Thursday, July 3, 2008

Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn

Lê Văn Ấn

Theo thông báo chính thức của linh mục Gioan Têrêxa Nguyễn Minh Hiền, chánh xứ St Patrick, Đại diện Giám mục Đặc trách Mục vụ Việt Nam, thì Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ dâng 2 thánh lễ tại San Jose, một tại nhà thờ St Maria Goretti lúc 6:30 chiều ngày Thứ Bảy 5.7.2008 và một lễ khác tại nhà thờ St Patrick lúc 8:45 sáng Chủ Nhật, 6.7.2008.

Những tin tức từ Nam California cho chúng tôi biết, giáo dân cũng như đồng hương ngoài Công Giáo ở Nam California đã bày tỏ sự phản đối Đức Hồng Y Pham Minh Mẫn với Đức Cha Mai Thanh Lương cũng như các linh mục trong vùng, do đó, những thánh lễ do Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn dự trù cử hành tại đây đã bị bãi bỏ. Đây là một việc làm rất đáng tiếc của giáo dân và đồng hương tại Nam California, nhưng căn cứ vào những lời tuyên bố của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn những ngày gần đây, đã chứng tỏ Ngài đang làm một công việc rất lợi ích cho Cộng Sản Việt Nam, và cũng bất lợi cho tín lý Công Giáo qua bức thư ngỏ của Ngài gởi cho 3 Giám mục Việt Nam sẽ tham dự Hội nghị Giới Trẻ Thế Giới tại Úc, thì việc làm của giáo dân cũng như đồng hương Nam California là một việc làm chính đáng.

Bức thư của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn được chia ra làm 6 đoạn có đánh số thứ tự. Trong Mục 2 Ngài viết “WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ Việt Nam từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung”. Qua đoạn văn này, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không phản ảnh trung thực sự việc. Không có sự tắc nghẽn như Ngài nói, không có một sự kiện (sự cố, ngôn ngữ của VC) nào đáng tiếc xảy ra. Trái lại, khi được dương lên, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã được hoan hô. Đây chỉ là cái cớ, vu vạ cho lá cờ Vàng mà thôi.

Ở đoạn 2, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết: “… Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đấtr nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa, chủ nghĩ tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia… Có lúc chỉ biểu tượng một thói đời mang tính đối kháng”. Rõ ràng, Đức Hồng Y đã gán cho chúng ta, những người Việt tỵ nạn Cộng Sản nói chung và người Công Giáo tỵ nạn Cộng Sản nói riêng, là những “thói đời mang tính đối kháng”. Câu nói vô nghĩa, nhưng nó lại mang tính miệt thị người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại đã đối kháng những gì? Chúng ta, chẳng những đối kháng mà còn đấu tranh chống lại độc tài đảng trị của Cộng Sản Việt Nam, chúng ta đã chống đối (hay đồi kháng) chủ nghĩa tam vô của Cộng Sản, chúng ta đối kháng với đàn áp tôn giáo, tại Việt Nam. Những sự đối kháng này phù hợp với văn minh nhân loại, phù hợp với giáo lý Công giáo, thế mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã miệt thị chúng ta. Và như vậy, rõ ràng Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã đứng về phía Cộng Sản Việt Nam đề mỉa mai sự đối kháng này. Với lòng dạ của Đức Hồng Y như vậy, quả thật Ngài đã chống lại giáo lý Công giáo, chống lai văn minh nhân loại. Nói như vậy, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã mất tính đối kháng sự dữ, sự dối trá, do đó, Công an Việt Cộng đã đưa nước vòi rồng xịt thẳng vào mặt Đức Mẹ trước nhà thờ Đức Bà, ngài cũng vui vẻ, Ngài hứa với giáo dân sẽ điều tra vụ Đức Mẹ Khóc, nhưng mấy năm qua rồi, vì mang tính không đối kháng nên Ngài vẫn im lặng. Ngài còn im lặng trước nhiều sự việc khác.

Cũng trong mục số 3 này, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn viết: “người mẹ Việt Nam , lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hóa của dân tộc VN, một nền văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức.” Không biết Đức Hồng Y căn cứ vào đâu mà cho rằng lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ) Mẹ Việt Nam cũng sinh thành dưỡng dục và để lại di sản văn hóa khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức cho con cái. Phải chăng, đó là Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Ðất giết hại hàng trăm người Việt vô tội, giết hàng trăm, người tu hành, mà sư phụ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ là một ví dụ cụ thể nhất và còn nhiều nhiều nữa, đến nỗi Ðức Piô 12 đã có những quyết định hết sức nghiêm khắc với những đảng viên Cộng Sản. Xin Ðức Hồng Y đừng đồng hóa Mẹ Việt Nam với Cộng Sản. Trên thực tế, lúc cái áo đỏ được Cộng Sản trùm lên dân tộc thì nền văn hóa của các dân tộc trong đó có dân tộc Việt Nam, đều bị Cộng Sản ra tay phá hoại, tiêu diệt. Nói rằng lúc bận áo đỏ (cờ đỏ) văn hóa truyền thống Việt Nam được mẹ áo đỏ này để lại hay làm phong phú thì quả thật Ðức Hồng Y đã CHÀ ÐẠP SỰ THẬT một cách tàn nhẫn.

Ở đoạn 4, Ðức Hồng Y cho rằng: “Ðời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng và loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ chung một mẹ.”.

Giọng văn của Ðức Hồng Y thật là gay gắt đối với “thói đời mang tính đối kháng” như vậy! Những thói đời đối kháng này đã rất hào hiệp khi Ðức Hồng Y đứng trước cửa nhà thờ ngửa tay ra với họ. Những thói đời mang tính đối kháng này đã vì muốn sống đời tự do dân chủ, tự do thực hành tôn giáo của mình mà phải ra đi, thế mà Việt Cộng vẫn chưa chịu buông tha, vẫn cho những cán bộ tuyên vận của chúng ra rủ rê, tuyên truyền lôi cuốn, chia rẽ họ. Ai là “thói đời mang tính đối kháng” nếu không phải là Việt Cộng và những cán bộ tuyên vận của chúng? Từ khi bức thư của Ðức Hồng Y được phổ biến, nó đã gây nên một luồng dư luận xấu cho Giáo Hội Công Giáo, nó đã bị những kẻ bị Ðức Hồng Y khinh miệt, gọi là “thói đời mang tính đối kháng” không phần biệt lương giáo phản đối. Tôi không tin rằng Ðức Hồng Y không tiên đoán (hay dự kiến, danh từ VC) những phản ứng này, tại sao Ðức Hồng Y vẫn làm? Tại vì Ðức Hồng Y muốn chia rẽ giới trẻ trong và ngoài nước, tại vì Ðức Hồng Y muốn tâng công với Việt Cộng, miệt thị người Việt tị nạn Cộng Sản, tại vì Ðức Hồng Y muốn hưởng những bổng lộc của Việt Cộng nên mới gieo một mầm mống chia rẽ giữa Ðại Hội Giới Trẻ. Không phải một mình tôi nói, mà có hàng ngàn tiếng nói, ngay cả Ban Tổ Chức cũng phản đối âm mưu chia rẽ của Ðức Hồng Y. Nếu những lời này Ðức Hồng Y “giảng” trong một thánh đường, giữa một buổi hội họp của Việt Cộng, chắc chắn Việt Cộng không để yên cho Ngài. Nhưng ngài nói trong một bức thư phản đối sự hiện diện của cờ Vàng thì quả thực, Ðức Hồng Y đã cho người Việt tị nạn Cộng Sản là loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ con cái chung một dân tộc.

Cộng Sản đã không ở yên ngoài Bắc theo hiệp định Genève, Cộng Sản đã tấn công miền Nam, những người Việt không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản đã vượt biên, vượt biển để sống đời tự do, Việt Cộng còn không chịu, còn vươn tay ra phá hoại, lũng đoạn. Ðức Hồng Y ra hải ngoại mượn danh là “làm mục vụ di dân” mà thực chất là quyên góp tiền bạc. Ðiều này không có gì sai trái, nhưng đả kích cái biểu tượng thiêng liêng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt tị nạn là một hành vi tuyên truyền cho Việt Cộng, lại gọi những người Việt tị nạn là kẻ “thói đời mang tính đối kháng” là một hành vi không thể chấp nhận được. Ðó chẳng những là hành vi làm tắc nghẽn sự hiệp thông mà còn là một hành vi “loại trừ nhau trong hàng ngũ con cái chung của một dân tộc. Tiếc thay, Ðức Hồng Y đã làm những điều đó.

Ở đoạn 3, khi đưa ra 3 ví dụ về “giá trị tinh thần và đạo đức của nền văn hóa Việt Nam, Ðức Hồng Y đã không đưa ra được một ví dụ nào về “tinh thần và đạo đức” của “mẹ Việt Nam” khi “bận áo đỏ”.

Chúng tôi biết, trong ví dụ “tứ hải giai huynh đệ” có thể Ðức Hồng Y muốn đạo văn của người xưa, làm cho người đọc liên tưởng đến “thế giới đại đồng” của Cộng Sản. Nếu Ðức Hồng Y muốn giả mù sa mưa thì quả thật hết sức sai lầm, Ðạo Công Giáo cũng “tứ hải giai huynh đệ”, yêu tha nhân như chính mình như Nho Giáo nhưng cách tạo nên “tứ hải giai huynh đệ” khác với thế giới đại đồng như nước với lửa, một bên là lấy nhân ái thu phục nhân tâm cho họ tiến tới giai huynh, một bên là lợi dụng đại đồng để dùng võ lực và tàn ác xích hóa nhân loại. Ðức Hồng Y cho Việt Cộng “ăn theo” “giữ chực” trong đoạn văn này. Việt Cộng sẽ khen Ðức Hồng Y, tặng huy chương tuyên truyền hạng nhứt cho Ngài. Nhưng đối với chúng tôi, những người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại rất buồn, vì Cộng Sản đã tha hóa quý vị lãnh đạo tôn giáo đến độ nhuần nhuyễn. Trước đây, chúng tôi trách cố Giám Mục Nguyễn Quang Tuyến, Giám Mục Bắc Ninh đã dùng chữ “thuần hóa” để chỉ xu hướng của các Giám Mục. Nhưng lời nói đó nay đã được Ðức Hồng Y chứng quả.

Giáo dân hay không phải giáo dân, tất cả người Việt tỵ nạn Cộng Sản, đang đứng dưới lá cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, đang xem lá cờ này tượng trưng cho quốc gia dân tộc, không thể chấp nhận những kẻ miệt thị nó, chê bỏ nó. Cách hay nhất là chúng ta ĐƯA LÁ CỜ NÀY đến bất cứ nơi nào có sự xuất hiện của hạng người này, dù là chức sắc của bất kỳ tôn giáo nào. Cách hay nhất để những kẻ này không đến “đối kháng” với chúng ta là không giao thiệp với họ, không làm bất kỳ công việc nào dính dáng tới họ.

Lê Văn Ấn

Nhận định về Thư Mục Vụ Về Ngày Giới Trẻ Thế Giới của Hồng Y Phạm Minh Mẫn

Chúa Giêsu bảo: "Anh em không dược làm tôi 2 chủ"
Hồng y Phạm Minh Mẫn đang làm tôi mọi cho csVN


Nguyễn Xuân Tùng

Trong những ngày đầu tháng 6 năm 2008, cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản hải ngoại lại xôn xao bình phẩm khi đọc trên website http://www.conggiaovietnam.net/ hay trong email http://www.conggiaovietnam@gmail.com thư mục vụ về Ngày Giới Trẻ Thế Giới của Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Nhưng nội dung thư mục vụ lại chú tâm về vấn đề chính trị “cờ vàng, cờ đỏ, áo lành, áo rách…” và cho đó là nguyên nhân làm tắc nghẽn hiệp thông với nhau và với Chúa. Để độc giả có đủ dữ kiện thẩm định tính cách “hồng hơn Công”* của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong thư mục vụ và cũng để chứng tỏ người viết chỉ trung thực căn cứ vào nguyên văn “thư mục vụ cờ vàng cờ đỏ” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn để thẳng thắn nhận định chứ không thêm bớt, cắt xén làm thư mục vụ của Hồng Y Phạm Minh Mẫn mất tính cách “lành thánh” để “vu oan giá họa” cho ngài. Nguyên văn thư mục vụ trên website “Tiếng Vọng Gioan Baotixita” như thế này:

[Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu là trái tim chứa đầy lòng từ bi bao dung của Cha trên trời, xin uốn lòng chúng con nên giống như Trái Tim Chúa.

Tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày 4, năm 2008
Kính gởi Đức Cha chủ tịch UBGM đặc trách Mục vụ Giới Trẻ,
Đức Cha chủ tịch UBGM đặc trách Giáo lý Đức tin,
Đức Cha Giuse, Giám mục Lạng Sơn

Thưa quý Đức Cha,

1. Đức Hồng Y G.Pell mới biên thư tha thiết mời cá nhân tôi đến Sydney dự WYD 2008. Thấy không từ chối được, tôi phải cắt bớt chuyến đi công tác mục vụ di dân của tôi và những ngày nghỉ để đáp lời mời của Ngài. Sau khi suy nghĩ mình phải làm gì đem lại lợi ích thiêng liêng cho các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ về một chỗ để cùng gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, để làm chứng cho niềm tin của mình, tôi muốn chia sẻ vài ý nghĩ với quý Đức Cha sẽ có mặt trong WYD. Mục đích là cùng nhau giúp cho các bạn trẻ, - là sức sống của Giáo Hội, của đất nước -, khai thông con đường hiệp thông với Chúa là Cha trên trời, hiệp thông với nhau là con một Cha, là anh em một nhà. Một sự hiệp thông phong phú hoá, tăng lực cho sức sống trẻ của các bạn.]

Nhận định:

Trên Diễn Đàn Kitô-hữu ngày thứ tư 11 tháng 6 năm 2008 tại miền Nam California, tôi và Linh Mục Nguyên Thanh đã thảo luận về Thư Mục Vụ ngày 04/05/2008 của Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Nội dung thư mục vụ đề cập tới Ngày Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day) và lý do khiến Hồng Y Pham Minh Mẫn phải đến tham dự “vì lời mời tha thiết của Đức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Sydney.

Theo mạch văn thì có thể hiểu là vì Đức Hồng Y George Pell năn nỷ ỷ ôi qúa nên Hồng Y Phạm Minh Mẫn mới phải nể tình miễn cưỡng nhận lời và “phải cắt bớt chuyến đi công tác mục vụ di dân (1) và những ngày nghỉ (2) để đáp lời mời tha thiết của ngài”.

Nhưng qua giáo đầu “thư mục vụ” để có cớ đi vào vấn đề chính trị “muốn dẹp bỏ quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ làm tắc nghẽn hiệp thông với nhau và với Chúa” (sic). Tôi thấy Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã cố tình viện dẫn lý do là ngài chẳng hề quan tâm và muốn đề cập tới vấn đề [cờ vàng, cờ đỏ] ở Sydney nên mới “đi công tác mục vụ di dân” và đi nghỉ dưỡng sức. Nhưng vì bị Hồng Y George Pell nài nỷ như nhân vật trong kinh thánh ban đêm đến nhà người bạn mượn thức ăn đãi khách. Người bạn trong lòng không muốn cho mượn nhưng vì bị quấy rầy giấc ngủ nên đành phải miễn cưỡng chỗi dậy cho mượn để còn an giấc. Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng thế, ngài phải miễn cưỡng nhận lời tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney nên mới bất chợt quan tâm đặt thành vấn đề cờ vàng cờ đỏ, áo lành áo rách… mà thôi chứ đó không phải la chủ đích của ngài. Hồng Y Phạm Minh Mẫn nhập đề như thế thì khôn ngoan khéo léo và có vẻ tự nhiên quá. Nhưng khôn mà không ngoan vì theo nhận định của người viết thì cả hai lý do mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn nêu ra như một cái cớ đặt thành vấn đề [cờ vàng, cờ đỏ] đều không minh chính vì những lý do sau:

(1)- Bận đi công tác mục vụ di dân:

Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu “mục vụ di dân” là cái gì cả! Bởi vì những người Việt Nam lìa bỏ ruộng vườn mồ mả cha ông, đất nước và cả giáo hội ra đi lánh đại nạn cộng sản để mong ngày quang phục quê hương từ 30 tháng 4 năm 1975 đến nay thì xét trên bình diện công pháp quốc tế và trên bình diện tinh thần giáo luật thì không còn là công dân Việt Nam xã hội chủ nghĩa và cũng không còn là giáo dân của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nữa. Theo Giáo Luật điều 13 thì “các luật địa phương liên quan đến giáo hội không được suy đoán là tòng nhân nhưng tòng thổ, ngoại trừ khi đã rõ cách khác. Các người lữ khách không bị bó buộc giữ những luật địa phương của lãnh thổ mình một khi họ đã ra ngoài lãnh thổ ấy”.

Vậy thưa Hồng Y Phạm Minh Mẫn, nếu những “lữ khách” Việt Nam mà còn không bị bó buộc giữ những luật địa phương của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói chung và Giáo Phận Saigòn hay “Tổng Giáo Phận Hồ Chí Minh” của Đức Hồng Y nói riêng thì phương chi những người Việt Nam tỵ nạn cộng sản hải ngoại đã tái định cư tại các quốc gia tự do trên thế giới từ 33 năm nay; đã vào quốc tịch để trở thành dân bản xứ gốc Việt ở các nước tạm dung; đã hội nhập vào các giáo hội công giáo địa phương theo luật tòng thổ, thì trên nguyên tắc họ đâu còn liên quan gì đến trách nhiệm mục vụ của Hồng Y và các giám mục Việt Nam nữa, thưa Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Vì thế, Hồng Y khỏi cần phải “dã tràng xe cát biển đông” [đi làm mục vụ di dân] cho tổn thọ. Một việc không phải là bổn phận trách nhiệm của Hông Y mà Hồng Y cứ nhận vơ là bổn phận trách nhiệm của mình để [đi làm mục vụ di dân] cho bằng được thì hoặc là vì hám lợi, hám đô-la trong túi áo túi quần của “người di dân”. Hoặc là muốn “mượn đầu heo nấu cháo”, đi làm “mục vụ đỏ” tuyên truyền cho cộng sản để đền dấp công ơn của “đảng và nhà nước” đã cất nhắc Hồng Y lên địa vị cao sang trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ngày nay. Ngoài ra, có tin cho biết là Hồng Y đã nhiều lần xuất ngoại xin tiền giáo dân để xây cất cơ sở từ thiện, bệnh viện trong giáo phận nhưng thực chất là xin tiền trả nợ vì đã trót làm ăn thua lỗ với cộng sản. Gây nhiều tổn thất cho giáo phận và tổng giáo phận của Hồng Y chứ không phải mục đích [đi làm mục vụ di dân]. Và như thế thì quả là Hồng Y đã lạm dụng danh nghĩa [mục vụ di dân] và lạm dụng năng quyền giám mục mà giáo hội hoàn vũ đã trao phó cho Hồng Y khi phong chức Giám Mục cho Hồng Y. Năng quyền đó là trách nhiệm giám mục coi sóc đoàn chiên trong phạm vi lãnh thổ giáo phận của Hồng Y mà thôi. Hồng Y chỉ có thực quyền Giám Mục trong Giáo Phận Saigòn mà thôi. Ngay cả chức năng Tổng giám Mục coi sóc Tổng Giáo Phận Saigòn thì nó cũng chỉ có tính cách tổng quát trong tổng giáo phận (gồm nhiều giáo phận). Còn thực quyền vẫn nằm trong tay các giám mục giáo phận mà theo giáo luật và theo tinh thần “Sắc Lệnh Về Nhiệm Vụ Mục Vụ Của Các Giám Mục Trong Giáo Hội (Christus dominus)” đã quy định rõ ràng trong công đồng Vaticanô II (1962). Theo tinh thần đó, Giám Mục mới là người thực sự kế vị các tông đồ của Chúa Giêsu-kitô và là chủ chiên duy nhất có thực quyền trong giáo phận của mình. Có bổn phận và trách nhiệm trực tiếp đối với giáo dân trong giáo phận của mình và chỉ trong giáo phận của mình mà thôi. Ra khỏi giáo phận của mình, giám mục không có năng quyền chi hết. Vì vậy khi đến bất cứ giáo phận nào không phải là giáo phận của mình thì giám mục, tổng giám mục và cả hồng y –ngoại trừ duy nhất Đức Giáo Hoàng- đều phải xin phép giám mục địa phương sở tại và chỉ khi nào được giám mục địa phương sở tại cho phép làm mục vụ trong giáo phận của họ thì vị giám mục ngoại trú đó mới được phép thi hành chức năng giám mục của mình. Trường hợp không được giám mục sở tại cho phép thì các vị chỉ ngồi chơi sơi nước như một giáo dân. Và chỉ có quyền chu toàn bổn phận cá nhân dâng thánh lễ hàng ngày kín đáo trong phòng riêng cho riêng mình mà thôi. Không được phép mời giáo dân sở tại tham dự thánh lễ do mình cử hành, dù là giáo dân thân quen với mình đang cư ngụ trong giáo phận sở tại đó.

Tiện đây xin thưa để đồng bào tín đồ các tôn giáo bạn rõ: Trong Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, chỉ có ba cấp chức hay còn gọi là thánh chức căn bản, đó là: chức Phó Tế, chức Linh Mục, và chức Giám Mục. Phó tế, linh mục thuộc hàng giáo sỹ nhưng không có thẩm quyền tuyển chọn, truyền chức phó tế, linh mục cho người khác. Phó Tế, Linh Mục chỉ buộc phải vâng phục Giám Mục sở tại của mình mà thôi. Giám mục thuộc hàng giáo phẩm cao cấp nhất trong giáo hội công giáo tại mỗi giáo phận thuộc thẩm quyền của mình vì giám mục là người kế vị 12 tồng đồ của Chúa Giêsu-kitô cứu thế. Giám mục có năng quyền tuyển chọn và truyền chức phó tế, linh mục cho người khác và có cả năng quyền truyền chức giám mục cho linh mục nếu có sự đồng thuận của giám mục giáo đô hoàn vũ Roma (giáo hoàng). Năng quyền giám mục này bất biến và vẫn còn nguyên giá trị ngay cả khi giám mục bị vạ tuyệt thông hay tự ý phân ly khỏi giáo hội công giáo hoàn vũ, như trường hợp các giám mục Anh Giáo. Còn Tổng Giám Mục, Hồng Y, hay Giáo Hoàng chỉ là phẩm chức chứ không phải là cấp chức hay thánh chức nào khác cao cấp hơn ba thánh chức căn bản trên. Tổng Giám Mục, Hồng Y, hay Giáo Hoàng cũng chỉ là cấp chức, thánh chức Giám Mục mà thôi, vì thế tại Việt Nam, chủ tịch hội đồng giám mục đương nhiệm là cấp chức cao nhất và có thẩm quyền nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chứ không phải là Hồng Y Phạm Minh Mẫn như một số người lầm tưởng.

Trước Công Đồng Vaticanô II (1962), nhiều hồng y chỉ có chức phó tế hay linh mục mà thôi. Chính vì lý do đó, tư tưởng, lời nói, việc làm của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, tuy là một trong các giáo phẩm cao cấp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nhưng vẫn chỉ là đường hướng quan điểm cá nhân chứ không phải là quan điểm, đường lối, lập trường của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Phân biệt rõ như vậy để không mắc mưu cộng sản gây chia rẽ tôn giáo vì quan điểm cờ vàng, cờ đỏ của Hồng Y Phạm Minh Mẫn hiện nay chỉ là riêng tư và cũng chẳng khác gì quan điểm của Hòa Thượng Thích Thanh Từ mấy năm về trước khi tới thăm các chùa tại Hoa Kỳ cũng không chịu vào chùa làm Phật sự nếu viện chủ chùa đó không hạ cờ vàng ba sọc đỏ khỏi cột cờ khuôn viên chùa hay như giám mục Hoàng Văn Tiệm tại Tiểu Bang Minnesota. Hai vị tăng lữ này đã bị tín đồ và đồng bào tỵ nạn cộng sản hải ngoại chống đối, không còn dám bén mảng đến Hoa Kỳ xin tiền nữa.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn chắc chắn cũng sẽ bị như vậy. Bằng chứng cho thấy Hồng Y Phạm Minh Mẫn hiện nay đang mạo danh [đi làm mục vụ di dân] tại Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ. Nhưng thực tế thì Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã “đi làm mục vụ di dân chui”, tức là đã qua mặt Giám Mục sở tại Giáo Phận Orange, không xin phép xin tắc theo giáo luật, nên đã bị một số Linh Mục Công Giáo Việt Nam trong giáo phận Orange khước từ, không cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn trú ngụ tại các cơ sở công giáo nên ngài đã phải trú ngụ tại các tư gia thân quen. Một số Linh Mục Việt Nam cũng không cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn mượn nhà thờ làm lễ riêng tư cho các nhóm giáo dân thân hữu của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, lấy cớ là người đi mượn nhà thờ không có tư cách để mượn và Linh Mục Chánh Xứ cũng không có quyền cho mượn nhà thờ nếu không có phép của Đức Giám Mục sở tại. Vậy cách tốt nhất và chính đại quang minh nhất là Hồng Y Phạm Minh Mẫn đến thẳng tòa Giám Mục sở tại nói rõ lý do đến Giáo Phận Orange để được tiếp đãi như một vị khách và có nơi trú ngụ đàng hoàng xứng đáng với danh vị Hồng y trong giáo hội. Rồi trình bày với Giám Mục sở tại muốn làm lễ, giảng thuyết cho người di dân tại những nhà thờ nào trong giáo phận, thì nếu đó là lý do chính đáng, Đức Giám Mục sở tại sẽ không bao giờ từ chối.

Vậy tại sao Hồng Y Phạm Minh Mẫn, một giáo phẩm cao cấp trong giáo hội lại không làm theo đường lối minh chính đó mà lại lén lút làm chui để bị khước từ như vậy?

Xin thưa là vì Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã lạm dụng danh nghĩa mục vụ di dân và lạm quyền giám mục của ngài nên phải lén lút làm chui và phải gánh chịu hậu quả đáng buồn đó!

Ngoài ra theo chúng tôi được biết thì Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại, Diễn Đàn Giáo Dân, và Diễn Đàn Kitô-hữu cũng sẽ phối hợp hành động trong ôn hòa, nhã nhặn nhưng cương quyết không để Hồng Y Phạm Minh Mẫn với quan điểm chính trị cá nhân sai trái như vậy có thể tự tung tự tác tại thủ đô tỵ nạn cộng sản hải ngoại như chỗ không người để làm ô danh giáo hội.

Chúng tôi đã âm thầm trình bày, giải thích và trân trọng thỉnh cầu các giới chức không tiếp đón Hồng Y Phạm Minh Mẫn để Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không bị mang tiếng về sự lạm quyền và thân cộng thái quá của Hồng Y Phạm Minh Mẫn tác hại đến giáo hội.

Theo chúng tôi được biết thì “công tác mục vụ di dân chui” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn tại Nam Cali hiện nay hầu như hoàn toàn thất bại: Nhiều đoàn thể giáo dân không muốn gặp Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã bị cộng sản thuần hóa. Giới Bác Sỹ Công Giáo đã từ khước không gặp, không nghe Hồng Y Phạm Minh Mẫn nói chuyện hiệp thông hay bất cứ vấn đề gì vv… Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cẩn trọng đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra vào giờ chót để kịp thời hành động như trường hợp dạ tiệc quyên tiền của Giám Mục Nguyễn Chí Linh trong mùa quốc hận vừa qua.

Xin đồng hương, đồng đạo các nơi cẩn trọng theo dõi và có hành động hòa nhã nhưng cương quyết để phản đối hành vi chính trị thân cộng của Hồng Y Phạm Minh Mẫn hại đạo hại đời và để bảo toàn danh dự cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đồng thời gửi thông điệp cho bạo quyền CSVN biết dù chúng có thuần hóa được một số giáo sỹ, giáo phẩm Công Giáo, Phật Giáo, Tin Lành, Hòa Hỏa làm tay sai cho chúng nhưng chúng không thể xử dụng công cụ tay sai của chúng hữu hiệu được vì tín đồ các tôn giáo ngày nay đã trưởng thành, biết phân biệt điều gì phải nghe và điều gì không cần phải nghe giáo sỹ giáo phẩm đã thoái hóa và trở thành phản chứng.

Xét như vậy thì các cuộc thăm viếng giáo dân Việt Nam tỵ nạn cộng sản hải ngoại của Hồng Y Phạm Minh Mẫn và một số các giám mục Việt Nam trong nước chỉ là tình cảm riêng tư đối với tín đồ giáo dân trong quá khứ mà thôi. Hồng Y Phạm Minh Mẫn không thể lạm dụng năng quyền và lạm dụng danh nghĩa [mục vụ di dân] khi đến viếng thăm họ được.

Mục vụ di dân chính danh là mục vụ của các giám mục giáo phận có người Việt Nam tỵ nạn cộng sản mới chân ướt chân ráo đến định cư trong các giáo phận của họ vào các thời điểm thập niên 70, 80. Còn các giám mục, tổng giám mục, hồng y Việt Nam đến thăm giáo dân tỵ nạn giầu có hải ngoại là để lợi dụng tình cảm trong quá khứ vắt sữa, xin tiền hay nói theo Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là đi làm “mục vụ xin tiền” chứ không phải là [mục vụ di dân].

Nói đến “mục vụ xin tiền” thì hẳn Hồng Y và một số Giám Mục Việt Nam được cộng sản ban thưởng cho xuất dương xin tiền và những giáo dân bảo thủ ít hiểu biết dị ứng, cho là “chống cha chống Chúa”. Nhưng trên thực tế, Giám Mục Nguyễn Chí Linh, tháng 4/2007 vừa qua, sau bài giảng tại nhà thờ Thánh Linh, Thành Phố Huntington Beach, Nam California, Hoa Kỳ, đã thành thật chia sẻ cảm nghĩ với hàng ngàn giáo dân tham dự thánh lễ cuối tuần là ngài thấy các giám mục anh em đi thăm giáo dân hải ngoại đem về nhiều tiền quá nên ngài cũng mạnh dạn bắt chước “xách bị gậy đi xin”, thì xin hỏi Hồng Y Phạm Minh Mẫn đó là mục vụ gì nếu không phải là “mục mụ xin tiền”, thưa Hồng Y?

(2)- Còn nói về những ngày nghỉ thì thưa Hồng Y Phạm Minh Mẫn, có ngày nào không phải là ngày nghỉ của Hồng Y đâu? Từ cương vị một giám mục phó giáo phận héo lánh ở miền lục tỉnh chẳng mấy ai biết đến tên tuổi, đùng một cái -- được “Đảng và nhà Nước” qua các giám mục, linh mục quốc danh tay sai cộng sản tiến cử -- trở thành “Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận hồ chí minh” rồi chẳng bao lâu sau xênh xang mũ áo hồng y đỏ chót thì có phải đúng là “hồng hơn công” (cộng sản hơn công giáo) hay “hồng hơn chuyên” như di chúc của hồ chí minh để lại cho đảng cướp của chúng là phải dùng đảng viên trung kiên ngu dốt hơn là dùng người có chuyên môn cao nhưng không phải là đảng viên.

Nhớ lại Đức Giám Mục Huỳnh Văn Nghi, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang đã được giáo hội hoàn vũ bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Tổng giáo Phận Saigòn nhưng chỉ vì không chịu luồn cúi nhóm giáo sỹ giáo phẩm quốc doanh và cộng sản như Hồng Y nên Hồng Y mới được hưởng chỗ béo bở như thế. Khi về làm bù nhìn tại Tổng Giáo Phận Saigòn, Hồng Y tối ngày chỉ biết ngồi chơi sơi nước, đánh domino giết thì giờ, còn mọi công việc hệ trọng trong tổng giáo phận đều giao phó cho Huỳnh Công Minh và nhóm linh mục quốc doanh thao túng, cài người của chúng vào các cương vị trọng yếu trong tổng giáo phận. Nhiều người và cả Linh Mục nguyên Thanh đã từng chứng kiến cảnh “ngồi chơi sơi nước” của Hồng y, trước khi tái định cư tại Hoa Kỳ. Vì thế, nếu bây giờ Hồng Y có mệt là vì phải “lao tâm khổ tứ” ra công hãn mã đền đáp công ơn trời biển của “đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam” đã cất nhắc hồng y lên địa vị cao sang trong giáo hội chứ đâu có mệt vì trách nhiệm chủ chăn mà giáo hội trao phó cho Hồng Y đâu. Xin kể một số công tác “hồng hơn công” hay “mục vụ đỏ” mà Hồng Y đã cúc cung tận tụy làm theo lệnh đảng và Nhà Nước CSVN như sau:

- Kết án hàm hồ Linh Mục Nguyễn Văn Lý làm chính trị với khẩu hiệu “Tự Do hay là chết” treo trên tháp chuông nhà thờ Nguyệt Biều trong khi càng ngày Hồng Y Phạm Minh Mẩn càng lòi đuôi cáo cộng sản đội lốt chủ chiên và còn làm chính trị cho đảng và nhà nước cộng sản hơn cả Linh mục Nguyễn Văn Lý làm chính trị vì công lý, vì dân, vì nước, vì giáo hội.

- Viết bài “Tìm ánh sáng soi đường” để khuyên dậy giáo dân chấp nhận mở đường cho CSVN xâm nhập vào giáo hội như hồ chí minh xuống tầu làm bồi bếp xuất dương du nhập chủ nghĩa cộng sản vô thần phản dân hại nước và bán nước vào Việt Nam.

- Ngày 20-06-2006, Hồng Y Phạm Minh Mẫn không làm chính trị nhưng lại bất thần nhận lời mời của cựu nghị sỹ Hòa Hảo Lê Phước Sang đến thánh thất Phật Giáo Hòa Hảo hải ngoại tại góc đường Lampson + Euclid thành phố Garden Grove, Nam Cali, gặp gỡ Lê Phước Sang, chống Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo của cụ Lê Quang Liêm trong nước; Thượng Tọa Thích Minh Tuyên, thuộc nhóm Già Lam, chống Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất của Đại Lão Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ; Mục Sư Nguyễn Quang Minh mà lập trường khác biệt hẳn với các Mục Sư Nguyễn Hồng Quang đấu tranh đòi tự do tôn giáo trong nước, sau đó chẳng bao lâu thì Lê Phước Sang công khai cầm cờ đỏ sao vàng ủng hộ CSVN tại San Francisco và về nước tiếp xúc với cộng sản.

- Dẫn phái đoàn giám mục, linh mục quốc doanh Việt Nam qua Tầu cộng học kinh nghiệm làm tôn giáo vận với giáo hội quốc doanh Trung cộng để triệt tiêu Giáo Hội Công Giáo Việt Nam một cách tinh vi nhưng lại mập mờ lấy danh nghĩa đi thăm Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc mà chẳng hề dám bén mảng đến thăm Giáo Hội Công Giáo Hầm Trú Trung Quốc đang bị Tầu cộng bách hại.

- Đi sang Nhật thương vay khóc mướn cho những pho tượng tôn giáo bị bỏ hoang phế vì bom nguyên tử trong thời đệ nhị thế chiến 1945 -- cách đây 63 năm -- trong khi những nhà thờ, thánh thất, đền chùa, cơ sở tôn giáo tại Việt Nam đang còn bị cộng sản cưỡng chiếm hoặc bị bỏ hoang phế ngay trước mắt thì lại làm thinh như khách bàng quan, không hề động lòng trắc ẩn!

- Đi rong chơi hải ngoại, “làm mục vụ đỏ”, mục vụ xin tiền giáo dân xây cất cơ sở từ thiện xã hội cho cán bộ cộng sản hưởng và lợi dụng những buổi gặp gỡ giáo sỹ, giáo dân hải ngoại từ tâm, khờ dại để rỉ tai, tuyên truyền những điều có lợi cho cộng sản hơn cho giáo hội.

- Tiền đô-la trong túi người Việt tỵ nạn cộng sản hải ngoại -- mà quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của họ -- thì ham thích, vơ vét cho bằng hết nếu có thể vơ vét được. Không hề chê bai đó là đồng tiềng hôi tanh dơ bẩn xuất phát từ túi trong túi ngoài của bọn tỵ nạn chống cộng hải ngoại. Nhưng rồi phủ tay, không giữ trung thủy, gọi họ là những kẻ “tha phương cầu thực”, [làm tắc nghẽn hiệp thông với nhau và với Chúa] vv.. trong khi người Việt tỵ nạn cộng sản chỉ có mỗi cái tội chống cộng, làm [tắc nghẽ] nghị quyết 36 của cộng sản!

- Việc cộng sản thì sáng, việc giáo hội thì quáng: Trong khi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và các giáo hội bạn đang bị bách hại, đang đứng trên bờ vực thẳm chín mất một còn; trong khi các chủng viện phải dạy chủ nghĩa vô thần mác xít đối nghịch với tôn giáo; trong khi hàng giáo sỹ giáo phẩm phải được CSVN chấp thuận mới được phong chức, bổ nhiệm; trong khi các chuẩn linh mục phải tập nói dối nhuần nhuyễn trước khi tập làm linh mục. Và trong khi xã hội Việt Nam băng hoại, bất công, sa đọa, trác táng, phá thai nạo thai nhất nhì thế giới, buôn bán phụ nữ, trẻ em làm mãi dâm, lao nô nước ngoài vv…thì “thầy dậy chân lý” Phạm Minh Mẫn ngậm tăm, làm thinh --hay chỉ nói hời hợt cho qua chuyện và chỉ nói những điều mà cả nước từ đứa con nít cũng đã biết -- còn việc cộng sản thì mắt lại sáng hơn đèn ôtô. Sáng đến nỗi cả những mầu sắc vàng đỏ tít tận bên kia trời Âu, trời Úc cách xa nửa vòng trái đất cũng thấy, cũng nhậy cảm dị ứng giúp và dị ứng hộ cho quan thầy CSVN.

Kế đó Hồng Y Phạm Minh mẫn viết:

[2. WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung.]

Nhận định:

Ngày Giới Trẻ Thế Giới (WYD = World Youth Day) do sáng kiến của Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II lúc còn sinh tiền, và cứ 2 năm tổ chức một lần ở một nước khác nhau. Trong những lần tổ chức đó, giới trẻ Việt Nam tỵ nạn cộng sản hải ngoại tại các châu lục trên toàn thế giới đều quy tụ về đại hội để hiệp thông với Chúa, với vị cha chung là Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và sắp tới đây tại Sydney là Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI. Và như Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã viết, các đại hội giới trẻ đó đều có ‘lá cờ vàng ba sọc đỏ dương lên” mà từ Đức giáo Hoàng trở xuống chưa hề có ai đặt vấn đề [cờ vàng ba sọc đỏ làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN] .

Tại sao bây giời Hồng Y Phạm Minh Mẫn lại dựng đứng câu chuyện, “biến không thành có” như vậy?!

Theo thiển nghĩ của tôi thì nguyên do sâu xa là như thế này: Trong các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đã được tổ chức ở Pháp, Đức, Canada trước đây, giới trẻ Việt Nam tỵ nạn cộng sản trên khắp thế giới tự do quy tụ về đại hội rất đông với quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho căn tính tỵ nạn cộng sản và cho truyền thống văn hóa Việt Nam lâu đời của dân tộc. Trong khi đó thì bạo quyền CSVN còn đóng cửa với văn hóa và các tôn giáo nên không cho phép phái đoàn giới trẻ công giáo trong nước tham dự đại hội. Sợ giới trẻ Việt Nam trong nước khi tiếp xúc với giới trẻ tỵ nạn cộng sản hải ngoại sẽ mở mắt ra như đồng bào miền Bắc mở mắt khi thấy miền Nam sung túc, trù phú, tự do chứ không bị “mỹ ngụy” kìm kẹp đói khổ như “bác đảng” bịp bợm trong suốt cuộc chiến. Trong những đại hội giới trẻ đó, CSVN chỉ cho các cán bộ tôn giáo vận của chúng như linh mục quốc doanh Thiện Cẩm đi rỉ tai tuyên truyền cho cộng sản nhưng không thành công vì bị giới trẻ tỵ nạn sua đuổi.

Năm nay (2008), đại hội giới trẻ thế giới sẽ được tổ chức tại Úc, và đã đến lúc CSVN muốn cho giới trẻ công giáo Việt Nam quốc nội mà chúng đã tuyển chọn cho tham dự đại hội do nhóm linh mục, giám mục quốc doanh, chính ủy tôn giáo và công an cs hướng dẫn để thi hành nghị quyết 36 của chúng trong giới trẻ hải ngoại cho nên chúng ra lệnh cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn phải tìm cớ triệt tiêu “cờ vàng ba sọc đỏ” bằng lý do cho đó là sự [tắc nghẽn hiệp thông với nhau và với Chúa].

Mà [tắc nghẽn] thật! Nhưng không phải là [tắc nghẽn hiệp thông với giới trẻ trong ngoài nước và với Chúa] như Hồng Y Phạm Minh Mẫn dẫn giải tín lý theo kiểu quốc doanh, mà là [tắc nghẽn giữa cờ vàng và cờ đỏ], giữa tự do và độc tài, giữa thánh thiện và gian ác, giữa vương đạo và bá đạo, giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Bởi vì cờ vàng tượng trưng cho tự do dân chủ dân tộc, cho văn hóa nhân bản con người. Còn cờ đỏ tượng trưng cho cộng sản duy vật vô thần, cho bá đạo, cho giai cấp đấu tranh và cho cái ác cái xấu đã sát hại trên một trăm triệu người từ “cuộc cách mạng tháng mười năm 1917 tại Liên Xô cho tới ngày chủ nghĩa cộng sản bị ném vào sọt rác lịch sử năm 1989 khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.

Chẳng lẽ Hồng Y Phạm Minh Mẫn lại để một vài lá cờ đỏ lèo tèo trong rừng cờ vàng ba sọc đỏ thì mất mặt đảng và nhà nước cộng sản đã có công cất nhắc Hồng Y lên địa vị cao sang trong giáo hội. Vì thế Hồng Y Phạm Minh Mẫn mới ra công hãn mã triệt hạ cờ vàng để bước đầu không có cờ vàng cờ đỏ nào hết cho công bằng. Nhưng khi đã thành công, đã triệt tiêu được cờ vàng thì trong tương lai không xa sẽ chỉ có toàn cờ đỏ, cờ máu. Và khi đó Hồng y Phạm Minh Mẫn sẽ “bước đi không thấy Chúa, không thấy nhà thờ, Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ” như thi sỹ Trần Dần đã làm văn nô cho cộng sản và đã thấy khi tỉnh ngộ!

Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết tiếp:

[3. Một lá cờ biểu tượng cho điều gì? Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia... Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng. Giám mục của tôi, cách đây hơn 30 năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi bài học lịch sử nầy : người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hoá của dân tộc VN, một nền văn hoá khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức. (như Tứ hải giai huynh đệ; Chuyện hôn nhân là chuyện trăm năm, là mối tình chung thuỷ; Lá lành đùm lá rách...)

Nhận định:

Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã ví von sai lầm một cách tai hại. Trong văn chương Việt Nam và trong tình cảm dân tộc, bà Mẹ Việt Nam được ví như một người mẹ ăn mặc nâu sòng, chân lấm tay bùn, lam làm và vất vả quanh năm để nuôi dạy đàn con khôn lớn nên người. Trung với nước hiếu với dân để gìn giữ giang san cơ đồ do tổ tiên truyền lại chứ không bao giờ dạy con phản dân, hại nước và bán nước như bọn nghịch tử cộng sản đã nhẫn tâm làm. Vì thế, cái áo đỏ, cờ đỏ, cờ máu mà đảng CSVN vô thần dậy dân tố cha, tố chồng, tố lẫn nhau mà đảng CSVN đã cưỡng bức mặc vào cho Mẹ Việt Nam là hành động cẩu trệ của bọn nghịch tử cộng sản dã man không còn tính người. Chứ không phải Mẹ Việt Nam đã tự ý thích mặc áo đỏ, cờ đỏ cộng sản! Hồng Y Phạm Minh mẫn qua ví von này đã tự nhận đứng chung hàng ngũ với đảng cộng sản vong nô, phản dân hại nước và bán nước.

Hồng y Phạm Minh Mẫn ví von Mẹ Việt Nam lúc thích mặc áo vàng (cờ vàng), lúc thích mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc mặc áo rách vv... Ví von như thế đã vô tình hay cố ý đổ hết tội ác chiến tranh quốc-cộng trên nửa thế kỷ vừa qua với hàng triệu sinh linh chết thảm là do Mẹ Việt Nam ngu xuẩn đã mặc áo vàng, áo đỏ theo ý thích nên đã là nguyên cớ gây cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt của con dân Việt Nam chứ không phải là tội ác của bọn nghịch tử vong bản CSVN gây ra. Ví von như thế là benh cộng sản, hại đạo hại đời, uổng phí công ơn của Mẹ Việt Nam đã nuôi dạy khôn lớn nhưng không nên người!

Về mặt tôn giáo cũng thế, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã tự ý lìa bỏ cương vị lãnh đạo tinh thần, “thầy dậy chân lý” của Giáo hội để đứng chung hàng ngũ với cộng sản vô thần phản dân hại nước, chống Chúa, hại Giáo Hội. Bản chất của giáo hội là lành thánh mặc dù giáo hội do những con người trần tục điều khiển nên trong quá trình lịch sử có nhiều sai sót. Trái ngược hẳn với bản chất của chế độ cộng sản vô thần, độc tài khát máu, gian dối, bịp bợm, bá đạo. Hai bản chất đó đối nghịch nhau như nước với lửa, không thể hòa hợp. Nếu cưỡng ép hai bản chất đối nghịch đó hòa hợp với nhau thì giống như cho chiên con hòa hợp với chó sói, cho cái lương thiện hòa hợp với cái bất lương, cho vương đạo hòa hợp với bá đạo, cho người lành hòa hợp với kẻ dữ và cho Thiên Chúa, Thượng Đế, Trời Phật hòa hợp với ma quỷ. Như thế còn chi là bản chất tôn giáo khuyến thiện lánh ác, thưa Hồng Y Phạm Minh Mẫn?!

Bản chất của tôn giáo là tin nhận chân lý, khuyến thiện lánh ác theo nghĩa tiêu cực và phát triển cái thiện chống lại cái ác cái xấu theo nghĩa tích cực như Chúa Giêsu đã dậy: “Nếu chân ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy chặt nó đi, thà ngươi què chân mà vào nơi sự sống, còn hơn là có hai chân mà bị quẳng vào hỏa ngục. Nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc nó đi, thà ngươi chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục, nơi mà giòi bọ không chết, và lửa không tắt” (Maccô 9,45-47). Vì thế tôn giáo không thể hiệp thông với cái ác cái xấu của cộng sản được. Giáo huấn của Giáo Hội Công giáo ra vạ tuyệt thông với người công giáo ra nhập đảng cộng sản vẫn còn nguyên giá trị, chưa hề thay đổi.

Danh từ [thói đời] Hồng Y xử dụng cũng sai nữa. Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam dùng chữ thói đời để chỉ về những cái không tốt như “thói đời đen bạc”. Cha ông ta không dùng chữ thói đời để nói về những cái tốt bao giờ cả.

Còn nói về “lá lành đùm lá rách” thì đó chỉ là những câu nói đầu môi chót lưỡi của mấy thầy thông giáo đạo đức giả thời Chúa Giêsu cách đây 2008 năm và đã bị Ngài lên án nặng nề. Ngày nay, nếu Ngài tái lâm thì chắc chắn Ngài cũng sẽ lên án Hồng Y Phạm Minh Mẫn như vậy, vì dân oan khiếu kiện đầy đường và ngay trước tòa hồng y tổng giám mục Saigòn thì Hồng Y không dám bén mảng đến để đem lá lành của giáo hội đùm lá rách của dân oan khiếu kiện bao giờ. Trái lại, Hồng Y toàn là xu thời, bợ đỡ, thu gom lá rách của giáo hội, của con chiên bổn đạo tỵ nạn cộng sản hải ngoại, đùm lá lành cộng sản để được an thân hưởng lợi mà thôi.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết tiếp:

[4. Mặt khác, lịch sử thế giới xác minh hai sự thật nầy: (1) đời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng; (2) một chủ nghĩa trần thế, dù là tư bản, hay cộng sản, hay quốc gia, bao giờ cũng tạo nên sự phân rẽ mang tính đối kháng và loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ con cái chung một mẹ.]

Nhận định:

Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết như thế xét theo kinh thánh và tín lý của giáo hội cũng không đúng nữa. Chúa Giêsu-kitô giáng trần để đối kháng với tối tăm tội lỗi, với cái ác cái xấu chứ Ngài không xuống trần để hòa hợp cái thiện với cái ác: “Đừng tưởng ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là người nhà mình” (Matthêu 10, 34-36). Mệnh lệnh của Chúa Siêsu cho các môn đồ và nhân loại là: “Hãy hối cải và tin vào tin mừng”, mệnh lệnh đó là đối kháng chứ không hòa hợp vì mệnh lệnh đó đòi buộc người ta phải dứt khoát lựa chọn và bắt buộc người ta muốn tin vào tin mừng thì điều kiện tiên quyết là phải hối cải, phải từ bỏ con đường gian ác, tội lỗi để đi theo con đường công chính rồi mới được hưởng ân phước của tin mừng cứu độ. Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi để để họ ăn năn hối cải, trở về với tin mừng để được cứu độ. Nhưng nếu họ không hối cải thì thay vì thiên đàng, niết bàn sẽ là hỏa ngục dành cho họ. Vậy “Thiên Đàng” và “Hỏa ngục” là [thói đời mang tính đối kháng] chứ không phải là [tinh thần hiệp thông trong giáo hội công giáo] thưa Hồng Y Phạm Minh Mẫn.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết tiếp:

[5. Bản chất của Giáo Hội Công Giáo là hiệp thông với Chúa, với nhau, với mọi người anh em đồng bào và đồng loại. Và đời sống hiệp thông của Giáo Hội chỉ có thể được xây đắp trên nền tảng một niềm tin, tin rằng Thiên Chúa là Cha trên trời giàu lòng từ bi bao dung, tin rằng mọi người là con một Cha, là anh em một nhà, tin rằng tình huynh đệ giữa đồng bào còn có thể phát huy trên cơ sở một sắc tộc và một nền văn hoá dân tộc.]

Nhận định:

Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ gồm đủ các sắc tộc tứ chiếng, thượng vàng hạ cám. Nó có [cùng chung một cơ sở sắc tộc và một nền văn hóa dân tộc] như Hồng Y nói đâu? Thế mà nó vẫn phát huy tính đa chủng và đa văn hóa của nó. Và chỉ trong vòng hơn hai trăm năm lập quốc nó đã trở thành bá chủ thế giới thì có đúng với lý luận của Hồng Y hay không? Còn nói đến [Bản chất của Giáo Hội Công Giáo là hiệp thông với Chúa, với nhau, với mọi người anh em đồng bào và đồng loại] thì như trên đã nhận định: Bản chất thánh thiện của sự hiệp thông đó là để thanh tẩy, gạn đục khơi trong như men trong bột để làm cho cả khối bột dậy men, để thăng hoa thăng tiến con người, để cùng anh chị em đồng bào nắm tay nhau đi đến cội người Chân-Thiện-Mỹ là Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời chứ chứ không để hiệp thông, hòa hợp cái thiện với cái ác cái xấu.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn kết luận:

[6. Tôi thành tâm khẩn cầu cho quý Đức Cha, cho mọi người trong ban tổ chức WDY, cho các bạn trẻ VN quy tụ trong WDY nầy, cho người người lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần là nguồn lực tình yêu, là sức mạnh đổi mới Giáo Hội cũng như xã hội. là ánh sáng soi lòng mở trí cho mọi người biết dùng cơ hội quy tụ nầy như con đường bồi đắp cho tình hiệp thông hiếu thảo với Chúa, cho tình hiệp thông huynh đệ với nhau, cho tinh thần hiệp thông liên đới huynh đệ tương thân tương trợ trong Giáo Hội Công Giáo tại VN cũng như trên thế giới toàn cầu hoá hôm nay. Ước mong mọi người cũng nhận được sự bình an của Chúa Kitô, và niềm vui của cuộc gặp gỡ giữa anh em một nhà.]

Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám mục

Nhận định:

Nếu nội dung thư mục vụ về Ngày Giới Trẻ Thế Giới của Hồng Y Phạm Minh Mẫn chỉ là lợi dụng năng quyền hồng y để mưu đồ dẹp bỏ [cờ vàng ba sọc đỏ] làm lợi cho cộng sản thì những ước nguyện kết thúc thư mục vụ Ngày Giới trẻ Thế Giới của Hồng Y chỉ là phiếm diện, giả dối. Mà sự giả dối thì không bao giờ đem lại bình an và hiệp thông đích thực trong giáo hội và nhân loại. Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ không bao giờ mưu mô dẹp bỏ được [cờ vàng ba sọc đỏ] trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney sắp tới và trong tương lai. Trái lại “cờ vàng ba sọc đỏ” có thể sẽ có nhiều hơn ở các đại hội giới trẻ trước để phản ứng lại sự lạm quyền của Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Hậu quả thư mục vụ [cờ vàng, cờ đỏ, áo lành, áo rách…] của Hông Y Phạm Minh Mẫn sẽ là:

1- Người công giáo Việt Nam tỵ nạn cộng sản hải ngoại càng bất mãn hơn với Hồng Y quốc doanh Phạm Minh Mẫn đã bị cộng sản thuần hóa. Người công giáo Việt Nam quốc nội cũng vậy nếu được thông tin rộng rãi và có phương tiện truyền thông như đồng bào đồng hương hải ngoại.

2- Tín đồ các tôn giáo bất mãn, hiểu lầm là giáo hội công giáo Việt Nam chủ trương như vậy trong khi đó chỉ là ý kiến của cá nhân Hồng Y Phạm Minh Mẫn và nhóm linh mục, giám mục quốc doanh tay sai cộng sản. Thư mục vụ [cờ vàng, cờ đỏ] của Hồng Y Phạm Minh Mẫn chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh”. Nhưng người ta sẽ khôn khéo dùng muỗng múc bỏ con sâu đó đi cùng với một chút canh ô nhiễm xung quanh con sâu đó chứ không vứt bỏ cả nồi canh.

3- Thay vì hiệp thông, yêu thương thì Hồng Y Phạm Minh Mẫn đem lại bất đồng, chia rẽ, hiềm thù, đố kỵ không những với người đọc trong và ngoài nước, với giáo dân, với tín đồ các tôn giáo bạn và ngay cả với người viết và nhóm chủ trương website công giáo “Tiếng Vọng Giaon Baotixita” www.conggiaovietnam .net hay conggiaovietnam@ gmail.com nữa. Bởi vì sau khi hải ngoại phản ứng quyết liệt, thư mục vụ [cờ vàng, cờ đỏ] đã được gỡ bỏ khỏi website. Vậy xin hỏi Hồng Y Phạm Minh Mẫn và nhóm chù trương website “Tiếng Vọng Gioan Baotixita” tại sao lại phải gỡ bỏ thư mục vụ [cờ vàng, cờ đỏ, áo lành, áo rách…] của Hồng Y Phạm Minh Mẫn nếu đó là lời chân lý, là ánh sáng soi đường cho người Kitô-hữu?! Phải chăng những người chủ trương website “Tiếng Vọng Gioan Baotixita” lúc đầu bị cấp chức hồng y làm chóa mắt nên không thấy nội dung sai trái của thư mục vụ [cờ vàng, cờ đỏ, áo lành, áo rách…] của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, đã hân hoan phóng đại lên website cho bà con thế giới chiêm nghiệm lời hay ý đẹp. Nhưng sau thấy phản ứng khắp nơi mạnh quá, quyết liệt quá và đúng quá nên vội gỡ xuống vứt vào thùng rác?

4- Một điều đáng quan tâm nữa nhưng còn có cơ cứu vãn là “hình như” Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, Giám Mục phụ tá giáo phận Orange, thủ đô tinh thần của người tỵ nạn hình như cũng sẽ dẫn phái đoàn giới trẻ Việt Nam Nam Cali đi Sydney dự ngày giới trẻ thế giới. Và cũng “hình như” lộ trình đi đến Sydney sẽ vòng vèo chứ không ngay thẳng, tức là “hình như” ngài sẽ cùng Đức Giám Mục Todd Brown của Giáo Phận Orange dẫn phái đoàn giới trẻ Nam Cali về Việt Nam thăm quê hương, thăm nhiều nơi và thăm cả khu nghỉ mát nổi tiếng Tam Đảo nữa rồi sau đó mới thủng thẳng đến Sydney tham dư đại hội giới trẻ hay mới cùng giới trẻ trong nước đi dự cho xôm tụ. Cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và ban ơn khôn ngoan cho Đức Giám Mục Mai Thanh Lương để ngài thượng lộ bình an, đi đến nơi về đến chốn và nhất là khi về nhiệm sở Orange sẽ không bị đồng bào đồng hương tỵ nạn cộng sản chống đối vì phái đoàn giới trẻ công giáo Nam Cali do ngài hướng dẫn không mang theo ‘cờ vàng ba sọc đỏ” đến dự đại hội như thường lệ. Ngài không thể phủi tay là ngài không biết và không can thiệp vào chuyện đó vì chỉ nguyên việc ngài dẫn giới trẻ về Việt Nam rồi mới đi Úc dự đại hội đã đủ lý chứng ràng buộc trách nhiệm hướng dẫn phái đoàn giới trẻ của ngài có “cờ vàng ba sọc đỏ” hay không.

Người viết hy vọng tin này chỉ là tin thất thiệt có ác ý với Đức Giám Mục Mai Thanh Lương. Một giám mục mới cách đây mấy năm đáo nhận nhiệm sở đã rất ồn ào đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam, đã can ngăn Đức Giám Mục Todd Brown đừng mời Tổng Lãnh Sự cộng sản tham dự tiệc mừng đáo nhận nhiệm sở của ngài. Nhưng nay thì thấy êm ắng không còn ồn ào đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền nữa sau khi vinh quy bái tổ và sau khi viết thư mục vụ trong mùa quốc hận kêu gọi xóa bỏ ngăn cách và phê phán Linh Mục Nguyễn Văn Lý làm chính trị, không vâng lời bề trên vv... Bây giờ thì không biết có phải là ngài đã quay gót 180 độ hay không mà lại dẫn chính Đức Giám Mục Todd Brown mà ngài đã can ngăn -- đừng mời khách cộng sản -- về Việt Nam không phải là lần thứ nhất.

Để kết thúc nhận định, người viết xin thưa: Những ai đã cam tâm hoặc đã trót nhận làm công cụ tay sai cho cộng sản vì nghĩ làm thế cho được việc rồi sau sẽ luồn lách, sẽ làm chừng mực và có giới hạn ở những điều vô thưởng vô phạt là xong. Nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm. Cộng sản là tổ sư lừa đảo, gian manh, bịp bợm, dối trá. Chúng dư biết người mới bị chúng dụ khị chỉ “nín thở qua sông” nên chúng có đủ mưu lược thần bí để làm cho những “con mòng” ngây thơ của chúng “nín thở mà không thể qua sông được”, tức là sẽ phải làm tôi mọi, tay sai cho chúng một trăm phần trăm mãi mãi và suốt đời chứ không làm nửa chừng xuân được. Mưu lược đó là chúng gài nhiều cái bẫy vào những yếu điểm của mỗi “con mòng” kể cả mỹ nhân kế khiến những “con mòng” của chúng như gái ngồi phải cọc, càng cụ cựa, càng dẫy dụa thì mạng lưới của chúng càng xiết chặt lại không sao thoát được. Hồng Y Phạm Minh Mẫn và nhóm linh mục, giám mục quốc doanh đang nằm trong thực trạng bi thảm này mà chỉ còn cách dám can đảm từ nhiệm từ chức và chấp nhận cho cộng sản khui ra hết những thói hư tật xấu của cá nhân hay do chúng cài đặt thì họa may mới thoát khỏi “cái vòng kim cô” bất hoại ác độc và thần bí của cộng sản.

Vậy Hồng y Phạm Minh Mẫn có dám can đảm làm việc đó để cứu bản thân và vô hiệu hóa những tác hại mà Giáo Hội đang phải gánh chịu do CSVN gây ra qua công cụ của chúng là Hồng Y Phạm Minh Mẫn và nhóm giám mục, linh mục quốc doanh hay không?!

Xin Chúa dẫn đường chỉ lối và chúc lành cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Và xin Hồng Y Phạm Minh Mẫn nhớ rằng dù Chúa có thương tình dẫn đường chỉ lối cho Hồng Y mà chính Hồng Y không dám can đảm dứt khoát thực thi đường lối Chúa thì cũng vô ích vì Chúa luôn tôn trọng tự do của con người.

Người viết xin mượn lời mở đầu thư mục vụ của Hồng Y Phạm Minh Mẫn để chấm dứt nhận định: [Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu là trái tim chứa đầy lòng từ bi bao dung của Cha trên trời, xin uốn lòng chúng con nên giống như Trái Tim Chúa] nhưng xin Hồng Y Phạm Minh Mẫn đừng lạm dụng chức năng Hồng Y của giáo hội công giáo Việt Nam để uấn LÒNG CHÚA giống như trái tim thân cộng của Hồng Y./-

Nguyễn Xuân Tùng
Diễn Đàn kitô-hữu

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in A ustralia

PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Tel: 0411 756 552
Email: sicmaa@satlink.com.au

BẢN TIN HÀNG THÁNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO LIÊN BANG ÚC CHÂU – TIN THÁNG SÁU 2008

· Đại Hội Lần Thứ 19 của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu đã thành công tốt đẹp tại Brisbane, Queensland với một Tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ(2008-2010) gồm các vị sau đây:

Chủ tịch: Ông Nguyễn Thế Phong (Vic)
Phó Chủ tịch nội vụ: Ls. Võ Trí Dũng (NSW)
Phó Chủ tịch ngoại vụ: Ông Lê Công (ACT)
Tổng Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Bon (Vic)
Thủ Quỹ: Bà Trần Hương Thủy ( Wollongong )

Tưởng cũng nên nói qua là các thành viên của Tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2008-2010 hoàn toàn thuộc thế hệ một rưỡi của cộng đồng người Việt tại Úc Châu. Đây là một bước ngoặc quan trọng trong tiến trình sinh hoạt và phát triển của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu.

· Vào đầu tháng 6 năm 2008, trên mạng Tiếng Vọng Gioan Baotixita có đăng tải lá thư của Đức Hồng Y (ĐHY) Phạm Minh Mẫn gửi cho một số vị Giám Mục tại Việt Nam, trong đó Đức Hồng Y ngụ ý rằng trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tới đây tại Sydney, lá cờ vàng ba sọc đỏ là "một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN" và chỉ "biểu trưng cho một thói đời mang tính đối kháng". Qua bức thư này, đa số đều có thể hiểu được là Đức Hồng Y không muốn trông thấy lá cờ vàng hiện diện trong ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney .

· Ngay sau khi lá thư của ĐHY được phổ biến, Ban Chấp Hành Liên Bang Úc Châu đã phối hợp với Ban Chấp Hành CĐNVTD-NSW để gặp gỡ bàn luận và chia sẻ những quan điểm của CĐNVTD Úc Châu và phản ứng của đồng bào, các hội đoàn đoàn thể với Tuyên Úy Đoàn Cộng Đồng Công Giáo Úc Châu. Kết quả là Tuyên Uý Đoàn CGVN-Úc châu đã bày tỏ lập trường ủng hộ lá cờ vàng là biểu tượng duy nhất và chính thức của cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại và kết luận rằng lá thư của

ĐHY chỉ phản ảnh quan điểm riêng của ngài chứ không phải là quan điểm của CĐCGVN-Úc Châu.

Ngày 23-6-2008, toàn thể các vị Chủ tịch của các tiểu bang và lãnh thổ đã đồng ký vào một Tuyên Bố Chung về nhận định của ĐHY Phạm Minh Mẫn và lên tiếng kêu gọi tất cả các thanh niên và đồng hương người Việt tham dự Đại Hội Giới Trẻ tại Sydney hãy mang theo lá cờ vàng ba sọc đỏ để biểu dương sự yêu chuộng tự do và dân chủ của người Việt tỵ nạn hải ngoại.

· Tân Chủ tịch CĐNVTDLB-UC Ông Nguyễn Thế Phong (Vic) và ông Nguyễn Văn Bon (Vic), Tổng Thư Ký BCHLB đã thực hiện một chuyến đi 3 ngày, từ Melbourne đến Sydney để gặp gỡ với đồng hương, giới truyền thông Việt ngữ và để tiếp xúc với các vị đại diện của Cộng Đồng Công Giáo NSW và Úc châu về Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sẽ diễn ra tại Sydney vào trung tuần tháng 7 tới đây.

Ông Nguyễn Thế Phong và ông Nguyễn Văn Bon đã được Ls. Võ Trí Dũng và Ban Chấp Hành CĐNVTD-NSW đón tiếp nồng hậu và đưa đi xem các sinh hoạt và cơ sở của cộng đồng người Việt NSW.

Ông Nguyễn Thế Phong đã tiếp chuyện và trình bày những đường hướng của tân BCH đến với thính giả của đài 2VNR, VN Sydney Radio, gặp gỡ với toàn thể đại diện của các cơ quan báo chí và radio tại NSW, tiếp xúc với các chính giới nơi có đông người Việt cư ngụ qua buổi ra mắt tập cẩm nang về các dịch vụ, tin tức và tài nguyên của cộng đồng người Việt tại NSW.

Sau đó, phái đoàn đã thăm viếng Tượng Đài Chiến Sĩ Úc-Việt vừa mới bị kẻ gian đốt phá và tạt sơn đỏ tại Cabra-Vale Park, và quan trọng hơn cả là tiếp xúc thảo luận với quý vị đại diện Cộng Đồng Công Giáo NSW và Úc châu về Hội Nghị Giới Trẻ Thế Giới.

Trưa ngày thứ 7, 28-6 tại Cabramatta, quý ông Nguyễn Thế Phong và Nguyễn Văn Bon đã được BCHCĐ NSW dàn xếp cho gặp gỡ và thảo luận với giới truyền thông Việt ngữ tại NSW. Hơn 30 vị đại diện của rất nhiều báo và đài phát thanh kể cã SBS và ABC đã có mặt trong buổi họp mặt này.

Buổi gặp gỡ giửa tân BCHLB (ông Nguyễn Thế Phong, Ls. Võ Trí Dũng, ô.Nguyễn Văn Bon) và giới truyền thông đã kéo dài gần 5 tiếng đồng hồ trong bầu không khí thân mật, thẳng thắn và cởi mở.

Vào ngày chủ nhật 29-6 tại Văn phòng Cộng Đồng Công Giáo NSW (xin xem hình dưới), phái đoàn đại diện BCH-CĐNVTDLB-UC do ông Nguyễn Thế Phong dẫn đầu đã tiếp xúc và bàn thảo với Lm. Chu Văn Chi, Trưởng ban tổ chức Hội Nghị Giới Trẻ Thế Giới của Cộng Đồng Công giáo VN tại Úc và các vị đại diện của Cộng Đồng Công Giáo tại NSW về những kế hoạch và chương trình cụ thể cho những gì có thể xảy ra trong thời gian sinh hoạt của đại hội hầu bảo vệ được sự đoàn kết và chánh nghĩa quốc gia trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Úc cũng như tại hải ngoại. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong bầu không khí cảm thông chia sẻ, tương kính, hợp tác và đồng thuận.

BCH-CĐNVTDLB-UC tin tưởng rằng với lập trường rõ ràng về lá cờ vàng và quyết định hợp tác chặt chẽ và liên lạc thường xuyên với CĐNVTD của Cộng Đồng Công Giáo VN Úc Châu trong kỳ đại hội này mọi âm mưu chia rẽ hay phá hoại cộng đồng người Việt hải ngoại của CSVN sẽ phải thất bại.

Nhân dịp này BCHCĐNVTDLB cũng ngỏ ý muốn nhờ Cộng Đồng Công Giáo Úc Châu chuyển một lá thư bày tỏ sự quan ngại của người Việt tỵ nạn Úc Châu đến với Đức Giáo Hoàng về tình trạng của người Thượng Kitô giáo tỵ nạn tại Cambodia và Thái Lan để xin Ngài lên tiếng hay cầu nguyện cho họ.

Ông Nguyễn Thế Phong cũng đã bày tỏ sự phẫn nộ và quan tâm của CĐNVTDLB về việc tiếp tục phá hoại tượng đài chiến sĩ Úc-Việt tại Cabra-Vale với Bộ Trưởng Y Tế NSW kim dân biểu của đơn vị Cabramatta bà Reba Meagher M.P và yêu cầu bà hỗ trợ những đề nghị chỉnh trang và tăng cường hệ thống an ninh cho tượng đài của cộng đồng người Việt tại NSW. Ông hứa sẽ gặp gỡ và vận động với ông Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh Liên Bang Allan Griffith M.P tại Victoria về những gì Chính phủ liên bang có thể trợ cấp được cho những đề nghị này của CĐNVTD-NSW.

Nguyễn văn Bon
Tổng Thư Ký,
CĐNVTDLB-UC
, tường trình.

Lời kêu gọi Gm Mai Thanh Lương và một số linh mục ngưng tiếp tay ủng hộ chiến dịch dẹp cờ vàng của VC

Thiết tha kêu gọi một số giám mục, linh mục ngưng tiếp tay, ủng hộ chiến dịch dẹp cờ vàng của Việt cộng.

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng, là căn cước của người Việt quốc gia không chấp nhận chế độ cs độc tài, vô thần, bất nhân và tàn ác. Đó là cũng chính là biểu tượng của lý tưởng tự do, công bằng và nhân ái mà người Việt tỵ nạn vẫn tôn quý và bảo vệ suốt hơn ba thập niên qua.

Qua bức thư ngày 04.06.2008 HY Phạm Minh Mẫn tự xác nhận là dị ứng với cờ vàng ba sọc đỏ, là tay sai cho cs và đang tìm cách đầu độc giới trẻ VN.

Một làn sóng phẫn nộ của người Việt Quốc gia, công giáo cũng như không công giáo, lên án vị HY phụ trách "(thu góp tiền của) người di dân "

Theo tin Vietcatholic News ngày 07/06/08, chúng tôi sửng sốt thấy ván bài triệt hạ Cờ Vàng của VC được sự tiếp tay đắc lực của một số giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ một cách nhịp nhàng.

Sau khi HY Phạm Minh Mẫn gởi thư chống phá, một lực lượng hùng hậu gồm: Gm Mai Thanh Lương, các Lm Bill Cao, Đồng Minh Quang, Trần Công Danh, Nguyễn Hoài Chương, Vũ Hải Đăng, Phạm Tuấn, nữ tu Thanh Nga và một số tu sĩ nam nữ khác sẽ hướng dẫn hàng trăm, hàng ngàn thanh niên công giáo, con cháu của những người Việt tỵ nạn cs chúng ta, về VN trước khi đến Sydney tham dự đại hội Giới Trẻ.

Vì vô tình hay cố ý, những giám mục, linh mục này đang tiếp tay VC để dẹp cờ vàng tại hải ngoại và gây chia rẽ cộng đồng người quốc gia tỵ nạn cs.

Chiêu bài không làm chính trị luôn được các ngài sử dụng khi làm chính trị theo chiều hướng có lợi cho cs.

Chúng tôi xin nói rõ, bản thân chúng tôi là người tỵ nạn cs và là người công giáo. Vì yêu mến giáo hội và quê hương, chúng tôi dù đã lớn tuổi (năm nay đã 78 tuổi) nhưng luôn sinh hoạt với giới trẻ hàng chục năm nay trong vai trò trợ tá Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể VN tại Hoa Kỳ với ước mong góp một phần nhỏ vào việc giáo dục giới trẻ, để họ sẽ trở thành những tín hữu nhiệt thành và những người công dân tốt cho xã hội, để họ nhận ra được nguồn gốc tỵ nạn của mình và sẵn sàng dấn thân cho quê hương dân tộc sớm có tự do, dân chủ và nhân quyền.

Chúng tôi thiết tha đề nghị:

1- Các giám mục, linh mục, các tu sĩ nam nữ, các huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh thể đang chuẩn bị đưa giới trẻ về VN, xin hãy thành thật suy nghĩ, vì quý ngài là người tỵ nạn cộng sản, xin đừng vô tình làm tay sai cho VC. Nếu vô tình, xin hãy vì trách nhiệm đối với quê hương, giáo hội, và đặc biệt với giới trẻ, rút lui bỏ ý định này đi.

2- Xin đại đa số Linh mục, tu sĩ nam nữ, các huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể không đồng ý với việc tổ chức đưa giới trẻ về VN trước khi qua Úc, hãy dũng cảm lên tiếng nói lên sự thật - đừng vì nể nang hay vì sợ vạch áo cho người xem lưng -, để cứu lấy danh dự giáo hội cũng như vì tương lai giới trẻ công giáo hải ngoại .

3- Xin qúy vị phụ huynh hãy dũng cảm bảo vệ lý tưởng của mình, bảo vệ lá cờ quốc gia, không chấp nhận bọn người phản bội lại quê hương, giáo hội, dù họ là ai. Hãy phản đối, ngăn chặn và bảo vệ con em chúng ta. Các con em chúng ta bị các cha, các thầy, các sơ dẫn dắt về VN trước, qua trạm kiểm duyệt Cờ Vàng, sau đó đến Úc tay trắng, đánh mất căn cước của mình.

4- Hỡi các bạn trẻ, các bạn đã tiếp bước cha anh dương cao ngọn cờ vàng chính nghiã, đặc biệt trong các kỳ đại hội Giới Trẻ CG lần trước tại Pháp, Đức và Canada. Cả thế giới đã được nhìn thấy đại kỳ Cờ Vàng Ba Gạch Đỏ bay phất phới trên khán đài ngay sau Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 trong kỳ đại hội tại Đức quốc.

Xin các bạn hãy tẩy chay ghi tên đi VN do các cha tổ chức và đến thẳng Úc châu. Trong trường hợp cần thăm thân nhân, xin đi VN với tính cách cá nhân để không bị lợi dụng danh nghĩa cho những âm mưu đen tối.

5- Chúng tôi cũng xin bày tỏ nơi đây lòng biết ơn CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU đã nhanh chóng lên tiếng phản bác nhưng luận điệu phản dân tộc, gây chia rẽ cộng đồng người Việt tị nạn cs, làm mất danh dự giáo hội CGVN của HY Mẫn.

CĐNVTD/LBUC đã khẳng đinh: "lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của tự do dân chủ, và cũng là biểu tượng của người Việt tỵ nạn. Cuộc tranh đấu hiện nay chống chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam dành lại tự do dân chủ cho đất nước là bổn phận, là nhiệm vụ thiêng liêng của người Việt yêu nước ở hải ngoại cũng như trong quốc nội."

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô, 29.06.2008,

Lý Văn Hợp,
Trợ tá đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Dominico Savio, GX Các Thánh Tử Đạo VN Phoenix.

Sunday, June 29, 2008

Lá Cờ Vàng Nền Cộng Hòa Tổ Quốc Việt Nam Là Một

Lá Cờ Vàng Nền Cộng Hòa Tổ Quốc Việt Nam Là Một
Ngày 19/06/2008 - Phan nhật Nam



    Cờ bay!
    Cờ bay!
    Giữa vũng lửa
    Trầm trầm dân, lính nước mắt ứa
    Một lần Cờ bay Vàng thành xưa
    Bao phần máu xương Người Việt đổ...
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là chung của tất cả Chúng Ta - Dân Tộc nơi Phương Nam dựng phận nghiệp Khổ Đau nhưng Siêu Việt. Cờ Vàng Ba Sọc đỏ là mối biễu tượng thuần thành, chính thống nhất. Bởi Cờ đã dựng lên uy nghi suốt giải quê hương từ Ải Nam Quan, miền núi cực bắc Đồng Đăng, Cao Bằng, Lạng Sơn, đến Mũi Cà Mâu, vùng đầm lầy Quản Long, An Xuyên, cuối nguồn Cửu Long, Sông Cái.


    Dẫu Cờ mất đi quyền hiện diện chính trị.
    Nhưng Cờ vẫn linh thiêng vĩnh hằng tồn tại nơi trái tim, và hơi thở chúng ta.
    Cờ bay không ngừng như máu chảy tự thân.
    Lá Cờ Vàng - Nền Cộng Hòa - Tổ Quốc Việt Nam là Một.
Ngày 26 Tháng Mười, Năm 1955, nền Cộng Hòa khai sinh ở Thủ Đô Sài Gòn với danh hiệu chính thức: Việt Nam Cộng Hòa thay thế danh hiệu Quốc Gia Việt Nam, thể chế chính trị thành hình từ 8 tháng Ba, 1949, ngày Hiệp Ước Elysée ký kết giữa Tổng Thống Cọng Hòa Pháp Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại chấm dứt 65 năm thuộc Pháp (1884-1949). Chức vụ nguyên thủ quốc gia, "Tổng Thống thay thế danh xưng Quốc Trưởng". Ngày 8 tháng 3, 1956, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa chính thức công bố Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc Kỳ, Quốc Huy của nước là hình Cây Trúc biễu tượng Tinh Thần Chính Nhân, Đại Nghĩa của Dân Tộc Việt Nam. Chúng ta hôm nay cần nhắc lại những sự kiện, thời điểm lịch sử kể trên để cùng nhau xác chứng lại một điều hiễn nhiên: Lá Cờ Vàng, danh hiệu Việt Nam Cộng Hòa là một Thực Thể Chính Trị- Biễu Tượng Quốc Gia- Lý Chính Nghĩa- Sức Chiến Đấu của vạn, triệu Người Việt dài theo cùng Thế Kỷ 20 và trước đây, lẫn mai hậu. Dẫu hôm nay có những âm mưu đê tiện, thâm độc đòi xoá bỏ đi biễu tượng cao quý nhiệm mầu trên vì nại cớ chúng đã có liên hệ với những nhân sự, vụ việc gây nhiều lầm lỡ của giai đoạn từ sau cuộc đại chiến thế giới lần hai (1945) đến ngày thiên thu uất hận 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải vô cùng sáng suốt cảnh giác trước mưu hiễm của kẻ nghịch cùng đồng lõa và kiên trì giữ vững niềm tin, sức chiến đấu: Bởi máu của anh em ta, của cả dân tộc khổ nạn đã tô thắm thêm ba đỏ vạch sắc son nầy. Và Cộng Hòa không chỉ là danh xưng về thể chế chính trị, nhưng là mục đích tối thượng của toàn khối Người Việt luôn kiên tâm thực hiện Sống xứng đáng Giá Tri. Con Người, giữ gìn bền bỉ Phẩm Tính Dân Tộc. Nền Cộng Hòa, Cờ Tam Tài "Xanh-Trắng-Ðỏ" luôn là biễu tượng huy hoàng, vĩ đại của Dân Tộc Pháp, và cũng của toàn nhân loại về nỗ lực thực hiện ý niệm "Cộng Hòa-Tự Do Dân Chủ", dẫu Cách Mạng 1789 phải trả bằng giá máu kinh hoàng của bao người vô tội do tay những kẻ khủng bố tàn nhẫn. Mao Trạch Đông đã không tùy nghi vô cớ liên kết cách mạng vô sản với cuộc Chiến Tranh Nha Phiến 1884 giữa Triều Đình nhà Thanh với những đại cường Tây Phương trong buổi lễ vĩ đại ngày 1 tháng 10, 1949 nơi Quảng Trường Thiên An Môn mừng lần thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân - Bởi đấy là Truyền Thống chiến đấu giữ nước của Dân Tộc Trung Hoa. Chúng ta không thể tạo dựng nên điều vô cớ, bởi lá Cờ Vàng quả thật đã thấm đẫm lượng máu vô hạn của lớp lớp Người Việt quyết tử để Dân Tộc tồn sinh. Giòng máu oanh liệt của nhị vị Trưng Nữ Vương hòa xuống Hát Giang năm 43 lúc nước vừa mới tượng hình được tiếp nối với lượng sóng sông Bạch Đằng của kỳ giữ nước quang vinh, Thế Kỷ 13 quân Nhà Trần đánh tan ba lần đạo binh bách thắng Nguyên Mông. Từ bậc quân vương, đến người lính đầu bạc, cũng như ngựa đá phải chồn chân, hãn huyết xông lên trận tiền giữ nước. Đấy cũng là giòng máu kiên trung, hiến thân cho mệnh nước hằng tuôn chảy không ngừng khi Chiến Hạm Nhựt Tảo-Hải Quân 10 chìm xuống, hòa lẫn màu biển Hoàng Sa ngày 19 tháng 1, 1974, cùng thân xác Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, và những Người Lính Hải Quân Quân Lực Cộng Hòa giữ gìn trời, biển phương Nam. Thế nên, Cờ không chỉ giới hạn là biễu hiện của riêng những chế độ cầm quyền, với Quốc Gia Việt Nam hay hai nền Cộng Hòa. Và Cộng Hòa là ý niệm tối thượng của cuộc sống- chiến đấu bất tận trên vùng đất lửa phương Nam. Dẫu sống vô cùng nguy biến đau thương như hằng hằng những đoàn người chạy loạn cộng sản-Từ cuộc di cư vĩ đại năm 1954 rời bỏ Miền Bắc; lần chạy nạn Tổng Công Kích Mậu Thân 1968; cảnh Mùa Hè Đỏ Lửa suốt ba vùng đất nước năm 1972, và lần oan khốc uất hận khi mất Cao Nguyên từ ngày 10 tháng 3, 1975 để đến hôm nay hiện thực với hai triệu người có mặt ở hải ngoại ố Những NGƯỜI VIỆT TY. NẠN CỘNG SẢN ĐỂ THỰC HIỆN Ý NIỆM CỘNG HÒA. Vậy, chúng ta phải khẳng định lại thêm một lần: Lá Cờ Vàng - Danh Hiệu Cộng Hòa là sức mạnh chuyển giòng đấu tranh xuyên suốt lịch sử từ những lần vị quốc vong thân sáng ngời trung liệt của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương khi thành mất; của Trương Công Định, liệt sĩ Vàm Láng, Gò Công; của Nguyễn Trung Trực với chiến công vang động giòng Vàm Cỏ, Long An: "Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạc Kiên Giang khốc quỷ thần", cho đến lần Cờ lên trên Kỳ Đài Cố Đô Huế, sáng Mùa Xuân Mậu Thân, 24 tháng Hai, 1968.


    Quân dân ta nên một lần bật khóc
    Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
    Lừng lững lên cao
    Giữa mờ sương xứ Huế sáng Xuân nào!
Danh hiệu Cộng Hòa bao gồm trong lời hô uy dũng của mười ba Liệt Sĩ Quốc Dân Đảng "Việt Nam Độc Lập Muôn Năm" nơi Yên Bái, sáng sông núi gờn gợn đau thắt, 17 tháng 6, 1930, không khác ý niệm quyết tử "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm" của trung đội lính Nhảy Dù do Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái chỉ huy, đã chọn giây phút báo đền ân nghĩa quê hương với chính xác thân mình nỗ tung bởi trái lựu cuối cùng, buổi sáng 30 tháng Tư, 1975 nơi bùng binh Ngã Sáu, Chợ Lớn. Danh hiệu Cộng Hòa linh thiêng kia đã bừng lên soi rạng khoảng trời đất u tối sáng 29 tháng 4, 1975 khi chiếc Hỏa Long C119 của Trung Úy Nguyễn Văn Thành bốc cháy trên không gian Tân Sơn Nhất, Gia Định. Và giá trị Cộng Hòa mải mải tồn tại trong thanh âm quyết liệt của Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Bá khi đối diện với nòng súng của trung đội hành hình. Chúng ta hôm nay cũng tương tự tình cảnh của những người Việt lưu vong đầu thế kỷ ở Sa Khôn, Thái Lan, với tất lòng đau xót như đã một lần được Tú Tài Đặng Thúc Hứa, đồng chí của nhị vị tiền bối Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh diễn dạt khi nhớ về quê nhà đang trong cơn điêu linh nhục thãm:


Vùng Quê Hải, gió tanh mưa máu, án ba đào vì tình thế xui nên.
Cõi Viêm Bang, núi thịt cồn xương, nỗi bi thảm xưa nay chưa có.
Ngoài ngàn dặm trông về cố quốc,
Non sầu bể thảm, quặn ruột gan chín khúc tơ vò.
Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm,
Cỏ úa hoa dàu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ.


Nỗi Đau cào xé nầy luôn bừng bừng cùng mối Ước Nguyện sắc son - Lần dựng lên trong nắng Miền Nam mầu uy nghi rực rỡ Cờ Vàng, và câu hát đã một lần vang động núi sông lẫm liệt cảm động ánh sáng vĩnh cửu Cộng Hòa.

Cờ bay! Cờ bay!
Trên thành phố thân yêu

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!!

CHÚNG TA PHẢI HÁT LẠI THÊM MỘT LẦN CÂU HÁT BI HÙNG NẦY TRÊN TOÀN CÕI QUÊ HƯƠNG

Viết để nhắn nhở, vững tin Nghĩa Lớn - Việt Nam Cộng Hòa

Phan nhật Nam

26 Tháng Mười, 1955 — 26 Tháng Mười, 2002. Phan nhật Nam

Saturday, June 28, 2008

Thông Cáo Chung Của Hoa Kỳ Và Viêt Nam Cộng Sản



Thông Cáo Chung Giữa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ Và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

• (Bản tiếng Việt do Khánh Ðăng lược dịch)

Tổng thống George W. Bush đón mừng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến viếng thăm Hoa Kỳ và Tòa Bạch Ốc ngày hôm qua, cho cuộc hội kiến song phương lần thứ tư giữa lãnh đạo hai nước như từng xảy ra trong bốn năm qua. Tổng thống và Thủ tướng đã thảo luận những tiến bộ đạt được kể từ khi hai vị gặp nhau lần trước đây tại Việt Nam vào năm 2006, và hứa sẽ có những nỗ lực cụ thể để đưa mối quan hệ song phương ngày càng bền chặt này đi tới.

Hai nhà lãnh đạo đồng ý rằng quan hệ này được đặt căn bản trên một tình hữu nghị tích cực đang phát triển, tôn trọng lẫn nhau, và chung một quyết tâm theo đuổi sự hợp tác có tính cách xây dựng và đa diện trên nhiều vấn đề khác nhau, để góp phần vào việc phát triển sâu đậm thêm mối quan hệ này, vì quyền lợi lâu dài của cả hai nước. Hai nhà lãnh đạo cũng chia sẻ tầm nhìn và mục tiêu về một khu vực Á Châu - Thái Bình Dương ổn định, vững chắc, dân chủ và hoà bình, và và trao đổi về việc góp phần của Hoa Kỳ và Việt Nam trong tương lai cho mục tiêu đó.

Hai nhà lãnh đạo hoan nghênh việc gia tăng thêm quan hệ kinh tế, ghi nhận mức giao thương hai chiều vượt qua 12 tỷ đô la năm 2007 và Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất cảng hàng đầu của Việt Nam. Thủ tướng Dũng xác định quyết tâm của Việt Nam nhằm duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và cương quyết thực hiện các điều cam kết với Tổ chức Mậu dịch Thế giới, Hiệp định Thương mại Song phương, Hiệp định Khung về Thương mại và Ðầu tư; cải thiện hệ thống luật pháp, và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và gia tăng mức giao thương với Việt Nam.

Hai nhà lãnh đạo đồng ý rằng quan hệ kinh tế và thương mại thì quan trọng trong mối quan hệ song phương. Cả hai tuyên bố rằng Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ bắt đầu thương lượng để tiến tới một Hiệp định Đầu tư Song phương, biểu hiện sự cam kết của hai bên để mở rộng các chế độ đầu tư và công bình, không phân biệt, và đối xử minh bạch với đầu tư nước ngoài.

Tổng thống Bush xác nhận Hoa Kỳ đang nghiêm trọng xem xét lại lời thỉnh cầu của Việt Nam xin được chọn lựa như một thừa kế nhân của chương trình Hệ thống Ưu đãi thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences program), và ông đã thừa nhận lời thỉnh cầu của Việt Nam xin được công nhận là có Quy chế Kinh tế Thị trường. Hai nhà lãnh đạo đã ghi nhận tầm quan trọng của những nỗ lực trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á Châu -Thái Bình Dương (APEC) nhằm quảng bá cho việc mở rộng và buôn bán tự do, bao gồm triển vọng của một Vùng Mậu dịch Tự do trong khu vực Á Châu - Thái Bình Dương. Tổng thống Bush cũng nhắc lại sự phản đối tổng quát của Hoa Kỳ trong việc giới hạn xuất cảng thực phẩm trong lúc giá cả đang gia tăng.

Hai nhà lãnh đạo kêu gọi tất cả các nước cùng tham gia trong các nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề thực phẩm thế giới. Tổng thống Bush tái xác nhận quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc theo đuổi các hành động nhằm duy trì hoặc khuếch trương thêm các mức trợ giúp hiện tại và giải quyết các tình trạng cơ bản đã đưa đến giá cả thực phẩm gia tăng.

Hai nhà lãnh đạo thảo luận việc mở rộng và tăng cường đối thoại cao cấp giữa hai nước; hai vị tán thành việc sáng lập ra một phương cách đối thoại mới về chính trị - quốc phòng và kế hoạch chính sách, để cho phép có thêm các cuộc thảo luận sâu đậm và thường xuyên hơn về các đề tài an ninh và chiến lược. Hai nhà lãnh đạo ghi nhận lợi ích của sự đối thoại cởi mở và vô tư về các đề tài liên quan đến nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Tổng thống Bush và Thủ tướng Dũng đồng ý về tầm quan trọng của tinh thần thượng tôn luật pháp trong các xã hội hiện đại, và Tổng thống Bush nhấn mạnh đến tầm quan trọng trong việc cổ xuý để cải thiện việc thực hiện nhân quyền và tạo điều kiện cho các tín đồ tôn giáo và người dân tộc thiểu số. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thông báo cho Tổng thống Bush về các chính sách và nỗ lực mà Việt Nam đã thực hiện được trong lãnh vực này, và Tổng thống Bush ghi nhận các nỗ lực này của Việt Nam cho đến nay và khuyến khích cho sự tiến bộ hơn nữa. Trong dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày ra đời của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, hai nhà lãnh đạo tái xác nhận sự cam kết của họ nhằm cổ võ và bảo đảm cho nhân quyền và các quyền tự do căn bản khác.

Hai nhà lãnh đạo hài lòng với những thành công của người Mỹ gốc Việt và ghi nhận sự đóng góp của họ vào việc quảng bá quan hệ giữa hai nước. Tổng thống Bush hoan nghênh những đóng góp này và nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh, và toàn vẹn lãnh thổ.

Tổng thống Bush bày tỏ lòng biết ơn đối với sự hợp tác của Việt Nam trong nỗ lực nhân đạo giữa hai nước để đạt đến việc tìm kiếm đầy đủ nhất có thể làm được về những người Mỹ hiện vẫn còn mất tích trong chiến tranh và thiện ý của Việt Nam nhằm thực hiện thêm các biện pháp phụ, ghi nhận rằng chương trình hợp tác hoạt động tìm kiếm chung (Joint Field Activities ) đã cho phép việc nhận diện và hồi hương di hài của 629 quân nhân Hoa Kỳ, và ông tái xác nhận sự trợ giúp tiếp tục của chính phủ Hoa Kỳ trong việc thu thập thông tin về các nỗ lực tìm kiếm người mất tích của phía Việt Nam. Thủ tướng Dũng cũng nêu rõ sự trợ giúp của Hoa Kỳ trong phạm vi này. Thủ tướng Dũng tán thành những tiến bộ song phương trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường ở gần các vị trí có kho chứa chất dioxin ở Việt Nam, đặc biệt là việc tiếp tục đưa vào xử dụng 3 triệu đô la do Hoa Kỳ tài trợ cho việc dọn dẹp các khu vực bị ô nhiễm và cho các dự án y tế.

Tổng thống Bush chúc mừng Thủ tướng Dũng về nhiệm kỳ 2 năm làm thành viên trong Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc của Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo xác nhận rằng hai nước sẽ tiếp tục hội ý với nhau về các vấn đề cấp thiết sẽ được đề ra tại Hội đồng Bảo An. Thủ tướng thông báo với Tổng thống rằng Việt Nam đang hoàn thành một phương pháp sửa soạn cho việc tham dự có hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc Thủ tướng Dũng cám ơn Tổng thống Bush về lời mời Việt Nam tham dự vào chương trình Sáng kiến Hoạt động Hoà bình Toàn cầu (Global Peace Operations Initiative), mà qua đó Việt Nam sẽ tham gia vào các khoá huấn luyện và các sinh hoạt khác của hoạt động gìn giữ hoà bình. Tổng thống Bush ghi nhận chuyến viếng thăm đến Việt Nam đang diễn ra của tàu nhân đạo USNS Mercy .

Hai nhà lãnh đạo bày tỏ lòng mong muốn nhằm nâng cao thêm mối quan hệ của Hoa Kỳ với Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á (ASEAN), và Tổng thống Bush bày tỏ sự tán thành của ông về vai trò tích cực của Việt Nam trong ASEAN. Hai nhà lãnh đạo thảo luận về các phạm vi phối hợp với khối ASEAN , trong đó có việc trợ giúp nhân đạo và cho trận bão Nargis. Tống thống Bush nhắc lại rằng Hoa Kỳ sẵn sàng cộng tác với khối ASEAN, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức phi chính phủ khác để đem thêm trợ giúp nhân đạo vô cùng cần thiết đến những người bị ảnh hưởng bởi cơn bão tàn khốc này, và cả hai đã thảo luận về sự cần thiết cho các nhân viên cứu trợ quốc tế có một lối tiến vào mau chóng đến các khu vực bị tai họa.

Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh về sự quan trọng của hợp tác giáo dục và đồng ý sẽ phát động thành lập một Toán Đặc nhiệm Giáo dục song phương cao cấp để phác hoạ ra một lộ trình và nhận diện các thể thức hiệu quả cho việc nâng cao vấn đề hợp tác giáo dục giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo cũng hoan nghênh Chương trình Fulbright ở Việt Nam được tiếp tục thành công, và số lượng ngày càng gia tăng của sinh viên Việt Nam lựa chọn đến du học tại Hoa Kỳ. Tổng thống Bush nhấn mạnh sự quan trọng của một chương trình Ðoàn Hoà bình (Peace Corps) trong tương lai tại Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đồng ý trên nguyên tắc đối với dự kiến của Tổng thống về một chương trình như vậy và hai phía sẽ tiếp tục thảo luận để hoàn tất các thoả thuận dàn xếp có liên quan.

Thủ tướng Dũng cám ơn Tổng thống Bush về sự trợ giúp trong Kế hoạch Cứu tế Khẩn cấp cho bệnh AIDS (PEPFAR), đồng thời ghi nhận rằng nhiều người ở Việt Nam, bao gồm nhiều trẻ em yếu đuối, hiện thời đang nhận sự chăm sóc, giúp đỡ và được chữa trị bằng thuốc chống vi trùng gây bệnh AIDS.

Tổng thống Bush bày tỏ sự cam kết của ông nhằm tiếp tục phát triển sự hợp tác trong chương trình nhận con nuôi liên quốc gia giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, hầu bảo đảm cho lợi ích cao nhất cho đứa trẻ, tôn trọng các quyền căn bản của đứa bé, và ngăn ngừa nạn bắt cóc và buôn bán trẻ em. Thủ tướng Dũng nhấn mạnh rằng Việt Nam chia sẻ các mục tiêu này và nêu rõ rằng Việt Nam sẽ xúc tiến nhanh việc chuẩn bị để sớm sủa gia nhập vào Công ước Hague về Con nuôi Liên quốc gia. Thủ tướng cũng hoan nghênh sự trợ giúp kỹ thuật của Hoa Kỳ trong việc tạo điều kiện thuận tiện cho vấn đề này.

Thủ tướng Dũng cám ơn Tổng thống Bush về sự trợ giúp của Hoa Kỳ đối với Luật Năng lượng Nguyên tử của Việt Nam cũng như về thông tin và huấn luyện kỹ thuật cho an toàn hạt nhân.

Cuối cùng, hai nhà lãnh đạo thảo luận về sự hợp tác trong vấn đề khí hậu. Thủ tướng Dũng và Tổng thống Bush hoan nghênh việc khai trương đề án Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng và Quan sát Toàn cầu (DRAGON) tại Việt Nam, mà đề án này sẽ thiết lập ra một học viện ở Trường Đại học Cần Thơ để phối hợp huấn luyện và nghiên cứu việc tạo ra các hệ sinh thái lành mạnh và các khu vực đồng bằng có khả năng chịu đựng chống đỡ được. Hai nhà lãnh đạo cũng đồng ý sẽ cùng nhau làm việc để cổ xuý các nỗ lực của Việt Nam nhằm thích nghi với và làm nhẹ đi ảnh hưởng của khí hậu thay đổi, bao gồm việc lập ra một tiểu ban mới trong phạm vi Hiệp định song phương về Khoa học và Kỹ thuật, để trao đổi và phối hợp kế hoạch đề xướng chung.



Joint Statement Between the United States of America and the Socialist Republic of Vietnam

President George W. Bush welcomed Prime Minister Nguyen Tan Dung to the United States of America and to the White House yesterday for the fourth bilateral meeting between leaders of our two countries in as many years. The President and the Prime Minister discussed the progress made since they last met in Vietnam in 2006 and committed to specific efforts to carry this increasingly robust bilateral relationship forward. The two leaders agreed the relationship is based on a positive, growing friendship, mutual respect, and a shared commitment to pursuing constructive and multifaceted cooperation on a wide range of issues that will contribute to the development of the depth of the relationship, which is in the long-term interests of both countries. They also shared their vision and goals for a stable, secure, democratic, and peaceful Asia-Pacific region and discussed future U.S.-Vietnam contributions to that end.

The leaders welcomed the deepening economic ties, noting that two-way bilateral trade topped $12 billion in 2007 and that the United States is Vietnam's top export market. Prime Minister Dung affirmed Vietnam's resolve to maintain macroeconomic stability and determination to implement its commitments under the World Trade Organization, the Bilateral Trade Agreement, and the Trade and Investment Framework Agreement; improve its legal system; and create conditions favorable for foreign investors and trade growth.

The two leaders agreed that trade and economic ties are significant to the bilateral relationship. They announced that the United States and Vietnam would initiate negotiations toward a Bilateral Investment Treaty, signaling our commitment to open investment regimes and fair, non-discriminatory, and transparent treatment of foreign investment. President Bush affirmed that the United States is seriously reviewing Vietnam's request to be designated as a beneficiary of the Generalized System of Preferences program, and he acknowledged Vietnam's request to be accorded Market Economy Status. They noted the importance of efforts within the Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC) forum to promote free and open trade and investment, including the prospect of a Free Trade Area of the Asia-Pacific. President Bush reiterated the United States' general opposition to restrictions on food exports at a time of rising prices. The two leaders called on all countries to join in the effort to solve the world food problem. President Bush reaffirmed the United States' commitment to pursuing actions to maintain or expand existing assistance levels and to address the underlying conditions contributing to high food prices.

The two leaders discussed expanding and strengthening our senior-level dialogues. They endorsed the creation of new political-military and policy planning talks, which will allow for more frequent and in-depth discussions on security and strategic issues. The two leaders noted the benefit of an open and candid dialogue on issues relating to human rights and fundamental freedoms. President Bush and Prime Minister Dung agreed on the importance of the rule of law in modern societies, and President Bush underscored the importance of promoting improved human rights practices and conditions for religious believers and ethnic minorities. Prime Minister Dung informed President Bush of the policies and efforts made by Vietnam in this area, and President Bush took note of Vietnam's efforts to date and encouraged further progress. On the occasion of the 60th anniversary of the Universal Declaration on Human Rights, the two leaders reaffirmed their commitment to promoting and securing fundamental human rights and liberties.

The two leaders were pleased with the successes of Vietnamese Americans and noted their contribution to the promotion of the relationship between the two countries. President Bush welcomed these contributions and reiterated the U.S. government's support for Vietnam's national sovereignty, security, and territorial integrity.

President Bush expressed appreciation for Vietnam's cooperation in our joint humanitarian effort to achieve the fullest possible accounting for Americans who remain missing in action and Vietnam's willingness to carry out additional measures, noting that the Joint Field Activities have allowed for the identification and repatriation of the remains of 629 U.S. soldiers and reaffirmed the U.S. government's continued assistance in obtaining information for Vietnam's own accounting efforts. Prime Minister Dung highlighted the United States' assistance in this area as well. Prime Minister Dung applauded bilateral progress in addressing environmental contamination near former dioxin storage sites in Vietnam, particularly the ongoing implementation of $3 million in U.S. funding for environmental remediation and health projects.

President Bush congratulated Prime Minister Dung on his country's two-year membership on the United Nations Security Council. The two leaders reaffirmed that the two countries will continue consultations on the pressing issues that will face the Security Council. The Prime Minister informed the President that Vietnam is completing the preparatory process for its effective participation in UN peacekeeping operations. Prime Minister Dung thanked President Bush for the invitation for Vietnam to participate in the Global Peace Operations Initiative (GPOI), through which Vietnam will participate in training courses and other activities on peacekeeping operations. President Bush noted the ongoing visit of the humanitarian ship the USNS Mercy to Vietnam.

The two leaders expressed their wish to enhancing further U.S. relations with the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN), and President Bush expressed his appreciation for Vietnam's active role in ASEAN. The two leaders discussed the areas of cooperation with ASEAN, including humanitarian assistance and Cyclone Nargis. President Bush reiterated that the United States is willing to work with ASEAN, the United Nations, and other non-governmental organizations to bring additional, much-needed humanitarian assistance to those affected by the devastating cyclone, and they discussed the need for entry and prompt access to all international aid workers to the disaster area.

The two leaders underscored the importance of cooperation on education and agreed to launch a high-level bilateral Education Task Force that will chart a roadmap and identify effective modalities for enhanced U.S.-Vietnam education cooperation. The two leaders also welcomed the continued success of the Fulbright Program in Vietnam and the growing number of Vietnamese students who choose to study in the United States. President Bush underscored the importance of a future Peace Corps program in Vietnam. Prime Minister Dung agreed in principle to the President's proposal on such a program and that the two sides will continue discussion to finalize related arrangements.

Prime Minister Dung thanked President Bush for assistance under the President's Emergency Plan for AIDS Relief (PEPFAR), noting that many people in Vietnam, including vulnerable children, are now receiving care, support, anti-retroviral treatment.

The President expressed his commitment to continue the development of intercountry adoption cooperation between the United States and Vietnam that ensures the best interests of the child, respects his or her fundamental rights, and prevents the abduction and trafficking of children. The Prime Minister underscored that Vietnam shares these goals and stressed that Vietnam will speed up preparations for an early accession to the Hague Convention on Intercountry Adoptions. The Prime Minister also welcomed U.S. technical assistance in facilitating this step.

Prime Minister Dung thanked President Bush for the United States' assistance on Vietnam's Atomic Energy Law as well as for technical information and training on nuclear safety.

Finally, the two leaders discussed cooperation on climate issues. Prime Minister Dung and President Bush welcomed the commencement of the Delta Research and Global Observation Network (DRAGON) project in Vietnam, which will establish an institute at Can Tho University to cooperate on training and research to produce healthy ecosystems and sustainable deltas. The two leaders also agreed to work together to promote Vietnamese climate change adaptation and mitigation efforts, including the formation of a new subcommittee under the bilateral Science and Technology Agreement to discuss and coordinate joint initiatives.

http://www.whitehouse.gov/news/releases/2008/06/20080625-4.html

Tên Cẩu Cao Cầy Chuyên Lòn Trôn, bợ Dái ...

Trương Minh Hòa

Cái tên Cẩu Cao Cầy, nổi tiếng khắp ta bà thế giái, nhất là đối với dân Việt Nam trong, ngoài nước về thành tích, tư tưởng, hành vi và đủ thứ khác, thời thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan còn sống đã nói: "ông Cầy phải quỳ lạy đồng bào để xin tha thứ cho cái tội nói nhăng nói cuội", lúc đó Cầy chỉ mới ngửi mùi thúi xác ướp Hồ Chủ Tịch và bắt đầu đón gió, nhưng chưa có gì ngoài lối nói huênh hoang; nếu cái tên nầy viết theo kiểu chữ "văn minh hang Pác Pó" thuộc đỉnh cao trí tệ nòi người và sau nầy được nối tiếp sự nghiệp làm "Kách mệnh" qua nền văn hóa Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, bao trùm cả nền "văn minh miệt vườn" ở miền bưng biền, mật khu, mật đít được viết là KẨU KAO KẦY. Một con người "dĩ đại" nầy được bao quanh bằng nhiều thứ giai thoại, giai thụi .... kể cả tánh hay mê "giai nhân" mà nhiều khi làm nên những trò khỉ nịnh đầm lố bịch, coi như ngoài binh thư, bí quyết dạy "dê", dám lái cả phi cơ để thả dê, thật là "Kỳ cục". Ngoài ra Cầy còn tự nhận là Con Phật, vì quá giác ngộ, giác nghiệt, mà sau nầy, động não viết thành quyển sách tiếng Anh, tựa là "Budha Child", thi đua sáng tác, tối tác với thiền Xu Thích Nhất Vẹm với nhiều tác phẩm lừng lẫy như: The Lotus in the sea of fire .... nếu gặp khi hang Pác Pó treo cờ đỏ, thì đây mới là "Cờ Hồng cài Háng".

Tuy rằng tự biên tự diễn, tự xưng là "Con Phật", thuộc dạng "không người lái" như chuyện mạo danh "nhân dân" của tập đoàn Việt Cộng, không ai bầu mà cứ xưng là lãnh đạo, lãnh điếc, lãnh chó, lãnh mèo, lãnh chuột ..... đó là những chức vụ "không người lái" như thủ tướng, chủ tịt nhà nước, chủ tịch quốc hội, đại biểu quốc hộ i... nhất là cái chức cao nhất, vua không ngai là Tổng Bí Thư, thì cũng đâu có ai bầu. Tâm tánh của Cẩu Cao Cầy luôn có nhiều "sự cố" với những NGHIỆP BÁO trên đường "hành lạc" hành nghề mối lái, là thứ NGÁO BỊP nhưng cứ mượn danh Phật mà "lên vùng" để vụ lợi. Bản tánh tiền hậu bất nhất "khi trồi, khi sụt, khi có, khi không" và cũng thuộc dạng: "khi cứng, khi mềm, khi xìu, khi ểnh ..." trong việc hành xử, từ lập trường đến hành động tạo cho hắn một chỗ đứng vững chắc trên "đống rác của dân tộc". Do đó Cẩu Cao Cầy đúng là "Evil Child" là tỳ kheo: Thích Thịt Chó, Thích chơi bời, Thích nhậu nhẹt, Thích đá gà, Thích Mỹ Kim, Thích lếu láo, Thích để râu, Thích bài bạc, Thích cướp vợ, Thích trở cờ, Thích Đón Gió, Thích Việt Cộng, nên trở thành Thích lòn trôn, Thích nâng bi, Thích bợ dái .... tất cả dồn chung vào danh hiệu: "tỳ kheo Thích Đủ Thứ".

Thời kỳ đệ nhất Cộng Hòa, vì ham danh và thích làm nổi, nên gã Cầy đứng chung hàng ngũ "phản tướng" với Dương Văn Minh lãnh đạo, trở thành "Thích đảo chánh", thành công sau ngày 1 tháng 11 năm 1963, trở thành "thích thủ tướng" với chức vụ "Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương"; cao hứng huênh hoang "Thích Bắc Tiến" rồi sau đó thì sanh ra: "thích tổng thống", nhưng mộng bất thành biết nói sao, không thể cạnh tranh nổi với Nguyễn Văn Thiệu. Chính ví "thích danh lợi" mà Cẩu Cao Cầy lọt vào bẫy của đám Vi Si đội lớp sinh viên học sinh như: Lên Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Hạ Đình Nguyên, Võ Như Lành, Phan Công Trinh, Nguyễn Thị Yến ... viện trợ cho đám nầy 2 ngàn quả lựu đạn MK3 để ném phá cuộc bầu cử 1971, Cầy còn cho mượn nhà trong dinh phó tổng thống để Việt Cộng lập mật khu ngay trong thủ đô Saigon, xuất phát biểu tình, đánh phá, gây rối loạn miền Nam. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cầy lăng xăng tuyên bố vung vít "tử thủ" rồi sau đó dông mất hơn ai hết, trở thành "Thích Di Tản" hay "thích ra khơi", nếu không tuyên bố vung vít mà chạy thì cũng thông cảm; nhưng nói mà dông thì đó là tác phong "thích chạy xịt" của gã Cầy nầy. Trong suốt thời gian dài cư trú tại Mỹ, Cẩu Cao Cầy chưa hề tham gia chống Cộng, đóng góp công sức vào sinh hoạt cộng đồng; trái lại hay tuyên bố huênh hoang, đạt danh hiệu "Thích phổi Bò" và tự cao tự đại, được các hội đoàn, nhất là không quân mời, nhưng Cầy không làm gì, ngoài việc đến đó nói láo, phô trương và "thích nhảy đầm". Đừng nghe những gì Cẩu Cao Cầy nói, hãy nhìn kỹ những gì Cầy làm" là câu tục ngữ dành cho Việt Cộng, nhưng cũng áp dụng với Cầy thì trúng phóc, trước đây Cầy tuyên bố "Bắc Tiến", nhưng sau nầy thì "Tiến về Bắc" trở Việt Nam làm con bài tuyên vận cho Vẹm, là thứ giẻ rách của đảng cướp, trở thành "Cháu ghẻ Bác Hồ", tuyên bố vung vít, làm môi giới mở khách sạn, sân golf ... nhưng bảo là: giúp dân Việt Nam có công việc làm, từ đó trở thành "thích cò mồi" và "thích xạo ke". Ngày xưa thì: "nhất tướng công thành vạn cốt khô", ngày nay tình hình thay đổi: "đón gió trở cờ, vạn kiếp nhơ".

"Còn tiền, còn gái, còn người .
Ngày nay đón gió, bị chửi gấp mười lần qua".

Cẩu Cao Cầy đã "hoàn thành công tác một cách xuất sắc trong nghề lòn trôn, nâng dái:" quả xứng đáng là "đỉnh cao trí tệ nòi ... chồn", thực hiện đúng theo "nời dạy" của Chủ tặc Hồ Chí Mén vĩ dạy đĩ: "Đâu cần Cao Cầy có, đâu khó có Cao Cầy".

"Ai đón gió mà không hề bợ dái.?
Ai lòn trôn mà vinh dự bao giờ?
Dậy mà đi, dậy mà đi.."

Hồ Chí Minh là người có nhiều "sự cố cực kỳ chất lượng", nhưng tất cả đều là thứ ngồi trên đầu thiên hạ, như cái danh hiệu "cha già dân tộc" chỉ nới 57 tuổi, áp đặt cả nước, bất kể cả những cụ già lớn tuổi lão làng, kể cả anh chị ruột của hắn; còn đối với nhi đồng, đảng viên, cán bộ .... Hồ Chí Minh cũng dành thân thương danh hiệu là: "cháu ngoan Bác Hồ"; nếu là thuộc gia đình đi theo đảng, lập nhiều thành tích cướp của giết người, thì đây là thứ "cháu ruột Bác Hồ", được đảng chiếu cố, sau nầy trở thành giai cấp lãnh đạo, Mafia đỏ; bên cạnh đó cũng có thứ "cháu ghẻ Bác Hồ", là thứ chầu rìa, đón gió trở cờ, theo đớm an tàng, trở thành công cụ phụ vụ cho đám "cháu ruột Bác Hồ. Trong thành phần cháu ghẻ, có Cẩu Cao Cầy.

Sau khi trở thành "cháu ghẻ Bác Hồ" thì Cầy phải biết phục tùng, lòn trôn, nâng dái, bợ háng .... "cháu Ruột Bác Hồ" để được bố thí chút "cơm thừa, cá cặn". Con ruột có "chế độ" ưu tiên hơn con ghẻ là thế ấy. Trong cổ tích như con Tấm con Cám, chuyện con ruột được dành nhiều quyền lợi là vậy. Nhưng Cầy đâu phải là "con ghẻ" lâu năm, được Bác và đảng nuôi từ nhỏ đến "nhớn", nhưng là thứ "cháu ghẻ ngang hông" tự nguyện trở về liếm gót, làm con ghẻ cho đảng mà "lòng phơi phới một tương lai ... đón gió" thật không hổ danh là:

"Cà chớn, cà chớn, đại cà chớn.
Lòn trôn, lòn trôn, đại lòn trôn".

Khi cháu ruột đi đâu, thì cháu ghẻ cũng phải lẽo đẻo theo sau để lo phục dịch, nâng bi, bợt đít ... năm 2007, cháu ngoan ruột Bác Hồ là Nguyễn Minh Triết đến Mỹ, cũng có mặt cháu ghẻ Cẩu Cao Cầy lăng xăng, bợ đỡ, tuyên bố um sùm, được mớm mồi, mạo nhận là "đại diện cộng đồng hải ngoại", nếu không có an ninh, cảnh sát bảo vệ thì cũng dám ăn dép, tát tai lắm. Mới đây đứa cháu ruột Bác Hồ là Võ Văn Kiệt, tức Sáu Dân, người được Bác phong quân hàm "tà lọt" nhưng sau nầy "dzợt lên thủ tướng", vì Kiệt là người có công rất lớn trong việc đi tìm gái đẹp ở miền Nam để giải ra đất Bắc "Cống Hồ" nên dần dần thăng tiến quan chức. Khi Sáu Dân giả từ đảng cướp để "tiêu diêu nơi miền hỏa ngục" thì cháu ghẻ Bác Hồ là Cẩu Cao Cầy đến, làm cái job "đạo tì" cấp cao, với vòng hoa tím, weston, cà vạt; cúc cung tận tụy phục vụ từ cháu ruột còn sống đến cháu mãn phần, Cầy quả đúng là người mặt chay mày đá.

Cuối tháng 6 năm 2008, cháu ngoan ruột Nguyễn Tấn Dũng, hổn danh là Dũng Xà Mâu, lại làm một chuyến "quy mã" ăn mày tiếp, thì cũng thấy cháu ghẻ Cẩu Cao Cầy có mặt, lo lòn trôn, bợ dái để làm tròn trách nhiệm của kẻ cam tâm làm tôi tớ.

Khoa Học gia Dương Nguyệt Ánh, làm MC trong DVD "Lá Thư Từ Chiến Trường" có nói: "đặc tính của Không Quân là anh em không bao giờ bỏ nhau". Nhưng đối với con chim sắt "Cẩu Cao Cầy" thì đây là ngoại lệ, Cầy vì ăn phải "C...Vẹm" mà lú lẫn, tâm thần bấn loạn, u mê ám chướng mà bỏ hết anh em Không Quân, trở về "đăng ký" làm cháu ghẻ Bác Hồ, nên trở thành "không quần" lúc Cầy đi dạo phố với quần tà lỏn. Từ đó rụng hết cánh, trở thành: "nếu là chim, tôi trở thành loài chim KHÔNG CÁNH", là thứ Chim mà qúy bà, cô coi là "kẻ thù ta đâu phải là mầy, giết mầy rồi, ta sống với ai?". Loài Chim không cánh nào có khả năng bay được, chỉ còn "nghiệp chuyên" là lủi:

"Lủi, lủi, lủi, cứ lủi mãi không ngừng nghỉ.
Cho nước nôi theo đó tuông tràn.
Cho Bác Hồ cương cứng tiến vào hang.
Nay Pác Pó luôn chờ chim không cánh".

Không biết Cầu Cao Cầy có loại thần dược gì mà râu ria "vẫn mãi mãi um tùm, mọc đầy cả mép", đúng là: "râu mép người Sơn Tây" nên cũng có thể xứng đáng chân truyền để học "khẩu quyền" bí kíp "dâm học tinh hoa" của Bác để lại? Cũng có thể là Cầy được các cháu ruột Bác Hồ cho dùng thang thuốc Bắc bí mật hơn cả bí mật quốc phòng, có tên là "toa thuốc Bác Mao cho Bác Hồ", cũng có thể dùng thai nhi ngâm với nhao, mật ong Hà Giang .... nhưng hình như có uống loại "sữa con rận chúa số 36" là loài rận hiếm quí, tưởng chừng như tuyệt giống từ thời 9 năm khiến chán 1945-1954, nghe đâu được đảng "phát hiện" được ở tận "đáy quần ... chúng", là tàn dư thời kỳ đánh Tây giành ĐẬP LỘT và rận chúa được gầy giống lại, nuôi theo lối "quy hoạch, quy mô" đúng khoa học kỹ thuật. Nghe đồn từ nguồn tin "khí tượng, báo cáo thủy văn": Sữa con rận chúa 36 hay lắm quý vị ơi!. Ai rụng hết lông háng, uống vào là mọc um tùm trở lại, bất kể tuổi tác, huống chi bịnh hói đầu, hói nách ... sữa rận chúa 36 còn trị mất ngủ kinh niên, người lớn tuổi uống vào là "ngủ luôn" không bao giờ "dậy mà đi", ai làm nhà hàng, chủ nhà hàng "nâu năm" bị bịnh "mặt lám xì" cứ uống là hết "lám", bảo đảm "money back guarantee" là không bao giờ bị "lám háng" nếu phơi nắng suốt ngày, thích hợp cho giới "lông gia" (nông gia)... xin hỏi ông Cầy rõ để chỉ dùm loại thuốc nào mà giữ cho "trán luôn bóng láng như thoa mỡ trừu, râu luôn um như tình hữu nghị Việt –Trung đời đời bền vững, như râu với ria". Tục ngữ có câu:

"Mấy đời bánh đúc có xương.
Mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng"

Cháu ghẻ Bác Hồ là Cẩu Cao Cầy, mới nhập vào hàng ngũ "cháu ngoan Bác Hồ" không lâu, so ra thì thời trước cũng có nhiều cháu ghẻ thâm niên như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng .... dù đã hết lòng làm tròn nhiệm vụ của Bác giao phó, nhưng sau khi thành công, thì đám cháu ruột thân thương gốc Bắc đã cho các cháu ghẻ về vườn, vui thú điền viên và có quyền chửi đảng, chửi những đứa cháu ruột nầy, có nhiều người trở thành "phản tỉnh bằng lời" và phản phé khi "phản tỉnh" mà vẫn: "ai yêu Bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng"; như cháu ngoan Nguyễn Ngọc Giao, phát ngôn viên Mặt Trợn Phi Dân Tộc "Phỏng Dái" Miền Nam của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, sau nầy phản tỉnh mà vẫn "đêm qua em mơ em gặp Bác Hồ" và hối tiếc cái thời: "bác cùng chúng cháu hành quân", là thời cướp của, giết người, làm hại nước, mà vẫn tự hào "làm cách mạng". Với những kinh nghiệm xương máu của đám cháu ghẻ Bác Hồ tồn đọng từ thời kỳ đánh Tây, đánh Mỹ ... thì liệu Cầy có đền bền vững để lòn trôn, bợ dái những cháu ruột Bác Hồ để kiếm chút cơm thừa cá cặn hay không?.

Trương Minh Hòa