Friday, July 25, 2008

"Lan Hương" , người nhục mạ gia đình cố Nhạc sĩ Trịnh Hưng là ai ?

TinParis.

Sau khi TinParis.net đăng bức thơ của Bà Trinh De Léotard gởi cho Ông Đỗ Bình "Thơ của con gái Cố Nhạc sĩ Trịnh Hưng" , Ông Đỗ Bình có điện thoại cho chúng tôi ngày 24.06.2008, và nói rằng "các người con" của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng đã hiểu lầm về ông rất nhiều, và tỏ ý nếu đượcTinParis.net cho rút bài nầy ra khỏi báo điện tử. Chúng tôi trả lời cho ông Đỗ Bình là chúng tôi rất vui lòng và sẵn sàng nếu có mail của tác giả bức thơ, và ông Đỗ Bình nói là sẽ ĐT cho cô con gái của Nhạc sĩ Trịnh Hưng. Nhưng ngày hôm qua (25.06.08), thật bất ngờ, chúng tôi lại nhận được những tài liệu dưới đây, và tiếp tục phổ biến trên TinParis.net để quý đọc giả hiểu rõ vấn đề, làm sáng tỏ "sự thật" , và phục hồi "danh dự" cho gia đình cố nhạc sĩ "Trịnh Hưng" cũng như cho chính bản thân ông.

Chúng tôi tự hỏi "Ai là tác giả dưới bút hiệu LAN HƯƠNG của bài viết Nhạc sĩ Trịnh Hưng Ra đi vĩnh viễn trong cô độc ngày 10.05.2008" ở phần phụ đính dưới đây ? Phải chăng tác giả rất thân với Bs Trần thế Tùng (tức Trần Đại Sỹ, Yên Tử Cư Sĩ ) và cô Thy Như, và là kẻ thù của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng, ngoài mặt thì có vẻ như ca ngợi ông nhưng bên trong là "bêu xấu" cả dòng họ ông và gây đau khổ cho cả nhà ông ?

Trong bài nầy có nhiều điều "bịa đặt", "vu khống" và "bôi lọ" những người con của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng mà qua nhân chứng (Cô Hoàng thị Hương) , cũng như các tài liệu đính kèm cho thấy là Bà Trinh De Léotard và chồng đã "đứng đơn" xin cấp dưỡng các quỹ xã hội" , cũng như đưa cố nhạc sĩ Trịnh Hưng đến những Bác sĩ chuyên khoa để trị bệnh.

TinParis hy vọng rằng những ai đã "vu khống" và "mạ lỵ" gia đình cố Ns Trịnh Hưng hãy tự "sám hối ăn năn" vì đã nghe lời sằng bậy đầy ác ý của những kẻ cố tình trả thù cố Ns Trịnh Hưng lúc ông vừa nhắm mắt qua đời.

* Con gái của cố Nhạc sĩ Trịnh Hưng gởi thơ cho Đổ Bình (Thơ thứ 2)

Thưa chú Đỗ Bình.

Vì không hài lòng về thư cháu trả lời cho chú, được đăng trên web, nên trưa nay vào lúc 12giờ33 phút ngày 24-6-2008, chú có gọi điện thoại cho cháu để phân trần thêm một lần nữa.

Trước hết, chú Đỗ Bình không trả lời về ba điều mà cháu đã nêu ra: một là chú tranh dành đọc điếu văn trước mọi người trong lễ An Táng, hai là chú kỳ thị tôn giáo, ba là chú bươi móc đời tư của người quá vãng là cố nhạc sĩ Trịnh Hưng ra để nhục mạ.

Ngược lại, chú Đỗ Bình chỉ nói cho cháu biết, cha cháu, cố nhạc sĩ Trịnh Hưng, lúc còn sống, qua thư từ, ông rất thích kể lể về ông và con cái của ông cho chú Đỗ Bình và những bạn bè của ông, những bức thư này chú Đỗ Bình hiện còn giữ. Nếu cháu không rút lại bức thư của cháu vừa rồi đó, thì chú Đỗ Bình sẽ công bố những bức thư ấy, đem đời tư của cha chúng cháu và cả đời tư của con cái ông, trong đó có cả đời tư của cháu ra «bôi nhọ».

Cố Ns Trịnh Hưng và Cô con gái thứ hai Trinh De Léotard
Giáng sinh 2007

Thưa chú Đỗ Bình, cháu không ngờ chú vẫn giữ hai thói quen bất hủ của chú, là:

- Hăm dọa dùng báo chí để nhục mạ đối phương (như chú đã hăm dọa Mục sư chủ lễ vừa rồi)
- Bươi móc đời tư của đối phương (như đối với cha cháu qua bài «Về lối chân mây» của chú vừa rồi).

Lần nầy, thì rõ ràng chú Đỗ Bình đã ứng xử không logic về Lý Luận, không, thành thật về Tình Thương, mà có thể nói là với ác ý. Cho nên cháu xin phép không thể nhượng bộ theo lời hăm dọa của chú Đỗ Bình được.

Vậy cháu kính xin chú Đỗ Bình cứ tùy ý phổ biến những bức thư của ba cháu, cố nhạc sĩ Triịh Hưng, đã tâm tình với chú. Chú Đỗ Bình sẽ thấy được dư luận của quý độc giả xa gần bốn phuơng đối với chú, nhà thơ Đỗ Bình, trong vụ nầy ra thế nào.

Trân trọng kính chào chú Đỗ Bình.

Trinh de Léotard.



* Bài viết của một nhân chứng

* Từ nội dung của một bài viết - Hoàng Thị Hương -

Cô Hoàng Thị Hương là người đến chăm sóc hàng ngày cho cố Nhạc sĩ Trịnh Hương (nấu ăn, giặt ủi, v;v...) để kiếm tiền đi học.

Cô Hoàng thị Hương
Giờ đây khi nhắc tới nhạc sĩ Trịnh Hưng, những người thân và bạn bè của ông vẫn chưa nguôi một nỗi buồn thương tiếc

Một nhạc sĩ tài năng, một nhà văn-nhà thơ chân thực, ông ra đi nhưng vẫn để lại trong lòng những người thương yêu ông niềm kính yêu vô hạn.

Có lẽ cuộc đời và sự nghiệp của ông bất kỳ người nào cũng có thể dễ dàng tìm được trong những bài viềt về ông và gần đây nhất là bài «Ra đi vĩnh viễn trong cô độc» (http://tvvn.org/f104/nha-c-sae-tra-nh-hae-ng-qua-ae-i-12284/) ( xin xem phụ đính cuối bài viết)

Và cũng chính vì bài viết này, mà hôm nay, tôi-một nhân vật ít được quan tâm nhưng lại hiểu rất rõ về CUỘC SỐNG của ông, đặc biệt là những ngày cuối đời-tự cho mình một trách nhiệm đưa thêm những thông tin để những người còn quan tâm tới ông có được cái nhìn chính xác

Theo thông tin trong bài viết thì khi qua Pháp, ông đã ở với người con gái, đó là cô con gái lớn của ông, và quả thực cô con gái «hiếu thảo» này đã tiếp đón ông thật «chu đáo» khi đưa ông vào foyer và không quan tâm tới những điều sau đó.

Nhắc tới cô con gái lớn, tôi cũng nhân tiện nói về cô con gái thứ hai của nhạc sĩ, cô này lấy chồng và hiện đang ở Paris, từ khi nhạc sĩ chuyển lên sinh sống ở Paris, cô lui tới thường xuyên để chăm lo, săn sóc. Chính cô cùng người chồng đã lo thủ tục, giấy tờ để nhạc sĩ được hưởng những trợ cấp của người già.

Điều này làm tôi thắc mắc bởi khi đọc nội dung của bài viết trên có nhắc tới một người mang tên THY NHƯ - người mà theo bài viết là đã giúp và lo lắng cho nhạc sĩ được hưởng những trợ cấp đó. Liệu ở đây có sự NHẦM LẪN nào không ?? NHẦM khi nghĩ là sẽ không có ai biết được sự thật của những lời bịa đặt trong bài viết, LẪN khi «kể công» nhưng lại đặt nhầm tên mình thay vì tên người đã làm điều đó.

Và đây là bài viết về nhạc sĩ Trịnh Hưng hay là bài viết về lòng tốt bụng của THY NHƯ ???

Tôi cũng phải đọc lại thật nhiều lần bài viết vì nhân vật tôi rất quan tâm ở đây là vị bác sĩ điều trị người Việt Nam, bài viết ở đây tạo nên một sự hoàn hảo để vị bác sĩ này có thể né tránh được trách nhiệm và cả khả năng chuyên môn yếu kếm của bản thân mình.

Tôi nói là HOÀN HẢO vì ngay từ đầu bài viết đã nói tới sự «bất hiếu, vô trách nhiệm» của những đứa con với nhạc sĩ, để rồi khi vị bác sĩ này phát hiện được bệnh tình của nhạc sĩ cũng chẳng thể thông báo với ai mà chỉ ÂM THẦM lo lắng.

Xin nhắc lại để mọi người không quên khi tôi khẳng định mình là người có thể hiểu rõ được những ngày cuối đời cuả nhạc sĩ, và vì điều này mà tôi không thể im lặng khi bài viết đã hoàn toàn bịa đặt nhằm giúp vị bác sĩ này thoát tội.

Trên thực tế, vị bác sĩ này đã không hoàn thành trách nhiệm cơ bản của một bác sĩ điều trị khi hàng tháng chỉ cấp đơn thuốc với vài thứ chung chung như đau đầu, nhỏ mắt … những loại thuốc đó không hề giúp được cho nhạc sĩ điều trị 3 thứ bệnh được coi là nan y (theo như bài viết đã nói), điều này khiến cô con gái thứ hai của ông đã phải đưa ông đi khám thêm những vị bác sĩ khác có chuyên môn để có thuốc điều trị.

Vị bác sĩ này cũng là người chần chừ lúc gia đình yêu cầu đưa nhạc sĩ vô viện khi thể lực nhạc sĩ rất yếu, ông này viện lý do điều đó là bình thường với một người già.

Vậy, tôi tự hỏi, một người bác sĩ nếu như đã hiểu rõ bệnh tình của người bệnh mà lại chỉ nói con cái nên ở quanh chăm sóc chứ không đưa bệnh nhân mình vô viện để được nhận sự chạy chữa có chuyên môn, điều này có hợp logic không ?? Và tại sao vị bác sĩ này lại né tránh việc đưa bệnh nhân của mình vô viện ?? Phải chăng ông ta không hề biết được bệnh tình của người mà hàng tháng ông ta phải ĐIỀU TRỊ ??

Mọi thứ bịa đặt đều sẽ có ngày được phanh phui bởi «cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra», nhưng điều tồi tệ nhất của bài viết là đã đề cao hai nhân vật mà theo tôi chính họ là người có ảnh hưởng gián tiếp tới tinh thần và bệnh tình của nhạc sĩ, họ đã lấy người vừa mới khuất để tự đề cao bản thân mình, có phải họ nghĩ rằng không ai có thể biết được những điều họ làm ??

Những điều tôi viết trên dây chỉ đơn giản để đính chính những điều sai lệch của bài viết và cũng mong rằng hai nhân vật được nhắc tới trong bài viết hổ thẹn với người đã khuất mà nhìn lại bản thân mình.

* Những tài liệu chứng minh là Bà Trinh De Léotard và chồng Đã Săn sóc và lo lắng cho cố nhạc sĩ Trịnh Hưng rất nhiều khác với những lời "mạ lỵ", "vu khống", và "bịa đặt" của LAN HƯƠNG !

Tài liệu 1 - Thơ trả lời của Quỹ An Sinh Vùng Val de Marne cho Ông Di Léotard Bruno chồng của cô Trinh, con gái thứ hai của cố NsTrịnh Hưng, về việc xin tiền trợ cấp đặc biệt cho người già và không tự lo được.


Tài liệu 2 - Đơn xin tăng tiền trợ cấp người gìa và không tự lo được cho cố Ns Trịnh Hưng của Bà Trinh Léotard người con gái thứ hai của cố Ns Trịnh Hưng.


Tài liệu 3- Thư trả lời của Vùng Rhône cho Bà Trinh De Létard về việc xin gia tăng trợ cấp tiền già cho Cố Ns Trịnh Hưng vì không tự lo được



Tài liệu 4. Toa Bác sĩ Merlin cho phép mướn người để cho cố Ns Trịnh Hưng uống thuốc và "tiêm Insuline " (bệnh tiểu đường)



* Bài Viết mạ lỵ và Vu Khống những người con của cố Nhạc Sĩ TRỊNH HƯNG

Nhạc sĩ TRỊNH HƯNG,
Ra đi vĩnh viễn trong cô độc ngày 10-5-2008.

Nhạc sĩ Trịnh Hưng với những tác phẩm tình ca :

* Lối về xóm nhỏ,
* Duyên soi trăng lành,
* Tình thắm duyên quê,
* Tôi yêu,
* Trăng soi duyên lành,
* Miền Nam mưa nắng hai mùa,
* Lúa mùa duyên thắm .

Ông đã ra đi vĩnh viễn, trong cô độc, tại bệnh viện Henri Mondor, Créteil, Pháp lúc 8 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 5 năm 2008.

Nhạc sĩ Trịnh Hưng quán tại Bắc Ninh, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1924, trong một gia đình Nho học. Thân phụ là tri huyện Bình lục, Hà Nam. Vào những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, với tuổi 21, đầy nhiệt huyết, ông gia nhập trung đoàn Thủ đô. Vì có năng khiếu âm nhạc, viết văn, ông được cử làm trưởng ban văn nghệ trung đoàn. Khi quân đội Việt Minh thành lập sư đoàn, ông được cử làm trưởng ban Văn nghệ sư đoàn 320.

Năm 1951, ông trốn vào thành, đổi tên là Nguyễn Văn Hưng. Ông mang tên này cho đến ngày qua đời.

Năm 1954, di cư vào Nam, sống bằng nghề dậy nhạc. Tháng tư năm 1975, cũng như các văn nghệ sỹ khác, ông bị tù 8 năm.

Sau khi ra tù, ông vượt biên, và sống tại Pháp. Ông tiếp tục sáng tác khoảng hơn 50 bản nhạc.

Ông trải qua nhiều đời vợ, và có nhiều con. Tại Pháp ông có ba người con "nổi tiếng" vì gây cho ông nhiều điều đau đớn về tinh thần.

Lúc đầu ông ở với người con gái có chồng Tây. Cô gái hiếu thảo này đuổi ông ra khỏi nhà. Bơ vơ, tiền không, tiếng Pháp không biết, ông đến xin ở nhờ nhà Giáo sư Phạm Hữu tại quận 13 Paris.

Ông gặp may, giữa lúc khốn cùng, ông gặp được một người năng động sẵn sàng bỏ công ra giúp đỡ ông. Người đó là cô Thy Như, nguyên tiếp viên hàng không VNCH. Cô làm công việc chính là giúp đỡ những người không may mắn mà phải vào bệnh viện điều trị. Cô xin cho ông được: tiền trợ cấp già, được vào ở trong nhà dưỡng lão ở Créteil. Cô lại nhờ một bác sĩ xin cho ông được cấp bảo hiểm xã hội trị bệnh miễn phí.

Dần dần giới yêu nhạc Paris biết ông có nơi ở, thường lui tới thăm hỏi ông. Một vài người muốn học nhạc, ông dạy miễn phí, từ đó ông thường sinh hoạt văn hóa với cộng đồng người Việt ở Patis.

Tuy nhiên vào năm 2001, bác sĩ điều trị của ông (là người Việt Nam), khám phá ra ông bị ba thứ bệnh bất trị cực kỳ tàn bạo, nhưng ông đã 77. Một bệnh phải uống thuốc đều đều, không đáng quan ngại. Còn hai bệnh thì với tuổi 77, các bác sĩ chuyên khoa đều bó tay. Một trong hai bệnh đó nếu điều trị bằng thuốc thì ông không chịu nổi. Một bệnh nữa điều trị bằng giải phẫu, thì ông không bác sĩ nào dám can thiệp. Nếu trị bằng hóa trị hay xạ trị thì e ông qua đời rất mau. Tuy nhiên các bác sĩ đều không cho ông biết, vì ông biết mình bị hai con ác quỷ đó hành hạ, thì thần trí ông sẽ hỗn loạn và qua đời sớm.

Tai vạ lại xẩy đến với ông: Năm 2005 ông bị ngã, gẫy chân phải đưa vào một bệnh viện chuyên về tay chân ở thành phố Pontault Conbault, cách Paris 18 cây số. Sau hai lần giải phẫu, sức khỏe của ông suy xụp rất mau, bác sĩ gia đình xin cơ quan bảo hiểm xã hội cho ông được đi dưỡng bệnh tại một vùng khí hậu tốt tại miền trung nước Pháp. Sau bốn tháng dưỡng bệnh, ông trở về, nhưng đi đứng cực kỳ khó khăn.

Cô Thy Như với bác sĩ điều trị lại xin cho ông được tòa thị chính (Mairie) và cơ quan bảo hiểm xã hội chi phí cho ông:

- Mỗi tháng được một người tới giặt quần áo, dọn nhà, nấu ăn cho ông 50 giờ (2 giờ một ngày, trừ cuối tuần) .
- Hai ngày y tá tới tắm cho ông một lần .
- Tuần lễ hai lần chuyên viên tẩm quất (kinésisthérapeutre) tới nhà săn sóc ông .

Thấy tình trạng sức khỏe của ông ngày càng suy xụp, cô Thy Như có ý đưa ông vào một trung tâm giữ người tàn tật. Vì nếu ông ở một mình lỡ ra bệnh biến chứng thì sao ? Trung tâm này nằm giữa quận 13. Mọi sự đang chuẩn bị thì một biến cố xẩy ra. Tháng 3 năm 2007 vì tuổi cao quên uống thuốc, ông bị ngã ngay trong phòng ngủ. Được chở vào bệnh viện Henri Mondor, do không bị thương tích gì, ở đây chuyển ông đến bệnh viện Les Vallées ở Brunoy, cách Paris 30 cây số.

Xuất viện với sức lực quá yếu, quá mệt mỏi. Thân hữu của ông khuyên ông nên về sống với con cái, phòng khi ông không làm chủ được mình. Nhưng con ông không nhận bố vào nhà mình.

Vào trung tuần tháng tư 2008, ông đứng mở tủ lạnh, do sức yếu, ông ngã ngồi trong phòng, mông đau. Được đưa đi chụp quang tuyến X, không bị tổn thương gì. Bác sĩ điều trị cho ông uống thuốc trấn thống rất nhẹ. Mông hết đau, nhưng ông cảm thấy đau hông phải. Đến trình độ này bác sĩ điều trị vẫn giữ kín bệnh hiểm nghèo của ông, không cho ai biết. Mà muốn cho biết cũng không biết ai mà nói. Tuy nhiên khi cơn đau của ông quá ác liệt trong đêm, bác sĩ điều trị cũng đến chích cho ông mũi thuốc morphine. Hai lần.

Bác sĩ điều trị có yêu cầu con gái ông nên ở cạnh ông. Nhưng bà này bận chồng, con không giúp gì được. Bà yêu cầu bác sĩ viết thư gửi ông vào nhà thương. Bác sĩ điều trị gảng giải: cứ gọi xe hồng thập tự đưa vào, khi một người bị bệnh nặng, bất cứ ai cũng có thể đưa vào bệnh viện, không cần bác sĩ điều trị can thiệp. Trong quá khứ các con ông đã đưa ông vào bệnh viện 7 lần. Có bao giờ bác sĩ điều trị phải can thiệp đâu ?

Thế rồi con trai ông gọi xe hồng thập tự đưa ông vào bệnh viện. Bệnh viện cũng không làm được gì hơn là vào nước biển. Khi ông nằm nhà thương, bà vợ cũ của ông, một vài người con ông cũng vào nhà thương thăm ông. Người theo dõi tình trạng của ông vẫn là cô Thy Như. Cô loan báo cho giới thân hữu của ông từng diễn biến bệnh của ông. Cuối cùng ông qua đời vì hai căn bệnh hiểm nghèo đã quá lâu, khiến ông đi như ngọn đèn hết dầu.

LAN HƯƠNG


TinParis.
Từ sau ngày nhạc sĩ Trịnh Hưng qua đời (10.5.2008), trên diễn đàn Internet, có những mail của cô (hay Ông) Lan Hưong, và bài viết của ông Đỗ Bình (Lối về Chân Mây) đã cố tình hay vô ý "bôi lọ" và "vu khống" những người con của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng. Trong mail của Lan Hương trên các diễn đàn, hình như tác giả có quen biết nhiều với Bác sĩ (giả, hay thiệt hay là thần đồng ?? * xin xem phần chú thích cuối bài) người Việt "trị bệnh" của nhạc sĩ Trịnh Hưng nên mới biết rõ bệnh tình của ông nầy. Theo lời cô con gái của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng thì nhờ một bác sĩ người Pháp làm "ordonnance" đưa cha mình vào bệnh viện nên mới biết cố Ns Trịnh Hưng bị cancer (ung thư) nhưng đã để trễ gần hơn 1 tháng nên không còn cứu trị kịp nữa. Tưởng thế là yên, không dè cô (hay ông Lan Hương) lại nỡ lòng kết tội các người con của cố Ns Trịnh Hưng. Sau đó là bài viết của ông Đỗ Bình khiến cho những người con trai (Đạt) và cô con gái là Trinh có những bức thơ trả lời như duới đây :

* Con gái của cố Nhạc sĩ Trịnh Hưng gởi thơ cho Đỗ Bình

Thưa chú Đỗ Bình.

Chúng cháu có đọc thư chú gởi cho chúng cháu, được đăng trên web “Về bài viết Lối về chân mây”. Thật đáng buồn, vì chú Đỗ Bình không can đảm nhận thấy khuyết điểm của mình. Là con gái thứ hai của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng, là người từng đương đầu với những khó khăn của cha và giúp cha đối phó những nan đề, khi cha còn sống cũng không để ai ức hiếp ông. Cũng vậy, nay chúng cháu rất đau lòng xót xa cho cha vừa mới qua đời, mồ mả chưa yên, mà đã bị chú dựng đứng lên để nhục mạ.

Cho nên tôi có bổn phận phải lên tiếng.

Nhín tổng quát, chú có những lỗi gì ?

1. - Lỗi thứ nhất của chú là tranh đấu cho bài viết của mình được mình đọc trước mọi người trong một lễ An Táng. Thật là ấu trĩ không thể tưởng tượng được. Tệ hơn nữa, không được đọc trước thiên hạ, thì chú nổi giận nói lên những lời thô tục, khó nghe, không xứng với con nguời có học thức và có nề nếp.

2. - Lỗi thứ hai của chú kỳ thị tôn giáo. Sau ngày tang lễ, trong cuộc điện đàm với tôi, chú đã trách ông Mục Sư Chủ Lễ đã mời ông Tiến sĩ Lê Mộng Nguyên lên đọc điếu văn trước chú. Tôi đã giải thích với chú Đỗ Bình rằng đó là do tôi nhờ Mục Sư lên giới thiệu, chứ ông Mục Sư không hề biết Lê Mộng Nguyên là ai. Nhưng chú Đỗ Bình vẫn lớn tiếng hằn học nói rằng “Cha của cô không có đạo nào hết, cha cô chỉ có Đạo ông bà mà thôi” rồi nặng lời hơn nữa, chú chửi thề ; “Đ-M. tên Mục Sư ….. này, vừa hành nghề Mục Sư vừa hành nghề giới thiệu chương trình, từ bây giờ cho đến lúc ông Mục Sư này chết, tên tuổi ông ta sẽ được đem lên báo để rủa sả.” Chú đâu có biết cha chúng tôi Tin Chúa khi gia đình còn ở Viêt Nam, và cha con chúng cháu hiện đang sinh hoạt với Hội Thánh Tin Lành vùng Paris. Nếu chú là nguời có ăn học, thì chú phải biết đạo Tin Lành là gì ? mà sao chú cả gan dám xúc phạm đến với những lời lẽ tục tằng hạ cấp mà cháu không dám lặp lại ở đây. Cháu xấu hổ cho chú và tội nghiệp chú lằm, chú ơi !!!

3. - Lỗi thứ ba của chú là bêu xấu dòng dõi người quá cố. Để giới thiệu tiểu sử của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng, chú Đỗ Bình đã viết “Trịnh Hưng sanh năm 1930, nguyên quán Bắc Ninh, bố là quan huyện, mẹ là thứ thiếp. Ông mồ côi mẹ từ lúc mới ba tuổi, nên sống với một người bà con ở Hà Nội, thuở thiếu thời cuộc sống của ông rất chật vật ….”

Thì ra, ông nội chúng cháu là một quan huyện, một quan huyện thuộc hạng người có địa vị quyền thế cao sang trong xã hội ngày xưa, vì không đủ sức nuôi hay vì thiếu tinh thần trách nhiệm … nên ông huyện ấy vứt đứa con trai mình cho một người bà con ở Hà Nội nuôi, thành ra từ thửa thiếu thời cha chúng cháu (cố nhạc sĩ Trịnh Hưng) cuộc sống rất chật vật … Chú Đỗ Bình biết không ? Chú đã bêu xấu cả dòng họ chúng cháu, nói động đến ông nội chúng cháu, «tổ cha» chúng cháu ngay trong lễ An Táng cố nhạc sĩ Trịnh Hưng, cha chúng cháu. Chú lại tổ chức bạn bè thật đông hôm lễ An Táng ấy để đến nghe chú chia buồn với chúng cháu bằng những chi tiết bươi móc trong đời sống của cha chúng cháu, mà chính chúng cháu cũng không một ai biết đến.

«Vì cực tấm lòng nên phải nói ra», chúng cháu phải thưa lại cho chú thấy rõ sự thật, chứ chúng cháu vẫn thông cảm rằng chẳng qua chú Đỗ Bình vì thói quen, nghĩ sao nói vậy, chớ không có ác ý. Và xin chú cũng thông cảm cho chúng cháu, để vui lòng chia xẻ những nỗi đau đớn của chúng cháu trong hoàn cảnh trớ trêu tang tóc nầy.

Cháu xin chúc chú Đỗ Bình và gia đình nhiều sức khỏe, bình an,và thành công trên sự nghiệp.

Trinh de Léotard

Chú thích -
a.
Bác sĩ TTT trị bệnh cho cố Ns Trịnh Hưng,
ngày 1.2.1975 (nhập ngũ ngày 1.1.1958), Ký ngày 27.11.1974 KBC 3529, Đại Tá Nguyễn văn Thái Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh chánh Trị.

Tỵ Nạn tại Hong Kong được Pháp nhận cho sang Laisser Passer N° 912/75 ký ngày 21.6.1975

b. Đậu Tú Tài 2 Ban Khoa Học Toán (Ban B) ngày 2.7.1959 Saigon.

c. Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm năm 1963 Ban Việt Hán Khoá thứ Nhất ngày 18.3.1963 - Bùi Xuân Bào Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm ký ngày 24.4.1963.

d. Theo lời khai của đương sự tại quận cảnh sát Pháp ( Paris 17è, ngày 4.6.1977) là mất bằng cấp bác sĩ : Bằng cấp trình bày Luận án Y Khoa Bác sĩ Quốc Gia ngày 16.11.1964 do Gs Phạm Biểu tâm ký ..

e. Chưa kể trong Lý lịch bằng tiếng Pháp của đương sự : nguyên văn như sau :
- Doctorat d'Etat en Droit Publique , 1964, Faculté de Droit Saigon avec la mention : Très Honorable...Tiến sĩ Luật về Công Pháp , 1964, Đại học Luật Tối Ưu

f. TTT Viết văn với bút hiệu là Yên Tử Cư Sĩ., có tên trong quyển sách " Danh sách những anh tài của Việt Tộc " do Phan Tần Hùng thành lập ngày 1.1.1990 với tên khác của TTT là Trần Đại Sỹ .

Như vậy Ông TTT là một thiên tài : ?? : tốt nghiệp sư phạm năm 1963, đậu Bác sĩ năm 1964, Tiến sĩ Luật năm 1964


* Lan Hương, người viết bài nhục mạ gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Hưng là ai ?
* Các con và rể của cố nhạc sĩ Trinh Hưng mời ông Trần Đại Sỹ lên tiếng

Cha chúng tôi là cố nhạc sĩ Trịnh Hưng vừa tạ thế được mấy hôm, thì bỗng nhiên báo Tiền Phong số 780 tr 31 (ở bên Mỹ) đăng một bài ký tên Lan Hương vu cáo chúng tôi đã bỏ bê, hất hủi đuổi xua, đối xử tệ mạt cố nhạc sĩ Trịnh Hưng là cha chúng tôi, với những lời buộc tội nặng nề. Chồng của tôi (Trinh) là Bruno de Léotard rất phẫn uất, thấy cần phải viết thơ chất vấn báo Tiền Phong, như sau :

Tôi, Bruno de Léotard, con rể của ông Nguyễn Văn Hưng (nhạc sĩ Trinh Hưng), không thể không lên tiếng về một bài báo bịa đặt nhằm bôi nhọ danh dự gia đình tôi, do một người xưng Lan Hương viết và được đăng trên báo Tiền Phong số 780 tr31 (tài liệu 1 dưới đây). Bài viết này cũng đã đăng trên một trang web và đã được xóa khỏi trang web này, ngay sau khi được những người biết rõ về cố nhạc sĩ Trinh Hưng và gia đình ông cho biết sự thật. Vợ tôi và em trai cô ấy đã bị xúc động rất lớn về mặt tinh thần trước quá nhiều lời giả dối và không đúng sự thật.

“Lan Hương“ đã không đủ can đảm để viết tên thật của mình dưới bài báo này và theo tôi nghĩ không biết có phải đó là Bác sĩ Trần Đại Sỹ, hiện đang làm việc tại Paris chăng ? Có lẽ Bác sĩ Trần Đại Sỹ quá xấu hổ đến nỗi không thể tuyên bố mình là bác sĩ điều trị cho nhạc sĩ Trịnh Hưng.

Nhưng sự thật cần được chia xẻ với tất cả bạn đọc của báo Tiền Phong, để quí vị chính mình nhận xét về con người thật của bác sĩ Trần Đại Sỹ, dưới tên “Lan Hương chăng ?” và của gia đình của cố nhạc sĩ Trịnh Hưng:

* Nhạc sĩ Trịnh Hưng đã không vượt biên khỏi Việt Nam. Mùa hè năm 1990, ông đã được lãnh sự quán Pháp giúp đỡ rời khỏi VN dưới hình thức tỵ nạn chính trị. Lúc bấy giờ, ông đã có một cô con gái tên Trang và một anh con trai là Đạt đang định cư tại Pháp. Mùa hè năm 1991, hai cô con gái cùng vợ cũ của ông tới Pháp tỵ nạn chính trị và định cư ở Lyon.

* Tôi gặp Nguyễn Thị Huyền Trinh ở Sàigon mùa hè năm 1990, chúng tôi đã luôn giữ liên lạc với nhau, sau đó khi cô ấy sang Pháp, tôi gặp lại cô ấy ở Paris mùa hè năm 1991, trước khi tôi đi công tác nước ngoài một lần nữa. Cô là người tỵ nạn, do đó không đủ sức trợ cấp cha cô, người đã được nhận trợ cấp xã hội.

* Tôi cưới Huyền Trinh vào tháng 10 năm 1992 và ít lâu sau chúng tôi chuyển đến Indonesia ở cho đến năm 1997. Mỗi năm, vợ chồng tôi đều quay về Pháp và thăm nhạc sĩ Trịnh Hưng đang sống ở Lyon.

* Năm 2000, nhạc sĩ Trịnh Hưng muốn chuyển đến Paris để được gần hơn với cô con gái Huyền Trinh, người ông biết sẽ chăm sóc lo lắng cho ông tốt nhất vì cô đã từng ròng rã, tận tụy chăm sóc ông suốt tám năm trời khi ông ngồi tù. Với sự giúp đỡ và chỉ dẫn của một vài người bạn và chúng tôi, ông có thể dời đến ở viện dưỡng lão tại Creteil.

* Ở đó, tại Paris, nhạc sĩ Trịnh Hưng đã có thể có một mối quan hệ thân thiết và tham gia nhiều cuộc gặp gỡ với hội các văn nghệ sĩ Việt nam. Trong suốt thời gian nhạc sĩ ở Paris, con gái ông và tôi đã chăm sóc lo lắng về giấy tờ hành chánh, tiền trợ cấp xã hội, trợ cấp dành cho người già. Vợ chồng tôi và các con trai thăm ông thường xuyên và luôn đáp ứng tất cả những yêu cầu ít ỏi của ông. Chúng tôi luôn tôn trọng sở thích tự do của ông

Khi chúng tôi hỏi Báo VNTP xuất xứ của người viết bài báo đó, thì được trả lời qua các E Mail sau đây :



Tóm lại, nhà báo Tiền Phong cho chúng tôi, các con cố nhạc sĩ Trịnh Hưng, biết rằng chính ông Trần Đại Sỹ đã gửi bài báo ký tên Lan Hương cho báo Tiền Phong đăng.

Chúng tôi rất ngạc nhiên vì ông Trần Đại Sỹ vốn là quen biết nhiều với gia đình chúng tôi, vừa là médecin traitant cho cha chúng tôi nữa (tức phải là người chúng tôi tin cậy), nếu có một bà Lan Phương (bút hiệu Lan Hương) nào đó viết về chúng tôi như thế, thì đáng lẽ ông ngăn cản, hay vứt đi, hay ông cũng có thể chuyển lại cho chúng tôi xem để cải chính, sao lại gửi cho báo chí đăng ngay vào lúc cha chúng tôi vừa qua đời, để phổ biến rộng rãi khắp nơi những lời vu cáo nhục mạ, làm mất thể diện cha chúng tôi nhạc sĩ Trịnh Hưng là bạn của ông và mất thể diện gia đình chúng tôi, là những người đã từng tin cậy và biệt đãi ông ?

Vậy chúng tôi xin ông Trần Đại Sỹ vui lòng cho chúng tôi biết bà Lan Phương (Lan Hương) kia là ai? Nếu không phải là chính ông đã viết bài ấy dưới bút hiệu Lan Hương chăng? Và nếu ông viết ra như như thế, thì với mục đích gì? Thật tình, chúng tôi không biết liệt ông vào hạng người nào?

Xin ông Trần Đại Sỹ lên tiếng cho dư luận quí vị độc giả năm châu được biết.
Rất mong.

Bruno và Trinh de Léotard
Rémi Nguyễn Phước Đạt , Phương Trang
Day và Michel Orsolini

* Tài Liệu 1 - Bài viết dưới bút hiệu Lan Hương đăng trên Báo Văn Nghệ Tiền Phong ngày số 780 tr. 31 do Trần Đại Sỹ gởi tới Tòa Soạn nhờ đăng :


Tài Liệu thứ 2- Báo Văn Nghệ Tiền Phong số 783 đăng bài viết của Ông Bruno de Leotard đính chánh lại sự " vu khống " của Lan Hương ( đáng tiếc là không đăng hết bài )




Nước Việt Nam là của người Việt Nam hay của người Trung Quốc

Nam Dao (Adelaide)

Một bản tin trên trang mạng www.vietland.net với tựa đề “Nhiều du đãng Trung Quốc (TQ) đánh chết một thanh niên Việt Nam ngay giữa Hà Nội” đã tường thuật lại cảnh 6 du đãng Trung Cộng có súng lục, dây xích và gậy sắt đã đánh vỡ sọ kỹ sư Trần Lưu Trung và sau đó còn nắm chân anh Trung lên và đập đầu anh xuống đường làm cho anh Trung chết liền tại chỗ vào tối 29/6 ngay giữa Hà Nội. Công an Hà Nội đã dấu kín chuyện này. Còn người dân Hà Nội rất bất mãn trước thái độ lấn áp của người Trung Quốc coi VN như nhà của họ và xem thường dân tộc VN, trong khi đó thì những kẻ cầm quyền CSVN lại ươn hèn không dám bảo vệ dân mình. Thu Hiền, tác giả của bản tin đã kết thúc bài viết bằng một câu thật cay đắng: “Chúng tôi không hiểu nước Việt Nam là của người VN hay là của người Trung Quốc !”.

Những lãnh đạo CS biến thái thành tài phiệt không phải chỉ dâng lãnh hải lãnh thổ Việt Nam, cho Trung Quốc, mà họ lại còn bỏ mặc mạng sống của dân Việt Nam cho người Tầu quyết định. Khi ngư dân Việt Nam đánh cá trên lãnh hải VN bị tàu Trung Quốc bắn chết họ thản nhiên, dấu nhẹm không dám lên tiếng phản đối và liền sau đó còn trải thảm đỏ bắt tay quan thầy ca tụng tình hữu nghị Trung Quốc Việt Nam thắm thiết! Khi người dân biểu tình đòi Hoàng Sa thì bị công an đàn áp và ngăn cấm nhưng ngược lại họ cho phép người Trung Quốc biểu tình ở Hà Nội để xác nhận chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Và gần đây nhất là thái độ ươn hèn không dám trừng phạt những tên du đãng TQ đập vỡ sọ chết dân mình.

Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao lại có một sự khác biệt về tư duy giữa một người dân bình thường như Thu Hiền còn cảm thấy xót xa trước cái chết của anh Trung và bất mãn với những sự kiện nên trên và những kẻ cầm quyền là những người có bổn phận phải bảo vệ dân tộc và bờ cõi thì lại ươn hèn im lặng? Câu trả lời thật dễ hiểu. Những kẻ lãnh đạo dù nói tiếng Việt, mang xác thân là người VN, nhưng tâm hồn họ đã đánh mất Tâm thức Việt Nam là linh hồn, nhựa sống tinh thần của con người Việt và dân tộc VN. Tâm thức VN đó nuôi dân ta lớn lên trong niềm tự hào dân tộc. Tâm thức VN đó thúc đẩy chúng ta gìn giữ non sông, bảo vệ giống nòi. Tâm thức Việt Nam đó cũng hướng dẫn chúng ta làm những việc đem lại niềm hãnh diện cho quê hương đất nước. Tâm thức Việt Nam đó mới thực sự chính là căn cước của người mang dòng máu và tâm hồn Việt Nam đích thực.

Sự nắm quyền của những kẻ lãnh đạo đã đánh mất tâm thức Việt Nam trên đất nước VN nào có khác chi hình ảnh ngoại bang đang cai trị dân tộc VN. Và những con người VN này với cái tâm của những tên thái thú làm sao có thể thương yêu bảo bọc quê hương dân tộc VN. Bởi thế cho nên ngày nào CS biến thái thành tư bản đỏ còn nắm quyền lực trong tay thì ngày đó tổ quốc và dân tộc VN sẽ còn lụn bại không ngóc đầu lên được. Sự ra đi của những tên thái thú bán nước cầu vinh là điều kiện tiên quyết để giải quyết tận gốc rễ vấn nạn VN. Những chủ trương tranh đấu hợp pháp bất bạo động hay hợp tác với chế độ theo kiểu xin/cho để cải thiện dân sinh dân quyền chỉ là những chiêu bài đấu tranh ảo giúp cho CS biến thái củng cố thêm quyền lực của họ mà thôi.

Nam Dao


TT Thích Minh Tuấn và ĐĐ Thích Đồng Thọ xác nhận việc Chúc thư của Đức cố Đệ tứ Tăng thống loan truyền mấy ngày qua là Chúc thư giả

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (331) 45 98 30 85

Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail: ubcv.ibib@buddhist.com
Web: http://www.queme.net


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 24.7.2008

Thượng tọa Thích Minh Tuấn và Đại đức Thích Đồng Thọ xác nhận việc Chúc thư của Đức cố Đệ tứ Tăng thống loan truyền mấy ngày qua là Chúc thư giả

PARIS, ngày 24.7.2008 (PTTPGQT) - Hôm kia, 22.7, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã báo động việc Chúc thư nói là của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang loan trên mạng Internet hai ngày trước đó là do kẻ gian giả mạo nhằm gây hoang mang và ly gián Cộng đồng Người Việt Hải ngoại nói chung và Cộng đồng Phật giáo nói riêng. Trước đây, nhóm người này cũng đã tung lên mạng Internet tài liệu giả của Viện Hóa Đạo « giải nhiệm » Đạo hữu Võ Văn Ái chức vụ Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo, hay « công cử » thành phần nhân sự ma trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Úc châu và Tân Tây Lan.

Chúc thư giả được gửi kèm với bức thư công bố của Đại đức Thích Đồng Thọ, Thị giả Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, gửi từ Bình Định sang cho Sư Thích Tín Nghĩa ở Hoa Kỳ.

Sau khi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế lên tiếng cảnh báo và tố giác Chúc thư giả, thì ngày hôm sau, 23.7, một bức thư khác tiếm danh Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Trú trì Tu viện Nguyên Thiều, tung lên mạng Internet « vờ nhận » rằng : « Chúc thư của thầy Thích Đồng Thọ gởi đến Chư Tôn Đức hôm Chủ Nhật ngày 20 tháng 7 năm 2008 là Chúc Thư Thật. Vậy nếu có một Chúc Thư nào khác với Chúc Thư này thì đó là Chúc Thư giả (không thật) ». Đồng thời, điệp vụ công an tôn giáo của Cộng sản Việt Nam liền viết bài « ca tụng » Chúc Thư Giả, « ca tụng » Đức cố Tăng thống, và trách cứ Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ dù được Đại đức Đồng Thọ trao Chúc thư từ ngày 6.7 « nhưng đến nửa tháng hơn, nghĩa là ngày 20/7/08 vẫn chưa được HT T. Quảng Độ thông báo » (sic).

Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo đã liên lạc về Tu viện Nguyên Thiều tìm hiểu sự việc. Ngày 22.7, Đại đức Thích Đồng Thọ viết bản Tường trình, sang ngày 24.7, Thượng tọa Thích Minh Tuấn viết thư tay, cả hai bức thư đều đệ trình lên Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ « xác minh các thông tin bịa đặt, ngoài phạm vi quản lý của Tu viện ».

Đại đức Thích Đồng Thọ viết trong bản Tường trình :

« Kính bạch Ngài:

Con tỳ kheo Thích Đồng Thọ là thị giả của Đức Đệ Tứ Tăng Thống, vừa qua con có nhận được thông tin trên mạng có một Chúc thư mạo danh lấy tên của con đã gởi đi khắp nơi và nói rằng: Đó là Chúc thư của Đức Đệ Tứ Tăng Thống để lại. Nhưng trên thực tế con không có gởi đi một chúc thư nào cả, hơn nữa theo con được biết Chúc thư của Đức Tăng Thống được Ngài Viện Trưởng đang cất giữ và Chúc thư có lẽ được viết bằng chính bút tích của Đức Tăng Thống chứ không phải là những bảng đánh máy vi tính và giả con dấu cũng như chữ ký của Đức Tăng Thống.

Kính bạch Ngài, con chưa hề đưa một thông tin gì liên quan đến chuyện Chúc thư lên mạng cả, và hơn nữa con cũng chưa đủ tư cách để được giữ Chúc thư ấy. Vậy con xin đựơc xác định đây là một Chúc thư giả mạo nhằm mục đích đánh phá nội bộ của GHPGVNTN ».

Thư viết tay ngày 24.7 của Thượng tọa Thích Minh Tuấn (Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đánh máy lại), minh xác :

    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
    Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định

    « Phật lịch 2552, Nguyên Thiều ngày 24/7/2008

    « Kính gởi : Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
    « (v/v xác minh các thông tin bịa đặt, ngoài phạm vi quản lý của Tu viện)

    « Ngưỡng bạch Hòa thượng,

    « Sau lễ tang của Hòa thượng Bổn sư của chúng con, Đức Tăng thống Giáo hội. Tại Tu viện Nguyên Thiều vốn u buồn lại còn u buồn hơn khi tiếp nhận những thông tin cho rằng phát xuất từ bản thân con (Minh Tuấn) và thầy Đồng Thọ. Cụ thể là việc công bố Chúc Thư của Hòa thượng Tăng thống và các nguôn tin có liên quan. Để minh bạch việc này, con xin khẩn bạch Hòa thượng như sau :

    « 1- Việc công bố Chúc Thư của thầy Đồng Thọ và sự xác nhận của Minh Tuấn theo thông tin là hoàn toàn bịa đặt, sai sự thật, vì thực tế, Minh Tuấn chưa bao giờ sử dụng phương tiện nào, và phát biểu ý kiến nào trên mạng thông tin bằng lời hoặc bằng văn bản.

    « 2- Việc công bố Chúc Thư là việc làm trọng đại của Chư Tôn giáo phẩm Giáo hội. Tu viện và Môn đồ của Hòa thượng không thể nào có khả năng lạm tác và làm một việc phi lý, phi đạo như thế được.

    « Nay con xin khẩn trình và minh xác việc này để Hòa thượng thẩm tường và đề cao cảnh giác dư luận.

    « Kính bái thư
    (ký tên)
    « Thích Minh Tuấn ».

    Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải dưới đây nguyên văn Bản Tường Trình của Đại đức Thích Đồng Thọ và thư viết tay của Thượng tọa Thích Minh Tuấn :

    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
    Tu Viện Nguyên Thiều, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định


Phật lịch 2552 Số 05

Bản Tường Trình
Kính gởi: Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng VHĐ, GHPGVNTN

Kính bạch Ngài: Con tỳ kheo Thích Đồng Thọ là thị giả của Đức Đệ Tứ Tăng Thống, vừa qua con có nhận được thông tin trên mạng có một Chúc thư mạo danh lấy tên của con đã gởi đi khắp nơi và nói rằng: Đó là Chúc thư của Đức Đệ Tứ Tăng Thống để lại. Nhưng trên thực tế con không có gởi đi một Chúc thư nào cả, hơn nữa theo con được biết Chúc thư của Đức Tăng Thống được Ngài Viện Trưởng đang cất giữ và Chúc thư có lẽ được viết bằng chính bút tích của Đức Tăng Thống chứ không phải là những bảng đánh máy vi tính và giả con dấu cũng như chữ ký của Đức Tăng Thống.

Kính bạch Ngài, con chưa hề đưa một thông tin gì liên quan đến chuyện Chúc thư lên mạng cả, và hơn nữa con cũng chưa đủ tư cách để được giữ Chúc thư ấy.

Vậy con xin đựơc xác định đây là một Chúc thư giả mạo nhằm mục đích đánh phá nội bộ của GHPGVNTN.

Con kính gởi bảng tường trình này để mong Ngài thẩm tường.!

Con thành tâm đảnh lễ Ngài và kính chúc Ngài pháp thể khinh an, luôn là bóng cây đại thọ che chở, dẫn dắt con thuyền GHPGVNTN và chúng con vượt qua mọi gian nguy thử thách trong giai đọan khó khăn hiện nay và sau này.

Tu viện Nguyên Thiều, ngày 22 tháng 7 năm 2008
Khể thủ
(ký tên)
Con, Tỳ kheo Thích Đồng Thọ

  • Thư viết tay của Thượng Tọa Thích Minh Tuấn



  • Tớ Khủng Bố Chủ


    Đỗ Thái Nhiên

    Chủ ở đây là nhân dân Việt Nam. Tớ ở đây là đảng CSVN. Tớ ở đây không do chủ tuyển chọn mà do sự kiện: cách đây nhiều thập niên, tớ đã ngang nhiên cầm mã tấu, lựu đạn, bước vào nhà chủ, buộc chủ phải chấp nhận “quyền làm tớ” của đảng CSVN. Hơn thế nữa, sau khi cướp được “ghế làm tớ” , CSVN liên tục vừa đánh cắp tài sản của chủ vừa mở cửa sau (thông qua các mật ước) để tên trộm Trung Quốc ngang nhiên lấn chiếm đất đai của chủ. Mặc cảm của một tên tôi tớ “nhập lậu” cộng với núi tội ác tham ô và bán nước, CSVN bao giờ cũng lo sợ bị nhân dân Việt Nam lật đổ.

    Nhằm chế ngự tâm lý lo sợ kia, CS tìm đủ mọi phương cách để buộc nhân dân phải khiếp sợ nhà cầm quyền Hà Nội, buộc nhân dân phải tuyệt đối không bao giờ dám nghĩ tới hai chữ “lật đổ”. Đi tìm những quỷ kế để có thể buộc nhân dân phải ngoan ngoản phục tùng triều đình Hà Nội, CSVN không thể không chọn con đường khủng bố. Đó là tất cả cội nguồn tâm lý – chính trị của hồ sơ “Tớ Khủng Bố Chủ”. Muốn khảo sát hồ sơ vừa kể, chúng ta cần lần lượt phân tích ba vấn dề sau đây:

    _ Các yếu-tố-tội-phạm của tội ác khủng bố.
    _ Ý nghĩa pháp lý của hồ sơ “Tớ khủng bố chủ”.
    _ Lý do thầm kín đằng sau hồ sơ khủng bố.

    I. Các yếu tố tội phạm của tội ác khủng bố.

    Vận hành của xã hội là một cuộc đấu tranh bất tận giữa hai nhu cầu vừa mâu thuẫn lẫn nhau vừa phải nương vào nhau để cùng tồn tại: bên này là đời sống tự do và ổn định của cá nhân, bên kia là an ninh và trật tự xã hội. Nhằm giúp cho đôi bên được chung sống trong hòa bình, hình luật bao giờ cũng tuyệt đối đề cao nguyên tắc “vô luật bất thành tội”. Nguyên tắc này có chủ đích ngăn cấm nhà cầm quyền độc tài không được phép tùy tiện bắt bớ giam cầm những công dân bất đồng chính kiến với giới cai trị. Để được gọi là luật thì luật phải là những bản văn có nội dung cụ thể với đầy đủ chi tiết cần thiết. Thiếu chi tiết và cụ thể, luật sẽ trở thành những công cụ nguy hiểm được nhà cầm quyền xử dụng để áp chế giới bị trị. Hãy tham khảo một bằng chứng cụ thể: cuối tháng 6/2006, nhà cầm quyền CSViệt Nam đã ban hành nghị định số 56, hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7/2006. Nghị định này có mục đích trừng phạt nghiêm khắc các nhà báo nào phạm tội: “xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức”. Luật 56 không hề nói rõ thế nào là “sự thật lịch sử”? Cá nhân hay đoàn thể nào là giới chức có thẩm quyền xác định sự thật lịch sử? Thế nào là cách mạng? Phải chăng cách mạng là dùng “văn hóa” Marx Lenine để hủy diệt văn hóa dân tộc? Phải chăng cách mạng là âm thầm từ giã giai cấp vô sản để ngạo nghễ bước vào cung điện của tư bản đỏ? Luật 56 chính là một mớ ngôn từ vừa mơ hồ vừa vô nghĩa. Trong mơ hồ và vô nghĩa kia chỉ có một sự kiện xuất hiện rất rõ nét, đó là lưỡi hái của tử thần dành cho quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.

    Nhằm tránh cho việc kết tội “tớ khủng bố chủ” bị rơi vào tình trạng mơ hồ và vô nghĩa kiểu luật 56, bài viết này xin đi ngay vào phần phân tích các yếu- tố- tội- phạm cấu thành tội ác khủng bố theo đúng kỹ thuật lý luận nghiêm túc và khoa học của môn hình luật.

    Một người hay một tổ chức sẽ phạm tội khủng bố nếu hành động của các đương sự gồm đủ ba yếu- tố- tội- phạm sau đây:

    Yếu tố thứ nhất: phạm nhân xử dụng bạo lực bất hợp pháp. Bất hợp pháp là trái với luật pháp hoặc trái với công bằng và lẽ phải thông thường. Bạo lực thể chất: bắt cóc, tra tấn, giam cầm, sát hại nạn nhân. Bạo lực tinh thần đe dọa gây nguy hại cho sinh mạng hay uy tín của nạn nhân. Các loại bạo lực này làm cho nạn nhân cảm thấy thực sự sợ hãi.

    Yếu tố thứ hai: khai thác tâm lý sợ hãi nói ở yếu tố thứ nhất, phạm nhân buộc nạn nhân phải làm hay phải không làm một số công việc nào đó. Phải giao nạp tài sản cho phạm nhân là một thí dụ của nhóm chữ “phải làm”. Phải chấm dứt vĩnh viễn hành động đòi hỏi dân chủ đa nguyên là một thí dụ của nhóm chữ “phải không làm”.

    Yếu tố thứ ba: phạm nhân thực hiện yếu tố thứ nhất và thứ hai nhằm đoạt thủ một quyền lợi rõ rệt. Quyền lợi ở đây có thể là một món tài sản, một quyền thống trị.

    II. Ý nghĩa pháp lý của hồ sơ “Tớ khủng bố Chủ”

    A. Trần thuật nội vụ.

    Sau hai thập niên thống trị miền Bắc, ba thập niên thống trị toàn VN, tội ác khủng bố nhân dân của CSVN là lọai tội ác chồng chất thành nhiều lớp núi đồi trùng điệp. Bài viết này chỉ nêu ra một trường hợp điển hình để cụ thể hóa hồ sơ “Tớ khủng bố chủ”.

    Ngày 29/04/2008, tại Saigon, chế độ Hà Nội long trọng tổ chức đón- rước đuốc Olympic Bắc Kinh 2008. Tại chợ Đồng Xuân Hà Nội, lúc 9 giờ sáng cùng ngày, một số đồng bào VN biểu tình chống Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa cùa VN, giết hại ngư dân VN trên biển Đông. Cuộc biểu tình vừa mới khai diễn, công an lập tức bắt giữ các người có tên sau đây: sinh viên Nguyễn Tiến Nam, sinh viên Ngô Quỳnh, sinh viên Nguyễn Văn Nhất, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà giáo Vũ Hùng ở Hà Tây, ông Vi Hồi Đức ở Lạng Sơn. Sáu người này bị đánh đập tàn tệ đi kèm với lời răn đe của công an: cấm người dân không đươc biểu tình chống Trung quốc.

    B. Ý nghĩa pháp lý của hồ sơ “tớ khủng bố Chủ”

    Bây giờ chúng ta hãy sử dụng ba yếu tố tội phạm của tội khủng bố để phân tích và đánh giá hồ sơ “Tớ khủng bố Chủ”

    1) Yếu tố thứ nhất: sử dụng bạo lực bất hợp pháp

    Ngày 01/05/2008, trong cuộc phỏng vấn của ký giả Trà Mi, đài Á Châu Tự Do, sinh viên Nguyễn Tiến Nam cho biết nguyên văn như sau: “Đầu tiên là một công an tên là Minh, làm việc ở A38 của bộ công an đã dánh tôi rất dã man, đấm liên tục vào ức tôi. Thấy vậy nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa phản đối. Lập tức, công an này quay ra đánh nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đến xưng mặt. Phẫn uất thấy bạn bị đánh trọng thương, nhà giáo Vũ Hùng lên tiếng ngăn cản công an: “Anh ấy già rồi, sao các anh lại nỡ thế. Anh Nghĩa đáng tuổi chú, tuổi anh các anh mà các anh làm những trò như thế sao?”. Ngay sau lời nói phải quấy của thầy giáo Vũ Hùng, công an cho ông thầy giáo trẻ tuổi này một trận đòn chí tử. Sau đó họ bắt chúng tôi phải viết lời khai, họ còn nhấn mạnh: “Chúng mày mà viết không thành thật thì chúng tao sẽ có biện pháp mạnh với chúng mày. Chúng mày thấy người Trung Quốc đánh tội phạm như thế nào chứ?”

    Qua lời trình bày của sinh viên Nguyễn Tiến Nam, rõ ràng là công an CSVN đã sử dụng bạo lực bất hợp pháp. Bất hợp pháp bởi lẽ không điều luật nào trong luật pháp cho phép công an được quyền đánh dập người dân chỉ vì người dân biểu tình chống Trung Quốc xâm lược.

    2). Yếu tố thứ hai: cưỡng bách nạn nhân phải tuân phục mệnh lệnh của can phạm.

    Mệnh lệnh ở đây là mệnh lệnh cấm biểu tình chống Trung Quốc.

    3). Yếu tố thứ ba: Khủng bố nhằm đoạt thủ một quyền lợi.

    Như mọi người đã biết từ nhiều thập niên qua, CSVN không ngừng tìm đủ mọi phương cách làm Trung Quốc hài lòng. Bù lại, Trung Quốc sẽ bảo vệ ngôi vị cầm quyền của CSVN trên đất nước việt Nam. Tóm lại, quyền lợi của hành động khủng bố trong hiện vụ là ngai vàng Hà Nội được bảo vệ.

    III. Lý do thầm kín đàng sau hồ sơ “tớ khủng bố Chủ”

    Ngay sau 30/4/1975, với lá bùa “chủ nghĩa Marx Lenine vô địch muôn năm” với sự hỗ trợ của “phe xã hội chủ nghĩa”, CSViệt Nam đã cai trị Việt Nam bằng chính sách khủng bố công khai. Bắt giam tất cả những thành phần bị CSViệt Nam nghi là phản động, đánh tư sản mại bản, đánh văn nghệ sĩ, tống giam phi pháp và vô thời hạn những người bị CS gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”, tùy nghi cưỡng đoạt tài sản của nhân dân qua những lần đổi tiền v.v... Các sự kiện vừa nêu được gọi là khủng bố công khai, khủng bố trắng.

    Ngày nay do tình hình thế giới thay đổi, CSViệt Nam bắt buộc phải chạy theo kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là kinh tế của lòng tin, của tín dụng. Kinh tế thị trường và khủng bố chính trị như nước với lửa. Vì vậy bước vào kinh tế thị trường của thế giới, CSViệtnam phải đối mặt với hai vấn đề:

    _ Một là làm thế nào để quốc tế có thể chấp nhận CSViệt Nam như một nhà cầm quyền tự do dân chủ.
    _ Hai là làm thế nào để nhân dân trong nước không có khả năng tố cáo tự do dân chủ của CS là loại hàng giả?

    Muốn giải quyết hai vấn đề trên, CSViệt Nam quyết định vừa tô màu chế độ dân chủ giả hiệu, vừa biến “khủng bố trắng” của những năm sau 1975 thở thành khủng bố đen của những năm đầu thế kỷ 21. Khủng bố đen là khủng bố trong bóng tối, khủng bố bí mật, khủng bố dấu mặt. Hồ sơ “Tớ khủng bốp chủ” là một trường hợp điển hình của chính sách khủng bố đen do CSViệt Nam chủ trương trong giai đoạn hiện tại.

    Mặc dầu đã chuyển đổi từ khủng bố trắng qua khủng bố đen, bản chất dân chủ giả hiệu của CSViệt Nam vẫn bị quốc tế nhận diện và chỉ trích. Nhằm biên minh cho hành động giả mạo dân chủ của mình, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn thường nêu luận cứ rằng dân chủ Á châu khác với dân chủ Âu Mỹ và rằng mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng cho nên Hà Nội có quyền xây dựng tại Việt Nam một chế độ dân chủ đặc biệt.

    Nêu ra các luận cứ mơ hồ và phản lý luận kia, CSViệt Nam có chủ ý đẩy hai chữ “dân chủ” rơi vào tình trạng khó hiểu đến tối tăm. Trong tối tăm và khó hiểu đó, Hà Nội lặng lẽ tiếp tục chính sách cai tri độc tài và tham ô. Công việc phân tích hồ sơ “Tớ khủng bố chủ” đã dẫn đến nhận định nghiêm túc rằng: dân chủ là dân chủ, không có vấn đề dân chủ Á châu khác với dân chủ Âu Mỹ. Dân chủ chỉ có một nội dung thống nhất.

    Nội dung đó là: dưới chế độ dân chủ, quan hệ giũa người dân và nhà cầm quyền là quan hệ đồng thuận và hợp tác. Quan hệ giũa Nhà cầm quyền Hà Nội và người dân Việt Nam hiện nay là quan hệ giữa phạm nhân tội khủng bố và nạn nhân của hành động khủng bố. Chừng nào CSViệt Nam không còn khả năng khủng bố, khủng bố trắng cũng như khủng bố đen, chừng đó Việt Nam thực sự có tự do dân chủ. Đó là nội dung cốt lõi của bài viết “Tớ khủng bố chủ” vậy.

    Đỗ Thái Nhiên


    Thursday, July 24, 2008

    Ý Chí Và Sức Mạnh Của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu





    Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney đã kết thúc. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và các phái đoàn giới trẻ hành hương đến từ khắp bốn phương trời lần lượt từ giã Úc Châu trở về bản xứ. Sự tưng bừng náo nhiệt của những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (ĐHGTTG) đối với mọi người khắp nơi trên thế giới và nhất là Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu(CĐNVTD/UC) luôn in đậm một kỷ niệm khó quên. Trong thời gian qua, Cộng Đồng này đã phải đương đầu với một cơn thử thách thật lớn lao và đã chiến thắng một cách anh dũng. Đó là thành tích phá vỡ âm mưu của chế độ Cộng Sản Việt Nam trong kế hoạch lợi dụng Tôn Giáo nhằm dương lá cờ máu của chúng trong ĐHGTTG, nhưng âm mưu này đã bị CĐVNTD/UC bẻ gãy qua ý chí và sức mạnh hào hùng khiến cho mọi người phải thán phục.

    Hình ảnh RỪNG CỜ VÀNG bay ngợp trời trong ngày lễ Bế Mạc ĐHGTTG đã gợi lên trong lòng những người Việt Nam yêu chuộng Tự Do sự xúc động mãnh liệt và một niềm vui khó diễn tả. Theo lời Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (CĐNVTDLB/UC) thì đây là cuộc Biểu Dương Cờ Vàng lớn nhất trong lịch sử Cộng Đồng Người Việt tại quốc gia này. Trước khi mổ xẻ nguyên nhân dẫn tới sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ này, tôi muốn dừng lại nghiêng mình cúi đầu khâm phục trước thành quả lớn lao mà Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã đạt được. Nói đúng hơn, tôi xin ca ngợi đường lối lãnh đạo của Ban Chấp Hành CĐNVTD/UC và Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney, cùng với tinh thần đoàn kết của toàn thể đồng hương tại Úc Châu trong việc Biểu Dương Lá Cờ Vàng chính nghĩa với khí thế cao ngút trời vừa qua.

    CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI ÚC CHÂU

    Đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản tại Úc Châu là một Cộng Đồng tổ chức rất chặt chẽ theo hệ thống Liên Bang, Tiểu Bang và Lãnh Thổ. Đại diện Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đứng đầu là một vị Chủ Tịch Liên Bang, 6 vị Chủ Tịch Tiểu Bang và 2 vị Chủ Tịch Lãnh Thổ. Có thể ví vai trò của Ban Chấp Hành CĐNVTDLB/UC như một chiếc dù của tất cả các tiểu bang, các đảng phái quốc gia, các tổ chức, các hội đoàn, các đoàn thể....của người Việt trên toàn nước Úc. Mọi thành viên trong Cộng Đồng đều liên kết hoạt động nhịp nhàng. Nhờ hệ thống tổ chức hàng dọc rất chặt chẽ và ý thức trách nhiệm của từng thành viên, nên Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu rất vững mạnh trong các sinh hoạt chung, về chính trị cũng như văn hoá và các hoạt động cho công ích.

    Đặc biệt nhờ hệ thống tổ chức và sự đoàn kết của các tiểu bang, các tổ chức, các đoàn thể, các hội đoàn nên CĐNVTD/UC tạo được sức mạnh để trở nên thành trì vững chắc trong việc ngăn chặn bất cứ âm mưu xảo quyệt nào của Cộng sản Việt Nam muốn gieo rắc ảnh hưởng tại đất nước này. Trong quá khứ, Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã quyết tâm trong việc tẩy trừ và bẻ gãy âm mưu của Cộng sản qua các vụ chống VTV4, vụ chống đoàn văn công Việt cộng mang tên Duyên Dáng Việt Nam. Nhưng hùng hồn nhất là Cộng Đồng này đã bày tỏ sức mạnh và khí thế chưa từng thấy trong ngày Vinh Danh Cờ Vàng vào ngày Chủ nhật 20 tháng 7 năm 2008 nhân Thánh Lễ Bế Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008.

    Điều đáng nói là trong toàn bộ kế hoạch hành động của CĐNVTD/UC chống lại mưu toan của Cộng sản Việt Nam và để trả lời cho những kẻ làm tay sai cho bọn chúng trong dịp ĐHGTTG vừa qua, do sự tham gia rất tích cực của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney. Nhờ đó sức mạnh và tinh thần của đồng hương Úc Châu đã gia tăng cao độ. Trước thành quả lớn lao mà CĐNVTD/UC đã đạt được tôi xin bày tỏ sự mến phục và biết ơn. Tôi nghĩ rằng còn có rất nhiều người khắp nơi trên thế giới đã ngưỡng mộ như tôi.

    NHỮNG ĐÓA HỒNG THẮM

    Trong tâm tình quý mến đó, tôi xin gởi tặng:

    • Một Bông Hồng đến Ông Nguyễn Thế Phong-Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu và Ban Chấp Hành cùng toàn thể đồng bào trong CĐNVTD/UC.
    • Một Bông Hồng đến LS Võ Trí Dũng-Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tiểu bang NSW và Ban Chấp Hành cùng toàn thể đồng bào thuộc tiểu bang NSW.
    • Một Bông Hồng đến Ban Tuyên Úy và Hội Đồng Mục Vụ, ban Tổ Chức WYD4VN cùng toàn thể đồng bào Công Giáo trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney.
    • Và Một Bông Hồng đến những gia đình thân hữu mà tôi quen biết tại Úc Châu. Gia đình các bạn đã dành toàn bộ công sức và thời gian trong quyết tâm ngăn chặn cờ đỏ, biểu dương Cờ Vàng.

    Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney đã qua đi và đồng bào Việt Nam khắp nơi cũng thở phào nhẹ nhõm sau khi vượt qua cơn thử thách nặng nề. Đây là lúc thuận tiện để tất cả mọi người nhìn lại chặng đường đã qua với sự kiện “đất bằng dậy sóng” để rồi cuối cùng trở thành một cơn lốc trong Cộng Đồng Việt Nam tại Úc Châu trong dịp ĐHGTTG năm 2008.

    CƠN BÃO TRÁI MÙA

    Sự việc bắt đầu từ lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn gởi đến 3 vị Giám mục Việt Nam đi tham dự ĐHGTTG tại Sydney. Lá thư được phổ biến hơn một tháng trước ngày khai mạc Đại Hội. Trong thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã công khai chống báng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ và không muốn thấy lá cờ đó trong ĐHGTTG năm 2008 tại Sydney. Hồng Y Phạm Minh Mẫn dùng cách nói xách mé để sỉ nhục Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản Hải Ngoại và những người tôn vinh bảo vệ lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, gọi việc làm của họ chỉ ngang hàng với :“một thói đời mang tính đối kháng”! Như cảm thấy chưa đủ mạnh, Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn cổ vũ cho lá cờ đỏ của đảng Cộng sản Việt Nam bằng lối so sánh ví von: “người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ)...”. Ai đọc lá thư đó cũng lắc đầu và xem nó như một áng mây mù báo trước cơn giông bão sẽ ập tới trong ĐHGTTG năm nay tại Sydney. Và đúng như vậy!

    Với nội dung và lối xử dụng ngôn ngữ như thế, không lạ gì lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn gặp sự chống đối dữ dội ngay từ lúc đầu của nhiều người và nhiều giới khắp nơi trên mặt đất. Đáng kể nhất là sự phê phán và phản bác nặng nề của những người Công Giáo.

    Người đời có câu nói “gieo gió thì gặt bão”. Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã gieo gió và ngọn gió đó đã nhanh chóng trở thành cơn bão trái mùa với vận tốc cao, tôi tạm gọi là “Cơn bão PMM”. Cơn bão PMM đó, ngay tức khắc đã gặp những phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt tại những thành phố bên Hoa Kỳ, những nơi mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn dự trù tới trong chuyến công tác làm “mục vụ di dân”. Nhưng cũng vì cơn bão PMM đó mà kẻ gieo gió đã phải hủy bỏ các chuyến đi đã có trong chương trình, kể cả chuyến đi Sydney để dự ĐHGTTG mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn coi là rất quan trọng và quyết định sẽ tới .

    Càng gần ngày khai mạc ĐHGTTG thì cơn bão PMM càng gia tăng cường độ khiến cho CĐNVTD/UC lên cơn sốt để rồi cuối cùng biến thành trận cuồng phong RỪNG CỜ VÀNG trong ngày 20 tháng 7, ngày Bế Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney.

    CỜ BAY, CỜ BAY!

    Nhiều người đã không cầm được nước mắt trước cảnh tượng huy hoàng rực rỡ của LÁ CỜ VÀNG do người bạn trẻ Đường Phước Lộc, Trưởng Ban Tổ Chức WYD4VN, đã dương cao trong ngày Khai Mạc ĐHGTTG. Sau đó, cảnh tượng RỪNG CỜ VÀNG và không có một bóng cờ đỏ nào trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney là câu trả lời hùng hồn nhất cho mưu toan gian trá của chế độ Cộng sản Việt Nam và là một phản ứng ngược rất dữ dội mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn không lường trước được bởi lá thư của Ngài gây ra. Trong tình thế đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn không thể nào dám đặt chân tới Sydney. Đây là cái nhục mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn phải chuốc lấy vào thân vì trước đó Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã viết để mở đầu lá thư: “Đức Hồng Y G. Pell mới biên thư tha thiết mời cá nhân tôi đến Sydney dự WYD 2008. Thấy không từ chối được, tôi phải cắt bớt chuyến đi công tác mục vụ di dân của tôi và những ngày nghỉ để đáp lời mời của Ngài.”

    Ngoài ra, trong ĐHGTTG thêm một cảnh tượng rất đáng chú ý, đó là hình ảnh Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chúc lành cho lá Cờ Vàng, nhận từ tay người bạn trẻ Phạm Vũ Anh Dũng thuộc Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney dâng lên Ngài. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã tự quàng lá Cờ Vàng vào cổ như một khăn quàng cổ. Tấm hình này đã được nhanh chóng phát tán trên toàn thế giới qua hệ thống Internet, và tôi tin là Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng đã được xem tấm hình mà nhiều người gọi đó là tấm hình lịch sử. Khi nhìn tấm hình Vị Cha Chung của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ đã ưu ái mang trên cổ lá Cờ Vàng chính nghĩa, tôi bồi hồi xúc động và không cầm được nước mắt. Tôi chợt nhớ lại những lời lẽ trong lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn mà nghe đau nhói trong tim.

    Nhân đây tôi xin hỏi Hồng Y Phạm Minh Mẫn:

    1. Hình ảnh Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI quàng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ trên cổ, từ nay có trở thành: “một sự cố làm tắt nghẽn con đường hiệp thông” giữa Hồng Y Phạm Minh Mẫn với vị Chủ Chăn Tối Cao của Giáo Hội Công Giáo La Mã hay không?

    2. Hồng Y Phạm Minh Mẫn có đánh giá cử chỉ của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI quàng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ là “chỉ biểu trưng cho một thói đời mang tính đối kháng” như ngài đã dùng lối văn xách mé này để gọi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Hải Ngoại chúng tôi hay không?

    SỨC CÔNG PHÁ KHỐC LIỆT
    Đức Giáo Hoàng Benedict XVI và Phạm Vũ Anh Dũng
    Sau khi ĐHGTTG tại Sydney kết thúc, tôi có nghe được nguồn tin nói rằng cơn bão PMM hiện đang di chuyển dần về thành phố Carthage, tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ và có thể sẽ tập trung thành một cơn lốc gây ra thiệt hại nặng cho Đại Hội Thánh Mẫu mà Dòng Đồng Công sẽ tổ chức vào đầu tháng 8 sắp tới và tại Lourdes, Pháp Quốc để cùng với một số vị Bản quyền khác chủ sự cuộc hành hương và Thánh Lễ tôn vinh Đức Mẹ Lộ Đức. Tôi đưa tin này với sự dè dặt thường lệ, nhưng để các Cha và các Ban Tổ Chức lưu ý lo tìm biện pháp phòng chống bão.

    Lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết ngày 4/6/2008, trước tiên đã làm thân bại danh liệt cho chính tác giả của nó. Giờ này tôi mong rằng Hồng Y Phạm Minh Mẫn nên lui về nhà vì con đường “mục vụ di dân” của ngài xem ra từ nay đã mọc lên quá nhiều chông gai và đầy cạm bẫy.

    Qua lá thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn chẳng những đã tự hạ giá bản thân mình mà còn làm hoen ố tước vị Hồng Y- là một tước vị rất cao quý trong Giáo Hội Công Giáo. Tước vị nầy đã được vị Hồng Y tiên khởi Trịnh Như Khuê, và ba vị khác là Hồng Y Trịnh Văn Căn, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và Hồng Y Phạm Đình Tụng là những vị Hồng Y thánh thiện của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, được mọi người tôn kính đã góp công làm chiếu sáng rạng ngời.

    Qua lá thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn làm thành một quả bom có sức tàn phá ghê gớm trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và hậu quả của sự tàn phá nầy sẽ không lường được.

    Qua lá thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã tạo ra sự bực tức và đưa đến tình trạng uất hận cao độ trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại và không dễ gì đồng bào nạn nhân cộng sản trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại quên đi và tha thứ cho kẻ đã nhục mạ họ một cách nặng nề như thế.

    KẾT LUẬN

    Mặc dù vậy, xét cho cùng lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng có phần tích cực của nó. Nhờ lá thư đó mà đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, nhất là những Tu Sĩ và Giáo Dân Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại đã từng kêu gọi đóng góp tiền bạc cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong các chuyến đi “mục vụ di dân” của ngài, từ nay biết rõ được Hồng Y Phạm Minh Mẫn là ai để rồi sẽ có hình thức tiếp đón cho thích hợp. Mặt khác, lá thư đó cũng có tác dụng nhắc nhở, đánh thức và thách thức tinh thần đấu tranh của Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngoại trong việc bảo vệ và phát huy chính nghĩa Tự Do dưới bóng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, như Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã bày tỏ một cách hùng hồn trong lễ Bế Mạc ĐHGTTG tại Sydney ngày 20 tháng 7 năm 2008 vừa qua.

    Auckland, ngày 25 tháng 7 năm 2008

    Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ
    Tuyên úy Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland, New Zealand


    • Lời Đính Chính Của LM Nguyễn Hữu Lễ
    Kính thưa quý bạn đọc,

    Trong bài viết “Ý Chí và Sức Mạnh của Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc Châu”, tôi đã vô ý nhầm lẫn viết sai tên người bạn trẻ đã dương cao LÁ CỜ VÀNG trong ngày Khai Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney.

    Bạn trẻ Vũ Thanh Hùng thuộc Liên Ca Đoàn là người đã dương cao LÁ CỜ VÀNG trong ngày Khai Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney.

    Tôi chân thành xin lỗi hai người bạn trẻ Vũ Thanh Hùng và Đường Phước Lộc cùng tất cả quý đọc giả khắp nơi trước sự nhầm lẫn đáng tiếc đã xảy rạ.

    Xin quý cơ quan truyền thông giúp đỡ tôi điều chỉnh lại cho đúng trước khi tiếp tay phổ biến.

    Với lòng biết ơn và quý mến.
    LM Nguyễn Hữu Lễ
    Auckland, ngày 25 tháng 7 năm 2008


    Những Món Nợ Máu

    Lữ Giang

    THẮC MẮC THƯỜNG NGHE

    Rất nhiều người hỏi chúng tôi: “Việt Tân” là tổ chức nào? Chúng tôi chỉ trả lời vắn tắt: Đó là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Lại thắc mắc thêm: “Tại sao không gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh mà gọi là Việt Tân?”

    Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, gần như ai cũng biết Mặt Trận Hoàng Cơ Minh nhưng ít người biết Việt Tân, vì thế chúng tôi phải cố gắng giải thích cho họ.

    Chúng tôi nhắc lại, ngày xưa khi muốn xâm chiếm miền Nam, đảng CSVN đã cho hình thành một tổ chức lấy tên là “Mặt Trận Quốc Gia Giải Phong Miền Nam” để làm chiêu bài.

    Nhóm Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh nghĩ rằng muốn thắng Cộng Sản phải lập một đảng và một mặt trận gióng như Đảng CSVN đã làm và phải độc tài hơn Cộng Sản mới có thể thắng họ được. Do đó, nghe nói một “Đại Hội Dựng Đảng” đã được tổ chức vào ngày 10.9.1982 tại một “khu chiến trong vùng rừng núi Đông Dương” để thành lập một đảng gióng như đảng CSVN và gọi tên là đảng VIỆT TÂN và Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh được suy cử là Chủ Tịch Đảng. Điều lệ của đảng Việt Tân rập khuôn gần gióng điều lệ của đảng CSVN. Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh cũng mặc áo bà ba quàng khăn rằn gióng hệt Hồ Chí Minh.

    Để “giải phóng Việt Nam”, ba tổ chức là Mặt Trận Người Việt Tự Do, Tổ Chức Phục Hưng và Lực Lượng Dân Quân Việt Nam đã họp lại và thành lập một mặt trận có cái tên gióng hệt “Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam” của đảng CSVN đó là “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam”. Vì mặt trận do Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh làm Chủ Tịch nên thường được gọi là “Mặt Trận Hoàng Cơ Minh”. Về sau, nhóm Hoàng Cơ Minh độc chiếm tổ chức này.

    Giải thích như vậy chắc bà con cũng có thể nắm được những nét chính rồi.

    KHÔNG NGÔN CHÁNH DANH THUẬN

    Sự thành lập và hoạt động của đảng Việt Tân đã xẩy ra một vài chuyện lạ khiến đồng bào thắc mắc.

    Chuyện lạ thứ nhất: Tên đảng Việt Tân là tên viết tắt của tên “Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng”.

    CANH TÂN (renovation) có nghĩa là cải tiến, sửa đổi lại, làm cho tốt hơn. Còn CÁCH MẠNG (revolution) là phá vỡ trật tự cũ và thiềt lập một trật tự mới hoàn toàn khác hẵn với trật tự trước đó (establishment of a new order radically different from the preceding one).

    Như vậy canh tân và cách mạng không thể đi đôi với nhau. Trong một cuộc phỏng vấn, Bác Sĩ Nguyễn Trọng Việt, một ủy viên trung ương của đảng Việt Tân, cho rằng chủ trương của đảng Việt Tân là thay đổi “để làm cho công việc đó tốt hơn”. Như vậy đảng này chỉ là một đảng canh tân chứ không phải một đảng cách mạng như đảng CSVN.

    Chỉ đọc cái tên Việt Tân thôi chúng ta cũng có thể biết những người lập đảng này chưa biết họ phải làm gì. Hành động mà không xác định được mục tiêu thì chỉ là xuẩn động.

    Chuyện lạ thứ hai: Theo điều 44 của Bộ Dân Luật VNCH, phải khai sinh với hộ lại trong hạn 8 ngày tròn sau khi sinh. Đảng Việt Tân được nói là đã được đẻ vào ngày 10.9.1982 tại một “khu chiến trong vùng rừng núi Đông Dương” thế mà đến ngày 19.9.2004 mới làm lễ ra mắt tại Bá Linh. Như vậy đảng Việt Tân đã để 22 năm sau mới khai sinh!

    Chuyện lạ thứ ba: Theo điều 51 của Bộ Dân Luật VNCH, khi một người qua đời, phải làm giấy khai tử trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã tự trận tại chiến trường Lào ngày 28.8.1987, thế mà dến ngày 20.7.2001 Mặt Trận Hoàng Cơ Minh mới chính thức ra thông báo các chiến hữu Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Trần Thiện Khải và Võ Hoàng đã “anh dũng hy sinh trên bước đường tranh đấu giải phóng Tổ Quốc”. Như vậy Tướng Hoàng Cơ Minh qua đời 14 năm sau mới được khai tử!

    Chỉ đọc một vài chuyện lạ đó, đọc giả cũng có thể thấy được đảng Việt Tân hành động không ngôn chánh danh thuận.

    BẮT CHƯỚC KHÔNG GIỐNG

    Nhiều lần chúng tôi đã đề cập đến Mặt Trận Hoàng Cơ Minh hay đảng Việt Tân với hy vọng tổ chức này sẽ đi vào chính đạo và thực hiện những công tác hữu ích cho đất nước. Nhưng hình như đảng Việt Tân cho rằng phải mưu mô đàng điếm như đảng CSVN mới đoạt được chính quyền nên chẳng những không cải tiến mà còn đưa đám “Việt Tân con” ra phản pháo hay tiếp tục quậy phá. Vì thế, chúng tôi buộc lòng phải tiếp tục lên tiếng.

    Tuy là phỏng theo đảng CSVN và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng đảng Việt Tân và Mặt Trận Hoàng Cơ Minh đã không nắm vững kỹ thuật tổ chức và hành động như đảng CSVN nên đã đi từ thất bại này tới thất bại khác.

    Trước năm 1941, đảng CSVN cũng “biểu dương khí thế” lung tung như đảng Việt Tân hiện nay, nên bị Tây bắt quá nhiều. Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế phải ra lệnh cho nhóm CSVN không được để lộ tung tích, ai để lộ sẽ bị tội phản đảng (tử hình). Vì thế, đảng CSVN phải thành lập Mặt Trận Việt Minh và núp dưới danh nghĩa đó để hành động.

    Đảng CSVN cho lập các hạ tầng cơ sở trong nước trước, thường là các “tổ tam tam”, sau đó mới đưa các toán từ hải ngoại về. Khi các toán ở hải ngoại về, họ thường đi từng người hay nhiều nhất là từng ba người. Toán trở về đông nhất là toán của Hồ Chí Minh vào năm 1944, đem theo cũng chỉ 20 cán bộ, vì có sự yểm trợ của Tàu, Pháp và Mỹ. Họ trở về để được Mỹ huấn luyện chống Nhật!

    Mặt Trận Hoàng Cơ Minh đã làm ngược lại hoàn toàn. Trong khi chưa bí mật tổ chức được các cơ sở hạ tầng ở trong nước, Mặt Trận đã tổ chức lễ ra quân rầm rộ ở Washington, sau đó qua Thái Lan lập “Khu Chiến” và cho người đi các trại tỵ nạn tuyển quân và đưa về huấn luyện. Đây là cách “thưa ông tôi ở bụi này” nên mọi đường đi nước bước của Mặt Trận đều bị địch theo dõi và nắm vững. Ba cuộc Đông Tiến được phát động từ 1985 đến 1990 đều sa vào ổ phục kích của địch, vì quân số, ngày xuất quân, lộ trình hành quân và hướng dẫn viên người Lào ... đều nằm trong tay địch. Kết quả: Kháng chiến tan rã.

    ĐƯỜNG LỐI SAI LẦM

    Từ bỏ kháng chiến, Mặt Trận củng cố lại tổ chức và tăng cường các cơ sở kinh tài để “đấu tranh chính trị”. Nhiều người hy vọng Mặt Trận sẽ xây dựng được các cơ sở dân sự ở trong nước để những cơ sở này tự đứng lên đòi hỏi chính quyền phải thay đổi và thực thi dân chủ. Mặt Trận chỉ đứng đàng sau yểm trợ.

    Để thực hiện công tác này, Việt Tân phải bám chặt các thành phần ly khai, các đảng viên đang bất mãn, các thành phần trí thức không chấp nhận chế độ, những thành phần trẻ muốn xây dựng một xã hội mới ... để đặt nền móng cho các cơ sở hoạt động. Trái lại, Việt Tân lại chủ trương đặt cơ sở trong các khu Công Giáo di cư quanh Sài Gòn, Xóm Mới, Hố Nai, Gia Kiệm..., nhưng Việt Tân đã thất bại vì những lý do chính sau đây:

    (1) Thành tích của Việt Tân không đáng tin cậy.
    (2) Cán bộ Việt Tân đi móc nối rất vụng về.
    (3) Nhiều người nghi ngờ Việt Tân là tổ chức chống cộng cò mồi của Công An được đưa đến để gài bẫy. Có linh mục đã nhắn ra hỏi chúng tôi: Việt Tân là tổ chức nào? Có phải là tổ chức chống cộng cò mồi của Công An không?

    Trong hai năm 1975 và 1976, Mai Chí Thọ đã cho thành lập Mặt Trận Phục Quốc giả để gài bắt những thành phần có tinh thần chống cộng, nên ai cũng phải cảnh giác.

    Vả lại, dù có lập được một số cơ sở trong giới Công Giáo di cư đi nữa, Việt Tân không thể xử dụng các cơ sở này để đấu tranh chính trị, vì những nơi đó không phải là môi trường để phát động đấu tranh chính trị.

    Mặt Trận là tổ chức đầu tiên đã đầu tư vào Linh Mục Nguyễn Văn Lý, nhưng sau đó bị hai bà tranh nhau cướp mối của Mặt Trận để kiếm ăn, Mặt Trận bị loại ra. Mặt Trận cũng có đầu tư vào một số tổ chức đối kháng nhưng không thành công. Các nhà ly khai tránh né Mặt Trận vì sợ Công An theo dõi. Nhìn chung, không tổ chức đối kháng nào dám liên kết với Việt Tân vì sợ bị kết án là cấu kết với tổ chức nước ngoài. Báo Công An Nhân số ra ngày 29.3.2007 cho biết Bộ An Ninh đã liệt đảng Việt Tân vào tổ chức phản động.

    Ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư đảng Việt Tân, có cho đài BBC biết Việt Tân đang có những hạ tầng cơ sở ở Việt Nam được xây dựng dưới thời của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh trước đây. Nếu những cơ sở đó nếu quả thật có thì đó là những cơ sở kháng chiến, không phải là cơ sở đấu tranh chính trị.

    Ở hải ngoại, Việt Tân cũng than phiền rất khó mời được một linh mục công giáo tham gia các hoạt động “biểu dương khí thế” của họ, vì các linh mục Việt Nam không muốn dây dưa đến những chuyện tranh chấp trong cộng đồng. Trước những thất bại này, Việt Tân quay lại chống Công Giáo.

    Thời Bác Sĩ Võ Tư Nhượng còn sống, gần nhưng trong bất cứ phiên họp nào của Mặt Trận ở Orange County, ông cũng đều đem Công Giáo ra phỉ báng. Các cán bộ khác ngồi nghe với thái độ biểu đồng tình. Bác Sĩ Võ Tư Nhượng vốn là một đảng viên đảng Cần Lao ở Bình Định trở cờ. Trong “ba năm xáo trộm” (1964 - 1966) ông lãnh đạo Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc Bình Định đi lùng bắt Cần Lao! Ông Lê Văn Diện là một trong những nạn nhân. Một cán bộ Việt Tân cho chúng tôi biết vì nghe Bác Sĩ Võ Tư Nhượng cứ lặp đi lặp lại điệp khúc chống Cộng Giáo, cán bộ này phải từ bỏ đảng Việt Tân!

    Trong một văn thư được đưa lên các diễn đàn Internet ngày 2.7.2008, ông Nguyễn Ước ở Toronto, Canada, có kể lại chuyện nhóm Mặt Trận chiếm lễ đài trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Canada. Chúng tôi xin tóm lược như sau:

    Trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức tại Canada năm 2002, Giáo Dân Việt Nam ở Toronto có lập một “Làng Công Giáo Việt Nam”. Một nhóm liền đến treo cờ vàng ba sọc đỏ quanh lễ đài và buộc các Giám Mục và Linh mục phải chào cờ mới được làm lễ. Hôm đó, chính bản thân ông trực tiếp đề nghị mấy “tổ chức chính trị”, trong đó có Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nên gom cờ vàng ba sọc đỏ vào một khu. Họ đã không chịu nghe mà còn hăm dọa hành hung ông!

    Nếu chỉ đem cờ vàng ba sọc vào đại hội thì chẳng có gì đáng nói. Việc một nhóm đã chiếm lễ đài và treo cờ rồi buộc các Giám Mục và Linh mục VN phải chào cờ rồi mới được dâng thánh lễ là vi phạm tội trespass, tức tội xâm nhập.

    Vì lo ngại nhóm cán bộ Việt Tân sẽ đến quấy phá như ở Canada năm 2002, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Sydney phải tìm cách đề phòng.

    MUỐN “XÀI BẠC GIẢ”

    Thất bại trong việc thành lập các cơ sở dân sự đối kháng ở trong nước, các nhà lãnh đạo Việt Tân quyết định “xài bạc giả”. Một mặt Việt Tân tìm cách đánh chiếm các tổ chức trong cộng đồng người Việt ở Mỹ để nói với Anh Hai rằng Việt Tân là tổ chức đấu tranh lớn nhất ở hải ngoại. Nếu Việt Cộng có dành cho Việt kiều những ghế đại biểu trong quốc hội thì xin nhớ đến “em”. Mặt khác, Việt Tân cho một số cán bộ cao cấp từ hải ngoại về trong nước giả ngồi xếp truyền đơn vào phong bì có logo Việt Tân để cho Công An bắt và nói với đồng bào hải ngoại và dư luận quốc tế: “Chúng tôi có cơ sở đang hoạt động ở trong nước đấy”!

    Chuyện đại biểu Mặt Trận có thể về làm “đại biểu quốc hội” ở trong nước là chuyện khó xẩy ra. Lý do thứ nhất là Anh Hai chủ trương không xài các phần tử của VNCH hay của các tổ chức do các nhóm VNCH lưu vong thành lập để tránh những vướng mắc quá khứ. Anh Hai chỉ xử dụng các thành phần mới do họ đào tạo sau này mà thôi. Do đó, Việt Tân chỉ được Anh Hai xử dụng như một đoàn thể áp lực như các tổ chức đấu tranh khác ở hải ngoại. Lý do thứ hai là Việt Tân đã bị Bộ An Ninh của CSVN xếp vào loại tổ chức phản động, nên không bao giờ chấp nhận cho đại diện của Việt Tân về làm đại biểu Việt kiều hay đại biểu của các đoàn thể đối lập. Do đó, mơ mộng của Việt Tân chỉ là mơ mộng hảo huyền.

    Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy đa số người Việt hải ngoại thường ghép thêm chữ “Mafia” trước chữ Việt Tân và gọi là “Đám Mafia Việt Tân”!

    Nếu Việt Tân không thay đổi đường lối, rồi cũng sẽ đi vào ngỏ cụt như nhiều tổ chức đấu tranh khác ở hải ngoại.

    NHỮNG MÓN NỢ MÁU

    Điểm đặc biệt mà chúng tôi muốn nói với đảng Việt Tân là những món nợ máu mà họ đã gây ra với các chiến hữu, với thân nhân của các nạn nhân và với đồng bào.

    Vì rập khuôn theo tổ chức và chủ trương của đảng CSVN, trong “Khu Chiến” Mặt Trận đã cho áp dụng những biện pháp sắt máu đối với các chiến hữu đã dấn thân phục vụ đất nước, khi có một vài bất đồng chánh kiến.

    Trong cuốn hồi ký về “Bí Mật Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh”, anh Phạm Hoàng Tùng, một kháng chiến quân trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh có kể lại ba cái chết thê thảm do thanh toán trong nội bộ tại Khu Chiến của Mặt Trận, đó là cái chết của Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, Nguyễn Văn Huy và Lê Tuấn Hùng. Trong bài này, chúng tôi sẽ nói đến cái chết đau thương của Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều.

    Phạm Hoàng Tùng cho biết trong khóa học Quân Chính II, có một sự kiện mà đến giờ anh vẫn còn nhớ, đó là câu hỏi của chiến hữu Nguyễn Hữu Nhiều dành cho chiến hữu Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh. Hôm đó trong lúc thảo luận về công tác lãnh đạo của Mặt Trận, anh Nhiều bỗng giơ tay xin hỏi chiến hữu Chủ Tịch: “Mặt Trận có bao giờ chuẩn bị nhân vật nào thừa kế cho Chủ Tịch Mặt Trận trong trường hợp vị lãnh đạo tổ chức quá vãng hay không?” Vì ngồi ở đầu bàn, tôi thấy chiến hữu Chủ Tịch mặt hơi biến sắc, tuy nhiên sau đó ông lại ôn tồn trả lời cho cả lớp, mặc dù không đi ngay vào câu hỏi của chiến hữu Nhiều.

    Anh Phạm Hoàng Tùng kể lại câu chuyện thảm sát Bác Sĩ Nhiều đã xẩy ra sau đó như sau:

    Anh biết chiến hữu Nhiều qua khóa học Quân Chính, đây cũng là lần đầu và lần cuối anh gặp Bác Sĩ Nhiều tại Khu Chiến. Sau khi thụ huấn xong khóa Quân Chính II, anh trở về căn cứ 27 tiếp tục công tác tại đài Phát Thanh Việt Nam Kháng Chiến một thời gian. Còn chiến hữu Nhiều trở về công tác tại trạm xá ở căn cứ 81 như trước đây. Bẵng đi một thời gian, chừng vài tháng sau, có tin anh Nhiều đã bị Mặt Trận tuyên án tử hình tại căn cứ 81. Theo tin đồn trong các anh em kháng chiến quân trong Khu Chiến, có lẽ anh Nhiều bị tử hình vì “chống đối và định bỏ trốn”. Những tin này xuất phát từ căn cứ 81, nơi chiến hữu Nhiều công tác, đặc biệt là những tin do các anh em trong toán thi hành kỷ luật tiết lộ ra.

    Cái chết của anh Nhiều sau này cũng được báo chí cộng sản khai thác như một bằng chứng về chính sách “khắc nghiệt và tàn ác” của Mặt Trận. Họ đã căn cứ vào bản án tìm thấy trong túi xách của Trần Thiện Khải để rêu rao chuyện này. Bản án ghi rõ Bác Sĩ Nguyễn Nhiều bị tử hình vì “bất tuân thượng lệnh”.

    Theo những thông tin trong khu chiến, Bác Sĩ Nhiều tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa tại Sài Gòn năm 1974 và làm việc tại Bệnh Viện Nguyễn Văn Học ở Gia Định. Khoảng cuối năm 1984 đầu năm 1985, Bác Sĩ Nhiều cùng gia đình vượt biên đến trại tị nạn đường bộ ở sát biên giới Thái - Cambodia. Mặt Trận đã đến tiếp xúc và thuyết phục anh tham gia Mặt Trận. Bác Sĩ Nhiều có đặt vấn đề với Mặt Trận: Nếu Mặt Trận giúp cho vợ con anh đi định cư tại hải ngoại, anh sẽ lên đường vào Khu Chiến. Mặt Trận đồng ý.

    Sau khi dự khóa học về kháng chiến quân, Bác Sĩ Nhiều được điều động vào làm việc tại trạm xá của căn cứ 81. Trong thời gian ở đây, anh Nhiều có huấn luyện về chuyên môn cho các anh em kháng chiến quân đang phụ trách về công tác quân y. Anh rất được cấp trên trọng dụng.

    Tại trạm xá căn cứ 81, có những kháng chiến quân đang điều trị bịnh sốt rét, nên khẩu phần dinh dưỡng cho trạm xá tương đối đặc biệt, so với các đơn vị khác hay các tiền đồn. Trạm xá được tiếp tế rau cải tươi đều đặn, có phần thịt tươi hàng ngày hoặc hàng tuần, thêm ít bánh trái, đường cát trắng, sữa hộp và quà cáp. Riêng chiến hữu Nhiều được cung cấp cả thuốc thơm Samit, một loại thuốc lá nổi tiếng và đắt tiền ở đất Thái vào thời đó.

    Theo tin đồn ở căn cứ 81, anh Nhiều có vẻ bất mãn khi không được Mặt Trận giao cho nhiệm vụ tương đương với chức vụ Ngoại Trưởng. Nhưng đây có thể là tin đồn do Mặt Trận đưa ra để bêu xấu anh. Bác Sĩ Nhiều không bao giờ có tâm tình như vậy. Tuy nhiên, sau một thời gian được trọng đãi, bỗng nhiên chiến hữu Nhiều bị thất sủng!

    Chưa ai rõ chuyện gì đã xẩy ra giữa anh Nhiều và bộ chỉ huy của Mặt Trận, nhưng thành thật mà nói anh Nhiều đôi khi cũng có thái độ tự cao tự đại. Ít lâu sau, anh Nhiều bị hạ tầng công tác. Anh không còn được làm việc tại trạm xá căn cứ 81 như một Bác Sĩ chuyên nghiệp, anh bị điều đi làm công tác gác cửa hàng ngày ở vòng rào của căn cứ 81!

    Từ khi bị hạ tầng công tác, anh Nhiều ngày càng sa sút tinh thần, sắc diện đổi hẵn. Anh thường nói những điều bất mãn về Mặt Trận.

    Để nắm vững tình hình của anh Nhiều, Mặt Trận đã cho một thanh niên trẻ khoảng 17 đến làm việc chung với anh Nhiều và lấy tin tức. Anh Nhiều thường tâm sự với cậu này. Theo cậu ta kể lại, anh Nhiều đã có lần tỏ ý muốn trốn khỏi Khu Chiến và rũ anh đi theo để tìm cuộc sống khác. Nhận được những tin tức này, bộ chỉ huy của Mặt Trận đã quyết định áp dụng các biện pháp kỷ luật đối với anh Nhiều.

    Một số anh em kháng chiến quân tại căn cứ 81 cho biết, một hôm khi đang ngồi gác cổng như thường lệ, chiến hữu Nhiều được một toán công tác đến báo tin cho biết có lịnh bảo anh phải đi công tác xa với toán này. Một người trong toán công tác thi hành kỷ luật này có thể là Trần Văn Quốc. Anh là người tỉnh Sông Bé, thuở nhỏ từng làm giao liên cho Việt Cộng. Bỗng nhiên anh bỏ đảng và vượt biên qua Thái, rồi sau đó tham gia Mặt Trận. Anh Quốc rất gan dạ, khỏe mạnh, chấp hành kỷ luật tốt, giỏi nghề đi rừng và bẫy thú rừng.

    Theo một số kháng chiến quân kể lại, toán hành quyết đã dẫn anh Nhiều tiến vào rừng sâu, đến một nơi có đào sẵn một cái hố. Tới đây, các chiến hữu thi hành kỷ luật mới báo cho anh Nhiều biết Mặt Trận đã quyết định xử tử anh. Trước khi hành quyết anh, họ đã mời anh hút một điếu thuốc.

    Khi biết tin như vậy, anh Nhiều đã quì xuống khóc than, van xin các kháng chiến quân đừng bắn anh. Nhưng ba kháng chiến quân có nhiệm vụ thi hành kỷ luật cương quyết thi hành lệnh. Sau khi bắn, họ đã chôn anh vào cái hố đã đào sẵn. Lúc đó Bác Sĩ Nhiều chỉ mới 40 tuổi.

    Trong những bài tới chúng tôi sẽ tường thuật những trường hợp khác.

    TÌM CÁCH CHỐI QUANH

    Khi những sự kiện như đã nói trên được các kháng chiến quân của Mặt Trận tường thuật lạI, Mặt Trận và Việt Tân thường tìm cách chối quanh.

    Trong một cuộc phỏng vấn của đài BBC do Nguyễn Hùng thực hiện, ông Lý Thái Hùng đã bác bỏ toàn bộ cuốn hồi ký “Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh” của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng.

    Khi phóng viên của đài BBC hỏi về những cáo buộc của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng về việc Mặt Trận đã giết hại những người đổi ý định không chịu đi theo Mặt Trận. Ông Lý Thái Hùng nói rằng hồi ký đó đã đưa ra nhiều cáo buộc về những hành động vốn gây cho ông bất bình. Tuy nhiên, ông đã bác bỏ những cáo buộc này. Ông nói:

    ''Những chuyện mà anh Phạm Hoàng Tùng kể là anh nghe lại chứ đối với Việt Tân những chuyện đó không hề xảy ra.

    "Trong toàn bộ cuốn sách mà anh viết và tôi có đọc thì sự hư cấu và suy diễn nhiều hơn. Và nhiều khi sự hư cấu và suy diễn đã làm mất đi tính trung thực của cuốn sách.”

    Trước cơ quan pháp lý và trước công luận mà phủ nhận một cách khơi khơi như vậy chẳng ai chấp nhận. Muốn phản chứng phải đưa ra các bằng chứng cụ thể để chống lại. Thí dụ trong vụ Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều bị tuyên án tử hình và bị hành quyết, Việt Tân phải đưa ra các nhân chứng để chứng minh lời tường thuật của Phạm Hoàng Tùng là sai và chứng minh Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều hiện nay ở đâu, và nếu đã chết thì chết như thế nào và xác đang chôn ở đâu. Việt Tân phải cho gia đình nạn nhân biết nơi chôn cất để gia đình có thể đến hốt cốt. Một cuộc giảo nghiệm tử thi và chung quanh nơi chôn cất sẽ đưa ra ánh sáng những sự thật. Mặt Trận không thể chối quanh theo kiểu ông Lý Thái Hùng được.

    Lữ Giang

    Wednesday, July 23, 2008

    Em Bé Việt được Đức Giáo Hoàng hôn trong Thánh Lễ Cuối Cùng của Đại Hội

    Angelic ... the Pope plucked little Tumi Le from a 350,000-strong crowd... and there seems more to it than luck.
    Jeff Darmanin.

    Đôi vợ chồng trẻ Tú và Bích Lý và bé Tumi từ Cabramatta đến tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật, ngày cuối cùng của Đại Hội, khi Xe của Đức Giáo Hoàng đi ngang, bé Tumi được mẹ bế đưa lên cao để chào đón Đức Giáo Hoàng, như bao nhiêu người hành hương khác đang làm khi đoàn xe Đức Giáo Hoàng tiến đến ….

    "Thình lình một ông an ninh đưa tay ẵm bé Tumi, tôi đã đưa bé lên thật cao, vì tôi hy vọng Đức Thánh Cha thấy cháu bé và đưa tay ban phép lành cho bé" - Bích Ly nói - "Tôi không nghĩ bé Tumi được đón nhận, lúc đầu tôi nghĩ nhân viên an ninh này sẽ bảo tôi lui lại phía sau vì tôi tiến lên quá xa ! nhưng ông ta nói, không sao" - "Tôi để ông ta ẩm bé Tumi , và Đức Thánh Cha đã hôn bé. Tôi bật khóc - Giây phút đó tôi sẽ không bao giờ quên"

    Cháu Tumi được biết có liên hệ họ hàng với một vị thánh tử đạo Việt Nam trãi dài qua 6 đời hơn 150 năm.

    Thánh Joseph Lưu , 64 tuổi chết trong tù tại Vĩnh Long Việt Nam ngày 2 tháng năm 1654 vì ông bị tra tấn mang với thương tích trầm trọng.

    Trước đó một năm ông bị bắt, vì từ chối không chịu bỏ đạo Thiên Chúa ông đã bị hành hạ nhiều kiểu khác nhau kể cả đóng đinh trên thập tự giá.

    Đức Giáo Hoàng John Paul II đã phong thánh cho ông trong năm 1988.

    Thánh Joseph Lưu là một trong 117 Thánh tử đạo của Việt Nam, tử tiết trong thời gian 1625 - 1886.

    Xin đọc thêm bài viết từ báo Daily Telegraph Sydney July 21 2008.

    HMT


    Tumi Le meets Pope Benedict XVI with kiss

    By Michelle Cazzulino and Kate Sikora
    July 21, 2008 07:46am - Article from:

    http://www.news.com.au/story/0,23599,24049278-5016937,00.html



    Tumi Le meets Pope Benedict XVI with kiss
    By Michelle Cazzulino and Kate Sikora
    July 21, 2008 07:46am

    LITTLE does baby Tumi know that yesterday's historic kiss by Pope Benedict during World Youth Day continues her family's religious lineage that spans six generations.

    More than 150 years after the death of her canonised relative, Vietnamese preacher Joseph Luu, Tumi was yesterday one of just three babies to be embraced in the Pontiff's gentle arms.

    Tumi's family believes it was the intercession of her great-great-great-great-great-great-grandfather, Saint Joseph Luu, that led to her unexpected audience with Pope Benedict XVI yesterday.

    An estimated 400,000 people turned out for World Youth Day's final event, the Final Mass, which was offered at Randwick racecourse.

    Earlier, tens of thousands of cheering pilgrims who had spent Saturday night sleeping under the stars lined the perimeter of the venue crying, "Viva il Papa!" as the papal motorcade completed a slow circuit.

    Like many other young mothers around her, Bichly Le held her youngest daughter aloft as the official procession approached.

    "A gentleman from security picked her up ... I had lifted her very high because I just wanted the Pope to see her. I was hoping he would wave at her or bless her," she said.

    "I didn't know he would take her. I thought he might tell me to back off because maybe I'd gone too far, but he said, 'It's OK'.

    "I let him take her, and the Pope was kissing her. I was crying - it's a moment I will never forget."

    Along with husband Tu, Mrs Le has been heavily involved with World Youth Day.

    The family has billeted nine pilgrims at their Cabramatta home for the past week.

    Mrs Le said her unwavering faith in St Joseph Luu had guided her through difficult periods in her life.

    "Over the past few months we've been having a hard time financially because of rising interest rates, so I've been praying to him.

    "It hasn't made a difference financially, but this happening, I think, is more important than anything."

    Clare Hill, who turned one last week, got a belated birthday present when she was also picked out of the crowd to be blessed by the Pope.

    Her proud father Peter said it was an "emotional" moment and described it as a blessing on his family.

    "They carried the baby over to the popemobile, the electric window went down, the Holy Father took hold of Clare and gave her a blessing and a kiss," Mr Hill, from the South Coast, said yesterday.

    "The crowd nearby wanted to be photographed with Clare straight afterwards and to kiss her," he said.

    World Youth Day organisers were last night similarly grateful to Pope Benedict as they reflected on the enormous success of the Catholic youth festival.

    Speaking at yesterday's Mass, Cardinal George Pell extended his "profound thanks" to the Pontiff, adding a special message to the 215,000 registered pilgrims who took part in the week-long event.

    "You have planted a seed here in the great south land that will, please God, yield a hundredfold harvest," he said.

    WYD co-ordinator Bishop Anthony Fisher said Sydney had extended its heart and arms.

    "Sydney has really been struck by a tsunami of faith and goodwill," Bishop Fisher said.

    "I want to thank Sydney - it has opened its roads, its fridges, its homes, its halls, its arms and hearts to the young people."

    Bishop Fisher said he had been touched by the personal accounts he had heard since the festival began on July 15.

    "So many people have contributed to this. I have heard of train drivers and bus drivers taking extra shifts," he said.

    Bishop Fisher said images of Sydney and World Youth Day had been beamed to almost a billion viewers, and last Friday's dramatisation of the Stations of the Cross had been described as one of the most moving renditions ever seen.

    "There were so many activities to make it a very, very special week.

    "The wonderful messages and wonderful preaching of the Holy Father (made it special)."

    Almost half the registered pilgrims were from overseas.

    They are expected to begin their journey home from today, with Sydney Airport predicted to experience its busiest day ever.

    After a ceremony to thank World Youth Day's 800 volunteers, Pope Benedict will fly back to Rome this morning.

    But the church has admitted the future of Catholicism in Australia remains unknown, despite the popularity of World Youth Day.

    July 21, 2008 07:46am

    http://www.news.com.au/story/0,23599,24049278-5016937,00.html