Saturday, June 14, 2008

Nhớ lại lúc được tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết


Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền.

Ngày 9-6-1988, tức một ngày sau khi Đức Tổng giám Mục Nguyễn Kim Điền qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, Giáo phận Huế mới nhận được tin Ngài chết. Khoảng 4g chiều ngày 9-6, tôi đạp xe đạp trở về nhà sau khi đi thăm mộ mẹ tôi, nhân giỗ giáp năm ngày mẹ tôi mất. Khi tôi đạp xe đạp đến dốc trước nhà thờ Phủ Cam thì nghe tiếng chuông tử đổ hồi, tiếng chuông từ nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam. Lên khỏi dốc thì gặp vài người quen. Thấy tôi, một bà già trong giáo xứ đã thốt lên lời buồn thảm: “Đức Cha Điền chết rồi”. Bà nói tiếp: “Chúa ôi, Ngài chết hôm qua.” Tôi lạnh người và tự hỏi sao lại thế nhỉ? Mới nghe cha Nguyễn Kim Bính nói Ngài được Nhà nước cho đi ngoại quốc để chữa bệnh kia mà. Đầu óc tôi quay cuồng trong nhiều ý nghĩ xem ra thật phức tạp về cái chết quá nhanh đến với vị Giám mục khả kính của Tổng Giáo phận Huế. Tôi nhớ lại nhiều chuyện về Ngài, về cuộc đấu tranh quyết liệt với bạo quyền để đòi quyền của Giáo Hội chưa thành. Hình dung lại chuỗi ngày gian lao trong đó Ngài đã can đảm và bình tĩnh suốt 120 ngày, khi đối đầu với công an thành phố Huế, qua những cuộc hỏi cung, thẩm vấn mà chúng gọi là “làm việc” với Ngài. Hình dung lại mẫu người hiền hậu khi đứng trên tòa giảng tại nhà thờ Chánh toà Phủ Cam trong dịp lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1986. Hôm đó, Ngài đã nhắc lại một đoạn trong thư luân lưu gởi Dân Chúa Giáo phận Huế năm 1985: “Mai này khi tôi bị bắt, tôi xin anh chị em đừng tin một lời tuyên bố nào, dù lời tuyên bố đó có mang chữ ký của tôi đi nữa”. Khi nghe lời này, nhiều giáo dân đã khóc. Hình dung lại những lễ Giáng Sinh hằng năm, Ngài đến dâng Thánh lễ nửa đêm tại nhà thờ Phủ Cam. Tuy ngôi Thánh đường khá rộng lớn, nhưng giới trẻ không Công giáo đến tham dự Thánh Lễ đêm Giáng Sinh quá sức đông đảo, đến nỗi chen nhau mà đứng. Bởi vậy, hằng năm trong Thánh Lễ Giáng Sinh lúc nửa đêm, giáo xứ phải dành riêng gần một nửa phần nhà thờ, từ cửa chính vào, để cho các người ngoài công giáo đến tham dự. Toàn bộ gia trưởng và thanh niên trong giáo xứ phải đảm trách công việc trật tự khá vất vả.

Giới trẻ cũng như nhiều người tại Huế rất mộ mến và thán phục cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, vì Ngài đã can đảm lên tiếng đòi Tự do tôn giáo với chế độ cộng sản trong thời điểm mà chẳng ai dám hé môi, mở miệng nói lời nào động chạm đến “bác đảng”. Ngài có biệt tài diễn thuyết khá linh động, giọng nói dễ lôi cuốn người nghe. Bởi vậy, mỗi khi Ngài trình bày một bài giảng, dù chỉ thuộc phạm vi tôn giáo, người tham dự vẫn nghe một cách chăm chú, nghe không biết chán. Ngài thường trình bày câu chuyện với lời lẽ bình dân, giản dị, với giọng nói khi trầm khi bổng ăn khớp với từng câu văn, diễn tả sự việc thật linh động. Những bài giảng của Ngài không cầu kỳ, trình bày Lời Chúa theo Phúc Âm, đi vào thực tế của cuộc sống, phù hợp với hoàn cảnh xã hội, nên người nghe, kể cả những người ngoài công giáo, vẫn say sưa, chăm chú nghe Ngài nói. Ngài diễn thuyết theo lối xuất khẩu thành văn vì chẳng bao giờ người ta thấy Ngài đọc những bài được viết sẵn, cho nên lại càng dễ thu hút người nghe hơn.

Hồi chuông tử của Giáo đường Phủ Cam kéo dài khá lâu, tiếp đến là tiếng chuông từ nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ngân vang. Cả hai tiếng chuông đã tạo nên khung cảnh đau buồn cho mọi tín hữu quanh khu vực Toà Tổng Giám mục Huế trước sự ra đi của vị chủ chăn can trường. Tiếng chuông nghe não nuột làm sao, nhiều bà già đến nhà thờ để đọc kinh cầu nguyện cho Ngài, mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ Phủ Cam đều ngưng mọi hoạt động trong giây lát để cầu nguyện và tưởng nhớ đến vị Tổng Giám mục.

Nhân ngày tưởng niệm của Ngài, tôi xin được ghi lại vài nét chấm phá về những ngày Tang Lễ của Ngài để cho thấy niềm kính trọng và lòng tiếc thương đối với Ngài, không những của giáo dân mà của cả những người thuộc các tôn giáo khác, tại thành phố Huế.

Ngày 12-6-1988, có tin xe chở Quan tài của Ngài sẽ về đến Huế trong ngày. Khoảng 3g chiều, thanh niên trong Giáo xứ Phủ Cam, những người có xe gắn máy đều đi vào tận Đà Nẵng để đón xe Quan tài của Ngài ra. Hơn 4g chiều, toàn thể giáo dân Phủ Cam, tập họp thành từng đoàn thể, để chuẩn bị đón Quan tài của Ngài về. Đoàn đón rước được xếp thành hàng, đứng dọc theo hai bên đường từ Toà Giám mục đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Đường dài gần 2 cây số, gồm những giáo dân trong thành phố từ các giáo xứ Phủ Cam, Gia Hội, Dòng Chúa Cứu Thế, Tây Linh, Bãi Dâu và các vùng phụ cận. Giáo xứ Phủ Cam phụ trách việc chôn cất Ngài, tôi được hân hạnh nằm trong Ban phụ trách đưa Quan tài của Ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng. Chúng tôi đẩy xe tang của Giáo xứ đến đợi tại khu vực trước mặt nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, để đón linh cửu của Ngài. Xe được thiết kế khá đẹp. Gọi là xe cho có vẻ chút thôi, chứ nó không có máy nổ, di động được là nhờ sức mạnh của anh em phụ trách đưa quan tài đẩy đi. Xe do một chuyên viên là giáo dân trong giáo xứ, trước đây phục vụ trong ngành Quân cụ của QLVNCH, có sáng kiến đóng, để lo việc phục vụ tống táng cho giáo dân trong xứ đạo.

Gần 6g chiều, chiếc xe chở Quan tài của Đức Tổng Giám mục từ từ dừng lại trước nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Nhiều giáo dân đã khóc thật to: “Đức Tổng bỏ chúng con rồi! Sao Ngài đi nhanh thế? Hết rồi Đức Tổng ơi!”

Suốt chặng đường gian lao của Ngài trong những năm cuối đời, Ngài luôn muốn gần gũi với đàn chiên của mình lắm. Nhất là trong những dịp hành hương La Vang, Ngài muốn đến nơi đất Mẹ để tôn vinh Mẹ cũng như tìm gặp con chiên, nhưng Nhà nước cộng sản Việt Nam đã nhất quyết ngăn cản không cho Ngài đến La Vang trong những dịp này. Tôi còn nhớ có lần Ngài đã cải trang để đến La Vang vào dịp Lễ Đức Mẹ Lên Trời. Khi Ngài đến gần ngã ba La Vang Thượng, tức cách Thánh địa La Vang khoảng 3 cây số thì công an phát hiện, họ nhất quyết không cho Ngài tới đích.

Vì lòng yêu mến chủ chăn, Ban tổ chức Lễ Tang của Giáo phận đã muốn Ngài cùng rảo bước đoạn đường thân thương mà đàn chiên của Ngài đang đứng hai bên để chào đón Ngài, từ Dòng Chúa Cứu Thế đến toà Giám mục. Bởi vậy Ban tổ chức Lễ Tang đã cho di chuyển Quan tài từ xe hơi sang xe tang của Giáo xứ Chánh Toà, là nơi mà những ngày lễ trọng của Giáo hội hay của Giáo phận, Ngài đều đến dâng Thánh lễ suốt 24 năm qua, kể từ năm 1964. Di chuyển Quan tài của Ngài qua xe tang của Giáo xứ xong, trước hết chúng tôi đưa về Toà Tổng Giám mục Huế. Trên đoạn đường dài gần 2 cây số qua các đường Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi đẩy xe tang đi chậm rãi. Khi xe ngang qua đoạn nào thì mọi người đứng hai bên đường ở đó quỳ gối, bái, lạy Ngài y như giáo dân thường quỳ gối để hôn nhẫn Giám mục khi Ngài còn sống. Ai cũng chảy nước mắt cả, thật vô cùng cảm động trước cảnh mất đi một vị Chủ chăn khả kính, kiên cường. Quan tài của Ngài được quàn tại Toà Giám mục gần 20 tiếng đồng hồ để các tôn giáo bạn kính viếng, đến chiều ngày 14 thì di về nhà thờ Chánh Toà Phủ Cam để toàn thể Dân Chúa trong Giáo phận đến kính viếng cùng cử hành Thánh Lễ tạ ơn và cầu nguyện.

Không nghe động tĩnh gì từ phía Nhà nước cộng sản tại Huế trước số lượng người quá sức đông đảo, tham dự buổi đón rước Quan tài của vị chủ chăn trở về lại nơi Ngài coi sóc đàn chiên suốt 24 năm qua. Họ im lặng vì không đủ can đảm để cấm cản sự hiện diện của khối đông quần chúng, chỉ cho nhiều công an chìm bám sát để theo dõi tình hình.

Chiều ngày 13-6, vào khoảng 4g, giáo dân nhiều giáo xứ tập trung để đón cuộc di quan của Ngài từ toà Tổng Giám mục Huế đến Nhà thờ Chánh toà Phủ Cam. Linh cữu của Ngài được quàn tại nhà thờ Phủ Cam đến sáng ngày 15-06 mới cử hành Thánh lễ An táng. Trong suốt thời gian 2 đêm và 1 ngày nơi Thánh đường Phủ Cam, tất cả các giáo dân và linh mục của từng giáo xứ, các Dòng tu Nam Nữ thuộc Tổng Giáo phận Huế đều có mặt để dâng Thánh Lễ theo phiên của từng đơn vị. Thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện cho vị chủ chăn liên tục suốt ngày đêm không khi nào ngừng cho đến giờ lễ An Táng.Tuy đã chia phiên cho từng giáo xứ, từng tu viện, nhưng Thánh Lễ nào giáo dân cũng tham dự quá sức đông đảo, đầy cả nhà thờ, có người phải đứng ở hành lang để cùng thông hiệp. Giáo dân những giáo xứ ở xa dựng lều trại trong khuôn viên Thánh đường, chờ phiên dâng lễ và đợi đến khi chôn cất Ngài. Cảm động nhất là nhóm Phật giáo Hướng Thiện, nhiều vị trong nhóm đã quỳ cả giờ trước Quan tài để nhìn khuôn mặt của Ngài với nỗi cảm xúc đầy nước mắt xót xa.

Tôi có người quen trong nhóm Phật giáo Hướng Thiện này nên mới biết tên gọi của nhóm. Sau này khi gặp lại, anh ta nói: “Nhóm của anh rất mộ mến và kính trọng Đức Cha Điền, nên khi nghe Ngài chết, mọi người trong nhóm đã khóc”. Được biết, Nhóm Hướng Thiện thường lui tới thăm viếng và chia sẻ những ưu tư về tự do tôn giáo với Ngài trong nhiều năm, nhất là trong thời gian Cố Tổng Giám Mục bị bạo quyền cộng sản Việt Nam không chế.

Xin được nói qua về Quan tài của Đức Tổng Giám Mục. Chiếc quan tài khá đặc biệt: ngang phần mặt của Ngài là một tấm kính trong suốt; trên mặt kính là nắp bằng gỗ di động để có thể đóng lại hay mở ra tùy ý. Trong nhiều giờ tại Thánh đường Phủ Cam, nắp hòm gỗ được mở ra để giáo dân kính viếng thấy được mặt của vị Chủ chăn suốt thời gian thân xác Ngài còn bên cạnh giáo dân trước khi vào lòng đất lạnh.

Thánh Lễ An Táng được cử hành vào sáng ngày 15-06 do Cố Hồng y Trịnh Văn Căn chủ sự cùng với nhiều Giám mục trong nước và toàn thể Linh mục đoàn thuộc Tổng giáo phận Huế đồng tế. Thi hài của Ngài được chôn tại cánh trái Cung Thánh trong nhà thờ Chánh Toà Phủ Cam.

Khó mà quên được những ngày Tang Lễ của Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, vừa long trọng khó tả do lòng mến mộ của mọi thành phần Dân Chúa toàn Giáo phận Huế cũng như của những ai quen biết Ngài, vừa đau buồn khôn nguôi vì thật sự không những Giáo phận Huế mà cả Giáo Hội Công giáo Việt Nam đã mất đi một vị Giám mục uy dũng, đúng như lời Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phao lô II đã nói về Ngài. Nhiều người thuộc các tôn giáo khác cũng kính trọng và mến mộ Ngài vì Ngài là chứng nhân của thời đại mà mọi tôn giáo đều bị bách hại. Ngài đã can đảm sống một cách hiên ngang trong sự hành hạ, sách nhiễu đủ mọi hình thức của Nhà nước cộng sản Việt Nam kể từ khi Ngài phát biểu trước Hội nghị do Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức tại Huế năm 1977 về quyền bình đẳng và tự do của con người, về việc người công giáo bị Nhà nước coi là công dân hạng 2. Nhà nước muốn bỏ tù Ngài lắm, nhưng lại không bắt giam được, vì thế cái chết của Ngài đã tạo nên nhiều nghi vấn trong lòng mọi giáo dân cũng như những ai thao thức muốn có tự do tôn giáo.

Nhớ ngày giỗ thứ mười tám của Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, tôi liên tưởng đến cuộc đấu tranh đòi Tự Do Dân Chủ cho toàn Dân Việt Nam của những nhà tranh đấu trong nước, đặc biệt của Nhóm linh mục Nguyễn Kim Điền nơi đất Thần kinh Huế, vốn đang chịu nhiều gian lao thử thách. Khi còn sống, Ngài đã ước mơ, thao thức về một Việt Nam tự do, thì nay nơi Thiên Quốc, Ngài hãy cầu xin Chúa đoái thương cho đất nước Việt Nam chúng con, sớm thoát khỏi ách thống trị độc tài của đảng cộng sản. Xin cho mọi người Dân trong nước không còn sợ hãi nữa, trái lại cùng nhau đứng lên đòi quyền sống, quyền tự do. Xin cho đồng bào hải ngoại sát cánh, hăng say yểm trợ cuộc đấu tranh tại Quốc nội để giải thể chế độ cộng sản tùy theo điều kiện khả năng của từng người.

Hoa Dân Chủ trong nước đang nở rộ, đồng bào hải ngoại đừng thờ ơ nữa, hãy tiếp sức với người trong nước để sớm giải thể chế độ cộng sản, có như thế mới mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho toàn Dân Việt Nam.

Nguyễn An Quý, 08-06-2006

GHI CHÚ: LỂ GIỖ LẦN THỨ 20 ĐỨC CÓ TỔNG GIÁM MỤC PHILIPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN

Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại sẽ hiệp dâng Thánh Lễ cầu nguyện và tưởng niệm Đức Cố Tổng Giám Mục Philiphê Nguyễn Kim Điền, nhân lễ giỗ lần thứ 20 của Ngài (8/6/1988-8/6/2008). Thánh Lễ sẽ được tổ chức lúc 5g30 chiểu Thứ Sáu, ngày 13 tháng 6 năm 2008 tại nhà thờ St. Barbara (góc đường McFadden và Euclid, thành phố Santa Ana).

Kính mời cộng đồng dân Chúa và đồng hương đến hiệp thông lời nguyện và tưởng niệm Vị Mục Tử đã nêu gương kiên cường bất khuất trước bạo quyền cộng sản; và cũng để cầu cho tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam.

NGUYỄN AN QUÝ

Bản văn của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn

Đức Hồng Y Mẫn Gửi Bản Văn Về "Cờ Vàng"
    Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn vừa gửi thư cho biết rằng ngài sẽ tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day 2008, viết tắt WYD) dự kiến vào tháng 7-2008, và ngài bày tỏ quan ngạị rằng vấn đề cờ vàng sẽ làm “tắt nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN.” Ngài nhấn mạnh rằng các bạn trẻ VN là “con một Cha, là anh em một nhà ...” và “người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục ...”

    Thay vào đó, Ngài kêu gọi trở về “Bản chất của Giáo Hội Công Giáo là hiệp thông với Chúa ...” Bản văn quan trọng của Đức Hồng Y toàn văn như sau:


Hồng Y Phạm Minh Mẫn
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu là trái tim chứa đầy lòng từ bi bao dung của Cha trên trời, xin uốn lòng chúng con nên giống như Trái Tim Chúa.

Tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày 4, năm 2008

Kính gởi Đức Cha chủ tịch UBGM đặc trách Mục vụ Giới Trẻ,

Đức Cha chủ tịch UBGM đặc trách Giáo lý Đức tin,

Đức Cha Giuse, Giám mục Lạng Sơn

Thưa quý Đức Cha,

1. Đức Hồng Y G.Pell mới biên thư tha thiết mời cá nhân tôi đến Sydney dự WYD 2008. Thấy không từ chối được, tôi phải cắt bớt chuyến đi công tác mục vụ di dân của tôi và những ngày nghỉ để đáp lời mời của Ngài. Sau khi suy nghĩ mình phải làm gì đem lại lợi ích thiêng liêng cho các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ về một chỗ để cùng gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau, để làm chứng cho niềm tin của mình, tôi muốn chia sẻ vài ý nghĩ với quý Đức Cha sẽ có mặt trong WYD. Mục đích là cùng nhau giúp cho các bạn trẻ, - là sức sống của Giáo Hội, của đất nước -, khai thông con đường hiệp thông với Chúa là Cha trên trời, hiệp thông với nhau là con một Cha, là anh em một nhà. Một sự hiệp thông phong phú hoá, tăng lực cho sức sống trẻ của các bạn.

2. WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada, đều có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung.

3. Một lá cờ biểu tượng cho điều gì? Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia ... Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng. Giám mục của tôi, cách đây hơn 30 năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi bài học lịch sử nầy: người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ), lúc mặc áo lành, lúc áo rách, vẫn là người mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục con dân VN, vẫn là người mẹ đã để lại cho dân tộc VN một di sản vô giá. Di sản đó là truyền thống văn hoá của dân tộc VN, một nền văn hoá khá phong phú với những giá trị tinh thần và đạo đức. (như Tứ hải giai huynh đệ; Chuyện hôn nhân là chuyện trăm năm, là mối tình chung thuỷ; Lá lành đùm lá rách ...)

4. Mặt khác, lịch sử thế giới xác minh hai sự thật nầy: (1) đời sống cũng như tinh thần hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ được xây trên nền tảng một chủ nghĩa trần thế, hay một thói đời mang tính đối kháng; (2) một chủ nghĩa trần thế , dù là tư bản, hay cộng sản, hay quốc gia, bao giờ cũng tạo nên sự phân rẽ mang tính đối kháng và loại trừ nhau trong lòng một dân tộc, trong hàng ngũ con cái chung một mẹ.

5. Bản chất của Giáo Hội Công Giáo là hiệp thông với Chúa, với nhau, với mọi người anh em đồng bào và đồng loại. Và đời sống hiệp thông của Giáo Hội chỉ có thể được xây đắp trên nền tảng một niềm tin, tin rằng Thiên Chúa là Cha trên trời giàu lòng từ bi bao dung, tin rằng mọi người là con một Cha, là anh em một nhà, tin rằng tình huynh đệ giữa đồng bào còn có thể phát huy trên cơ sở một sắc tộc và một nền văn hoá dân tộc.

6. Tôi thành tâm khẩn cầu cho quý Đức Cha, cho mọi người trong ban tổ chức WDY, cho các bạn trẻ VN quy tụ trong WDY nầy, cho người người lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần là nguồn lực tình yêu, là sức mạnh đổi mới Giáo Hội cũng như xã hội. là ánh sáng soi lòng mở trí cho mọi người biết dùng cơ hội quy tụ nầy như con đường bồi đắp cho tình hiệp thông hiếu thảo với Chúa, cho tình hiệp thông huynh đệ với nhau, cho tinh thần hiệp thông liên đới huynh đệ tương thân tương trợ trong Giáo Hội Công Giáo tại VN cũng như trên thế giới toàn cầu hoá hôm nay. Ước mong mọi người cũng nhận được sự bình an của Chúa Kitô, và niềm vui của cuộc gặp gỡ giữa anh em một nhà.

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám mục
.

Điếu Kiệt

Đinh Tấn Lực

Trời cao đất dầy! Người nước ngoài điện về báo tin “anh Sáu đã vĩnh viễn ra đi”, nhưng, bực lắm thay, tin tức ở đây cứ cà giựt mãi. Các trang mạng cà tàng đăng bài rồi gỡ xuống mỗi ngày hai ba bận. Lại có trang, nhân lúc nhận được hung tin mà hồ hởi đăng lại bài mừng sinh nhật anh. Khóc cười nhập nhằng. Buồn vui lẫn lộn. Rõ là lệnh Trên chẳng thông, như thường lệ xưa nay: Lề bên phải chỗ nào chưa vạch, nên chẳng có tên ký giả nào dám giả ký tên mà đặt bút đề tin. Nay thì mọi sự ba bảy hăm mốt, giấy tiền vàng mã đang nghi ngút cháy, thông tấn xã Ba Đình trân trọng báo tin: anh Sáu đã chính thức đăng nhập vào danh sách friends của blog maidịch chấm com.

Nhớ linh xưa: Văn Hòa là tên, Phan là họ, thuộc dòng dõi tá điền trung nông, sau đổi tính thành Võ, đổi danh thành Văn Kiệt. Nửa võ nửa văn, cả hai vốn chẳng bao nhiêu, lại đồng khánh kiệt từ thời thoát ly gia đình ở Vũng Liêm, Vĩnh Long, căm hận cuộc tình mandolin không đoạn đầu đoạn kết với cô con gái cháu nội quan tri phủ ở vùng biển nhãn Bạc Liêu, mà quyết định đoạn trường cuốn mùng xách nóp vô bưng, quyết lòng đi theo tiếng gọi của đệ tam quốc tế, để “đánh Tây, chống Mỹ”, và quyết chí lập (nhiều) gia thất rửa hờn. Lòng hận càng cao khi được Trên báo tin người vợ đầu và đám con thơ đã vùi thây dưới làn bom giặc Mỹ. Bèn phải nhờ hai ông Nguyễn Hộ - Chín Cần coi sóc đỡ đầu cho mấy đứa con rơi còn lại đó đây từ thời chống càn đánh Pháp, và càng quyết chí dốc lòng đấu tranh làm cách mạng vô sản. Hoạn lộ bắt đầu khai thông từ đó.

Vẫn chưa quên: Lúc đất nước thống nhất, trở thành đầu tàu của đảng bộ Thành Phố, quyền uy nửa nước, anh rình rang áo gấm xe con trở về Sóc Trăng-Bạc Liêu tìm lại người thiếu nữ con vị điền chủ có ruộng vườn cò bay thẳng cánh từng lắc đầu ngày trước, gọi là “cho nó mở con mắt ra”, mới hay nàng đã đeo kính râm, bưng cơi trầu đựng hột xoàn lên máy bay sang Mỹ từ lâu. Bèn chỉ thị cho đảng bộ địa phương bắc loa rủa xả ba đời gia đình quan tri phủ. Và … đành phải một lần nữa chí thú chăm lo việc nước, nhưng nhất định không quên chú mục vào những bậc thềm Bắc Bộ Phủ.

Vẻ vang thay! Anh nắm lấy Quyền Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng năm 1988, khi Phạm Hùng đột xuất chuyển sang từ trần trên bụng một người đẹp có giấc mơ trải ga giường làm bộ trưởng. Rồi chẳng bao lâu sau, anh chính thức trở thành Thừa Tướng thực thụ từ năm 1991 đến năm 1997, dưới trướng hai anh Mười Cúc và Mười Hoạn. Lắm kẻ xấu dạ bảo thừa tướng là tướng không dùng. Thực chất không hẳn vậy, khi anh mất chức rồi mọi người mới vỡ lẽ rằng đó chỉ là thứ quyền rơm vạ đá, trong một cỗ máy chẳng đào đâu ra một ai dám lấy quyết định, bởi chẳng đứa nào dám nhận trách nhiệm về sau. Lại lắm kẻ xấu mồm bảo rằng anh có còn nguyên cả hai mắt cũng chẳng trông thấy gì rõ hơn lão lòa 40 năm làm đệ nhất Thừa Tướng từng ký công hàm dâng đảo Trường Sa cho Tàu khựa. Thực tiễn thì đúng vậy, nhưng nói thế cũng có đôi phần thiếu công bằng, nếu không rõ bản điều lệ đảng (rất đáng bịt mũi) đã từng bịt mắt, bịt tai, và bịt mồm toàn đảng.

Lại nhớ: Cuộc tranh luận bất phân thắng bại giữa nhiều trường phái khi bình bầu một tác phẩm để đời của anh. Có kẻ bảo rằng đó là đường dây 500KV Bắc-Nam chiếu rọi gia phong cực sáng, khiến quan viên hai họ cả gia tộc nội ngoại của anh đều phải mỏi tay mờ mắt đếm tiền đô, với không biết bao nhiêu gói thầu trúng mánh. Thời này, mọi dự án đều là … án làm sẵn. Ngay cả đứa tham nhũng cực to trong đợt 500KV này bị đi tù thì cũng là loại tù vua, và vẫn được anh khẳng khái tuyên dương công trạng hay quà cáp thăm nuôi những ngày lễ, Tết. Nghĩa là vẫn không khác: Trên chỉ cho đánh tham nhũng từ đầu gối trở xuống, còn lủng lẳng phía trên thì … vẫn có chỗ đứng.

Lại có kẻ chứng minh rằng tác phẩm để đời đó nhất định phải là Nghị Định 31-CP mà anh từng ký ngày 14/4/1997, vào lúc gần cuối quảng đời cực thịnh làm Thừa Tướng nước Nam. Quả thật đó là một công cụ cực độc, gọi là “quản chế hành chính”, gồm 4 chương 28 điều, dùng để bắt giam mọi đối tượng manh nha có ý tưởng đi ngược lại đường lối đảng, mà không cần lệnh bắt hay tạm giam, cũng không cần chứng cứ hay quy trình xét xử. Và chính thực đó mới là bộ phận ổn áp chính trị mà đảng ta cần có bằng mọi giá trên bình diện cả nước vốn đã gia tăng quá nhiều điểm nóng rập rình nối kết với nhau. Có thể xiển dương rằng đó mới chính là tuyệt tác của anh, và là công trạng lớn nhất mà anh đã cống hiến cho đảng.

Đáng hận thay! Mười Cúc và anh đã cật lực xoay sở trong một giai đoạn xuống cấp trầm trọng khủng khiếp của quốc tế cộng sản, đã phải dồn hết tâm hết sức vào việc “đảng hóa” các ý niệm đổi mới của nhân dân, từ chính sách khoán ruộng tới mở gút ngăn sông cấm chợ, tận diệt tem phiếu, đưa vị trí nước nhà lên hàng thứ ba xuất cảng gạo trên thế giới. Vậy mà bọn bảo thủ vẫn nhơn nhơn cho rằng đảng ta chưa đổ là nhờ những cuộc công du khấu tấu của chúng ở Nam Ninh với Bắc Kinh, và cứ thế, cứ mở miệng ra là lấy 16 chữ vàng làm sao bắc đẩu, không khác chi lời cụ nội nó trối trăn. Còn bao nhiêu tâm trí và công sức của anh thì cứ như đáy biển chìm kim. Đôi khi lại trở thành chứng cớ cho tòa án kết tội những người đọc và bàn về chúng. Trường hợp ông Hà Sĩ Phu vào tháng 12/1995, đi tù về tội đọc lá thư của anh gửi cho bộ chính trị, há chẳng phải là một điển hình tiêu biểu đó sao?

Đáng tiếc thay! Bọn cặp-rằng chột mắt đã cấu kết với đám hoạn lợn Bắc Bộ để loại anh ra khỏi vòng quyền lực, chính vì những công sức và tâm trí về xây dựng đảng nói trên. May nhờ những phản đòn kịp lúc của anh mà cả ba đều cấp tốc nắm tay nhau chuyển sang quy chế cố vấn đại ương (tức ở hạng ngạch trên trung ương). Rồi, cho tới đầu năm 2006, khi chuẩn bị tiếp đón tổng thống đế quốc Mỹ sang dự hội nghị APEC, quần thần của triều đại con rớt con rơi này đã đồng tâm hiệp lực tạm “vô hiệu hóa” tác phẩm để đời 31-CP của anh, ngay vào lúc tác giả còn hiện tiền, để lót đường cho bọn tư bản cho phép Việt Nam chường mặt vào WTO, và được Mỹ đặc phong cho quy chế mậu dịch bình thường vĩnh viễn PNTR. Thôi, thế cũng tạm gọi là tốt, ít ra Nghị Định 31 Xê Bê cũng có một tí giá trị kinh tế biểu kiến, đàng sau hàng hà sa số những giá trị chà đạp nhân quyền cực thảm.

Chỉ tiếc nhất cho giấc mơ suốt đời của anh là một chuyến công du sang Mỹ đến nay vẫn chưa thực hiện được, mà hóa ra công lao hãn mã suốt đời của anh chỉ là những viên gạch tiểu, gạch tàu lót đường cho bọn đàn em có bề dày cách mạng mỏng tựa giá mùa đông ở Hà Nội, bở như giấy lau …tay ở Sài Gòn, tức là chỉ ngang bằng lương tâm và trí tuệ lãnh đạo của ta, lại lần lượt chen chân nhau qua Mỹ. Dù gì thì những cà chua trứng thối ở Mỹ vẫn sáng giá và bõ công hơn mớ sơn đặc mắm tôm mà anh từng đón nhận trong các chuyến công du Âu châu và Úc châu hồi cuối thế kỷ trước chăng?

Đáng mừng thay! Sau đợt phục viên, anh vẫn theo sát tình hình chính sự, và tiếp tục góp ý góp công xây dựng đảng, qua các bài viết, thư ngỏ hay trả lời phỏng vấn (của cả báo đài nước ngoài), với hai đặc điểm đáng ngẫm so với thời tại chức: Ý tưởng sắc hơn và Lời nói thẳng hơn.

Anh xác nhận “nguy cơ lớn nhất là đất nước tụt hậu”, cùng lúc lại đòi hỏi “lãnh đạo phải có bản lãnh”. Nhưng, có phải đất nước mình mới tụt hậu mấy năm gần đây; có phải đến thời này lãnh đạo mình mới thiếu bản lãnh? Hay cả hai đã phát huy theo gia tốc rơi tự do từ đận lãnh đạo ta đòi đốt rụi Trường Sơn đi cứu nước, anh nhỉ?

Anh bảo: "Đất nước VN không phải của riêng ai … Việt Nam là của mình, chứ không phải là của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào cả”. Quá đúng đi chứ, không thể ngờ vực được chút nào về nhận định này. Chỉ có mỗi thắc mắc: Cả từ thời anh nắm quyền thủ tướng, qua cố vấn đại ương, cho tới thời phục viên, không ai nghe anh nói lời phản biện nào đối với chủ trương “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội!”? Cũng không ai thấy anh có ý kiến gì về sự áp đặt vô lý các chương trình học tập chính trị Mác-Lê rác rưởi ở các cấp trung học và đại học?

Anh nhật xét rằng: “hiện nay người nghèo, những hộ thu nhập thấp những người phải chạy ăn từng bữa, trên thực tế, chỉ được thụ hưởng rất ít các kết quả tăng trưởng trong khi chính họ gần như phải lãnh trọn những hậu quả do lạm phát đang diễn ra … Việt Nam cần có những chính sách cốt lõi để giải quyết căn cơ vấn đề dân nghèo”. Anh chỉ không nhận rằng những chính sách cốt lõi đó cần phải bắt đầu từ thời … cải cách ruộng đất, hay chí ít là từ thời anh làm Thủ Tướng. Thời đó, anh không làm gì khi anh nắm quyền điều động cả một chính phủ, cũng không dám nói gì khi anh còn là UV/TW và bộ chính trị. Nay anh lớn tiếng nhận định về tình trạng “thiếu chính sách” khi trong tay của anh và gia tộc hai họ nội ngoại, cả bên chồng lẫn nhiều bên vợ, là những gia sản kếch xù, thì liệu có ai dám nghĩ là anh thực sự quan tâm đến dân nghèo dân oan không anh?

Anh hỏi: “Nhà nước đã làm gì cho dân nghèo khi việc chăm lo cho người nghèo là cam kết lịch sử của cách mạng?”. Anh có từng tự hỏi như vậy trong các năm tại chức? Và đến bây giờ anh vẫn một lòng tin rằng bọn tư bản đỏ vẫn tôn trọng một cam kết lịch sử với dân nghèo, dân oan?

Nhìn lại quốc hội, anh nhận định: “Cả động lực để đại diện, cả trình độ và năng lực để đại diện đều đang có vấn đề”. Vấn đề này không mới, và cũng không chỉ nằm ở quốc hội. Cốt lõi của nó là quan niệm điều hành quốc hội, và cả ngành tư pháp, từ đảng.

Đó là một vài nhận định của anh ở tầm tổng thể. Anh còn một số phát biểu “nức lòng” khác ở tầm thấp hơn, không đáng kể. Nhìn chung, cái cốt lõi của mọi nhận định rất sắc và khá thẳng bên trên mà anh không hề dám chạm tới, đau đớn thay, lại chính là điều 4 hiến pháp và tự do báo chí. Nói cách khác, về đặc điểm những phát biểu gần đây của anh, thì: Ý tưởng sắc hơn nhưng không nhất thiết là đúng hay đủ; và Lời nói thẳng hơn cũng chưa nhất thiết là thật hay thông. Tiếc thay! Tiếc thay!

Ai tai! Ý tưởng như nước trôi. Lời nói như gió thoảng. Giờ thì anh đã về đến nhà, bằng chuyên cơ Tô-Bia của Thái. Trắng tay vẫn hoàn tay trắng, ngoại trừ tấm vé cho chuyến khác, một đi không trở lại. Hy vọng là những cuộc tình dâu bộc trong bưng ngoài thành đã giúp anh quên hẳn người thiếu nữ làng Thạnh Quới, trước khi về cõi. Hy vọng là anh đã chuyển tên các trương mục Thụy Sĩ cho các chị và các cháu xong xuôi. Cũng mong là nhà nước đối xử lần cuối với anh đàng hoàng, có học, văn minh, tử tế hơn các bạn lão thành Bảy Trấn, Trần Độ và Hoàng Minh Chính trước đây. Càng mong hơn nữa là khi nhắc tới tên anh, đừng ai nghĩ ngay tới cái 31-CP là cái duy nhất anh để lại cho đời. Cũng đừng ai nghĩ rằng anh là tấm gương phản ánh cực sáng cho một trào lưu chỉ nói thẳng một khi đã mất hết quyền hành.

Có mấy câu điếu lượm được trên Net, xin chép lại để gửi theo anh:

    Khá thương thay!
    Giận cho lão Trời xanh;
    Căm thay ông thầy thuốc.
    Già tám sáu cật dai bụng dẻo, thú trần ai sao vội buông xuôi;
    Non một tá vợ dại con thơ, mắt lợn luộc thôi đành trợn ngược.

    Tôi nay:
    Giận thì giận mà tha thì vẫn tha;
    Cười chẳng cười mà khóc không ra khóc.
    Bó hành đưa lợn xa chơi;
    Nắm nhang tiễn anh thẳng bước.
    Đừng tính thiệt ra hơn, bước chân đi cấm kỳ trở lại, nẻo âm dương quay lộn tới lui;
    Chớ nghĩ khôn hóa dại, vụng nước cờ hạ thủ bất hườn, thế chiếu bí phản hồi sau trước.
    Khổ cho tôi mà cũng nhục cho anh;
    Tủi thằng dân mà cũng đau cho nước.

    Thôi thì:

    Chun rượu rưới xuống, khôn thì nên sám hối nghiệp ma vương bá đạo, kiếp sau khó được làm người; Hũ mắm xông lên, linh thì phải ăn năn kiếp nghiệt súc dã man, nghiệp lai dễ thành giống vượn!

    Ai tai!

    Thượng hưởng!

12/06/08 - Gửi bạn Điếu Cày trong tù mấy dòng Điếu Kiệt, để giải khuây.
Đinh Tấn Lực
Chung cư Nguyễn Thiện Thuật - Q3 - Saigon.
12/06/08

Friday, June 13, 2008

Võ Văn Kiệt, Kẻ Ác Gặp Thời

Trương Minh Hòa

    " Chừng nào thằng ngốc làm vua.
    Thế gian cạo trọc, thầy chùa để râu."

Hay là:
    "Năm đồng đổi lấy năm xu.
    Thằng khôn đi học, thầy ngu dạy đời".
Đó là những câu được coi là sấm, truyền bá rộng rải trong dân chúng để "phản ánh" trung thực một thời đại "cực kỳ" đen tối của đất nước, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi kẻ chiến thắng toàn là thứ ngu, dốt, ngáo ... nhưng tham, gian, ác, thủ đoạn thì quá dư thừa để đưa toàn nước Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc về thời kỳ bộ lạc, là đỉnh cao trí tuệ loài người. Trong số những kẻ ác gặp thời ấy, có Võ Văn Kiệt, người mà thế lực vẫn còn bao trùm từ 1991 đến ngày nay, mặc dù hắn đã về hưu từ năm 1997. Một nông dân nòi, đi theo băng đảng siêu cướp Cộng Sản từ thuở mới 16 tuổi, được cho là "ăn chưa no lo chơi tới" mà người Tây phương gọi là Teenager, sau thời gian dài đi theo một tổ chức bất lương, ngụy trang cách mạng, giải phóng đất nước từ những chiêu bài: đánh Tây giành độc lập, đánh Mỹ cứu nước ... rồi nào là xây dựng xã hội chủ nghĩa, tên nông dân dốt học được nhiều mánh khóe, thủ đoạn gian manh và sau cùng trở thành thủ tướng, một đời tuyệt đối trung thành với đảng cướp, vì hắn mang ơn đảng, bác "có đảng, có bác mới có ngày nay". Võ Văn Kiệt trở thành tỷ phú Mỹ Kim, cuối đời vẫn còn phục vụ hết lòng cho đảng, nhằm đánh lừa nạn nhân Cộng Sản lần nữa qua chiêu bài "hòa hợp hòa giải" được vài tổ chức cò mồi hải ngoại chụp lấy để gọi là: đấu tranh bất bạo động, ôn hòa, đối kháng, đối lập, đối đầu, đối ĐÍT, đối Mông, đối HÁNG hầu tạo cho đất nước Việt Nam được dân chủ đa nguyên, đa miệng, đa họng ... theo "định hướng xã hội chủ nghĩa".

Theo nguồn tin mới đây cho biết: cựu thủ tướng "đảng phong, cán cử" là Võ Văn Kiệt đã "tiêu diêu nơi miền Hỏa Ngục" đoàn tụ với chủ tặc Hồ Chí Minh và nhiều "đồng chí" lẫn "đống chì, đồng rận, đồng rệp ..." vào ngày 11 tháng 6 năm 2008 ở nước ngoài; nếu các thấy bói toán, tử vi, bài Tây, chữ ký, tướng số ... nào có "điều nghiên tình huống thời thượng" về những người lãnh đạo đảng Cộng Sản, khi được gọi để xủ quẻ, thì đoán bừa cũng đúng phóc như tiên tri: " Số ông, bà ... phải chết ở xa quê hương". Nghe đâu ở tại vùng Tây Úc (West Australia) có ông Nguyễn. D. C ... xưng là đại úy quân lực VNCH, một thời từng gia nhập hội cựu quân nhân, hồi còn ở Việt Nam làm nghề "bói toán", khoe là đã xem chữ ký của Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, trước khi sang Úc di dân theo diện đoàn tụ gia đình vào năm 1991.

Võ Văn Kiệt tên cúng cơm là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, là mẫu người rất là phù hợp với bản chất: "vừa cướp của giết người, vừa lên lớp dạy đời" như câu: "Tham nhũng bất chính, lấy công cho tư" để thay cho câu mị dân: "Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" của đảng tuyên truyền với dân chúng. Võ văn Kiệt cũng như những "đỉnh cao trí tuệ nòi ... Đười" như Lê Đức Thọ, khi lâm bịnh, thay vì được chữa trị ở các bịnh viện trong nước với đội ngũ "lương y như từ mẫu" tuyên thệ nhận bằng bác sĩ y khoa rằng: "Nguyện tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx Lenin"; thì ông ta được đưa qua Singapore từ ngày 3 tháng 6 năm 2008 để nhờ các bác sĩ được đào tạo từ các trường đại học do bọn "tư bản cực kỳ phản động" điều trị, đúng là gia đình ông Kiệt và hầu hết các cán bộ trung ương đảng Cộng Sản gan thật, bình thường thì lớn tiếng chống lại "bọn tư bản", nhưng khi lâm trọng bịnh thì mang thân xác nhờ "bọn phản động" điều trị dùm, dù phải tốn rất nhiều tiền do nhân dân đóng góp để lo cho sức khỏe của các "đầy tớ nhân dân cao cấp nầy". Một điều buồn cười là tất cả những cán bộ trung ương nào được "giải giao" cho các bịnh viện do bọn "tư bản phản động nước ngoài" điều trị, đều bị Ngủm cả ... vậy mà chưa tởn, hễ bịnh là đưa qua Tây, Mỹ, Singapore ... đây cũng được coi là: "âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nước ngoài, có khả năng đưa những đồng chí cáo cấp thuộc đảng CSVN tiêu diêu nơi hỏa ngục".

Võ Văn Kiệt sinh ngày 23 thánh 11 năm 1922 tại Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, xuất thân từ một gia đình nông dân và vào năm 1937 đã "bỏ cày theo tiếng kêu vang" của gã nông dân gốc miền Bắc, nhưng đã bỏ làng đi bụi đời từ lúc 15 tuổi là Hồ Chí Minh, để đi tìm đường làm tay sai cho ngoại bang chớ nào phải: "Bác Hồ từ bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước". Sang năm 1939 gã nông dân nòi Võ Văn Kiệt chính thức trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam, một băng đảng siêu cướp đội lớp cách mạng, lợi dụng lòng yêu nước của quần chúng để phục vụ ngoại bang là khối Cộng Sản Quốc Tế. Trong suốt thời kỳ phục vụ cho đảng cướp dưới sự lãnh đạo của trùm đảng cướp Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt chưa nổi bật lắm, do trẻ tuổi, nên thoát khỏi "sự cố" kỳ thị Bắc-Nam của trùm họ Hồ, nhờ đó mà hắn sống sót hay được an toàn đến sau nầy, nhất là được công thành danh toại từ khi Hồ qua đời. Được biết dù là đồng đảng cướp với nhau, nhưng Hồ Chí Minh thù, nghi kỵ những đồng đảng gốc "giá" vì ngại những đồng chí gốc địa chủ, tiểu tư sản hay ngay cả bần cố nông ... sẽ đứng lên giành quyền lãnh đạo; như câu nói của Lenin: "Bần Cố Nông từng giờ bước lên giai cấp địa chủ". Cho nên ngay trong thời kỳ "đánh Tây giành đập lột", Hồ Chí Minh đã từng thanh toán các đồng đảng gốc miền Nam như: trung tướng Nguyễn Bình, Dương Bạch Mai và một số còn sống bị dụ ra Bắc để quản chế như Trần Văn Giàu ngay cả sau 1954, nhiều người Cộng Sản gốc miền Nam ra Bắc tập kết cũng bị trù ẻo như: Ung Văn Khiêm (làm tối đa là thứ trưởng ngoại giao, sau bị hạ tầng công tác), trung đoàn 99 đã bỏ thủ trưởng Đồng Văn Cống chạy về Nam, nhưng bị Hồ chỉ thị Cống mang quân cản, hai bên đụng độ nhau ở gần sông Bến Hải, một số chết, số khác vượt sông vào Nam để sống bình thường. Người khôn ngoan thời đó phải nói là Trần Bạch Đằng (tức là Trương Gia Thiều), đã từ chối ra Bắc theo lịnh của Hồ, nếu ngu thì cùng chung số phận với những tên khác gốc miền Nam.

Võ Văn Kiệt lột xác nông dân, ước mơ làm quan lớn đã thành sự thật kể từ khi gia nhập đảng cướp Cộng Sản, thi hành nhiều công tác khủng bố, phá hoại an bình cho dân, nên hắn cũng như tất cả các đồng đảng khác; nên không thể cho thời kỳ theo đảng CS là: "Làm cách mạng" và cũng không thể là: "Nhà cách mạng lão thành" như Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Lê Hồng Hà và ngay cả Bùi Tín cũng tự hào về thời gian làm chuyện bất lương theo đảng cướp là "yêu nước"; như vậy thì hóa ra Hồ Chí Minh cũng là người "yêu nước, làm cách mạng hay sao?". Chuyện xã hội, đạo lý không cho phép gọi tên cướp bằng Ông, như câu ca dao:
    "Chó đâu có sủa lổ không.
    Không THẰNG ăn trộm, cũng ÔNG ăn mày".
Ước mơ bình thường của người nông dân lương thiện là: lúa đầy bồ, nhà nền đút, con cái ăn mặc đầy đủ còn làm quan thì chỉ là "giấc mơ" thôi; do đa số nông dân thất học hay dốt, ít có khả năng làm quan nên Hồ Chí Minh gảy đúng chỗ ngứa, chỉ cần cấp cho súng, mã tấu và tự ban cho nông dân quyền giết người, cướp của với chiêu bài "làm cách mạng", thế là những nông dân dốt ham làm quan mà tích cực gây ra tội ác để "lập công dâng đảng cướp" mà lên chức. Còn đối với những người có học gọi là trí thức, ai ham lám lớn nhanh, khó cạnh tranh ở nơi có nhiều nhân tài thì được băng đảng Cộng Sản lợi dụng uy tín, phong chức, biến thành những con hạc gỗ trước miếu thần hoàng, nên trong hàng ngũ Cộng Sản cũng có cả trí thức ngây thơ, ham danh sau khi xài xong, là đảng vắt chanh bỏ vỏ. Đó là lối thu dụng người của đảng Cộng Sản, gây nhiều chết chóc, tang thương cho dân tộc, khi bọn cướp chủ trương: "thà giết lầm hơn tha lầm" là thế ấy.

Gã nông dân nòi Võ Văn Kiệt, nhờ theo đảng cướp mà lột xác, trở thành quan lớn, được tuyển dụng trong ngành Công An, với sự đỡ đầu của tên đồ tể Mai Chí Thọ; Kiệt đã từng sát cánh cùng Phạm Hùng, La Văn Liếm, Cao Đăng Chiếm và đội ngũ giết người, khủng bố dân, được lên chức cao, con đường công danh thênh thang. Sau 1975 Võ Văn Kiệt vẻ vang với chức Thành Ủy thành Hồ, một nơi quan trọng nhất về kinh tế tại miền Nam và cả nước VN. Năm 1982 vào Bộ Chính Trị và từ 19991 đến 1997 là thủ tướng gốc miền Nam đầu tiên. Hình như con đường công danh của Kiệt đạt đến đỉnh cao là nhờ có "gốc bự" với bà vợ là cháu của đại thi nô Tố Hữu ... Võ Văn Kiệt cũng từng giữ chức Giám Đốc Sở Công An thành Hồ (ngang hàng với cấp tướng), từng dùng những tổ chức kháng chiến giả để gài bẫy bắt bớ, thanh toán những người yêu nước. Có thể nói là Võ Văn Kiệt là "tiền bối" của thế hệ thủ tướng sau Phạm Văn Đồng: sau khi thôi làm thủ tướng năm 1997, giao quyền cho đàn em là Phan Văn Khải và thủ tướng đương thời Nguyễn Tấn Dũng, cũng là người tùng được Kiệt bao che, nuôi nấng, nâng đỡ; cho nên dù về hưu nhưng thế lực của Kiệt khá mạnh tại Việt Nam. Đó lá lý do giải thích vợ chồng Sáu Dân có nhiều "em, con ... nuôi", như thiếu tá quân đội "con rận nhân hai" Trịnh Công Sơn cũng từng sánh vai với gia đình nầy, và Võ Văn Kiệt thân thương gọi tiếng "Mẹ" khi đến nhà gặp "Mạ" của Trịnh Công Sơn. Nhân vật "thời thượng" Dũng Lò Vôi cũng là con nuôi của bà Sáu Dân, người thưc hiện một Disney Land tại Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương, biến chùa thành nơi "du lịch" vĩ đại và cũng là nơi nâng cấp tên đại ác Hồ Chí Minh thành Bồ Tác. Bên Trong chùa nhà nước nầy, chánh điện thờ 3 tượng, thứ tự: Phật ở trên, kế là vua Hùng và chót là Hồ Chí Minh; mô thức nầy đang được một "cơ sở băng đảng Vịt Tiềm" phát động kỳ giỗ tổ Hùng Vương năm nay (2008) tại San Diego, đưa quốc tổ vào Chùa, ngồi dưới Phật và sau nầy chỉ cần dựng thêm tượng của chủ tịch kiêm bồ tác Hồ Chí Minh là y như "kiến trúc" theo kiểu mẫu của Dùng Lò Vôi vậy.

Võ Văn Kiệt cũng dâm tặc y như đàn anh Hồ Chí Minh: "mỗi người mỗi vẻ, mười phần vẹn mười". Theo một bài viết khá lâu của Phan Thiết Phạm Đình Thừa, đăng trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong vào năm 1997, nói về một chuyến về thăm quê hương, tình cờ gặp một cô gái trẻ, đẹp, từng là thư ký, nhân viên cho Võ Văn Kiệt; lúc đó cô bị "phục viên" sau thời gian phục vụ cả "hộ lý" cho tên tướng cướp và được "biên chế" sang đội ngũ phục vụ khách nước ngoài tại các khách sạn, dưới trướng của một đồng đảng của Kiệt là Võ Trần Trí (Tú Ông thời đại, chuyên tuyển một gái để cho khách giải trí). Cô gái cho biết thành ủy Võ Văn Kiệt hay có thói quen hút thuốc, vừa ngậm điếu thuốc đang cháy và vừa "giả gạo theo tiếng chày trên sóc Bam Bo" khi hắn đang hồ hởi phấn khởi hát "bài ca ra trận" nhịp nhàng trong: "Bác Cùng chúng cháu hành quân" trên giường. Cho nên nhiều cô gái trẻ phục vụ cho Võ Văn Kiệt rất ngại sợ tàn thuốc lá "cực kỳ lợi hại" ấy có khả năng làm phỏng mặt, người, khi quan lớn gốc "người cày có súng" nầy phát huy truyền thống cách mạng "giải phóng" phụ nữ thành "nữ hộ lý"; chắc là do các thói quen hút thuốc ấy mà hắn bị bịnh Phổi nặng, đến nỗi các bác sĩ phản động, bịnh viện TỐI TÂN ở Singapore đành phải TỐI TĂM mặt mày vì không thể cứu mạng cho hắn? Âu cũng là "quả báo nhãn tiền". Võ Văn Kiệt là người có công trong việc thu vàng người Hoa đăng ký bán chính thức, nên sau khi "công tác đẩy người ra biển Đông" hoàn thànn một cách xuất sắc, thành ủy Võ Văn Kiệt đã nộp cho đảng số vàng tương đương với 115 triệu Mỹ Kim (thời ấy đồng Mỹ Kim có giá trị cao hơn ngày nay rất nhiều). Là một tên khát máu, có kinh nghiệm trong ngành công an, nên Kiệt là tác giả cái nghị quyết 31/CP ban hành nhằm trấn áp dân chúng đứng dậy để đánh đổ bạo quyền; điều nầy nói lên tánh gian ác đối với dân và lòng trung thành tuyệt đối của Kiệt đối với đảng cướp mà hắn phục vụ gần như cả đời.

Cũng giống như nhiều tên ác ôn, Phạm Văn Đồng, Lê khả Phiêu khi còn tại chức thì hết lòng phục vụ đảng, vơ vét tiền tối đa để làm của phòng thân; khi về hưu, mất chức thì lên tiếng "phản tỉnh". Võ Văn Kiệt cũng thế, sau khi thôi không làm thủ tướng, mới tỏ ra là "phản tỉnh", coi như quá trễ và không cần thiết, nước Việt Nam cần một Gorbechov (Gô Bờ Chóp) như Liên Sô, chứ không cần những thứ: "VÔ VÀ CHỐP" đô La Mỹ để trở thành tỷ phú và khi nghỉ làm là giả vờ yêu nước. Võ Văn Kiệt xác nhận là: "không phải là kiến trúc sư vẽ ra kế hoạch đổi mới", hắn công nhận đó là do đảng chủ trương và chỉ thi hành mà thôi. Một đời theo đảng cướp, làm giàu, vinh quang nhờ đảng cướp, nên Võ Văn Kiệt cũng giống như tất cả những tên cướp khác: việc hối cải là hoàn toàn ít có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, để thu phục người Việt tỵ nạn, cho đảng vững bền, và nhằm hỗ trợ cho vài tổ chức chống Cộng dỏm, Võ Văn Kiệt được một số cơ quan truyền thông nhắc đến như là "một nhà cấp tiến" trong đảng; điều nầy rất ư là nghịch lý, vì ăn cướp thì không bao giờ lương thiện; độc tài không bao giờ có "cấp tiến"; canh tân thì không có cách mạng ...

Võ Văn Kiệt được một số người "biên chế "vào thành phần" phản tỉnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa" để bơm liều thuốc mê vào tập thể hải ngoại và được vài tổ chức chống Cộng cò mồi hứng lấy, đánh bóng. Kiệt sớm trở thành "đảng viên Cộng Sản cấp tiến", như những "tù nhân lươn lẹo" do đảng dùng" khổ nhục kế để làm mờ mắt những người nhẹ dạ, ngây thơ. Kiệt cũng phê bình đảng về đường lối, nhằm cải thiện tình hình nghèo khổ của dân, phản đối xây dựng tòa nhà quốc hội mới, ủng hộ cải cách dỏm để kiếm thêm tiền (điều nầy cũ mèm, không bao giờ làm cho đảng sụp đổ) dù cán bộ cao cấp về hưu có la làng, chống đảng bằng mồm đến hết cuộc đời còn lại. Kiệt chủ trương và mớm mồi với các tổ chức cò mồi: cải cách chế độ bằng hình thức "Đối thoại" từ dân trong nước đến hải ngoại. Mục đích là làm thêm cái vòi "xả hơi" để ngăn chận dân chúng trong nước đứng lên làm cuộc đổi đời, lật đổ chế độ khát máu như ở Nga, Đông Âu, .... điều mà Sáu Dân không tâm đắc, khi nghĩ đến cái gia tài "vĩ đại", thế lực bao trùm, có trong trương mục bạc tỷ Mỹ Kim thì đảng sụp đổ, liệu có được an toàn mà quản lý cái tài sản "không lao động mà vinh quang" tích tụ từ mồ hôi, nước mắt của nhân dân?. Hắn còn mị dân là: "hòa hợp hòa giải giữa: "Người Quốc gia Cộng Sản và người Quốc Gia không Cộng Sản". Đây là tay chơi bài ba lá tồi, vì quốc gia thì làm gì có Cộng Sản đứng chung, kỵ nhau như lửa với nước? Và cái hỏa mù nầy nhằm đưa cả quốc gia, cộng Sản cùng chung một cái cối để đảng giả thành gạo và đảng hứng hết, như câu của Hồ Chí Minh:

    " Gạo đem vào giả bao đau đớn.
    Gạo giã xong rồi, trắng tợ bông".

Những màn bịp bợm của đảng Cộng Sản nói chung và tên Võ Văn Kiệt nầy quá tồi, vừa tung ra là đã bị mọi người nhìn thấy thì làm sao gạt được? Dân tộc Việt Nam đã bị đảng Cộng Sản giựt quá nhiều "chưn hụi máu" và từng bị nhiều tên điếm thúi chơi bài ba lá tráo trở, mà tên Sáu Dân nầy là một bằng chứng điển hình. Khi nào trong đảng Cộng Sản Việt Nam có những tay phản tỉnh tại chức đương quyền như Tổng bí thư, thủ tướng, chỉ huy quân khu, tỉnh ủy thì mới hy vọng; còn những cán bộ cao cấp mà phục viên, hưu trí thì chớ mong gì một tương lai tươi sáng của đất nước. Đây là bọn lừa đảo có hệ thống và bài bản, sau khi làm lớn, hốt đầy túi bạc, nay giả vờ hối cả để giữ được túi bạc mãi mãi làm của riêng.

Sự ra đi của tên Võ Văn Kiệt là mất mát lớn cho đảng cướp Việt Cộng, nhưng nhân dân VN thì mừng là một tên gian ác không còn sống, dù hắn chưa đền tội ác. Một cán bộ xã chết, cứu được hàng ngàn người dân; một tên cán bộ huyện chết, hàng chục ngàn dân đỡ khổ; một tên tỉnh ủy chết, đỡ khổ cho hàng triệu dân và một tên cán bộ lãnh đạo chết, cả nước vui mừng.

Cho nên sự ra đi của tên Võ Văn Kiệt cũng ít nhất là hàng triệu người vui mừng là thế ấy. Cho nên cái câu: "nghĩa tử là nghĩa tận" không thể và không báo giờ được áp dụng cho những tên tội đồ dân tộc như Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh hay Võ Văn Kiệt ... Khi tội ác của chúng chưa giải quyết, chúng cũng chưa hối cải, thì việc khoan hồng không cần đặt ra, chỉ có đồng bọn mới" thương tiếc" mà thôi.

Trương Minh Hòa

Phạm Văn Đồng về "chầu Quỷ sứ" và "Hồ chủ tịt"

LẠI MỘT TÊN TRÙM MAFIA VIỆT NAM BỊ QỦY SỨ ÁP TẢI VÀO HỎA NGỤC
Việt Thường

Phạm Văn Đồng, một trùm mafia Việt Nam, một cánh tay đắc lực thực hiện những tội ác của Hồ Chí Minh đối với nhân dân và đất nước Việt Nam, vừa chết như một con chó già. Trong các trọng tội của Đồng thì, tội thay mặt Hồ và tập đoàn mafia cộng sản tiếm quyền, ký giấy dâng đất cho Trung-cộng, gồm các đảo Trường-sa và Hoàng-sa vào ngày 14-9-1958, là ghê tởm nhất. Bởi trong lịch sử Việt Nam, chưa một tập đoàn cầm quyền nào lại dám làm cái việc dâng đất cho nước ngoài để đổi lấy sự ủng hộ và vũ khí nhằm giết dân, phá hoại môi sinh nước mình vì lợi ích của một ngoại bang khác. Đó là bán đất cho Trung-cộng để thực hiện chiến lược bá quyền của Nga-sô !
Công hàm bán nước
của Phạm văn Đồng
Phạm Văn Đồng quê ở Quảng Ngãi, sinh năm 1905, xuất thân gia đình quan lại. Thuở trẻ, Đồng theo học tại trường Albert Sarraut ở Hà-nội và đậu tú tài phần thứ nhất thì bỏ học. Đồng học ở A. Sarraut cùng thời với mấy ông hoàng người Lào thuở đó là Su-va-na Phu-ma va Su-va-na Phu-vông, và có biệt hiệu là "Đồng cháy", vì da đen.

Thoạt kỳ thủy Đồng chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước của Cần Vương, Văn Thân, Đông Du v.v... cùng lúc do học ở A. Sarraut nên Đồng cũng nhiễm tư tưởng cấp tiến trong các tác phẩm của Voltaire, J.J. Rousseau; chủ nghĩa nhân đạo của Owen v.v... Chỉ đáng tiếc cho nhiệt tình yêu nước đó, khi đã nhiễm HIV cộng sản dương tính, thì Đồng trở thành mất sức đề kháng của người thanh niên yêu nước.

Tổ tiên ta đã dạy: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Quả rằng từ lúc Đồng qua bên Hoa-lục và gặp Hồ Chí Minh thì cái phần yêu nước chân chính trong người Đồng đã bị tiêu diệt bởi ma khí và tà thuyết của Hồ. Cái bản lãnh của chàng thanh niên Tây-học Phạm Văn Đồng đã bị Hồ Chí Minh và cái gọi là chủ-nghĩa Marx-Lénine hủy diệt, để thay thế vào đó sự ngu xuẩn, tàn bạo, vô liêm sỉ, của tên mafia cuồng tín.

Hồ rất tin Đồng. Ngược lại, Đồng luôn kính cẩn và tuyệt đối trung thành với Hồ như con chó berger trước chủ vậy.

Khi bằng lừa dối, tiếm được quyền cai trị thì Hồ giữ ghế chủ-tịch nước kiêm thủ-tướng và trao cho Đồng cái ghế phó thủ-tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao. Đến 1956 thì Đồng được Hồ ban cho cái ghế thủ tướng chính phủ.

Về phương diện chính quyền, Đồng là người phát ngôn của họ Hồ. Về mặt đảng mafia, Đồng luôn luôn là nhân vật thứ ba (không kể Hồ) trong bộ chính trị mafia; là quả cân phụ mà Hồ dùng khi cần điều chỉnh sự thăng bằng giữa bên tả và hữu của bộ chính trị. Nói một cách khác, Đồng là lá phiếu, là người phát ngôn của Hồ trong những trường hợp Hồ không muốn lộ ý kiến công khai trong các cuộc họp chính phủ hoặc họp đảng mafia (nhất là họp bộ chính trị).

Cái chết của Đồng chắc chắn được bọn trùm mafia đỏ Việt Nam hư cấu cho một tiểu sử lê thê đủ thứ thành tích này nọ, hệt như mỗi lần có một trùm trong bọn chúng chết. Và, lũ bồi bút, lũ sử nô của chúng sẽ dựa vào đó mà ra công sơn mạ theo kiểu vàng Mỹ Ký ! Nhưng vải thưa chẳng thể che mắt thánh, nên dưới đây là những sự thật mà bồi bút và sử nô mafia đỏ né tránh.

Trường hợp của Phạm Văn Đồng thì đó là :

Năm 1945 về đến Hà-nội, Đồng chọn vợ là con gái chủ tiệm kem Long Vân ở Bờ Hồ, Hà-nội, một gia đình giàu có ở Hà-nội lúc ấy, cùng lúc Hồ ăn nằm tại nhà đại phú Trịnh Văn Bô ở phố Hàng Ngang để soạn ... tuyên ngôn độc lập, trong đó có phần trích dẫn từ tuyên ngôn của nước Mỹ. Viết và làm như vậy nên tên bài Tây Hồ Chí Minh và đệ tử đã lừa được ... gần cả nước Việt Nam khi ấy, lẫn chàng sĩ quan tình báo của Mỹ: Patti.

Khi chính phủ Liên Hiệp kháng chiến chống Pháp rời Hà-nội lên Việt Bắc, Phạm Văn Đồng đã phạm một tội nặng: hắn đã cưỡng bức một cô học sinh trong đoàn học sinh miền Nam ra thăm miền Bắc năm 1946, rồi vì chiến tranh nên cả đoàn cũng sơ tán lên Việt Bắc. Vợ Đồng bắt được quả tang, làm ầm lên. Bảo vệ của Đồng đã bắt bà ta nhốt lại nên bà ta bị điên. Mọi người chỉ biết vợ Đồng bị điên, nhưng ít người biết nguyên nhân khiến bà ta bị điên.

Sợ tai tiếng cho đệ tử ruột nên trùm mafia đỏ Hồ Chí Minh trực tiếp can thiệp. Hắn cho cô bé học sinh tội nghiệp đó qua Nga-xô học. Nhưng vừa tới đất "Hứa" của mafia đỏ quốc tế thì cô bé học sinh đó bị tai nạn xe hơi chết không kịp trối trăng điều gì. Từ đó, một Phạm Văn Đồng tươi tỉnh của thuở ở hội nghị Fontainebleau (1946) nhường chỗ cho một Phạm Văn Đồng lúc nào cũng cáu kỉnh, lầm lì như "chó thiến bị nhét mảnh chai vỡ". Người thì nói Đồng vì buồn chuyện vợ bị điên, kẻ thì thầm thì rằng Đồng vẫn còn đau khổ vì cái chết của cô bé học sinh miền Nam, được ban "quốc tính" họ Hồ, có đôi mắt nai tơ, làn da trắng mịn, cặp mày lá liễu và vành môi không thoa son mà lúc nào cũng đậm màu hoa đào Nhật-tân.

Ngày 1-1-1955, tại cuộc mít-tinh đầu tiên do mafia đỏ tổ chức trước Nhà Hát Lớn của Hà-nội, Phạm Văn Đồng hoàn toàn đánh mất vẻ sắc xảo khi còn ở trường A. Sarraut, hào hứng tranh luận rất thông minh về Bossuet, về bài thơ "A une jeune morte" của Ronsard v.v... để ngây ngô đến đần độn của một nhân vật võ công tà phái bị cấy "sinh tử phù" trong chuyện chưởng, dám phát biểu, đại ý: "Sau khi họp hội nghị ở Genève, đoàn chúng tôi về qua Liên-sô, được đồng chí Malenkov giao nhiệm vụ là miền Bắc Việt Nam chỉ cần trồng chuối và săn hổ đổi cho Liên-xô là cả miền Bắc Việt Nam no đủ." Rồi Đồng hỉ hả cười trước và tự vỗ tay mừng rỡ một cách chân thật. Giờ đây, đố ai tìm thấy bài nói chuyện đó của Đồng, cũng như bài nói của họ Hồ liền năm đó, khi hắn đến thăm trường nữ học Trưng Vương, rằng: "Bỏ cái áo dài đi. Trong nó vừa ẻo lả, vừa yếu đuối. Vải may một áo dài này có thể may được hai áo cánh."

Trông mặt mũi có vẻ "ngầu" nhưng Đồng thực sự là loại tầm gửi, không dám quyết định cái gì lớn mà chỉ thừa hành ý kiến của Hồ. Khi Hồ chết thì Đồng làm vừa lòng cả Lê Duẩn, Trường Chinh lẫn Lê Đức Thọ.

Có những chuyện tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm. Như chuyện vợ của bí thư tỉnh ủy Hà-tây, Bạch Thành Phong, là hiệu trưởng trường trung học thị xã Hà-đông, ỷ thế chồng, đã chửi và tạt tai một giáo viên dưới quyền. Các giáo viên dưới quyền phẫn nộ làm đơn tập thể gửi lên Phạm Văn Đồng. Thế là Đồng về họp với Ty giáo-dục Hà-tây, ra lệnh cách chức mụ hiệu trưởng. Chưa đầy 3 tháng sau, nhân hội nghị tỉnh đảng bộ mafia đỏ của Hà-tây, Bạch Thành Phong cho tay sai đề cử vợ hắn vào chấp hành tỉnh đảng bộ và hắn chỉ đạo để vợ hắn không những trúng cử mà còn được phân công là trưởng ban tuyên huấn tỉnh đảng bộ. Nghĩa là mất chức hiệu trưởng của một trường trong thị xã Hà-đông thì chưa đầy 3 tháng sau mụ ta phụ trách chỉ đạo cả 3 ty: giáo dục, y tế và văn-hóa thông-tin của toàn tỉnh Hà-tây ! Phạm Văn Đồng được cho biết chuyện đó, nhưng lờ đi, vì ... Bạch Thành Phong là đệ tử ruột của Trường Chinh !

Lại một chuyện khác, xảy ra ở phân xã nhiếp ảnh, Việt Nam thông tấn xã ở Hà-nội. Được tin Phạm Văn Đồng đến thăm và nói chuyện với phân xã nhiếp ảnh, Hoàng Tuấn, Tổng giám đốc Việt Nam thông tấn xã và Hoàng Tư Trai, giám đốc phân xã nhiếp ảnh họp toàn cơ quan trước, ra lệnh rằng sau khi Đồng nói, không ai được phát biểu gì mà để "lãnh đạo phát biểu thay"(?). Khi Đồng đến, thao thao bất tuyệt nào là "kiên cương"với "tiên lên" (vì Đồng nói như Tây nói tiếng Việt, không có dấu, và các bài nói của Đồng ở chỗ nào cũng hay động viên 'kiên cương' với 'tiên lên'). Rồi Đồng hỏi: "Co đông chi nao co y kiên không?" Mọi người im lặng một lát. Bỗng phóng viên ảnh Xuân Bảo đứng dậy báo cáo rằng: "Lãnh đạo dặn không ai được nói với thủ tướng." Đồng đang cười mỉm, sầm mặt lại. Một mụ nhân viên mới từ vùng mỏ Hồng-quảng chuyển về, nhanh nhẩu đứng dậy: "Báo cáo thủ tướng, Xuân Bảo là phần tử lạc hậu của cơ quan đấy ạ!" Đồng trừng mắt: "Chị là người xấu, đồng chí Xuân Bảo là người tốt vì đã dám báo cáo sự thật cho thủ tướng biết!" Cả hội trường im phăng phắc. Bỗng Đồng ngửa mặt cười "chua chát" rồi hằm hằm ra về. Ngay hôm sau, phóng viên ảnh Xuân Bảo bị cơ quan Thông Tấn Xã cho nghỉ việc với lý do: Vô Kỷ Luật. Phóng viên Xuân Bảo chạy lên phủ thủ tướng cầu cứu Phạm Văn Đồng nhưng ... Đồng không tiếp và cũng không ... giải quyết. Xuân Bảo đành chạy về Văn phòng Quốc hội, đón xe ô-tô của Trường Chinh để khiếu nại. Trường Chinh đề vào đơn của Xuân Bảo "Chuyển anh Tô giải quyết" (Tô là bí danh của Đồng). Sau đó, án kỷ luật của Xuân Bảo được đổi thành "Mất sức cho hưu non" và cho một số tiền bằng 12 tháng lương chính. Thế là người hùng năm 1945, đã cắm cờ ở tòa đốc lý Hà-nội, là thương binh trong chiến tranh chống thực dân Pháp, là đảng viên mafia đỏ (đảng viên trơn), là phóng viên ảnh bậc 5, là người đã bám trụ ở cầu Long Biên ngày máy bay Mỹ ném bom phá xập cầu, là người được Đồng "tuyên dương" là "người tốt" trước hội nghị toàn cơ quan Thông Tấn Xã bị đá một cái để thành một xã viên hợp tác xã !!! Một phần vì cả Hoàng Tuấn lẫn Hoàng Tư Trai là đệ tử của Trường Chinh, nhưng cái chính yếu là tập đoàn lãnh đạo mafia đỏ không muốn khuyến khích cấp dưới tố giác cấp trên. Theo Hồ và bọn tay chân :Đó là mầm loạn. Cấp dưới chỉ được khuyến khích phục tùng tuyệt đối dù là mù quáng.

Lại một chuyện khác xảy ra ở cảng Hải-phòng. Đó là tình trạng mất cắp một cách trắng trợn, vì kẻ lấy cắp chính là lũ quản lý và bảo vệ cảng. Các cá nhân và đơn vị có hàng bị mất khiếu nại khắp nơi và Phạm Văn Đồng, nhân danh thủ tướng chính phủ trực tiếp xuống cảng Hải-phòng kiểm tra. Hết làm việc với đảng ủy rồi lại đến ban giám đốc, sau cùng Đồng họp với cán bộ công nhân viên, kêu gọi tinh thần bảo vệ hàng hóa ở cảng. Thế là người tốt lại bị quả lừa. Một bác công nhân già, từng làm ở cảng Hải-phòng từ thời thực dân Pháp, buồn bã phát biểu, đại ý:"Thưa thủ tướng, tôi là công nhân cảng từ khi tròn 18 tuổi, đến nay đã hơn 50 tuổi. Chưa bao giờ tôi thấy làm ăn tắc trách như bây giờ. Vừa ăn cắp, vừa phá hoại công khai, bởi vì họ hầu hết là người có quyền lớn cả về đảng lẫn chính quyền. Ai mà nói ra là bị trù ém. Thời thực dân Tây cũng không bao giờ có tình trạng như vậy, thế mà nay nhờ 'Bác' và đảng, ta làm chủ mà hóa ra thành ăn cắp của nhân dân. Ai không ăn cắp bị gọi là ngu lâu, bị cách ly và bị đặt đủ thứ tên để chê bai. Thế là thế nào? Kính xin báo cáo lên thủ tướng để giải quyết." Nghe nói vậy, Đồng đứng trân trân như trời trồng, "ứa nước mắt" lắc đầu ra về. Trước khi ra khỏi hội trường, Đồng gọi bác công nhân già bảo ra xe cùng Đồng về Hà-nội, đồng thời cho lệnh đưa cả gia đình bác công nhân đó về Hà-nội. Vì, như Đồng nói: "Đồng chí ấy và gia đình mà còn ở cảng chắc sẽ gặp nạn"(?).

Câu chuyện trên được một số bút nô mafia đỏ tô vẽ rằng "Đồng rất tâm lý, rất tình người". Thực ra không phải vậy. Mà vì Đồng từng cặp kè với Hồ những ngày Hồ còn phải lang thang bên Tàu, hiểu rõ mọi ngón nghề của tên bài tây chính trị, tên mafia đỏ quạch Hồ Chí Minh và cái đảng mafia do hắn lèo lái thực chất là một tập đoàn ăn cắp, ăn cướp, lưu manh lừa đảo tụ họp nhau, núp dưới tên đảng chính trị, thoa son yêu nước để ăn cắp và ăn cướp của toàn dân, phá hoại toàn bộ tài nguyên của đất nước. Cho nên chuyện ăn cắp ở cảng Hải-phòng là cái tất yếu của việc "trồng cây nào hái quả đó" mà thôi. Vì thế mà Đồng phải lờ đi, cũng như việc đưa gia đình bác công nhân đó về Hà-nội là tránh việc cấp dưới tố giác cấp trên, y như chuyện của Xuân Bảo ở trên vậy !

Vài thí dụ nêu trên để thấy tuy là thủ tướng, là nhân vật số 3 trong tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ nhưng việc chính đáng của dân thì Đồng toàn giải quyết theo kiểu "đánh trống bỏ dùi", còn việc riêng thì Đồng rất tích cực. Thí dụ thứ nhất: Giữa những năm 1960, tại Hà-nội có cái gọi là "Vụ án nhạc vàng" (phóng viên AFP của Pháp, thường trú tại Hà-nội, có đưa tin). Ông Toán "xồm" bị kêu án tù 12 năm vì tội "hát nhạc vàng của miền Nam và có tư tưởng thích chế độ Đồi Truỵ của miền Nam". Một vài người khác hay tụ họp hát nhạc miền Nam Việt Nam, nhờ nghe lén đài miền Nam mà học được, trong vụ ông Toán đều bị kêu án, ít nhất cũng 6 năm. Án như vậy, nhưng như ông Toán, bị tù quá án mà vẫn không được tha. Có người vô tình đến chơi với ông Toán đúng hôm công an mafia đỏ tới lục nhà cũng bị bắt và kết án ... 6 năm tù. Thế nhưng, cô cháu dâu của Phạm Văn Đồng là Trà Giang - vợ của Phạm Bích Ngọc - là diễn viên điện ảnh nổi tiếng, kiêm ủy viên ban chấp hành hội liên hiệp văn-học nghệ-thuật (tổ chức các loại bút nô của mafia đỏ) lại bình chân như vại, mặc dù Trà Giang là người Đều Đặn có mặt tại nhà ông Toán để biểu diễn say sưa nhạc vàng (tức nhạc của miền Nam Việt Nam). Trà Giang còn công khai nhận xét là nhạc miền Nam rất tình người, không gân guốc, sắt máu như nhạc miền Bắc. Bởi vì, Phạm Văn Đồng trực tiếp can thiệp !

Thí dụ thứ hai: Một thằng cháu ruột khác của Phạm Văn Đồng, được đưa qua Nga-xô học từ nhỏ và được cử làm "bí thư thứ nhất sứ quán mafia đỏ Việt Nam tại Nga-xô". Hắn muốn lấy vợ mà phải là vợ đẹp, nhưng bận ở Nga-xô không có thì giờ về Việt Nam "tìm hiểu". Thế là Phạm Văn Đồng ra tay tiếp cháu. Đồng giao trách nhiệm cho "đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh" (cánh tay phải của mafia đỏ) tìm vợ cho cháu hắn. Lại một diễn viên điện ảnh nổi tiếng được chọn làm cháu dâu Phạm Văn Đồng. Cuộc tình không do yêu, cũng không do cha mẹ sắp đặt, mà do tổ chức mafia đỏ thực thi theo ý của trùm Đồng. Đám cưới xong, theo đúng luật của mafia đỏ Việt Nam, cháu Phạm Văn Đồng lại qua Nga-xô làm việc, còn cô cháu dâu lại "cô đơn phòng lạnh đợi chờ" tại Hà-nội. Không chịu nổi sự phi lý đó, cô diễn viên rất đẹp đó đưa đơn xin ly hôn. Nghe tin, thằng cháu Phạm Văn Đồng vội cưỡi máy bay về khóc lóc xin vợ rút đơn ly hôn nhưng cô ta không chịu. Như cô ta nói thì cô ấy cảm thấy đây là một sự cuỡng ép của tổ chức (mafia đỏ) mà thôi. Thế là Đồng lại can thiệp bằng cách hứa làm hộ chiếu cho cô ta qua Nga-xô sống với chồng, muốn đi học hoặc muốn làm gì thì làm. Nhưng cô diễn viên quả cảm khước từ mọi ân huệ của Đồng. Cháu Đồng khóc lóc trở về lại Nga-xô. Còn cô diễn viên vì cái tội không muốn làm cháu dâu họ Phạm nữa nên bị coi là không đủ tiêu chuẩn là diễn viên !

Chuyện đại loại như vậy về Đồng và đồng bọn của hắn trong tập đoàn mafia đỏ có thể kể dài hơn ngàn lần các chuyện chưởng của Kim Dung gộp lại với những Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký, Một Ngàn Lẻ Một Đêm v.v... cũng chưa hết.

Về cuối đời, khi được nâng lên là "cố vấn" của tập đoàn mafia đỏ, Đồng vẫn còn thèm được nướng tiền của nhân dân Việt Nam vào các canh bạc chính trị. Trong một chuyến thăm Ấn-độ (thời bà I. Gandhi), Đồng đã tự ý ký mua một nhà máy sản xuất bao đay đã cũ của Ấn-độ với giá 10 triệu USD, mang về lắp đặt tại Thủ-đức (Sài-gòn) để làm... cảnh, vì càng sản xuất thì càng lỗ, giá thành cao gấp nhiều lần giá nhập ngoại. Thời kỳ đó Pháp cũng chào bán một nhà máy như vậy, tối tân, mới nguyên mà có 1 triệu USD thôi. Theo Đồng thì "kinh tế cũng là chính trị; tẩy chay hàng đế quốc mà ủng hộ hàng của ... thế giới thứ ba dù có thua lỗ !" Đúng vậy, vì Đồng cũng như tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ chẳng hề hấn gì. Chỉ có nhân dân Việt Nam là đã lỗ nặng, đang lỗ nặng và còn lỗ nặng dài dài, chừng nào chưa nhận rõ diện mạo của họ Hồ và tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ để tống tiễn bọn chúng đi theo Hồ.

Nhiều người, là trí thức kia đấy, chỉ biết mỗi điều Phạm Văn Đồng là thủ tướng Việt Cộng, cũng như nhiều người là nạn nhân trực tiếp của mafia đỏ vậy mà bị lối tuyên truyền rỉ tai, đã ca ngợi rằng trong đám đầu lãnh mafia đỏ thì Đồng là người Qúy Trí Thức Nhất ! Khi xin cho dẫn chứng cụ thể thì ... tất cả đều ... tắc tị !

Đường lối của tập đoàn mafia đỏ là tận diệt bốn tầng lớp rường cột của xã hội Việt Nam để dọn đường cho đế quốc Nga-xô thống trị được dễ dàng và lâu dài. Đó là Trí, Phú, Địa, Hào, nghĩa là Trí đứng hàng đầu. Xã hội mà thiếu 4 tầng lớp đó thì còn gì là xã hội, khác nào tòa nhà bị gỡ bỏ bốn cột trụ, chỉ còn 4 bức vách, gió nhẹ cũng sập! Về Đảng thì Đồng là nhân vật đầu lãnh thứ ba, về chính phủ thì Đồng là đầu lãnh số 1, có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện đường lối tận diệt 4 tầng lớp nói trên. Trắng đen rõ ràng đến như vậy mà vẫn u mê rằng Đồng quý trí thức thì quả thực thánh cũng hiểu không nổi mấy Ông Thầy Bàn Tào Lao !!!

Có một chuyện là Phạm Văn Đồng lần nào cũng có mặt dự họp những lần đại hội bút nô, được gọi là "đại hội các nhà văn", để nghe và phát biểu. Nếu để ý thì thấy lần nào cũng giống nhau vì nội dung chủ yếu vẫn là khuyên bảo, khuyến khích lũ văn nô còn chút nhân phẩm nào thì cố mà gột bỏ để toàn tâm toàn ý tự nguyện làm tôi mọi cho tập đoàn mafia đỏ trên địa bàn văn học, nghệ thuật.

Và, một chuyện nữa là Đồng quan tâm đến "tiếng Việt" cũng như ra đời tổng tập Nguyễn Trãi. Là thủ tướng, chuyện chính là lo cho dân no ấm, hạnh phúc như ở các thế giới Tây Phương, thì Đồng làm lơ ma lơ mơ. Đúng là mafia đỏ thứ thiệt. Đồng đích thân chủ trì việc xuất bản tổng tập Nguyễn Trãi vì Đồng tự ví như Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là ... Đức Lê Lợi ! Lũ bút nô, nhiễm ít nhiều HIV cộng sản dương tính, là mất nhân cách của người cầm bút, lăng xăng xu nịnh Đồng (mà cũng là Hồ) ra công viết tham luận về Nguyễn Trãi mà cũng ngầm nịnh Đồng.
Làm sao mà Hồ có thể là Đức Lê Lợi và Đồng là cụ Nguyễn Trãi được.

Đức Lê Lợi đánh quân Minh xâm lược, đem lại độc lập cho Việt Nam, nhân dân no ấm, xã hội ổn định trong một thời gian dài hàng thế kỷ. Còn Hồ Chí Minh thì dùng súng đạn Nga-Tàu để làm cái việc người Việt giết người Việt. Hồ ra lệnh tiêu diệt 4 tầng lớp rường cột của Việt Nam, mà chỉ riêng cái gọi là cải cách ruộng đất từ vĩ tuyến thứ 17 trở ra Bắc, nông dân bị giết 5% theo chỉ tiêu Hồ quy định.

Còn cụ Nguyễn Trãi, bằng trái tim và văn tài, dùng bút viết những bức thư cho quân Minh đầy hào khí dân tộc, cũng như bài "Bình Ngô Đại Cáo" thấm nhuần lòng tự hào dân tộc lẫn chủ nghĩa nhân văn của Việt Nam. Có đâu như Phạm Văn Đồng, viết thư dâng cho Trung-cộng hai quần đảo Trường-sa và Hoàng-sa để ủng hộ việc Trung-cộng cướp đất của Việt Nam, trong lúc chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố chống hành động xâm lược của Trung-cộng.

Có thể Đồng tưởng câu chuyện tình của cụ Nguyễn Trãi (với Thị Lộ) và của Đồng giống nhau chăng ? Nếu có vậy thì chỉ là Đồng hoang tưởng. Vì chuyện tình của cụ Nguyễn Trãi là của "trai tài, gái sắc" và hoàn toàn không có chuyện cưỡng bức bằng quyền lực. Còn của Đồng thì sao ? Vào những ngày máy bay Mỹ đánh bom Hà-nội ồ ạt, mà hiệu quả của trận B52 xuống khu phố Khâm Thiên, trông rất rùng rợn, rất có lợi cho những người Mỹ chống chiến tranh ở Việt Nam v.v... chứ thực ra thì chỉ có dân, mà chủ yếu là nạn nhân của tập đoàn mafia đỏ chết, chứ lực lượng của mafia đỏ chẳng suy xuyển mảy may, thì có một chuyện cười ra nước mắt xảy ra.

Đó là tác giả "con nai vàng ngơ ngác" bị du kích Quảng Bá (Hồ-tây, Hà-nội) bắt được đang làm chuyện "con nai âu yếm quá mức" với một diễn viên nổi tiếng của đoàn tuồng khu 5, từng thủ vai chính trong vở "Nghêu, Sò, Ốc, Hến". Nghe chuyện liên quan đến khu 5, quê hương của mình, Đồng cho gọi nhà thơ "nai vàng ngơ ngác" lên hỏi chuyện. Chẳng biết đôi bên "mà cả" ra sao mà cuối cùng thì cô diễn viên đó thành "vợ nhỏ" của Đồng. Những người nhạy tin của Hà-nội thì thầm với nhau rằng: tưởng vở tuồng là do hư cấu, vậy mà đời thường lại có đúng "vai tri huyện là Phạm Văn Đồng" và "vai thầy đề" là nhà thơ nọ !

Tham quyền cố vị thì rồi cũng chết. Là đồ giả thì dù mạ vàng, thời gian cũng làm long sơn. Tổ tiên ta đã dạy :Thật Thà Là Cha Qủy Quái.

Chó chết thì hết chuyện. Nhưng Phạm Văn Đồng chết thì chuyện chưa hết. Người Việt Nam ở trong nước hay ngoài nước, nhất là giới trẻ, hãy nhìn con đường mà Phạm Văn Đồng đã đi : từ người thanh niên yêu nước tha hóa thành tội đồ bán nước. Đó là vì đã chọn lầm tổ chức, chọn lầm tà thuyết.

Giờ đây thật, giả lẫn lộn, mọi người, nhất là tuổi trẻ, cần tỉnh táo nhận xét, tìm hiểu kỹ càng, không nghe phỉnh phờ, nhìn vào việc làm và hiệu quả của nó đối với quyền lợi cơ bản của đất nước và dân tộc thì sẽ phân biệt được trắng, đen.

Việt Thường
01-11-1999

Wednesday, June 11, 2008

Thông Cáo của Vịt Tiềm

Thông Cáo Của
Mặt Trận Phở Bò Vịt Tiềm


Trân trọng thông báo
- Quý cơ quan truyền thông hải ngoại.
- Quý hội đoàn và người Việt ở Hải Ngoại.

Trích Yếu: Về Việc Hoàn Trả Tiền Yểm Trợ Kháng Chiến cho đồng bào đã đóng góp kể từ năm 1981.

Tham Chiếu: Tinh thần các buổi họp của ban chấp hành Tổng Vụ Hải Ngoại, Tổng Vụ Quốc Nội, Tổng Vụ Tài Chánh, Tổng Vụ Doanh Thương Phở Bò, Tổng Vụ Doanh Thương Chuyển Tiền “Chậm” và đặc biệt trong các phiên họp tháng 3,4,5 năm 2008 của ban chấp hành trung ương đảng Vịt Tiềm.

Xét vì: Kể từ ngày thành lập tháng 4 năm 1980 đến nay, Mặt Trận Phở Bò Vịt Tiềm chúng tôi đã mang nhiều tai tiếng lừa bịp và lợi dụng lòng tin, lòng nhiệt tình chống cộng của đồng hương người Việt tị nạn trên toàn thế giới để quyên góp một số tiền trên 10 triệu US dôla.
Xét vì: Buôn bán Kháng Chiến, là hành động gian manh, lừa đảo, có tội với lịch sử và toàn dân Việt.
Xét vì: Các hệ thống kinh tài và doanh thương của Mặt Trận Phở Bò Vịt Tiềm ở hải ngoại và trong nước nay đã thâu hoạch được lợi tức hàng năm rất lớn.
Xét vì: Tiền bạc, tài sản của Mặt Trận Phở Bò Vịt Tiềm đã được tẩu tán, chia chác, phân tán cho anh em dòng họ Wàng và các trưởng cơ sở thân tín của Mặt Trận Phở Bò Vịt Tiềm ở nhiều nơi trên thế giới và đã được “Giặt Rửa” sạch sẽ, không còn tìm ra dấu vết tiền bất chánh, phi pháp.
Xét vì: Các thân chủ đã gửi tiền, cho vay, cho mượn, biếu không, đóng góp cho Kháng Chiến Cuội từ trước đến nay không một ai còn giữ hồ sơ và biên nhận.

Nên:
Mặt Trận Phở Bò Vịt Tiềm quyết định ra thông báo hoàn trả lại cả vốn lẫn lời cho đồng hương đã đóng góp tiền cho Mặt Trận Bịp Bợm của chúng tôi với điều kiện:

- Đơn xin hoàn trả tiền phải có kèm theo biên nhận (đã đóng góp) có đóng dấu và chữ ký của chủ Tịch Wàng Cơ Cuội hoặc Tổng Vụ Tài Chánh Tay Hòm Chìa Khoá Wàng Cớ Đị.
- Đơn phải chuyển xuống Âm Phủ để Chiến Sĩ Chủ Tịch Wàng Cơ Cuội duyệt xét trước ngày 25 tháng 8 năm 2008.

Thông cáo này được sửa chữa, hiệu đính phù hợp với chủ trương mới Chệch-Hướng của băng đảng Phở Bò Vịt Tiềm chúng tôi, thay thế cho Thông Cáo đã được phổ biến trên Nguyệt San Con Ong Việt số 51 phát hành tháng 8 năm 2004.

Tổng Vụ Tài Chánh
Wàng Khu Đị

Đảng Trưởng Đảng Vịt Tiềm
Đĩ Wàng Đồ

(trích từ: http://www.conongviet.com)

Tuesday, June 10, 2008

Giữ Vững Lằn Ranh Quốc Cộng

Thưa qúy chiến hữu và qúy đồng hương, dưới đây là một phần trong những ý kiến đóng góp cho Đại Hội Toàn Cầu lần thứ 16 cùa các Cựu SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia (tổ chức 2 năm 1 lần). Trên nguyên tắc, bài này chỉ phổ biến trong sinh hoạt nội bộ của tập thể Võ Bị, nhưng tôi thấy những nhận định này không những chỉ có giá trị và áp dụng cho 1 tập thể Võ Bị nhỏ bé thôi, mà có thể cũng sẽ đóng góp được phần nào vào công cuộc đấu tranh của cộng đồng người Việt Tỵ Nạn CS , vì vậy sau khi được sự chấp thuận của Tác giả Nguyễn Quốc Đống, Cựu SVSQ Khoá 13 và của Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Cựu SVSQ/TVBQGVN, xin được chuyển tới quý chiến hữu và qúy đồng hương bài nhận định "GIỮ VỮNG LẰN RANH QUỐC CỘNG ..."

huan23

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA CSVSQ NGUYỄN QUỐC ĐỐNG, K.13 GỬI ĐẾN ĐẠI HỘI KỲ THỨ 16 CỦA TỔNG HỘI CSVSQ/TVBQGVN (NGÀY 5-6 THÁNG 7, 2008 TẠI SAN JOSE, CALIFORNIA

GIỮ VỮNG LẰN RANH QUỐC CỘNG, PHÂN BIỆT RÕ BẠN THÙ ĐỂ ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC TRANH ĐẤU CHO TỰ DO, DÂN CHỦ TẠI QUÊ NHÀ

Tranh đấu cho 1 nước Việt Nam tự do dân chủ hầu mang lại hạnh phúc cho người dân là niềm mơ ước của mọi người dân Viê.t. Khi tình nguyện vào trường Võ Bị đại đa số chúng ta cũng mang niềm mơ ước này và chọn binh nghiệp làm phương tiện để thực hiện hoài bão to lớn đó. Trách nhiệm của người trai thời loạn cũng góp phần vào sự chọn lựa đầy ý nghĩa này của chúng ta. Chúng ta muốn trực diện cùng kẻ thù trên các trận địa, chặn đứng làn sóng tấn công của chúng trên chiến trường để bảo vệ nếp sống tự do và an bình cho người dân trên mảnh đất cuối cùng của chúng ta là miền Nam Việt Nam. Kẻ thù của chúng ta không phải là bọn ngoại xâm mà chính là những người cùng chung một huyết thống, cùng dòng giống Việt, cùng nói một ngôn ngữ, từng có chung 1 nền văn hóa. Nhưng những người anh em này chọn lựa chủ nghĩa ngoại lai Mác- Lênin, mơ ước xây dựng 1 chế độ xã hội chủ nghĩa để tiến đến chế độ Cộng sản mà họ từng mơ ước. Lãnh tụ của những người Cộng sản này là Hồ Chí Minh, người đem học thuyết Mác- Lê áp đặt lên dân tộc Việt và kể từ đó đất nước ta chìm đắm trong chiến tranh và nhân dân phải chịu muôn ngàn thống khổ. Vì vậy tuy cùng là dân 1 nước nhưng người Việt đã chia thành 2 phe rõ rệt: 1 phe “Cộng sản” quyết thực hiện “3 dòng thác cách mạng” tại quê nhà bằng mọi giá: cách mạng giải phóng dân tộc (nói là để giành độc lập khỏi sự thống trị của ngoại bang), cách mạng dân chủ, nhân dân (giành lại quyền làm chủ về chính trị cho người dân) và cách mạng vô sản (tiêu diệt giai cấp tư sản bóc lột). Giấc mơ của người Cộng sản là 1 thế giới đại đồng với tất cả các quốc gia đều là anh em cùng tin tưởng ở chủ thuyết Mác- Lênin. Ranh giới các quốc gia sẽ không còn, gia đình phải lùi bước trước xã hội và tôn giáo cũng sẽ không còn chỗ đứng vì đã có "ánh sáng Mác-Lê" thay thế. Ý thức được chủ thuyết ngoại lai này một khi được hình thành sẽ tiêu diệt toàn bộ nếp sống tự do, dân chủ của người dân và tiêu diệt toàn bộ nền văn hóa dân tộc đã hình thành trong nhiều ngàn năm qua, cả triệu dân miền Bắc đã di cư vào miền Nam và cùng nhân dân miền Nam góp công xây dựng 1 quốc gia không Cộng sản là Việt Nam Cộng Hòa.

Chế độ VNCH tuy chỉ đứng vững được 21 năm nhưng đã tỏ rõ là 1 chế độ nhân bản tôn trọng các quyền tự do căn bản của con người, đem lại cơm no, áo ấm cho người dân dù phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài. Trong cuộc chiến chống Cộng sản miền Bắc xâm lược, 1 số chúng ta đã không giữ được lằn ranh Quốc-Cộng nên đã để cho kẻ thù xâm nhập được vào phòng tuyến của chúng ta, lung lạc ý chí chiến đấu của chúng ta và sau cùng lũng đoạn hàng ngũ của chúng ta. Cùng với một số yếu tố bất lợi khác của hoàn cảnh lịch sử, chúng ta đã bị bắt buộc phải buông súng, chấm dứt cuộc chiến khi trách nhiệm chưa hoàn thành, ước mơ chưa thực hiê.n. Đó chính là nguyên nhân thúc đẩy người cựu SVSQVB tỵ nạn Cộng Sản hiện đang định cư ở các nước từ hơn 30 năm qua vẫn tiếp nối công cuộc chống Cộng còn dở dang.

Cuộc chiến Quốc- Cộng chỉ chấm dứt trên các trận địa nhưng hòa bình thực sự thì không có và sự hòa giải dân tộc chưa bao giờ xảy ra. Cộng Sản VN trong tư thế của kẻ thắng trận đã thi hành 1 chính sách trả thù vô cùng tàn độc đối với những người mà chúng rêu rao là “được giải phóng”. Chúng ta là 1 trong các đối tượng chịu những đòn thù thâm độc nhất. Nhiều người trong chúng ta đã phải trải qua tuổi thanh xuân trong các trại lao cải ở khắp các vùng xa xôi từ Nam chí Bắc. Nhiều người bị thủ tiêu, tra tấn, đánh đập dã man hoặc chết vì đói rét, bệnh tật. Nhưng nhiều người trong chúng ta cũng còn may mắn trở về được từ những địa ngục trần gian này. Nhờ bàn tay bao dung của thế giới tự do chúng ta tìm được 1 mái ấm gia đình mới cho bản thân và gia đình. Chúng ta được hít thở không khí tự do và được sống với phẩm giá của 1 con người. Những điều này vẫn chỉ là 1 ước mơ đối với đa số người dân Việt tại quê nhà hiện nay. Vậy chúng ta có thể nào tự bằng lòng với những gì mình đang được thụ huởng, cho rằng mình chiến đấu đã quá đủ và trả giá cũng đã quá đủ hay không? Chúng ta có thể thờ ơ với những gì đang xảy ra cho đồng bào tại quê nhà và dửng dưng với những nỗ lực của đồng hương tỵ nạn Cộng Sản đang tranh đấu chống sự xâm nhập của Cộng Sản ngay tại mảnh đất trú thân cuối cùng của chúng ta và con cháu hay không? Đã hơn 30 năm sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân Cộng Sản miền Bắc xâm lược, lằn ranh Quốc-Cộng vẫn còn đậm nét trong lòng những người Việt quốc gia yêu nước, yêu tự do, dân chủ. Họ không thể nào chấp nhận hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản vì những người này chưa bao giờ thực lòng chấp nhận những ai đi ngược lại đường lối, chính sách của họ. Có thể nói Quốc gia và Cộng Sản là 2 phe đối nghịch nhau như nước và lửa.

Một số người cho rằng Cộng Sản đã thay đổi rồi nên đâu cần phải chống chúng. Họ chỉ nhìn thấy sự thay đổi ở cái bề mặt hào nhoáng, các tụ điểm ăn chơi tấp nập, các khách sạn 5 sao sang trọng, các số tiền đầu tư to lớn được đổ vào thị trường kinh tế VN để rồi thấy phấn khởi cho tương lai của đất nước và dân tộc. Họ không ý thức được rằng chỉ có 1 thiểu số cán bộ cầm quyền và bè lũ tay sai được hưởng phúc lợi của những món tiền đầu tư to lớn này, còn đại đa số dân thường vẫn sống trong lầm than, nghèo đói và đất nước đang dần dần mất đi sự độc lập và chủ quyền quốc gia vì CSVN lợi dụng vị thế độc tôn của mình để cắt đất, dâng biển cho đàn anh Trung Cộng. Họ không thấy được đằng sau nếp sống xa hoa kia là cả 1 thế giới tối tăm vô vọng của những gia đình phải để con gái bán thân và để con trai bán sức lao động tại nước ngoài. Cộng Sản Việt Nam có thể thù chúng ta là những kẻ bỏ nước ra đi nhưng chúng cũng chẳng đem lại cuộc sống ấm no gì cho người dân trong nước, chẳng độc lập, không tự do và tất nhiên cũng không có hạnh phúc nữa. Cuộc chiến Quốc-Cộng giờ đây là cuộc chiến của những người yêu chuộng tự do, dân chủ và những tội đồ của dân tộc: những kẻ buôn dân, bán nước với lòng tham vô đáy: tham quyền, tham tiền, tham danh, tham lợi ….

Chúng ta có đủ tư cách tham gia cuộc chiến Quốc-Cộng này hay không? Thứ nhất đây vẫn là trách nhiệm của chúng ta, những người trai tự nguyện đem tuổi trẻ và nhiệt huyết cống hiến cho đất nước và dân tộc, quyết tâm xây dựng 1 nước Việt Nam tự do, dân chủ, những lý tưởng cao cả của con người. Thứ hai, chúng ta được hoàn cảnh tạo cho mình những điều kiện thuận lợi để tôi luyện ý chí, rèn luyện kỹ năng. Thời gian quả đã khiến nhiều anh em trong chúng ta nhụt mất ý chí và mất định hướng tranh đấu nhưng số anh em chúng ta còn nuôi dưỡng được nhiệt huyết với quốc gia, dân tộc không phải là nhỏ. Một số bạn tương đối còn trẻ còn có cơ hội trở lại trường học tiếp bậc đại học và học lên đến cao học hay tiến sĩ. Đây là những thành phần chất xám rất đáng quý của chúng ta. Nếu chúng ta biết sử dụng những tri thức thu nhập được tại xứ sở tạm dung này vào công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ tại quê nhà, cuộc tranh đấu này sẽ có 1 luồng gió mới và chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành quả hơn trong tương lai. Điều quan trọng là tổ chức của chúng ta biết xây dựng cho tập thể chúng ta 1 ý thức trách nhiệm đúng đắn, 1 lý tưởng vững mạnh để chống lại sự tuyên truyền nguy hiểm của kẻ thù. Còn nếu chúng ta không còn trẻ nữa thì mình vẫn còn có thể đóng góp cho công cuộc tranh đấu chung bằng các kinh nghiệm quý giá của bản thân. Sự hướng dẫn đứng đắn của các bậc đàn anh luôn luôn là những bài học quý báu đem lại niềm tin cho thế hệ đàn em và cho các cháu Thanh Thiếu Niên Đa Hiệu.

Một điều nữa chúng ta không thể quên được là dù chúng ta có dễ dãi với kẻ thù và muốn quên đi quá khứ để yên thân với hiện tại, chúng cũng không để chúng ta yên thân. Chắc chúng ta chưa quên những lời nói miệt thị mà CSVN dành cho những người bỏ trốn khỏi chế độ của chúng. Chúng coi những người di tản khỏi đất nước khi miền Nam rơi vào tay CS tháng 4 năm 1975 hay những người vượt biên sau này là “thành phần cặn bã của xã hội, chạy theo đế quốc để hưởng bơ thừa, sữa cặn”. Ngày nay, chứng kiến sự thành công của họ tại hải ngoại, chúng lại muốn khống chế người Việt hải ngoại để họ đem tiền bạc về cho chúng hưởng lợi. Cuộc tranh đấu của chúng ta bước sang 1 trang mới, với những khó khăn mới. Kẻ thù của chúng ta bây giờ dùng những thủ đoạn gian manh, tinh vi hơn để mong đánh lừa chúng ta 1 lần nữa. Chúng ta còn gặp nhiều khó khăn hơn xưa vì ngoài kẻ thù rõ mặt là bọn cán bộ CS, chúng ta còn phải đối phó với “nội thù”. Bọn này còn nguy hiểm và khó thắng hơn cả bọn cán bộ CS vì chúng nằm ngay trong hàng ngũ của chúng ta. Chúng biết ta mà có khi ta không biết được những âm mưu của chúng. Chúng phá ta mà đôi khi ta cứ tưởng chúng là bạn nên không đối phó được. Đến khi chuyện xảy ra và biết được kẻ thù là ai thì mọi chuyện đã quá trễ: tác hại đã xảy ra, lực lượng bị tiêu hao và sự đoàn kết đã mất đi nhiều.

Nhìn vào tình trạng của cộng đồng người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại hiện nay chúng ta phải công nhận 1 trong những nhược điểm của chúng ta là quá dễ dãi trong vấn đề phân biệt bạn-thù, không giữ vững lằn ranh Quốc-Cộng nên đã để mất định hướng, không tập họp đúng lực lượng và để kẻ thù len lỏi quá sâu vào hàng ngũ chống Cộng. Trong nhiều năm chúng ta còn nuôi dưỡng cho kẻ thù của chúng ta lớn mạnh để sau này khi có điều kiện thuận lợi chúng không ngần ngại phá hoại hàng ngũ của chúng ta. Hãy nhìn vào các hiện tượng như tuần báo Việt Weekly công khai ca tụng CSVN, nhật báo Người Việt tại Nam California ca tụng lãnh tụ CS và nhục mạ quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, ca sĩ hải ngoại tổ chức chương trình ca nhạc để tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tên Cộng Sản nằm vùng nguy hiểm, kẻ đã dùng những dòng nhạc ủy mị, phản chiến để lung lạc ý chí tranh đấu chống Cộng của quân dân miền Nam, các tăng sĩ chủ trương cộng tác với bạo quyền để được an thân hành đạo, làm việc thiện, làm văn hóa và công khai chống lại các tăng sĩ chủ trương phải tranh đấu để có tự do tôn giáo đích thực. Hãy nhìn vào các thương gia sống và làm giàu nhờ vào đồng hương tỵ nạn CS nay quay sang bắt tay với kẻ thù để thủ lợi nhiều hơn. Hãy nhìn quanh ta để thấy không thiếu gì những ca sĩ về nước ca hát đánh bóng cho bạo quyền CS và nói xấu đồng bào hải ngoại … Những kẻ đón gió, trở cờ loại này càng ngày càng nhiều.

Chúng ta có nên thất vọng và buông tay đầu hàng hay không khi hoàn cảnh cho thấy chúng ta gặp rất nhiều bất lợi trong 1 cuộc chiến không cân sức như hiện nay? Kẻ thù của chúng ta nắm trọn quyền hành trong 1 đất nước thống nhất nên tài nguyên, nhân lực đều quy về 1 mối. Kẻ thù của chúng ta lại gian ác và sẵn sàng thi hành mọi thủ đoạn hiểm độc để lũng đoạn hàng ngũ của chúng ta. Chúng dùng hết nghị quyết này đến nghị quyết khác để khống chế hơn 3 triệu người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại tuy chỉ là thiểu số so với hơn 80 triệu dân trong nước nhưng có 1 ý chí kiên cường và 1 tấm lòng tha thiết với tiền đồ của đất nước. Thực tế cho chúng ta thấy dù phải đối phó với mọi âm mưu thâm độc của CS và tay sai (bọn Việt gian sẵn sàng thi hành kế sách của CS để phá hoại sự đoàn kết và làm tiêu hao lực lượng của chúng ta), chúng ta vẫn kiên quyết không lùi bước trước sự tấn công và phá hoại của chúng. Sự kiện Trần Trường năm 1999 tại Nam California là 1 tập họp ngoạn mục của những người dân không chấp nhận sự hiện diện của các biểu tượng CS tại thủ đô của người Việt tỵ nạn CS tại Hoa Kỳ. Chiến dịch vinh danh cờ VNCH tại nhiều tiểu bang, các quận hạt và thành phố tại Hoa Kỳ cho thấy ý chí cương quyết bảo vệ căn cước tỵ nạn của chúng ta. Các công trình xây dựng các đài tưởng niệm chiến sĩ để nêu cao chính nghĩa quốc gia và vinh danh các anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân tại các cộng đồng có đông dân Việt tỵ nạn CS chứng tỏ chúng ta không quên lịch sử tỵ nạn CS của cộng đồng người Việt. Và mới đây nhất cuộc tranh đấu trường kỳ của đồng hương San Jose để bảo vệ danh xưng Little Saigon cho 1 khu thương mại của người Việt, đồng thời cũng là để bảo vệ căn cước tỵ nạn chính trị chống lại sự lạm quyền của 1 số chức sắc dân cử có hành động phản dân chủ và có biểu hiện phục vụ cho những kẻ làm hại cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Đây là những thành quả đáng trân trọng trrong cuộc chiến Quốc –Cộng hiện nay.

Lý tưởng mà chúng ta chọn lựa là 1 lý tưởng đúng đắn. Tranh đấu cho Việt Nam có tự do, dân chủ thực sự là trách nhiệm của tất cả mọi công dân yêu nước. Muốn thế chúng ta phải có ý chí vững mạnh, có quyết tâm cao độ và phải chịu hy sinh. Không có thành quả nào có thể đạt được mà không tốn mồ hôi, nước mắt và có khi cả xương máu nữa. Nhưng có những sự hy sinh chúng ta không thể từ chối được nếu đó là giá phải trả cho một cuộc sống có phẩm giá, cho sự trường tồn của 1 nền văn hóa và sự sống còn của 1 dân tộc. Trong cuộc tranh đấu trường kỳ Quốc- Cộng này, chúng ta cần khắc phục 1 nhược điểm lớn: đừng coi thường kẻ nội thù, phải biết nhận diện và cô lập bọn người này để thanh lọc hàng ngũ và giữ vững sự đoàn kết. Chúng ta hẳn còn nhớ chuyện An Dương Vương ngày xưa mất cả vươngï nghiệp không vì kẻ ngoại xâm mà chính vì kẻ nội thù. Chính con gái của nhà vua đã vô tình giúp kẻ thù làm sụp đổ cơ nghiệp của phụ vương khiến đất nước rơi vào sự thống trị của ngoại bang. Biết được kẻ nộâi thù là ai, nhà vua đã can đảm vung gươm giết ngay, dù đó là con gái của chính mình. Trong hàng ngũ các cựu SVSQ Võ Bị, chúng ta không thiếu các tấm gương sáng sẵn sàng hy sinh vì cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ tại quê nhà. Nhưng nếu các hoạt động của các cá nhân hay các hội địa phương được nhân lên thành 1 phong trào và Tổng Hội mạnh dạn hỗ trợ cho các hoạt động đúng đắn phù hợp với tôn chỉ của TH thì kết quả đạt được sẽ nhiều hơn và có ý nghĩa hơn. Chúng ta cần đoàn kết các thành phần cùng chung ý chí nhưng cương quyết loại trừ các thành phần có tư tưởng yếm thế, chủ bại, có hành động gây hại cho công cuộc tranh đấu chống Cộng của chúng ta.

Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay sau hơn 30 năm Đảng Cộng Sản Việt Nam thống trị đất nước, tôi thiết nghĩ tập thể cựu SVSQVB cần tạo 1 sự đoàn kết lớn mạnh, thống nhất ý chí để cùng nhau hành động hữu hiệu trong cuộc chiến Quốc-Cộng đang tiếp diễn gay gắt hiện nay tại hải ngoa.i. Ban Chấp Hành Tổng Hội cần sáng suốt và chủ động trong việc lãnh đạo các hội địa phương để các cựu SVSQVB được tập họp thành 1 khối vững chắc biết hành động đúng đắn để có thể đạt được những mục tiêu cao đẹp do Tổng Hội đề ra. Lịch sử đã chứng minh Hồ Chí Minh và tay sai của ông ta là các tội đồ của dân tộc, quá trình hoạt động của Đảng CSVN là 1 quá trình dối trá, lường gạt nên chúng ta không thể để bị chúng lừa thêm 1 lần nữa. Chúng ta dứt khoát không chấp nhận hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản như bè lũ tay sai của CS đang nỗ lực tuyên truyền, vận động mà phải dứt khoát tư tưởng và kiên trì trong cuộc chiến Quốc-Cộng hiện nay. Góp 1 phần trong cuộc chiến này, chúng ta có thể hãnh diện mình đã tiếp tục sống theo lý tưởng của người cựu SVSQ/TVBQGVN.

Nguyễn Quốc Đống, K.13
Tháng 4, 2008

VÌ TÔI LÀ" HỒNG Y"!.-

Trương Minh Hòa

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang có sáng tác bài ca nổi tiếng, tựa đề: "vì tôi là linh mục", nói lên cái tâm trạng của một người mặc áo đen nhà dòng trước những cám dỗ trong cuộc sống xã hội đầy những cạm bẫy, để chiêu dụ linh mục "tu xuất" lắm thay!. Sau ngày 30-4-1975, những vị linh mục nổi tiếng có thành tích "đóng góp công sức tích cực cho cách mạng vô thần thành công" mà giáo hội và giáo dân không hay biết, họ đương nhiên đã trở thành LINH MỌP "thời thượng", hồ hởi phấn khởi, nhảy múa ăn mừng chiến thắng thời cơ cùng với cái gọi là: "đại thắng mùa xuân" của gã tướng ngố Văn Tiến Dũng gốc thợ vá quần áo, giặc ủi cho lính Lê Dương thời Pháp; Việt Cộng muốn xóa bỏ dần những "tàn dư của chế độ cũ" nên thay tên thủ đô Saigon, lừng danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, xuống cấp thành tên Thành Phố Hồ Chí Minh, mang tên một đầu đảng siêu cướp, tên Việt gian, bán nước, hại dân (đáng lẽ tên của Hồ Chí Minh còn chưa xứng đáng để đặt cho tên của một Đường Cống dẫn nước dơ từ nhà cầu) .... Những vị lãnh đạo tinh thần nầy đã "hòa hợp hòa giải" với đảng Cộng Sản vô thần, một cách "sáng tạo lẫn tối tạo" một cách tài tình, cũng với tâm trạng "Vì Tôi là Linh mọp, giả dạng chiếc áo dòng, tu theo dòng Giu- Đà, Thiên Chúa đành đi đong ...".

Trong số những vị ấy, nổi bật như Chân Tín với Dòng Chúa Cứu Thế, là người từng "lập công dâng đảng" qua tấm lòng rất ư là nhân đạo, dùng bình phong Thiên Chúa để đấu tranh cho quyền lợi của những tên khủng bố Việt Cộng miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập, khi chúng sa cơ, được hưởng "chế độ" ăn ở theo tiêu chuẩn quốc tế, nên các trại tù phiến Cộng ở Phú Quốc là nơi có bịnh viện tối tân, đầy đủ thuốc men, tù ăn ở như tiêu chuẩn các nhà tù ở các nước Tây Phương, có quốc tế giám sát, sau năm 1975, những tên khủng bố bị tù phiến Cộng nầy trở về trả thù quân nhân cán chính miền Nam, là thành tích xuất sắc của Chân Tin trong việc phục vụ "cách mạng vùng lên để hại đời"; trong khi đó tù binh Hoa Kỳ, các nước Đồng Minh và quân lực VNCH bị đối xử tàn tệ, bị tra tấn, hành hình ... như thượng nghị sĩ John Mc Cain vẫn không bao giờ quên những năm tháng tù đày ở Hỏa Lò với nhiều vết thẹo và thương tật trên thân thể. Đó là thành tích đóng góp tích cực cho cách mạng vô thần qua các gọi là Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù, có tờ báo đấu tranh là Đối Diện, sau đổi tên thành Đứng Dậy nhằm phù hợp với: "cao trào cách mạng" dâng cao, nhịp nhàng với nhiều sư đoàn chánh qui xâm nhập qua đường Mòn Hồ Chí Minh; ngoài ra còn có một số linh mục như Ngọc Lan, Huỳnh Công Minh, Trần Bá Cương (tức Trương Bá Cần), Phan Khắc Từ là người tự hào về thành tích "đánh Mỹ cứu nước" với nhà thờ Vườn Soài là "công binh xưởng" chuyên chế bom để khủng bố .... sau nầy đều được đảng và nhà nước nâng cấp thành "LINH MỌP" với giáo hội Công Giáo được "định hướng theo xã hội chủ nghĩa" nên triết học vô thần Karl Marx, là nền tảng triết lý "cơ bản, chủ yếu" hơn cả thánh kinh, nhằm đào tạo những thế hệ tu sĩ phục vụ vô thần trở thành Linh Mọp phục vụ đảng và nhà nước, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc. Trong khi các tự viện, nhà thờ ... đều đồng quy bị tịch thu làm nhà kho, khu thương mại, nơi giải trí, thì các nhà thờ do các linh mọp phát triển đều, được hưởng "chế độ" cao, được quyền đi xuất ngoại đều đều để móc túi con chiên, thi hành công tác tôn giáo vận, làm lũng đoạn hàng ngũ Thiên Chúa Giáo hải ngoại.

Từ nhiều năm qua, biết bao linh mọp do đảng đề cử đã làm ăn "khắm khá", trong khi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền giáo phận Huế bị chết một cách bí mật, nghe đâu bị đầu độc bởi thứ độc dược do Liên Sô cung cấp thời chiến tranh Việt Nam"?. Linh Mục Tadeo Nguyễn Văn Lý bị tù đày liên miên vì can đảm đứng lên đòi quyền tự do tín ngưỡng, linh mục Phan Văn Lợi chiến đấu trong sự cô đơn giữa ngay trong hàng ngũ các tín hữu của mình (là những chức sắc trong giáo hội) .... vậy mà Hội Đồng Giám Mục giáo hội Công Giáo Việt Nam vẫn "tịnh khẩu", ngay cả hai tiếng "A Men" cầu nguyện để hỗ trợ cho một vị đồng tín hữu bị quỷ hại cũng không thấy có, quý vị lãnh đạo tinh thần cũng "bình an tâm hồn" trước việc linh mục Lý bị công an bịt miệng trước phiên tòa án nhân dân đấu tố, đi ngược lại tôn chỉ của tòa thánh La Mã: "công lý và hòa bình", nhưng các vị im lặng, là coi như đồng lõa:

    "Vinh danh theo lũ vô thần.
    Bình an Linh Mọp chẳng cần thiện tâm".

Các linh mọp làm ăn khắm khá, tự tung tự tác, biến nhà thờ thành nơi "cửa quyền" ngay trong nhà thờ, là mưu đồ gian - thâm trong việc triệt hạ Thiên Chúa Giáo bằng nhiều cách: linh mục do nhà nước đào tạo được hưởng nhiều quyền lợi vật chất, được quyền" quan hệ tình cảm với người khác phái", xuất ngoại, đi đây đi đó và "bình an thu tiền ở các cộng đồng hải ngoại" với danh nghĩa từ thiện, xây cất, sửa chửa nhà thờ, giúp giáo dân nghèo, làm công ích xã hội .v..v... Nhưng bàn tay nào che nổi mặt trời, nay những linh mọp đi làm công tác cho đảng bị tín đồ Công Giáo hải ngoại lật tẩy khi có linh mọp gọi tín đồ, những người đóng tiền cho mình là "Ngụy"; vì ma quái giả dạng nên các linh mọp hay bị "dị ứng" với lá cờ vàng ba sọc đỏ, thứ mà quỷ đỏ vô thần rất kỵ, sợ. Hệ thống giáo hội Thiên Chúa trong nước bị "định hướng theo xã hội chủ nghĩa" bởi các linh mọp quốc doanh đang "dắt tay những con chiên sùng đạo đi theo tấm bản chỉ đường vào địa ngục của loài quỷ đỏ vô thần" và các linh mọp còn vói bàn tay lông lá lòi ra từ "chiếc áo đen nhà dòng" để vừa móc túi và vừa có ý đồ "dắt tay cả con chiên hải ngoại đi theo tấm bản chỉ đường của đảng" hầu chiếm trọn hầu bao "cực kỳ vĩ đại" của bọn "phản động nước ngoài"; đó là cái: "Âm mưu diễn biến móc tiền của các thế lực tu sĩ quốc doanh do đảng và nhà nước Cộng Sản chủ xướng "làm ra tiền một cách tài tình, khỏi cần phải" lao động là vinh quang".

Nhằm khống chế toàn bộ Thiên Chúa Giáo trong nước, giáo hội Công Giáo Nhà Nước tìm cách đưa người vào các chức cao, điển hình là Tổng Giám Mục Phạm Minh Mẫn, người được tấn phong Hồng Y; qua tác lối hành đạo, lời nói ... người ta có quyền nghi ngờ: nếu không có sự "nhất trí" tín nhiệm, hứa hẹn, mật ước gì đó của vị bí thư linh mọp như Huỳnh Công Minh, và được cả linh mọp Phan Khắc Từ, Trần Bá Cương ... ủng hộ, thì làm gì tu sĩ Phạm Minh Mẫn làm gì được đề cử và La Mã phê chuẩn chức Hồng Y ...?.

Tục ngữ có câu: "Ăn cơm chúa, phải múa tối ngày" và ngày nay thì: "Ăn cơm đảng, nói sảng tối ngày". Sau khi được chức giáo phẩm cao nhất ở Việt Nam, dĩ nhiên là Hồng Y phải đền đáp hay làm theo bí thư, giống như hệ thống đảng và nhà nước là: chủ tịch ủy ban nhân dân, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn trưởng ... đều là chức vụ "bình phong" và bên trong quyền sanh sát nằm trong tay bí thư, chính trị viên, chính ủy. Do đó Hồng y Phạm Minh Mẫn cũng khó thoát khỏi vòng cương tỏa của tổ chức giáo hội quốc doanh, làm theo mục đích yêu cầu của linh mọp bí thư, là "phản ánh" trung thực ý kiến của đảng và nhà nước vô thần, qua những "sự cố" từ khi lên chức đến nay, hình như Hồng Y Phạm Minh Mẫn trở thành bình phong để cho ma quái núp bóng khuynh đảo Thiên Chúa Giáo trong nước?. Do đó, sau thời gian "tôn kính" vị Hồng Y Việt Nam, thì nay là:
    "Còn lõm bõm biết đâu rô sạc.
    Lúc cạn đìa mới biết lóc trê"
Từ nhiều năm qua, tín đồ Thiên Chúa hay có tập quán: "Thương Chúa kính Cha", hễ ai mặc áo dòng, dù là bên trong theo đảng vô thần, nhưng bề ngoài thì: "vì tôi là linh mục" nên cha đương nhiên có uy tín, xuất phát từ tín ngưỡng. Hồng Y còn cao cấp hơn, là niềm tự hào của con chiên, nhưng nào ngờ đó là: "vì tôi là Hồng Y". Với thiên chức như thế, lại được các linh mọp bí thư hậu thuẫn mạnh mẽ, nên Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn thường xuất ngoại để làm "mục vụ" ngoài thu tiền, còn khéo léo đánh bóng chế độ: trong khi linh mục Nguyễn Văn Lý ở tù, là chuyện lẻ tẻ, nhưng Hồng Y là cấp cao nhất mà được xuất ngoại, thì trong nước đâu có đàn áp tôn giáo? Hồng Y đi xa hơn "phản ánh" trung thực câu nói của thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho người Việt tỵ nạn: "Bọn đĩ điếm du côn", và được Hồng Y diễn giảng theo "tinh thần thánh kinh được định hướng theo xã hội chủ nghĩa" là: "Những kẻ tha phương cầu tực". Thật là đúng chính sách của đảng, quy chụp những người bỏ nước ra đi: không phải vì lý do chính trị, mà vì miếng cơm manh áo ... đây là công tác mà đảng đang nhắm tới, nên lòn người vào cơ quan nghiên cứu Willam Joiner, dưới nhãn hiệu cầu chứng của trường đại học Massachusetts với tài chánh do Rockefeller Foundation tài trợ để vẽ lại chân dung người Việt tỵ nạn dưới nhãn quan của đảng là: "bọn đĩ điếm du côn, tha phương cầu thực, tỵ nạn kinh tế ..." nhằm xóa bỏ căn cước tỵ nạn chính trị, trong đó có cả lá cờ vàng ba sọc đỏ; đó là những thứ mà đảng Cộng Sản rất kỵ, vì họ là nguyên nhân gây ra tội ác, khiến hàng triệu người liều mạnh bỏ nước ra đi tìm tự do.

Hồng Y Phạm Minh Mẫn sinh ra ở tại xứ đạo Hòa Thành ở Cà Mau, tu hành từ nhỏ. Hòa Thành là xứ đạo yên lành, an ninh là nhờ nơi nầy đa số là giáo dân, có đồn nghĩa quân, nhà thờ, linh mục; vào tháng 10 năm 1974, Việt Cộng mở cuộc tấn công hai mặt, cửa ngõ và tỉnh: xã Tân Lộc và ấp Hòa Thành, nhưng hình ảnh hào hùng mang đầy ý nghĩa là: cảnh một con chiên lính nghĩa quân bị ngã gục trên bờ công sự, vị cha sứ nhào lên để dùng khẩu đại liên M 60 bắn vào Việt Cộng nhằm bảo vệ cho xóm đạo, sự kiện nầy làm tinh thần lính nghĩa quân lên cao, giữ vững tay súng phòng thủ, hợp cùng với sự yểm trợ hỏa lực của giang đoàn 72 Thủy Bộ, đẫy lùi giặc Cộng, giữ gìn xóm đạo được an bình.

Ngày 30-4-1975, đại tá tỉnh trưởng Cà Mau là Nhanh Nhựt Chương lên phi cơ do đại úy Cử lái, cùng với linh Mục Phước di tản. Thời đó, ở Cà Mau có nhiều vị linh mục vì Chúa, Giáo dân, chính nghĩa, song hành với sự tồn vong của dân tộc, như linh mục Nguyễn Lạc Hóa, là người đưa một số con chiên di cư từ vùng thượng du Bắc Việt về miền hoang du Bình Hưng, lập ra biệt khu Hải Yến, bình định, tạo yên ổn cho dân, sau nầy nơi đây trở thành quận Hải Yến .... nhưng cái tên linh mục Phạm Minh Mẫn thì không ai nghe nói đến, Ngài chỉ nổi bật và xuất hiện sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 và trở thành Hồng Y. Xứ đạo Hòa Thành là nơi mà Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn bắt đầu cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa, nhưng sau 1975 thì dường như Ngài đã dần dần xa rời khi bị ám bởi những quỷ ma vô thần, đó là lý do mà Hồng Y im lặng trước sự đàn áp dã man, bắt bớ tù đày linh mục Lý, sát hại đức Tổng Giám Mục Nguyễn kim Điền và gần đây các vụ cầu nguyện đòi tòa khâm sứ, đất đai giáo xứ Hà Đông ... không nghe Đức Hồng Y làm cái gì để bảo vệ đức tin một cách "cụ thể", nhưng cứ im lặng thì được coi là: "Juda defends the faithful"?

Tuy Ngài không có hoạt động nổi bật nhằm bảo vệ đạo trong cơn nguy khốn, khác với thời kỳ các thánh tử đạo thời nhà Nguyễn, Đức Hồng Y cứ làm lễ và xuất ngoại thoải mái, trở về nước với túi bạc, cứ thế mà phát huy tinh thần "vinh danh đảng Bác" để làm theo mục đích yêu cầu của các linh mọp bí thư?

Cũng giống như những "chiến dịch" với "Dòng Chúa Cứu Đảng", khi nền kinh tế trong nước đang lâm nguy với: tình trạng lạm phát phi mã, vô phương cứu chữa; hiện nay, tin tức cập nhật, sơ khởi hơn 25% và tăng dần; đồng tiền Hồ bị tuột giá như diều đứt dây, có khả năng phá sản, thị trường chứng khoán mất giá hơn 2/3, đồng Mỹ Kim thay đổi giá ít nhất ba lần trong ngày ... nhưng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cương quyết không giảm giá đồng tiền Hồ, như trái bom bóng bị ép hơi, sẽ nổ tung (là ngày tàn của chế độ), các định chế tài chánh quốc tế cấp viện cảnh báo về nguy cơ sụp đổ kinh tế không xa, Việt Nam là nơi có nhiều rủi ro nhất thế giới .... cho nên đảng hốt hoảng cử nhiều tên đi "xin tiền" và tìm cách cứu nguy:, trong tháng 6 năm 2008, tình hình cấp bách khiến cho Chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết đi Na Uy, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sắp đi Mỹ ... phía giáo hội Thiên Chúa Nhà Nước cũng có những linh mục đi "moi tiền" như Nguyễn Chí Linh, Nguyễn Hoàng Tuấn ... và cũng vừa hạ lá cờ vàng, làm công tác tôn giáo vận, chắc chắn là những linh mọp nầy không phải là chánh đạo (sa tăng ám) hay bị quỷ ám, nên khi thấy cờ vàng ba sọc đỏ là sợ, như quỷ gặp thánh giá vậy.

Riêng Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, hình như Ngài cũng thi hành lịnh của bí thư linh mọp bên trong "chỉ đạo", nên Ngài có viết bức thư đề ngày 4 tháng 5 năm 2008, nhằm mở đường và trình làng trước với các vị: - Đức Cha chủ tịch UBGM Đặc Trách giới trẻ-Đức Cha UBGM đặc trách Đức Tin-Đức Giu Se, giám mục địa phận Lạng Sơn. Điều nầy nói lên cái vị trí Hồng Y nầy cũng "phản ánh" trung thực ngược lại: "không có gì ... quý hơn độc lập, tự do" bị khống chế bởi hệ thống giáo hội Công Giáo Việt Nam. Bức thơ của Ngài được đăng trên tờ Việt Báo ngày 7 tháng 6 năm 2008, nhân chuyện Ngài đáp lời đi dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day) do Đức Hồng Y ở Úc là George Bells mời, đại hội sẽ tổ chức tại Úc Châu vào trung tuần tháng 7 năm 2008, với sự hiện diện của đức Giáo Hoàng Benedict Thập Lục. Nội dung chánh của Ngài nhằm "phản ánh trung thực" nỗi ám ảnh, cũng là niềm hoảng sợ triền miên và có Logic của đảng và nhà nước là: Ngài cũng bị "dị ứng cờ vàng ba sọc đỏ" như tất cả các đấng Linh Mọp từng "QUY MẢ" lạc quyên mà không dám chào cờ vàng, thậm chí chụp hình chung với giáo dân có cầm lá vàng .... chẳng khác nào quỷ Sa tăng nhìn thấy cây thánh giá mà co đầu rút cổ, chạy dài vậy. Sự kiện nầy được Ngài dùng bình phong mẹ Việt Nam, cũng giống như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng lợi dụng Mẹ Việt Nam trong bản nhạc: "Gia Tài Của Mẹ" với câu: "Hai mươi năm nội chiến từng ngày", nhằm khỏa lấp chuyện bộ đội CSBV xâm nhập vào đánh phá miền Nam qua Đường Mòn Hồ Chí Minh và gần đây tại hải ngoại, trung tâm nhạc "THÚI NGHE" với ông bầu "Tai Văn Lô" cùng với "Nhà Văn Ngã Ba Ông Tạ" lợi dụng "MẸ VIỆT NAM" để bôi nhọ chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa qua cuốn băng B 40 .... Nay Ngài Hồng Y cũng áp dụng chiêu cũ cũng là Mẹ Việt Nam: "Các bạn trẻ VN là con một cha, là anh em một nhà và mẹ VN lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ). Lúc mặc áo lành, lúc mặc áo rách ... vẫn là mẹ đã dầy công sinh thành dưỡng dục ...". Lời của Ngài cũng như lời của bản nhạc "Tình Đất Đỏ Miền Đông" của nhạc sĩ Trần Long Ẩn, được các cháu ngoan Bác Hồ "nhi đồng" ở các vùng nông thôn sau 1975 "động não" sửa lời ca cho hợp với" tình huống thời thượng" rằng:

"Đi đánh banh, mặc quần xanh áo đỏ - Đi cắt cỏ mặc quần đỏ áo vàng - Đi dép râu thì đội nón cối ... , từ trận thắng hôm nay, ta ăn độn dài dài, từ trận thắng hôm nay, ta ăn độn mì lan ..."

Và Ngài cũng quan ngại: "Cờ vàng sẽ làm tắt nghẽn con đường hiệp thương của các bạn trẻ VN ...", Ngài giải thích thêm: "Một lá cờ là biểu tượng cho điều gì?. Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng của đất nước, lúc khác thì biểu tượng cho chủ nghĩa, tư bản, Cộng Sản chủ nghĩa, quốc gia .... có lúc chỉ BIỂU TƯỢNG THÓI ĐỜI MANG TÍNH ĐỐI KHÁNG ..." và: "Cuộc đời Giám mục của tôi, cách đây 30 năm, lúc còn sinh thời, đã để lại cho các tín hữu và cho bản thân tôi học bài học lịch sử nầy". (chắc chắn là cuộc đời Giám Mục của Ngài cũng từng chịu ơn lá cờ vàng nầy). Lá cờ vàng mang theo ý nghĩa trừ tà, nên Việt Cộng và những kẻ đồng lõa đều ngán, sợ .... cái JOB hạ cờ vàng ba sọc đỏ từng được đảng Cộng Sản nâng lên hàng "chiến lược", nên đã chỉ đạo cho huề thượng Thích Thanh Từ thực hiện từ năm 1994 tại Âu Châu, Hoa Kỳ, Úc Châu ... nhưng đi đến đâu huề thượng cũng phải noi gương đảng "đi thuyết pháp bằng cửa hậu" chạy dài trước những Phật Tử thuần thành và sáng suốt biểu tình kiên trì, tan tác. Được biết là Thích Thanh Từ còn có "vũ khi ta mang là môn dạy thiền" mà không chiêu dụ được, huống chi Hồng Y Phạm Minh Mẫn, xuất ngoại, lợi dụng kỳ đại hội thanh niên thế giới theo kế "thuận thủ thu dương", dùng uy tín chức sắc để triêt hạ cờ vàng chỉ với bộ áo Hồng Y và cái túi xin tiền, thì thất bại là đương nhiên. Ngài Hồng Y muốn xóa lá cờ vàng khi nêu lên nỗi ám ảnh của những Thanh Niên Công Giáo trong nước được xuất ngoại để dự đại hội: "WYD (World Youth Day) 3 lần trước ở Pháp, Đức, Canada đều có các bạn trẻ một số nơi tham dự. Sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thương của tuổi trẻ VN ..." Ai cũng biết những thanh niên nào tại Việt Nam được xuất ngoại để tham dự đại hội? Nếu họ không phải là "con đảng, cháu ngoan của Bác" cũng là thành phần tin tưởng của giáo hội Nhà Nước, thành phần được các linh mọp trong giáo hội quốc doanh đưa sang, nên họ sợ lá cờ vàng cũng có lý do, Hồng Y Phạm Minh Mẫn muốn bỏ lá bùa trừ tà để họ hồ hởi phấn khởi tham dự là thế. Nếu cờ vàng ba sọc đỏ bị xóa ngay trong lần đại hội thanh niên thế giới tổ chức tại thành phố Sydney (Úc Châu) lần nầy thành công, thì từ đây trở thành tiền lệ và người Công Giáo chân chính, người Việt tỵ nạn bị mất lá cờ vàng trong các lần đại hội thế giới, cứ thế mà phát huy, đi từ thắng lợi nầy sang thắng lợi khác. Đương nhiên là Hồng Y Phạm Minh Mẫn sẽ lập được một thành tích "vĩ đại" mà từ trước đến giờ, đảng, nhà nước, sứ quán, du học sinh, gián điệp, nằm vùng, đón gió .... chưa ai đạt được.

Cờ biểu tượng cho bất cứ đoàn thể, đội ngũ nào ... tùy theo bản chất mà cờ mang ý nghĩa "tà hay chánh đạo". Đảng cướp biển ở các đại dương nào cũng đều có đặc tính chung: "màu đen, xương sọ, xương tréo màu trắng phếu". Cờ đảng siêu cướp Cộng Sản, dù ở Á, Âu .... cũng đều có nền đỏ như máu tươi và sao vàng, búa liềm. Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho tự do, độc lập, nên đây mới chính là lá cờ cần phải duy trì mãi mãi, tôn kính, là hồn thiêng sông núi .... ngay cả đội banh cũng có lá cờ riêng và Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo ... đều có lá cờ. Lá cờ vàng ba sọc đỏ từng "cưu mang" cuộc đời của ngài Hồng y Phạm Minh Mẫn từ tấm bé, ban cấp cho Ngài không khí tự do và sau nầy ngài trở thành linh mục, giáo mục .... nên đáng lẽ ra thì Ngài nên trân quí nó, như tình nghĩa, đạo lý của một công dân bình thường, huống chi là một Hồng Y thì phải thể hiện đức độ, ít nhất cũng bằng linh mục Nguyễn Văn Lý là đáng ca ngợi đấy!

Sau 1975, Ngài lại "muối mặt" chấp nhận cái tên gọi: "Giáo Phận Hồ Chí Minh" như một công thức kiểu mẫu "thời thượng" được đảng ép duyên "hòa hợp hòa giải" giữa Thiện và Ác, thiên đàng và địa ngục, Thiên Chúa và quỷ Sa tăng ... đáng lẽ ra Ngài phải là người "đầu tiên" lên tiếng yêu cầu Việt Cộng phải "trả lại tên Saigon" là gián tiếp "TRẢ LẠI TAI TÊN GIÁO HỘI" tiên phong hơn linh mục Nguyễn Hữu Lễ. Tệ hơn là khi linh mục Lễ phát động phong trào "trả lại tên Saigon" thì Ngài Hồng Y Phạm Minh Mẫn lại "im lặng là vàng", nếu Ngài lên tiếng ngay trong nước, thì đảng và nhà nước Việt Cộng gặp khó khăn và Ngài chắc được tín đồ dành cho nhiều cảm tình. Nhưng ai cũng biết khi: Trả lại tên Saigon, thì trong đó có cả lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá thứ mà các linh mọp, giám mọp, tổng giáo mọp .... rất kỵ, như lá bùa trừ tà, như thánh giá làm bạt vía kinh hồn quỷ ma sa tăng vậy.

    "ĐỨC CHA học rộng ĐA CHỨC nầy.
    CAO GIỐNG đạo Trời, CÔNG GIÁO đây.
    THƯỜNG ĐÁNH, quỷ ma, THÁNH ĐƯỜNG sạch.
    THIÊN CHÚA quốc doanh, THUA CHIẾN ngay"

Chức sắc của cáo tôn giáo chỉ là "người phàm mắt thịt", nhưng họ là người có vái Job phục vục cho các đấng thiêng liêng, giáo dân, nhằm đưa nhân loại đến "an bình, hạnh phúc" trong tinh thần "làm lành lánh dữ, thương yêu nhau". Không có giáo hội nào ca tụng khủng bố, đảng cướp, nên đảng Cộng Sản lại càng nguy hiểm hơn đối với loài người và tôn giáo qua chủ trương của Karl Marx: "Tôn giáo là thuốc phiện". Do đó bất cứ tu sĩ nào đồng tình với đảng cướp Cộng Sản vô thần đều đi ngược lại tôn giáo. Dù họ là huề thượng, hồng y .... hay cao chức, cũng không thể là người lãnh đạo tinh thần, nếu không có nhận định rõ ràng, sáng suốt thì dễ sai lầm, vô tình tiếp tay cho kẻ gian, núp bóng tôn giáo để tác hại thế gian, xã hội.

Trương Minh Hòa