Sunday, October 5, 2008

Hội Ngộ Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức




Mai Thịnh

... Bây giờ chúng tôi đã mất hết, may chỉ còn lại cái danh dự của một con người. Danh dự đã nuôi dưỡng chúng tôi, giúp chúng tôi còn đứng thẳng mà không hổ thẹn với con cháu và người bản xứ.

Danh dự của một người cựu sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Ðức. Vì chúng tôi đã chu toàn bổn phận rất khiêm nhường của một người lính. Chúng tôi đâu có để nơi chúng tôi gìn giữ bị mất. Chúng tôi đâu có để pháo địch bắn vào thành phố khi chúng tôi được lệnh bảo vệ vòng đai. Chúng tôi không có ra lệnh rút lui mà chỉ ra lệnh xung phong chiếm mục tiêu. Chúng tôi không bao giờ cãi lệnh dù cái lệnh ấy là cái lệnh thí quân ngu xuẫn. Chúng tôi đã đánh giặc với trái tim đầy nhân bản. Chúng tôi không hổ thẹn bỏ rơi đồng đội. Chúng tôi đã ngẩng đầu khinh mạn dù chúng tôi ở trong tù tội ... Chúng tôi cũng mang trên vai những tấn nợ như cả miền Nam đã mang. Chúng tôi cũng đã vác thập tự giá trên những triền đá sắc của quê hương đất nước như cả một thế hệ đã vác. (Trần Hoài Thư trong Thủ Đức Gọi Ta về)

Hàng năm cứ đến ngày 9 tháng 10 ở các nước có các cựu sinh viên sĩ quan (CSVSQ/TĐ) của trường Bộ Binh Thủ Đức đều tổ chức họp mặt truyền thống để kỷ niệm ngày thành lập trường; có nơi vài chục người họp mặt như ở các nước Âu Châu, có nơi hàng trăm người họp mặt như ở Úc Châu và Hoa Kỳ. Đây dịp họ tìm gặp lại những bạn bè, đàn anh đàn em xa xưa; có những cựu sinh viên nay là ông lão trên dưới 80 tuổi là những người nhập học những khoá đầu tiên , năm 1951, và có những người trẻ nhất cũng trên năm 50 tuổi, những khoá cuối cùng năm 1975.

Trường Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn có nhiều tên gọi khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử của trường như sau:

Ngày 6 tháng 6 năm 1948, Quốc Trưởng BẢO ĐẠI chỉ thị Thiếu Tướng Nguyễn văn Xuân, Thủ Tướng Chính phủ Trung ương của nước Việt Nam Thống nhất cả 3 Miền, xúc tiến việc thành lập QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM (QĐQGVN), khởi sự bằng việc tổ chức TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM HIỆN DỊCH tại Huế (tiền thân của Trường Võ Quốc Gia Đà Lạt)

Ngày 11 tháng 5 năm 1950 Quốc trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, Chính phủ Trung ương của Việt Nam thống nhất cả 3 Miền, chính thức thành lập Quân Đội Quốc Gia. Quân số của Quân Đội Quốc Gia dự trù là 60 ngàn người bao gồm Chủ lực quân và Phụ Phương quân .

Ngày 27 tháng 7 1951 Sắc lệnh số 372/Cab/DN của Chính Phủ Việt Nam động viên Thanh niên nhập ngũ để huấn luyện thành sĩ quan trừ bị của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới thành lập.

Ngày 1 tháng 10 năm 1951 thành lập hai trường Sĩ Quan Trừ Bị, một tại Nam Định (Bắc Phần) và một tại Thủ Đức (Nam Phần).

Ngày 9 tháng 10 năm 1951 cùng một lúc chính thức khai giảng khoá 1 Sĩ quan trừ bị tại hai Trường Thủ Đức và Nam Định.

Tháng 6 năm 1952 sau khi hoàn tất huấn luyện khóa 1 trường Nam Định giải tán và sát nhập vào Trường Thủ Đức.

Trường Thủ Đức trở thành trường duy nhất có nhiệm vụ đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).

Trường Bộ Binh nằm trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú cách thủ đô Sàigòn 18 cây số về hướng Đông Bắc, Nếu từ phía Biên Hòa nhìn về, Trường Bộ Binh là một bức tranh tuyệt đẹp với dốc đồi thỏai mái, những dãy nhà san sát mái ngói và nắng ban mai tô vàng bên những hàng cây um tùm xanh mát.

Sau 4 năm hoạt động trong trách vụ đào tạo Sĩ Quan Bộ Binh đến năm 1955 phạm vi hoạt động của trường được nới rộng, trường được giao phó thêm nhiệm vụ đào tạo chuyên viên các ngành vì thế trường cải danh thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức gồm các trường:

- Trường Bộ Binh
- Trường Thiết Giáp
- Trường Pháo Binh
- Trường Công Binh
- Trường Truyền Tin
- Trường Thông Vận Binh
- Trường Quân Chánh

Vào tháng 10 năm 1961, trước tình trạng khẩn cấp của đất nước, nhu cầu của chiến trường gia tăng, các trường huấn luyện chuyên môn được tách rời khỏi Liên Trường Võ Khoa ngoại trừ 2 trường Bộ Binh và Thiết Giáp để lấy chỗ huấn luyện cho các thanh niên được động viên tới thụ huấn trong một chương trình huấn luyện đại quy mô của thời bấy giờ.

Từ tháng 10 năm 1962, Liên Trường phụ trách huấn luyện những Sĩ Quan Lục Quân (Bộ Binh) về theo học lớp Đại Đội Trưởng Bộ Binh.

Kể từ ngày 1 tháng 8 năm 1963, Liên Trường lấy lại danh hiệu Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam .

Đến tháng 4 năm 1964, trường được giao phó thêm việc huấn luyện lớp Tiểu Đoàn Trưởng Bộ Binh.

Để phù hợp với nhiệm vụ hiện tại ngày 1 tháng 7 năm 1964, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức được đổi lại danh xưng Trường Bộ Binh cho đến năm 1975.

Các vị Chỉ Huy Trưởng liên tiếp và thời gian phục vụ:

1. Vị Chỉ huy trưởng đầu tiên là một Sĩ Quan người Pháp Thiếu Tá Bouillet, đảm nhiệm chức vụ từ ngày 09-10-1951 đến 31-10-1953.

2. Đại Tá Phạm Văn Cảm, Chỉ huy trưởng trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 01-11-1953 đến ngày 30-9-1956.

3. Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 01-10-1956 đến ngày 26-5-1961.

4. Đại Tá Nguyễn Văn Chuân, Chỉ huy trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 27-5-1961 đến ngày 27-7-1961.

5. Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, Chỉ huy trưởng Liện Trường Võ Khoa Thủ Đức từ ngày 28-7-1961 đến ngày 19-5-1962.

6. Đại Tá Lam Sơn, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 19-5-1962 đến ngày 03-11-1963.

7. Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám, Chỉ huy trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức từ ngày 04-11-1963 đến ngày 07-4-1964.

8. Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 07-4-1964 đến ngày 20-11-1964.

9. Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 21-11-1964 đến ngày 20-2-1965.

10. Chuẩn Tướng Trần Văn Trung, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 21-2-1965 đến ngày 02-12-1966.

11. Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ huy trưỏng Trường Bộ Binh từ ngày 02-12-1966 đến 14-4-1967.

12. Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ, Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 15-4-1967 đến ngày 20-8-1969.

13. Trung tướng Phạm Quốc Thuần Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh từ ngày 20-8-1969

14. Trung tướng Nguyễn Văn Minh

15. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi 1975

16. Đại tá Trần Đức Minh 1975

Thành quả của Trường Bộ Binh:

Giữa thập niên 60 cuộc chiến gia tăng mảnh liệt với sự xâm nhập quy mô của Quân Cộng sản Bắc Việt vào lảnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, để chận đứng làn sóng đỏ chính quyền VNCH phải gắp rút gia tăng quân của Quân Đội VNCH. Trường Bộ Binh thủ Đức phối hợp với Quân Trường Quang Trung (Saigon) và Đồng Đế (Nha Trang) để huấn luyện hàng chục ngàn Sĩ quan trừ bị mỗi năm. Có những khoá SVSQ Thủ Đức phải học quà hoặc nhiều khác nhau trong 2 hoặc 3 giai đoạn : Quân trường Quang Trung huấn luyến Căn bản chiến đấu của người lính bộ binh, Quân Trường Thủ Đức và Đồng Đế huấn luyện cho sinh viên c ăn bản Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng.

Từ ngày thành lập trường Bộ Binh được chia làm 2 giai đoạn huấn luyện. Giai đoạn từ 1951 đến cuối năm 1967 được xem là thời kỳ huấn luyện bình thường, trong khoảng thời gian này trường bị gián đoạn huấn luyện từ tháng 2 năm 1955 đến tháng 3 năm 1957 vì ảnh hưởng bởi hiệp định Genève năm 1954. Khoá 6 SVSQ/TB được tiếp tục huấn luyện vào ngày 25-3-1957. Mức độ hàng năm tuy có tăng lên nhưng không vượt quá con số 5,619 SVSQ tốt nghiệp, đó là con số cao nhất trong giai đọan này được ghi nhận vào năm 1966.

Giao đoạn từ đầu năm 1968 (tức sau Tết Mậu Thân) đến sau vì nhu cầu cấp bách của chiến trường và sự trưởng thành của QLVNCH nên nhu cầu huấn luyện được gia tăng rất nhanh, năm 1968 số SVSQ tốt nghiệp là 9,479 Sĩ Quan, năm 1969 số SVSQ tốt nghiệp lên đến 10,862 Sĩ Quan. Con số 10,862 là con số cao nhất từ ngày thành lập trường đến nay.

Sau đây là kết quả tổng quát về số lượng các sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh qua 74 các khóa đã được đào tạo:

Tính từ ngày 9 tháng 10 năm 1951 đến tháng 9 tháng 10 năm 1973 qua 74 khoá: (Theo Đặc San Bộ Binh Số Đặc Biệt khoá 8 \ 72 (khoá Bất Khuất) và Bản Phúc trình của James Nach” the RVNAF reserve officer schools at Thu Duc and Nam Dinh”).

80,115 Sĩ Quan Trừ Bị và gần 4,000 SVSQ/TB Đặc biệt

Khóa Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Binh Cao Cấp: 18 khóa trên 1,500 Sĩ Quan trúng tuyển.

Khóa Đại Đội Trưởng: 44 khóa trên 5,000 Sĩ Quan thụ huấn.

Ngoài những khóa trên trường Bộ Binh còn tổ chức các khóa:

- Khóa hoàn hảo Sĩ Quan Địa Phương Quân.

- Khóa Bổ Túc Quân Sự cho các Sỉ Quan Quân Y Trưng tập, và Sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia.

- Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn.

Từ tháng 9 năm 1973 đến tháng 4năm 1975 không có tài liệu chính xác về số Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức được đào tạo.. Theo sự ước tính qua 14 khoá con số SVSQ Thủ Đức tốt nghiệp không dưới 15 ngàn người. Như vậy tổng cộng lại Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo khoảng 100 ngàn Sĩ quan Trừ bị cho QLVNCH.

Các vị tướng xuất-thân từ các trường Sĩ quan trừ bị :

Rời Thủ Đức có người thành chiến tướng
Cũng có người thành chiến sĩ vô danh.
Đời binh nghiệp là đường sát nghiệp
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô.”

(Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

Khóa 1 Nam-Định gồm có:

- Trung-tướng Nguyễn Đức Thắng (Bộ Trưởng Xây Dựng Nông Thôn)
- Trung-tướng Lê Nguyên Khang (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến)
- Trung-tướng Nguyễn Bảo Trị (Tổng Cục-trưởng Quân-huấn)
- Thiếu-tướng Nguyễn Cao Kỳ, (Tư lệnh Không Quân, Chủ-tịch Ủy-ban Hành-pháp Trung-ương)
- Thiếu-tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tư lệnh Cảnh Sát)
- Thiếu-tướng Nguyễn Duy Hinh (Tư lệnh Sư-đoàn 3 Bộ-binh)
- Chuẩn-tướng Vũ Đức Nhuận
- Chuẩn-tướng Phan Phụng Tiên
- Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm

Khóa 1 Thủ-Đức:

- Trung tướng Trần Văn Minh (Tư-lệnh Không-quân)
- Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục trưởng Quân-vận)
- Thiếu tướng Nguyễn khắc Bình (Tổng Giám-đốc Cảnh-Sát Quốc-gia)
- Thiếu tướng Phạm Hữu Nhơn
- Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính

Khóa 2 Thủ –Đức:

- Chuẩn-tướng Bùi Quý Cảo (Tổng Giám-đốc Tài-chánh và Thanh-tra quân-phí)

Khóa 3 Thủ-Đức

- Thiếu-tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư-lệnh Quân-đoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam lọt vào tay Cộng-Sản Bắc Việt)

Khóa 4 Thủ-Đức

- Trung-tướng Ngô Quang Trưởng (Tư-lệnh Quân-đoàn I)
- Thiếu-tướng Bùi Thế Lân (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến)
- Thiếu-tướng Lê Quang Lưỡng (Tư-lệnh Nhảy Dù)
- Chuẩn-tướng Hồ Trung Hậu
- Chuẩn-tướng Trần Quốc Lịch

Khóa 5 Thủ-Đức

- Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng (Tư-lệnh phó Quân-đoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam bị cưởng chiếm bởi Cộng Sản Bắc Việt)

Khóa 16 Thủ-Đức

- Chuẩn-tướng Cảnh Sát Trang Sĩ Tấn (Chỉ-huy-trưởng BCH Cảnh Sát Đô-thành Sàigòn)

Sinh Viên Thủ Đức, anh là ai?

Những khoá đầu tiên SVSQ là những học sinh, sinh viên tuổi đôi mươi xếp bút nghiêng theo việc đao binh, theo lịnh động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị . Từ năm 1964 và 1968 lịnh Động viên và Tổng động viên gọi nhập ngũ các nam công dân từ 18 đến 45 tuổi bao gồm đủ các thành phần trong xã hội như: Sinh viên học sinh, các Giáo chức thuộc các trường Tiểu học, Trung Học và Đại học; các Viên chức các Tổng bộ của Chính phủ từ Bộ trưởng, Giám đốc cho đến Thơ ký, các người làm nghề tự do như ký giả , văn nghệ sĩ: Võ Long Triều (Bộ Thanh Niên) nhập ngũ khóa 24, Dương Kích Nhưởng (Điện Lực) nhập ngũ khóa 22 , Lưu Tường Quang ( Ngoại Giao) nhập ngũ khóa năm 1868 , Giáo Sư Trần Bích Lan tức thi sĩ Nguyên Sa nhập ngũ khóa 24 v .v..

Với sự nhập ngũ đông đảo của giới trí thức và cán bộ cao cấp trong chính quyền đã mang lại sự cảm thông và hoà đồng giữa người lính chiến đấu và người ở hậu phương. Trải qua 9 tháng huấn luyện gian khổ nơi quân trường người SVSQ đã thay đổi từ thể xác đến tâm hồn : Thương đời lính gian truân và yêu đất nước qua từng bàn chân mình bước đi trên mảnh đất quê hương.

Nhà thơ Nguyên Sa, tác giả của những bài thơ tình lảng mạng nổi tiếng qua "Paris có gì lạ không em ?", "Áo lụa Hà Đông" cũng đã thay đổi nhiều sau bao tháng thao luyện trong quân trường Thủ Đức:

bây giờ khẩu garant ta mang trên vai
bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai
ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát
trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
những thỏi sắt đó nặng như thế
ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết
anh em ta và quê hương ta
vác những thỏi sắt nặng như thế
từ bao nhiêu năm nay
…………

(Xin lỗi về những nhầm lẫn dĩ vãng thơ Nguyên Sa)

Các công chức và Chuyên viên sau khi thụ huấn xong có thể được trở về nhiệm sở cũ nếu có nhu cầu đòi hỏi của Cơ quan liên hệ. Các giáo chức sau một vài năm trong quan ngũ đa số được trở về trường sở cũ.

Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị phải ở lại Quân đội mặt dù nhiệm kỳ trừ bị là 4 năm nhưng bị lưu giữ lại vì tình trạng chiến tranh.

Bây giờ anh ở đâu ?

Không có một thống kê hay sử liệu nào đề biết số lượng chính xác các Cựu SVSQ/TD hiện nay; có một vài tài liệu phỏng đoán có 15 ngàn SVSQ/TD đã bỏ mình trong cuộc chiến bảo vệ Vùng đất Tự Do VNCH như vậy còn lại hơn 80 ngàn mà một số rất lớn còn ở lại Việt Nam và rải khắp năm châu.

Sau cuộc bể dâu kẻ còn người mất và sau nhưng năm tháng trôi nổi nơi quê người ai được gặp lại người quen là điều hạnh phúc và quý báo vô cùng. Riêng những cựu Sinh viên Thủ Đức Đa số đã trãi qua những năm tháng tù đày trong lao tù cải tạo của Cộng sản. Trong lao tù có ai dám nghĩ tới một ngày nào đó gặp lại bạn bè đồng môn, đồng ngũ cũ, một ngày được nhìn thấy lá Cờ Vàng thân yêu, một ngày được thở không khí Tự do!.

Nước mất nhà tan
Đệ huynh Thủ Đức
Lại lạc nhau rồi, một cuộc bể dâu
Niên trưởng tôi ơi!
Bên trời bạc tóc,
Có nghe không
Tiếng vọng Vũ đình trường
Có nghe không tiếng hờn ai oán,
Binh đao oan nghiệt một kiếp người.

(Tăng Nhơn Phú thơ Túy Hà)

Những mơ ước không bao giờ dám nghĩ đến đó đã trở thành hiện thực : Những cựu SVSQ/TB cũng như các cựu chiến Binh VNCH thoát được ra nước ngoài đã dịp được gặp lại đồng môn đồng ngũ; được nhìn lại màu cờ sắc áo thân yêu, được nghe lại những khúc quân hành qua những buổi họp mặt bên ly rượu chun trà : Mừng cho người còn sống và buồn cho người còn ở lại hay đã ra đi vĩnh viễn.

Người viết xin mượn câu thơ của CSVSQ Túy Hà để kết thúc bài này và câu chúc quý chiến hữu đồng môn Trường Bộ Binh Thủ Đức được nhiều An bình an và Hạnh phúc :

Tăng Nhơn Phú ta sẽ về thăm lại
Đốt nén nhang thơm tạ Đất Trời.
Đã cho ta một thời hào sảng
Đã luyện ta thành thép thành đồng
Nhập cuộc chơi có tên Sinh-Tử
Giữa làn ranh nghiệt ngã chiến trường.
Đã cho ta ngẩn cao đầu ngạo nghể
Thủ Đức làm người không hổ thẹn lương tâm.
Tăng Nhơn Phú - đồi xưa – Ta trở lại
Cắm ngọn cờ vàng rực rỡ trời Nam.
Ta sẽ về – dù nương theo gió
Bởi thân tàn , chí lớn còn nguyên.

(
Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

Mai Thịnh

(Viết nhân Ngày truyền Thống của CSVSQ/TD tháng 10 năm 2008)

Tài liệu tham khảo:

- Đặc san Bộ Binh Số Đặc biệt Khóa 8\ 72 năm 1973
- The RVNAF reserve officer schools at Thu Duc and Nam Dinh James Nach
- Tìm hiển Ngày Quân Lực 19-6 của Cựu Đại tá Nguyễn Huy Hùng
- Lịch sử Trường Sĩ quan Trừ bị của Đặng GhiKhoá 25
- Thủ Đức Gọi Ta Về của Trần Hoài Thư
- Hình ảnh trích từ Web CSVSQ/TD Úc Châu:
http://csvsqthuduc.googlepages.com/td.html Và KBC4100: http://www.kbc4100.com



Saturday, October 4, 2008

Nghề Chụp Mũ - Đinh Lâm Thanh


Đinh Lâm Thanh

Ba triệu người Việt Quốc Gia định cư tại nước ngoài chỉ là một số nhỏ so với trên tám chục triệu trong nước, nhưng chính là mối lo sợ hàng đầu đối với ngụy quyền cộng sản Việt Nam. Đây là một cộng đồng đầy đủ thực lực, từ nguồn chất xám, tinh thần đoàn kết, khả năng tài chánh đến vai trò chính trị. Ngoại trừ tại Hoa kỳ, số người tỵ nạn còn lại định cư rải rác khắp toàn thế giới, nhưng cộng đồng người Việt, chẳng những đã thu hút cảm tình người bản xứ mà còn thay đổi được lối nhìn, quan niệm và thái độ của thế giới tự do đối với những người đã bỏ xứ ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tinh thần đoàn kết dưới màu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt Quốc Gia đã giúp người dân bản xứ nhận ra sự hiểu biết thô sơ, lệch lạc cũng như những sai lầm của họ trước kia về chế độ cộng sản Việt Nam. Ngoài ra cần phải nói thêm, các nổ lực và thành quả tốt đẹp của người Việt trong việc hội nhập vào xã hội mới cũng như tinh thần chống cộng triệt để đã vô hiệu hóa tất cả những lời tuyên truyền bịp bợm, láo khoét của các cơ quan ngoại giao cộng sản từ trong nước cũng như ở hải ngoại.

Vừa chiếm đoạt Miền Nam, Hà Nội đã vội vàng cướp tài sản, bỏ tù, đày đi kinh tế và xua ra đại dương những người mà cộng sản cho là biếng nhác, ăn hại, phản động, tay sai, đánh thuê và là mầm mống nguy hiểm cho chế độ. Nhưng chỉ một thời gian sau, chính Hà Nội lại âu yếm gọi bằng "khúc ruột ngàn dặm" và trân trọng trải thảm đỏ, mời những người bị chúng đã xua ra biển nên quên hận thù, quay về đùm bọc lấy anh em ruột thịt xây dựng lại quê hương !. Vừa van lạy xin tiền "khúc ruột ngàn dặm", vừa lo sợ trước tinh thần đoàn kết cũng như những thành công về kinh tế và chính trị của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, chúng đã tung chương trình kiều vận núp bóng dưới nghị quyết 36. Trên bình diện quốc tế, tập đoàn cộng sản đã thua hẳn cộng đồng người Việt Quốc Gia tại hải ngoại về mọi phương diện. Muốn đánh bại cộng đồng, con đường tốt nhất là phải phá thối và gây chia rẽ nội bộ. Do đó, để đập tan cộng đồng, cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu và dành một ngân khoảng lớn để huấn luyện, tổ chức và thưởng công cho điệp viên, cán bộ nằm vùng và những ai đã lỡ "dính chàm" phải cúi đầu chờ lệnh.

Chỉ có hai sức mạnh khả dĩ đánh đổ được tập đoàn bạo quyền Hà Nội mà thôi, đó là tinh thần Đoàn Kết và Ngoại Tệ của cộng đồng người Việt hải ngoại, mà tinh thần đoàn kết của người Việt hải ngoại mới đích thực là mối lo trầm trọng của tập đoàn cộng sản Việt Nam. Chúng ta không lạ gì khi Hà Nội đặt vấn đề phá hoại cộng đồng lên hàng đầu và đã chi ra nửa tỷ dollars cho chương trình kiều vận và phá hoại qua nghị quyết 36.

Nghị quyết nầy gồm nhiều tiết mục nhưng chung quy có thể thu gọn trong 3 phần với 3 mục đích chính: Lường gạt, tuyên truyền và phá hoại !

- Lường gạt: Kêu gọi chất xám và tiền của người Việt nước ngoài. Đây là phần nổi của nghị quyết. Làm một công hai việc, vừa đánh bóng chế độ qua tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc và kêu gọi khúc ruột ngàn dặm đem hết khả năng và của cải về phục vụ đất nước. Nhưng thực tế là một sự lường gạt trắng trợn những người dễ tin đem chất xám về phục vụ củng cố một tập đoàn thối nát, bất tài và tham nhũng. Đồng thời chúng khai thác tình thâm ruột thịt, liên hệ gia đình của những "con gà đẻ trứng vàng" ở nội địa hầu móc túi thân nhân nước ngoài.

- Tuyên truyền: Lợi dụng truyền thông, văn hóa để len lỏi vào cộng đồng bằng cách ru ngủ, mua chuộc, lôi kéo từ người lớn xuống trẻ em dưới nhiều hình thức, từ sách báo, ca nhạc, cải lương đến các hoạt động xã hội, tôn giáo và nhất là chú trọng vào chương trình dạy tiếng Việt cho trẻ nhỏ. Các tòa đại sứ cộng sản được cấp những ngân sách khổng lồ để thi hành nghị quyết bằng cách tổ chức những đội ngũ cán bộ, mục đích len lỏi vào các cơ sở của người nước ngoài như báo chí, truyền thanh truyền hình, lập ra nhiều trang báo điện tử, diễn đàn hoặc dùng tiền mua chuộc từ cá nhân đến tập thể trong các tổ chức nầy. Đây là phần chìm mà các cơ quan ngoại giao tại hải ngoại phải thi hành theo lệnh bộ chính trị của đảng.

Trong năm qua cộng sản Việt Nam đã thất bại, các cơ quan ngoại giao nước ngoài không đạt được đích của năm 2006 trong chương trình xâm nhập vào toàn bộ các hiệp hội, đoàn thể, đảng phái của người Việt hải ngoại. Quan trọng nhất là cuối năm 2006 chúng đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu dùng tiền mua chuộc hoặc thay thế các chức vụ chủ tịch của cộng đồng bằng các cán bộ nằm vùng hay những tên cò mồi dễ dạy.

- Phá hoại: Len lỏi vào cộng đồng, đảng phái, đoàn thể để tạo mâu thuẩn, gây chia rẽ, phá rối Cộng đồng người Việt hải ngoại … đồng thời huấn luyện, nuôi dưỡng đám ‘"hó săn’"để chúng theo dõi, bôi xấu, hù dọa, chụp mũ những ai có hành động gây phương hại cho chế độ cộng sản. Đây mới là chính phần trọng tâm của nghị quyết 36 !

Phần nổi và phần chìm tôi đã có dịp trình bày trong những bài trước, trong phạm vi lần nầy xin đề cập đến một đòn ma giáo thuộc phần trọng tâm của nghị quyết 36, là chụp những chiếc mũ cộng sản cho những ai mà Hà Nội xem là thành phần cực kỳ phản động ở nước ngoài.

Chụp mũ hay đội nón cối lên đầu những người quốc gia có tinh thần chống cộng kiên trì, đối với cộng sản là một thượng sách, vừa ít tốn tiền nhưng tạo được nhiều kết quả thật quan trọng. Bất cứ ai có tên trong sổ đỏ thuộc thành phần "cực kỳ phản động" ở hải ngoại mà cộng sản Việt Nam không thể mua chuộc, hù dọa hay bắt bớ được thì cứ việc ra lệnh cho đàn em đội ngay lên đầu họ một vài chiếc nón cối thật lớn là xong chuyện ! Vì cộng sản biết rằng, cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại chẳng những căm thù bọn cộng sản chính hiệu mà còn xa lánh, tẩy chay những tên tay sai ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản như trường hợp Trần Trường ở Cali cách đây vài năm. Cứ việc đội lên đầu người nào một vài cái nón cối thì trước sau gì danh dự của nạn nhân cũng bị tổn thương không nhiều thì ít. Thật vậy, một khi dùng nón cối quật ngã được người nào thì xem như cộng sản đã thắng một trận đánh lớn mà không mất một viên đạn.

Điều tệ hại quan trọng nhất là một số ít người trong cộng đồng thiếu suy tư phán đoán, thiếu tìm hiểu nạn nhân để chận đứng và vạch trần âm mưu của Cộng sản, do đó họ đã vô tình nối giáo cho giặc bằng sự im lặng, sợ bị trả thù. Nhiều người trong cộng đồng tuyên bố chống cộng vung vít, ngồi lại với nhau thì hùng hổ nói thật hay, nhưng khi có việc lại rút vào bóng tối. Chỉ một việc nhỏ như đi biểu tình chống cộng hằng năm vào ngày 30.4 thì thật đáng buồn khi so sánh sự hiện diện của thành phần nầy trong những buổi tiệc liên hoan kỷ niệm thì không sót một ai !

Người chống Cộng nhiệt tình, công khai ra mặt thường bị cô đơn, vì bà con giòng họ, bạn bè, đồng hương, đồng chí trong các tổ chức thường tìm cách né tránh. Chuyện cũng thật dễ hiểu vì những người nầy thường về Việt Nam du hí, thăm bà con, làm ăn, dĩ nhiên phập phồng lo sợ nhà nước Việt Nam sẽ làm khó dễ, gây trở ngại công việc đầu tư, di chuyển, du hí … một khi Hà Nội khám phá ra họ có liên hệ giây dưa với những "tên cực kỳ phản động". Dựa vào thế mặc cảm sợ sệt của những người nầy, cộng sản cứ thẳng tay tiến tới, đội chiếc nón cối lên đầu hết kẻ nầy đến người kia. Do đó, mấy năm trở lại đây, trò chụp mũ phát triển thật nhanh chóng. Thử nghĩ lại xem, đã có biết bao nhiêu người yêu nước nhiệt tình, xã thân cho đại cuộc đã nhụt chí rút vào bóng tối vì những chiếc nón cối trên đầu !

Thành phần chuyên nghiệp hành nghề chụp mũ là những ai ? Có thể là một trong ba hạng người sau đây: Cán bộ điệp viên đội lốt người tỵ nạn. Người nhẹ dạ đã-đang-sẽ hưởng bổng lộc của địch. Người bị "dính chàm" của cộng sản vì một vấn đế nào đó. Vì một khi vết chàm của cộng sản đã dính lên người thì không bao giờ gội rửa được ! Cái bẫy giăng ra thật đơn giản là khi ban ân huê cho một cá nhân nào, cộng sản chỉ cần ghi lại tất cả dấu vết để sau đó áp lực nạn nhân phải thi hành những yêu cầu của chúng. Nhiều trường hợp đi tù, một vài cá nhân đã bán đứng đồng đội, mục đích kiếm điểm với kẻ thù để được làm "cai tù" ăn trên ngồi trước, để chạy tội hay hy vọng rút ngắn thời gian cãi tạo trở về đoàn tụ với gia đình. Lúc cần thì cộng sản xử dụng những bút tích đó để hù dọa, bắt chẹt và ép buộc phải tìm cách đội lên đầu cái nón cối cho những ai mà cộng sản cần phải thanh toán ! Đó là trò đểu của Hà Nội đang mang ra áp dụng tại hải ngoại để tách rời những người chống cộng ra khỏi cộng đồng người Việt.

Các điệp viên núp bóng người tỵ nạn thường xử dụng nhiều tên ảo, dùng những lời chưởi bới hạ cấp, thô tục trên các diễn đàn, gởi thư qua các hộp thư điện tử và dùng điện thoại cộng cộng để chưởi bới hăm dọa. Phương thức nầy chưa được hoàn hảo, vì những lời hăm dọa chưởi bới dưới tên ảo không gây xáo trộn cộng đồng bằng những pháp nhân có thật. Nhưng những người nầy thì không trực diện nói chuyện với nạn nhân mà chỉ dùng lối chuyền tai người nầy qua người khác. Trường hợp nầy thật nguy hiểm vì cộng sản đã thành công trong việc gây xáo trộn cộng đồng, tạo chia rẽ giữa người nầy kẻ kia. Nhân cách của những kẻ thường dùng kỹ thuật rỉ tai đã xấu vì nói lén sau lưng người khác, người "bị" nghe hay "được" nghe thường không chú ý, nhưng nghe mãi nghe hoài cũng thấm vào đầu óc họ. Đó là chiến thuật tuyên truyền của cộng sản, cứ nói mãi thế nào cũng còn lưu lại trong đầu người nghe không nhiều thì ít ! Những người đội tên giả chưởi bới vô liêm sĩ thật ra không nguy hiểm bằng hạng người rỉ tai người nầy người kia thì chúng ta cần phải cảnh giác. Kết quả cộng sản đã thắng bằng lối tuyên truyền cố hữu, chỉ một viên đạn bắn ra đã sát hại nguyên cả đàn chim.

Một ít người ít hiểu biết, ích kỷ, ham danh … muốn trở thành lãnh tụ bằng con đường tắt với vài ba đàn em dưới trướng đã khua chuông đánh trống, đấm đá lung tung để tìm cách vương lên bằng những trò hề rẻ tiền, tranh dành chức vụ rồi bôi xấu, chụp mũ lẫn nhau. Hành động của thành phần nầy đã tạo ra những môi trường thuận lợi cho kế hoạch phá hoại theo nghị quyết 36. Để kết nạp thành phần nầy, địch có thể cung cấp nhân lực cũng như tài chánh mục đích tạo ra thật nhiều hiệp hội, nhiều đoàn thể, đảng phái nhằm chia xẻ tinh thần đoàn kết của cộng đồng. Vô tình thành phần nầy trở thành công cụ không công cho địch, rồi một ân huệ hay hứa hẹn nào đó, họ sẽ trở thành những tay đắc lực phục vụ cho quyền lợi của đảng cộng sản Việt Nam.

Chụp mũ là thủ đoạn của cộng sản, hành động nầy là nghề nghiệp của các diệp viên, những tên cán bộ công an núp bóng trong hàng ngũ tỵ nạn. Những người quốc gia chân chính, đừng vì ganh ghét cá nhân, đừng vì một chút lợi lộc tiền bạc hay những lời hứa hẹn của địch mà nhắm mắt làm theo lệnh quan thầy, đánh lung tung người nầy đến người khác.

Một khi Hà Nội chỉ thị phải đánh một người nào thì phải nghĩ rằng người đó là cái gai trước mặt mà chúng cần phải nhổ bỏ. Nếu đánh gục họ thì xem như một người quốc gia đã dùng vũ khí cộng sản đánh thẳng vào cộng đồng người Việt Tự Do ở hải ngoại.

Việc vạch mặt chỉ tên những tên cộng sản nằm vùng phá hoại cộng đồng là một việc phải làm của tất cả mọi người. Nhất trong giai đoạn nầy để loại những phần tử đang ráo riết gây rối và phá hoại cộng đồng dưới nhiều lãnh vực. Nhưng tuyệt đối đừng nghe lời của những người có thành tích bất hảo, miệng chống cộng vung vít nhưng đàng sau chúng đưa tay nhận tiền bạc lợi lộc của kẻ thù để đội lên đầu những người chống cộng chân chính và nhiệt huyết những cái nón cối. Cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thật chính xác về đời tư, quá trình hoạt động của hai đối tượng, người hành nghề cụp mũ cũng như nạn nhân để tránh việc xét đoán lầm người. Chỉ một hành động chuyền miệng rỉ tai bôi xấu một người nào đã là hành động của kẻ tiểu nhân, chưa kể đến những chuyện bày đặt buồn cười vô căn cứ thì chúng ta nên xét lại và ngăn chận kịp thời, tránh chuyện "tam sao thất bổn" nhỏ biến thành lớn, chuyện ruồi bu thành vấn đề quan trọng.

Thật ra không có chuyện gì có thể bưng bít lâu dài, không nhanh thì chậm. Tất cả sự thật sẽ được phơi bày dưới ánh mặt trời, chừng đó người đời sẽ phê phán hành động của những người hành nghề chụp mũ và con cái cháu chắc sẽ tủi nhục vì những hành động của cha ông mình. Nhưng hiện tại nếu không mau trừ khử những người hành nghề chụp mũ kịp thời thì trong giai đoạn quyết liệt nầy cộng đồng chúng ta sẽ thiếu hoặc mất đi những người tiên phong chống cộng.

Chụp mũ là nghề của bọn công an, điệp viên nằm vùng. Nếu là người quốc gia, những ai đã bỏ xứ ra đi vì không chấp nhận chế độ Cộng sản thì xin hãy dừng tay, đừng vì cá nhân, tiền bạc, phe nhóm mà nhắm mắt chụp mũ những người đang tranh đấu nhiệt tình trong lòng cộng đồng người Việt. Một điều khẳng định rằng, một khi Cộng sản ra lệnh chụp mũ một người nào thì chắc chắn rằng Hà Nội muốn bịt miệng và tách rời người đó ra khỏi cộng đồng bằng trò chia rẻ.

Cũng xin nhắc nhở những người đang hành nghề chụp mũ, không phải ai cũng sợ chiếc nón cối, mà một số người chống cộng nhiệt tình, có lý tưởng từ trong máu huyết mà họ đã chứng minh bằng những hành động bất vụ lợi từ lúc cắp sách đến trường cho đến ngày nay, thì không bao giờ cái nón cối đánh gục được họ. Đối với những người nầy, càng bị chụp mũ, họ càng đứng dậy, hiên ngang tiếp tục con đường tranh đấu cho đến ngày nhắm mắt.

Mong rằng những người trong hàng ngũ quốc gia thường xử dụng đòn chụp mũ hãy lấy lương tâm tìm hiểu nạn nhân. Thật tình mà nói, những người chống cộng thật cô đơn, chính vợ con họ phản đối vì đã gây cho gia đình biết bao lo lắng buồn phiền mà còn bị những người thường về Việt Nam như bà con, thân nhân, bạn bè cũng như đồng hương, đồng chí … tránh né vì sợ cộng sản khám phá ra có liên hệ thân thiết với những tên "cực kỳ phản động" ở nước ngoài !

Tóm lại, người trí thức quân tử dám nói dám làm, tôn trọng sự thật và sẵn sàng chấp nhận sai trái của mình, nếu có. Tiểu nhân, ngữa tay nhận ân huệ tiền bạc của bất cứ ai để thi hành bất cứ tội ác nào được giao phó, từ ném đá giấu tay, mang tên ảo, rỉ tai, bôi xấu đến chụp mũ những người bị đối phương xếp vào loại "phản động". Thế thì người Việt Tự Do nuôi dưỡng bao che cho tiểu nhân làm gì để chúng tiếp tay Hà Nội, bôi nhọ những phần tử Quốc gia … để rồi cộng đồng sẽ thiếu nhiều chiến sĩ tiền phong trong hàng ngũ chống Cộng sản.

Nếu còn chút lương tri, xin hãy nghĩ lại xem ….

Đinh Lâm Thanh



Bản Chất Bất Lương Của Nền Kinh Tế Cộng Sản


Trương Minh Hòa

Sinh hoạt kinh tế từ sơ khai đến văn minh, luôn ảnh hưởng và tác động vào cuộc sống xã hội, chính trị,văn hóa .... trải qua nhiều thời kỳ trong tiến trình lịch sử loài người:

- Thời bộ lạc với nền kinh tế sơ đẳng, cá thể, tự do, tức là mạnh ai nấy kiếm ăn, không bị ràng buộc luật lệ nào, ngoại trừ luật thiên nhiên; tuy nhiên các thành viên trong các bộ tộc cũng phải đóng góp cho các tù trưởng, thầy mo một số của cải mà họ tìm được; đó là hình thức đóng thuế đơn giản, thời kỳ nầy, giai cấp cai trị được coi là "đảng Cộng Sản nguyên thủy", là những kẻ ăn trên đầu người khác, không lao động mà lại vinh quang, đã thế mà còn nhân danh thần linh để giết người một cách hợp lệ, theo ý của đấng tối cao, bắt người khác làm việc, cung phụng cho mình. Thành phần lãnh đạo "bộ lạc" chính là "giai cấp chuyên chính" theo kiểu hệ thống đảng quyền, nhà nước Cộng Sản vậy.

- Thời quân chủ, nền kinh tế tập trung vào tay một tập đoàn của một gia tộc với các lãnh chúa, từ đó của cải do các địa phương gom lại, đem dâng một phần cho vua, triều đình. Dân chúng làm việc như nông nô.

- Thời kỳ kinh tế tự do, xuất phát từ quan niệm dân chủ, nhất là sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Người dân có quyền sinh hoạt kinh tế cá thể, tự do, nhưng phải tuân thủ theo một số điều kiện luật pháp, để tránh tình trạng lạm dụng việc làm ăn tự do mà đi đến bất lương, gian thương, hay một số danh nhân giàu, tham quyền lực, thường tìm cách huynh đảo chính quyền để thủ lợi. Tại các nước dân chủ, kinh tế thị trường nuôi dưỡng nền chính trị tự do, phát triển xã hội; các đảng phái cầm quyền cũng phải biết thế nào "ý dân là ý trời", họ làm việc cho dân, có nhiệm kỳ, sợ dân bất tín nhiệm, nên bất cứ đảng phái nào cũng đều phải mưu tìm những kế sách kinh tế tốt nhất, hầu được dân tin, bầu cho; do đó các nước dân chủ càng tiến lên, kinh tế, khoa học kỹ thuật thăng tiến là do mọi người đều cạnh tranh để làm ra sản phẩm, dịch vụ tốt, nếu muốn tồn tại. Nhờ các cá thể, tập đoàn kinh tế tư nhân đóng thuế theo qui định phần trăm lợi tức, nên chính phủ mới các tiền để lo đời sống cho dân.

Tuy nhiên, trong cái nền kinh tế tốt nhất nhân loại là tự do, lại phát sinh ra cái nền "kinh tế chỉ huy" là một thứ "quái thai" kinh tế do Karl Marx đề xướng. Đây không phải là do tấm lòng muốn đưa ra một học thuyết nhằm giúp nhân loại phát triển kinh tế, đưa đến thịnh vượng, thái bình, mọi người đều no cơm ấm áo; cũng không phải là sự "tình cờ lịch sử" của một nhà kinh tế tìm một lý thuyết "kinh bang tế thế" như các khoa học gia khám phá ra những mới lạ. Lý thuyết kinh tế tập trung xuất phát từ "lòng ganh ghét hận thù vô cớ" của một kẻ thất thời, nhưng có tâm địa bất lương, vào lúc tại lục địa Âu châu đang trong thời kỳ bùng phát triển kỷ nghệ, bắt đầu dùng máy móc chạy bằng hơi nước để thay sức ngựa, bò trong lãnh vực sản xuất. Từ cuộc cách mạng kỹ nghệ nầy, nên ban đầu trong xã hội Âu Châu xuất hiện những nhà giàu kỷ nghệ gia, dần dần lấn áp giới "giàu xưa" gốc hoàng tộc "Công, hầu, bá, tử, nam". Những nhà giàu mới nầy, ban đầu tung hoàng trên thương trường, vì các quốc gia Âu Châu chưa có luật pháp phù hợp để chế tài, nên họ cũng bóc lột nhân công, khai thác sức lao động cả trẻ em, từ đó phát sinh ra giai cấp công nhân. Karl Marx là kẻ thất thời, sống nhờ vào sự giúp đỡ của người bạn thân, vốn con nhà kỹ nghệ gia giàu có. Nếu là người cái tâm lành, thì cố gắng dùng khả năng, kinh nghiệm để vương lên trong cuộc sống, dù không giàu nhưng cũng tạm giải quyết tình trạng túng thiếu và gầy dựng một mái ấm gia đình; tuy nhiên Marx là kẻ mang tâm địa bất lương, gian manh, dù ăn tiền của một nhà kỷ nghệ Engels, nhưng hắn trút tất cả căm thù vào văn từ, viết sách dạy ăn cướp có "khoa học" với những ngôn từ hoa mỹ: đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, chính quyền vô sản chuyên chính, xã hội chủ nghĩa, thiên đàng Cộng Sản hay nói đúng hơn, từ ông tổ Cộng Sản Karl Marx, xuất phát từ cái bản chất xấu xa: "ăn cháo đá bát" từ lúc bắt đầu suy tư và viết sách dạy ăn cướp, giết người, với những ngụy luận che đậy và một thời đánh lừa nhiều người nhẹ dạ ở các quốc gia Tây Phương qua phong trào phản chiến và ngày nay vẫn còn tác động tại một số nước Á, Mỹ Châu.

Trong tập thể người Việt tỵ nạn hải ngoại, cũng có một số kẻ bất lương "ăn cháo đá bát", từng sống nhờ vào xương máu của các chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, sang trại tỵ nạn cũng nhờ uy danh của lính để sớm được hưởng qui chế tỵ nạn chính trị. Nhưng sau nầy, vì quyền lợi cá nhân mà cam tâm hùa theo băng đảng ăn cướp Việt Cộng, gia nhập hàng ngũ "đón gió trở cờ", trở về làm ăn, du lịch, du hý, du dâm sau khi trở ra hải ngoại bèn tuyên truyền không lương cho đảng cướp để được chúng ban bố quyền lợi, dễ dàng về nước sau nầy.

Lý thuyết dạy cướp của giết người được Lenin khai thác triệt để, nhờ lừa đảo, gian manh, tàn ác mà hắn chiếm được chính quyền từ tay Nga Hoàng vào tháng 10 năm 1917, từ đó lan rộng nhiều nước như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Đông Âu, Cuba .... hầu hết tại các nước bị Cộng Sản cai trị đều có các trường dạy "cướp của giết người", như tại Nga có trường đại học Công Nông Đông Phương tại thủ đô Mạc Tư Khoa, nơi đây từng đào tạo những tên du thủ du thực, lưu manh, đầu trộm đuôi cướp, bất lương khoa bảng như: Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu .... sau nầy, những tên tốt nghiệp cái trường dạy ăn cướp ở Nga Sô trở thành những "tướng cướp" và khi thành công "cướp chính quyền", đó là lời thành thật khai báo của những tên tướng cướp Cộng Sản, thò chúng lại mở trường đào tạo ăn cướp, như tên trùm ăn cướp, sáng lập đảng cướp Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh chủ trương: "mười năm trồng cây, trăm năm trồng người". Nhằm đào tạo thế hệ ăn cướp "nghiệp chuyên", kế thừa sự nghiệp ăn cướp trường kỳ, man rợ, theo đúng binh thư ăn cướp được thụ huấn từ Liên Sô, nên tại miền Bắc Việt Nam, sau khi cấu kết với thực dân Pháp và hai bậc thầy ăn cướp Nga-Tàu, Hồ Chí Minh thành lập ngay trường Chính trị Nguyễn Ái Quốc và cái Viện Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Marx Lenin do Hoàng Minh Chính (cũng từng học ở đất Nga) làm viện trưởng là nơi "điều nghiên kỹ thuật ăn cướp, giết người, bóc lột sức lao động "có bài bản, có kỹ thuật, đó là nơi xuất phát tư tưởng, sách lược "dạy ăn cướp tầm vóc quốc gia".

Có thể nói mà không sợ sai là: nguyên viện trưởng viện "điều nghiên sách lược cướp của giết người" Hoàng Minh Chính là "người thầy dạy ăn cướp, giết người, lừa đảo vĩ đại" của đảng Cộng Sản Việt Nam, bậc thầy ra công đào tạo biết bao "tướng cướp" lừng danh, từng "hét ra lửa, mửa ra khói" với nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy đảng và nhà nước; tức là Hoàng Minh Chính là bậc thầy "dạy ăn cướp" lừng danh, đáng được các băng đảng cướp tầm cở như Mafia tôn thờ là "quân sư". Do kiến thức và là bậc thầy trong lãnh vực nầy, nên Hoàng Minh Chính mới lừa được những con cừu non hải ngoại như bác sĩ Nguyễn Xuân Ngải, kể cả cựu đại sứ Bùi Diễm và một số người được coi là các bằng cấp cao, dính liền với chữ "SĨ-SƯ". Hoàng Minh Chính là bậc thầy "lừa đảo nghiệp chuyên" nên mới đóng vở kịch nói "phản tỉnh", được một số con cừu non "khoa bảng hải ngoại" bợ hết hai tay, nên từ "bậc thầy dạy cướp của giết người "thành" người tù lương tâm, nhà đấu tranh dân chủ, người yêu nước", rồi cái thời gian tích cực trong đảng cướp, cũng được trét phấn, bôi son, sơn phết thành "nhà cách mạng lão thành"; tức là ăn cướp mà cũng thành danh "cách mạng" thì mấy ai làm được như Hoàng Minh Chính? Theo văn từ, văn hóa của người Việt Nam, đối với những kẻ bất lương, gọi là THẰNG, chớ bao giờ gọi là ông ăn cướp, ông ăn trộm, ông móc túi, ông giựt hịu .... nhưng "người thầy dạy ăn cướp lừng danh" Hoàng Minh Chính lại được một số kẻ tâng bốc, méo mó văn hóa dân tộc, gọi là CỤ, như đảng Cộng Sản gọi tên tướng cướp Hồ Chí Minh là "Cụ Hồ" vậy. Tụ ngữ có câu:

"Chó đâu có sủa lỗ không.
Không THẰNG ăn trộm, cũng Ông ăn mày".

Năm 2005 được đảng cướp Cộng Sản Việt Nam dàn dựng cho xuất ngoại để tiếp tục "lừa đảo"; cái thành quả lừa đảo là "Tiểu Diên Hồng" được coi là sản phẩm hay là "SẢN PHẨM" chính trị "Made in Việt Cộng", bên trong sản phẩm là nhản hiệu cầu chứng "cờ đỏ sao vàng" làm cho một số người mua nhằm đồ giả, dỏm, nên có người ăn năn cũng đã muộn.

Nền kinh tế tập trung theo lý thuyết dạy "cướp của giết người" do Karl Marx dạy đã thành công thời gian đầu, lúc mà nhiều nước còn lạc hậu, sau đệ nhị thế chiến. Những tên tướng cướp từng châu lục, lãnh địa như Mao Trạch Đông ở Trung Hoa, Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, Hồ Chí Minh ở Việt Nam .... nhưng càng ngày, khi nhân loại càng văn minh, tư tưởng dân chủ phát triển, làm cho chủ thuyết Karl Marx qua nền kinh tế tập trung vào tay những tên ăn cướp không còn được thế giới chọn để điều hành đất nước, với cái gọi là "nhà nước vô sản chuyên chính". Đó là thời kỳ cáo chung của cái nôi Cộng Sản Liên Sô, Đông Âu nào đầu thập niên 1990. Tuy nhiên, tàn dư đám ăn cướp "nghiệp chuyên" ở Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba, Lào vẫn "bám trụ" kiên trì chủ thuyết ăn cướp, trước sau như một qua sách vở cũ, được biên soạn thêm cho phù hợp với "tình huống thời thượng" đó là cái công thức: "lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" để tồn tại, duy trì nghề ăn cướp; nếu không thì đảng cướp Cộng Sản bị đào thải và những tên tướng cướp có nợ máu với nhân dân sẽ phải ra hầu tòa án quốc tế về tội" diệt chủng" như Melosevic ở Nam Tư, Saddam Hussein ở Iraq.

Thế giới ngày nay biết rất rõ bản chất bất lương, bất nhân, tàn bạo của các chế độ độc tài do đảng cướp Cộng Sản điều hành, tuy nhiên vì quyền lợi mà họ tạm thời bắt tay giao thương, đợi đến khi chế độ cáo chung, lúc đó mới tính đến chuyện truy tố những tên "tướng cướp" ra tòa án quốc tế và đương nhiên biện pháp phong tỏa tài chánh được áp dụng để hoàn trả những món tiền ăn cướp của nhân dân từ lâu nay, phải trả về cho nhân dân. Đó là giải pháp mà các nước thường áp dụng: khi bắt được tên cướp, có bằng chứng, có nạn nhân truy tố, cứ thế mà đưa ra tòa kêu án. Nhiều tên tướng cướp Cộng Sản tích lũy tài sản hàng tỷ Mỹ Kim, chúng lại phải giao cho các nước "tư bản phản động" giữ, vì cái hệ thống tiền tệ, ngân hàng của chúng, ngay cả nước Cộng Sản lớn và mạnh nhất Trung Cộng, với tiền Yan, cũng không thể được tín nhiệm như "đô la Mỹ". Do đó, hầu như tất cả những tên cán bộ cao cấp nào của đảng Cộng Sản Việt Nam, khi trở thành tỷ, triệu phú, đều phải "vuốt ve" nơi giữ tiền; khi nhìn bề ngoài, có người cho là "thân Mỹ", nhưng thực ra thì không có người Cộng Sản nào "ưa Mỹ" cả, chúng luôn mong muốn "đánh sập đế quốc Mỹ" là bản chất, giáo điều của Karl Marx; Đảng Cộng Sản Việt Nam dù "ăn tiền đô Mỹ ngập mặt" mà chúng vẫn tuyên bố: "luôn trung thành tuyệt đới với chủ nghĩa Marx Lenin".

Nói một cách khác, tập đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam có hai bộ mặt: bên trong bám trụ Trung Cộng để được bảo kê quyền lực và được quan thầy "tấn phong" chức thái thú lâu dài; bên ngoài thì cố gắng "xạo ke Mỹ" để lấy tiền cho viện và cũng muốn được bảo vệ túi tiền. Do đó, tên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sau khi qua Mỹ vào tháng 8 năm 2008, nay lại sang "yết kiến" thiên triều Trung Cộng vào tháng 10 năm 2008. Như vậy khi người Cộng Sản có tiền nhiều, thì họ phải biết bảo vệ túi tiền như "bảo vệ con ngươi trong tròng mắt", nên thời gian gần đây, nhìn cái gương của một số tên độc tài, kẻ khủng bố, tổ chức tài chánh có quan hệ đến Al Qaeda bị phong tỏa tài chánh, thế là chúng "giựt mình", gần đây, hiện tượng "rửa tiền" tại nhiều châu lục, nhất là lợi dụng sinh hoạt tự do tại các nước dân chủ. Thay vì bỏ nhiều tiền trong các trương mục ngoại quốc, cán bộ Cộng Sản Việt Nam rửa tiền bằng nhiều cách:

- Mua bất động sản tại Việt Nam bằng tiền Mỹ, vàng: chính vì rửa tiền theo cách nầy, mà có lúc nhà đất ở Saigon lên cao hơn cả địa ốc ở New York, có lúc 1 thước vuông giá 5 ngàn Mỹ kim.

- Mua bất động sản tại các quốc gia dân chủ, nhất là các thủ phủ, nơi cao giá. Đắc lực trong công việc "rửa tiền" phải nói đến mũi nhọn xung kích là đội ngũ du học sinh, lợi dụng được sang học hành, rồi tìm cách mang tiền của gia đình sang mua đất, nhà, thương nghiệp, nên nhiều "du sinh" đã có những "cơ ngơi" ở các nơi sang trọng, giá bạc triệu, đi học, đi chơi giải trí ở các sòng bạc Casino và nằm mai phục có gia đình "Việt kiều" nào ham tiền, làm đơn bảo lãnh theo diện hôn phối, được ở luôn, từ từ chuyển hết những món tiền ăn cướp vào đầu tư địa ốc và dùng "cơ sở" nầy để bảo lãnh cha mẹ sau khi ăn cướp thu được nhiều tiền, lúc bị thất thời, lớn tuổi, được bảo lãnh sang, hưởng trọn tài sản bất chánh.

- Mua các cơ sở kinh doanh, là các thương nghiệp hải ngoại. Từ đó tạo dựng hệ thống kinh tài, bảo lãnh người từ Việt Nam sang với tư cách thương gia, tăng cường đội ngũ nằm vùng, đón gió. Chính vì có tiền chùa quá lớn, nên người Cộng Sản sẵn sàng mua thương nghiệp với giá cao, những người ham lời sang dần các cơ sở, thế là một thời gian nữa, người Việt tỵ nạn có dịp "mua hàng hóa từ các cửa hàng do Việt Cộng làm chủ". Đó là lý do mà công ty Sandwich Lee do gia đình Lê Văn Chiêu, Lê Văn Hướng, trong dịp ăn tiệc cùng với tên chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết năm 2007, ra giá bán chi nhánh lên đến hàng triệu Mỹ Kim.

- Dùng tiền xây, mua cơ sở tôn giáo, điểm nóng từ mấy năm qua trong lãnh vực "rửa tiền" là chùa, nơi đầu tư mau lời nhất, lại chắc ăn. Ngoài ra rửa tiền chùa vào việc mua, cất chùa cũng là một sách lược trường kỳ, nhuộm đỏ cộng đồng trong tương lai. Chùa trở thành cái tiệm và la nơi bảo lãnh, giao thương, đặt cơ sở, cho bộ đảng, trốn thuế dễ dàng.

Nền kinh tế tập tung với bản chất bất lương từ nguốn gốc, được Hồ Chí Minh mang về áp dụng tại Việt Nam sau khi chiếm được chính quyền miền Bắc năm 1954 và 1975 ở miền Nam. Hồ Chí Minh từng tốt nghiệp trường ăn cướp gốc ở Liên Sô từ năm 1924, nên hắn rành lý thuyết, có lối định nghĩa "dân chủ tập trung" là gom hết tài sản vào tay, đoạn chìa khóa hắn giữ, tùy nghi tiêu dùng. Lý thuyết ăn cướp được đảng biến thành "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo" vẫn là cái vũ khí lý luận của đảng cướp. Do không làm mà vinh quang, hưởng hết tất cả của cải vật chất, nên hệ thống đảng, nhà nước không cần trả lương tương xứng cho cán bộ, đó là "kho lương nhân dân" nên hối lộ, tham nhũng là quốc sách "nuôi, trấn đảng" từ lâu nay.

Từ nền kinh tế bất lương, sản xuất cũng bất lương, từ đó hàng hóa các nước Cộng Sản đều không đạt "chất lượng" nên không được thế giới tin dùng, ngay cả những người Cộng Sản cũng không bao giờ tin những gì do các công ty quốc doanh làm ra, nên khuynh hướng xài hàng ngoại từ các nước "tư bản phản động" được tuyệt đại đa số cán bộ từ trung ương đến địa phương áp dụng trong việc mua sắm. Người Cộng Sản có lối làm việc "làm láo báo cáo hay" nên hàng hóa của họ có nhiều thứ đáng quan tâm: kém phẩm chất, mất vệ sinh, nhiều chất độc ..... xã hội chủ nghĩa cũng là nơi ăn cắp bản quyền, làm hàng nhái, hàng giả, dỏm, đó là vương quốc lừa đảo. Trung Cộng lợi dụng bang giao, đầu tư của các nước "tư bản thù nghịch" nên phát triển kinh tế nhanh, tuy nhiên nơi nầy lừng danh thế giới là "cái nôi làm hàng dỏm, giả, độc" từ đồ chơi trẻ con, hải thủy sản đến quần áo .... khắp nơi nơi đều là "độc hại".

Bản chất bất lương của "vương quốc lừa đảo Cộng Sản" với nguyên lý: "sống chết mặc bây, tiền vào như nước" nên hàng hóa từ Trung Quốc thường gây tác hại sức khỏe cho người tiêu thụ từ lâu nay. Tình trạng các kiện hàng bị hoàn trả, tiêu hủy từ Âu, Mỹ châu ....l à báo động cho người tiêu thụ và có khả năng làm hao thâm thủng ngân sách y tế, khi có nhiều người dùng phải hàng "made in China" bị bịnh, hay nguy hại hơn là ung thư. Việt Nam cũng là "vương quốc chư hầu lừa đảo" nằm trong hệ thống Trung Cộng, nên lối làm việc phải "rập khuôn" theo quan thầy, từ nhiều năm qua, tình trạng thức ăn bị trộn chất Formal (dùng trong nhà xác) tìm thấy ở bánh phở, hủ tiếu, bánh tráng .... các chất độc nằm trong thủy hải sản và việc làm biến chế "kinh rợn" với đội quân ruồi, vi trùng, nơi sản xuất dơ dái; đó là những lý do khiến cho nhiều người Việt tỵ nạn, dù có yêu mến quê hương cách mấy như "chùm khế ngọt" cũng ơn ớn khi nhìn thấy các sản phẩm đề "made in Vietnam". Cho nên, trong thời gian gần đây, nhiều tiệm thực phẩm Á Châu có đặt hàng mua từ Việt Nam đều bán không chạy, kể cả bánh mứt.

Mới đây, sau Olympic, Trung Cộng lại làm cho toàn thế giới hốt hoảng khi sữa của họ có pha trộn chất độc Melamine, dùng trong nhựa dẻo, phân bón. Ngay tại Hoa Lục, có 4 trẻ bị chết, 54 ngàn em bị bị sạn thận. Lập tức, khắp nên trên địa cầu, nhiều sản phẩm sữa "made in China" bị lấy ra khỏi kệ các siêu thị, nhất là các nước như Nhật, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân và Úc cũng có. Tuy nhiên Việt Nam là "chư hầu" của Trung Cộng, nên nhiều hàng hóa "thông thương" như thứ "tình hữu nghị, núi liền núi, sông liền sông, đất liền đất, đời đời bền vững như răng với môi". Chắc chắn là lượng sữa Trung Cộng xâm nhập vào Việt Nam từ lâu, thế mà đảng không dám la, ngay cả công dân của mình là kỳ sư Trần Trung Lưu, bị một đám du khách Trung Cộng đánh chết tại một quán ở thủ đô Hà Nội, mà công an không dám đụng tới. Nhưng khi giáo dân ở Thái Hà, Hà Nội cầu nguyện ôn hòa tại vùng đất bị ăn cướp từ thời thằng chó đẻ Hồ Chí Minh, thì công an lại đàn áp, dàn dựng cho du đảng quậy phá, đe dọa. Như vậy đảng, nhà nước, công an Việt Cộng là lũ "KHÔN NHÀ DẠI CHỢ" chỉ có "mặt mạnh" là ăn hiếp dân, còn đối với Trung Cộng thì quì mọp, tôn kính như ông cố nội. Việt Nam từng ngậm miệng, căm như hến từ lúc Trung Cộng dạy bài học năm 1979, lúc đó còn có quan thầy Liên Sô. Nhưng ngày nay "mẫu quốc Trung Cộng là một, đảng và nhà nước tay sai là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi", nên Việt Nam càng không dám hó hé, dù bị Trung Cộng chơi sỏ, chiếm quần đảo, lấn lướt đất đai, mang cả hàng giả, tiền giả, đổ dỏm, độc sang giết dân mình.

Bản chất bất lương của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa càng ngày càng để lộ ra nhiều điều mà cả thế giới đều quan ngại, ghê trợn, nên dần dần, hàng Trung Cộng mất tín nhiệm dù giá rất hạ trên thị trường khi hàng hóa đủ dạng không còn nhiều người tiêu thụ, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy không an toàn, an tâm làm ăn; rủi sản phẩm do công ty mình làm ra gây bịnh tật, ung thư thì khó tránh khỏi luật bồi thường quốc tế (như công ty Tân Tây Lan Fronterra, có 43% phần hùn với hãng sữa Trung Cộng, cố né tránh khi vụ melamine bùng nổ vào 11 tháng 9 năm 2008). Khi các công ty rút ra khỏi, là điều mà đảng và nhà nước Bắc Kinh lo sợ, đó là ngày tàn của một chế độ lừa đảo: lợi dụng kinh tế thị trường để làm hàng giảm dỏm.

Trương Minh Hòa



Truyền Thông Hầm Chông

Đỗ Thái Nhiên

Đầu tháng 08 năm 2007, ngay sau khi nhận được chức bộ trưởng Thông Tin và Truyền Thông, ông Lê Doãn Hợp đã “làm quen” với báo chí dưới chế độ Cộng Sản bằng cách nói lên một sự thực vô cùng sống sượng. Sự thực rằng:

“Qui chế báo chí chính là để chúng ta tự do hơn, lâu nay chúng ta quản lý theo mệnh lệnh, chúng ta hoàn toàn tự do, nếu đi đúng theo lề đường bên phải.” (Hết lời dẫn)

Không cần giải thích dông dài, mọi người đều thừa biết lề phải là lề đòi hỏi nhà báo vừa viết báo vừa tìm moi cơ hội đê nhét vào giữa đoạn tin, giữa bài báo những sáo ngữ có nội dung hết lòng ca tụng đảng và nhà nước. Ngược với lề phải là lề trái. Lề này dành riêng cho những nhà báo độc lập và bất khuất kiểu nhà báo Điếu Cày, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, luật sư Lê Thị Công Nhân, bác sĩ Phạm Hồng Sơn và vô số nhà dân chủ khác … Dọc theo lề trái là công an văn hóa, là tòa án luật rừng, là đủ các loai lao tù Cộng Sản. Tuy nhiên, dưới chế độ CSVN truyền thông không chỉ đơn giản bao gồm hai luồng: lề phải và lề trái. Chế độ Hà Nội còn cài đặt vào mạng lưới truyền thông của họ một luồng truyền thông thứ ba hiểm độc hơn nhiều lần, dày đặc hơn nhiều lần, đó là truyền thông hầm chông.

Hầm chông là kỹ thuật giết người rất bất ngờ và hiểm ác mà CSVN thường áp dụng trong chiến tranh Việt Nam. Hầm chông có chiều sâu cao quá đầu người, diện tích khoảng 1 hoặc 2 thước vuông, hoặc rộng hơn nữa tùy theo địa hình và nhu cầu nơi thiết lập hầm bẫy. Đáy hầm cắm sẵn vô số cây sắt hoặc tre có đầu vót nhọn và sắc hướng thẳng lên trời. Miệng hầm đựợc ngụy trang bằng một đoạn đường mòn hiền hòa, một khoảng cỏ xanh thơ mộng. Khi rơi vào hầm chông, nạn nhân bị các loại cây nhọn đâm từ bàn chân lên tới ngực. Chết đau đớn và tức tưởi.

Bây giờ hãy nói về những tương đồng giữa hầm chông du kích và hầm chông truyền thông. Cả hầm chông du kích lẫn hầm chông truyền thông đều dùng âm mưu hiểm ác để đẩy con người đi vào cõi chết Hầm chông du kích giết chết thân xác của nạn nhân. Hầm chông truyền thông giết chết khả năng nhận định của người dân về phải-quấy, hư-thực. Nó tạo ngăn cách trầm trọng trong lòng dân tộc. Nó làm cho người dân rất khó khăn trong việc phân biệt bên này là dân chủ nhân bản, bên kia là độc tài gian ác.

Ngày 16 tháng 09 năm 2008, báo Công An Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của bộ Công An CSVN đã đăng tải một bài phỏng vấn được gọi là ý kiến của giáo dân nhằm lên án các linh mục, tu sĩ, và giáo dân Công Giáo trong vụ đòi lại đất ở Thái Hà. Thế nhưng, ông Vũ Kim Mỹ, thẩm phán tòa án huyện Kim Sơn, một trong những người mà bài phỏng vấn kia có nêu tên lại viết văn thư xác nhận trước công luận rằng: “Tôi (Tức là thẩm phán Vũ Kim Mỹ) khẳng định không nói gì đến những ngày qua ở Thái Hà, và không đả động gì đến việc đòi xử nghiêm minh, cũng không nói tới Chúa trong câu trả lời”. (Hết lời dẫn)

Rõ ràng là báo Công An Nhân Dân đã bịa ra những điều mà ông Vũ Kim Mỹ không hề nói. Bịa tin có nghĩa là bố trí tin tức thành một bẫy sập nhằm gài cho dư luận rơi vào hoàn cảnh phải hiểu sai tình hình và sự hiểu sai này có lợi cho vai trò thống trị xã hội của đảng CSVN. Đó là truyền thông hầm chông.

Ngày 20/09/2008 trong khi thảo luận với UBNDTP Hà Nội, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt có nói một đoạn như sau:

“Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ! Chúng tôi mong muốn mình mạnh lên.” (Hết lời dẫn)

Vin ngay vào câu nói “Chúng tôi rất nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam” toàn bộ hệ thống truyền thông của Hà Nội đã đồng loạt và ầm ỉ lên án Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã miệt thị dân tộc Việt Nam đã coi thường tổ quốc Việt Nam. Hành động chặt đầu, chặt đuôi câu nói để kết tội một người trong hồ đồ và huyên náo hẳn nhiên không phải là một hoạt động truyền thông nghiêm chỉnh và khoa học. Muốn xác định chân ý nghĩa câu nói của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, người đi tìm chân lý cần tiến hành công việc khảo sát theo ba bước:

- Bước thứ nhất: Trước khi nói tới hộ chiếu Việt Nam, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và UBNDTP Hà Nội đã nói với nhau những gì?

Như chúng ta đã biết, sau 1954 cũng như sau 30/04/1975 CSVN đã cưỡng chiếm nhà đất của nhân dân cũng như của các tôn giáo theo phong cách thảo khấu: đuổi chủ nhà, chủ đất ra khỏi bất động sản của nạn nhân. Các đương sự đi đâu, đảng không cần biết. Nếu khiếu nại, đảng sẽ cho đi “học tập cải tạo” hoặc đi kinh tế mới. Việc tịch thu tài sản của nhân dân hoàn toàn không tuân theo bất kỳ luật lệ nào, không do bất kỳ văn thư hành chánh hay tư pháp nào.

Ngày nay, tình hình đã hoàn toàn thay đổi. CSVN phải đầu hàng kinh tế thị trường. Lãnh đạo đảng trở thành đại gia đỏ, họ không còn đại diện cho quần chúng vô sản nữa. CSVN phải nhìn nhận vai trò của luật pháp trong khi luật pháp của xã hội dưới ách cai trị của Hà Nội đang lâm cảnh trống đánh suôi, kèn thổi ngược.

Hiện tình Việt Nam chính là lúc hợp thời để người dân chất vấn nhà cầm quyền Hà Hội về căn bản pháp lý của những hành động cưỡng chiếm nhà đất do CSVN thực hiện nhiều thập niên về trước. Cuộc nói chuyện giữa Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và UBNDTP Hà Nội không ra ngoài nội dung của những chất vấn vừa kể. Nhằm tránh né cuộc chất vấn không có câu trả lời kia ông chủ tịch UBNDTP Hà Nội đã “dịu giọng” gợi ý Tòa Tổng Giám Mục hãy nói tới vấn dề đất đai tại tòa khâm sứ bằng tình chứ không bằng lý. Lý ở đây dĩ nhiên là pháp lý, là luật pháp.

- Bước thứ hai: ý nghĩa đích thực của điều được gọi là “Rất là nhục nhã khi phải cầm cái hộ chiếu Việt Nam”.

Đáp lời kêu gọi xem tình nặng hơn luật pháp của UBNDTP Hà Nội, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt chủ trương: “Về phương diện pháp luật, chúng ta phải làm theo pháp luật, thì cái gì cũng phải có cơ sở pháp lý” (Hết lời dẫn).

Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt giải thích thêm: “Muốn có cái hài hòa trong cái mối thống nhất thì đâu chỉ có cái tình mà phải có lý nữa” .Tổng Giám Mục nhấn mạnh: “Chúng ta phải sống theo pháp luật” (Hết lời dẫn).

Xã hội sống không theo luật pháp có nghĩa là xã hội đầy dẫy những người phạm pháp. Tại sao Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt than phiền “Đi đâu cũng bị soi xét” ! Phải chăng “soi xét” để tìm cho ra mức độ nghèo yếu của người cầm hộ chiếu Việt Nam? Phải chăng “soi xét” để lượng định tầm vóc chia rẽ giữa người dân và nhà cầm quyền Việt Nam?

Thưa rằng: Không phải như vậy! Soi xét chỉ để lùng kiếm xem những người cầm hộ chiếu Việt Nam có buôn lậu hay không? Có làm điều gì bất hợp pháp hay không? Đây chính là lý do đích thực khiến Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt mạnh mẽ cảnh báo cho mọi người Việt Nam đặng biết: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét”.

Bước thứ ba: Muốn cảm thấy hãnh diện khi cầm hộ chiếu Việt Nam, muốn đi đâu cũng không bị soi xét, người Việt Nam phải làm gì?

Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt phát biểu ý kiến như sau: “Tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thực sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.” (Hết lời dẫn)

Muốn đất nước lớn mạnh ư? TGM Ngô Quang Kiệt trả lời: Chúng ta không phải chỉ có tình cảm mong muốn là được mà phải có lý luận xây dựng thật vững chắc trên nền tảng pháp lý”. (Hết lời dẫn)

Nói tóm lại, muốn lớn mạnh, muốn hãnh diện là người Việt Nam thì dân tộc Việt Nam, nhất là nhà cầm quyền Việt Nam, phải sống theo luật pháp. Luật pháp mang lại giàu mạnh và đoàn kết. Luật pháp mang lại công lý và hòa bình. Như vậy, rõ ràng là Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã khởi đi từ vấn đề căn bản pháp lý của lô đất Tòa Khâm Sứ. Sau đó, dùng “Câu chuyện hộ chiếu Việt Nam” để chuyển ý thành quyết tâm đòi hỏi công lý và hòa bình cho toàn khối nhân dân Việt Nam, cho trọn vẹn dòng sống Việt. Đó là tất cả ý nghĩa nghiêm chỉnh và đích thực nằm trong câu nói của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt nhân khi nhắc tới hộ chiếu Việt Nam.

Bản tin về Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và về thẩm phán Vũ Kim Mỹ là hai trong vô số bằng chứng cho thấy guồng máy truyền thông của CSVN bao giờ cũng sẵn sàng gán cho một người nào đó đã nói những lời mà đương sự không hề nói, hoặc cắt đầu, cắt đuôi câu nói của một người bất đồng quan điểm với chế độ Hà Nội nhằm kích động dân chúng chống đối người này. Đây là loại truyền thông gài bẫy. Loại truyền thông gài bẫy này hiểm ác không khác gì hầm chông. Vì vậy nó được gọi là truyền thông hầm chông. Như vậy dưới ách cai trị gian ác của CSVN, hoạt động truyền thông được chia thành ba luồng.

Luồng một bao gồm những ngòi bút ngoan ngoãn phục tùng độc tài và tham ô. Luồng một được CSVN gọi là truyền thông lề phải.

Luồng hai bao gồm những ngòi bút độc lập, yêu chuộng tự do dân chủ. Luồng hai bị CS gọi là truyền thông lề trái. Vì vậy những ngòi bút luồng hai là khách hàng quen thuộc của ngục tù bao la dưới chế độ CS.

Luồng ba là luồng truyền thông hầm chông. Luồng này chuyên bịa đặt tin giả, bưng bít tin thật, chặt đầu chặt đuôi tin tức quan trọng nhằm đầu độc dư luận hoặc lèo lái dư luận suy nghĩ theo hướng có lợi cho độc tài tham ô.

Nhờ có sự tham dự của tư tưởng giới, con người là một loài động vật có khả năng và có nhu cầu truyền thông. Truyền thông giữa người dân với người dân. Truyền thông giữa người dân với nhà cầm quyền. Truyền thông giữa cộng đồng dân tộc với cộng đồng thế giới. Truyền thông là cội nguồn của cảm thông và hợp tác, của hòa bình và công lý. Tuyền thông của CSVN, đặc biệt nhất là truyền thông hầm chông đã thực sự giam cầm người dân trong môi trường mù loà, môi trường xa cách ánh sáng văn minh hàng vạn dặm. Muốn Việt Nam tiến lên dân chủ và thịnh vượng, hành động tiên quyết của nhân dân Việt Nam là phải nhanh chóng giải thoát người dân ra khỏi nanh vuốt của truyền thông hầm chông. Có như vậy người dân mới đủ hiểu biết chân xác để nhận ra tính chất tuyệt hảo của thể chế tự do dân chủ. Có như vậy người dân mới tích cực dấn thân vào con đường phá vỡ tảng đá độc tài và tham ô hiện đang đắp mô trên dòng sử Việt.

Đỗ Thái Nhiên


Friday, October 3, 2008

Ðừng đánh sai mục tiêu

Nguyễn Ðạt Thịnh

Trong cuộc thắp nến tối thứ Sáu 26-9, của 10,000 người Việt tại Quận Cam yểm trợ cuộc đấu tranh tại Giáo Xứ Thái Hà và Toà Khâm Sứ, dân biểu Trần Thái Văn cho biết ông và phái đoàn Nam Cali đã lấy được hẹn và tuần tới sẽ lên đường đến Washington DC gặp các đại diện chính phủ Hoa Kỳ và đại diện của Vatican để tường trình và yêu cầu đặt Việt Nam trở lại danh sách "các nước cần quan tâm đặc biệt" về tự do tôn giáo.

Thiện chí của dân biểu Văn vô cùng đáng ca ngợi, và hiệu năng làm việc nhanh chóng, lấy hẹn với hành pháp Hoa Kỳ ngay trong tuần sau, cũng là điều cử tri gốc Việt phải tri ân.

Tuy nhiên, ông dân biểu nên tái xét điều ông dự định làm. Ý định của ông có thể cao quý, nhưng việc ông làm không yểm trợ cho cuộc đấu tranh Thái Hà, phố Nhà Chung, và đường Kỳ Ðồng vì ông đánh sai mục tiêu.

Nếu theo dõi các cuộc đấu tranh này, dân biểu Văn đã hiểu mục đích đấu tranh không phải là đòi hỏi quyền tự do tôn giáo mà là đòi quyền tư hữu đất đai cho nguời Việt Nam, điều mà Việt Cộng không thể nhượng bộ.

Trong đêm thắp nến chính linh mục Trần Công Nghị cũng đã tóm lược tình hình đấu tranh tại Hà Nội. Linh mục Nghị cho biết cộng sản Việt Nam đề nghị Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt lựa chọn một trong 3 khu đất khác tại Hà Nội, nhưng Tổng Giám Mục đã khẳng khái từ chối với lý do là Giáo Phận Hà Nội đòi lại đất tư hữu của mình chứ không xin đất. Cha Nghị cho biết cuộc đấu tranh tại Thái Hà và Tòa Khâm Sứ là đòi công lý, đòi quyền tư hữu chứ không phải chỉ là sự đòi đất thuần túy.

Nếu theo dõi cuộc đấu tranh trong nước, hẳn dân biểu Văn cũng biết Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn viết thơ phúc đáp Hà Nội, trong thư có câu, “… luật đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thiết nghĩ không thể có một giải quyết tận gốc nếu không quan tâm đến những yếu tố này.”

Ông Văn đi can thiệp với Hoa Thịnh Ðốn và Vatican để yểm trợ cho cuộc đấu tranh của giáo dân quốc nội mà không hiểu mục đích đấu tranh. Ông đòi bộ ngoại giao Hoa Kỳ bỏ Việt Cộng trở vào cái cũi CPC, việc giáo dân quốc nội không đòi, và cũng là việc ông xô một cánh cửa đã được bộ ngoại giao Mỹ xác nhận là không mở, ít nhất trong một năm nữa.

Mỗi năm một lần, bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra một bản tường trình về tình hình tự do tôn giáo trên toàn thế giới và nêu tên những quốc gia không tôn trọng tự do tôn giáo. Hai tuần trước, ngày 19 tháng Chín, Hoa Kỳ đã công bố bản tường trình về tự do tôn giáo trên thế giới; và đại sứ lưu động đặc trách tự do tôn giáo của Hoa Kỳ, ông John V. Hanford. nói, “Chúng ta đốt lên một ngọn nến -- ngọn nến (là bản tường trình) dầy 800 trang-- rọi sáng mọi bất công, ngọn nến chúng ta tin tưởng là sẽ khuyến khích công lý và một tình trạng tôn trọng tự do tôn giáo hơn nữa trên khắp thế giới.”

Bản tường trình 800 trang đó chỉ ghi tên 8 quốc gia không tôn trọng tự do tôn giáo là Trung Cộng, Miến Ðiện, Eritrea, Iran, Bắc Hàn, Saudi Arabia, Sudan, và Uzbekistan.

Ðược hỏi về trường hợp Việt Nam, ông Hanford nói cuộc đấu tranh tại Việt Nam không đòi hỏi tự do tôn giáo mà đòi quyền sở hữu đất đai. Ông còn lập lại lập luận của Hà Nội cho rằng miếng đất phô Nhà Chung phức tạp vì có nhiều vấn đề; ''Một trong những vấn đề là tài sản được sang tay nhiều lần”, Hanford nói: “Trong trường hợp miếng đất nhiều người biết đến ở Việt Nam, tôi nghĩ trước đây của người Phật giáo sau nhờ người Pháp mới thành của người Công giáo cho nên rất phức tạp.”

Hanford nói “tôi nghĩ”; nhưng có thật chính ông nghĩ không? Hay Việt Cộng mớm lời cho ông.

Tuần sau, dân biểu Văn bay lên Hoa Thịnh Ðốn để vận động một việc chỉ có thể xẩy ra sang năm, khi bộ ngoại giao Hoa Kỳ lại tái xét danh sách CPC cho năm 2009. Chuyến bay yểm trợ của ông làm tôi nhớ đến những chuyến bay của các phi công Hoa Kỳ yểm trợ bộ binh Việt Nam trên chiến trường ngày xưa.

“Lạy trời cho con nhà Mỹ nó sáng suốt đừng đánh sai mục tiêu”, là câu tôi thường nghe các bạn đồng đội của tôi nói trong lúc khu trục phản lực cơ Mỹ gầm thét trên bầu trời. Ðánh sai mục tiêu không những vô ích mà đôi khi còn tạo ra cảnh “chết vì hỏa lực bạn.”

Nguyễn Ðạt Thịnh



Thông Cáo Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội Việt Nam


    DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM
    Tu viện Thái Hà
    180/2 Nguyễn Lương Bằng
    Đống Đa, Hà Nội
    Đt: 04. 8511 239
    Hà Nội ngày 15 tháng 9 năm 2008


    THÔNG CÁO

    VỀ VIỆC TRỢ GIÚP VÀ ĐÓN NHẬN TIỀN BẠC, VẬT CHẤT

    Để Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không bị hiểu lầm, để sứ mạng làm chứng cho công lý và sự thật của toàn thể quý linh mục, tu sĩ và quý ông bà anh chị em giáo dân trong ngoài Giáo xứ không bị tổn hại, Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội chúng tôi xin thông cáo:
    1. Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không xin bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong ngoài nước trợ giúp tiền bạc, vật chất.

    2. Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không uỷ nhiệm cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong ngoài nước tổ chức quyên góp tiền bạc, vật chất.

    3. Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội không nhận bất cứ sự trợ giúp tiền bạc, vật chất nào từ bất cứ cá nhân hay tổ chức nào gửi về từ ngoại quốc cách trực tiếp hay gián tiếp.

    Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội rất cảm động trước tấm lòng yêu thương bác ái của quý vị ân nhân trong ngoài nước đã vì tình thương mà tự nguyện quan tâm, giúp đỡ chúng tôi, đặc biệt là giúp đỡ các nạn nhân của các vụ trấn áp.

    Tuy nhiên trong hoàn cảnh tế nhị và phức tạp hiện nay, Giáo xứ Thái Hà-DCCT Hà Nội chúng tôi chỉ xin được đón nhận từ quý vị ân nhân ở ngọai quốc những lời cầu nguyện tha thiết và sốt sắng mà thôi.

    Chúng tôi xin chân thành cám ơn quý vị ân nhân. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ban cho quý vị và mọi người thân của quý vị muôn ơn lành.

    Giáo xứ Thái Hà - Tu viện DCCT Hà Nội
    Phát ngôn viên
    Lm Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT



CĐCGVN TGP Sydney Thắp Nến Cầu Nguyện Cho Giáo Hội Việt Nam


  • Hình Ảnh Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney thắp Nến cầu nguyện cho Hòa Bình - Công Lý tại Việt Nam đặc biệt cầu nguyện cho Gx Thái Hà và Tòa Khâm Sứ Hà Nội. Tối thứ Sáu 03/10/2008 tại nhà thờ Sacred Heart Cabramatta - Sydney.
Hình chụp bởi Diệp Hải Dương











































Tài liệu giảo nghiệm chữ viết khi ông Nguyễn Chí Thiện vừa mới sang Hoa Kỳ năm 1995

Mời quý vị nghe cuộc mạn đàm giữa Nguyễn Chí Thiện và Hoàng Vân

Quý vị cũng có thể download audio file tại dưới đây: (right-mouse click; save target as ...)

http://www.vannha.com/NCT/HoangVan-NCT-Oct1-2008.wma


Những hình dưới đây là tài liệu giảo nghiệm chữ viết khi ông Nguyễn Chí Thiện vừa mới sang Hoa Kỳ năm 1995

Bao thư gửi kết quả giảo nghiệm nét chữ:


Thủ bút tác giả bức thư đưa vào tòa Đại Sứ Anh:


Copy bức thư Đồng Lầy gửi vào tòa Đại Sứ Anh:


Thủ bút thư của ông NCT gửi đồng bào hải ngoại lúc mới sang Hoa Kỳ năm 1995:


Kết quả cuộc giảo nghiệm chữ viết:







Giả Từ Thiện và Bịnh Mù Loà


Nguyễn Châu

Đã sáng mắt ra chưa (III)

Tin từ Washington D.C. cho hay một hội từ thiện ở Virginia đã giúp nhiều người già cô quạnh, mù lòa, tàn tật và trẻ em mồ côi trong các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Bình Định, An Giang và nhiều nơi xa xôi khác tại Việt Nam. Kết quả: tại An Giang, 157 người được mổ mắt, thay tinh thể (25/1/2004); tại Hải Lăng, Quảng Trị, 50 người được sáng mắt; huyện Triệu Phong 50 người được thấy ánh sáng; tại Huế cũng có khoảng 40 người được sáng mắt...

Theo báo cáo của hội, hiện toàn tỉnh Quảng Trị có 250 người mù cần giúp đỡ ... Hội thiện nguyện Pháp Hoa kêu gọi hảo tâm của người hải ngoại, chỉ cần 36 Mỹ kim là có thể giúp cho một người mù được sáng mắt. Thế là chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cứ để dân mù lòa cho đến khi có hảo tâm giúp đỡ của người hải ngoại.

Trước 30 tháng Tư 1975, tại miền Nam và tại Mỹ, Pháp v. v... đã có khá nhiều người bị mù lòa mà thuốc men và kỹ thuật chữa trị của Thế Giới Tự Do không chữa nổi.

* Chứng mù của một bộ phận trí thức miền Nam Việt Nam, của nhóm phản chiến Hoa Kỳ, của một vài tài tử, ca sĩ, của một số triết gia Pháp, Đức, của một số tu sĩ đầy vọng tâm ...

* Bệnh mù của họ kéo dài gần ba thập niên, tưởng đã trở nên kinh niên bất trị, nhưng không ngờ Cộng sản Việt Nam sau khi xâm chiếm Nam Việt Nam khoảng hai năm, đã phát minh được phương thuốc chữa bệnh mù cho hơn 20 triệu người miền Nam, cho hầu hết những người chủ trương phản chiến hăng say nhất như Joan Baez, Jane Fonda ...

* Bệnh mù của Kissinger và một số nhà ngoại giao Tây phương cũng được chữa lành. Họ được sáng mắt khi Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách man rợ đối với “đồng bào ruột thịt miền Nam” như lùa hết Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tù được mở ra dọc theo núi rừng từ Nam ra Bắc, cưỡng bách dân miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới, thực chất là một cuộc đày ải để cướp nhà, cướp đất, cướp của cải của họ tại các thành phố...

Hàng triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi, cả triệu người bỏ mạng trên biển Đông, trong rừng sâu, tại các vùng kinh tế mới “Khổ Thấy Mẹ” và trong các nhà tù mang mỹ danh “Cải Tạo”.

*****
Chính sách tàn bạo và thâm độc của Cộng sản nói chung và Cộng sản Việt Nam nói riêng là một thần dược chữa chứng mù lòa cho những kẻ bị huyền thoại Giải Phóng mê hoặc, cho những người mù lòa do tham vọng cá nhân, chức quyền bốc hỏa làm mờ lương tri. Đa số những người mù lòa trước năm 1975 đã được sáng mắt để nhìn rõ thực chất của Cộng sản, thấy rõ “tính ưu việt” của tập đoàn “sinh ra trong đói nghèo, lớn lên bằng chiến tranh, giết hại, nuôi sống bằng sự dối trá và đang hấp hối bởi sự bất tài, bất lực và tham nhũng”...

*****
Tự nhận là đỉnh cao trí tuệ, sau 29 năm thống nhất lãnh thổ, xây dựng đất nước trong hòa bình, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không thực hiện được CÔNG VIỆC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO cho nhân dân, mặc dù tài nguyên đất nước vô cùng phong phú: rừng vàng, biển “đô la” từ dầu mỏ và hải sản, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới cấp cho chương trình Xóa Đói Giảm Nghèo 54 triệu Mỹ Kim, và tiền Việt Nam Hải Ngoại “chi viện không hoàn trả” cho thân nhân mỗi năm hơn 3 tỷ Đô-la Mỹ.

Tiền ấy đi về đâu, mà đại đa số nhân dân vẫn đói nghèo đến độ mẹ phải bán con nhỏ, con lớn 9-10 tuổi qua Cam-Bốt làm điếm, nhà Nước thì bán hàng chục ngàn phụ nữ qua làm vợ người Đài Loan, xuất khẩu nhân công, xuất khẩu con nuôi quốc tế? Trước tình cảnh này, nhiều cán bộ cao cấp của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số trí thức Cộng sản cũng đã sáng mắt nhìn thấy rõ bản chất ác quỷ của Đảng ta, đã liều thân lên tiếng và đã bị Đảng tru diệt không nương tay...

*****
Thế mà tại hải ngoại, hiện nay vẫn còn một số người Việt mang danh tỵ nạn chưa được sáng mắt, vẫn mắc chứng mù lòa mà nguyên nhân chính là do lòng tham tiền bạc, hoặc mơ ước chút danh vị nào đó từ phía Cộng sản.

* Trong số người mắc chứng mù lòa này, ngoài một số cựu tù nhân chính trị đi trong thành phần “HO” không có ý thức quốc gia, không lý tưởng, vừa mới qua Mỹ được vài tháng, đã vội quay trở lại Việt Nam làm việc cho kẻ đã muốn giết mình (Chu Tất Tiến – Sau 25 Năm Nhìn Lại Việt Nam..., trang 77), còn có một số luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, chủ báo, nhà văn, nhà thơ, thương nhân ... Số người này tìm cách len lỏi vào cộng đồng tỵ nạn để tuyên truyền cho chế độ Cộng sản bằng cách này hay cách khác, thầm lén hoặc lộ liễu.

Họ lập ra những tổ chức “nhân đạo” với mục đích bòn rút tiền của Việt Nam Hải Ngoại đem về trong nước nói là “Nuôi trẻ mồ côi”, “giúp người tàn tật”, tổ chức Đại Nhạc Hội gây quỹ cứu trợ “thương phế binh” không phân biệt Bắc Nam, “xây trường học, sắm bàn ghế cho học sinh”, “mua thuốc và đưa các đoàn y tế về chữa bệnh, chủng ngừa, chữa bệnh mù tại Việt Nam ...

Người mù tại Việt Nam được sáng, nhưng số người hải ngoại tham danh hám lợi này lại không sáng mắt, cho nên họ đã hành động như chính phủ Cộng sản Việt Nam là một con số không to tướng, vì tất cả mọi vấn đề từ ấm no, học hành, y tế, trẻ mồ côi người tàn tật tại quốc nội đều do ngân sách của Việt Nam Hải Ngoại chi ra hết.

Các viên chức Đảng và Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khỏi phải bận tâm gì đến đời sống nhân dân, để chăm lo bòn rút công quỹ cho đầy túi riêng, đưa Việt Nam đạt vị trí thứ ba trong nấc thang tham nhũng tại các quốc gia Đông Nam Á.

*****
Người mù đeo kính "Hoà Hợp Hoà Giải

Số người hải ngoại tối mắt vì đeo kính hiệu “Hòa Hợp Hòa Giải”. HHHG là chiêu bài của cái gọi là Chính phủ Cách Mạng lâm thời sau 30-4-1975 có mục đích dụ dỗ quân dân cán chính miền Nam đi trình diện để nộp mình vào ở tù một cách thoải mái, Cộng sản khỏi đi lùng bắt, tránh sự rối loạn nguy hiểm.

Bằng chứng là sau khi đưa hết vào trại tù, thì chính phủ Cộng sản không còn nhắc lại nữa, chỉ còn một số người mù tại hải ngoại, đứng đầu là Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, hô hào HHHG mà thôi. Tháng 7 năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa và cảnh giác trước âm mưu “Diễn Tiến Hòa Bình”, vẫn bảo vệ chế độ độc đảng bằng mọi giá, kể cả bỏ tù và triệt hạ các Đảng viên Cộng sản phản tỉnh, phê bình sai trái của Đảng trong việc trị quốc.

Người mù: cựu thành viên MTGPMN

Hầu hết các thành viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng bị uy hiếp phải tìm cách trốn thoát ra ngoại quốc. Các tay cầm cờ ba màu ra đón quân Giải Phóng vào Sài Gòn như Đoàn Văn Toại, chẳng bao lâu sau đó bị Cộng sản bắt giam và đánh đập tàn nhẫn. Sau khi được thả ra, Toại vượt thoát được sang Pháp, “bệnh mù” khỏi được một thời gian. Sáng mắt, Toại tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam trong cuốn “Le Goulag Vietnamien” (Nxb Laffont, Paris 1979).

Trong nhà tù Đoàn Văn Toại đã gặp một cựu chiến binh Cộng sản, 82 tuổi, cũng bị giam, mặc dầu cuối thập niên 1920, ông ta là một trong những lãnh tụ và sáng lập viên của Đảng Cộng sản Đông Dương ... Ở Pháp một thời gian, không hiểu sao, Đoàn Văn Toại bị mù trở lại, “bệnh mù tái phát” làm cho Toại có luận điệu nịnh bợ Cộng sản và đã bị trừng trị đích đáng.

*****

Từ thập niên 70 đến 80, Đảng và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gọi những người vượt biển ra nước ngoài là bọn người phản quốc, chống phá cách mạng, “là những thành phần rác rưởi, lưu manh, những kẻ phản động, phản quốc, bỏ nước ra đi theo ngụy”. Chính Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thượng Nhân đã phát biểu là “nên treo cổ hết những kẻ phản động ấy”!

*****

Người mù : Việt Kiều yêu nước

Thế nhưng đến thập niên 1990, thì Đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam đã gọi họ là “Việt Kiều Yêu Nước” và một cách âu yếm hơn là “Khúc ruột ngàn dặm”. Lập tức, trong những năm đầu của thập niên 90, ở Pháp, và Nam California-Hoa Kỳ, bỗng nẩy sinh một khuynh hướng mong muốn Hòa Hợp Hòa Giải với chính quyền Cộng sản Việt Nam.

“Bằng những bài báo dùng ngụ ngôn bóng bẩy kêu gọi kết hợp trong nước và ngoài nước, bằng những tập san xuất bản đều đặn với những bài xã luận nói về hợp sông, hợp suối, hợp lưu, bằng cách cho đăng những bài viết của những người Cộng sản đích thực như Trần Bạch Đằng, một nhà lý luận Cộng sản chuyên nghiệp, hay của những người có nợ máu với dân chúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhóm chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải này mong muốn có quan hệ tốt với Cộng sản, quên thù hận xưa, để cùng tiếp tay xây dựng đất nước. Một vài nhân vật nổi tiếng trong giới Y khoa và báo chí cũng tuyên bố kêu gọi về nước làm chính trị và xã hội.” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-90).

*****

Những tổ chức tranh đấu trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại gọi nhóm này là “cơ hội chủ nghĩa” hoặc “tay sai Cộng sản Việt Nam”, thậm chí còn buộc tội họ là “Việt gian”. Vì trên lý thuyết, nếu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thực tâm muốn cho đất nước thoát nghèo nàn và lạc hậu, thực tâm quên hận cũ, thù xưa, chào đón người Việt hải ngoại về cùng chung tay phục hưng đất nước, thì đó là một phước lớn của dân tộc Việt.

Nếu được như thế, thì sẽ không còn phân biệt LÝ LỊCH quốc gia hay cộng sản, không còn tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm bị giam giữ, tra tấn, ngược đãi trong các nhà tù; nhà cửa của người vượt biển được chính quyền Cộng sản trả lại nguyên vẹn, vô điều kiện, người bất đồng chính kiến không bị theo dõi, bắt giam hoặc hãm hại một cách bí mật.

*****

Nhưng trên thực tế, người Cộng sản chỉ mong hải ngoại mang tiền về, mà không mang theo chính trị. Cộng sản Việt Nam chỉ dùng những người đem lại lợi ích tiền của về trong nước và tuyên truyền chính trị cho họ ở hải ngoại mà thôi. Những kẻ mơ mộng, thơ ngây hoặc những tay ham mê chút lợi danh, vội vã trở về hợp tác với Cộng sản, chỉ sau một thời gian ngắn, đều phải “trở lại hải ngoại sống âm thầm, xa lánh bạn hữu và cộng đồng”. Kinh nghiệm cho thấy khi một người thân Cộng ở hải ngoại, đã lộ mặt, bị cộng đồng lên án, tẩy chay, khi họ không còn chút uy tín nào nữa, thì người Cộng sản lập tức bỏ rơi. (Nhiều trường hợp cụ thể, về nạn nhân của hòa hợp, giao lưu, thiện nguyện, cứu trợ vân vân ... được nêu rõ trong tác phẩm của Chu Tất Tiến, từ trang 92 đến 95).

*****
Chủ trương “hòa hợp hòa giải” với Cộng sản Việt Nam của kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng qua nhóm Thông Luận, nhóm Hợp Lưu Giao Điểm ... đã bị hầu hết Cộng Đồng Người Việt khắp nơi xem là ngây thơ và mù quáng, vì trên thực tế Cộng sản Việt Nam không bao giờ chấp nhận đa nguyên, họ bảo vệ Đảng bằng bất cứ giá nào.

Ngay cả với người đã nằm xuống, Cộng sản Việt Nam vẫn nuôi mối hận thù và đã ngược đãi họ. Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa đã bị phá, bức tượng “Tiếc Thương”, một tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, dựng trước cổng nghĩa trang, đã bị Cộng sản Việt Nam tiêu hủy đi.

*****

Một số người Việt hải ngoại gọi là Việt Kiều Yêu Nước tình nguyện về quê hương giúp đỡ người dân tật nguyền, đau ốm, nghèo khổ ... sau nhiều lần đi về tự do thoải mái, họ đã bị nghi ngờ là nằm trong kế hoạch mà Cộng sản Việt Nam gọi là “diễn tiến hòa bình” của đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.

Cuối cùng, họ gặp khá nhiều phiền hà, như bị rút giấy phép, bị gọi đến trình diện, đến “làm việc” với công an, với Thành ủy, nhận chỉ thị về các hạn chế sinh hoạt của họ vân vân. Kết quả: họ phải tìm cách “bỏ của chạy lấy người”. Những công tác thiện nguyện do người Việt hải ngoại hoặc người ngoại quốc thực hiện ở Việt Nam, nếu chỉ trong giai đoạn ngắn, thì ít gặp trở ngại, nhưng nếu có kế hoạch lâu dài mà Cộng sản chưa gài được người vào tổ chức, thì nhất định sẽ gặp khó khăn và nguy hiểm. Giáo sư Chu Tất Tiến trong “Sau 25 năm nhìn lại Việt Nam ...” trưng dẫn trường hợp “ông Giám đốc Hãng Citroen Pháp Quốc, khi sang Việt Nam tìm thị trường, lang thang đi mua những cái “name tag” (tấm thẻ bài) của lính Mỹ cũ bán đầy ngoài đường, đã bị bắt giữ, vì nghi ngờ là gián điệp đi tìm tù binh! Ông đã chán nản bỏ sang Thái Lan và chỉ bay qua Sài Gòn để làm việc trong ít ngày rồi biệt luôn” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-92).

*****

Những tên mù trong hẻm Hợp Lưu Giao Điểm ở California, khi về Việt Nam, những tưởng được biểu dương, ưu ái, nào ngờ bị xem như chó ghẻ. Lý do đơn giản: Cộng sản nghi ngờ bọn này là cò mồi của kế hoạch “Diễn Tiến Hòa Bình” mà chúng đang hết sức cảnh giác đề phòng. Vì mù lòa cho nên nhóm này không thấy được rằng Cộng sản Việt Nam không tin ai cả, ngay cả đồng chí với nhau ở Trung Ương cũng chơi nhau sát ván và tìm cách hãm hại lẫn nhau, thì biết tin ai?

*****

Người mù: anh hùng Điện Biên và cố vấn Bác Hồ

Đại Tướng Cộng sản Võ Nguyên Giáp nổi danh với trận Điện Biên Phủ, có số phiếu cao nhất trong kỳ Đại hội Đảng toàn quân tháng 9-1986, từng bị các đồng chí ganh tị, phanh phui lý lịch, để tìm cách hạ bệ. Võ Nguyên Giáp bị nghi là tay sai thực dân Pháp và bị mất tín nhiệm chỉ vì “cơ quan tổ chức của Đảng Cộng sản lục trong Thư Khố của Pháp, thấy một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi quan Toàn Quyền Đông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng...” (Vũ Thư Hiên, “Đêm Giữa Ban Ngày” tr.350).

*****

Võ Nguyên Giáp, bí danh là “Văn” bị kết tội âm mưu lập “bè phái chống đảng”, rồi bị thất sủng ... đã âm thầm chịu đựng hàng chục năm, nay 93 tuổi, kề miệng lỗ, mới dám liều mạng viết Cáo trạng kêu oan, đòi “công đạo” “ (Thư của Võ Nguyên Giáp ngày 3/1/2004).

*****

Những người mù “bẩm sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam” như ông bà Vũ Đình Huỳnh, thân sinh của Vũ Thư Hiên, đến năm 1967, mới được Đảng giải phẫu và sáng mắt ra để nhìn thấy nguyên hình của Cộng sản Việt Nam: “... chúng nó đến, con tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa cho bằng được” .

Đây là lời kể của bà Vũ Đình Huỳnh về cảnh công an đến nhà bắt ông Vũ Đình Huỳnh, người đã nuôi dưỡng, cận kề chăm sóc cho Hồ Chí Minh. Vũ Thư Hiên viết: “Trong lòng bà, ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt...” (ĐGBN, tr. 28). Bệnh mù của gia đình Vũ Thư Hiên được chữa khỏi sau 9 năm bị Cộng sản tù đày, cả nhà bị khổ đau, tan tác. Vũ Thư Hiên đã thấy và đã nói lên cho những người khác:

“Nhờ đảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn rõ sự vật đến thế. tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bên ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.

“Cũng nhờ đảng, tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm gian khổ, bị Lê Đức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ tìm hiểu ngọn nguồn?" ... (ĐGBN, tr. 456)

*****

Người mù : Khoa bảng sản phụ, mổ tim, mỗ mắt

Một thí dụ cụ thể về “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để hòa hợp hòa giải”: đó là trường hợp một bác sĩ có tiếng ở Nam California đã có công đón tiếp một phái đoàn cộng sản qua Hoa Kỳ tính toán làm ăn. Ông ta cũng cả gan thách thức cộng đồng Người Việt bằng những lời cổ động cho việc hòa hợp hòa giải, rồi thách cộng đồng: “nếu có 500 người biểu tình chống lại việc ông về Việt Nam hợp tác, thì ông sẽ bỏ ý định về.” Lập tức Cộng Đồng Người Việt phản ứng bằng cách tập hợp hơn một ngàn người trước cửa phòng mạch của ông cựu sĩ quan quân y “ngụy” này và lên án ông quyết liệt.

Tuy nhiên, ông bác sĩ “mù lòa” này đã nuốt lời, tiếp tục việc về nước, đinh ninh rằng mình đã lập được công chống cộng... đồng hải ngoại, sẽ được Đảng đón tiếp long trọng, sẽ mời ông vào phòng họp với cơ quan Nhà Nước cấp cao. Có ngờ đâu, khi ông bác sĩ “mù” này về đến phi trường, chỉ gặp được vài nhân viên cấp thấp đến chào hỏi mà thôi, không có một sự gọi là đón tiếp nào. Tại Việt Nam, ông bác sĩ “mù” này phải mò mẫm tự mình đi xin xỏ, xin giấy phép... khi muốn gặp một cơ quan nào cần giao dịch. Tại sao “Nhà Nước ta” lại nhạt nhẽo với các “Việt kiều yêu nước này”?

Điều này người sáng mắt thấy được ngay. Đó là vì tên tuổi của ông bác sĩ này đã bị Cộng Đồng Người Việt xóa đi, còn giá trị nào nữa để Đảng ta lợi dụng cho việc tuyên vận chiêu dụ hòa hợp hòa giải. Ông bác sĩ này đã bị hải ngoại tẩy chay, thì trong nước dùng làm cái gì? Ngoài ra, có thể Cộng sản Việt Nam còn suy luận rằng: nó là sĩ quan “Ngụy”, làm bác sĩ, được Cộng Đồng Người Việt nuôi và giúp cho thành giầu có, thế mà khi mê đắm công danh, nó còn phản lại Cộng Đồng, thì Đảng làm sao tin được một tên đã công khai phản chủ nó là Cộng Đồng Hải Ngoại.

*****

Cho đến nay, Cộng Đồng Hải Ngoại đã có ít nhất là ba bác sĩ mắc bệnh lòa. Ông thì lòa vì lợi lộc, tiền bạc, ông thì lòa vì lời tâng bốc và hư danh... Ông Họ Bùi ở Cựu Kim Sơn, từng theo Hương Dương Thu về Hà Nội yết kiến, lần thứ hai bị Cộng sản bắt giam nửa năm vì tội giao lưu; ông họ Phạm Phụ Khoa, quận Cam thì chẳng còn ai đếm xỉa; còn ông Nguyễn Lão Khoa xứ Cao Bồi bị thong manh, làm bồi bút, đi yết kiến Nguyễn Đình Bin, về Việt Nam hứa hẹn nhiều giúp đỡ. Có lẽ vì lo sợ “không biết bỏ nắm xương tàn nơi đâu” trên đất Hoa Kỳ, nên sau khi đi yết kiến thượng cấp tại Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Lão Khoa về Hoa Kỳ, lại tìm cách lân la với Cộng Đồng Hải Ngoại, không hiểu ông đã khỏi bệnh chưa?

*****

Những người mù lòa nghèo khổ tại Việt Nam khi được sáng mắt ra thì có thể tự đi kiếm cái ăn, cái mặc, khỏi phải làm thân khất thực nhục nhằn. Nhưng những người trong Cộng Đồng Hải Ngoại mù vì lòng tham mà quên chính nghĩa dân tộc và hoài bão của Cộng Đồng, khi được sáng mắt ra thì đã muộn màng. Xin anh linh các Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa nhân ngày Quốc Hận, hộ phù cho những kẻ mù lòa lương tri sớm được sáng mắt trở về với chính nghĩa.

Nguyễn Châu


Mời họp khẩn v/v tổ chức biểu tình khi Nguyễn tấn Dũng sang công du Úc

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 0411 7565 552
Email: bch@cdnvtd.com
CT: Ông Nguyễn Thế Phong



Ðược tin khẩn và chính thức từ Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Liên Bang Úc Châu về chuyến công du vào trung tuần tháng 10 của Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tại Úc Châu, Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria xin trân trọng kính mời:

  • quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
  • quý vị lãnh đạo các hội đoàn đoàn thể và tổ chức
  • quý vị đại diện truyền thông
  • cùng toàn thể đồng bào

    vui lòng bớt chút thì giờ quý báu đến tham dự một phiên họp đặc biệt và khẩn do CÐNVTD-VIC tổ chức để chuẩn bị việc biểu tình phản đối và lên án CSVN vi phạm nhân quyền (đặc biệt là tình trạng đàn áp tại Thái Hà hiện nay), dâng đất dân biển cho Tàu Cộng nhân chuyến công du này của Nguyễn Tấn Dũng.

    Phiên họp đặc biệt và khẩn sẽ được tổ chức,

    Tại: Văn phòng cộng đồng
    214 Nicholson St, Footscray
    Vào lúc: 7 giờ tối
    Ngày: Thứ Ba, 7-10-2008

    Vì tầm quan trọng của buổi họp, chúng tôi rất mong nhận được sự tham dự đông đủ của đồng bào và các hội đoàn đoàn thể. Mọi thắc mắc, xin quý vị vui lòng liên lạc:

  • ông Nguyễn Thế Phong đt số 0411 756 552
  • cô Thanh Trúc đt số 0432 456 077

    Trân trọng kính mời,
    TM. BCH-CÐNVTD-VIC

    Nguyễn Thế Phong
    Chủ tịch
    1-10-2008


  •