Saturday, August 9, 2008

Bài Tango Việt Nam

  • Việt Nam, sáu tháng đầu tiên của năm 2008
Tình hình thế giới
    Trong thời gian 6 tháng của đầu năm 2008, tình hình kinh tế thế giới bỗng nóng bỏng hơn. Vi xăng dầu tăng giá, vì nguyên nhiên liệu cũng tăng giá theo nên đời sống dân chúng thế giới đâm ra khó khăn hơn do mãi lực suy kém. Lạm phát đã và đang bắt đầu như một bóng ma đe dọa toàn thế giới. Để làm nguội lại cơn sốt, các ngân hàng từ Trung ương đến địa phương của các quốc gia tiên tiến trách nhiệm kinh tế hoàn cầu đang tìm các phương pháp thoát khỏi vòng khó khăn của những món nợ khổng lồ, do những con nợ khó đòi, nạn nhân của hiện tượng subprimes (cho vay nợ lãi suất thấp - DCVOnline) phát sinh từ năm ngoái ngay ở Mỹ và nay đã lan tràn qua Âu châu và Á châu. Giá cả thị trường bất đông sản đang tuột dốc mọi nơi đang chận đứng sự phát triển của một ngành nghề đang làm ăn sôi nổi mới ngày nào. Ở Mỹ, hàng vạn gia đình không trả nỗi nợ nhà, kẻ bị tịch thu nhà, người bị phá sản. Ở Anh, vì ngân hàng chận không cho vay dễ dàng nữa, nên thị trường nhà cửa cũng đứng luôn. Ở Pháp thị trường bất động sản cũng gặp khó khăn. Những thành phố lớn như Paris, London … tuy là những thị trường vẫn còn tốt, giá nhà vẫn bị xuống giá 10%, 15 % như thường.

    Tình hình Việt Nam

    Việt Nam ta cũng không tránh khỏi. Mặc dù giá xăng, giá gạo và vài nông yếu phẩm cần thiết được kềm giá do sự ủng hộ của chính phủ, nạn lạm phát vẫn không tránh khỏi. Lạm phát từ đầu năm đến nay được đánh giá chỉ là 25% thôi. Giá xăng mặc dù được bao cấp nay đã vượt khỏi một Mỹ kim một lít, giá tăng 50%. Một dĩa cơm bình dân ở chợ giá nay đã là 10 ngàn đồng VN. Một công nhân nếu ăn ngày hai buổi cơm dĩa sẽ tiêu xài chỉ có cá nhân mình thôi trên 2/3 phần lương bổng của mình (trường hợp chung, lương vào khoảng 800.000 đồngVN/tháng) – 16 000 đVN = 1 US$.

    Đấy là chỉ nói tới xăng và gạo thôi, chưa kể tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền củi, học phí con cái, bệnh hoạn. Lớp dân lao động nghèo đã đành. Từng lớp trung lưu cũng vậy, dân “chơi” chứng khoán, phá sản. Dân “đầu tư” bất động sản cũng thế: mượn tiền nhân hàng tiền lời 18 phân, mua nhà, mong bán đi được lời, nay nhà xuống giá 25% có khi 50%. Đã có vài trường hợp phá sản, nghe nói đã có người tự tử vì không trả nổi nợ ngân hàng (mặc dù đã mất nhà, nhưng vẫn còn mang nợ).

    Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đầu năm nay, đi viếng nước Mỹ, xin viện trợ, xin lời “khuyên” của ông Greenspan để làm sao làm dịu cơn sốt lạm phát hiện đang hoành hành Việt Nam. Lời khuyên gì khi Việt Nam không có một tổ chức và một cơ cấu tốt để sửa sai?

    Đồng thời Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cũng dắt một phái đoàn đi viếng giới chủ nhân xí nghiệp Pháp. Hiệp hội Chủ nhân các xí nghiệp tư doanh Pháp, đối thủ của Đảng cộng sản và Công đoàn Lao động Pháp ngày nay biến thành người bạn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Còn đâu tình hữu nghị bất diệt ngày nào của thời Quốc tế Vô sản? của thời “quốc tế Ca” - “Vùng lên hởi những nô lệ của thế gian …”?

    Thế gian tư bản là của những người làm ăn, thế gian tư bản của những người chỉ biết lợi nhuận đang khuyến khích những tay nhà giàu mới, những kẻ tập tễnh làm ăn, kiểu Việt Nam, chạy đua vào nghề thương mãi tư doanh, miệng nói nào thị trường chứng khoán, nào dịch vụ ngân hàng, nào chỉ số phát triển, nhưng thật sự không biết thế nào là chứng khoán? thế nào là một bảng chiết tính Ngân hàng?

    Vì sợ chỉ số Sản xuất đầu người GNP (GNP Gross National Product hay Produit National Brut) làm nản lòng các quốc gia chậm tiến, thí dụ Việt Nam là 550 dollars/năm. Người ta chế ra cái gọi là chỉ sô “tương đương mãi lực” (parité du pouvoir d’achat – equivalent of cost of life – hay equivalent of purchasing power). Thí dụ VN là 2500 US$. Nghĩa là mặc dù dân VN làm ra chỉ 500 US$ một năm thôi, nhưng thật sự họ có một mãi lực tương đương với 2500 US$. Nhưng đó là những chỉ số của những năm qua. Còn năm nay?

    Nhưng vì ở trong một quốc gia có một chế độ chánh trị là Công An trị, nên Đảng cầm quyền mới yên tâm tuyên truyền độc diễn được, tung ra thế giới là hình ảnh một nước Việt Nam đang lên, một con Cọp con, hay một con Rồng con. Nhưng đó là “hình ảnh tươi mát” của bọn người cầm quyền bán cho bọn tư bản nhà giàu quốc tế, và cũng do các anh tư bản quốc tế muốn được như vậy “để trấn an dư luận của mình” nên cũng đang ca tụng để dụ khị các anh “chậm tiến” như VN để chấp nhận các anh tư bản bỏ tiền đầu tư bóc lột sức lao động dân Việt Nam. Nhưng tư bản vẫn là tư bản, chỉ có lợi nhuận mới là quan trọng, khi cần bỏ rơi, họ sẽ ra đi.

    Một bằng chứng. Tuần qua, trong cơn sốt sửa soạn Thế vận Hội Beijing (Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Trung Hoa Cộng sản), Adidas, công ty sản xuất dụng cụ thể thao không ngần ngại tuyên bố sẽ đóng cửa các xưởng sản xuất ở Trung Hoa để dời qua Ấn độ hay các nước Đông Nam Á láng giềng (Việt Nam, Cao Miên, Lào). Viện cớ ở Tàu giá nhân công đã đến một cái mốc gọi là mắc rồi – 120 US$. Ở Ấn độ chỉ 100 US$, còn Việt Miên Lào hãy còn là 35 US$. Adidas, khi tuyên bố như vậy không cần đoái hoài đến vận mạng thợ thuyền địa phương (ở đây là Tàu) và cũng chả cần đến thị trường tiêu thụ địa phương (thị trường Tàu). Việc nầy chứng minh cho ta rõ là các nhà tư bản đặt rất nhẹ vào cán cân, thị trường Tàu với 1 tỷ 300 triệu dân, khi cần lợi nhuận họ vẫn giải quyết như thường, đặc biệt là khi họ đã tạo được nhu cầu và thị trường cho giầy và dụng cụ thể thao. Nói tóm lại Đảng cộng sản Tàu ngày mai có tẩy chay được hàng Adidas không? Chuyện ấy sẽ hạ hồi phân giải, vì, và, sẽ còn nhiều hiệu nữa cũng sẽ ra đi.

    Như vậy chúng ta, nay, khi đã nắm rõ tình hình thế giới trong cái suy nghĩ “trật tự thế giới” ấy, chúng ta phải tiên liệu làm sao để cho tự do, dân chủ, công bằng xã hội đến cho đất nước Việt Nam.

    Còn những tình hình bề mặt?


    Như những quyết định của Quốc hội Việt Nam vừa qua (Quốc hội Cộng sản bù nhìn):

    - Nói về vai trò của Trí thức và vận động người Trí thức để đóng góp cho đất nước.

    Từ nay Việt Nam chúng ta sẽ có một mô hình giai cấp mới theo định nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam, ba giai cấp, theo thứ tự mới: Công –Nông – Trí. Quan trọng lắm, 60 năm mới được phục hồi. Trí, từ lúc “Trí Phú Địa Hòa đào tận gốc, giết tận rễ”, nay đã được sống lại và được vào làm thành phần thứ ba của xã hội. Đây cũng để chúng ta suy nghĩ đến cái bế tắc của Đảng Cộng sản. Nhưng khi ta thử so sánh với “Sĩ Nông Công Thương” của thời phong kiến? Chúng ta vẫn thấy Đảng cộng sản và cái giáo điều CS chủ nghĩa vẫn còn sợ chữ “thương” của giai cấp thương mãi.

    Thế giới ngày nay là giai cấp của kinh tế thị trường, của tiếp thị, của ngành thương mãi. Lý luận giáo điều về sản xuất Công nghiệp là lý luận cùa đầu thế kỷ 20. Bắt đầu sau thế chiến thứ hai, sau khi đã xây dựng lại những tàn phá của chiến tranh, Âu Mỹ và Nhựt bổn đã bước ngay vào thời đại của Marketing rồi: Món hàng tiêu thụ được nhin toàn vẹn, từ khâu khám phá, kỹ thuật, sản xuất, gói hàng, thị trường … cho đến tay người tiêu thụ.

    Cộng sản Việt Nam với não trạng thủ cựu mác-xít lê–nin–nít, vẫn còn suy nghĩ của Đại-nhảy-vọt mao-ít, tuy mồm nói là Kinh tế thị trường “xã hội chủ nghĩa” nhưng vẫn sợ Kinh tế thị trường

    Chớ vội mừng vi Nguyễn Tấn Dũng vừa sửa sai Quân khu thủ đô, fire (giải nhiệm) các tướng lãnh. Ta chớ cho đó là một dấu hiệu tốt. Vì sửa sai ấy tuy là của ông thủ tướng đấy, nhưng đạo diễn thật là ai? Có phải của quan Thái thú Tàu không? Cắt lông cắt cánh “quân đội nhân dân Viêt Nam” cũng là tỉa bớt những đối lập có tinh thần “chống Tàu”?

    Chớ vội mừng khi Công An, Nhà Nước và Đảng Cộng sản Việt Nam đang đổi chiến thuật bằng cách trục xuất các nhà đối kháng trong nước: Ls Bùi Kim Thành đã đến Mỹ, rồi nay mai các Ls Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài cũng sẽ đến Mỹ rồi Linh mục Nguyễn Văn Lý. Mỹ cũng đồng lõa trong chiến dịch nầy để “ba phải” làm vừa lòng cả trong lẫn ngoài.

    Đảng Dân chủ Mỹ cũng sẽ đi đến một chánh trị “thoa dịu” để thỏa mãn mọi thành phần trong cái thế giới đầy căn thẳng của ngày hôm nay:

    - Âu châu với Đông Âu, với Vùng Địa Trung hải

    - Trung Đông với Palestine/ Do Thái (Thủ tướng Olmert vừa từ chức giao quyền cho bà Tzipi Livni, ôn hòa hơn) để nói chuyện với Syria và Iran; với những cuộc tự sát khủng bố ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey – DCVOnline), ở Án Độ, ở Pakistan, ở Iraq – chống Shia, thân Mỹ.

    Thế giới tạm yên lành ngày nay chỉ cón có Đông Á và Đông Nam Á:

    - Đông Á với vai trò lưởng cực Nhựt-Tàu, nhưng với cục xương Bắc hàn mà chỉ có anh Nam Hàn trị được.

    - Đông Nam Á, với vai trò anh Tàu lục địa đang chơi trò “anh cả ăn hiếp đàn em”, nhưng lại gặp hai cục xương khó nuốt là anh Đài loan (đang tiếp tục võ trang mua súng đạn của Mỹ) và anh Singapore – cũng là dân gốt Tàu với nhau. Lại thêm “không khí rất Hồi giáo” của Indonésia (đã từng dám ra tay “Sát” một triệu anh Tàu cộng dưới thời Suharto) và anh Mã Lai. ASEAN rất ô hợp, APEC cũng thế, chỉ có tiếng nhưng chẳng có miếng nào cả. Anh Tàu vẫn là kẻ cả. Hoàng sa, Trường sa, biển Đông vẫn là Nam Sa, Tây Sa và Nam hải (Tàu vừa cảnh cáo hảng dầu ExxonMobil của Mỹ không được ký kết với VN ở Biển Đông ).

    Vai trò Hải ngoại chúng ta, vai trò các Đảng quốc gia

    Bổn phận Hải ngoại chúng ta. Hãy nhận định cho rõ vị trí của mình. Khi rõ vị trí rồi hãy nhận định vai trò, để sống chung là làm bổn phận công dân của quê hương trú quán của mình, để sống chung với các đoàn thể đấu tranh cho nhạn dân Việt Nam cho quê hương gốc gác của mình.

    Tạo một đối lập có trọng lượng kỹ thuật về mặt quản lý chánh trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật khoa học, mội trường, để hỗ trợ và đáp ứng vai trò làm tiếp liệu các đòi hỏi của các lực lượng đối lập chánh trị trong nước.

    Phải có chương trình, phải có viễn kiến, vì vậy phải theo dõi cập nhựt hóa tinh hình kinh tế, xã hội, kỹ thuật thế giới. Nhiếu suy nghĩ cho những chương trình với những giả thuyết khác nhau: giá dầu lên 200 US$/một thùng, Tàu đánh Tibet, Tàu bị loạn Hồi giáo. Mỹ rút khỏi Iraq và Afghanistan nhường vai trò lại cho Tàu, ai sẽ làm chủ Nam Thái Bình Dương? …. Làm sao nâng cấp kỹ thuật công nhân VN? Vì hiện nay, ngay tại VN hay ở khâu xuất cảng Công nhân (Đại hàn, Mã Lai, Jordan, …) Công nhân VN là thứ công nhân hạng tồi không có tay nghế.

    Hải ngoại chúng ta phải có mặt trong cái trận chiến; các Đảng phái quốc gia phải là đầu tàu:

    - Đòi công bằng và đạo đức, trong tranh chấp chủ / tớ. Công nhân các nước chậm tiến phải được bảo vệ, phải cùng với các thế lực thế giới tranh đấu để các công nhân và công dân thế giới nhứt là ở các quốc gia và khu vực chậm tiến có được một đòi sống có an bình và công bằng xã hội. Công việc được bảo vệ, an lành, tình trạng lao động được an toàn, vệ sanh, giờ giấc, hưu trí, sức khoẻ, lỹ thuật được theo dỏi chăm sóc. Theo thế giới để du nhập vào VN. Những của ngõ có thể xâm nhập được, bảo vệ các người đang lao động tại nước ngoài, đang bị những chủ nhân địa phương bóc lột (thí dụ Mả lai, Jordan). Liên lạc với những nghiệp đoàn địa phương để họ bảo vệ người công nhân VN du nhập.

    - Đòi các quyền con người tối thiểu của một nước tân tiến. Quyền lập hội, lập Đảng, làm báo, ngôn luân tự do, Tư do Hội họp … tự do tín ngưởng.

    Thông tin, chuyển tin, biểu tình, nói chuyện, hội luận, viết bài, giữ truyền thống Việt Nam tự do dân chủ, không ngừng, không mệt mỏi. Bổn phận của chúng ta, bổn phận của những nhân chứng lịch sử, của một thời tự do, một thời dân chủ, một thời để thương, một thời để nhớ. Hãy tiếp tục để trả nợ cho các đàn anh đã nằm xuống cho Tự do, đã chết đuối trong biển cả. Bổn phận của chúng ta, bổn phận của những người sống sót.

    Vì cái Việt Nam ngày nay là Việt Nam tuy là của những phái đoàn mang cà vạt mặc áo tây đi du lịch chánh trị ra xứ người; nhưng trong nước vẫn thiếu tự trọng và lễ độ ngoại giao tối thiểu đã đuổi khách ngoại giao quốc tế, đã mua vé máy bay hạng nhứt xuống ngồi ghế cá kèo.

    Cũng đừng quên năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua Roma chào Giáo Hoàng Bê Nê Đíc tô 16 về đến nhà bắt ngay Linh mục Nguyễn Văn Lý và cho bịt miệng trước Tòa án.


    Vì Việt Nam ngày nay là một cô ca–ve đang đi bản Tango trong một vũ trường quốc tế, một bước tiến, ba bước lùi: xập xàng, xập xình, du dương đấy, mê mẩn đấy! khách sộp quốc tế: Mỹ, Tây, Tàu nhưng Việt Nam hãy coi chừng khi thức dậy.

    Khi tiếng nhạc Tango chấm dứt, không biết còn nước Việt Nam của người Việt Nam hay không? hay chỉ là một phần đất của một bộ phận dân tộc Việt, một thành phần trong các thành phần dân tộc: Hán, Mông, Hồi, Thanh, Tạng và Việt của tập thể các bộ phận dân tôc của nước Đại Hán.

    Phan Văn Song

      Friday, August 8, 2008

      Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng mời chuyên gia kinh tế về quê hương vá lại chiếc khố rách


      Mai Vĩnh Thăng

      “Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam vừa cho công bố sự đồng ý trên nguyên tắc việc mời các chuyên gia kinh tế quốc tế có uy tín về Việt Nam trao đổi, tư vấn cho các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp của Việt nam”. Đó là tin tức thời sự do Thiện Giao, phóng viên đài Á Châu Tự Do RFA (Radio Free Asia) ghi nhận ngày 16/7/08. Và sau đây là hai vấn đề do phóng viên Thiện Giao và Trà Mi nêu ra để thảo luận.

      “Các chuyên gia Việt Kiều có thể giúp gì cho kinh tế Việt Nam?” và “Việt Nam làm thế nào để thu hút nhân tài Việt hải ngoại?”

      Người Việt chúng ta vẫn chưa quên hai cuộc di tản lánh nạn Cộng Sản lớn nhất lịch sử nhân loại. Năm 1954 hàng triệu người từ Bắc di tản vào Nam và năm 1975 một lần nữa, hàng triệu người Nam Bắc cùng đào thoát lưu vong khắp nơi trên thế giới. Trong chúng ta những ai đã từng sống với Việt Cộng sau năm 1975 hay bị cầm tù, có lẽ chưa quên luật rừng của bọn chúng. Bất chấp hiệp định Geneva năm 1954 và Paris năm 1973, Bắc Việt xua quân cưỡng chiếm miền Nam tàn sát, tù đày hàng triệu người và đẩy hàng triệu khác ra biển khơi.

      Có người cho rằng đã hơn 30 năm mà vẫn còn nhắc đi nhắc lại câu chuyện cũ rích, đúng là kẻ thù dai! Nhưng nếu không nuôi dưỡng căm thù thì ý chí, lập trường chống cộng có thể sẽ mai một vì thiếu động lực. Có người góp ý, nếu cứ tiếp tục nuôi dưỡng thù hận cũng không được gì, vì một ngày nào đó sẽ mang cái hận mất nước đó xuống lòng đất. Kẻ khác tự cho là thức thời và khuyên: con cháu chúng ta ở Việt Nam ngày nay đang miễn cưỡng sống trong chế độ Cộng Sản, hãy quên đi chuyện cũ mà giúp đất nước, một cách gián tiếp giúp con cháu chúng ta. Bây giờ hãy tạm gác lại chuyện chống cộng để bàn đến việc người Việt hải ngoại chúng ta có thể giúp gì cho kinh tế Việt Nam.

      Trong bài viết nầy chúng tôi chú trọng vào hai phần chính.
      Thứ nhất gồm “Nền giáo dục và tài nguyên trí thức”, và sự khác biệt giữa hai nền kinh tế “Tư bản và Cộng sản”.

      Phần thứ hai gồm chính sách kinh tế “Ngắn và dài hạn”. Đây là những yếu tố căn bản quyết định thịnh suy kinh tế đất nước. Trước nhất tôi xin đề cập đến vấn đề giáo dục đại học Việt Nam.

      Sơ lược tình trạng giáo dục đại học và trí thức CSVN tính đến tháng 12/2007.

      · 322 trường đại học và cao đẳng
      · 52,000 phân khoa các loại
      · 1.5 triệu sinh viên bậc cử nhân hàng năm
      · 7,000 tiến Sĩ
      · 463 giáo sư và 2,467 phó giáo sư

      Trên đây là thống kê do Tiến Sĩ Nguyễn Thiện Nhân Bộ trưởng Giáo Dục và Đào Tạo CSVN cung cấp. Đây là tài nguyên đại học và là số vốn trí thức CSVN. Tính trung bình cứ mỗi trường đại học hay cao đẳng có 10 giáo sư/phó giáo sư và mỗi 510 sinh viên bậc cữ nhân có 1 giáo sư/phó giáo sư, trong khi CSVN lạm phát với 7,000 tiến sĩ, một con số trí thức hàng đầu trong các nước Á Châu.

      Quan niệm rằng giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc giảm thiểu nghèo đói, là nền tảng tăng trưởng kinh tế, đồng thời mang lại lợi ích như y tế, nam nữ bình quyền, công bình và trật tự xã hội. Hiện nay có trên 77 triệu trẻ em trên thế giới không có điều kiện đến trường, 30% thuộc vùng Á Châu Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Khuyết điểm của chính sách giáo dục sẽ đưa đến thiếu hụt tài nguyên, chính sách quốc gia không hữu hiệu và quản trị yếu kém. Ngân sách dành cho giáo dục chỉ có thể vừa đủ trả đồng lương chết đói cho thầy dạy. Trường sở, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy thường không được tài trợ đầy đủ. Nhìn chung, nền kinh tế suy sụp như hiện nay là hậu quả tất nhiên của chính sách giáo dục tồi tệ không hữu hiệu của CSVN.

      1. Để có khái niệm về nền kinh tế tư bản và xã hội chủ nghĩa, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương về sự khác biệt giữa 2 nền kinh tế trước khi thảo luận đến chính sách kinh tế CSVN.

      Kinh tế tư bản

      Trong bất kỳ nền kinh tế nào, để có thể sản xuất và tiêu thụ, cũng cần nêu ra một số vấn đề căn bản như: loại hàng hóa, số lượng cần phải sản xuất, dịch vụ nào cần phải lập ra để phân phối trong dân chúng, và nhất là giá cả của hàng hóa và dịch vụ đó. Đây là trách nhiệm của từng cá nhân, chính phủ hoặc cả hai phải quyết định việc nầy.

      Trong nền kinh tế tư bản, hầu hết các quyết định do dân chúng thực hiện độc lập. Tư bản chủ nghĩa, con người thiên về tư lợi, và sức mạnh của thị trường được phối hợp trực tiếp từ các quyết định do dân chúng thỏa thuận. Từ nguyên nhân đó, kinh tế tư bản thường được gọi là “kinh tế thị trường”.

      Ích lợi lớn nhất của kinh tế tự do là việc phân phối tài nguyên và hàng hóa hữu hiệu. Nhưng cũng không thể tránh khỏi khuyết điểm, như thị trường có thể bị hỗn loạn khi thiếu vắng sự can thiệp của chính quyền. Kinh tế thị trường đáp ứng các nhu cầu cá nhân và làm giàu cho một số người. Dù vậy không ai có thể phủ nhận vai trò của chính quyền các quốc gia tư bản nơi chúng ta tạm dung, trong việc mưu tìm phúc lợi xã hội cho dân chúng. Và đây là một ước mơ không bao giờ có trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa.

      Kinh tế cộng sản

      Kinh tế cộng sản, thường gọi là xã hội chủ nghĩa, mặt khác, những quyết định cũng do dân chúng thực hiện nhưng thừa lệnh chính phủ, phối hợp và thi hành các quyết định do trung ương đảng hoạch định và chỉ huy. Vì thế nền kinh tế xã hội chủ nghĩa còn được gọi là “kinh tế tập trung chỉ huy”.

      Kinh tế xã hội chủ nghĩa là một lý thuyết đã từng gây nhiều tranh luận trong việc phát triển kinh tế quốc gia song song với phúc lợi xã hội. Theo lý thuyết, giai cấp công nhân sẽ được đặc biệt nâng đỡ vì cho rằng họ luôn bị giới tư bản, người sở hữu tài sản và đất đai, lợi dụng bốc lột.

      Theo lý thuyết, kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ mang lại công bình xã hội bằng cách trao quyền sở hữu tập thể cho giai cấp công nhân, thay vì chính phủ. Karl Max cho rằng thuyết xã hội đóng vai trò trung gian để quân bình sự chênh lệch giữa cộng sản và tư bản. Thuyết căn bản xã hội chủ nghĩa về sản xuất là làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu, theo mô hình cộng sản Nga đã thực hiện từ năm 1936. Theo gót cộng sản Nga là khối cộng Đông Âu, Trung Cộng dưới thời Mao Trạch Đông và Việt Cộng với Hồ Chí Minh.

      Về sau các quốc gia xã hội chủ nghĩa trở thành tham nhũng, viên chức chính phủ quan liêu và nhiều quyền hành không thể kiểm soát. Và từ đó các quốc gia cộng sản không còn nói đến chuyện phúc lợi xã hội, công bình hay dân quyền. Thực tế việc phân quyền hay tản quyền từ trung ương xuống dân chúng không bao giờ được thực hiện.


      2. Chúng ta đã tìm hiểu đại cương về giáo dục và tài nguyên trí thức CSVN. Chúng ta cũng đã phân biệt sự khác biệt cùng ưu khuyết điểm giữa 2 nền kinh tế tư bản và cộng sản. Đến dây chúng tôi xin đề cập đến chính sách kinh tế CSVN.

      Chính sách kinh tế ngắn hạn (Short-run)

      Thực ra CSVN không có chính sách kinh tế mà là thụ động phản ứng theo sự thay đổi bất thường của chu kỳ kinh tế. Họ chỉ tìm cách vá víu tạm thời thay vì mưu tìm một chính sách ổn định lâu dài có thể dự đoán được dựa theo chu kỳ kinh tế. Muốn thực hiện điều nầy, CSVN cần phải có chuyên viên và thống kê hoàn hảo. Hiện nay những con số thống kê CSVN nặng màu sắc chính trị, trình diễn và thiếu trung thực, vì thế không thể dự trù một chính sách kinh tế tương đối hữu hiệu cho quốc gia.

      Vấn đề kinh tế thật mênh mông, nhất là kinh tế quốc gia hay vĩ mô (Macroeconomics) trong khi kiến thức của con người và thời gian có giới hạn. Nếu phân tích chính sách kinh tế của Alexander Hamilton, Henry Ford, Alan Greenspan và George Bush, bài học từ họ là áp dụng các nguyên tắc căn bản kinh tế từ thế kỷ thứ XIV cho đến nay, đó là vấn đề kinh tế quốc gia ngắn và dài hạn. Chúng ta hiện đang sống trong giai đoạn kinh tế ngắn hạn, là một phần trong chính sách dài hạn do những người đi trước để lại.

      Công nhân Việt Nam làm thuê cho các công ty ngoại quốc là một thí dụ cụ thể về kế hoạch kinh tế ngắn hạn và dài hạn. Theo lý thuyết, CSVN cần phải đào tạo chuyên viên khi các nhà đầu tư ngoại quốc bắt đầu thiết lập cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Với kinh nghiệm 10 năm làm thuê cùng với chuyên viên đã được đào tạo, Việt Nam có thể hội đủ điều kiện để sản xuất những hàng hóa gia dụng cần thiết phục vụ đời sống dân chúng mà không cần phải nhập cảng từ ngoại quốc như computer, tủ và máy lạnh, lò, bếp, máy truyền hình . . .

      Mục đích chính sách kinh tế ngắn hạn là tiên liệu và ổn định những biến chuyển bất thường trong tiến trình thực hiện chính sách kinh tế dài hạn, điển hình là tình trạng suy thoái kinh tế Việt Nam hiện nay đã đưa đến lạm phát, thất nghiệp, lãi suất cao và tình trạng kỹ nghệ sản xuất tuột dốc trầm trọng. CSVN đã áp dụng biện pháp nào để có thể ổn định kinh tế? CSVN áp dụng chính sách tiền tệ (Monetary policy) Mỹ nhằm giảm số lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế trong khi in hàng nghìn tỷ đồng VN để mua và dự trữ Mỹ kim. Thêm vào đó số tiền ngoại quốc đầu tư trực tiếp FDI năm 2007 là 21.3 tỷ Mỹ kim và chỉ 7 tháng đầu năm nay đã lên đến 45.3 tỷ. Riêng người Việt hải ngoại gởi về cho thân nhân và đầu tư trong năm 2007 là 4.6 tỷ Mỹ kim và sẽ tăng 21.7% trong năm 2008, nâng tổng số ngoại tệ gởi về Việt Nam lên 5.6 tỷ Mỹ kim (Theo Dow Jones). Vì số lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam không thể kiểm soát cho nên vấn đề lạm phát là hiển nhiên và không thể kiềm chế. Đây là hậu quả tất nhiên của đường lối lãnh đạo độc tài của bọn thất học chỉ biết tranh chấp quyền lực nội bộ, thanh trừng, tham nhũng thay vì hợp tác phục vụ quyền lợi quốc gia.

      Chính sách kinh tế dài hạn (Long-run)

      Gồm có kế hoạch phát triển và tăng trưởng kinh tế, chính sách nhân dụng nhằm tạo công ăn việc làm cho dân chúng, kiềm chế lạm phát, và sau cùng là tìm cách giảm thiểu tối đa ảnh hưởng các số nợ mà CSVN vay trong nước và quốc tế. CSVN đã cố gắng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế 7.9% năm 2007 và 6.5% trong 6 tháng đầu năm 2008 hầu theo kịp các nước đang phát triển trong vùng như Thái Lan 4.8%, Phi Luật Tân 5.7% và Mã Lai 4.6%.

      Sự cố gắng thái quá và thiếu chuẫn bị đã làm cho CSVN là nạn nhân của chính mình. Dù vậy, tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam rất lý tưởng với 5.3% theo thống kê và nếu đây là con số chính xác, Việt Nam sẽ là quốc gia no cơm ấm áo hàng đầu trong khối Cộng Sản.

      Thực tế, ảnh hưởng lạm phát 28% trong tháng 7/08 đã xóa đi thành quả tăng trưởng kinh tế trong 20 năm qua của Việt Nam. Vật giá tăng nhanh, nhập cảng nhiều hơn xuất cảng đưa đến tình trạng thất nghiệp, mậu dịch thâm hụt 14.4 tỷ Mỹ kim trong năm 2007 và 14.8 tỷ trong 6 tháng đầu năm 2008 và nguy hại nhất là ngân sách dự trữ ngoại tệ chỉ còn 20 tỷ Mỹ kim để điều hành hối đoái.

      CSVN điều hành kinh tế theo quán tính, không kế hoạch. Kể từ tháng 11/2006 khi gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO lại càng không thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế vì hàng hóa kém phẩm chất. Sự chọn lựa duy nhất chỉ còn cách xuất cảng một số mặt hàng hạn hẹp (Vertical) tiêu biểu như các loại hải sản, gỗ, thủ công nghệ, nông sản và các mặt hàng may mặt, giày dép. Tuy nhiên Việt Nam vẫn phải nhập cảng phân bón và chỉ sợi. Tệ hại nhất là bán ra dầu thô để mua lại xăng với giá cao. Hiện tại CSVN đang hợp tác với công ty dầu Exxon Mobil Mỹ để thăm dò dầu khí vùng biển Đông nhưng đang gặp sự phản đối từ phía người anh em xã hội chủ nghĩa Trung Cộng.

      Trong năm 2007, CSVN còn nợ thế giới 21.7 tỷ Mỹ kim không kể đến số nợ viện trợ vũ khí của khối Cộng, viện trợ dài hạn không lời và nợ trong nước qua các đợt phát hành công khố phiếu (Treasury bonds). Với nền kinh tế què quặt cùng với hệ thống tham nhũng của đảng, CSVN rất khó thanh toán số nợ khi đáo hạn.

      Tài sản quốc gia và tài sản đảng

      Việt Nam hiện có 3,786 công ty liên doanh và 1,720 công ty quốc doanh; trong số nầy có 6 ngân hàng liên doanh, 26 ngân hàng cổ phần và 5 ngân hàng quốc doanh. Tất cả đều do đảng lãnh đạo, nhất là ngân hàng và những công ty quan trọng.

      Vì áp lực của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, Ngân Hàng Thế Giới WB và Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, CSVN buộc phải tư hữu hóa một số công ty quốc doanh. Tuy nhiên họ chỉ bán ra những công ty kém quan trọng, không sinh lợi hoặc phá sản. Những công ty quan trọng đều do đảng điều hành, thao túng biển thủ. Ngân sách quốc gia không cần phải công khai hóa vào cuối niên khóa tài chính như các quốc gia tự do. Với hệ thống đảng trị, bọn lãnh đạo độc quyền sử dụng, phân phối và tham nhũng, không phân biệt tài sản quốc gia hay tài sản đảng.

      Đến đây chúng ta đã có khái niệm về tài nguyên trí thức CSVN, theo thống kê, sẽ không đủ để có thể phục vụ đất nước với 84 triệu dân. Qua khái niệm về kinh tế cộng sản, một nền kinh tế do bọn thất học và độc tài lãnh đạo, chỉ có thể đưa đất nước đến nghèo đói. Với một nền kinh tế què quặt, vá víu, mậu dịch thâm hụt, nợ nần tương đương 25% tổng sản lượng quốc nội, vấn đề phá sản chỉ còn là thời gian. Vì không tin tưởng vào tương lai, đảng viên các cấp đồng lõa tham nhũng, tẩu tán tài sản quốc gia ra ngoại quốc làm của riêng, Việt Nam thực sự đã đến thời mạt vận.

      Với chính sách độc tài và vi hiến (Unconstitutional) do chính bọn đảng lập ra; tư pháp, lập pháp và hành pháp chỉ là công cụ của đảng. Quyền tự do căn bản con người bị tước đoạt; hậu quả là nhân quyền bị chà đạp, tư hữu bị chiếm đoạt, chưa nói đến hệ thống hành chánh quan liêu, cục bộ đầy dẫy những phức tạp và tham ô. Với tập quán làm việc ô hợp thối nát, liệu các chuyên gia gốc Việt hải ngoại có thể giúp được gì cho quê hương?

      Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi 300,000 chuyên gia kinh tế có uy tín, gồm cả thành phần phục vụ dưới thời Việt Nam Cộng Hòa trở về phục vụ đất nước. CSVN ngụ ý nói đến một chính sách cởi mở, dân chủ, hòa giải không còn thù hận, và là môt thông điệp rất quan trọng mà CSVN muốn gởi đến thế giới tự do; một lối tuyên truyền cố hữu của bọn Vẹm. Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng mang bệnh hoang tưởng, tìm đâu ra 300,000 chuyên gia kinh tế người Việt hải ngoại? Hầu hết những chức vụ cao và quan trọng (Senior & Key positions) trong kinh tế, thường làm việc cho chính phủ, ngân hàng, tài chánh, đầu tư và trong lứa tuổi từ 45 đến 55. Với tập quán làm việc (Corporate culture) hủ lậu, quan liêu của Việt Cộng, cái môi trường thối tha nầy không hấp dẫn lớp chuyên viên Việt Nam, trừ bọn cò mồi đỏ.

      Lời nhắn sau cùng với những ai có ý định về quê xây dựng đất nước:

      1. Bằng cách nào quí vị có thể cải hóa một tên du kích Việt Cộng trì độn trở thành một người có nhân tính và khả năng làm việc?

      2. Việt Cộng là bọn vô nhân tính, tàn bạo và thất học; chúng ta sống trong xã hội nhân bản, đạo đức và học thức không thể là Việt Cộng, quí vị đứng bên nào?

      3. Những bài học từ Trịnh Vĩnh Bình ở Bắc Âu, Nguyễn Trung Trực ở Úc Châu và gần đây nhất là Trần Trường ở Mỹ Châu cũng rất đáng suy nghĩ.

      Mai Vĩnh Thăng

      Thông Bạch Vu Lan Của Viện Trưởng Viện Hóa Đạo - Giáo Hội PGVNTN


      GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
      VIỆN HÓA ĐẠO


      Thanh Minh Thiền Viện,
      90 Trần Huy Liệu, Phường15, Quận Phú Nhuận - TP Sài Gòn

      Phật lịch 2552
      Số: 14/VHĐ/TB/VT

      THÔNG BẠCH VU LAN



      Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

      Kính bạch chư tôn đức Giáo phẩm các cấp,

      Thưa chư thiện tín Cư sỹ Phật tử trong và ngoài nước,

      Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, tôi xin gởi lời thăm hỏi và chân thành tri ân chư liệt vị đã hết lòng yểm trợ Giáo Hội Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất giữa lúc Giáo Hội đang trong hoàn cảnh pháp nạn nghiệt ngã.

      Đại lễ Vu Lan nhắc nhở mọi người về lòng hiếu thảo, đức từ bi, năng lực thanh tịnh và phẩm hạnh thánh thiện.

      Với lòng hiếu thảo, người Phật tử không chỉ tận lực báo đáp thâm ân đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn trải rộng cõi lòng báo đáp tất cả những ai đã từng cưu mang, giáo dưỡng để giúp mình nuôi lớn pháp thân huệ mạng và trở thành người hữu dụng đối với xã hội nhân loại.

      Với tâm từ bi, người Phật tử không chỉ tận lực giải khổ cho thân bằng quyến thuộc nội ngoại tôn thân mà hết lòng giải trừ khổ hoạn cho mọi loài chúng sanh trong mọi miền thế giới, thế nên trước nỗi khổ của đồng bào, đồng loại, người Phật tử không thể ngoảnh mặt xoay lưng, cũng không thể thoả hiệp với thế quyền nhằm mưu cầu lợi dưỡng để mặc cho dân lành bị cướp mất quyền sống. Đức Phật xuất thân từ giòng dõi vua chúa, thế nhưng Ngài đã không tìm cách nương tựa vào sức mạnh thế tục để tuyên lưu chánh pháp vì tri nhận rõ rằng, những thế lực thế gian đều không ngừng đổi thay tàn tạ, và chỉ là thế lực tạm bợ nhất thời. Không thể nương tựa vào cái giả tạm nhất thời để mong tìm sự trường tồn bất biến. Chỉ nương vào chân lý, sống với và sống như chân lý mới giúp cho chính pháp tồn tại lâu dài. Với tâm từ bi bao la vô lượng, người Phật tử không tự cho phép mình sống đời sống cầu an ích kỷ trước bao nhiêu thực trạng khổ đau của tha nhân. Người Phật tử chân chính luôn tâm niệm rằng, không có bất cứ hiện tượng nào trên thế gian này có thể hiện hữu độc lập mà là một chuổi xích nhân duyên điệp trùng vô tận, trong tương quan vô tận đó, ý nghĩa lợi tha của Phật giáo càng đặc biệt nỗi bật hơn giữa bối cảnh hân thù, bất công và sợ hãi. Đạo Phật có mặt là để cứu khổ độ sanh. Mùa Vu Lan là mùa nhắc nhở chúng ta ý thức thường trực về sứ mệnh độ sanh thiêng liêng cao cả đó.

      Muốn giải trừ khổ hoạn cho người khác, bản thân của mỗi tu sỹ cần có đời sống thanh tịnh, bản thể thanh tịnh của Tăng già là sức mạnh vô biên có khả năng giải thoát mọi khổ đau phiền não, do vậy, xin mỗi chúng ta hãy nỗ lực phát huy nội lực thanh tịnh, sống đời sống phạm hạnh, thánh thiện, tránh xa các tham vọng thế tục, an trú vững chãi trong chánh pháp, không vọng động chạy theo thời thế để đừng tự biến mình thành công cụ chính trị nhằm vừa giải thoát tự thân vừa góp phần cứu nguy sinh chúng. Xin mỗi Cư sỹ Phật tử, hãy dụng công hơn nữa trong việc hành trì chính pháp, nhất là ứng dụng chính pháp vào đời sống thực tế của mình, nhìn ra được mối khổ hoạn của thế gian mà sát cánh với Giáo Hội trong sứ mệnh trừ nguy cứu khổ.

      Dù Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã và đang trải qua những cơn pháp nạn hiểm nghèo, nhưng Giáo Hội quyết không để chướng duyên làm lu mờ bản thể thanh tịnh vốn là thành tố quan yếu làm nên sức mạnh bất khả phủ quyết của Phật Giáo. Trước nội ma ngoại chướng, Giáo Hội thiết tha kêu gọi chư liệt vị hãy vì tiền đồ của đạo pháp và dân tộc, tích cực dấn thân hơn nữa để khỏi cô phụ bản hoài xuât thế độ sinh của chư Phât. Đức đệ tứ Tăng Thống, Đại Lão Hòa thượng Thích Huyền Quang đã vĩnh biệt chúng ta, về cõi Niết Bàn, một sự mất mát to lớn đối với Giáo Hội, bản thân tôi và chư tôn giáo phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện đang gặp nhiều chướng duyên, nghịch cảnh; tuy nhiên, noi theo dấu chân của chư Tổ, của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống, và hạnh nguyện sâu dày của chư Phật, chúng tôi quyết một lòng vượt qua mọi khó khăn trở ngại.

      Vì thực tế đe doạ đến vận mệnh sống còn của Giáo Hội, đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống đã ban hành Giáo Chỉ số 09 để cứu nguy Giáo Hội. Nhiều thế lực đen tối đang tìm đủ mọi cách xuyên tạc và phủ nhận Giáo Chỉ số 9. Vì mạng mạch của chánh pháp, chúng ta nhất định không để cho những thế lực vô minh lợi dụng danh nghĩa GHPGVNTN để tiêu diệt GHPGVNTN và tiếp tay cho các thế lực manh động.

      Nguyện cầu mười phương chư Phật thuỳ từ phóng quang tiếp độ cửu huyền thất tổ, quá khứ đa sinh phụ mẫu, lũy thế oan thân, thập loại cô hồn siêu sinh Phật quốc.

      Cầu nguyện thế giới nhân loại chung sống hoà bình, quyền sống của con người được tôn trọng, môi sinh được bảo vệ, lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam vẹn toàn, GHPGVNTN phục hoạt trọn vẹn và nền văn minh Từ bi luôn mãi thăng tiến.

      Nam Mô Vu Lan Thắng Hội vô lượng chư Phật, chư đại Bồ tát, chư hiền thánh Tăng tác đại chứng minh.

      Thanh Minh Thiền Viện, ngày 26 tháng 7 năm 2008.
      Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện.
      Viện Trưởng Viện Hoá Đạo

      (ấn ký)

      Sa môn Thích Quảng Độ

      Thursday, August 7, 2008

      Bài Học Qua Biến Cố Hồng Y Phạm Minh Mẫn


      Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

      Hôm nay đúng 2 tháng lá thư gây sóng gió của Hồng Y Phạm Minh Mẫn gởi đến 3 vị Giám Mục Việt Nam đi tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney được phổ biến. Với nội dung và ngôn từ của lá thư, Hồng Y Phạm Minh Mẫn bị phê phán và chống đối khắp nơi tạo thành một biến cố lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người nhiều giới. Trong bài viết này, tôi cũng muốn nhắc lại một bài học rút ra từ biến cố xảy ra của Giáo Hội Công Giáo Ba Lan hơn một năm trước vì có điểm tương đồng với hiện tượng Hồng Y Phạm Minh Mẫn của Việt Nam.

      Ngày Chúa nhật 7 tháng Giêng năm 2007, Giáo Hội Công Giáo Ba Lan đã “lên cơn sốt” bởi làn sóng phản đối mãnh liệt của dân chúng yêu cầu vị Tổng Giám Mục chỉ định của Tổng Giáo Phận Warsaw phải từ chức ngay trong ngày lễ nhậm chức (investiture). Lý do là vì Ủy Ban Điều Tra phanh phui ra bằng chứng cho thấy Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus trong quá khứ từng là điềm chỉ viên cho mật vụ của chế độ Cộng sản Ba Lan.

      Các đài truyền hình ngày hôm đó chiếu đi chiếu lại cảnh dân chúng Ba Lan tập họp đông nghẹt bên ngoài nhà thờ Chánh Tòa thủ đô Warsaw, tay giơ cao biểu ngữ, miệng la hét inh ỏi yêu cầu Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus phải từ chức. Khi đó bên trong nhà thờ, ống kính truyền hình tập trung vào vị Tổng Giám Mục 67 tuổi trong phẩm phục đại trào đang khóc tức tưởi, đôi môi run rẩy, nước mắt chảy dài, đang cúi gầm đầu đọc bản văn từ chức, chỉ một vài phút trước khi bắt đầu nghi thức nhậm chức Tổng Giám Mục của Tổng Giáo Phận Warsaw là chức vụ cao trọng nhất của Giáo Hội Công Giáo Ba Lan. Cảnh tượng nhục nhã này diễn ra trong một buổi lễ rất long trọng, có mặt đông đủ các chức sắc đạo đời, kể cả Tổng Thống Ba Lan. Hình ảnh đó làm tôi nhớ mãi.

      Vài ngày sau đó, tôi đã viết bài “MỘT BÀI HỌC QUA VIỆC TỔNG GIÁM MỤC WARSAW TỪ CHỨC” và tôi gửi lại kèm theo đây để đọc giả có dịp so sánh sự việc của hai vị chức sắc cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo Ba Lan và Việt Nam đã gây ra. Mặc dù tình tiết câu chuyện có khác nhau nhưng có điểm chung là cả hai vị chức sắc cao cấp đều bị dân chúng phẫn nộ và phản đối ầm ĩ. Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus đã nhận tội và xin từ chức, Hồng Y Phạm Minh Mẫn thì đang phải lánh mặt không dám chính thức công khai xuất hiện tại Hải Ngoại như trước nữa.

      VÀI NÉT VỀ HỒNG Y PHẠM MINH MẪN

      Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Hồng Y Phạm Minh Mẫn là một trong 5 vị Hồng Y từ trước tới nay. Vị Hồng Y tiên khởi của Việt Nam là Trịnh Như Khuê Tổng Giám Mục Hà Nội, được phong tước vị Hồng Y ngày 24 tháng 5 năm 1976, kế tiếp là những vị: Hồng Y Trịnh Văn Căn được phong tước vị Hồng Y ngày 30 tháng 6 năm 1979, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận được phong tước vị Hồng Y ngày 21 tháng 2 năm 2001, Hồng Y Phạm Đình Tụng được phong tước vị Hồng Y ngày 26 tháng 11 năm 1994. Hiện nay Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chỉ còn được hai vị là Hồng Y Phạm Đình Tụng nguyên Tổng Giám Mục Hà Nội đã về hưu và Hồng Y Phạm Minh Mẫn.

      Hồng Y Phạm Minh Mẫn sinh năm 1934, xuất thân là một Linh Mục thuộc Giáo phận Cần Thơ, theo học tại Đại Chủng Viện Sài Gòn và chịu chức Linh Mục năm 1965. Năm 1993, cha Phạm Minh Mẫn được chọn làm Giám Mục Phó Giáo phận Mỹ Tho. Chỉ sau 5 năm Giám Mục Phó Phạm Minh Mẫn được chuyển về làm Tổng Giám Mục của cái gọi là Tổng Giáo Phận thành phố Hồ Chí Minh, nguyên là Tổng Giáo Phận Sài Gòn trước kia, đã bị đổi tên sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. Ngày 21 tháng 10 năm 2003 Ngài được phong tước vị Hồng Y.

      Như vậy, Hồng Y Phạm Minh Mẫn là một vị chức sắc được “thăng quan tiến chức” nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Chỉ trong vòng 10 năm từ vị trí khiêm tốn của một Giám Mục Phó trong một Giáo phận nhỏ ở miền quê đã được nâng lên tước vị Hồng Y cao trọng nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

      VỊ HỒNG Y CỦA “MỤC VỤ DI DÂN”

      Hồng Y Phạm Minh Mẫn trở thành một khuôn mặt quen thuộc của đồng bào Công Giáo và Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn Cộng sản tại Hải Ngoại qua vai trò đặc biệt có tên là “Mục Vụ Di Dân” của Ngài. Dưới danh nghĩa “Mục Vụ Di Dân” đó, mặc dầu trên thực tế giáo dân Công Giáo Hải Ngoại không có nhu cầu để Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam cần phải tiếp tay lo lắng nhưng Ngài vẫn đi lại thường xuyên qua nhiều quốc gia, xuất hiện nhiều nhất tại các Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn ở Hoa Kỳ qua sự tiếp tay của một số Giáo Sĩ và Giáo dân tại địa phương. Vì thế, công tác “Mục Vụ Di Dân” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong những năm qua tỏ ra gặt hái nhiều thành công cụ thể và tương lai hứa hẹn sẽ thu góp thêm được nhiều thành quả ở trước thời điểm lá thư gây sóng gió được chính thức “chào đời” vào ngày 4/6/2008!

      Tuy nhiên con đường “Mục Vụ Di Dân” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn không phải lúc nào cũng êm thắm và từ từ đã tự hé mở quan điểm của Ngài qua những lần trả lời phỏng vấn hoặc qua lá thư Mục Tử khi lên tiếng về Linh mục Nguyễn Văn Lý với bài viết “ngôn sứ thật, ngôn sứ giả”; có lần Ngài gọi đồng bào tị nạn Cộng sản tại Hải Ngoại là “tha phương cầu thực”. Gần đây nhất, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại nên xóa bỏ căn cước tị nạn! Những điều này đã làm cớ cho một số người lên tiếng chống đối.

      Phải chăng thời gian rồi đã qua đi và những tiếng nói chống đối cũng thưa dần rồi lặng im, mọi chuyện đâu lại vào đấy mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn lại vẫn mạnh tiến trên con đường “Mục Vụ Di Dân”“luôn đầy ắp công việc của Giáo phận, của Giáo hội Việt Nam và trong cương vị Hồng Y còn thêm những công việc của Toà Thánh, với tuổi càng cao, càng thường xuyên đau yếu ...” nhưng chương trình chu du Hải Ngoại của vị Hồng Y tuổi cao sức yếu này khiến cho những nhà ngoại giao chuyên nghiệp nhìn vào cũng phải chóng mặt.

      Điều này cũng dễ hiểu vì có nhiều Giáo Sĩ và cơ sở tôn giáo Hải ngoại lúc nào cũng sẵn sàng “trải thảm đỏ” để đón vị chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Sự có mặt của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong các dịp Đại Hội, các dịp lễ, các dịp rước kiệu, các dịp hành hương, các dịp khánh thành, các dịp kỷ niệm của giáo xứ và cộng đồng đã trở thành mốt thời thượng làm cho buổi lễ thêm phần long trọng để thu hút giáo dân tới tham dự cho đông. Trong các trường hợp đó, hình ảnh và tên tuổi của Hồng Y Phạm Minh Mẫn lúc nào cũng chiếm chỗ trang trọng trên các tờ thông báo chương trình.

      DÂY ĐÀN CĂNG THẲNG

      Với nội dung và ngôn từ của lá thư ngày 4 tháng 6 vừa qua, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã lái thuyền vào vùng biển động! Ngài đã đụng chạm tới một sự kiện rất tế nhị đối với Cộng Đồng Người Việt tị nạn Cộng sản tại Hải Ngoại qua quan điểm Cờ Vàng, Cờ Đỏ! Đề tài này lúc nào cũng căng thẳng như một dây đàn, chỉ sờ nhẹ vào đã bật ra tiếng kêu, nói gì đến việc Ngài dùng ngón tay búng mạnh vào đó!

      Ai cũng biết những người Việt tại Hải Ngoại đại đa số là những nạn nhân đã phải trốn chạy chế độ Cộng sản và muôn đời lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là một biểu tượng thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Ngược lại, họ kinh tởm lá Cờ Đỏ Sao Vàng mà họ gọi là “cờ máu”, vì lá cờ máu này mà họ đã phải liều chết vượt biên trốn chạy chế độ Việt cộng man rợ, mang theo lời sỉ vả của Phạm Văn Đồng là thủ tướng Việt cộng lúc bấy giờ: “bọn chúng đàn ông là hạng ma cô, đàn bà là hạng đĩ điếm. Bọn chúng phải ra đi cho sạch đất nước ...”. Trong tình cảnh đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã công khai lên tiếng đòi triệt hạ Cờ Vàng và gián tiếp giới thiệu Cờ Đỏ trong dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney thì tránh sao cho khỏi sự phẫn nộ của đồng bào Hải Ngoại?

      Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn ghi lại sự kiện là vì thư đó mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã gặp sự chống đối một cách dữ dội của nhiều người và nhiều giới, phần đông là người Công Giáo. Có thể nói trong lịch sử của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ trước tới nay chưa có một chức sắc cao cấp nào bị nhiều người người phê bình, phản đối, chế diễu, bêu rếu với lời lẽ nặng nề qua các câu vè, thơ phú, tranh biếm họa .... lên án gắt gao như Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Có người còn mượn gió bẻ măng, nhân cơ hội này đã mang luôn cả Giáo Hội Công Giáo đặt lên bàn mổ. Từ sự việc đó có thể rút ra một bài học nhớ đời cho nhiều người, trước tiên là cho chính con người đã gây ra cớ sự.

      BÀI HỌC CỦA HỒNG Y PHẠM MINH MẪN

      Trước tiên phải nói, có lẽ vì từ trước tới nay Hồng Y Phạm Minh Mẫn được các Giáo sĩ và Giáo dân Hải Ngoại tranh nhau đón rước và dâng cúng tiền bạc một cách hậu hĩnh trong các chuyến đi “Mục Vụ Di Dân” đã khiến cho Ngài lầm tưởng là Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại là một đàn chiên ngoan dễ sai dễ bảo và sẵn sàng cúi đầu vâng nghe theo lập trường chính trị của cá nhân Ngài. Sự kiện này đã được ông Mặc Giao, một cây bút Công Giáo nhận xét trong bài tựa đề TỨ MÃ NAN TRUY của ông được phổ biến gần đây; “Điều này cũng cho thấy các vị có thẩm quyền của Giáo Hội tại quê nhà từ lâu có thói quen coi thường giáo dân. Giáo dân trong nước ít phản ứng vì không dám. Giáo dân Hải Ngoại có nhiều phản ứng hơn nhưng bị coi là hành động của một thiểu số cứng đầu, thích “phản chứng” (contestataire), còn lại đều là một đàn cừu ngoan ngoãn để xoa đầu cạo lông, hay một đàn bò béo để vắt sữa. Các vị cứ làm như giáo dân Hải Ngoại không có cái mồm để nói, không có cái đầu để suy nghĩ.”

      Về điểm này, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney và Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã có câu trả lời cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn một cách rất hùng hồn trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney vừa qua.

      Đề tài Cờ Vàng, Cờ Đỏ không thuộc về bổn phận của một chức sắc tôn giáo phải nêu lên. Nếu Hồng Y Phạm Minh Mẫn tôn vinh lá cờ đỏ, nếu nhờ lá cờ máu mà Ngài được thăng quan tiến chức để có vị trí như hiện nay thì việc “ăn cây nào phải rào cây đó” là chuyện đương nhiên. Dù vậy, khi Ngài dùng cách nói ví von về người mẹ Việt Nam lúc mặc áo vàng lúc mặc áo đỏ ... để có ý rao bán món hàng “cờ đỏ” với Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng sản tại Hải Ngoại là một ước tính sai lầm. Làm như thế chẳng khác nào một nhà buôn mở cửa hàng bán thịt lợn giữa thủ đô của nước Á- rập Saudi!

      Một điểm khác, tôi nghĩ là qua sự việc này cũng giúp Hồng Y Phạm Minh Mẫn bài học về cách xử dụng ngôn từ trong các văn thư. Ba chữ “một thói đời” trong ngôn ngữ Việt Nam có nghĩa rất xấu, chỉ dùng để bày tỏ sự khinh dể hoặc khi muốn sỉ nhục kẻ khác. Nếu vì chưa hiểu được ý nghĩa của ba chữ đó mà Ngài đã dùng “một thói đời” với những người tôn vinh lá Cờ Vàng, thì lúc này, qua cơn thịnh nộ của họ, chắc Ngài đã hiểu. Ngược lại nếu Hồng Y Phạm Minh Mẫn hiểu được ý nghĩa mà đã cố tình dùng cách nói “một thói đời” để nhục mạ Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại thì từ nay làm sao Ngài có thể rao giảng đức bác ái được? Với lối xử dụng ngôn từ như thế, chẳng những Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã tự hạ giá trị bản thân và tước vị Hồng Y mà Ngài được tặng phong mà còn mắc món nợ ân tình với những người đã từng đón tiếp và đóng góp tài chánh cho Ngài. Với lối xử dụng ngôn từ như thế Ngài đã gây đau buồn và tủi nhục cho người Công Giáo, chưa kể tới Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn mắc món nợ danh dự đối với Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại.

      Có lẽ điểm sau cùng và quan trọng nhất là qua biến cố nói trên Hồng Y Phạm Minh Mẫn biết là tên tuổi của Ngài đã chết đối với Cộng đồng người Việt Hải Ngoại. Con đường “Mục Vụ Di Dân” thực sự đã tắt nghẽn vì những chiếc cầu đã bị sập toàn bộ bởi quả bom có sức công phá khốc liệt mà tự tay Ngài đã châm ngòi cách nay vừa đúng hai tháng. Bằng chứng là Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không dám xuất hiện tại các nơi đã được thông báo trong chương trình như Portland, Seattle, San Jose, Sydney. Cách đây vài ngày Ban Tổ Chức Đại Hội Thánh Mẫu thường niên của Dòng Đồng Công ra thông báo cho biết Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ không tham dự.

      Tôi mong là Hồng Y Phạm Minh Mẫn nên tiếp tục hủy bỏ chuyến đi Lourdes, vì trong Lá Thư Mục Tử ngày 15 tháng 7 vừa qua, Ngài nói là được mời đi Lourdes nhưng viết thêm một câu thòng “nếu sức khỏe cho phép” thì Ngài sẽ đi! Trong hoàn cảnh hiện nay, tôi thiết nghĩ sức khỏe của Ngài “không cho phép” ngoại trừ có “sức ép từ một thế lực” nào đó mà Ngài vẫn cần phải tham dự!

      TÂM TÌNH THAY LỜI KẾT

      Câu chuyện về Hồng Y Phạm Minh Mẫn là một câu chuyện buồn. Nỗi buồn này không phải cho riêng cá nhân Hồng Y Phạm Minh Mẫn mà còn cho Cộng Đồng Công Giáo Hải Ngoại đã từng quý mến và ân cần tiếp đón Ngài. Nỗi buồn cho những người tôn vinh lá Cờ Vàng là biểu tượng thiêng liêng của hai chữ Tự Do. Đây là nỗi buồn cho những người Công Giáo Việt Nam nói chung, nhưng quan trọng và xâu xa hơn nữa là qua sự kiện này gợi lại nỗi buồn về số phận của Dân Tộc Việt Nam.

      Dù vậy qua biến cố này có dấu hiệu chứng tỏ giáo dân Việt Nam đã trưởng thành, không còn giữ thái độ cúi đầu vâng dạ một cách thụ động nhưng đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến và phê phán việc làm sai trái của Hồng Y Phạm Minh Mẫn cho dù Ngài là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội. Người Công Giáo phải hiểu là Giáo Hội luôn được hướng dẫn bởi Thần Linh Thiên Chúa, nhưng Giáo Hội được điều hành bởi những con người. Người Công Giáo phải tin là giáo lý của Đức Kitô không bao giờ sai lầm, Thần Linh Thiên Chúa không bao giờ sai lầm, nhưng con người thì ai cũng có thể sai lầm được. Vì thế không có gì tai hại cho bằng đồng hóa các chức sắc lãnh đạo Giáo Hội với chính Giáo Hội.

      Biến cố Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng nhắc nhớ Dân Tộc Việt Nam về chủ thuyết ngoại lai Cộng sản đã gây ra bao đau thương tang tóc cho Dân Tộc. Chủ thuyết đó đã và đang tìm cách hủy diệt nền tảng đạo lý và gây hận thù trong lòng Dân Tộc giữa hai thành phần đối kháng nhau. Cũng vì chủ thuyết đó mà một thành phần Dân Tộc đã phải trốn chạy bỏ nước ra đi.

      Tuy hai biến cố của Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus và Hồng Y Phạm Minh Mẫn có điểm tương đồng, nhưng câu chuyện nước người đã kết thúc, vì chế độ Cộng sản Ba Lan không còn tồn tại và vị Tổng Giám Mục đã từ chức lui vào bóng tối. Ngược lại, chế độ Việt gian Cộng sản đang còn đó và chế độ quỷ quyệt này không bao giờ mệt mỏi trong ý định thò vòi ra hút máu Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại. Chúng thực hiện âm mưu này bằng tất cả mọi thủ đoạn, kể cả lợi dụng các tôn giáo.

      Lời cuối cùng tôi muốn chia sẻ là bao lâu chế độ Việt cộng còn tồn tại là bấy lâu Dân Tộc Việt Nam còn chia rẽ, còn hận thù và các Tôn giáo còn bị chúng lợi dụng trong âm mưu đen tối. Xét cho cùng, tất cả chúng ta đều là nạn nhân của những đầu óc tinh ma trong bộ máy cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Qua biến cố này, Dân Tộc Việt Nam càng xác định rõ bổn phận phải làm hết mọi cách để tháo gỡ bộ máy quyền lực của chế độ Cộng sản Việt Nam, một chế độ phản dân hại nước đang cố bám vào huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh để tồn tại hầu tiếp tục đè đầu cưỡi cổ Dân Tộc.

      BÀI HỌC QUA VIỆC TỔNG GIÁM MỤC WARSAW TỪ CHỨC

      Một bản tin được hầu hết các cơ quan truyền thông trên thế giới loan tải với tựa đề lớn:

      “Giáo Hoàng Benêđicto XVI đã yêu cầu Tổng Giám Mục chỉ định của Warsaw từ chức vài phút trước khi cử hành lễ nhậm chức, sau khi Tổng Giám mục Stanislaw Wielgus xác nhận ông đã từng là một điềm chỉ viên cho mật vụ thời chế độ cộng sản Ba Lan”.

      Ngoài phần tin tức và bình luận khá dài trên các báo, ngày 8-1-2007 các kênh truyền hình CNN và BBC còn chiếu nhiều hình ảnh liên quan tới sự kiện này. Hình ảnh vị Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus, 67 tuổi, mặc phẩm phục đại triều trong ngày lễ nhậm chức tại nhà thờ chánh tòa Warsaw, đang ngồi cúi gập đầu, nước mắt chảy dài và đôi môi mấp máy trong tư thế vô cùng khổ sở là hình ảnh làm tôi nhớ mãi.

      Trong đoạn phim khác chiếu cảnh một viên chức Tòa Thánh mặc áo dòng đen, đang giơ cao bản “giao kèo” mà Tổng Giám Mục (TGM) Stanislaw Wielgus đã ký với mật vụ cộng sản Ba Lan nhận làm điềm chỉ viên ngay từ những năm 1960. Tờ giao kèo đó là bản “án tử hình” mà TGM Stanislaw Wielgus đã tự ký cho mình từ mấy chục năm trước và vừa mới được moi ra từ văn khố của chế độ này đã sụp đổ 17 năm qua. Trước cái bóng ma trong quá khứ hiện về như thế, TGM Wielgus không còn có thể tiếp tục biện minh cho quá khứ vô tội của mình như ông đã từng làm để phản bác những người chống đối việc ông được được Giáo Hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm vào chức vụ cao trọng nhất của giáo hội Ba Lan. Ông phải từ chức!

      ĐẦU ĐUÔI CÂU CHUYỆN

      Các tài liệu của Ủy ban điều tra cho biết Stanislaw Wielgus đã được mật vụ cộng sản Ba Lan móc nối ngay từ khi còn là sinh viên ở Đại Học Lublin từ năm 1967 và có bí danh là “Agent Grey” hoặc “Adam Visocki” và có nhiệm vụ theo dõi những hoạt động “phản cách mạng” của các linh mục.

      Theo tin của hãng REUTERS, sau khi chịu chức linh mục Wielgus đã có thời là Giáo sư triết học và là Giám đốc Đại học Công Giáo Lublin trước khi trở thành Giám mục tại Plock vào năm 1998. Dưới chế độ cộng sản ông được được hưởng đặc ân xuất ngoại và phải tiếp xúc với mật vụ trước và sau các chuyến đi.

      Tờ báo có khuynh hướng bảo thủ Gazeta Polska, trích dẫn những tài liệu từ thời cộng sản Ba Lan, sau này đã được công khai hoá cho thấy Wielgus làm việc với mật vụ cộng sản Ba Lan trong hơn 20 năm kể từ thập niên 60 cho tới khi chế độ đó sụp đổ. Ủy ban điều tra của giáo hội trong vụ này đã cho biết “nhiều tài liệu đã xác nhận Wielgus tình nguyện... cộng tác” (many documents which confirm Wielgus’s willingness to...cooperate.)

      Ý DÂN LÀ Ý TRỜI

      Khi Đức Hồng Y Josef Glemp, Tổng Giám Mục Warsaw hưu trí, Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm TGM Stanislaw Wielgus thay thế vào chức vụ này. Ngay sau khi tin đó được công bố đã có sự phản kháng từ nhiều giới, nhưng Giáo Hoàng vẫn giữ lập trường. Cho đến trước lễ Giáng sinh 2006 vừa rồi, Giáo Hoàng còn tuyên bố là ngài đã biết rõ về quá khứ của người mà ngài đã chọn lựa vào chức vụ Tổng Giám Mục Warsaw. Tuy nhiên làn sóng những người phản đối càng lúc càng dâng cao và sau khi đại diện Toà Thánh có cuộc họp với chính phủ Ba Lan, và trước nguy cơ có sự phân hoá trầm trọng trong nội bộ Giáo Hội Ba Lan và nhất là sau khi những tài liệu mật do Ủy Ban điều tra công bố cho thấy TGM Wielgus đã từng là một điềm chỉ viên của mật vụ cộng sản Ba Lan nên Giáo Hoàng đã phải nhượng bộ và ra lệnh cho Tổng Giám Mục Wielgus từ chức chỉ vài phút trước nghi thức nhậm chức (investiture) trong thánh lễ Chúa Nhật 7 tháng Giêng tại nhà thờ Chánh Toà Warsaw, sau khi đã ở trong chức vụ chỉ định này được 2 ngày.

      Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus đã đọc bản văn từ chức trong thánh lễ có đủ chức sắc cao cấp đạo đời tham dự, kể cả Tổng Thống Ba Lan Lech Kaczynsky và Hồng Y Stanislaw Dziwicsw, TGM Giáo phận Cracow, nơi Giáo Hoàng John Paul II phụ trách khi còn là Hồng Y Carol Vojtyla. Thánh lễ hôm đó được báo chí mô tả là “hỗn độn” vì bên ngoài có đám đông biểu tình la ó đòi TGM Stanislaw Wielgus phải từ chức trong khi đó bên trong nhà thờ một số người lớn tiếng van nài: “Xin cha ở lại với chúng con!”

      Hãng REUTERS còn cho biết, hiện nay chính phủ Ba Lan đang có nỗ lực đoạn tuyệt với quá khứ cộng sản bằng cách cho mở các hồ sơ mật của chế độ cộng sản để thanh lọc hàng ngũ và nhất là đang xem xét lại vai trò của giáo hội Công Giáo trong thời kỳ đảng cộng sản cầm quyền. Linh mục Isakiewics-Zaleski thuộc nhóm đối lập với đảng cộng sản Ba Lan, sắp xuất bản cuốn sách mà người ta nghĩ là sẽ phanh phui danh tánh thành phần giáo sĩ làm tay sai cho chế độ cộng sản, mà mới đây một giới chức Toà Thánh cho biết có tới 15 % trong tổng số linh mục đã hợp tác với chế độ cộng sản. Mục tiêu hàng đầu của chính quyền bảo thủ hiện nay của Ba Lan là loại bỏ những gương mặt nổi trong chế độ cộng sản ra khỏi các vị trí quan trọng tại Ba Lan. Tổng Giám mục Stanislaw Wielgus đã rơi vào trường hợp này.

      ĐIỀM CHỈ VIÊN LÀ GÌ?

      Những ai đã từng sống với cộng sản, nhất là những tù nhân chính trị của chế độ cộng sản, đều có kinh nghiệm, và có khi là nạn nhân, của cách thức công an mật vụ cộng sản chiêu dụ người trong hàng ngũ đối phương vì một quyền lợi nào đó để trở thành “tai mắt” của chế độ trong công tác rình mò theo dõi và báo cáo hành vi những người chung quanh. Biện pháp “người mình kiểm soát người mình” được các mật vụ cộng sản khai thác tối đa trong cố gắng ngăn chặn và diệt trừ thành phần chống đối đảng. Một tài liệu của Chính phủ Đức vừa công bố sau khi khai quật hồ sơ mật thời chế độ cộng sản Đông Đức cho thấy tên tuổi của 91.000 công an mật vụ và 300.000 điềm chỉ viên – hay một điềm chỉ viên trên 50 người dân Đông Đức!

      Đối với những thành phần mà người cộng sản biết là lúc nào cũng có tư tưởng chống đối chế độ như giáo hội Công Giáo thì hệ thống tổ chức “điềm chỉ viên” càng được coi trọng và được móc nối công phu hơn. Những điềm chỉ viên nào ít bị anh em chung quanh nghi ngờ nhất sẽ là điềm chỉ viên lý tưởng. Như vậy có một điềm chỉ viên trong hàng giáo sĩ như Stanislaw Wielgus để theo dõi và báo cáo hoạt động “phản cách mạng” của giáo hội Ba Lan thật là lý tưởng đối với mật vụ cộng sản Ba lan. Dĩ nhiên các điềm chỉ viên sẽ được phần thưởng, theo nguyên tắc có làm có hưởng, làm ít hưởng ít làm nhiều hưởng nhiều. Phần thưởng có nhiều hình thức khác nhau, trong trường hợp Stanislaw Wielgus, phần thưởng cho vai trò điềm chỉ viên là được cho phép đi nước ngoài! (Allowed to travel abroad).

      ÂN HUỆ CỦA ĐẢNG

      Ai cũng biết chế độ cộng sản kiểm soát dân rất chặt chẽ bằng chính sách hộ khẩu. Mặc dù tùy theo hoàn cảnh và thời gian mà sự kiểm soát này có thể gia giảm, nhưng nói chung sự di chuyển của người dân từ nơi này đến nơi khác, ngay cả trong nước, luôn luôn là một vấn đề đối với người dân. Hiểu như vậy sẽ thấy rằng “cho phép đi nước ngoài” quả là một ân huệ lớn lao của đảng cộng sản Ba Lan ban cho và Stanislaw Wielgus đã tự ký một “bản án tử hình” từ những năm xa xưa để được hưởng ân huệ đó.

      Một điều đáng nói ở đây là khi nhận công tác làm điềm chỉ viên cho mật vụ Ba Lan, Stanislaw Wielgus đã không nghĩ rằng có ngày chế độ cộng sản quỉ quái đó sẽ sụp đổ và tờ giao kèo mà ông đã ký khi nhận làm tay sai cho bọn chúng sẽ có lúc bị phanh phui và được công bố trên toàn thế giới! Những giọt nước mắt của Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus chảy dài xuống má chỉ vài phút trước khi chính thức nhận chức vụ cao cả nhất của giáo hội Công Giáo Ba Lan: Tổng Giám Mục của Tổng Giáo Phận Warsaw, thủ đô nước Balan, có ý nghĩa rõ rệt trọng của nó. Rõ ràng đó là những giọt nước mắt của sự hối hận. Dù vậy không phải TGM Stanislaw Wielgus hối hận vì đã phản bội giáo hội Công Giáo Ba Lan, mà hối hận vì đã khờ khạo không nghĩ là có ngày chế độ cộng sản Ba Lan sẽ phải sụp đổ và nhất là hối hận vì đã dại dột lưu lại bằng chứng về hành vi phản bội của mình.

      TRÔNG NGƯỜI LẠI NGẪM ĐẾN TA

      Biến cố Stanislaw Wielgus đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh của Giáo hội Công giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Khi thấy trên màn ảnh TV cảnh một viên chức Toà Thánh giơ cao “bản án tử hình” mà Wielgus đã tự ký để đổi lại ân huệ nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan cho phép xuất ngoại tôi chợt giật mình liên tưởng tới hiện tượng “ra nước ngoài” khá tấp nập của một số giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam trong nhiều năm qua. Phần đông là đi Mỹ.

      Tôi không phản đối việc xuất ngoại này, vì mỗi người đều có lý do riêng để xuất ngoại và tôi luôn tôn trọng những lý do đó. Đối với các vị Hồng Y, Giám Mục tôi lại càng kính cẩn hơn vì các ngài là những chức sắc cao cấp của Giáo Hội, có thể các ngài có những sứ mệnh thiêng liêng cao cả cần phải ra nước ngoài mà tôi không thể biết được. Tuy nhiên có đôi lần tôi nghe biết có một số giáo sĩ xuất ngoại chỉ với mục đích vận động tài chánh, dĩ nhiên là với mục đích cao cả như xây nhà thờ và lo các việc từ thiện bác ái.

      Đồng bào Công Giáo Viêt Nam hải ngoại rất rộng rãi khi được kêu gọi đóng góp tiền bạc giúp đỡ các nhu cầu về tôn giáo và xã hội trong nước. Có thể sự rộng rãi của đồng bào hải ngoại đó đã góp phần tạo nên “cơn cám dỗ” cho các giáo sĩ xây sửa nhà thờ và các nhà hoạt động xã hội lo mở mang cơ sở, làm cho phong trào ra nước ngoài càng lúc càng sôi nổi hơn chăng? Xin đừng quên rằng “cho phép đi nước ngoài” là một ân huệ của đảng cộng sản ban cho và tôi không tin là đảng ban phát ân huệ đó vô điều kiện.

      Riêng những vị ra nước ngoài với mục đích vận động tài chánh, khi mang về nước chắc sẽ được giải quyết theo phương thức “cả ba ta cùng có lợi”. Người hải ngoại cho tiền sẽ được hưởng phước đời sau; các chức sắc có công xuất ngoại vận động xin tiền, sẽ có phương tiện xây nhà thờ, lo việc từ thiện, bác ái; những cán bộ cộng sản ký giấy cho phép các ngài xuất ngoại, ngồi nhà chờ sẳn để nhận “chút ít” hầu có cái sinh sống mà quyết tâm phục vụ và lo cũng cố cho... Đảng. Vì còn đảng là còn tiền!

      MỘT BÀI HỌC ĐÁNG GHI NHỚ

      Sự kiện Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus của Ba Lan bị buộc phải từ chức sau khi chứng tích đã cộng tác với mật vụ cộng sản trong quá khứ được phơi trần, là một bài học quý báu cho những giáo sĩ đang sống dưới các chế độ cộng sản, nhất là những chức sắc đang được hưởng ân huệ của đảng ban cho.

      Tôi không biết các giáo sĩ Việt Nam được đảng cộng sản ban ân huệ cho ra nước ngoài có phải ký một thứ giấy tờ gì như TGM Wielgus không? Nếu không, xin các ngài hãy dâng lễ tạ ơn Chúa, vì như thế là bọn mật vụ cộng sản Việt Nam quá u mê khờ khạo, thua xa đám mật vụ cộng sản Ba Lan trong phạm vi này. Ngược lại, nếu các ngài đã phải ký “bản án tử hình” rồi, xin nhớ là khi chế độ cộng sản Việt Nam sụp đổ, phải nhanh chân vào văn khố của đảng tìm và hủy diệt ngay bằng chứng. Trong trường hợp không thể thủ tiêu được “bản án tử hình” thì phải rút lui vào bóng tối, đừng bao giờ xuất đầu lộ diện để nhận một chức vụ gì, kẻo phải trượt chân té ngã khi đang bước lên đài danh vọng như Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus trong ngày Chúa Nhật 7 tháng Giêng 2007 vừa qua.

      Thiết nghĩ chúng ta cần phải có tầm nhìn xa hơn TGM Stanislaw Wielgus để hiểu rằng chế độ Việt cộng rồi có ngày sẽ sụp đổ và chừng đó tên tuổi của những chức sắc tôn giáo đã hợp tác và làm tay sai cho chế độ phản dân hại nước đó sẽ bị phơi bày ra ánh sáng. Chừng đó các chức sắc tôn giáo này sẽ phải đối diện với giáo dân và chịu sự “phán xét” của công luận. Trường hợp TGM Stanislaw Wielgus của Ba Lan là một thí dụ điển hình.

      Một thời gian sau sẽ chẳng còn ai nhớ tới Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus, nhưng bài học rút ra từ câu “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại thiên” hoặc “Ý Dân là Ý Trời” qua việc vị Tổng Giám Mục này “chuẩn bị lễ cưới, cử hành lễ tang” tại nhà thờ chánh toà Warsaw trong ngày Chúa Nhật 7 tháng Giêng 2007 sẽ còn được dư luận khắp thế giới nhắc tới như một bài học. Theo tôi nghĩ đây là một bài học vô cùng quý báu cho những giáo sĩ đang sống trong mấy chế độ Cộng sản còn sót lại trên thế giới, trong đó có Việt Nam .

      Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
      Tuyên Úy Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland. New Zealand

      Trung Quốc có đáng sợ không?


      Trần Nhu

      Trung Quốc có đáng sợ không? Trước hết là đối với người Việt Nam chúng ta.

      Vấn đề đầu tiên được đặt ra là “ý chí” có dám tranh đấu khi đất nước bị xâm lăng và uy hiếp hay không? Việt Nam không phải chỉ thời nay mới bị Trung Quốc uy hiếp và xâm lăng mà trong suốt quá trình từ khi lập quốc trải qua mấy ngàn năm đến nay, thời nào người Trung Quốc cũng muốn xâm lăng và uy hiếp Việt Nam, nhưng ông cha chúng ta không bao giờ sợ người Trung Quốc. Cả nam, nữ, già, trẻ: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, bà Bùi Thị Xuân... các bô lão thời Trần chẳng có ai sợ người Trung Quốc, mặc dù họ là một nước lớn, đông dân nhất thế giới. Chính cái “ý chí” dám tranh đấu vì quyền lợi dân tộc, vì sự sống còn của Tổ Quốc với cái tâm lý không sợ nên nhân dân Việt Nam đã đánh bại Trung Quốc ít nhất là 15 lần.

      Tôi lại nêu lên một thí dụ điển hình nữa về “ý chí” quyết đấu tranh khi đất nước bị xâm lăng. Trong lịch sử nhân loại có đế quốc nào hùng mạnh hơn Thành Cát Tư Hãn ở thế kỷ thứ XIII. Thế mà ông cha ta đâu có sợ và đã 3 lần đánh bại quân Mông Cổ. Sứ Nguyên đến nước ta nếu tỏ thái độ kiêu ngạo hống hách là lập tức bị quân quan Ðại Việt trói lại tống ngục. Lịch sử thế giới thời đó có nước nào cả gan từ chối tiếp sứ Nguyên, chứ chưa nói đến giám trói sứ.

      Ông cha ta như thế đấy. Chỉ có những người lãnh đạo ÐCSVN ngày nay là nhu nhược hèn yếu và mang nặng tâm lý khiếp sợ Bắc Triều. Chính thái độ khiếp nhược của ban lãnh đạo ÐCSVN đã khuyến khích Bắc Kinh ngày càng lấn lướt. Bắc Kinh gây sức ép, Hà Nội lùi từng bước, nhưng Việt Nam lùi chừng nào Trung Quốc tiến chừng đó.

      Nhìn lại một chuỗi diễn biến từ các hiệp định biên giới do ban lãnh đạo ÐCSVN ký với Bắc Kinh năm 1999 – 2000 và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên đất liền mất mấy chục nghìn Km2, và những gì họ chiếm được không bao giờ nhả ra. Bắc Kinh còn đang lấn chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta, vùng biển bị Trung Quốc tiếp tục bành chướng xuống biển Nam Hải mà không gặp sự kháng cự đáng kể nào của Hà Nội. Ban lãnh đạo ÐCSVN còn dấu nhẹm không cho nhân dân biết các hiệp định ký với Trung Quốc khi sự việc Trường Sa, Hoàng Sa bùng lên, thậm chí họ còn không cho dân chúng phản đối Trung Quốc trong rất nhiều vụ biểu tình chống Trung Quốc đã bị đàn áp.

      Hải Quân Trung Quốc năm 2006 vô cớ nổ súng giết chết 9 ngư phủ Việt Nam. Từ đó đến nay, năm nào hải quân Trung Quốc cũng bắn và bắt ngư phủ Việt Nam đánh cá trên vùng biển của mình. Hà Nội nín thinh, gần đây 2 người Trung Quốc đánh chết một công dân Việt Nam ngay tại Thủ Ðô, Hà Nội. Công an tòa án Việt Nam không dám động đến công dân thiên triều, đành phải giao tên tội phạm lại cho Trung Quốc.

      Nhu nhược đến thế là cùng! Sự khiếp sợ Bắc Triều như một bệnh dịch lan truyền từ cấp lãnh đạo cao nhất của đất nước đến các tướng lãnh binh sĩ không còn ai dám tranh đấu cho quyền lợi của đất nước. Ðài Loan chỉ có 20 triệu dân, từ nửa thế kỷ nay, thường xuyên bị Trung Quốc đe dọa thôn tính. Nhiều khi tưởng như họ ăn tươi nuốt sống hòn đảo bé nhỏ này, thế mà lãnh đạo và dân chúng Ðài Loan đâu có khiếp sợ, đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh “mềm nắn, rắn buông”. Nên vấn đề sống còn của đất nước được đặt ra vẫn là ý chí dám tranh đấu cho quyền lợi dân tộc thì Trung Quốc dù có bao nhiêu triệu quân với những võ khí tối tân họ cũng chẳng làm gì được.

      Nước Tầu khổng lồ chỉ có thể ám ảnh giới lãnh đạo ÐCSVN. Nhìn lại quá khứ và cả lịch sử cận đại trên thực tế lịch sử đã chứng minh người khổng lồ Trung Hoa thường bị các bộ tộc thiểu số nhỏ cai trị nhiều lần, mặc dù người Tầu có (Binh Thư tuyệt tác của Tôn Tử). Nhưng các tướng Hán đánh một trăm trận thua chín mươi chín trận. Xin dẫn ra đây một số trường hợp để bạn đọc suy ngẫm:

      Lịch sử nước Tầu có chép: Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên (Mông Cổ) là bộ phận tổ thành quan trọng nhất trong lịch sử Trung Hoa là các đế quốc mạnh thống nhất được Trung Hoa và cường thịnh một thời lại do các dân tộc thiểu số tạo lập nên ở vùng phía Bắc Trung Hoa.

      Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều đóng đô ở Bắc Kinh. Nước Liêu dòng Khiết Ðan lập nên gọi Bắc Kinh là Nam Kinh, là một trong bốn kinh đô của nước Liêu, nước Kim thuộc dòng Nữ Chân của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả kiến lập gọi Bắc Kinh là Trung Ðô. Triều Nguyên do người Mông Cổ xây dựng định đô tại Bắc Kinh gọi là Ðại Ðô.

      Các ông vua của ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều sinh ra và lớn lên ở vùng hoang mạc mênh mông, thích cỡi ngựa, săn bắn và chơi bời hưởng lạc vô độ. Họ đã bắt các hoàng đế Trung Hoa phải quỳ gối khuất phục. Sự khiếp nhược và bất lực của nhiều triều đại Trung Quốc trước những người láng giềng nhỏ bé nhưng được trang bị bằng tinh thần thượng võ. Với ý chí quyết thắng ngay cả những đối thủ tý hon như Hung Nô, Ðột Quyết, Tây Hạ và Mãn Thanh cũng đã cai trị cả nước Trung Hoa vĩ đại. Ðối với Việt Nam, ông cha ta chưa bao giờ chiến đấu trong một trận ngang sức. Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Tiền nhân ta đã thắng kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Trong Bình Ngô Ðại Cáo, Nguyễn Trãi đã từng viết: “Ðánh một trận sạch không kinh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông.”

      Ta thấy khi quân Mông Cổ bao vây Long An. Triều đình Nam Tống các quan văn võ bỏ chạy hết, chỉ còn lại sáu người. Thái Hoàng Hậu triệu tập đại thần làm việc. Các quan đã chạy hết. Trần Nghị Trùng một mực xin giảng hòa (xin hàng). Lương Mông Viễn thấy thế không lợi. Ông tướng này đã lén chạy khỏi Lâm An đến đầu hàng quân Mông Cổ. Thái Hậu cử Trần Nghi Trung đến trại Bá Nhạn cầu hòa và nộp tiền, nhưng Bá Nhạn không nghe. Chỉ quy định thời gian cuối cùng để xin hàng. Thế là tất cả triều đình bá quan văn võ đều nhất trí xin hàng. Tục ngữ Việt có câu: “Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” hay “Cha nào, con nấy”, hoặc “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy” cái giống người Hán thâm độc và chịu nhục thì không giống người nào bằng. Nhưng trận mạc thì lại rất dở. Trong thực tế, chiến thắng bao giờ cũng do đào luyện quân sĩ, quân sĩ thì cũng tùy ở giống. Người Tầu từ dân đến tướng lãnh, binh lính mấy ngàn năm nay chẳng thay đổi gì, chậm chạp, nặng nề, không có sáng kiến trong trận mạc, không có óc tự tin, dễ hoảng hốt trước những chuyện bất ngờ. Xem các trận đánh với các bộ tộc thiểu số trận nào họ cũng thua đậm. Ðến đời nhà Tống bọn tướng sĩ Hán nhát như chuột. Nghe tiếng quân Mông Cổ sợ hết hồn hết vía, run cầm cập còn đánh chác gì! Bọn tướng Tầu, thời Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông lẫn quân lính cũng vậy, cứ nghe thấy tiếng quân Nhật là bỏ chạy thục mạng. Cho đến khi Nhật hàng đồng minh rồi vẫn còn hoảng sợ.

      (Ðồng minh giao cho quân Tầu nhiệm vụ tước khí giới quân Nhật. Không dám đến gần, phải có quân Mỹ đi bên cạnh mới chịu đi.)

      Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử Trung Hoa từ thời Cổ Đại, còn được gọi là thời kỳ Tiền Sử, cách đây khoảng 5000 năm, tới thời kỳ Trung Cổ rồi lịch sử Cận Đại. Theo quan điểm chung hiện nay cho rằng lịch sử Cận Đại bắt đầu từ Cách Mạng Tư Sản Anh, năm 1640 và kết thúc vào đầu thế kỷ 20. Đến thời kỳ Hiện Đại được nhiều sử gia thống nhất mà tính từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay. Trong khoảng thời gian trên một trăm năm lại có thể chia thời kỳ hiện đại thành hai giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II. Suốt trên một trăm năm những trận đánh trên đất Tầu, xét trên tổng thể trận nào người Tầu cũng thua đậm, và buộc phải ký những hiệp ước hết sức nhục nhã. Tác giả tạm kể những trận đánh chính yếu dưới đây:

      Sự khởi đầu “Lịch sử Trung Quốc hiện đại” là chiến tranh thuốc phiện năm (1839) Anh đã đánh bại Trung Quốc, trong giai đoạn này Trung Quốc có trên 400 triệu dân. Anh chỉ có 10 triệu... Và cái yêu sách tiếp theo đối với triều đình nhà Thanh mỗi lúc càng nặng nề. Xin tóm lược những cuộc hành quân của quân Anh như sau:

      Năm 1840, Hạm đội Anh do Ðô đốc George Elliot chỉ huy đến Quảng Châu (tháng 6) hải cảng và Ðảo Châu Sơn bị quân Anh chiếm (tháng 7)

      Năm 1841, Ðặc mệnh toàn quyền Anh Henry Pottinger (1789-1856) chỉ huy hải quân Anh tiến dọc vùng duyên hải Trung Quốc, chiếm hầu hết những thành phố quan trọng như Thượng Hải bị chiếm tháng 6-1842, và sau đó là Thẩm Dương v.v.... Triều đình Trung Hoa phải cầu hòa (xin hàng) và chịu thất bại quân sự lớn nhất thời đó.

      Ngày 29/8/1942 Hiệp Ước Nam Kinh được hai bên ký kết trên Tầu Cornvallis của hải quân Anh. Hồng Kông phải nhượng cho Anh vốn đã bị chiếm từ tháng (1/1841) mở cửa thương mại ở 5 cảng lớn Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải.

      Ngày 26/6/1858, ký hiệp ước Thiên Tân giữa Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ và Nga, buộc Trung Quốc phải mở thêm 11 cảng nữa và các nước thành lập Tòa Ðại Sứ ở Bắc Kinh. Các nước có quyền thương mại và truyền đạo Thiên Chúa giáo ở nội địa. Thuế xuất và quy định mậu dịch thiết lập hải quan thanh tra nước ngoài (Horatio N. Laij) hợp pháp hóa việc nhập khẩu thuốc phiện.

      Hiệp Ước Ái Huy, do Di Sơn và Nicholas Muraview năm 1891 ký kết buộc Trung Quốc, phải nhượng cho Nga Hoàng vùng đất tả ngạn sông Amur rộng mênh mông.

      Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh 25/10/1891) với Pháp tăng tiền bồi thường chiến phí. Pháp dành quyền sở hữu đất đai các đoàn truyền giáo Thiên Chúa giáo, được tự do truyền đạo, còn sứ thần Nga, thì buộc nhà Thanh phải nhượng khu vực từ miền Ðông USSURI (Cô-Tê-Lý-Giang) cho tới bờ biển. Nghĩa là 4 nước đè người khổng lồ ra làm thịt tơi bời lại tiếp đến Nhật:

      Ngày 23/7/1894 - 17/4/1895 chiến tranh Trung Nhật diễn ra sau 10 ngày về vấn đề Triều Tiên. Vì cuộc khởi nghĩa của Hội Ðông Học ở Nam Triều Tiên tạo cớ cho Nhật nhảy vào bắt Nữ Hoàng Triều Tiên và chỉ định một nhiếp chính trung thành với Nhật. Ngày 21/7 Tầu của Kowshing của Anh chở quân Tầu đến Triều Tiên can thiệp, bị quân Nhật đánh chìm nghỉm, ngày 25/7 nhiếp chính Triều Tiên tuyên chiến với Trung Quốc. Trung Quốc và Nhật cũng tuyên chiến với nhau. Nhật dành toàn thắng trên bộ và cả trên biển tại Bingyang ngày 16/9 ngoài khơi sông Áp Lục gần cảng Lư Thuận, ngày 21/11 và tại Uy Hải Vệ (21/2/1895).

      Ngày 17 tháng 4 năm 1895 Trung Quốc phải chấp nhận tất cả điều khoản của hiệp ước Mã Quan. Triều đình nước Tầu buộc phải công nhận nền độc lập của Triều Tiên và nhượng đảo Ðài Loan, Bành Hồ và cả bán đảo Liêu Ðông ở Mãn Châu cho Nhật. Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh 200 triệu lạng Bạc, và mở thêm 4 cảng cho ngoại thương của Nhật. 1896, Nhật được quyền lãnh tài phán ở Trung Quốc (bạn đọc lưu ý: Sở dĩ tôi đề cập đến vấn đề này để nhắc chúng ta rằng những hiệp định và biên giới giữa VC với Bắc Kinh không có giá trị pháp lý).

      21 tháng 7 . Hiệp ước thương mại với Nhật, được coi là một phần của giải pháp hòa bình, trao cho Nhật qui chế tối huệ quốc và bảo đảm các nước ký hiệp định có quyền vận hành các cơ sở công nghiệp ở các cảng được qui định trong hiệp ước.

      14/11/1897. Ðức chiếm vịnh Giao Châu với Thanh Ðảo sau vụ sát hại hai nhà truyền giáo ở Sơn Ðông. Từ lâu người Ðức coi việc này là chuỗi logic của sự can thiệp ba bên (1895). Việc này thúc đẩy “hàng loạt nhượng bộ” trong năm sau, trong đó hầu hết các nước phương Tây đều tham gia.

      Tháng 2/1898. Anh đạt được hiệp định mở cửa đường thủy nội địa đối với Tầu nước ngoài, không bán đồng bằng sông Dương Tử cho nước khác, và sử dụng tổng thanh tra người Anh đối với hải quan khi thương mại Anh còn có vai trò chủ đạo trong các lãnh vực này.

      6 tháng 3. Ðức đạt được hiệp ước thuê vịnh Giao Châu trong 99 năm, với các quyền xây dựng đường sắt và khai thác các mỏ ở Sơn Ðông (đường sắt Thanh Ðảo - Tế Nam khánh thành năm 1904). Khoản vay thứ hai từ Anh và Ðức gồm 16 triệu bảng trong 40 năm với lãi suất 4,5%.

      27 tháng 3, 7 tháng 5. Nga buộc Trung Quốc cho thuê phía Nam bán đảo Liêu Ðông trong 25 năm, kể cả Ðại Liên và Lữ Thuận, được quyền xây dựng đường sắt từ Cáp Nhĩ Tân ở phía Bắc đến các cảng mới thuê.

      10 tháng 4. Pháp ký hợp đồng thuê vùng Quảng Châu Loan và miền phụ cận trong vòng 99 năm, được quyền mở rộng đường sắt đến Vân Nam (hoàn thành năm 1910) và cam kết không bán cho nước khác các phần dọc biên giới Việt Nam.

      26 tháng 4. Nhật nhận được cam kết của Trung Quốc không bán phần đất ở Phúc Kiến.

      9 tháng 6. Anh ký hợp đồng thuê Cửu Long đối diện Hồng Kông trong 99 năm, và (1/7) thuê Uy Hải Vệ khi Nga thuê Lữ Thuận.

      Hiệp ước Ái Huy, do Di Sơn (c.1878) và Nicholas Muraviev (k.1809 – 1891) ký kết, nhượng tả ngạn sông Amur cho Nga.

      1859. Nhà Thanh từ chối yêu cầu của Anh về việc cho phép các nhà ngoại giao nước ngoài vào Bắc Kinh. Anh tấn công chiến lũy Ðại Cổ (25/6) nhưng bị đẩy lùi.

      12/10/1860. Bắc Kinh bị 17.000 quân Anh và Pháp chiếm đóng. Cung điện Mùa Hè (Viên Minh viên) bị đốt cháy thành bình địa (18/10) để trừng phạt triều đình bắt giữ phái đoàn Anh. Hoàng đế rời khỏi kinh đô chạy lên phía Bắc, em của hoàng đế “đàm phán” Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh, 25/10 với Pháp), tăng bồi thường chiến phí, Pháp giành quyền sở hữu đất đai cho các đoàn truyền đạo Thiên Chúa. Sứ thần Nga Muraviev buộc nhà Thanh nhượng khu vực từ miền Ðông Ussuri (Ô Tê Lý Giang) cho tới bờ biển (14/11). Vào thời điểm này, Anh trở thành đồng minh mạnh nhất của triều đình nhà Thanh chống lại các cuộc khởi nghĩa địa phương.

      1855-1873. Sau nhiều năm xung đột với người Hán địa phương và bị triều đình đánh thuế quá nặng, người Hồi Giáo (Panthays) ở Vân Nam nổi dậy, thành lập nhà nước độc lập, “Vương quốc Nam Thái Bình” ở Dali, thuộc kinh đô cố Nam Chiếu. Ngoài ra còn có cuộc nổi dậy của người Hồi Giáo ở Tây Bắc (Giang Tây và Cam Túc, 1862-), sau đó bị Tả Tôn Ðường dập tắt.

      1855-1881. Bộ tộc H’mong ở Quí Châu khởi nghĩa.

      8/10/1856. Sau nhiều năm Anh, Pháp, và Mỹ nỗ lực nhằm giành các quyền và ưu tiên mới thông qua sự chỉnh lý hiệp ước. Sự kiện Tầu Arrow ở Quảng Châu tạo cớ cho Anh ép buộc người Trung Hoa bằng quân sự. Tuyên bố tầu Arrow đã đăng ký ở Hồng Kông và bị quan chức nhà Thanh khám xét bất hợp pháp, Anh chuyển quân và chiếm Quảng Châu (12/1857). Sau đó các tầu Anh bắt đầu hướng ra phía Bắc để buộc triều đình đầu hàng.

      Ðến thời cận đại (1789-1914) và đương đại 1945 với Anh, Pháp, Nga và Nhật ta sẽ thấy sự khiếp nhược bất lực của các chính quyền Trung Hoa, từ vua chúa tướng lãnh, kể cả Ðảng Cộng Sản như thế nào! Dưới đây là đối chiếu các chiều kích giữa Trung Quốc và các nước tham chiến một cách sơ lược.

      Ngày 18/1/1915, Nhật giao cho Trung Quốc bản yêu sách 25 điểm Chính Phủ của Viên Thế Khải chấp thuận ngay bốn khoản đầu (815): (1) Nhật kế thừa các quyền của Ðức ở Sơn Ðông; (2) triển hạn thuế đất đai ở Mãn Châu tới 99 năm. Kiều dân Nhật được tự do buôn bán tại đây; (3) Nhật nắm phần nửa lợi nhuận ở công ty Hanyeping là công ty điều hành các nhà máy thép tại Hán Giang, mỏ sắt Daye và than ở Bình Sơn; (4) không miền duyên hải nào của Trung Quốc được cho thuê hoặc nhượng cho nước khác mà không được sự đồng ý của Nhật (...) Mặc dù các anh hùng hảo hán của nước Tầu chịu nhượng bộ gần hết cả tổ quốc nhưng Nhật vẫn không tha.

      Năm 1937-1945 các cuộc tấn công của Nhật vào Trung Quốc và Nhật khởi đầu, chiến tranh thế giới II ở Ðông Á cũng ở đây, 1931 Nhật chiếm Mãn Châu. Ðạo quân Quan Ðông của Nhật trong đêm diễn tập ở Thẩm Ðương (1819) đã làm nổ tung đoạn đường sắt gần đó rồi vu khống cho Trung Quốc. Ðây gọi là biến cố Mãn Châu, lấy cớ đó quân Nhật chiếm kho đạn An Ðông, Giang Khẩu và Trường Xuân,. Thống chế Tưởng Giới Thạch vội cho đoàn quân chạy trốn. Kế đó cả ba tỉnh miền Ðông bị chiếm. Ngày 19 quân Nhật đổ bộ lên Thượng Hải đánh đuổi Bát Lộ Quân 19 của Trung Quốc chạy khỏi Tô Giới quốc tế như chuột. Nhật chiếm Bắc Kinh ngày 28 và Thiên Tân ngày 29 như ăn gỏi. Ðây là cuộc tấn công đại quy mô mở ra ở Bắc Trung Quốc vào đến tận sào huyệt của các danh tướng người Hán. Họ ở cả thủ đô. Không gặp một sự kháng cự nào.

      Người Tầu chẳng có ý chí gì từ tướng lãnh đến quân lính đông như kiến cỏ mà cứ thi nhau bỏ chạy chốn một khi nghĩ đến quân Nhật là hồn vía lên mây, kế đó Nhật chiếm Tô Châu (20/11 và tiến đến vùng sông Dương Tử. Ngày 21 quân Nhật chiếm Quảng Châu, cũng không gặp sự kháng cự nào. Thừa thắng Nhật chiếm luôn Kalgan, ở mặt trận khác 3/9 Nhật chiếm Bảo Ðịnh, ngày 2/4, Thạch Gia Trang. Sau biến cố ngày 18/9/1931 quân Nhật chiếm đóng thành phố Thẩm Dương. Từ đó làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn ở Ðông Bắc Trung Quốc. Ðảng CS Trung Quốc với Bát Lộ quân chẳng làm gì, ngoài việc hô hào dân Tầu chống Nhật, trong khi đó họ lại lẩn chốn. Cuộc Vạn lý Trường Chinh, được coi như là cuộc di tản chiến thuật, và được coi như là sự kiện oai hùng nhất của ÐCSTQ. Hai đạo quân trong cuộc tháo chạy nhục nhã này là quân đoàn 1 do Lâm Bửu (1908-1971) chỉ huy, và quân đoàn III dưới sự chỉ huy của Bành Ðức Hoài (1898-1974). Tổng số quân là 80.000 nhưng có lẽ chưa tới 16% số binh lính trên thoát chết khi đến được Thiểm Tây một năm sau đó (20/10/1935) họ đã chạy trốn quân Nhật với quãng đường dài gần 6.000 dặm qua rất nhiều miền đất hoang vu nguy hiểm ...

      15 + 18/1/1935. Tại hội nghị Tuần Nghĩa (thuộc tỉnh Quý Châu) những đối thủ của Mao trong ban lãnh đạo DCSTQ bị phê phán nặng nề về việc đã phạm sai lầm Tả khuynh khiến cho sức chiến đấu của Hồng Quân suy yếu, dẫn đến tình thế phải rời căn cứ địa và tiến hành Vạn Lý Trường Chinh:

      Nhẽ ra người CS thì phải dấn thân chinh chiến, dấy binh đao. Khôi phục nền độc lập cho Trung Hoa, ấy thế vậy mà hồi Nhật xâm lược Trung Quốc ÐCSTQ đã không dám đánh Nhật. Những người lãnh đạo ÐCSTQ quả thật tài tính sáng suốt, họ biết đánh Nhật, khác gì mang trứng chọi đá, chỉ một trận thì sẽ bị Nhật diệt sạch sành sanh, không còn một mống nắm chắc trăm phần trăm thua, và sẽ mất hết (cả chì lẫn chài) binh quyền. Khẩu hiệu thống nhất chiến tuyến với Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch, mục tiêu của ÐCSTQ là bảo toàn lực lượng để sau đó có cơ hội giết lẫn nhau. Người Tầu đánh nhau với Nhật thì quá dở, nhưng họ giết lẫn nhau thì không ai bằng. Nói cách khác Mao muồn giành lực lượng để sau này đánh nhau với quân Quốc Dân Ðảng. Nhưng muốn sống đến ngày đó chỉ còn cách phải ăn bám và luồn lách vào chính quyền Quốc Dân Ðảng. 25 tháng 12 Tưởng Giới Thạch bị Mao bắt cóc và giam giữ ở Tây An do Trương Học Lương thực hiện theo lệnh của Mao. Và được trả tự do khi ông đồng ý ngừng cuộc nội chiến và hợp tác với ÐCSTQ để chống Nhật. Trên thực tế ÐCSTQ không có chống Nhật, nhưng cần chỗ nương tựa, tuy nhiên, Mao Trạch Ðông và ÐCSTQ vẫn tuyên truyền rằng cuộc Trường Chinh của Hồng Quân là cuộc chiến đấu thần thánh đánh Nhật do Mao chủ tịch lãnh đạo. Chạy dài dài – mà lại là bước ngoặt đưa Trung Quốc đến thắng lợi hoàn toàn, kể cũng lạ? và là sự tuyên truyền quá lố quá trắng trợn. Sự thật Bát Lộ quân chưa đụng Nhật đã hoảng loạn tháo chạy, khẩu hiệu “Bắc Tiến kháng Nhật” là che đậy cho sự thất bại thảm hại của Bát Lộ quân tháng 10-1933 đến tháng 1-1934 ÐCSTQ liên tiếp chịu trận và cuộc tiến công thứ 5 của Quốc Dân Ðảng thì chính quyền trung ương ở nông thôn của ÐCSTQ lần lượt mất hết căn cứ này đến căn cứ khác, Hồng quân của Mao buộc phải tháo chạy trốn. Ðó chính là sự thật lịch sử (cuộc trường chinh), ý đồ là rút quân mở đường máu tháo chạy sang vùng ngoại Mông Cổ để nhờ quân Liên Xô che trở. Như vậy với phía Tây giáp Mông Cổ, nếu không thủ đắc sẽ rút lén tuột về Liên Xô. Ở phía Bắc Hồng Quân chết gần hết trên đường chạy trốn đến khu ngoại Mông. Họ chọn con đường rừng đi qua tỉnh Sơn Tây, và Tuy Viễn. Một mặt có thể nói phét để bịp thiên hạ rằng: Hồng Quân lên phía Bắc để chuẩn bị kháng Nhật (dân Trung Hoa nhiều người ngu tín, tin là Hồng Quân dám cả gan đánh Nhật thật) một mặt vừa an toàn cho các lãnh tụ vì ở đó không có quân Nhật. Bấy giờ quân Nhật chiếm giải Vạn Lý Trường Thành lập thành chiến tuyến. Sau mấy ngàn năm công lao của Tần Thủy Hoàng và tiếp theo nhiều triều đại nước Tầu, không phục vụ cho việc phòng thủ Tổ quốc Trung Hoa, mà lại để cho quân Mông Cổ sử dụng rồi lại phục vụ cho Nhật. Còn Binh Pháp của Tôn Tử tuy rất hay. Nhưng tướng Hán chưa bao giờ mởớ tới. Không biết ông Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Ðông có nghĩ tới chuyện này không? Cũng xin lưu ý Hồng Quân thoát hiểm đến Thiển Bắc thì quân chủ lực giảm xuống từ 800 ngàn xuống còn khoảng 6 ngàn. Nhưng các lãnh tụ thiên tài chạy trốn thì còn sống cả. Thế mà sách ÐCSTQ viết rằng ÐCSTQ và Mao chủ tịch lãnh đạo quân dân Trung Quốc kháng chiến chống Nhật thắng lợi vẻ vang ... không biết thắng ở đâu? mà tìm lục không ra?

      Còn một sự thật nữa, cũng cần phải nhắc ở đây là. Khi Nhật đánh Trung Quốc, Quốc Dân đảng của TT Tưởng Giới Thạch có 1/7 triệu quân, được Mỹ, Anh võ trang, trong khi đó tháng 11/1937 kể cả Tân Tứ Quân mới thành lập. Toàn bộ Hồng Quân chỉ có 70 ngàn lính đã thế còn bị chia năm xẻ bẩy vì mưu đồ chính trị nội bộ đảng... là dương cao ngọn cờ kháng Nhật, nhưng bên trong tranh thủ gom góp quân các địa phương và du kích để đó, mặt khác chuyển đại đa số quân binh khỏi chiến tuyến, chứ thực sự ÐCSTQ không có chiến tích nào đáng kể trong cuộc chiến này. Có chăng là Quốc Dân Ðảng. Năm 1939, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Mỹ, Anh và Nga quân đội Tưởng Giới Thạch và Mao lấy lại được chút ít tinh thần. Chính phủ của Tưởng Giới Thạch nhận được nhiều viện trợ của Mỹ, Anh, Liên Xô cho chính quyền Quốc Dân Ðảng nhiều khoản tiền lớn và vũ khí ... Quân Mao cũng ăn ké vào đó. 8/3/1942, Anh và Mỹ cung cấp cho Quốc Dân đảng 50 triệu bảng Anh và Mỹ viện trợ 500 triệu dollars.

      Nên nhớ rằng: khi Hội Quốc Liên và Hoa Kỳ lên án những hoạt động quân sự của Nhật tại Trung Quốc. Hội nghị các cường quốc ở thủ đô Brussels (15/11) thất bại trong nhiệm vụ trung gian hòa giải.

      20 tháng 11. Chính phủ Tưởng Giới Thạch từ Nam Kinh chuyển đến Trùng Khánh, nhưng hành chánh công quyền đặt ở Hán Khẩu. Tưởng đến đây ngày 8/12.

      12 tháng 12. Biến cố Panay. Máy bay Nhật oanh kích tầu Anh và Mỹ đang thả neo ngoài khơi gần Nam Kinh. Sự việc này tạo căng thẳng giữa các cường quốc. Rốt cuộc, chính phủ Mỹ chấp thuận lời giải thích của Nhật về vụ việc trên. Tuy nhiên, chính quyền Nhật tiếp tục chính sách cao tay ấn đối với tài sản và quyền lợi của các nước khác ở Trung Quốc, bất chấp những chống đối từ phía Mỹ, Anh và Pháp. Tình hình khốc liệt tại Châu Âu cho phép Nhật có thể theo đuổi ý đồ của mình mà không phải lo đối phó với sự can thiệp từ nước khác.

      13 tháng 12. Nam Kinh thất thủ. Nhật oanh kích Trân Châu Cảng khiến Mỹ tham chiến chống Nhật mở ra mặt trận thứ hai ở Thái Bình Dương. Mỹ dành cho Trung Quốc khoản viện trợ 630 triệu USD dưới hình thức quân trang, quân dụng, vũ khí, và khoản tiền vay 500 triệu USD, tất cả đều được trao cho chính phủ Trùng Khánh.

      8/3/1942. Anh và Mỹ khắc phục nạn lạm phát trầm trọng tại Trung Quốc, cung cấp khoản tín dụng 50 triệu bảng Anh và 500 triệu USD.

      Ngày 8/8/1945 chiến tranh đã chấm dứt tại Châu Âu được vài tháng. Hai ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Hồng quân Liên Xô tràn vào Mãn Châu trong tuần lễ tiếp đó. Nhật đầu hàng vô điều kiện – Trung Quốc dâng đất cho Liên Xô.

      Ngày 14-8 Thay mặt quốc dân đảng. Tổng Tử Văn ký hiệp ước hữu nghị và Liên Minh với cs Liên Xô (qua mặt ÐCSTQ). Ðể đắp lại việc CS Liên Xô công nhận chính quyền Quốc Dân Ðảng là chính quyền trung ương của Trung Quốc. Phe Quốc Dân Ðảng đồng ý về quyền độc lập của Ngoại Mông; Và cho CS Liên Xô quyền sở hữu chung tuyến đươc sắt Nam Mãn Châu và Cảng Ðại Liêu. Họ cũng nhất trí dâng cảng Lư Thuận cho Hải quân Liên Xô.

      Chiến tranh đã chấm dứt nhưng Trung Quốc vẫn bị chia rẽ, gầm ghè tranh ăn giữa Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS của Mao Trạch Ðông, thành ra chẳng đảng nào, quân đội nào của nước Tầu dám đụng đến Nhật. Có lẽ họ vẫn còn khiếp sợ quân Nhật chăng? Chẳng đặng đừng quân đội Mỹ lại phải nhẩy vào.

      Tháng 8 và tháng 9, quân Mỹ chiếm Thượng Hải, Thanh Ðảo, Dagu, Quảng Châu và Pusan (Triều Tiên) rồi tiến vào Bắc Kinh và Thiên Tân. Quân Nhật đã hàng nhưng quân Tầu vẫn không dám đến gần quân đội Nhật. Buộc quân Mỹ phải bồng các lực lượng Quốc Dân Ðảng đến các thành phố này để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật.

      Trong khi đó tại Diên An Ðảng CS Trung Quốc tổ chức Ðại Hội lần thứ VII mừng chiến thắng, lúc này họ đã có ½ triệu đảng viên, binh lực gồm 900,000 quân chuẩn bị ăn thua với Quốc Dân Ðảng. Trong khi đó họ hô hào: “Người Trung Quốc không hại người Trung Quốc”. Ðiều này giống hệt giọng điệu Hồ chí Minh năm 1946 cũng hô hào: “đoàn kết, đại đoàn kết.” Trong khi đó thanh toán những người quốc gia. Ðảng CS Trung Quốc cũng vậy. Khi cần lợi dụng Quốc Dân Ðảng, họ kêu gọi: “Sống chung lâu bền” giúp đỡ nhau quản lý, thành thật song phương, vinh nhục có nhau v.v... Nhưng kết quả là gì? Kháng chiến Trung-Nhật vừa kết thúc (nhờ đồng minh). Ðảng CS Trung Quốc gom toàn lực đánh đuổi chính quyền Quốc Dân Ðảng, ở Việt Nam cũng vậy. Sau khi thắng Quốc Dân Ðảng. Họ cứ tuyên truyền ồn ào là Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Mao Chủ Tịch. Ở VN từ 1945-1954 Hồ chí Minh được coi như thần thánh. Ở nước Tầu thập niên 50-60 Mao Trạch Ðông được coi như bộ óc vĩ đại nhất của loài người, thanh niên, đảng viên đã quay cuồng về hình ảnh Mao Trạch Ðông (Ðông phương hồng – có Mao Trạch Ðông) nhiều người Phương Tây nhìn Mao như một vị thiên tài xuất chúng. Vị thần tái sinh cứu rỗi loài người: Dưới ảnh hưởng của các vị hiền thánh danh tiếng như Lenin, Stalin, dân chúng nhiều nước say mê rồ dại giết lẫn nhau. Cơn si cuồng nhiệt kéo dài khá lâu, phải có một độ lùi, thoái hóa đáng kể của thời gian các học giả, sử gia phương Tây mới nhìn rõ chân dung thật của Mao Trạch Ðông. Một trong những tên đao phủ kinh tởm nhất lịch sử nhân loại, cũng như sự ngu dốt tối tăm của Hồ chí Minh.

      Nhưng đa số người Trung Quốc đến nay vẫn tin Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Ðông, đã giải thoát cho tổ quốc Trung Hoa.

      Sự thực ai nghiên cứu lịch sử cũng biết. Chính đế quốc Mỹ và đồng minh đã giải thoát cho nước Tầu. Chứ cả Quốc Dân Ðảng lẫn Đảng CS Trung Quốc đối với người Nhật họ chẳng có Kg nào. Bây giờ thì Trung Quốc đã dư ăn và có nhiều vũ khí tối tân đấy nhưng cũng đừng có sợ, vũ khí nào thì cũng còn phải do con người chứ? Không phải bây giờ người Tầu mới thiếu dũng khí đâu, tổ tiên, ông cha của họ đã thế rồi.

      Cuối thế kỷ thứ 20, đầu thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật, kinh tế phát triển... kèm theo sự huỷ hoại môi trường sống với nhiều hậu quả ngày càng rõ rệt! Loài người là một bộ phận của tự nhiên. Sống trong thiên nhiên, không được phép hủy hoại môi trường sống bằng cách phá hoại và xả các độc tố hoá học vào không gian, gây chiến tranh v.v... Nhưng chất độc tinh thần mới là chủ chốt trong các loại chất độc gây thảm hoạ cho nhân loại. Kẻ thù của nhân loại ngày nay càng lộ nguyên hình. Đó là tư tưởng và hành động bành trướng, với chính sách diệt chủng của giới lãnh đạo Bắc Kinh, như ở Tây Tạng, Cao Miên, Miến Điện Darfur v.v... trong các chế độ độc tài diệt chủng hiện nay trên thế giới đều là sản phẩm của Bắc Kinh. Nạn diệt chủng lan toả khắp thế giới!

      Trong lúc cục diện toàn cầu đang có xu hướng hoà dịu, giảm dần đối đầu. Nhưng ở khu vực Á Châu, Thái Bình Dương, yếu tố bất ổn và khả năng xung đột khu vực ngày càng tăng do tham vọng quá độ của giới lãnh đạo Bắc Kinh.

      Gần đây Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Một bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã âm thầm xây dựng một hải cảng quân sự có thể chứa hàng chục tầu ngầm hạt nhân, gây quan ngại cho các nước trong khu vực, cũng như Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ ông Robert Gate tuyên bố rằng “Hoa Kỳ sẽ không bao giờ bỏ rơi các nước trong vùng Châu Á.” Còn viên tướng chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương là Ðô Ðốc Keating cho biết: “Mỹ không có ý định từ bỏ ưu thế quân sự ở Châu Á, sau khi có tin Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Theo tuần san Quốc Phòng Jan’s ở Anh và các nhà phân tích quân sự, căn cứ hải quân ở thành phố Nam Á có khả năng để cho hai hàng không mẫu hạm cập bến và có chỗ trú ẩn cho 20 chiếc tiềm thủy đỉnh hạt nhân. Ðô đốc Keating hối thúc giới lãnh đạo Bắc Kinh chớ dồn các nguồn lực của mình vào những hoạt động như vậy.”

      Ðô đốc Keating nói thêm rằng các nhà lãnh đạo ở Trung Nam Hải không nên kỳ vọng là Trung Quốc có khả năng trở thành một cường quốc quân sự có khả năng khống chế Châu Á.

      Ông Keating nói: “Có một việc tuyệt đối cần thiết mà chúng tôi phải làm là tiếp tục thực hiện cuộc đối thoại với các nhân vật tương nhiệm của phía Trung Quốc, tiến hành những hoạt động giao lưu, chia sẻ chiến thuật, kỹ thuật và qui trình với mục tiêu chủ yếu là để cho Trung Quốc hiểu được vai trò vượt trội của chúng tôi như một quân lực có khả năng chế ngự ở Thái Bình Dương, để họ hiểu được là chúng tôi kiên quyết duy trì vị thế này, và biết được là chúng tôi hy vọng và tin tưởng là họ không tìm cách đương cự chúng tôi về mặt quân sự.”

      Theo Ðôc Ðốc Keating, Trung Quốc chắc chắn sẽ gặp thất bại nếu họ có mưu toan như thế.

      Trong những năm gần đây, các giới chức Hoa Kỳ nhiều lần nói rằng việc Trung Quốc gia tăng chi tiêu quân sự tự nó không gây ra một mối đe dọa cho Hoa Kỳ, nếu hành động này không đi kèm với những ý đồ thù nghịch. Ðô Ðốc Keating cho biết ông nghĩ rằng sẽ xẩy ra một cuộc đối đầu quân sự giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, ít ra là trong tương lai gần.

      Ðô Ðốc Keating nói: “Chúng tôi đang làm những gì có thể làm ở Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương – và huy động mọi ban ngành và năng lực của mình, để bảo đảm với Trung Quốc là chúng tôi không muốn gây thiệt hại cho họ, và khu vực Thái Bình Dương có đủ chỗ để hoạt động cho tất cả mọi nước.”

      Ðây không phải là những lời nói có tính chất ngoại giao mà là một thông điệp chính thức gửi đến Bắc Kinh.

      Sự thể sẽ rất xấu, trước hết là đối với các quốc gia trong vùng cái họa bành trướng của Trung Quốc, và nếu cuộc đối đầu bằng hạt nhân xẩy ra giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á. Chắc chắn những tổn hại về nhân mạng và vật chất không thể lường được. Trung Quốc đang tác oai, tác quái trong khu vực, họ cao ngạo, hung hăng xem thường thế giới vào lúc này Trung Quốc giương cao ngọn cờ mới 6 sao (lục tộc cộng hòa) ở Biển Ðông, làm cho các nước Ðông Nam Á hoảng sợ, đồng thời thế giới thấy rõ tham vọng bá quyền bành trướng của Trung Quốc, là sự ngông cuồng đầy thách đố thiên hạ, lại còn công bố bản đồ mới của Trung Quốc 2007 với vùng An Vạn Bắc Biển Ðông rộng 5 triệu Km2, thêm một thách đố khác với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Úc. Sách lược bành trướng và hải dương Nam tiến tham vọng nắm đầu thế giới. Bắc Kinh hàm hồ vội vã xây dựng thành phố Tam Sa, tự ý khoanh vạch một vùng rộng 5 triệu Km2 biển Ðông gọi là chủ quyền của Trung Quốc!

      Ý đồ của họ là đặt tuyến giao thông quốc tế Ðông Tây từ eo biển Malacca đến biển đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc! Vậy các tầu dầu hàng hóa từ Tây qua Ðông đến Ðài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản. Kể cả hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ cũng phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc. Họ muốn đóng lại vai trò của Thành Cát Tư Hãn chăng?

      Thật là cuồng vọng, hoang tưởng, nếu họ đạt mục đích này. Ngoại trừ Trung Quốc khuất phục được Nhật, đánh bại được Mỹ.

      Cái tham lam vô hạn độ của Trung Quốc. Không phải chỉ cần hãm lại, mà cần phải đánh quỵ, trước khi nó hành động gây họa cho nhân loại.

      Những chiến lược gia trí tuệ mẫn cảm siêu quần ở hàng đầu, trong sự phát triển lịch sử quân sự Hoa Kỳ ắt phải nhìn xa thấy rộng, trong bối cảnh của thời đại, để đề ra những phương hướng chiến lược hoặc sử dụng lựa chọn phương pháp tối ưu để đối phó với Trung Cộng. Am tường sâu sắc đối phương, tìm hiểu những thực tiễn xã hội và con người Trung Hoa, đến các cấp lãnh đạo của họ là điều không thể thiếu, mà mỗi bước tiến của lịch sử đều có vô vàn mâu thuẫn xã hội, chính trị, đặc biệt độc đáo đòi hỏi con người phải suy nghĩ thăm dò trước khi giải quyết vấn đề.

      Ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gate và Ngài Ðô Ðốc Hải Quân Keating chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương hẳn là phải từ các trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ mà ra. Tất họ phải nghiên cứu binh pháp của Tôn Tử: “Biết địch biết mình giành thắng lợi không gặp hiểm nguy. Biết thiên thời địa lợi nữa, giành thắng lợi mới thật chắc chắn!”

      Huấn lệnh của Tư Lệnh hải quân lục chiến Hoa Kỳ năm 1989 viết: “Tư tưởng tác chiến của Tôn Tử vẫn thích dụng cho ngày hôm nay cũng như 2500 năm trước.” Tương kế tựu kế Mỹ nên dùng Binh Pháp Tôn Tử. Nhà chiến lược nổi tiếng người Anh ông Kaso trong cuốn sách bàn về chiến lược viết: “Chiến lược hoàn mỹ nhất, cũng chính là chiến lược không cần phải qua chiến đấu gay go mà vẫn đạt tới mục đích. Ở Pháp: năm 1772, linh mục P. Amiot đã dịch và xuất bản ở Paris tùng thư: Binh Pháp Tôn Tử. Ðây là bản Binh Pháp Tôn Tử được dịch sớm nhất ở Phương Tây: Lúc đó một tạp chí lý luận quân sự Pháp viết: “Nếu các tướng lãnh chỉ huy quân đội Pháp đều được đọc Binh Pháp Tôn Tử này thì thật là phúc lớn cho nước Pháp”.

      Quả thực Binh Pháp Tôn Tử lần đầu tiên đưa ra một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về chiến tranh và quân sự, trình bày một loạt các nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh, các ý tưởng mà phần lớn trong đó đã trở thành những danh ngôn có sức sống lâu dài.

      Hiện trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ, xếp Binh Pháp Tôn Tử trước cả tác phẩm bàn về chiến tranh của Clausewitz. Binh Pháp Tôn Tử được dịch từ Hán Văn ra Nga năm 1957, ra tiếng Anh 1905, tiếng Pháp từ năm 1772. Ở Ðức 1910 - Ðặc biệt là ở Nhật vào thời Võ Tắc Thiên đời Ðường (684-704, một người Nhật là ông Cát Bi Châu Bi (Kimino Makibi) đã mang binh pháp Tôn Tử về Nhật truyền thụ lại cho giới tướng lãnh Nhật. Từ đó phong trào học tập binh pháp Tôn Tử liên tục diễn ra, giới quân sự cho rằng: “Khổng Phu Tử là Thánh Nho, Tôn Phu Tử là Thánh binh. Những nhà Nho đời sau không thể tìm thấy Ðạo Nho ở đây ngoài Khổng Phu Tử, nhưng binh gia không thể quay lưng lại với Tôn Phu Tử mà tiến theo hướng khác”. Các tướng Nhật thời cận đại đã ứng dụng binh pháp Tôn Tử đánh cho người Khổng Lô Trung Quốc không ngóc đầu dậy được. Ở nước ta Tôn Tử binh pháp đã được truyền bá từ cuối thế kỷ thứ 9, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, đã hiểu sâu binh pháp Tôn Tử và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, tiến hành thắng lợi, các cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của kẻ thù phương Bắc.

      Trong thiên Mưu Công, tác phẩm đã đề xuất nhiều lý lẽ toát lên tinh thần tổng quát là: Phải tìm cách giành thắng lợi tối đa bằng một giá tối thiểu. Danh ngôn: “Người đánh trăm trận thắng cả trăm chưa thể kể là người tài giỏi nhất. Không đánh mà buộc đối phương đầu hàng mới là người giỏi nhất” đã trở thành tiêu chuẩn hướng dẫn hành động của các nhà chiến lược quân sự xưa nay.

      Nếu bài học có thể rút ra từ chiến tranh Việt Nam, I-rắc, với Trung Quốc, Hoa Kỳ chỉ cần yểm trợ hậu cần cho những quốc gia láng giềng của Trung Quốc có khả năng chiến đấu như Tây Tạng. Nơi đó chính là mồ chôn vĩnh viễn chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc. (Xin xem bài: “Trung Quốc là kẻ thù của thế giới” để bạn có thể quán triệt được mọi vấn đề sinh tử của Trung Quốc ở Tây Tạng trong các websites chẳng hạn như VietnamExodus, Vietvungvinh, NsVietNam, Doithoai v.v...)

      Trần Nhu
      Ðầu Mùa Hạ, 2008