Nghệ sĩ nhân dân ? Quả tình cho tới bây giờ tôi không hiểu Nghệ Sĩ Nhân Dân là thứ nghệ sĩ gì ? Xin vị nào hiểu nghệ sĩ nhân dân là gì xin giảng cho tôi biết.

Đấy ngôn ngữ của VC là như thế đó! Đó là thứ ngôn ngữ của lớp người chuyên vác Aka, đeo mã tấu đi giết hại đống bào, đặt mìn phá cầu phá đường, ngồi trên dàn cao xạ bắn máy bay Mỹ, lê lết tại các công-nông-trường tập thể, sống chung đụng tại các lán, trại trên Đường Mòn Hồ Chí Minh sống nay chết mai, chui rúc tại các khu nhà tập thể tại Hà Nội không có chỗ để giải quyết sinh lý mà phải đưa nhau ra các công viên để làm tình. Trong xã hội này thì trí thức hoặc đã bị giết hết cả, nếu còn sống thì giá trị cũng không hơn cục phân, cho nên văn hóa bị hủy diệt. Khi văn hóa bị hủy diệt thì ngôn ngữ, chữ viết chết theo hoặc biến dạng theo.

Còn ngôn ngữ của Miền Nam thì sao? Về cổ văn, nó là cả một sự thừa kế tinh ròng và chuyển hóa từ thời Hồng Bàng, qua các thời đại huy hòang của Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Từ các áng văn chương, lịch sử trác tuyệt của các cụ Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Ngô Thời Sĩ, La Sơn Phu Tử, Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đòan Thị Điểm, Đặng Trần Côn. Rồi khi chữ Quốc Ngữ đựơc phát minh, nó lại được chắp cánh thêm bởi Tản Đà, Nam Phong Tạp Chí, Hoàng Xuân Hãn, Tự Lực Văn Đòan. Rồi khi “di cư” vào Miền Nam (Xuôi Nam một dải biên cương dặm ngàn) nó lại được phong phú hóa, đa dạng hóa, văn chương hóa bởi các Nhóm Sáng Tạo, Vũ Hòang Chương, Doãn Quốc Sĩ, Phạm Thiên Thư, Phạm Duy. Về văn chương Miền Nam lại có Đồ Chiểu, Bình Nguyên Lộc, Hồ Biểu Chánh góp phần thêm vào đó. Rồi về ngôn ngữ triết học lại có các học giả như: Nguyễn Đăng Thục, Cao Văn Luận, Phạm Công Thiện, Trúc Thiên, Tuệ Sĩ, Trí Siêu. Về mặt ngôn ngữ ngọai giao, kinh tế, xã hội, hành chánh, y khoa, giáo dục chúng ta có các bậc thầy như: Nguyễn Cao Hách, Đòan Thêm, Vũ Văn Mẫu, Phạm Biểu Tâm, Vũ Quốc Thúc v.v…Tất cả đã đóng góp, lưu truyền, kế thừa, đúc kết cho hình hài, linh hồn ngôn ngữ Việt Nam, kế thừa của ngôn ngữ Dân Tộc - mà ngôn ngữ Miền Nam chính là biểu tượng còn xót lại. Ngôn ngữ cộng sản bây giờ là sản phẩm do lớp người ngu dốt tạo ra trong một xã hội nghèo đói, mà tầng lãnh đạo lại là một thứ đại ngu xuẩn và gian ác. Nhìn ra ngòai thế giới, hầu hết các vị lãnh đạo nước Pháp đều xuất thân từ trường ENA (Trường Quốc Gia Hành Chánh). Hầu hết những người điều khiển nước Mỹ đều xuất thân từ các trường luật. Cứ thử nhìn xem những người lãnh đạo Việt Nam như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết họ tốt nghiệp những trường nào? Chắc là các trường đào tạo du kích, công an, đặc công họăc Viện Mác Lê? Lãnh đạo thì như thế, “đội ngũ cán bộ văn hóa”thì ngu dốt như thế thì nó phải sản sinh ra một thứ văn hóa, ngôn ngữ quái dị như thế. Vậy thì bảo vệ, duy trì, phát huy “Văn Hóa, Ngôn Ngữ Miền Nam” không phải chỉ là việc kỳ thị, hoặc mặc cảm đối với văn hóa VC - mà còn là để bảo vệ, giữ gìn cho một nền văn hóa, ngôn ngữ tốt đẹp của dân tộc đang có nguy cơ diệt chủng. Nếu chúng ta không làm, chúng ta sẽ đắc tội với thế hệ con cháu mai sau.

Đào Văn Bình
(Tháng 2, 2009)

Ghi chú: Bài viết này cũng còn để cảm thông, chia xẻ với:

- Trịnh Thanh Thủy tác giả bài viết “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn Cũ”
- Chu Đậu tác giả bài viết “Nỗi Buồn Tiếng Việt”
- Nhà văn Diệu Tần tác giả bài viết “Tiếng Việt Kỳ Cục”