Monday, December 15, 2008

Đôi Lời Với Bà Đốc Tờ Nguyễn Thị Thanh - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Lâu nay bà đốc tờ Nguyễn thị Thanh góp tiếng nói trên các diễn đàn rất nhiều về đủ mọi lãnh vực. Bà thường muốn tỏ ra là một người giầu kiến thức, nhiều mặt chuyên môn giỏi, và nhất là nặng lòng với quê hương dân tộc. Đó là điều rất đáng khen nếu đó là sự thật. Có nhiều mặt bà tỏ ra là người VN Quốc Gia tỵ nạn CS. Nhưng cũng đáng tiếc, có không thiếu những biểu hiện bà tỏ ra không khác gì là một tên cán ngố VGCS. Tôi buộc lòng phải nói như vậy chứ không có ý chụp nón cối lên đầu bà. Tôi xin lỗi bà và xin lỗi mọi người trước. Xưa nay tôi không muốn xen vào các chuyện có tính cách cá nhân, trừ ra khi những chuyện đó có liên quan đến việc chung. Việc tôi đề cập liên hệ tới bà đốc tờ Nguyễn thị Thanh đây là việc chung. Do đó tôi lên tiếng.

Việc đây là việc bà đốc tờ Thanh viết tờ SỚ (kèm dưới đây) dâng lên bọn cầm quyền Việt gian bán nước ở Hànội nó chưóng quá và lố bịch quá nếu bà viết với tư cách là một người tỵ nạn CS. Xin nói trước, tôi chỉ nêu nhận xét cũng với tư cách là một người tỵ nạn CS. Bà Thanh có bảo thủ phản bác lại nhận định của tôi, tôi cũng xin miễn hồi đáp. Mọi sự sẽ có công luận phê phán. Nếu công luận cho rằng tôi sai, tôi chấp nhận và xin cám ơn mọi người. Sau đây xin phép cho tôi được nêu lên vắn tắt một số điểm quan trọng trong tờ SỚ của bà và xin nêu nhận xét tiếp theo để xin công luận phán xét.

1. Bà đốc tờ Nguyễn Thị Thanh viết: Chúng tôi, những kiều bào hải ngoại tại Canada và Hoa Kỳ …

Xin thưa với bà, Những người VN t
chối chế độ CS, rời bỏ quê hương để sống tại Canada, Hoa Kỳ hay các nơi khác trên thế giới là những NGƯỜI VN TỴ NẠN VGCS chứ không phải KIỀU BÀO VN Ở HẢI NGOẠI như bà nói. Bà là người có ăn học nhưng bà xử dụng chữ nghĩa ở đây hoàn toàn không đúng. Hẳn bà hiểu chữ “kiều bào” là cái gì. Hơn nữa, chữ “Chúng tôi” không hiểu gồm bà và những ai. Ở cuối tờ SỚ, bà ký tên nhân danh là Đại Diện Việt Kiều Hải Ngoại. Chuyện này là quá đáng lắm đấy, thưa bà, nếu bà ký tên nhân danh những người VN tỵ nạn chúng tôi. Nếu bà là một Việt kiều sinh sống tại Canada và bà ký tên nhân danh những người Việt Nam cùng có thân trạng như bà thì không kể. Còn như nếu bà cố ý nhân danh toàn thể người VN tỵ nạn để dâng tờ SỚ tầm bậy kia lên cho bọn đầu gấu bán nước ở Hànội thì rõ ràng bà là kẻ tiếm danh. Tôi tin rằng không một ai trong cộng đồng tỵ nạn trong đó có tôi (Hà Tiến Nhất) cho phép bà nhân danh chúng tôi để làm chuyện bậy bạ này. Mong rằng bà không vì một mưu đồ riêng tư nào đó mà tráo trở ý nghĩa của ngôn từ.

2. Bà viết: Quân dội Nhân dân Việt Nam vô cùng bức xúc tức giận khôn nguôi vì mang thân làm người lính với trách nhiệm HY SINH BẢO VỆ TỔ QUỐC, BẢO VỆ NHÂN DÂN ……

Xin thưa với bà, tôn chỉ đầu tiên của quân đội VGCS là “
TRUNG với ĐẢNG”, chứ không phải trung với NƯỚC (hay tổ quốc). Xin bà nhớ kỹ điều đó. Mà đảng đây là cái gì? Xin thưa đảng CSVN là một chi bộ địa phương Đông Nam Á Châu của Quốc Tế 3 CS như chính tài liệu đảng CSVN đã viết ra. Như thế nhiệm vụ của quân đội CSVN là hy sinh và bảo vệ Liên Sô (ngày trước và bây giờ là Trung Cộng) chứ đâu có phải là hy sinh bảo vệ Tổ Quốc và nhân dân VN như bà nói. Bà cứ xem quân đội này nó đã làm gì thì biết. Trước kia chúng xâm lăng miền Nam, pháo kích thành thị, trường học, liệng lựu đạn rạp hát, chợ búa đang họp, giật mìn xe đò, thẳng tay bắn giết đồng bào v.v., và bây giờ chính nó lại ngăn chặn học sinh sinh viên xuống đường biểu tình chống Hán cộng xâm lược, và nhiều hành động côn đồ ác ôn khác như bà thấy đó.

3. Bà viết: Chủ quyền Việt Nam về đất đai luôn được thế giới tôn trọng. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng Biển Đông và trên 84.000 mẩu tây đất Bắc Việt mà Trung quốc đã dùng bạo lực quân sự cướp giựt từ 1972, 1974, 1979, 1988, 2000 một cách bất hợp lý trước Pháp luật Quốc tế, nhất định Trung Quốc phải trã lại cho Việt Nam ngay …..

Xin thưa bà đốc tờ Thanh, Giống Hán phương Bắc luôn có dã tâm xâm lấn nước ta là điều không thể chối cãi, nhưng trong thời VGCS, không phải mọi chuyên lấn đất lấn biển của ta chúng đều thực hiện bằng biện pháp quân sự. Mọi người biết rõ ràng rằng ít ra chuyện mất đất và mất biển do các Hiệp Ước mật tháng 12-1999 và 12-2000 giữa đảng CS Trung Hoa và đảng CSVN là do đảng VGCS tự ý bán gia sản của Tổ Quốc cho ngoại bang Hán cộng chứ không phải do đảng CS Trung Hoa dùng võ lực chiếm đoạt. Bà đốc tờ Thanh nên biết điều đó. VGCS đã tự ý dâng hiến đất đai của Tổ Quốc cho ngoại bang tức là chúng đã tự động bán nước. Vậy mà nay bà kêu gọi kẻ bán nước chống xâm lược không phải là chuyện tào lao mâu thuẫn lắm sao? Lời bà viết không hiểu cố ý hay vô tình gán tội để mất đất mất biển cho dã tâm xâm lăng của Hán cộng chứ không phải do ác tâm bán nước của VGCS.

4. Bà viết: Kính thưa Quý Vị lãnh đạo nước Việt Nam, trước đây Hồ Chủ tịch đã cương quyết tuyên bố “Nhất định không để mất một tất đất vào tay ngoại bang.

Thưa bà đốc tờ Thanh, bà tưởng Hồ Chí Minh là ai? Nó không phải là tên tay sai của Liên Sô sao? Tôi xin chứng minh cho bà thấy:

Số tài liệu 88 Văn Thư Đảng (bản dịch tiếng Việt)

Đồng chí Stalin kính mến !

Tôi gửi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt
Nam . Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu Shaoshi và Van Szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này.

Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản.

Hồ Chí Minh

( đã kí )

31-10-1952

Tôi xin phép nhắc để bà nhớ lời của cố TT Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm. HCM nói không để mất một tấc đất của Tổ Quốc, nhưng nó đã dâng hiến cả giang sơn cho Quốc Tế 3 CS tức Liên Sô. Chỉ có bà tin được HCM, nhân dân VN thì không, dứt khoát không.

5. Bà đốc tờ Thanh viết: Trong suốt gần 100 năm Pháp đã chiếm toàn nước Việt Nam, Nhật Bản đã chiếm Việt Nam, Hoa Kỳ đã giết TT Ngô Đình Diệm của Miền Nam, nhảy vào chiếm Miền Nam Việt Nam, toàn dân Việt Nam đã đứng lên cùng Quân đội nhân dân lấy lại toàn vẹn lãnh thổ nước nhà ….

Thưa bà đốc tờ Nguyễn thị Thanh, câu trích dẫn trên cho thấy rõ ràng bà là cán bộ CS hay ít ra là có đầu óc muốn làm tay sai cho VGCS. Tôi khẳng định như thế. Tôi khỏi giải thích dài dòng vì nếu bà là người Quốc Gia tỵ nạn CS thì bà đã chẳng viết: Hoa Kỳ nhẩy vào CHIẾM miền Nam VN, và: toàn dân Việt Nam đã đứng lên cùng Quân đội nhân dân lấy lại toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Hoa Kỳ không chiếm cứ miền Nam, mà chỉ lợi dụng VN để thực thi chính sách đế quốc toàn cầu của nước Mỹ. Hoa Kỳ có đạt được ý muốn của họ hay không thì còn phải tùy vào Chính Quyền VNCH lúc đó. Nếu TT Ngô Đình Diệm không bị bọn tướng tá khốn nạn giết chết thì liệu HK có thực thi được ý muốn của mình không? Cũng nên luận sự việc qua 2 cái chết của TT Diệm và TT Lý Thừa Vãn của Nam Hàn và 2 chính quyền kế nhiệm sau đó tại VN và Nam Hàn là Nguyễn Văn Thiệu và Phác Chính Hy thì rõ sự việc thôi. Bà đốc tờ Thanh còn dám cả gan ăn nói càn dở rằng: toàn dân Việt Nam đã đứng lên cùng Quân đội nhân dân lấy lại toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Bà nói thế, vậy nếu tôi đội cái nón cối lên đầu bà liệu có oan không? Thôi tôi để bà tự đội lấy vậy.

6. Bà viết: Nhân dân Việt Nam đã hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày đại thắng.”

Thưa bà, ngoài bà và các đồng chí của bà chứ còn nhân dân nào, nhất là nhân dân miền Nam hát bài này sao. Chính tai kẻ hèn này được nghe nhiều em bé miền Nam hát thế này: Như có cáo già trong cầu tiêu nhà tớ ….. đấy thưa bà.

7. Bà Thanh viết: Tại sao đất nước Việt Nam trước đây văn minh đứng hạng nhất Đông Nam Á mà nay phải tụ hậu đến trở thành nước nghèo nhất và băng hoại nhất thế giới vậy? Tại sao? Rõ ràng là tại vì CS Tàu hà hiếp chúng ta không ngừng làm cho chúng ta phải khốn đốn đau thương với CS Tàu Hán Mông Cổ mãi như vậy đến mất nước thôi!

Bà cho rằng tình trạng đất nước nghèo nàn, lạc hậu và băng hoại như ngày nay là do CS Tầu hà hiếp chúng ta không ngừng? Có thật vậy không đấy thừ bà? Tôi thật tiếc cho cái “trí thức” của bà sao mà nó u mê dường ấy! Cả nước, kể cả nhiều tên CS gộc, đều cho rằng chế độ CS là nguyên nhân chính gây nên tình trạng thê thảm ngày nay của đất nước ta, ngoại trừ bà. Dân đứng bến nó sẽ phê cái trí thức của bà là loại “trí thức chồn lùi” đấy. Bà không ngại sao?

8. Bà Thanh viết: Cá nhân tôi không còn sức để xin xung phong vào Quân đội Nhân Dân, nhưng tôi còn trí óc và cái lưởi, tôi xin Quý vị lãnh đạo TƯĐ CSVN cho tôi được xung phong trong Phái đoàn đi đối thoại thương thuyết với quân thù để thuyết phục chúng, để làm cho chúng phải tỉnh giấc mộng bá quyền cướp nước hại Tổ Quốc và Quốc dân Việt Nam yêu dấu của tôi.

Đến đây thì bà diễu và bà diễu quá dở mất rồi. Bà mong muốn gia nhập bộ đội nhưng bà tiếc rằng bà đã già, không còn sức. Bà ân hận điều đó cũng phải thôi vì nếu bà vô lính thì bọn Hànội chúng lại phải mất tiền mướn người take care cho bà thì phiền phức lắm. Còn bà muốn xin làm thuyết khách thì ôi thôi, bà chưa đủ khả năng dù là làm tên đánh ngựa cho Án Anh đâu. Hay bà còn đòi làm Trương Nghi, Tô Tần? Bà không sợ giống như con ễnh ương khi nó muốn thành con bò sao?

Cuối cùng tôi xin minh định tôi kông phủ nhận tinh thần chống ngoại xâm Hán cộng của bà đốc tờ Nguyễn Thị Thanh (nếu được như bà tự khoe khoang trong tờ SỚ), nhưng,

a. Vì cung cách xưng hô, lời lẽ của kẻ tôi đòi, nói chung là văn phong của bà đốc tờ Nguyễn Thị Thanh trong lá thư của bà viết gởi bọn đầu sỏ Hànội, tôi buộc lòng phải gọi lá thư của bà là một tờ SỚ, và tôi kể bà là một cán bộ hoặc ít nhất là một thần dân của chế độ VGCS. Vả lại chính bà cũng tự nhận mình là một Việt kiều tại Canada kia mà.

b. Bà Thanh đã tự mâu thuẫn đến ngây ngô, khờ khạo khi bà năn nỉ để xin bọn cầm quyền bán nước chống ngoại xâm. Mà chống ai, chẳng hóa ra là chống kẻ mà bọn Việt gian CS Hànội đã bán đất cho nó. Cũng như không! Tiếu lâm quá có phải không thưa bà đốc tờ Nguyễn thị Thanh.

c. Bà viết gì thì viết, người ta cũng chỉ coi là chuyện múa may tào lao của bà mà thôi. Tuy nhiên còn cái vụ 2 chữ “Việt kiều” mà bà tự nhận là người đại diện sau chữ ký của bà dưới tờ SỚ thì bà cần phải minh xác cho rõ ràng. Tôi cho rằng nếu bà coi người tỵ nạn chúng tôi là Việt kiều thì chính bà là người đầu tiên có ý đồ muốn công khai thi hành Nghị Quyết 36 của bọn VGCS tại hải ngoại này rồi vậy.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

* (Dưới đây là nguyên văn tờ SỚ của bà đốc tờ Nguyễn Thị Thanh

TÂM HUYẾT THƠ GỞI CÁC CẤP LÃNH ĐẠO VIỆT NAM
_______________________________

Trân trọng kính gởi TBT TƯĐ Nồng Đức Mạnh

Trân trọng kính gởi Chủ tịch CHXHCNVN Nguyễn Minh Triết

Trân trọng kính gởi Thủ tướng Chính phủ VN Nguyễn Tấn Dũng

Trân trọng kính gởi Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam

Trân trọng kính gởi Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc TƯ VN

Trân trọng kính gởi Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng VN

Trân trọng gởi Hội Phụ Nữ Việt Nam

Trân trọng kính gởi Toàn Dân Việt Nam Quốc nội và Hải ngoại

Chúng tôi, những kiều bào hải ngoại tại Canada và Hoa Kỳ, với trái tim rướm máu, với tâm can nát tan, với trí óc ưu phiền, xót xa, sầu khổ, chúng tôi đang cố sức xúc tiến việc kêu gọi toàn thể các Cộng đồng người Việt trên toàn thế giới, toàn thể các Quốc gia của Thế giới Tự do trên Hoàn cầu ủng hộ Việt Nam, ủng hộ các nhà Lãnh đạo và Quân dội Nhân dân Việt Nam chống lại xâm lăng Trung Cộng và đòi lại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng Biển Đông và trên 84.000 mẩu tây lãnh thổ lãnh hải mà Trung Quốc đã dùng vũ lực áp đảo, ức chế, hiếp đáp Quý Vị Lãnh đạo nước anh em XHCM mà tạm chiếm,

Hân hạnh lấy máu trộn nước mắt viết bức tâm huyết thư nầy gởi đến các cấp lãnh đạo đảng CSVN, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội Nhân dân, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Hội Phụ Nữ Việt Nam để trình bày những nổi niềm đớn đau não nùng của chúng tôi trước sự cố Trung Quốc chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và Biển Đông là kho tàng dầu mỏ vĩ đại, vô tận của Tổ Việt Nam cùng hơn 84.000 mẩu tây đất Bắc Việt mà tổ tiên bao đời đã đổ núi xương biển máu giữ gìn từng tất đất để lại cho chúng ta ngày nay. Nhân dân trong nước vô cùng ấm ức xót xa; thanh niên Việt Nam quốc nội và hải ngoại vô cùng uất ức xốn xang trước sự xâm lăng của Tàu Hán Mông Cổ Chệt; Quân dội Nhân dân Việt Nam vô cùng bức xúc tức giận khôn nguôi vì mang thân "làm người lính với trách nhiệm HY SINH BẢO VỆ TỔ QUỐC, BẢO VỆ NHÂN DÂN KHÔNG TIẾC GÌ ĐẾN SINH MẠNG mà nay đành bị các cấp Lãnh đạo Trung Ương đảng và Nhà nước trói tay để cho quân thù Trung Cộng cưỡng chiếm lãnh thổ nước nhà.

Thưa quý vị lãnh đạo Việt Nam, từ sau Đệ I thế chiến Luật pháp Quốc tế về chủ quyền đất đai các quốc gia đã được qui định rõ ràng trong công lý và hòa bình. Việc chiếm hữu đất đai phải được thực hiện từ đầu lúc đất đai còn vô chủ. Trung cộng đã tạm chiếm đất đai của Việt Nam bằng lợi dụng đường lối xảo quyệt anh em xã hội chủ nghĩa, bằng dối gạt, dụ dổ, hiếp đáp, áp lực và bằng chiến tranh hỏa lực hoàn toàn không thể đem lại chủ quyền thật sự cho quân xâm lăng Trung Cộng. Chủ quyền Việt Nam về đất đai luôn được thế giới tôn trọng. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng Biển Đông và trên 84.000 mẫu tây đất Bắc Việt mà Trung quốc đã dùng bạo lực quân sự cướp giựt từ 1972, 1974, 1979, 1988, 2000 một cách bất hợp lý trước Pháp luật Quốc tế, nhất định Trung Quốc phải trả lại cho Việt Nam ngay. Chúng ta nhất định phải lấy lại không sót một tấc đất với sự can thiệp của Liên Hiệp quốc và của toàn thể Thế giới văn minh của loài người ngày nay.

Kính thưa Quý Vị lãnh đạo nước Việt Nam, trước đây Hồ Chủ tịch đã cương quyết tuyên bố "Nhất định không để mất một tất đất vào tay ngoại bang". Trong suốt gần 100 năm Pháp đã chiếm toàn nước Việt Nam, Nhật Bản đã chiếm Việt Nam, Hoa Kỳ đã giết TT Ngô Đình Diệm của Miền Nam, nhảy vào chiếm Miền Nam Việt Nam, toàn dân Việt Nam đã đứng lên cùng Quân đội nhân dân lấy lại toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Lẽ nào sau khi độc lập thống nhất đất nước, đảng CS và chính quyền CSVN, Quân đội nhân dân Việt Nam lại nỡ lòng để cho Trung Quốc xâm chiếm nước ta một cách kỳ dị, ngang trái và dễ dàng đến thế hay sao? Nhân dân Việt Nam đã hát bài "Như có Bác Hồ trong ngày đại thắng …." thì nay Hồ Chủ Tịch vẩn ở giữa chúng ta, Bác Hồ có bằng lòng, toàn thể Nhân dân Việt Nam có bằng lòng, Quân đội Việt Nam có bằng lòng, ba triệu đảng viên đảng CSVN có bằng lòng để cho Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đặt tay ký giao nhượng, biếu xén đất Tổ quốc cho kẻ thù xâm lăng Trung Cộng hay không?!

Kính thưa Quý vị lãnh đạo đất nước, Biển Đông là Cửa Ngõ Quý báu nhất của sự tồn vong dân tộc, là Bộ mặt văn hóa cao cấp nhất của nước Việt Nam, cùng với đất đai cực bắc Việt Nam là tiền đồn, là thành trì kiên cố nhất giúp Tổ Tiên Việt Nam chúng ta giữ nước chống bắc phương suốt 2000 năm nay và ngày nay giúp chúng ta. Sau khi Mã Viện đã lấy hết đất đai của vua Trương Nữ Vương suốt từ Động Đình Hồ đến Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh, Thác Bản Dốc. sau khi Tàu Hán Mông Cổ đã chiếm hết đất đai của các vua Hùng và của nước Văn Lang, nước Lĩnh Nam của chúng ta từ Động Đình Hồ đến Ải Nam Quan để tạo nên một lục địa Trung Hoa rộng lớn vĩ đại gấp 30, 40 lần nước ta ngày nay mà chúng vẩn còn lòng tham vô đáy là không chấp nhận được. Dầu cho Trung Cộng bất nhân đến đâu, lẻ nào còn dám ôm mối tham vọng cướp giật đất nước chúng ta một cách hèn hạ, một cách vô liêm sỉ như vậy thì nước Tàu dâu còn chút gì là văn minh là văn hóa con người. Đất đai Việt Nam chúng ta là của một nước mà chính Tàu Hán Mông gọi là nước anh em Xã Hội Chũ Nghĩa "Môi hở răng lạnh" kia mà!

Kính thưa Quý Vị, đối với một nước đàn anh xã hội chủ nghĩa rộng lớn bao la hùng vĩ, nước ta chỉ là một chữ S nhỏ xíu, ốm o, vậy mà nước anh em chủ nghĩa CS Tàu lại còn tham vọng vơ vét, bòn mót cướp dần đất nước chúng ta là điều toàn dân Việt Nam không thể tha thứ, thế giới văn minh không thể tha thứ. Nhân dân toàn quốc đã cùng thanh niên từ Bắc vào Nam đều xuống đường biểu tình, toàn thể đồng bào Việt Nam hải ngoại xót xa đau thương nảo nùng cương quyết chống Trung Cộng xâm lăng lãnh thổ nước ta.

Từ sau Thế chiến I, Thế giới Tự Do sống ấm no dư dật, hạnh phúc phát triển nhanh chóng trong hòa bình. Có quốc gia nào cua Thế giới Tự do đi cướp đất nước của nhau nữa đâu. Trong lúc đó, Thế giới Cộng sản trên danh nghĩa là chủ nghĩa thân thiện cứu giúp nhau, chỉ vỏn vên còn 3, 4 quốc gia trên thế giới, vậy mà CS Tàu hùng mạnh lại đi xâu xé nước nhỏ anh em VN, mạnh hiếp yếu, chao ôi, hổ thẹn cho XHCN biết là dường nào!!

Quý Vị còn ân nghĩa gì nữa mà theo XHCN do Trung Cộng lãnh đạo với chánh sách hà hiếp xâm lăng, để chúng lấy cớ đàn anh mà cưỡng bức bắt nhường đảo, nhượng tài sản kếch xù dưới lòng biển, nhường lãnh thổ lãnh hải để tiến dần đến tiêu diệt đất nước chúng ta. Quý Vị hãy thay đổi XHCN thành độc lấp, dân chủ, tự do thật sự, để Liên minh thế giới Tự Do giúp chúng ta bảo toàn lãnh thổ chống TC. Nếu không thế giới tự do cho rằng nội bộ CS dàn xếp với nhau. Khi có Liên Minh quốc tế ủng hộ Việt Nam , chúng ta sẽ mau chóng phát triển như các nước Nhật Bổn và Thái Lan , Nam Hàn, Đài Loan … Chẳng mấy chốc chúng ta sẽ lầy lại địa vị xứng đáng của VN xưa. Trước đây nước Việt Nam hùng cường nhất Đông Nam Á mà nay phải tụt hậu đến trở thành nước nghèo và băng hoại. Tại sao?!

Toàn thể kiều bào trên thế giới, tuy sống xa đất nước, tuy không cần hưởng một chút lợi lộc gì của đất nước, nhưng tình yêu Tổ Quốc VN, tình nghĩa đồng bào ruột thịt luôn cuồn cuộc trong huyết quản mọi người đang sống hạnh phúc trên đất tự do của các quốc gia trong Thế giới Tự do. Toàn thể kiều bào Việt Nam khắp nơi đang ấm ức lo tính toán khởi kiện Trung Cộng xâm chiếm lảnh thổ Việt Nam, mặc dầu họ không có một thẩm quyền chính đáng, không có một quyền hạn như Chính phủ và Quốc dân Việt Nam tại quốc nội. Toàn thể đồng bào hải ngoai ngày đêm đang lo tính kế hoạch kiện Trung Quốc buộc họ chẵng những phải ngưng chính sách xâm lăng nước nhỏ mà cò hơn nữa là buộc họ phải trã lại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biễn Động cùng hơn 84.000 mẩu tây đất miền cực Bắc lại cho Việt Nam.

Kính thưa Quý Vị Lãnh đạo Trung Ương đảng Công Sản Việt Nam, Quý vị nhất định không yếu hèn, không khiếp nhược. Quý vị không bao giờ bơ vơ cô thế. Toàn Quân Đội Nhân Dân VN đang sẵn sàng hy sinh hàng triêu triệu xương máu để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ Tổ Quốc; toàn thể thanh niên Việt Nam khắp năm châu bốn bể sẵn sàng cùng với toàn thể thanh niên quốc nội nhập ngủ lên đường cứu quốc. Chưa bao giờ chúng ta có chính nghĩa cao như hiện nay, chưa bao giờ chúng ta có dịp tốt như hiện nay đề bày tỏ lòng biết ơn Tổ tiên ngàn đời, để đền nợ tổ Quốc thân thương, để hy sinh xương máu một cách cao đẹp.

Trong các cuộc phỏng vấn, các sĩ quan già và trẻ của Quân Đội Nhân Dân VN đã nhiều lần lên tiếng than thở một cách đau thương rằng: "Làm thân lính, trách nhiệm của chúng tôi là bảo vệ đất đai Tổ Quốc và mạng sống Nhân Dân. Chúng tôi có tiếc gì mạng sống của mình trong nhiệm vụ cao cả nầy. Vậy mà chúng tôi bị trói buộc, đứng nhìn kẻ thù xâm chiếm lãnh thổ và giết hại đồng bào. Như vậy thì chúng tôi chỉ còn con đường chết đi mà thôi, chứ còn sống làm người lính mà làm gì nữa." Câu nói thể hiện lòng quả cảm sâu sắt của người quân nhân Việt Nam khiến lòng chúng tôi càng sôi sục lên dòng máu bất khuất chống ngoại xâm được di truyền từ Trưng Vương, Triêu Soái, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đại đế, đại tướng Bùi Thị Xuân …. và biết bao nhiêu anh hùng nam nữ vô danh ….

Kính thưa Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, nguồn tin mới nhất từ giới quân sự cao cấp Việt Nam và đã được kiểm chứng qua một số thành viên ngoại giao đoàn tại Hà Nội và Bắc Kinh thì "Bắc Kinh đang đòi buộc Việt Nam phải nhượng thêm Bãi Tục Lãm thuộc tỉnh Quảng Ninh cho họ trước khi dứt điểm kế hoạch cắm cột mốc dọc theo biên giới 2 nước. Trung Quốc đòi các lãnh tụ đảng CSVN phải trả lời dứt khoát tại cuộc họp giữa đôi bên ngày 12/12/2008 tại vùng Hữu Nghị - Lạng Sơn. Tại sao CS Tàu buộc VN phải trã lời nhượng đất cho chúng mãi mãi. Tục Lãm là một trong 3 điểm nóng nhất còn bàn cãi giữa đôi bên. Hai vùng còn lại là khu Bản Giốc và khu mộ Cao Bằng thì đã xong. Phía Trung Quốc đòi Việt Nam phải nhượng hẳn Tục Lãm và nhượng thêm đất 2 vùng kia nữa. Ôi ! Thật là lủ côn đồ ăn cướp ngày trắng trợn. Cũng theo nguồn tin trên, các thành viên Bộ Chính Trị đảng CSVN đã nghiêng về giải pháp giao nhượng Bãi Tục Lãm, Quảng Ninh, bất kể sự phản đối mạnh mẽ từ Quân đội Nhân dân Việt Nam." Tôi không tin như vậy, đây là tin sai, TƯĐ không nhượng bộ CS Tàu đâu phải không? thưa Quý Vị. (Radio CTM tường trình từ Hà Nội)

Kính thưa Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, việc giữ gìn đất đai lãnh thổ là việc dễ, việc đòi lại lãnh thổ là việc vô cùng khó khăn. Vậy mà toàn dân Việt Nam hải Ngoại thề quyết dành lại lãnh thổ bị Tàu Hán Mông Cổ đã cướp mất, mặc dầu chúng tôi không còn sống trong đất nước. Quý vị thấy đó: Từ Quân đội Nhân dân đến Toàn thể Đồng bào dầu là thanh niên cường tráng hay nữ giới già cả ốm yếu như kẻ hèn đang viết bức huyết thư nầy vẩn sẵn sàng hy sinh tất cả vì non sông. Cá nhân tôi không còn sức để xin xung phong vào Quân đội Nhân Dân, nhưng tôi còn trí óc và cái lưởi, tôi xin Quý vị lãnh đạo TƯĐ CSVN cho tôi được xung phong trong Phái đoàn đi đối thoại thương thuyết với quân thù để thuyết phục chúng, để làm cho chúng phải tỉnh giấc mộng bá quyền cướp nước hại Tổ Quốc và Quốc dân Việt Nam yêu dấu của tôi. Thật tôi không cầm được nước mắt và tiếng khóc đau thương, nảo nừng cùng cực khi viết nên những dòng nầy.

Ơi hỡi Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, Quý vị làm sao có tấm lòng mãi quốc cầu vinh được chứ, tôi không tin. Quân đội Nhân dân anh dũng đang tha thiết xuất quân cứu nước, toàn dân Việt hải ngoại cùng một lòng với đồng bào quốc nội đứng lên chống Trung Cộng cướp nước hại dân ta. Toàn Thế giới Tự do đang sẵn sàng giúp Việt Nam chống xâm lặng Tàu.

Quân đội Nhân dân Việt Nam, toàn dân quốc nội và hải ngoại không tha thứ, Tổ quốc, Lịch sử, các bực Tiền bối Anh hùng Dân tộc lên án Quý Vị nếu Quý vị nhượng đất xương máu cho kẻ thù. Quý Vị hãy cam đảm lên, bất khuất chống kẻ thù chung, nhất định không nhượng bộ một tất đất cho kẻ thù. Quân đội Nhân dân VN anh dũng, lực lượng đấu tranh dân tộc hải ngoại cũng như quốc nội đang bừng bừng sát khí theo sát bên Quý Vị để bảo vệ lãnh thổ VN và để đòi lại tất cả đất đai mà Tàu Hán Mông Cổ đã cướp trong sách lượt bành trướng từ muôn thuở với mục đích chiếm dần chiếm hồi toàn lãnh thổ và tiêu diệt dân ta, đồng hóa dân tộc Việt Nam như Mãn Châu Tây Tạng. Toàn quân toàn dân ủng hộ Quý Vị trong đường lối bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Nếu chúng ta không giúp bảo toàn lãnh thổ nước nhà thì siêu cường nào mà có lòng giúp chúng ta cho được chứ ?

Kính thưa Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, bức huyết thư được viết vô cùng khẩn trương, không thể nào giải hết nổi niềm tâm tư đau khổ của chúng tôi trong giây phút nầy, cấp tốc gởi đến Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam bằng đường bưu điện và qua các Mạng lưới Vi tín. Chúng tôi viết ít, Quý Vị hiểu nhiều. Chúng tôi khẩn thiết kêu nài, van xin Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam nhất định không nhượng bộ quân thù bắc phương, chúng ta đang chủ trương 'Giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam'.

Kính thưa Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, trước khi đóng bức huyết thư viết bằng máu trộn nước mắt nầy, chúng tôi tha thiết thưa cùng Quý Vị Lãnh Đạo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam rằng: « Nếu Quý Vị ký giấy nhượng đất cho kẻ thù Bắc phương, tức Quý Vị tự đánh mất thanh danh của mình, Quý Vị sẽ bôi nhọ lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam và làm cho Con cháu ngàn đời của Quý Vị sẽ hổ thẹn về Quý Vị. Hồn thiện sông núi, toàn thể Anh Linh các Vị nam nữ Anh Hùng dân tộc từ nghìn xưa đến nay sẽ lên án

Quý Vị là bán nước cầu vinh. Toàn Quân, toàn Dân Việt Nam hải ngoại cũng như quốc nội, sẽ xem Quý Vị là những kẻ khiếp nhược, sợ hãi, tham sanh úy tử trước giặc thù; và toàn Thế giới sẽ lên án và coi khinh dân tộc Việt Nam, một dân tộc nổi tiếng anh hùng từ ngàn xưa đến nay. Mối nhục nhã nầy sẽ không bao giờ rửa sạch.

Xin cầu chúc Quý Vị khang an trường thọ, và đắc thắng trong việc chống quân thù.

Trân trọng kính bái tạ

Gs. Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh MD. PhD.

Đại Diện Việt Kiều Hải Ngoại

Chủ tịch Hội Bảo Trợ Nạn Nhân Ấu Dâm Quốc Tế

Email : docteurthanh07@sympatico.ca

Thaotonthat@yahoo.com



Shoes Fly at Bush


JENNIFER LOVEN, AP White House Correspondent Jennifer Loven, Ap White House Correspondent
13 mins ago

In this image from APTN video, a man throws a shoe at President George W. Bush
AP – In this image from APTN video, a man throws a shoe at President George W. Bush during a news conference …

KABUL, Afghanistan – President George W. Bush wrapped up a whirlwind trip to two war zones Monday that in many ways was a victory lap without a clear victory. A signature event occurred when an Iraqi reporter hurled two shoes at Bush, an incident the president called "a bizarre moment."

Bush visited the Iraqi capital just 37 days before he hands the war off to his successor, Barack Obama, who has pledged to end it. The president wanted to highlight a drop in violence and to celebrate a recent U.S.-Iraq security agreement, which calls for U.S. troops to withdraw from Iraq by the end of 2011.

"The war is not over," Bush said, but "it is decisively on its way to being won."

Bush then traveled to Afghanistan where he spoke to U.S. soldiers and Marines at a hangar on the tarmac at Bagram Air Base. The rally for over a thousand military personnel took place in the dark, cold pre-dawn hours. Bush was greeted by loud cheers from the troops.

"Afghanistan is a dramatically different country than it was eight years ago," he said. "We are making hopeful gains."

But the president's message on progress in the region was having trouble competing with the videotaped image of the angry Iraqi who hurled his shoes at Bush in a near-miss, shouting in Arabic, "This is your farewell kiss, you dog!" The reporter was later identified as Muntadar al-Zeidi, a correspondent for Al-Baghdadia television, an Iraqi-owned station based in Cairo, Egypt.

In Iraqi culture, throwing shoes at someone is a sign of contempt. Iraqis whacked a statue of Saddam with their shoes after U.S. Marines toppled it to the ground following the 2003 invasion.

Bush told reporters later that he didn't think "you can take one guy throwing shoes and say this represents a broad movement in Iraq. You can try to do that if you want but I don't think that would be accurate."

Reaction in Iraq was swift but mixed, with some condemning the act and others applauding it. Television news stations throughout Iraq repeatedly showed footage of the incident, and newspapers carried headline stories.

In Baghdad's Shiite slum of Sadr City, supporters of radical Shiite cleric Muqtada al-Sadr called for protests against Bush and demanded the release of the reporter. Thousands took to the streets Monday, chanting, "Bush, Bush, listen well: Two shoes on your head."

Talking to a small group of reporters after the incident, Bush said, "I didn't know what the guy said, but I saw his sole." He told the reporters that "you were more concerned than I was. I was watching your faces."

"I'm pretty good at ducking, as most of you know," Bush joked, adding quickly that "I'm talking about ducking your questions."

On a more serious note, he said, "I mean, it was just a bizarre moment, but I've had other bizarre moments in the presidency. I remember when Hu Jintao was here. Remember? We had the big event? He's speaking, and all of a sudden I hear this noise — had no earthly idea what was taking place, but it was the Falun Gong woman screaming at the top of her lungs (near the ceremony on the White House lawn). It was kind of an odd moment."

The Iraqi government condemned the act and demanded an on-air apology from Al-Baghdadia television, the Iraqi-owned station that employs Muntadar al-Zeidi.

Several people descended on the man immediately after, wrestling him to the ground, and it took a minute or two for security agents to clear the crowd and start hauling him out. As they dragged him off, he was moaning and screaming as if in pain. Later, a large blood trail could be seen on the carpet where he was dragged out of the room.

He was taken into custody and reportedly was being held for questioning by Prime Minister Nouri al-Maliki's guards and is being tested for alcohol and drugs.

Other Arab journalists and commentators, fed up with U.S. policy in the Middle East and Bush's decision to invade Iraq in 2003 to topple Saddam, echoed al-Zeidi's sentiments Monday. Abdel-Bari Atwan, editor of the influential London-based newspaper Al-Quds Al-Arabi, wrote on the newspaper's Web site that the incident was "a proper goodbye for a war criminal."

After a meeting with Hamid Karzai in the capital of Kabul, Bush said he told the president of Afghanistan: "You can count on the United States. Just like you've been able to count on this administration, you'll be able to count on the next administration as well."

After a brief refueling stop in England, Bush headed back to the United States.

The mixed reactions to Bush in both countries emphasized the uncertain situations Bush is leaving behind in the region.

In Iraq, nearly 150,000 U.S. troops remain in Iraq, protecting the fragile democracy. More than 4,209 members of the U.S. military have died and $576 billion has been spent since the war began five years and nine months ago.

In Afghanistan, there are about 31,000 U.S. troops and commanders have called for up to 20,000 more. The fight is especially difficult in southern Afghanistan, a stronghold of the Taliban where violence has risen sharply this year.
___

Associated Press writer Qassim Abdul Zahra in Baghdad contributed to this report.

http://cosmos.bcst.yahoo.com/up/player/popup/?rn=3906861&cl=11105288&ch=4226714&src=news


Bấm vào đây để xem video

Sunday, December 14, 2008

Mở lại nghi án năm Ất Sửu (1925): Lý Thụy (HCM) và Lâm Ðức Thụ bán đứng cụ Phan Bội Châu - Mường Giang


Mường Giang

Tới bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền Bắc, vẫn không biết đích thực "Hồ Chí Minh" là ai ? vì từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã thay tên đổi họ tới 26 lần (Nguyễn tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh ...)

Hồ Chí Minh suốt một kiếp người, từ khi xuất dương năm 1911 tới lúc nhắm mắt năm 1969, là một kẻ xảo ngôn, phô sắc, gian ác, hiểm độc, bán nước, phản dân tộc, xét về tư cách và hành động, đích thật là một tiểu nhân. Sau ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã hết cơ hội để "Bác" tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc doanh, còn dám bẻ cong ngòi bút , để tuyên truyền dụ dỗ những người nhẹ dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi trước.

Các thế hệ VN kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên được những cuộc thanh trừng đẫm máu của Hồ và phe cánh, đối với những người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng, suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xả thân chống Pháp , để dành độc lập cho dất nước và nửa mảnh sơn hà cho Hồ .

Ai quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò "Ðánh Mỹ-Ngụy cứu nước". Thảm tuyệt nhất trong lịch sử Việt, cũng vẫn là những vụ tàn sát đồng bào vô tội vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trên các đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế, Bình Ðịnh, Kon Tum-Pleiku và Bình Long-An Lộc năm 1972 và khắp VNCH vào những ngày tháng 4-1975. Ai quên được các cuộc tàn sát trả thù Quân Công Cán Cảnh VNCH của CS Hà Nội sau ngày 30-4-1975, các cuộc cướp giựt tài sản đồng bào Miền Nam VN qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, xuất cảng người vươt biển, lao động, làm điếm.. để Hồ và Ðảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô sản quốc tế, đưa đất nước lên Xã Hội Chủ Nghĩa mạt rệp, tàn tệ và bi thảm tận cùng như hiện nay mà bất cứ ai cũng thấy.

Lịch sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Hồ và Ðảng chiếm được nửa nước VN từ bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-4-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn và từ ấy đến nay (2008) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt thật của Hồ và Ðảng là gì ?. Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết gia thù quốc hận suốt bao chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành cái "Thần" của Việt Sử , một sự trái ngược hoàn toàn với những câu chuyện "Sử Ngụy Tạo "của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Về cái được gọi là tài liệu của GS Hồ Tuấn Hùng ở Ðài Loan nói Hồ Chí Minh đã chết trong nhà tù Hồng Kông vào năm 1932 và chứng minh có một người Tàu gốc Hạ Phương tên Hồ Tập Chương thay thế Hồ tới khi y chết vào ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Thật ra câu chuyện cũng chẳng có gì mới mẻ vì đã được nhiều sử sách trong và ngoài nước đề cập tới nhiều lần qua các diễn đàn vấn thế kỷ ?.

Trong tác phẩm tự phán (PBCNB), cụ Phan cho rằng mình đã bị Nguyễn thượng Huyền bán đứng cho Pháp vào ngày 1-7-1925, vì chỉ có y mới biết rõ lộ trình của ông mà thôi. Nhưng sự thật thì không phải vậy, năm 1928 lần đầu tiên Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, trong tài liệu "ai bán đứng cụ Phan bội Châu?" đã chỉ đích danh Lý Thụy (Hồ Chí Minh) đã bán Cụ Phan cho Pháp. Năm 1948 Ðào trinh Nhất, trong loạt bài đăng trên báo Cải Tạo, cũng viết rằng, chính Lý Thụy là thủ phạm bán đứng cu Phan. Ngoài ra Bùi Ðình trong vụ án PBC và Bùi văn Hội (ba nhà chí sĩ ho Phan) đã chứng minh chính Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ đã bán Cụ Phan cho Pháp.

1. PHAN BỘI CHÂU XUẤT DƯƠNG CỨU NƯỚC:

Là một nhà nho tiêu biểu cho giới sĩ phu yêu nước, Phan Bội Châu đã ném danh lợi phù phiếm vào trời đất mông mênh, để chọn cho mình một cuộc sống phi thường, dấn thân đấu tranh cho dân, cho nước, theo đúng truyền thống ngàn đời của thanh niên kẻ sĩ thời đại: "Nhân sinh tự cổ thùy vô tử? Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh" .

Những sử gia chân chính xưa nay khi luận anh hùng, thường không chú trọng đến sự thành công vật chất, mà chỉ quan tâm đến các giá trị tinh thần. Bởi vậy trong dòng sông lịch sử Hồng Lạc, từ buổi bình minh dựng nước thời tổ Hùng Vương cho tới hôm nay, ta thấy ngoài những minh quân, hiền tướng như Lý thánh tông, Trần nhân Tông, Lê thánh Tông, Lý thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung đã tạo nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Bên cạnh đó, còn có không biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ, cũng đã hy sinh cho Tổ quốc dân tộc. Họ là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, là Nguyễn Biểu, Ðặng Dung, Trương Ðịnh, Thủ khoa Huân, Phạm hồng Thái, Cô Giang, Nguyễn thái Học... là Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và mới nhất có hàng triệu chiến sĩ VNCH trước này 30-4-1975 được nối tiếp bởi Trần văn Bá, Võ Ðại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Lý Tống... tất cả không thành công nhưng thành nhân, danh thơm muôn thuở, khí phách hiên ngang, đáng được đời ngưỡng mộ. Trong hàng ngũ anh hùng liệt nữ trên, Phan Bội Châu qua tâm khảm của nhiều người Việt Nam, là một chiến sĩ yêu nước tha thiết, nồng nàn, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, gạch nối giữa hai phong trào Văn Thân và Duy Tân, cùng có chung một mục đích trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc vào đầu thế kỷ XX.

+ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA PHAN BỘI CHÂU:

Từ sau những cái chết oanh liệt của các lãnh tụ chống Pháp như Cao Thắng, Phan Ðình Phùng, Ðinh công Tráng, Mai xuân Thưởng và nhất là việc Vua Hàm Nghi bị tên Trương quang Ngọc bắt giao cho Pháp và bị đày ải tận Phi Châu, thì phong trào Cần vương coi như đã thất bại dù trên rừng núi Yên Thế, Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân vẫn tiếp tục chống giặc thù, trong tình thế tuyệt vọng. Nhưng dân tộc Việt Nam muôn đời luôn có truyền thống bất khuất trước kẻ thù xâm lăng, nên lớp này vừa ngã xuống, lập tức đã có ngay thế hệ khác đứng dậy thay thế, để tiếp tục con đường tranh đấu dành độc lập cho quê hương.

Vì vậy từ đầu thế kỷ 20 khắp nước nở rộ lên một phong trào đấu tranh mới, cầm đầu bởi một tầng lớp sĩ phu nho giáo đầy nhiệt huyết và thức tỉnh trước chiến công hiển hách của Nhật Bổn đã đánh bại Thanh triều và Nga Sô. Trong bối cảnh đó, dù cùng chung lý tưởng là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi Ðại Việt, nhưng trong phương cách hành động vẫn có nhiều khác biệt, như có người thì chuẩn bị võ trang tiếp tục đánh Pháp, trái lại có kẻ chủ trương tranh đấu công khai với kẻ thù bằng cách mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, lập hội đòi dân chủ. Tóm lại, đó là chủ trương của hai nhóm kháng Pháp: cải cách và bạo động.

Trên thực tế, Phan Bội Châu là lãnh tụ của phong trào chống Pháp bằng phương cách bạo động nhưng đồng thời cũng ý thức được tác dụng hữu ích của phong trào cải cách, vì vậy ông đã sử dụng cả hai phương thức đấu tranh trên và được cả hai phái cũng như toàn dân quí trọng, tin tưởng. Ngoài ra Phan Bội Châu viết nhiều nhất và tác phẩm của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quốc dân lúc bấy giờ.

Tóm lại trong suốt một phần tư thế kỷ 20, Phan Bội Châu được xem như là một nhà ái quốc lớn nhất, một ngôi sao bắc đẩu dẫn lối cho dân tộc trên đường tháo gỡ ách nô lệ của ngoại bang. Trên văn đàn, thơ văn Phan Bội Châu tiêu biểu cho khuynh hướng yêu nước, phản ảnh trung thực cảnh quốc phá gia vong của một dân tộc, ý tưởng chẳng những mới mẻ mà văn phong càng hàm xúc, làm lôi cuốn mọi người, nhất là giới học sinh, thanh niên nam nữ. Sau này, nhiều người đã ví Ông với Văn Thiên Tường (1236-1282) đời mạt Tống, tể tướng cũng là một nhà thơ lỗi lạc của Trung Hoa, khi tìm hiểu tác giả qua bài chính khí ca:

thâm tâm nhất phiến từ châm thạch
bất chỉ nam phương, bất khẳng hưu
(lòng ta như mãnh nam châm, nếu không hướng về quê hương miền nam, về Tổ quốc thì ta vẫn chưa yên dạ)

tòng kim biệt khúc Giang Nam lộ
hóa tác đề quyên, đái huyết qui
(từ nay vĩnh bịệt Giang Nam nhưng ta sẽ hóa thành Ðỗ quyên, kêu đến nhỏ máu để tự bay về chốn cũ)

sơn hà phá toại phong phiêu nhứ
thân thế phù trầm vũ đá bình.
(đất nước đang lúc nguy khốn, xơ xác như cánh hoa tơi tả, thân thế người dân trôi nổi dập dồn)

Cùng một cảnh ngộ chim lồng cá chậu như Văn Thiên Tường, từ năm 1926 Phan bội Châu bị Pháp giam lỏng tại Huế cho đến chết. Trước khi từ trần ngày 29-10-1940, Ông đã viết mấy lời vĩnh quyết để tạ tội với quốc dân, trong có đoạn: “Bội Châu từ xưa tới nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi chết, thật là một tên dân trốn nợ.. đồng bào có thứ lượng cho tôi thì tôi mới yên bụng”. Hỡi ơi, hai thế hệ cách nhau mấy trăm năm, nhưng họ đã hội ngộ trên con đường xả thân vì nước.

Theo các nguồn sử liệu, Phan bội Châu thuở nhỏ có tên là Phan văn San, hiệu là Hải Thụ. Khi đi thi mới đổi tên là Phan Bội Châu. Trong thời gian hoạt động chống Pháp, thường ký tên Sào Nam Tử hay Thị Hán. Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại Ðan Nhiễm, Ðông Liệt, Nam Ðàn, Nghệ An, trong một gia đình hàn nho. Thuở nhỏ nhờ phụ mẫu vốn là nhà nho, nên ông được dạy dỗ chu đáo và đã thông thuộc một số bài trong kinh thi từ khi mới lên sáu nổi tiếng thần đồng, 13 tuổi trở thành đầu huyện, 16 tuổi là đầu xứ.

Ngày ngày chứng kiến quân Pháp lần lượt chiếm hết đất đai của VN từ nam ra bắc, đã nẩy nở trong ông tinh thần và tư tưởng yêu nước rất sớm, mà điển hình là bài hịch "bình tây thu bắc" khi Pháp chiếm thành Hà Nội và các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Năm 1897, Ông vào Huế và nhờ bài phú "bái thạch vi huynh" nên Phan bội Châu đã kết giao được với các vị khoa bảng nơi đất thần kinh như Nguyễn thượng Hiền, Phan chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Trần quý Cáp, Ngô đức Kế, Ðặng nguyên Cẩn và sau đó trở thành đồng chí trong suốt đoạn đường đấu tranh chống Pháp đầy hiểm nguy, gian khổ. Tại đây, ngoài việc được Tế tửu Quốc tử giám là Khiếu năng Tĩnh can thiệp để ông được phép trở lại trường thi và đậu giải nguyên tại trường thi xứ Nghệ, ông còn được đọc nhiều tân thư của các nhà cách mạng Trung Hoa, Nhật Bản, làm nẩy nở con đường cứu nước mới.

Sau khi thân phụ qua đời, Phan bội Châu quyết lòng vứt bỏ lợi danh phù phiếm, dấn thân vào con đường cứu nước mà khởi đầu là sự liên kết với Ngư Hải Ðặng thái Thân, sắp đặt ba kế hoạch lớn như liên kết với những sĩ phu trong phong trào Văn thân, Cần vương để tiếp tục mưu chuyện khởi nghĩa, tìm kiếm một minh chủ trong Hoàng tộc để liên kết các giới và chương trình đưa người xuất dương để học hỏi và xin ngoại viện. Tiến hành chủ đích trên, đầu tháng tư năm Giáp Thìn (1904), Phan bội Châu, Tiểu la Nguyễn Thành và một số lãnh tụ trong Duy Tân Hội tại Quảng Nam, đã đồng tâm, tôn xưng Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể làm minh chủ. Phan bội Châu được giao phó trọng trách sang Nhật cầu viện, xin giúp đỡ phương tiện để chống Pháp.

Ðầu năm Ất Tỵ (1905), lần đầu tiên Phan Bội Châu đã cùng với Tăng Bạt Hổ, bí mật đáp tàu từ Hải Phòng đi Thượng Hải, sau đó tới Thần Hộ (Kobé) và Yokohama (Hoành Tân). Tại đây nhờ gặp được nhà cách mạng Trung Hoa Lương Khải Siêu đang lưu vong vì chống lại triều đình Mãn Thanh, mà Phan Bội Châu được quen biết với các lãnh tụ chính trị nổi tiếng thời đó của Nhật như Tử tước Khuyển dưỡng Nghị (Inukaiki) và bá tước Ðại Ôi Trọng Tín. Tất cả đều khuyên Phan Bội Châu nên đưa Kỳ ngọại Hầu và các thanh niên có nhiệt huyết ra ngoại quốc du học, để mưu tìm con đường cứu nước hữu hiệu. Từ đây, Phan bội Châu bắt đầu sử dụng ngòi bút để làm phương tiện đấu tranh với kẻ thù.

Những tác phẩm như VN vong quốc sử (1905), VN quốc sử khảo (1908), hải ngoại huyết thư, kính cáo toàn quốc phụ lão văn, thư gởi Phan chu Trinh vừa giới thiệu cách mạng VN với các chính khách Trung Hoa, Nhật Bản, vừa có tác dụng kêu gọi đồng bào trong nước nhất tề hưởng ứng Ông công cuộc cứu nước và quan trọng hơn hết là cổ võ thanh niên xuất dương du học. Tất cả những công việc trên được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt, phong trào Ðông Du nở rộ, nhiều thanh niên VN được theo học tại Châu võ học hiệu. Ðể giúp đỡ số du học sinh đông đảo trên, Phan bội Châu, Cường Ðể và các đồng chí lập Cống Hiến Hội, đặc trách việc du học của 200 thanh niên VN tại Nhật.

Trước sự lớn mạnh của phong trào Ðông Du, thực dân Pháp lo sợ nên dùng thủ đoạn nhượng một số quyền lợi kinh tế tại Ðông Dương cho Nhật, đổi lại nước này ra lệnh trục xuất hết người VN đang sống trên nước Nhật bắt đầu có hiệu lực ngày 10-7-1907. Trong nước tình hình chính trị biến động không ngừng, đầu năm 1908 nổi lên cuộc TrungKỳ dân biến, với các cuộc biểu tình của dân chúng Miền Trung, chống sưu cao thuế nặng, đồng thời là vụ các lính khố đỏ qua tiếp tay của Hoàng Hoa Thám, đầu độc các trại binh Pháp tại Hà Nội.

Cũng trong giai đoạn này, qua áp lực của Pháp, đầu tháng 8/1908 Nhật ra lệnh trục xuất hết du học sinh VN, làm một số trở về cố quốc nhưng phần lớn trốn sang Trung Hoa, cả Cường Ðể và Phan bội Châu cũng bị rời khỏi Nhật vào tháng 3/1909. Song song với bất hạnh trên, phong trào Duy Tân ở trong nước cũng bị đàn áp khốc liệt từ năm 1908-1910 nên gần như bị tan rã. Năm 1911, cách mạng Trung Hoa thành công, lật đổ được nhà Mãn Thanh, nhân cơ hội đó Phan bội Châu và các nhà cách mạng VN được Quốc dân Ðảng Trung Hoa giúp đỡ nên đầu năm 1912, Việt Nam Quang Phục được thành hình. Trong nước, Pháp giải tán các Hội kín ở Quảng Nam, trường Ðông Kinh nghĩa thục Hà Nội, bắt giam các lãnh tụ như Phan Chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Thành, Ngô đức Kế, Lê văn Huân rồi đày ra Côn Ðảo. Riêng Ðặng thái Thân tự tử ngày 11-3-1910 trước khi bắn hạ một tên mật thám Pháp.

Ðể tạo tiếng vang trong và ngoài nước, năm 1913 VN Quang Phục Hội, quyết định lên án tử hình toàn quyền Ðông Dương Albert Sarraut cùng với hai tên Việt gian là Tổng đốc Hoàng trọng Phu (con Hoàng cao Khải) và Tổng đốc Thái Bình Nguyễn Duy Hàn. Kết quả, chỉ có Nguyễn duy Hàn và hai sĩ quan Pháp bị chết. Ðể trả thù, Pháp xử bắn và tù đầy hàng trăm người, đồng thời lên án tử hình khiếm diện Cường Ðể, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần. Riêng toàn quyền Sarraut dùng tiền bạc và yêu cầu tổng đốc Lưỡng Quãng là Long tế Quang bắt giam Phan Bội Châu ngày 19-1-1914 tới tháng 2-1917 mới được thả khi Quang bị bãi quyền.

Cũng kể từ đó ông bôn ba kháp nơi để mưu tìm con đường cứu nước kể cả việc liên lạc với Ðại sứ Liên Bang Sô Viết tại Bắc Kinh năm 1920. Trưa ngày 1-7-1925 nhằm ngày 11-5 năm Ất Sửu, Phan Bội Châu vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải, thì bị mật thám Pháp bắt cóc và giải về Hà Nội. Trong Tự Phán, Phan Bội Châu cho rằng chính thư ký riêng của ông là Nguyễn thượng Huyền (cháu Nguyễn thượng Hiền) bán tin cho Pháp, nhưng sau này có nhiều tài liệu lịch sử chứng nhận, kẻ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng là Lâm đức Thụ và Lý Thụy (bí danh của Hồ chí Minh lúc đó). Trong nước, Pháp muốn thủ tiêu ông nhưng mưu toan bị bại lộ nên đành phải đưa Phan bội Châu ra hội đồng đề hình Hà Nội xét xử với bản án khổ sai chung thân, lưu đày biệt xứ. Tuy nhiên vì sự phản đối quá quyết liệt của quốc dân VN cũng như áp lực từ nước Pháp, nên toàn quyền Ðông Dương dành giảm án nhưng bắt ông giam lỏng tại bến Ngự, Huế từ năm 1926 cho tới lúc mãn phần năm 1940.

Là thủ lãnh của phong trào Ðông Du, nhóm chủ trương dùng bạo động để xoay chuyển lại thời cơ, chống giặc cứu nước. Phan Bội Châu từ thời niên thiếu, đã chứng kiến được cảnh quốc phá gia vong, nỗi đau thương cùng cực của người Việt Nam mang ách nô lệ bạo tàn, vì vậy trong tâm khảm của nhà ái quốc đã nẩy nở những hoài bão lớn lao của kẻ làm trai, tung hoành ngang dọc, không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh và số mệnh:

"Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời."

Ðể hoàn thành chí lớn trên, kẻ nam nhi phải hành động sao cho xứng đáng là anh hùng, trượng phu, quân tử. Ðây cũng là sự khác biệt so với phần đông những người lớp trước, thường quan niệm "thời thế tạo anh hùng, thời thế thế thời, thời phải thế", Phan Bội Châu trái lại cho rằng "chính anh hùng tạo nên thời thế": "nắm dân quyền lỗi lạc giữa phương đông tạo thời mới gọi anh hùng."

Ðây cũng là mộy ý tưởng mới lạ, thanh thoát và tích cực. Thật vậy, ngày xưa kẻ sĩ luôn tin ở thiên mệnh, nên họ luôn tùy thời mà hành động, Phan tiên Sinh trái lại cực lực phản đối hành động tiêu cực ấy, khi cho rằng kẻ làm trai phải biết gánh vác trách nhiệm, tại sao lại phải dựa vào sự định đoạt của hóa công? Theo ông, ví dù thời chưa đến nhưng người anh hùng cũng có thể tự xoay chuyển thời thế, ấy là nhân lực trước thiên mệnh. Trên con đường đấu tranh, xưa nay từ đông sang tây, có ai mà không gặp phải một đôi lần thất bại trước khi mã đáo thành công, bước lên đỉnh đài vinh quang tuyệt diệu hay nhắm mắt xuôi tay ôm hận muôn đời? Bởi vậy không nên đem thành bại để luận anh hùng, mà chỉ cần xét tới ý chí và hành động của họ mà thôi."

"nếu không thất bại, sao có thành công
xưa nay anh hùng từng thua mới được"

Tri hành hợp nhất, đó là kim chỉ nam của người anh hùng và Phan bội Châu, trong suốt cuộc đời đã luôn luôn giữ đúng, nước mất thì phải đòi lại nước, tự do bị hủy diệt thì phải làm sao lấy lại tự do, dân chúng lầm than khổ cực thì phải làm sao cải thiện đời sống của họ. Tóm lại, quan niệm đấu tranh của Phan Bội Châu là tận dụng tất cả phương tiện từ bạo lực tới ôn hòa, từ quân sự cho tới tuyên truyền bằng văn thơ thi phú, phải tạo thời cơ, vượt qua những chướng ngại hiểm nguy, để phụng sự cho quốc gia, dân tộc:

"đường đường đội đá vá trời,
anh hùng há nhượng cho người thế gian"

2. NGHI ÁN VỀ VIỆC PHAN BỘI CHÂU BỊ AI BÁN ÐỨNG CHO PHÁP ?

Trong tác phẩm tự phán (PBCNB), cụ Phan cho rằng mình đã bị Nguyễn thượng Huyền bán đứng cho Pháp vào ngày 1-7-1925, vì chỉ có y mới biết rõ lộ trình của ông mà thôi. Nhưng năm 1928 lần đầu tiên Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, trong tài liệu "ai bán đứng cụ Phan bội Châu?" đã chỉ đích danh Lý Thụy (Hồ Chí Minh) đã bán Cu Phan cho Pháp. Năm 1948 Ðào trinh Nhất, trong loạt bài đăng trên báo Cải Tạo, cũng viết rằng, chính Lý Thụy là thủ phạm bán đứng cu Phan. Ngoài ra Bùi Ðình trong vụ án PBC và Bùi văn Hội (ba nhà chí sĩ ho Phan) đã chứng minh chính Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ đã bán Cụ Phan cho Pháp.

Mới đây vào năm 1972, Sử gia kiêm học giả Ðài Loan là Tưởng Vĩnh Kính, qua tác phẩm "Hồ chí Minh tại Trung quốc" cũng xác nhận chính Lâm đức Thụ (đại diện của Phan bội Châu tại Hương Cảng) và Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy-Hồ chí Minh), đã bán cụ Phan cho Pháp, rồi cả hai chia đôi số tiền thưởng là 100.000 quan bây giờ. Sau đó, Thụ và Quốc còn hợp tác nhiều năm nữa để bán những đồng chí của cụ Phan trong Tâm Tâm Xã và VN Quang Phục Hội cho thực dân Pháp.

Theo các học giả trong cũng như ngoài nước, thì việc Phan bội Châu bị bán đứng, một phần do số tiền thưởng cao, nhưng trọng điểm chính là chính trị, nên Lý Thụy, một cán bộ đệ tam cọng sản quốc tế từ Liên Xô mới tới Trung Hoa, đã ra tay nhanh chóng loại trừ Cụ Phan, một lãnh tụ Quốc Gia uy tín nhất lúc bấy giờ trong cuộc chống Pháp tại hải ngoại, hầu đoạt vị trí lãnh đạo cũng như tổ chức, bổ sung cho lực lượng cọng sản mới phôi thai tại VN. Còn một sự kiện quan trọng khác, do chính Cụ Phan viết trong tự phán, đó là việc ông đã tiếp xúc với hai nhân viên cao cấp của Liên Xô tại Tòa đại sứ nước này ở Bắc Kinh là Grigorij và Voitinsky, nhờ giúp đỡ đưa du học sinh VN sang du học tại LX. Cuối cùng mọi sự không thành vì Phan Bội Châu không chấp nhận điều kiện theo cọng sản. Và cũng do việc này mà ông đã phải gánh lấy hậu quả với Liên Xô, là xài không được thì phải gạt bỏ không để cho kẻ khác xài, và Lý Thụy được giao trọng trách thi hành bản án trên. Ở đây, thực dân Pháp và cộng sản quốc tế đã gặp nhau trong cùng mục đích triệt hạ Phan Bội Châu.

Sau năm 1954, Nguyễn thượng Huyền trở lại VN và di cư vào nam, đã viết bài minh oan cho mình trên tờ Bách khoa số 73, xuất bản tại Sài Gòn năm 1960.

Ngày 23/11/1925, Hôi đồng đề hình của Pháp tại Hà Nội xử Phan Bội Châu khổ sai chung thân tại Côn Ðảo, nhưng vì phản ứng quyết liệt của quốc dân, nên ngày 25/12/1925 toàn quyền Varenne phải ký lệnh ân xá và giam lỏng ông tại Bến Ngự, Huế. Nhờ số tiền 2000 đồng của đồng bào cả nước quyên góp, Huỳnh thúc Kháng và Võ liêm Sơn, đã mua hai khoảnh đất tại dốc Bến Ngự (cách Huế 3 km về phía nam) và gần đàn Nam Giao để cất nhà và làm nghĩa trang sau này cho Phan Bội Châu.

Ngày 29-10-1940, Cụ Phan qua đời. Nhờ số tiền 900 đồng do quốc dân quyên góp, Huỳnh thúc Kháng đã làm nhà thờ và xây mộ cho cụ Phan tại địa điểm mà sinh thời, Sào Nam đã chọn cho mình vào năm 1934. Ngoài ra còn có mộ của vợ chồng thứ nam ông là Phan Nghi Ðệ và mộ nhà cách mạng Tăng Bạt Hổ trong phong trào Ðông Du, mất năm 1907, được Chính quyền VNCH cải táng từ Hương Trà về đây năm 1969.

Cũng vì việc cụ Phan nhân đạo đã cho chôn thêm nhiều cán bộ CS khác như Trần Hoành, Bùi thị Nữ, Lê tự Nhiên, Thanh Hải, Ðạm Phương, Hải Triều.. trong nghĩa trang riêng của mình, đã tạo cớ cho các sử gia cọng sản như Trần huy Liệu, Chương Thâu.. vin vào đó mà biện bạch về vụ án Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ bán đứng Phan Bội Châu.

Tóm lại, những ngày đầu của thế kỷ 20, Việt Nam coi như đã mất hẳn chủ quyền về tay thực dân Pháp. Triều đình nhà Nguyễn tại Huế chỉ còn là hư vị, trong khi đó phong trào Cần vương cũng sắp tàn lụn, báo hiệu sự bế tắc trên con đường cứu quốc. Phan bội Châu hiện ra như một ngôi sao bắc đẩu, qua ảnh hình tiêu biểu của một lãnh tụ của phong trào cách mạng mới, ngoảnh mặt phá bỏ tất cả những ràng buộc của thời phong kiến lỗi thời. Ông hiên ngang đi trên chông gai, tắm trong bão tố, bôn ba khắp chốn để mưu tìm con đường giải phóng dân tộc. Như hàng bao thế hệ trước, Phan Bội Châu hào hoa phong nhã, gươm đàn nửa gánh, giang sơn lẫy lừng.

"non sông đã chết, sống thêm nhục
hiền thánh còn đâu, học cũng hoài "

Chúng ta những đứa con thân yêu sinh trưởng trên vùng biển mặn Trung phần, may mắn trên con đường lập chí, đã được nép mình suốt bao năm dưới mái trường trung học mang tên Phan Bội Châu tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Nhờ khí thiêng của ông nên trải qua hơn nửa thế kỷ thành lập, đã có không biết bao nhiêu anh hùng nam nữ theo gót tiền nhân, làm rạng danh con Hồng Cháu Lạc. Thời kỳ cải cách ruộng đất trên đất Bắc, cũng may ông đã chết, nên chỉ bị VC bắt phạt bằng cách đem hình trên bàn thờ, treo xuống chuồng trâu, trong lúc đó người cháu nội đích tôn của nhà ái quốc là Phan Thiện Cơ, đang mang cấp bậc Ðại Tá trong Bộ Ðội Hà Nội.

Cọng Sản VN hiện nay đang điên cuồng đàn áp Phật Giáo, Tin Lành, Thiên Chúa Giáo và chà đạp nhân quyền, bất chấp công pháp quốc tế, dư luận trong và ngoài nước. Ðể vừa ăn cướp lại la làng, Hà Nội tổ chức rùm beng lễ kỷ niệm 100 năm(1905-2005) , đánh dấu ngày cụ Phan Bôi Châu, phát động phong trào Ðông Du cứu nước. Hành động này tuy mới nhìn vào, làm ai cũng tưởng là Bắc Bộ Phủ đã ăn năn hối hận về sự lừa dối, phản bội các Ðảng phái Quốc Gia, khi chúng Hòa Hợp, Hòa Giải. Nhưng thấy vậy mà không phải vậy, vì mục đích chính ngày kỷ niệm trên, để VC có lý do chính đáng, làm sống lại huyền thoại Nguyễn Tất Thành xuất dương cứu nước, mà đồng bào VN, kể cả các đảng viên, gần như đã quên lãng, khi tất cả sự thật về Hồ Chí Minh và Ðảng VC Ðệ Tam Quốc Tế, đã bị lột trần muôn mặt trước bia miệng và lịch sử, khi công khai bán nước cho Trung Cộng, tham nhũng tàn bạo, đưa quốc dân vào vũng bùn ô nhục, nghèo đói hiện nay, không biết bao giờ mới thoát được cảnh địa ngục xã nghĩa thiên đàng .

Nhưng trước đống núi tài liệu lịch sử càng lúc càng được khai quật, chắc chắn phải có một ngày Hồ Chí Minh phải dở nắp hòm đứng dậy để tự thú về hành động chính mình và Lâm Ðức Thụ đã bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp năm 1925 để cướp quyền và nhận tiền thưởng.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2008
Mường Giang


KHI SƯ TỬ ĐỰC HÀ ĐÔNG RỐNG - Minh Hạnh -


Minh Hạnh

Sau khi đọc bài Khi Sư Tử Hống của Thích Tâm Không, tôi có ý chờ sự lên tiếng của HT Quảng Độ, HT Hộ Giác và TT Viên Lý hay ít ra là của quý Thầy hay của Cư sĩ đang có trách nhiệm với Giáo Hội vì bài viết đó đề cập đến ba nhà lãnh đạo của GHPGVNTN, nhưng hơn cả tuần nay chờ mãi, không thấy HT Quảng Độ, HT Hộ Giác và TT Viên Lý lên tiếng, thoạt đầu tôi hơi nóng ruột, nhưng càng nghĩ tôi càng thấy sự cao cả, bao dung, độ lượng của những nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam chân chính. Nếu so với tâm hẹp hòi, bộp chộp của HT Tâm Châu thì sự im lặng nhẫn nhục của HT Quảng Độ, HT Hộ Giác và TT Viên Lý quả đáng đảnh lễ. Tôi muốn học cái hạnh nhẫn nhục của HT Quảng Độ, HT Hộ Giác và TT Viên Lý, nhưng tôi nghĩ nếu tôi im lặng là vô tình tôi đồng lõa với tên công an tôn giáo Thích Tâm Không nên buộc lòng tôi phải lên tiếng.

Tôi lên tiếng trước hết là để lên án tâm địa độc ác của tên tu sĩ xuất ký tên Thích Tâm Không đã dám liếu láo qui kết TT Viên Lý là tác giả của bài viết “Nhận định 9 điểm về lời phát biểu của HT Thích Tâm Châu” do chính tôi viết. Tên này có ý đồ gì mà dám viết liều một cách vô liêm sỉ đến thế, vô lẽ thấy bài nhận định của tôi đánh thẳng vào một lão si Tăng mà chúng cho là “số một” nên chúng hoảng hốt quýnh quáng chụp mũ, đổ tội cho kẻ khác để đánh lừa thiên hạ như HT Tâm Châu đã đổ tội cho HT Hộ Giác và TT Viên Lý?

Điều đáng chê trách không phải là sai lầm hay không sai lầm, vì là phàm Tăng, tất nhiên không thể không sai lầm, tuy nhiên, điều đáng chê trách là biết mình sai lầm nhưng cố chấp, không chịu ăn năng sám hối; biết sai lầm nhưng vì lợi danh vẫn tìm cách đổ tội cho kẻ khác để trốn tránh sự thật.

Tôi đã có mặt tại Lễ Hiệp Kỵ ở chùa Phổ Đà, lúc nghe HT Tâm Châu phát biểu, tôi muốn đứng phắt dậy chỉ thẳng vào mặt lão tăng mà mắng cho một trận nên thân, nhưng nhìn thấy bức hình của HT Thanh Long trên bàn thờ nên lòng tôi không nỡ.

Tôi khẳng định tôi là một Phật tử thuần thành, hàng tuần đến nhiều chùa tại quận Cam để tu học trong đó có chùa Bát Nhã, chùa Liên Hoa, chùa Hoa Nghiêm và chùa Phổ Đà, vì lui tới thường xuyên nên tôi biết rất rõ lý lịch, hành tung và quan điểm của các tu sĩ ở các chùa nêu trên. Vì biết rõ như thế nên tôi rất ngao ngán và đã hơn chín tháng qua tôi không còn bước chân đến các chùa đó nữa. Hôm ấy sở dĩ tôi đến chùa Phổ Đà là vì tôi muốn dành sự kính trọng và biết ơn của tôi đối với HT Thanh Long bởi một lý do đơn giản: Khi ở tù chung với Hoà thượng Thanh Long tôi rất kính phục tinh thần vô uý và cách sống cao thượng của Hoà Thượng, chẳng những thế tôi còn học hỏi được rất nhiều nơi Hoà Thượng mỗi khi tôi có dịp tiếp xúc với bậc cao Tăng này.

Rất tiếc, đến dự một lễ hiệp kỵ mà không nghe HT Tâm Châu nói nhiều về HT Thanh Long mà chỉ sân si nói cuồng nói nhảm làm cho không khí của buổi lễ mất đi sự trang nghiêm cần có, lúc ấy không chỉ cá nhân tôi, rất nhiều người khác đã bất bình vì cách ăn nói bộp chộp thiếu ý thức và vô trách nhiệm của một hoà thượng mà Thích Tâm Không kể lể ra cả hàng tá chức vụ. Qua sự kể lể thiếu tàm quí ấy cho thấy không những chỉ có Thích Tâm Không mà cả Thích Tâm Châu đã nuôi dưỡng một bản ngã đáng chê trách, đáng khi dể.

Chức vụ đầy mình như thế mà sao không dám bước ra dẹp đoàn biểu tình lại phải yêu cầu HT Hộ Giác và TT Viên Lý? Lời yêu cầu của HT Tâm Châu cho thấy trình độ thiếu hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ lại vừa giống hệt cách hiểu và hành động độc tài, thiếu dân chủ của Cọng sản Hà nội. Nếu dẹp được đoàn biểu tình thì sư Trụ trì chùa Phổ đà đã gọi cảnh sát dẹp từ lâu rồi chứ đâu cần phải đợi một công dân Canada sang Mỹ để dẹp giúp?

Thích Tâm Không hay đúng hơn một tu sĩ xuất bất tài vô tướng chuyên ném đá dấu tay, nhận tiền kẻ xấu viết bài bôi nhọ quý Thầy trong GHPGVNTN điều đó không đáng nói, vấn đề quan trọng ở đây là bài viết quá kém cỏi của Thích Tâm Không, kém cỏi từ trình độ nhận thức đến kém cỏi về cách viết lách. Đọc bài viết lung tung không đầu không đuôi của Thích Tâm Không, người đọc nhận ra ngay trình độ của tên cộng an tôn giáo này chưa qua khỏi trung học đệ nhất cấp.

Tôi dẫn ra đây một ví dụ nhỏ: Khi tôi viết “Nhận Định 9 điểm về lời tuyên bố của HT Tâm Châu” thì vì trình độ nhận thức quá kém cỏi nên Thích Tâm Không phang ngay một câu xanh rờn là vì sao máy tự động nhảy10 điểm mà tôi viết chỉ 9 điểm. Rõ ràng trong đầu của tên đánh thuê viết mướn này chỉ thấy toàn những con số, từ con số của đồng tiền bất chính đến con số của những cô gái điếm mãi dâm v.v… mà không hiểu nổi nội dung tôi viết cái gì. Trong bài nhận định, 9 điểm tôi nhận định về lời tuyên bố thiếu ý thức và vô trách nhiệm của HT Tâm Châu, điểm cuối cùng tôi yêu cầu HT Tâm Châu sám hối tội lỗi do tâm vọng động của hoà thượng gây ra nhưng tu sĩ xuất nặc danh Thích Tâm Không vì luống ca luống cuống, trình độ quá kém nên không hiểu nổi 9 nhận định của tôi, kẻ thất giáo thì bao giờ cũng thế! Nhưng, đây cũng không phải là điều tôi muốn nhấn mạnh, cái mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Thích Tâm Không đã đánh đồng HT Tâm Châu với đức Phật. Thật tội lỗi, tội lỗi, vô cùng tội lỗi!!!

Làm sao có thể so sánh giữa đức Phật và một lão si Tăng chứ, chỉ có kẻ u mê ám chướng mới hết lời ca tụng người này là Đạo sĩ Viễn mộng Trường sơn, người kia là Sư tử hống hà đông hà bá! Với một lão tăng suốt đời chỉ biết danh và lợi, tôi chỉ nghe ở ông tiếng sư tử đực Hà đông “Rống” và rống ra toàn mùi chia rẽ, ly gián hết sức hôi thúi, chỉ có ruồi nhặn mới thích mùi hôi thúi như thế, ấy vậy mà chúng ta không mấy nhạc nhiên khi thấy nhóm Về Nguồn thân cọng, thân hữu Già Lam, thân hữu gìa hồ tìm cách bốc thơm cách trơ trẽn lão tăng lớn tuổi nhưng vẫn chưa khôn đủ. Chúng còn nâng bi lão si tăng này là kẻ nói lời xây dựng, chúng đâu biết rằng một kẻ lớn tuổi như thế lúc ban Đạo từ thì phải nói lời đạo đức giá trị, đàng này không, ở đây lão tăng lại ăn nói hồ đồ như HT Hộ Giác “ngồi lim dim đó mà không biết gì cả”, câu nói nầy vừa châm biếm, vừa khinh thị lại vừa biểu lộ cái tâm nhỏ mọn, dối trá, ganh tị đối với một bậc chân tu đã từng giúp lão tăng xích gần lại hơn với Giáo Hội, đã vậy chưa hết, lão tăng lại còn hống hách “kêu gọi HT Quảng Độ hãy giữ vững lập trường, chống cọng đến cùng” lão làm như HT Quảng Độ thay đổi lập trường đến nơi không bằng! Từ hoang tưởng đến mộng tưởng nên lão run sợ là lão chưa trở cờ kịp để dựt công đầu với đảng như lão và nhóm về nguồn đang chuẩn bị kế hoạch về VN tiếp thu Việt Nam Quốc tự. Chưa hết, vì thấy đoàn biểu tình đả đảo chống Về nguồn theo cọng quá rát nên lão tăng hoảng hốt la sảng lên: “HT Hộ Giác …., TT Viên Lý nên ra thông cáo” dẹp đoàn biểu tình. Yêu cầu HT Hộ Giác, TT Viên Lý ra thông cáo dẹp đoàn biểu tình thì đã phi pháp, phản dân chủ, đằng này còn qui trách nhiệm cho HT Hộ Giác và đổ tội cho TT Viên Lý nếu TT Viên Lý không dẹp được đoàn biểu tình thì quả thật quá hồ đồ, thiếu hiểu biết và không có tinh thần hoà giải nhất là qui chụp những người biểu tình chống cọng, những chiến sĩ quốc gia thuần tuý đã từng vào sanh ra tử, từng bị cọng sản cầm tù nhiều năm là Việt cọng thì rõ ràng quá sức hồ đồ, không chứng tỏ tư cách của một người lớn. Những câu nói hồ đồ thiếu chững chạc như thế chỉ có bọn Cọng sản vô thần mới sử dụng. Thật hết chổ nói và hết thuốc chữa!

Tôi thật sự chưa muốn mất nhiều thì giờ để phê bình bài viết lẩm cẩm của một tu sĩ xuất chuyên nịnh hót giựt dây và bôi nhọ người hiền lương, đạo đức. Tôi thách một Thích Tâm Không ẩn tên dấu mặt nào đó nếu còn tự trọng và biết liêm sỉ hãy trực diện với tôi trước công chúng ngay tại bất cứ đâu nhưng chớ ở Bộ công an hoặc Uỷ ban Tôn giáo chính phủ tại Hà nội nhé. Đừng nghĩ ai cũng hèn nhát bất tài như bọn tu xuất chỉ biết nặc danh để bôi nhọ, chửi bới những đoàn thể chống cọng, bảo vệ chánh pháp.

Điều buồn cười là tên Thích Tâm Không lòn cúi, ton hót, tâng bốc lão tăng bất xứng đến tận mây xanh: Thượng Thủ … lão tăng tuổi gần chín mươi. Tuổi gần chín mươi thì cứ lo tu niệm, còn nếu tánh nào tật nấy tiếp tục sân si chống phá lung tung thì chỉ có cách là chờ xuống địa ngục để lãnh đạo bọn đầu trâu ngục tốt chứ thế gian này có ai sợ cóc gì đâu mà hù với nhát. Thượng Thủ chi mô mà nhìn quanh nhìn quẩn chỉ thấy mấy ni cô sồn sồn hay lớn tuổi chán đời vì bị chồng bỏ rủ nhau vào chùa bám sát chung quanh Thượng thủ ngày đêm như rứa. Nghe nói “Thượng Thủ” của một Giáo hội trên thế giới, kẻ không am tường tưởng là oai lắm, kỳ thực thì chỉ hữu danh vô thực, chỉ có Về nguồn thân cọng, thân hữu già lam, thân hữu già hồ mới đem cái hữu danh vô thực này để nhát ma thiên hạ!

Phật tử Minh Hạnh


Gọn Hơ - Lê Dinh

Lê Dinh

Một buổi chiều cuối tuần, tôi lang thang trên những con đường ở khu Phố Tàu để nhìn thiên hạ mua bán, tình cờ tôi gặp một gương mặt quen quen, nhưng nghĩ mãi không biết là aì vì gương mặt thì rất giống một người tôi biết, nhưng đầu thì trọc lóc và điều lạ làm tôi bối rối là người này mặc một chiếc áo nâu sồng của những kẻ tu hành. Sau khi bắt tay chào hỏi, thấy tôi có vẻ lúng túng, ông bạn mới lên tiếng:

- Anh Lê Dinh không nhớ em sao?

- Dạ, nhìn mặt thì quá quen, nhưng không biết đã gặp anh ở đâu?

- Em là Lưu Ph. nè, Ph. thổi sáo, anh nhận ra em chưa?

- À ra là Lưu Ph., anh đã nhớ ra rồi. Trên 30 năm rồi, hèn gì.

Thuở đó, đồng bào mình ở thành phố này không có nhiều như bây giờ, tình đồng hương rát là thắm thiết. Thỉnh thoảng, vào dịp Tết hoặc Giáng sinh, tôi thường hay tổ chức những đêm ca nhạc, trình bày lại những bản nhạc ngày xưa trước 1975, có nhạc sống, có ăn nhẹ, giải khát vả khiêu vũ. Vé vào cửa lúc đó là 8$ một người, gọi là để sưởi ấm lòng người tha hương. Với số khách tham dự lên đến cả ngàn người một lần cho nên tôi có thể mời những ca sĩ cũ, nổi tiếng trước 1975 ở gần cũng như ở xa đến giúp vui đồng bào. Tôi có mời Chế Linh đến từ Toronto, Phương Hồng Hạnh đến từ Madison (Wisconsin)…, những ca sĩ này không phải định cư ở Montréal nhưng không quá xa thành phố Montréal, để cho đỡ tốn kém.

Tôi nhớ ra ngay anh Lưu Ph., vì lúc đó anh là người duy nhất biết thổi sáo ở Montréal, cho nên mỗi khi có mục ngâm thơ, tôi thường hay mời anh Ph. đến giúp phần thổi sáo phụ họa cho giọng ngâm. Tôi cũng còn nhớ rất rõ thuở đó, mỗi lần trình diễn văn nghệ, anh thường hay dẫn bà vợ người Québec đi theo, nên tôi liền hỏi:

- Anh nhớ dường như lúc trước em có vợ đầm mà, còn bây giờ sao… sao…, tôi tìm không ra lời để diễn tả con người của anh với cái đầu bóng nhẵn và chiếc áo cà sa trên người anh…

Hiểu ý tôi, anh liền nói:

- Em ly dị con vợ đầm rồi, bây giờ em đi tu, lên Thượng tọa rồi. Chùa em ở bên Verdun, em mời anh hôm nào ghé qua chùa em chơi. Nói xong, anh lục trong túi mang trên vai ra một mảnh giấy nhỏ và ghi tên chùa cùng địa chỉ và trao cho tôi. Cầm mảnh giấy của Thượng tọa Lưu Ph. trao cho, tôi đọc sơ qua rồi bỏ vào túi.

- Vâng, khi nào rảnh anh sẽ đến viếng chùa của em.

Quên bẵng đi một thời gian chuyện chùa chiền của Thương tọa Lưu Ph., đến khi trực nhớ lại tôi tìm mảnh giấy để biết chùa tên gì và ở vùng nào bên thành phố Verdun, một thành phố ngọai ô của Montréal, nhưng mảnh giấy nhỏ đã không còn nữa.

Tôi cũng áy náy mỗi khi nhớ tới lời hứa "viếng thăm chùa" do Thượng tọa Lưu Ph. trụ trì, nhưng tấm giấy đã mất và không biết làm sao để mà đến chùa thăm sư Ph. một lần cho biết và cho trọn lời hứa. Rồi mọi việc trôi vào quên lãng, mãi cho đến hôm nay…

Cho đến hôm nay, việc sư công an đầu trọc, sư quốc doanh, sư ăn McDonald' s ngay tại tiệm , sư đi dạo mát với gái… là một mối bận tâm không nhỏ cho những vị sư chân chính và người Việt tị nạn chúng ta. Ở thành phố nho nhỏ như Montréal mà hiện nay cũng có đến 7, 8 ngôi chùa, nhỏ có lớn có. Mới đầu hôm sớm mai đã có một ngôi chùa, một niệm phật đường, một tịnh xá, một tịnh thất… Mới đầu hôm sớm mai, một nghệ sĩ tài tử bỗng trở thành Thượng tọa. Dễ quá, thuê một căn ấp (apartment), xin phép, trương bảng tên chùa và treo cờ ngũ sắc lên, rồi đi VN mang về một số sách kinh Phật… rồi cạo đầu, mang bộ áo cà sa vào là thành chùa, thành sư chẳng mấy hồi. Thiện nam tín nữ hả, người nào trước khi thành thầy chùa lại không có người quen biết, không có bạn bè? Thôi thì đến chùa nào cũng để lạy Phật, để thọ trai, bá tánh đến

chùa tôi hay chùa khác cũng vậy thôi. Xin mời đạo hữu đến một lần cho biết, chùa tôi cũng có Phật vậy. Mô Phật! Phật nào cũng là Phật mà. Có một ngôi chùa mới thành lập trong thành phố của chúng tôi – tôi nói ra thì có lẻ quý độc giả nói tôi lộng ngôn, nhưng lời tôi nói có Trời Phật chứng giám – vừa ở trên một con đường khá náo nhiệt – không thích hợp với chốn trang nghiêm của chùa chiền - vừa lại không xa một "club des danseuses nues" bao nhiêu, chỉ bước vài bước là tới. Tội nghiệp cho những nhà sư thật sự là sư, những ngôi chùa thật sự là chùa, vàng thau lẫn lộn trong thời buổi suy vong, mạt pháp này!

Một hôm, tham dự đám cưới con của một người bạn, tôi rất "hân hạnh" được gặp lại vợ chồng một ông bạn ngày xưa. Nói ngày xưa cho dễ phân biệt với ngày nay. Ngày xưa là thời sau 1975, chứ không phải xa xưa lắm, lúc những tàu thuyền vượt biên tới tấp đến các trại tị nạn, lúc mà tất cả những người tị nạn là người tị nạn thật sự, được định cư ở một xứ tự do. Lúc ban đầu, người tị nạn đầu tắt mặt tối, lo làm ăn, gầy dựng lại gia đình từ con số không, trong đầu óc chỉ biết có căm thù Cộng sản, vì bọn chúng cho nên mình phải ra đi, bỏ quê hương, xa lìa người thân thuộc. Còn ngày nay, là thời bây giờ, sau hơn 30 năm chí thú làm ăn, nuôi con cái nên nguời… người tị nạn rảnh rỗi rồi sanh chứng này, tật nọ.

Thú thật trong lòng tôi cũng khấp khởi vui mừng khi lâu quá mới gặp lại người bạn đã từ lâu rồi không gặp, tôi hỏi anh chị giờ làm gì, đã hưu trí chưa:

- Tôi làm nhân đạo.

- Làm nhân đạo là làm gì?

- Chúng tôi làm từ thiện.

Rồi anh kề miệng vào tai tôi giải thích dài dòng về việc làm nhân đạo, từ thiện của vợ chồng anh. Thì ra tôi được biết mỗi năm vợ chồng anh đi VN đôi ba lần, đem tiền bạc quyên được của những người quen ở bên này về VN giúp cho trẻ mồ côi, mổ mắt người già, tặng thuốc cảm cúm cho người bệnh, tặng mì gói cho những gia đình nghèo túng, cho những đứa trẻ này vài thỏi chocolat, những đứa bé kia vài cục kẹo… À, như vậy thì tôi biết rồi, tôi tự nói thầm với tôi như vậy. Bây giờ không những chỉ riêng ở tại thành phố của chúng tôi - mà cũng như ở các thành phố khác trên thế giới - có rất nhiều người làm từ thiện như anh chị này, nào là Hội "Help the Poor", nào là chương trình "Sưởi ấm" nào là "Mái ấm tình thương", "Căn nhà nhân đạo", "Căn nhà tình nghĩa", "Căn nhà may mắn", "Les Enfants du Mékong", "Les amis du Vietnam", v.v.. À thì ra vậy. Cái nghề này dễ làm, xin việc là có ngay, khỏi cần phải có "Curriculum Vitae", khỏi cần phải có kinh nghiệm. Vì vậy cho nên hiện nay có rất nhiều người từ ca sĩ, đến nhạc sĩ, từ anh thất nghiệp đến chị có nghề nghiệp (nhưng lương ít), từ ông vợ chết đến bà chết chồng… bỗng nhiên nổi lên tấm lòng từ bi, bác ái bao la, thương đồng bào ta vô hạn, xin gia nhập vô nghiệp đoàn làm cái nghề nhân đạo này. Không cần phải tốn công sức, chỉ dùng miệng lưỡi, nêu ra những khốn khó của lớp người sống cơ cực dưới chế độ CS, dùng năm tất lưỡi để xin tiền thiên hạ đem về… nuôi CS. Rồi lại trở qua xứ họ định cư, xin tiền nữa, rồi lại về nữa. Thật khỏe ru, như đi du lịch, đi nghỉ hè không tốn tiền vậy, khỏi phải sáng lái xe đi, chiều tối lái xe về, khỏi phải tốn công sức ở nhà máy, cơ xưởng, khỏi phải hao tổn trí óc ở văn phòng, khỏi phải bị chủ ăn hiếp, khỏi phải bị xếp xài xể, mà lại được tiếng là… làm nhân đạo.

Nhưng bằng vài thùng mì gói, vài trăm ổ bánh mì, vài ngàn viên thuốc cảm cúm, mà dân chúng nghèo đói bệnh tật thì cả ấp, cả xã, cả huyện… cả nước, quý vị làm thế nào để lo cho xuể, chẳng qua cũng như đem muối bỏ biển mà thôi. Quý vị có biết tài sản gửi ở các ngân hàng ngoại quốc của những tên chóp bu CSVN lên đến cỡ nào không? Quý vị có biết gia sản của Nguyễn Tấn Dũng trải dài từ Saigon ra Hà Nội là bao nhiêu không? Sao những tên ăn trên ngồi trước này không bỏ ra, chỉ một phần ngàn tài sản của chúng thôi, để lo cho dân? Dân thì nghèo đói, chạy ăn từng bữa không đủ, không nhà không cửa trong khi họ thì ở nhà cao năm, bảy tầng, đi xe hàng triệu mỹ kim. Có quý vị lo rồi, họ rảnh tay để cho mặc quý vị lo, thì giờ của họ, họ lo tìm những phương pháp ranh ma hơn, quỉ quyệt hơn để cướp đất cướp nhà của dân. Mà quý vị lo cho đến bao giờ mới thôi lo, quý vị có phải là Bộ Xã Hội hay Bộ Y Tế của nhà nước CS đâu?

Những người đó – những người làm nghề nhân đạo đó – có khi nào quý vị nằm đêm suy nghĩ coi nguyên do vì sao mà đồng bào mình bị khốn khổ như thế không? Cái nghề của quý vị làm, nghe qua thì thật là nhân đạo – vì là cái nghề có tên là "nghề nhân đạo" mà – nhưng thật ra rất là vô nhân đạo. Quý vị cứ đem tiền về nuôi những tên cán bộ CS vương giả, thêm mập phì ra để chúng có thêm sức mà áp bức dân mình nhiều thêm nữa. Tôi tin rằng quý vị cũng nghe, cũng biết chuyện những người dân oan dãi nắng dầm mưa đi đòi đất, đòi nhà mà CS ngang nhiên chiếm cứ của họ, quý vị cũng biết chuyện kẻ thù của quý vị đã bán nước buôn dân như thế nào không? (Lập đi lập lại hoài những chuyện này nghe xấu hổ thêm). Dân của nhà nước sao nhà nước không lo mà quý vị lại đi lo. Quý vị cứu được 100 người, nhưng quý vị giúp cho CS bức hại 100 000 người, quý vị cứu được 1000 người, nhưng quý vị tiếp tay cho CS giết 1 000 000 người. Căn nhà lá ọp ẹp, mái lá rách nát, mưa xuống dột nước lai láng, quý vị cứ lấy bồn hứng nước phía dưới cho đỡ trơn trợt. Tại sao quý vị không giúp người chủ cái nhà lá đó, tháo gỡ băng hết cái mái nhà cũ kỹ, rách nát đó đi, cho vào đống rác và thay bắng lớp lá mới cho nước mưa không rơi vào nhà nữa? Nhà dột chỗ nào, quý vị hứng nước chỗ đó. Quý vị cứ làm vá víu mãi vậy sao? Cho đến bao giờ? Cái gốc gây ra sự nghèo đói, bệnh tật, khốn khổ của dân mình là đảng CS ác ôn, thì hỏi tại sao quý vị không gom góp tiền bạc tặng những phong trào chống đối ở trong nước để giúp họ dẹp tan bè lũ bán nước buôn dân đó đi? Tôi chắc quý vị, vì bận làm việc "nhân đạo", cho nên không có thì giờ để đọc những bài viết rất hữu ích như "Chính trị và thua cuộc" (Nguyễn Bách), "Chuyện Trọng Thủy thời nay" (Đỗ văn Phúc), "Có nên cứu trợ VN không?" (An Pha), "Không cho một cắc" (Hoàng Nguyên), "Thế lực nào giúp CSVN sống đến ngày nay?" (Trịnh Việt Bắc), "Những kẻ nối giáo cho giặc" (Trần Thanh), "Nối giáo cho giặc" (Mũ Nâu Thiện Xạ)… Chính quý vị là những kẻ nối giáo cho giặc đó, quý vị có biết không?

Ngày trước, căm thù CS, trốn chui trốn nhủi, liều chết bỏ xứ ra đi cho bằng được, quyết xa lìa bầy thú dữ cho bằng được, ngày nay, kẻ thù còn sờ sờ ra đó, thú rừng vẫn còn dày nát quê hương, xứ sở mà quý vị lại quay về – chẳng những không phải về tay không – mà lại còn bòn tiền bạn bè thân quyến, đem về nước nuôi kẻ thù. Kẻ cướp nhà của quý vị, đuổi quý vị ra khỏi nhà, thân sơ thất sở, lạc loài tận chân trời góc bể, sau mấy mươi năm làm ăn có tiền có bạc, quý vị mang tiền về lòn cúi dâng cho kẻ cướp. Ôi sao thật trớ trêu và cay đắng!

Thời buổi tân tiến của thế kỷ 21, có nhiều nghề nghe rất lạ tai: nghề làm thấy chùa, nghề làm nhân đạo. Tất cả đều có vẻ hương nhang tam bảo, có vẻ nam mô a di đà phật, nhưng thật ra với những nghề làm thầy chùa bất chánh và nghề làm nhân đạo giả hiệu của quý vị, dù quý vị có dộng chuông, gõ mõ mười kiếp nữa, chắc chắn quý vị sẽ rơi xuống chín tầng địa ngục vì đi với quỷ thì sẽ sống với quỷ.


Lê Dinh


Saturday, December 13, 2008

Những ngọn gió đang chờ 2 đảng Việt Tân - Lê Hùng Bruxelles


Lê Hùng Bruxelles

1. Chiến thuật thọc huyết giữa 2 đứa con của MT.

Trong những ngày gần đây giữa cộng đồng người Việt tại Úc có một cuộc « nổi dậy » xoáy quanh Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Nhân vật chính là bác sĩ Trần Xuân Ninh, nguyên là một trong các vị lãnh đạo cao cấp của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ngay từ ngày vừa mới thành lập. Có thể nói đây là một cuộc vận động chính trị có lớp lang chiến thuật về không gian và thời gian của bộ đầu não vây quanh bs Trần Xuân Ninh. Mục đích cuộc « nổi dậy » là báo động trước dư luận sự khác biệt giữa đảng Việt Tân chệch hướng của Hoàng Cơ Định và khôi phục lại ưu thế của một đảng mới, con đẻ của Mặt Trận chính thống, do bác sĩ Trần Xuân Ninh cầm đầu. Tuy chưa tự nhận là đảng trưởng, nhưng các cuộc hội thảo tại Úc đã gián tiếp cho mọi người thấy rằng bác sĩ Trần Xuân Ninh tự phong cho mình là đảng trưởng của đứa con sắp chào đời của Mặt Trận chính thống. Ông lên tiếng buộc tội cho đảng Việt Tân hiện do Đỗ Hoàng Điềm đương kiêm chủ tịch đã đi « chệch hướng », đã thỏa hiệp với Việt Cộng để chia chác. Như vậy, chủ trương đảng Việt Tân của Đỗ Hoàng Điềm hiện hữu hoàn toàn không đi đúng với đề cương nguyên thuỷ mà MTQGTNGPVN đặt ra, nghĩa là cương quyết tiêu diệt Việt Cộng chứ không thoả hiệp với Việt Công để thống trị đất nước. Trong chiều hướng đó, mọi người có thể hình dung ngay MTQGTHGPVN là mẹ đẻ ra hai đứa con đang quyết liệt « thọc huyết » nhau. Một đứa gọi là đảng Việt Tân Chệch Hướng và một đứa gọi là đảng Việt Tân Chính Thống.

2. Chiến thuật cuộc “nổi dậy” của đảng Việt Tân Chính Thống

Vì chưa biết cái tên mới của đảng do bác sĩ Trần Xuân Ninh sẽ chọn lựa, nên tôi tạm gọi là đảng Việt Tân Chính Thống, vì cùng là một lò mẹ đẻ Mặt Trận và hơn nữa là trong một thời gian khá dài của Việt Tân Đỗ Hoàng Điềm ra đời, bác sĩ Trần Xuân Ninh vẫn là một cấp lãnh đạo của đảng Việt Tân chệch hướng, và ăn lương toàn thời của đảng Việt Tân chệch hướng do Đỗ Hoàng Điềm làm chủ tịch và Hoàng Cơ Định nắm hầu bao. Điều đáng chú ý là tổ chức quanh bác sĩ Trần Xuân Ninh, trong chiến thuật, đã khéo chọn lựa Không gian và Thời gian cho cuộc « nổi dậy ».

Về không gian, cuộc « nổi dậy » đã chọn trước một thế « nhân hoà » khi lấy Úc châu làm bàn đạp. Bác sĩ Ninh đã biết đưa cơ sở Mặt Trận chính thống tách rời đất Mỹ để về Úc, nơi đây có một Cộng đồng người Việt đông đảo vào hàng thứ nhì tại hải ngoại, lại hướng dẫn bởi một số lãnh đạo có uy tín, vị công vô tư để đoàn kết nội bộ. Nơi đây, Ban Chấp hành NVTD liên bang Úc đã biết nhất thống trong hành động đi đến mục đích đối đầu với Việt Cộng, chứ không phải « tạp nhạp » như những nơi khác chỉ vì quyền lợi cá nhân hay làm tay sai cho Việt Cộng mà cứ nhẳng nhai «chưởi bới nhau»..

Về thời gian, bộ đầu não của bác sĩ Ninh đã khởi xướng vào đúng lúc ngay sau khi có vụ quyên tiền « bố thí » cho chiến thuật kiều vận mà đảng Việt Tân chệch hướng đang áp dụng. Khắp mọi nơi, tại hải ngoại nầy đều biết Việt Tân của Hoàng Cơ Định, Đỗ Hoàng Điềm, đã chủ mưu trong vụ quyên tiền cho cô Aline Rebeaud đem về « làm phước » cho Việt Cộng. Thực ra, vụ quyên tiền « làm phước » nầy, đảng Việt Tân chệch hướng có chiến lược sâu xa hơn, là cố làm thế nào cho những cuộc chống đối các quan chức Việt Cộng khỏi bị chào đón bởi « Lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ». Chỉ cần đọc lại một vài tin tức của các Hội Đoàn Quân Nhân tại Bỉ, báo giới tại Mỹ, tại Canada thì không ai không nghĩ rằng đảng Việt Tân Chệch Hướng của Hoàng Cơ Định, Đỗ Hoàng Điềm, là kẻ chủ mưu trong chiến dịch nầy.

Hiện tại, trước mắt quần chúng người Việt ở Úc, bác sĩ Ninh có vài lợi thế đáng lưu ý. Thứ nhất, ngày 29/11/2008 khi ra mặt trong buổi hội thảo tại Cabramatta, có sự hiện diện cuả ông Chủ tịch Ban Chấp Hành Người Việt Tự Do tiểu bang Sydney. Thứ hai, ngày 30/11/2008 khi ra mặt tại buổi hội thảo ở Melbourne, có sự hiện diện của ông Chủ tịch Ban Chấp Hành Ngưòi Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu. Thứ ba là báo chí tại Úc, phần lớn không có chống đối và đã đăng tải nhiều cuộc phỏng vấn có lợi cho bác sĩ Ninh để thăm dò dư luận. Mặt khác, về chiến lược tuyên truyền cho cơ sở đảng Việt Tân Chính Thống, bác sĩ Ninh đã thiết lập được một diễn đàn internet và một tuần báo tại Adelaide (Nam Úc). Cơ sở này chỉ đạo bởi anh Phan Văn Hưng, một cựu chủ tịch Hội Sinh Viên tại Pháp thời 1975, có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh chính trị.

Nhưng trước khi đưa ra một nhận định về sự tin tưởng ở Mặt Trận Hoàng Cơ Minh của số đông người Việt trong và ngoài nước, thiết nghĩ cũng nên lướt sơ qua « lịch sử bẽ bàng » kể từ ngày Mặt Trận vừa mới thành lập.

3. Lịch sử bẽ bàng của Mặt Trận.

Xét tổng quát, sự thành hình của Mặt Trận bành trướng mau và mạnh lúc phôi thai là nhờ yếu tố về tâm lý hơn là về chính trị. Thật vậy, khi vừa đến nước ngoài, người Việt bị « choáng váng » trước văn minh của Tây Phương. Họ không đủ trình độ về văn hoá để hội nhập với thực tại, nên phần đông mong ước có cơ hội trở về quê nhà. Ngay nhiều sinh viên từng du học và đã có đầy đủ bằng cấp, vẫn thấp thỏm hoài nghi cho tương lai cuộc sống. Đó là lý do chính để thúc đẩy họ gia nhập Mặt Trận với mộng ước giải phóng quê hương, hầu tìm lại một cuộc sống sao cho hợp với chính mình. Cái ước mơ nầy chẳng khác nào như ước mơ đồng bào năm 1945 khi Việt Minh vừa cướp được chính quyền. Nhân dân VN đã đem tất cả vàng bạc, thau đồng, tài sản và tánh mạng … để dâng cho tập đoàn cộng sản chỉ vì hai chữ Độc Lập. Người Việt tỵ nạn cộng sản thời đầu thập niên 80 cũng mang ưu tư đó, nên nhiều người đã hy sinh tiền bạc và tánh mạng cho Mặt Trận để may ra có cuộc sống thoải mái hơn.

Ban đầu, ban lãnh đạo khai sáng Mặt Trận đáng kể nhất là bộ ba, gồm có Đại tá Phạm Văn Liễu Chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh và ông sĩ quan Nguyễn Kim. Cả ba ông đều xuất thân nghề nghiệp «quân nhân» thuần tuý. Nhưng vì sao lại là « quân nhân » với cấp bậc « nhỏ » xấp xỉ nhau, học hành và kinh nghiệm chính trị còn thua xa nhiều vị tướng lãnh khác, lại cùng nhau thành lập được Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ?

Thật ra trong bộ ba nầy, người mưu xỉ đáng kể là Đại tá Phạm Văn Liễu, nhưng ông chỉ là một tên manh múng muốn « chơi đĩ » không muốn « cởi quần » !. Vì ông có mặc cảm sợ những « con đĩ » trong quân đội chê ông có « con chim » quá nhỏ! Tại hải ngoại lúc đó, nhất là trên đất Mỹ, có nhiều các tướng tá từng là chỉ huy trực tiếp và gián tiếp của ông, nếu ông mời các tướng khác đứng ra lãnh đạo Mặt Trận, thì rồi đây ông sẽ được đối xử như thế nào ? Một đại tá Phạm Văn Liểu từ Cao Miên trở về trong chức vị Tổng Giám Đốc Công An sau cách mạng 1/11/63 đã dạy cho ông những kinh nghiệm đắng cay một thời, ít nhất, là dưới trướng Nguyễn Cao Kỳ. Bởi lẽ bản tánh ông Liễu là dân « xỏ xiên », thiếu lòng trung chính với bạn bè và thượng cấp nên không có ai hoàn toàn tin tưởng. Từ đây, ông Liễu không thể nhìn vào đám tướng tá đã từng vùi dập ông, đứng ra thành lập Mặt Trận. Vì vậy ông Liễu phải tìm cho ra một người có cấp bậc « tướng » để dễ nói chuyện với số quân nhân VNCH đông đảo trong thời bấy giờ. Do đó, ông Liễu chấm ngay « chuẩn tướng » Hoàng Cơ Minh xuất xứ từ một dòng họ « Hoàng Cơ » trong thời Việt Nam mạt vận, và một ông sĩ quan cấp bậc nhỏ là ông Nguyễn Kim vô tiền tích.

Nhìn sơ qua thì chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh là người có lòng yêu nước, muốn phục vụ quốc gia. Nhưng chuẩn tướng là người «nhà binh», nên cái lối yêu nước cố chuẩn tướng cứ nghĩ như «nhà binh». Lý luận của một ông tướng đi lại chỉ là: « Tuyệt đối yêu nước ». « Triệt để yêu nước ». Mọi người đang dưới « quyền ta » phải yêu nước, tức là « phải nghe ta ». Chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh không hiểu cho rằng chuẩn tướng đang làm con bung xung cho Phạm Văn Liểu. Chẳng khác nào như anh tân binh đứng nghiêm trước mặt một ông thượng sĩ già đại đội sau buổi chào cờ: «trình thượng sĩ, xin tuân lệnh» !. Ông thượng sĩ già yên chí là mọi quân nhân thuộc cấp đã nghe ta. Thực ra, ông đâu ngờ tên tân binh đứng nghiêm trước mặt thưa bẩm là một tên "lưu manh" có tâm địa nghĩ rằng « cái thứ như mầy chẳng ra gì » ! Đó là căn bệnh « bẽ bàng » của Mặt Trận từ ngày chào đời cho đến nay.

Sau khi thu thập được một số tiền bạc đáng kể, dòng họ «Hoàng Cơ» mới thấy rằng «tiền tài là huyết mạch», nên có dã tâm muốn đoạt trọn gói để tư riêng cho «dòng họ» mình. Vậy thì chi bằng nên kế hoạch tìm người trong cùng dòng họ « Hoàng Cơ » nắm lấy cơ sở kinh tài của Mặt Trận, và người được chọn chính là Hoàng Cơ Định, em ruột của Hoàng cơ Minh.

Chiến thuật ban đầu, dưới danh nghĩa Mặt Trận, ban kinh tài cho chiếm độc quyền lập ra các cơ sở thương mãi khắp nước Mỹ và khắp nước Úc, không chỉ là những tiệm phở mà còn nhiều cơ sở thương mại chuyễn tiền và hàng hoá về Việt Nam. Dần dà, khi mối lợi càng to, Mặt Trận dòng họ «Hoàng Cơ» cố tìm cách loại dần các cấp lãnh đạo khác, nhất là đại tá Phạm Văn Liễu. Cho nên, chúng ta cũng không nên lạ, khi Hoàng Cơ Định, người em ruột của tướng Minh, vừa được tiến cử giữ mọi cơ sở kinh tài của Mặt Trận, việc đầu tiên muốn dằn mặt những ai chống đối, Hoàng Cơ Định liền lập ra một tổ chức khủng bố gọi là K19. Những vụ ám sát các ký giả tại Mỹ, một thời đã nói rất nhiều về hành động này của Mặt Trận.

Trong quyển hồi ký của một cựu đảng viên Mặt Trận, ông Phạm Hoàng Tùng, đã cho biết: «do một giai đoạn lich sử nhất định, tác động qủa lừa của Minh và đồng bọn đã thành công bước đầu, thu được từ bá tánh rất nhiều tiền. Minh thừa biết trò bịp bợm này sớm muộn gì cũng bị bể, nhất là khi phe cánh Phạm Văn Liễu cũng vì số tiền này quay sang chống lại Minh, cung cấp tài liệu cho một vài tờ báo ở Mỹ, ở Australia ... bung ra các tài liệu bí mật tài chánh lem nhem của Mặt Trận và Việt Tân, lúc đó anh em nhà Minh chắc chắn sẽ thân bại danh liệt trong nhục nhã ê chề».

Lời tố cáo nầy, rất đúng với lòng dạ bất trắc, xỏ xiên, của đại tá Phạm Văn Liễu và âm mưu thâm độc của dòng họ « Hoàng Cơ ». Có thể nói rằng những người nầy là tội phạm chính trong sự tan nát cách bẽ bàng của Mặt Trận QGTNGPVN.

4. Cái nhìn trung thực về hai đứa con đẻ của Mặt Trận

Khi đặt câu hỏi về sự tin tưởng của đồng bào người Việt đối với đảng Việt Tân Chệch Hướng và đảng Việt Tân Chính Thống, người viết không muốn nói kiểu « lấy vú lấp miệng em », nghĩa là chỉ nói sơ qua những chuyện đã có thật, rất dễ kiểm chứng. Vì vậy, người viết xin khoanh tròn không gian, nơi mà người viết đang sống và đã kinh qua. Xin lặp lai, nhận xét của tôi sau đây chỉ nằm trong phạm vi xứ Bỉ, còn những nơi khác, nhất là bên Mỹ, bên Úc, thì xin độc giả cho thêm ý kiến để diễn đàn Ba Cây Trúc đăng tải cho đồng bào thấy rõ hầu có thêm kinh nghiệm khi đối đầu với Việt Cộng.

Muốn có một nhận xét trung thực với lòng mình, theo tôi,thì điều kiện trước tiên là tác giả các bài viết phải thoát ra không gian « lợi lộc ». Trong cuộc đấu tranh này, tác giả nào không bị phụ thuộc vào « tiền tài » của kẻ khác, thì may ra trong bài viết mới có nhiều hy vọng trung thực. Thứ đến các tác giả bài viết ít ra phải có óc xét đoán con người đứng trước mục đích chung. Xấu thì phải phê bình để sửa sai. Tốt thì phải khuyến khích để đồng tiến. Ví dụ: Tôi không thể nghe ai tuyên truyên để nói chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh là tên bán nước. Tôi không thể hồ đố rằng tướng Nguyễn Văn Nam hay anh Trần Văn Bá là những người không có chí khí anh hùng vì đại cuộc. Cũng như tôi phải khiêm nhường kính nể những người còn sống Võ Đại Tôn, Lý Tống là kẻ đã công khai tối thiểu đối đầu với Việt Cộng. Vì hành động của những người nầy, ít ra đã làm gương cho vài thế hệ mai sau, và cho một cộng đồng hiện tại, trước sự đấu tranh chính trị đối đầu với Việt Cộng. Có gì đau đớn và hờn tủi cho bằng, khi mình đưa ra những lời phỉ báng, thiếu bằng cớ, một hay vài người đang có mục đích chung với mình ?

Khi nói đến vấn đề « kình chống và xoi bói » có tánh cách « trường cửu » nầy, tôi đoán chừng trong tim người Việt chúng ta mang phải loại « máu gà », một con vật rất gần gủi với con người cháu chắt « rồng bay ». Đặc biệt của gà là mang bẩm tánh quân quẩn ngày đêm xung quanh cái «cối xay» lúa !. Tôi chưa thấy một « cối xay » lúa nào có cùng lúc 2 con gà trống đồng sàng ăn thóc. Trong mọi tụ tập của những con gà quanh chiếc « cối xay » chỉ có một con gà trống độc nhứt. Từ đây suy ra những cuộc xung đột giữa các lãnh tụ «cối xay» khác nhau, rất khó mà «liên minh» với nhau được. Điển hình nhất là bên Mỹ và bên Âu Châu có hội đoàn vài ba móng trong cùng một đô thị mà cứ thừa lời nhục mạ nhau. Vì vậy tôi xin nói cảm tưởng của cá nhân tôi về đảng Việt Tân Chệch Hướng con đẻ của Mặt Trận tại xứ Bỉ nầy cũng đủ lắm rồi.

Tôi biết Mặt Trận Hoàng Cơ Minh từ đầu năm 1982, khi một ông đại tá (còn sống bên Pháp xin dấu tên) được một người Việt tại Bỉ (ký gỉa đã quá cố) đưa đến nhà tôi. Qua câu chuyện, trong bửa ăn, ông đại tá có ý mời tôi gia nhập Mặt Trận để đối đầu với Việt Cộng, mà lúc đó ông đại tá gọi là đảng « cách mạng ». Ông cũng cho biết cơ sở chủ lực là cựu quân nhân VNCH. Tôi đã trả lời là tôi rất tán thành và ủng hộ, nhưng cho tôi xin đứng ngoài mọi tổ chức. Vì sự ủng hộ của những người ở ngoài có thể mang lại nhiều điểm lợi chiến lược cho tổ chức. Chuyện nầy đều vui vẻ khi chia tay, nhưng vài cán bộ của Mặt Trận tại địa phương vẫn nhìn tôi với con mắt rất e dè. Và đây là lý do có cái mủ « chật chội » chuyển đến tai tôi về sau nầy.

Thế nhưng trong một cuộc Hội nghị các Tổ chức chống Cộng toàn Thế giới, có sự hiện diện rất nhiều quốc gia Á châu, tại Grand Luxembourg, về phiá Việt Nam có ông bà đại tá thuỷ quân Đỗ Đăng Công đại diện chính thức, vì lúc đó đại tá Đỗ Đăng Công đang nắm chức vụ Tổng Thư Ký của Phong trào Chống Cộng Đông Nam Á. Riêng tôi thuộc phái đoàn Vương quốc Bỉ đã phân phát một số thư ngỏ cho các đại biểu, tố cáo tình trạng Việt Cộng xô đuổi người Việt ra biển và bắt bớ giam cầm cựu quân-dân-chính VNCH. Sau buổi họp để giải lao, anh Vũ Chính chủ báo Tự Do và tôi đã tiếp tay với bác sĩ Trần Đức Tường (còn sống bên Pháp), nguyên đại diện Mặt Trận tại Âu Châu, để dán bích chương trước phòng họp và các tấm ảnh đen trắng của Mặt Trận chụp từ chiến khu bên Thái-Lào. Việc nầy đã thu cuốn rất nhiều quan khách. Nói vậy là để chứng tỏ chúng tôi không vì đảng phái hay cá nhân mà chỉ muốn làm vì mục đích đại nghĩa mà thôi.

Sau một thời gian khá dài, trong một cuộc Hội Thảo tại Anh Quốc, đại tá Phạm Văn Liễu đứng ra tố cáo những vấn đề trong nội bộ Mặt Trận mà chung quy chỉ vì « tiền bạc và quyền lợi ». Báo chí tung tin và Mặt Trận đã chia rẽ trầm trọng, tạo thành nhiều khối chống báng nhau. Mặt Trận bị nhà chức trách liên bang Mỹ đưa ra tòa và ông Hoàng Cơ Định bị phạt vì ông là cấp lãnh tụ cao cấp nắm giữ tài chánh đã phạm lỗi. Chuyện nầy ai tố cáo nếu không phải là đại tá Phạm Văn Liễu, một người đứng hàng thứ hai của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh ?

Cũng trong thời gian nầy, mọi người nghi ngờ về cái chết của chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh và rất khó hiểu lý do Mặt Trận không đưa ra ánh sáng tin nầy. Việc nghi ngờ của đồng bào không phải trong bí mật mà là đã lộ ra trên nhiều báo chí bên Mỹ và internet. Thế mà Mặt Trận cứ tuyên truyền oang oang rằng chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh đang sống và đang lãnh đạo cuộc kháng chiến ở biên khu Thái-Lào !. Người đứng ra lập luận và đưa tin về việc tướng Hoàng Cơ Minh đang sống trong chiến khu, không ai khác hơn lại là bác sĩ Trần Xuân Ninh. Chính đây cũng là lý do để cộng đồng người Việt trong và ngoài nước có cái nhìn trung thực về đảng Mặt Trận Chính Thống sắp chào làng do bác sĩ Trần Xuân Ninh chỉ đạo.

5. Vài ý nghĩ về đảng Việt Tân sau vụ quyên tiền cho bà Aline Rebeaud tại Liège.

Tôi rất đau lòng khi đọc trong chuỗi danh sách có tên một vài bạn trẻ trong đảng Việt Tân tại Liège đã theo anh Lê Hữu Đào đứng ra tổ chức vụ quyên tiền nầy. Tôi đã theo dõi và đã biết phần nào lòng yêu nước của vài anh chị em trẻ đó. Họ muốn hy sinh nhiều cho đại cuộc, từ tinh thần, sức lực đến vật chất, nhưng đã lỡ bị lèo lái bởi đảng Việt Tân qua chủ trương «mập mờ rất thiếu minh bạch». Cái lối mà tôi thường gọi là loại «populistes» loại «hứng gió», cái kiểu ăn cắp ý kiến kẻ khác để đem về làm lợi cho cá nhân mình, cho đảng phái mình. Xin đơn cử vài ví dụ

Kỹ thuật nhuộm áo. Họ không cần mời bạn vào đảng, nhưng họ tạo điều kiện cho bạn cùng tham gia hội hè, cùng đi biểu tình hay biểu dương lực lượng, gián tiếp họ đã nhuộm mầu áo của bạn. Bởi lẽ người ngoài khi nhìn vào thấy sự hiện diện của bạn trong đám biểu tình do đảng Việt Tân điều động, làm sao họ không nghi ngờ rằng bạn là «đảng viên Việt Tân» ? Khi về nhà, bạn không có thì giờ điều nghiên kỹ càng, đố bạn không tin rằng «đảng Việt Tân to lớn thật, mạnh thế thật» ! Bạn không chấp nhận những lý giải không tốt dành cho đảng Việt Tân, tức là bạn đã choàng lên người chiếc áo Việt Tân. Sự chào đón «mật đường» của cán bộ Việt Tân đôi khi có thể đưa bạn đến những hành động quá đáng, sa vào thủ thuật của Việt Tân, và gây ra thù hằn cá nhân với bạn đồng đội !.

Kỹ thuật hứng gió. Tại Bỉ, xưa nay tôi (và hầu hết mọi người) cứ đinh ninh rằng đảng Việt Tân đã kiểm soát toàn thể mọi hội đoàn cùng các tổ chức chính trị và tôn giáo. Hôm nay, mọi tin tức chính xác do nhiều anh em quân nhân tại Bỉ tung ra, sau vụ quyên tiền tại Liège do Lê Hữu Đào chủ tịch đảng Việt Tân chủ xướng, đã cho tôi (và mọi người Việt tại Bỉ) thấy rõ «không phải mọi hội đoàn đã bị Việt Tân kiểm soát». Qua phản ứng vài bạn quân nhân tại Bỉ, tôi đã nhận ra những người quân nhân nầy hăng say trong những buổi biểu tình chống đối Việt Cộng không phải là đảng viên Việt Tân, nhưng chỉ vì có sự hiện diện của đảng Việt Tân trong các cuộc hội họp, nên đã tạo ra sự ngộ nhận của nhiều người, trong đó có tôi. Một ví dụ cụ thể: Trong cuộc họp vận động bầu cử Hạ Viện của đảng cdH tại Bruxelles, sự có mặt của tôi, ngoài tư cách ủng hộ một cử tri người Việt, tôi muốn thừa dịp để nói trực tiếp với những dân biểu người Bỉ rằng có sự « lũng đoạn » của toà Đại sứ Việt Cộng tại Bruxelles trong việc bắt người Việt tỵ nạn cộng sản đóng thuế gián tiếp bằng cách xin chữ ký thị thực của đại sứ Việt Cộng mỗi lần cưới hỏi. Vì đây là dịp duy nhất để cho các vị dân biểu tại Quốc hội Bỉ nói lên ý kiến bất bình của người dân. Nhưng một tên Long nào đó, nhân danh chủ tịch đảng Việt Tân tại Bruxelles, lại đứng ra bắt buộc tôi rút lại bức thư lên án mưu đồ của Việt Cộng đã chuyển tay đến nhà chức trách đương cuộc hiện diện. Một vài bạn quân nhân chưa rõ chủ đích « tay sai Việt Cộng » của đảng Việt Tân lại tiếp tay với tên Long đó đã tỏ thái độ muốn khiêu khích với tôi !. Sao các bạn và tên chủ tịch Việt Tân Bruxelles lại ngăn cản tôi nói lên mưu độc của Việt Cộng với các vị Dân biểu người Bỉ trong dịp nầy? Tên chủ tịch Việt Tân viện cớ rằng tôi đã lạm dụng chữ « communauté » đã viết trong thư khiếu nại (!!!) và mọi người Việt hiện diện cũng dửng dưng. Thử hỏi lúc đó làm sao tôi tin được những người quân nhân nầy không phải là đảng viên Việt Tân ? Làm sao tôi không tin rằng những anh chị em trí thức trong Hội Chuyên Gia tại Bỉ có mặt không phải là đảng viên đảng Việt Tân ? Làm sao tôi không nghĩ rằng các vị lãnh đạo một vài tổ chức tôn giáo và văn hoá tại Bỉ hiện diện không phải là đảng viên đảng Việt Tân ? Chính đó là kỹ thuật hứng gió của đảng Việt Tân, cố mượn tay kẻ khác phản ứng tạo thuận chiều cho đảng Việt Tân, dù là « bề ngoài » để thủ lợi. Tiện đây tôi xin nhận lỗi về sự nhầm lẫn đã lâu đối với vài anh chị em mà tôi đã nghi ngờ.

Kỹ thuật lơ lửng mập mờ. Từ ngày tôi đến cư trú trên xứ Bỉ nầy, trong những năm sau 1975, tôi rất kính trọng và rất mến phục anh chị em sinh viên Liège, những anh kỹ sư Nguyễn Phú Lộc, bác sĩ Nguyễn văn Hải, kỹ sư Nguyễn Văn Định và … Lê Hữu Đào, đều là những người có lập trường quốc gia chống cộng có sách lược. Tiếc thay chẳng được bao lâu mọi người đã chia tay với anh Lê Hữu Đào và anh Lê Hữu Đào cũng biến dạng. Trong những năm gần đây, anh Lê Hữu Đào ra mặt với chức vụ Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Liège và Tổng thư ký Hội Phật Giáo Liège, để làm bàn đạp mọi sinh hoạt trong chức vị Chủ tịch của đảng Việt Tân. Tôi biết vậy là nhờ sau thời gian tái bản tờ «Lạc Hồng» tại Liège và đăng tải lấy ý kiến đồng bào «đổi ngày 30/4 thành ngày Tự do», một chiến thuật lơ lửng của đảng Việt Tân. Đã có lần tôi gặp riêng anh Lê Hữu Đào, sau nhiều thư qua lại bằng internet, với dụng ý cho anh biết dù sao cũng là người có tiếng «chống cộng» tại Liège. Hơn nữa anh là người trí thức thì phải biết tự trọng, nên độc lập cách rõ ràng trong hành động của mình, chứ không « lấp lửng mập mờ » để phục vụ theo chiến thuật của đảng phái khác. Hôm đó, anh có mời tôi một long bia và nói: "tin đó là do đám Việt Tân bày ra". Khi từ giã anh đã nhờ một người Bỉ lái xe đưa tôi ra tận gare Guillemin Liège.

Hôm nay xẩy ra chuyện anh Lê Hữu Đào tuân lệnh đảng Việt Tân, bất chấp lời ngăn cản của các hội đoàn từng cộng tác với anh, cương quyết đứng ra tổ chức cuộc quyên tiền với mục đích không phải vì từ thiện giúp bà Aline Rabeaud mà là cố thực hiện chiến thuật «dẹp bỏ cờ vàng ba sọc đỏ» đã từng làm mất nhiều uy tín cho các chức viên cao cấp cộng sản mỗi lần có mặt tại hải ngoại. Việc nấy, anh Lê Hữu Đào đã làm tôi mất hết lòng quý mến lập trường nơi anh ! May thay cộng đồng người Việt tại Bỉ đã thức tỉnh và cùng nhau bày tỏ thái độ chống đối đảng Việt Tân. Nhất là đối với anh Lê Hữu Đào thì họ chẳng còn chút tin tưởng. Niềm tin nầy thế nào cũng sẽ tạo bất lợi cho đảng Việt Tân Chính Thống do bác sĩ Trần Xuân Ninh vừa nổi dậy tại Úc.

Kết luận.

Để chứng minh niềm tin của đồng bào người Việt trong tương lai đối với hai đảng Việt Tân Chệch Hướng và đảng Việt Tân Chính Thống, tôi xin trích dẫn một thư của một độc giả, ông Mai Vĩnh Thăng chuyên gia kinh tế, khá quen thuộc của người Việt từ Brisbane Úc châu vừa gửi tới sau đây:

"Lời nói của tôi sẽ làm cho Bs Cường và VT không vừa ý. Không chỉ riêng tôi lên án họ hành động nịnh bợ VC mà còn nhiều cá nhân và các hội đoàn người Việt tỵ nạn CS khác cũng lên tiếng phản đối.

Bs Cường tiếp tay cho giặc cộng Hoàng Sơn Trà, người sinh viên đã bày ra trò Taste Việt Nam trong khuôn viên một đại học tại Brisbane, đã làm cho nhiều người thất vọng. Thì ra hô hào chống cộng lâu nay chỉ là trò bịp, đó là câu kết luận của những người thường bàn chính trị qua ly cà phê ngoài chợ, trong đó có tôi.

… Bác sĩ Trần Xuân Ninh lường gạt hàng triệu người tỵ nạn CS về những lá thư do Hoàng Cơ Minh viết và ký từ chiến khu ma, mặc dù ông ấy đã bị đồng bọn hạ sát từ nhiều năm. Tư cách đó mà nhiều người vẫn còn lầm, và ông Nguyễn Thế Phong cũng như một số người khác đã lầm Bs Ninh là người thực sự thức thời. Và hơn ai hết Bs Ninh cần thuyết phục một số người có tên tuổi và độc lập để lấy uy tín khi chu du thế giới. Đó là trường hợp ông Nguyễn Thế Phong, anh Hữu Nguyên tờ Saigon Times Sydney, Bs Nguyễn Văn Hoàng Brisbane và vài người khác.

… Tôi lắng nghe từng lời nói của họ, những quân nhân đã hy sinh cả gia đình và thời xuân để bảo vệ đất nước. Giờ đây nơi xứ người, họ mang mặc cảm thua thiệt vì ít chữ, ít tiền nhưng tôi đã tìm thấy trong họ một ý chí cương quyết, một tinh thần chống cộng bất khuất, và nhất là một hoài bão về một quê hương thực sự tự do mà nơi đó không còn bóng dáng VC." (Mai Vĩnh Thăng – Brisbane – Queensland- Úc châu).

Lời nói của ông Mai Vĩnh Thăng cũng là những ngọn gió của người Việt khắp nơi đang chờ sẵn cho đảng Việt Tân Chệch Hướng của Đỗ Hoàng Điềm và đảng Việt Tân Chính Thống của bác sĩ Trần Xuân Ninh.

Có một điều rõ ràng mà người Việt quá dễ tính và hay quên là trong đảng Cộng sản với nhau mà còn tranh chấp, thanh trừng, huống hồ 2 đảng Việt Tân nầy làm sao Việt Cộng tin cậy được? Con ngựa kéo xe khi kiệt sức người chủ sẽ thay thế con khác. Bầy ngựa lưỡng đảng Việt Tân khi không còn sinh lợi cho Việt Cộng thì cũng phải chung số phận với bầy ngựa già kia.

Lê Hùng Bruxelles