Saturday, May 17, 2008

Tương Quan Giữa Văn Hóa Và Chính Trị


Bài thuyết trình của Đinh Lâm Thanh

Kính thưa quý vị,

Gần đây nhiều nhà trí thức cũng như một vài tổ chức văn học nghệ thuật chủ trương rằng, hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Một điều đáng chú ý là nhiều diễn đàn, hội văn hóa thường lên tiếng cổ võ vấn đề nầy rập theo luận điệu tuyên truyền ru ngủ của nghị quyết 36.

Trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, đôi lúc cũng không thể tách chính trị và văn hóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt hoặc đối đầu lẫn nhau. Nếu so với hiện tình của một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai như tình trạng Việt Nam và cộng đồng chúng ta hiện nay thì vấn đề càng không thể xảy ra.

Hai lãnh vực văn hóa và chính trị, bất luận dưới thời nào cũng phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ (Nhân bản, Tự do) hoặc phục vụ tối đa cho quyền lực phe nhóm đảng phái (Quân phiệt, Cộng sản).

Vậy dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, dùng văn hóa để cải tạo và xây dựng chế độ ?

Dù hiểu cách nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Vậy chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lai một nền văn hóa nô bộc chắc chắn sẽ giúp chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát. Điều nầy có thể chứng minh hai lãnh vực chế độ và chính trị đều liên hệ mật thiết với nhau. Do đó không thể kết luận, văn hóa phải tách khỏi ảnh hưởng của chính trị.

Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối lập của Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị một hướng nhìn bao quát rộng lớn hơn.

Không thể hạn chế nền văn hóa của một dân tộc vỏn vẹn chỉ nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo, y phục, ẩm thực. Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài, hội họp xuống đường hô hào mà phải nghĩ đến những mục đích tối hậu của các hành động trên. Vậy để được khách quan, cần nghiên cứu nhiều chi tiết và lãnh vực khác nhau trong đường hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để những người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Ngoài ra cũng nên tìm hiểu những hành động chính trị một cách rộng rãi trong các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.

Nói đến văn hóa và chính trị của Việt Nam trước và sau 1975 cũng như trong và ngoài nước thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ trong nước rồi nền văn hóa đỏ ra đời, đến môi trường tự do với các phong trào cách mạng đời sống Âu-Mỹ và việc bảo vệ văn hóa cổ truyền ở hải ngoại, là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.

Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như dưới thời bình và trong một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa chính là vũ khí của chiến trường để đối đầu với nhau.

Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực, như một kẻ liều mạng, để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Chúng đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở. Lượng đã yếu mà còn bị một số trí thức, nhiều tổ chức hải ngoại còn kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài chương trình phát triển và bảo tồn văn hóa là một điều bất lợi cho công cuộc tranh đấu hiện nay. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng không có tinh thần để chống đở, bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam thì xem như chưa đánh đã thua ! Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không sức, thiếu khả năng và sáng suốt thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù mà kẻ thù đã giăng ra.

Không thể thuần túy và đơn giản kêu gọi giới trẻ theo học tiếng Việt, nghe một buổi thuyềt trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra.Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy, như vậy, làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay thì chẳng đi đến đâu mà còn đem lại một kết quả ngược. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là chính nghĩa, đâu là con đường phải tiến tới để mai kia quay về với phục vụ quê hương.

Trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải mượn con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần, lấy tình người cải tạo văn hóa loài thú !

Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’, thì không khác gì chưa ra trận chúng ta đã đầu hàng vô điều kiện. Tóm lại trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời "chiến tranh văn hóa" ra khỏi "chiến tranh chính trị". Hai mặt trận phải song song hổ trợ cho nhau để đối đầu với Cộng sản khi chúng dùng văn hóa để phục vụ mưu đồ chính trị bất chánh. Nếu chúng ta muốn bảo tồn văn hóa nhân bản mà loại hẳn vấn đề chính trị ra ngoài thì lấy gì làm căn bản cho trận chiến không biên giới ngày nay ?

Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì xin im lặng, đừng lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến, vì thái độ và hành động nầy không khác gì việc nối giáo cho giặc, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.

Xin chân thành cám ơn Quý Vị.

Đinh Lâm Thanh

Sòng Bầu Cua Cá Cọp

Sòng Bầu Cua Cá Cọp "Họp Mặt Dân Chủ Tái Nhóm" tại Pháp 2008

Trương Minh Hòa

Vào cuối tháng 8 năm 2005, nhà "đối kháng lừng danh" là giáo sư Hoàng Minh Chính, nhân một chuyến "QUI MẢ" được sự nhất trí của đảng, nhưng được ngụy trang bằng lý do đi trị chứng bịnh kinh niên "bị thúi dzái" vì sau nhiều năm làm "Kách mệnh, kách miết", do đầu óc quá nhiều "động não" để điều nghiên những kế sách giúp cho đảng bền, chủ nghĩa" Marx Lenin bách chiến, vô địt, ra địt ... muôn năm" nên âm dương đảo lộn mà lâu ngày cái "nhà lão thành của đảng cướp Cộng Sản ngụy danh làm kách miệng "nầy bi" trời ngó lại "mang phải chứng bịnh "thời thượng", giống như khi mà "khí tàng tại não như Khổng Phu Tử "xổm tọa chi bảo"; đúng là "mũi dại thì lái phải chịu đòn", hay "đầu dơ thì dzái thúi".

Cuộc ra đi với lý do "cực kỳ chất lượng "trị bịnh y như kế "thuận thủ thâu dương" trong 36 chước của người Trung Hoa ngày xưa. Muốn được "danh chánh ngôn thuận" thì không gì tốt bằng có được" đầu cầu giao liên, giao liên "đứng ra đón rước, tổ chức, nâng bi, bợ hàng, xách dép ... tiếp đón, dàn giá, dàn cảnh như là một: "nhà cách mạng lão thành" số một trong nước, tức là "hổng có ông Hoàng Minh Chính thì Việt Nam hổng bao giờ có dân chủ", được một số trí ngủ dàn giá từ lâu; nào ngờ, đây là vị "thánh nhân DƯA HẤU" xanh vỏ đỏ lòng, sao vàng cài túi đại cán. Cái đầu cầu giao liên nầy do bác sởi Nguyễn Xuân Ngỡi, một nhân vật từng dùng "khổ nhục kế" trong vụ án "Hercule Hoàng Phi Hổ" trong vở tuồng "phản Trụ đầu Châu" sau khi trở về đất Việt với toan tính giúp đảng và các đấng khoa bảng "tiến sĩ y khoa Cầu Muối" thêm kiến thức, sáng kiến lẫn "tối kiến", nhưng sau đó ông bác sởi tài ba nầy đã bị đảng trục xuất, rồi khi ra tới quê hương tạm dung, trở thành "nhà đối kháng Dân Chủ" mà không cần đấu tranh nhiều; ngày nay đảng Việt Tân cũng có màng" tấn phong chức NHÀ DÂN CHỦ" một cách dễ dàng, tức là bất cứ ai ở hải ngoại, dù trước đó là du kích trà trộn, dân tỵ nạn kinh tế, tỵ nạn gian, về nước du lịch, du dâm, du hý ... muốn trở thành "nhà dân chủ" thì cứ về Việt Nam, nói là của đảng Việt Tân đưa về rải truyền đơn, chống đảng, mang theo cây súng nhựa, dao bằng plastic dẻo ... cũng như ngày nay tại Việt Nam, ai muốn làm tỉnh ủy thì phải chi ra 100 triệu như viên tỉnh ủy ở Cà Mau. Làm nhà dân chủ quá dễ, khỏi cần quá trình đấu tranh, mại vô, mại vô!

Vì muốn thi hành nghị quắc 36 do Phan Diễn ký vào ngày 26-4-2004 mà Cu Hoàng Minh Chính phải" hy sinh làm cách mạng lần nữa "sau khi cút cung tận tụy Bác và đảng, rồi nhận lịnh quan thầy Liên Sô, cùng thiếu tướng Đặng Kim Giang tổ chức đảo chánh hụt vị "cha già dịch Hồ Chí Minh" nên bị cho nằm ấp, nếu không có quan thầy Liên Sô lên tiếng thì cu Chính chắc là đã đi đoàn tụ cùng với Lenin ở thiên đàng mù từ lâu. Khi còn bé, gọi là Cu, như Cu Tý, Cu Tèo .... nhưng lúc "nhớn" thì Cu nặng ký hơn, thế là gọi là Cụ, thật là "duy vật biện chứng pháp". Cụ Hoàng Minh Chính từng tốt nghiệp trường Đại Học Đông Phương, nơi đào tạo Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu, Tito ... làm tới chức: viện trưởng viện nghiên cứ Marx Lenin, là người hết lòng "nguyện tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa man rợ do Karl Marx" đề ra. Cụ Chính nầy từng được đảng cho phép phục hoạt cái đảng Dân Chủ do ông đảng viên Cộng Sản Nguyễn Xiễn thành lập, hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau nầy Cu Chính làm tổng thư ký để chứng minh cho "toàn thế giới" biết là: Việt Nam có tiến bộ về mặt dân chủ, nhân quyền để đảng Cộng Sản nhận được thêm chi viện, lừa được nhiều nước, những người nhẹ dạ và trong đó có cả những người Việt tỵ nạn hải ngoại. Đương nhiên là nhiều cán ngố cao cấp có thêm tiền gởi các ngân hàng do "bọn tư bản phản động" làm chủ, không sợ bị "đánh tư sản hay bị kiểm kê tài sản" nếu có sự thanh trừng phe cánh. Cuộc chuẩn bị khá chu đáo của bác sỡi Nguyễn Xuân Ngỡi và cựu điệp viên "triple Zerro" xịa Nguyễn Nghịch Bốc, với buổi nói chuyện như "một phút tâm tình người Hà Tỉnh" tại trường đại học danh tiếng Harvard ngày 28-9-2005, tức là cụ Hoàng Minh Chính muốn mượn trường đại học số một của Mỹ để mở "sòng bầu cua cá cọp" với công thức: "cuộc họp do một số người khoa bảng, trí ngủ, u mê, tri mớ, trí mộng du ... được định hướng theo xã hội chủ nghĩa", nên nhân đó mà Cụ Chính là công thần của nhà Hồ Chí Chuột đã đưa nhân vật "nhà dân chủ Trần Khuê" lên làm người "chỉ trì" sòng lắc bầu cua lận ở trong nước. Sòng bầu cua cá cọp đầy gian lận của Cụ Hoàng Minh Chính tại Hoa Kỳ, do đầu cầu giao liên "mượn danh tỵ nạn để kết bạn với Cộng Sản" được ngụy trang bằng sân khấu của vở KICH LÓI: "Tiểu Dziên Hồng", mà thành phần có mồi được mời đặt dán bài cuội gồm 3 thành phần, chơi bầu cua cá cọp tại bàn tròn:

    1. Đại Diện đảng Cộng Sản Việt Nam.
    2. Đại Diện trí thức hải ngoại.
    3. Đại Diện trí thức trong nước.
Như vậy thì chỉ có "trí thức" trong, ngoài nước và đảng CSVN mới có quyền "đặt cọc" chơi bầu cua cá cọp, còn nhân dân trong nước gồm hơn 80 triệu, người tỵ nạn hải ngoại hơn 3 triệu ... thì chịu khó "sortir de lait", dịch theo chữ HÁNG cắt nghĩa ĐÙI là "ra ngồi gốc me chờ" để cho ba thành phần "đỉnh cao trí tuệ nòi người, giai cấp tiến bộ, tiên tiến "gồm đảng Cộng Xẻng, khoa bảng hải ngoại và đám tiến sĩ Cầu Muối cũng do đảng "phong quan hàm học vụ", cùng nhau ngồi chơi bầu cua cá cọp trên chiếc bàn tròn, mà phần thắng thua đã có "ĐẢNG NO", và đương nhiên là cụ Hoàng Minh Chính đóng vai trò "chạy hiệu cò mồi" lấy xâu, hát bài ca vọng vổ bù lon: "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa", cầu kết với nhau, bán đứng người Việt tỵ nạn lần nữa. Dân trong nước và hải ngoại chỉ đứng xem những kẻ "đại diện" đánh bầu cua mà "lòng phơi phới một tương lai ... đen tối". Nếu sòng bầu cua nầy được tổ chức thành công, từ "cờ đỏ sao vàng phất phới ngay trong hậu phương người Việt tỵ nạn", chừng đó chỉ có nước đóng thuyền chạy lên Bắc hay Nam cực mà tỵ nạn lần nữa.

Sòng bầu cua cá cọp với 3 thành phần tay chơi "dân chủ cuội" bị dân phản đối mạnh, nên đành phải tạm dẹp sòng, ai về nhà nấy ... nhưng khổ nổi là tay chạy hiệu, cò mồi, dàn giá Hoàng Minh Chính, người đã lỡ nhận công tác "ăn cơm đảng, phản tỉnh giả" không đóng trọn vai tuồng "chàng ngốc bán than" hay là "nước mắt kẻ sang Tần" hoặc vở tuồng khổ nhục kế "Yến Anh "nên khi "phản hồi cố quận" ở Hà Nội sau chuyến đi trị bịnh thúi Dzái, bèn được đảng dàn cảnh lần nữa, cho công an giả dạng dân bất mãn vì cụ tuyên bố chửi đảng (dù được đảng cho phép trước khi đi), họ chọi vào nhà cụ Chính bằng "chai lọ plastic" hổng có nước, rất nguy hiểm, khiến nhà dân chủ cụi nầy có thể lượm đem bán cho các đại lý RECYCLE để có thêm tiền tiếp tục chống đảng nữa; nên dân chúng cho là "hổng chết thằng Tây nào", đó là vở tuồng kịch lói "đất chuyển" đấy... sau khi cụ Hoàng Minh Chính "giã từ gác trọ" mà người ta cho là: "nghĩa tử cũng như nghĩa tận" giống như: "Nghĩa TIỂU như nghĩa TIỆN" hoặc cụ thể và duy vật hơn là: "Nghĩa TÈ cũng như nghĩa ĐÁI", thế là tại nhiều cơ sở phở bò, vịt tiềm ... tổ chức truy điệu, khóc lóc thảm thiết, quí lạy như ông cố nội, họ tỏ ra rất ư là: cực kỳ thương tiếc nhà PHẢN TỈNH CUỘI, NGƯỜI TÙ LƯƠNG "LẸO", là vị thánh DƯA HẤU ...

Sự ra đi của cụ Hoàng Minh Chính là một sự "mất MÁT cũng như mất DAO" lớn cho phong trào phản tỉnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phản tỉnh theo đơn đặt hàng "order" của các đồng chí, đồng Rận ở Hà Lội, nên để tiếp nối truyền thống "lừa đảo" theo gương "chủ địt Hồ Chí Minh dĩ đại", tại hải ngoại lần nữa, một cuộc HỘP MẶT DÂN CHỦ được một số trí thức nữa tổ chức tại Etap Hotel, thành phố Pontault, miền Đông ngoại ô Paris, tái mở sòng bầu cua cá cọp với công thức, mô hình của cụ Hoàng Minh Chính, được tổ chức 3 ngày từ 2 đến 4 tháng 5 năm 2008.

Lần nầy cũng có vài tay chơi cũ, như giáo sư ĐOÀN VÁC HUYỆT, cũng là NGƯỜI TÙ LƯƠNG LẸO, từng du học ở Mỹ trước 1975; sau ngày 30-4-1975 làm việc cho sư Vẹm Thích Minh Châu, cầm cờ đỏ ăn mừng, hồ hởi phấn khởi với Trịnh Công Sơn với: "Nối CÒNG TAY lớn", sau thời gian phục vụ tốt cho đảng, bỗng như "phản tỉnh", ông nầy chỉ chửi đảng ở quán cốc khi ngồi uống cà phê, bị công an "tó", rồi nhờ đám học trò cũ ỡ đại học Vạn Hạnh, Mặt Trận Phở Bò, la lớn ở nước ngoài; sau đó ở tù và được thả đi nước ngoài, nhưng sau nầy "phản phé", khổ nhục kế, tiếp tục trở thành" đỉnh cao trí tệ nòi ... đười", công nhận cả cờ vàng và cờ đỏ "hòa hợp hòa giải". Diễn giả tham dự sòng bầu cua cá cọp có cu hay cụ cựu Đại Sú Bùi Dẽm, dù đã quá tuổi kim khánh 86, già nhất trong số đám chơi bầu cua, ngài từng xưng là Xịa và hay khoe khoang thành tích lấy le, coi như là điệp viên 001 là đàn anh của Jame Bond 0 0 7, đồng nghiệp là điệp viên 0 0 0 Nguyễn Nghịch Bốc ... người trẻ nhất là cô bé lọ chảo Hoàng Nan, mới có 25 xuân xanh mà có một chân chơi bầu cua. Tay chơi Trần Thanh Hiệp, là một đỉnh cao trí tệ nòi người "THINK TANK" nằm trong tổ chức "THÔNG LOẠN" nay là tổ chức "TẠP NHẠP DÂN CHỦ ĐIÊN NGOA", ông nầy với đề tài "đệ tam Cộng-huề" nghe qua cũng rặc mùi "quốc-cộng đề huề" như câu của Hồ Chí Minh trong trận Mậu Thân 1968: "Bắc nam sum hợp một nhà, tết nay sum hợp xuân nào vui hơn". Nhà báo Từ Ngủ (tức là Thức) nói về vận động truyền thông trong vận động dân chủ.

Về "tình huống" Việt Nam có các diễn dỏm: Bùi Tín, Nguyễn Văn Trần, Nguyễn NGHỊCH BỐC, Vũ Thư Hiên, Hoàng Nan; cô nầy là đại diện cho cái gọi là "Tạp hợp thanh niên dân chủ" mà người sáng lập lẫn "tối lập" là sanh viên du học ở Pháp là Nguyễn Tất Trung ... cô Nan thay mặt lực lượng "Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh "để đánh bầu cua với mấy" tiền bối trí ngũ hải ngoại, nhà phản tỉnh dỏm tù nhân lượng LẸO ... sòng bầu cua cá cọp tái nhóm lần nầy cũng hổng khác gì các sòng của cu Hoàng Minh Chính, nhưng đặc biệt có hai cu cựu Xịa là Bùi Dẽm, Nguyễn Nghịch Bốc, hai ông đều là đàn anh của điệp viên Jame Bond "Double.O. Seven" (007) thế mới là lừng danh. Thói thường là các cựu điệp viên sau khi thi hành xong công tác, về Retire, vui thú điền viên, thì hay lặn kỷ, chớ ít ái bô bô cái "mồn to mép giải" để khoe và hù thiên hạ là XỊA ... nếu là điệp viên thứ thiệt, có mấy ai la lớn hay đem cái chuyện BÍ MẬT mà BẬT MÍ để khoe lấy le bao giờ nên hai ông nầy cũng có thể là XÍA chớ nào phải XỊA đâu.

Cuộc hợp mặt DÂN CHỦ kỳ nầy tại Paris vào hạ tuần tháng 5 năm 2008, hổng biết ban tổ chức bày ra sòng bầu cua cá cọp bàn tròn, bàn dài, bàn vuông, bàn méo hay trải chiếu ngồi chồm hởm dưới sàng nhà ... để cho tất cả các tay chơi có dịp thi thố tài năng "đón gió trở cờ", nhưng vải thưa không thể che mắt thánh, dưới kiếng hiển vi, thì con siêu vi trùng "đỏ" nào trốn được, mưu sự tại nhân, thành sự tại DÂN đó mấy tay chơi bầu cua cá cọp lận ơi! Xin nhắc với quí vị tay chơi bầu cua nhé, tay chơi Cẩu Cao Cầy, Phạm Ruy .... đã từng ngồi sòng và bị cháy túi, nên đã bị CHẾT CHÁY, nay bếp than hồng dân tộc cũng đang chờ để "nướng" cả cuộc đời và sự nghiệp của mấy ông giáo sư, cựu điệp viên lừng danh, thầy của Jame Bond ... nếu mấy ông tiếp tục mở sòng bầu cua cá cọp, lạm dụng "cuộc hợp mặt dân chủ" để che đậy việc gian lận bên trong, người Việt Nam trong vài ngoài nước đã khôn lắm rồi, khó gạt được họ nhé!.

Trương Minh Hòa

Tên Hề Chuyên Nghiệp Của Đức Vua

Tên Hề Chuyên Nghiệp Của Đức Vua (Le Bouffon Professionnel de Sa Majesté): BÙI DIỄM

Ls Nguyễn Văn Chức

Trong quyển TERRIBLES TSARINES, văn hào Henry Troyat (Hàn Lâm Viện Pháp) kể truyện những anh hề dưới thời Nữ Hoàng Nga Anna Petrovna. Có anh kẻ lông mày môi son má phấn mặc váy nhảy múa trước mặt nữ hoàng. Có anh mỗi buổi sáng đi bàng đầu gói đến hôn chân nữ hoàng lúc đó chưa thức giấc. Có anh mặc váy di giày cao gót cầm khăn mùi xoa (mouchoir) đỏ ưỡn ẹo khoe mình mới có kinh nguyệt. Tất cả những trò hề đó chỉ nhằm một mục đích: làm cho nữ hoàng cười và ban ân sủng. Anh hề nổi tiếng nhất, làm đẹp lòng nữ hoàng nhất, và được lịch sử nhắc đến nhiều nhất , có tên là Balakirev .

Balakirev làm hề, nhưng không gian manh.

Bùi Diễm thì khác, vừa làm hề vừa gian manh. Tất cả để làm đẹp lòng bọn chó đẻ Việt Cộng cờ đỏ sao vàng.

Hồ sơ của Bùi Diễm dầy cộm Cái gọi là «Bản Khẳng Định Lập Trường» của Người Việt Trên Toàn Cầu Về Hai Quần Đảo Hoàng Sa Và Trường Sa ngày 07 tháng 12 /2007 mới đây thực ra chỉ là giọt nước làm tràn cái ly.

  • Hồ sơ Bùi Diễm còn đó

Ngày 30/6/ 1992, môt Hội Nghị Thế Giới Người Việt Tự Do được tổ chức tại hội trường của đại học George Mason, Fairfax, Virginia. Ban tổ chức và điều hợp có Bùi Diễm, Nguyễn Ngọc Bich, Trân Văn Kiện, Nguyễn Hải Bình, Mary Chi Ray. Hội thảo viên đếm được khoảng 50 người, mỗi người được biếu một tập kỷ yếu của chương trình cuộc hội thảo, trên bìa có in ảnh cờ đỏ sao vàng. Một hội thảo viên đã lên diễn đàn lớn tiềng hỏi: «Tại sao lại in hình cở đỏ sao vàng». Bọn Bùi Diễm trả lời: «Chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này» . Một hôi thảo viên khác kêu gọi hội thảo viên xé ngay tập kỷ yếu ấy đi . Và các hội viên đã xé tập kỷ yếu .

Ngày 22 tháng 3/2001 Bùi Diễm đánh phá sự phục hồi của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Kẻ giúp Bùi Diễm đánh phá, là Nguyễn Ngọc Bích.

Ngày 12 & 13 tháng 11/2004, Hans Stockton - giáo sư trường đại học ST. Thomas ờ Houston - tổ chức một cuộc hội thảo về những triẻn vọng của Việr Nam hiện nay (Looking Ahead To Vietnam's Future And Global Integration). Diẽn giả là một bọn lưu manh dôt nát, (Bùi Tin, Nguyễn Quốc Khai, Lê Xuân Khoa, Nguyễn Xuân Phong, Ong Thuy Ngoc, Nông duy Trường). Người ta lại thấy Bùi Diễm.

Ngày 11 tháng 12/2004, Cộng Đồng Người Viêt Tỵ Nạn tại Frankfurt (Đức Quốc) tổ chức hội thảo về «Chính sách đối ngoại của Mỹ trong nhiệm kỳ 2 của TT Bush ». Bùi Diễm được mời đến diễn thuyết. Bùi Diễm đòi hội trường không được treo lá cờ vàng ba sọc của Người Quốc Gia.

Ngày 9, 10, 11, 12 tháng 9/2005, Hoàng Minh Chính được Việt Cộng cho «sang Mỹ chữa bệnh ». Môt cuộc Họp Mặt Dân Chủ đã diễn ra tại Pali Mountain Retreat & Conference Center, California. Có Nguyễn Ngọc Bích, Bùi Tín, và mấy tên tay sai vô liêm sỉ của Việt Công. Người ta lại thấy Bùi Diễm.

Ngày 1 tháng 11/2005, Nghi Hội Toàn Quốc Nguời Việt Tại Hoa Kỳ (National Congress of Vietnamese Americans) nhóm họp tại khách sạn Double Tree gần phi trường San Jose để tiễn đưa Hoàng Minh Chính trở về VN. Người ta lại thấy Bùi Diễm.

Xin lỗi bạn đọc, tôi xin phép ngừng ở đây. Những hành động gian manh trở cờ của Bùi Diễm còn nhiều lắm, nhiều hơn những đống cứt chó ở quê nhà.

Tôi không trách Bùi Diễm gian. Tôi trách Bùi Diễm dốt. Tất cả những bài viết chính trĩ -và bài nó i-của Bùi Diễm tại hải ngoại chỉ là cỏ rác , so với những bài viết của Trần Thanh Hiệp, Nguyễn xuân Nghĩa, Nguyễn Gia Kiểng .

Người chủ dốt nát và làm trò hề, thì tên đầy tớ cũng dốt nát và làm trò hề. Tôi muốn nói : Nguyễn Ngọc Bích.

Ls Nguyễn Văn Chức

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/get_together_for_democracy_2008_in_%20Paris_Part2-05162008192119.html

Thơ gởi người bạn công nhân trong nước


Anh Nhân thân mến!

Nhận được thư anh lòng tôi vui buồn lẫn lộn. Vui vì, như một phép lạ, cho tới giờ này anh vẫn còn sống! Vui vì, dù đang sống trong gông cùm của cộng sản nhưng anh vẫn nuôi ý chí "phục quốc", mong chờ một ngày mai tươi sáng. Và tôi buồn vì lá thơ anh gởi cho tôi chỉ viết nguệch ngoạc đúng ba trang giấy, vậy mà anh cho biết phải mất đúng ba tuần lễ mới viết xong! Anh cho biết hiện nay anh chỉ còn là một cái xác chết đang còn biết thở! Đại khái mỗi ngày anh phải làm việc 12 tiếng, cộng thêm 5 tiếng đi xe buýt tuyến đường Sài Gòn-Thủ Đức thành ra 17 tiếng. Lết được về nhà là anh nằm lăn quay ra ngủ như chết để sáng mai đi cày tiếp. Một tuần anh phải làm việc 6 ngày, thứ bảy phải làm việc nhưng không được hãng trả lương phụ trội! Chỉ còn một ngày nghỉ duy nhất là chủ nhật thì anh bận đủ thứ công việc nhà, cho nên lá thơ viết cho tôi phải mất ba tuần lễ mới xong!

Tính ra một tuần anh phải làm việc 72 giờ, một tháng chỉ lãnh được có 80 đô la thì làm sao sống nổi trong thời đại mọi vật giá đều đang leo thang vùn vụt? Nhất là trong mấy tuần lễ vừa rồi giá gạo tăng gấp đôi, kéo theo mọi thứ khác đều tăng theo. Coi như anh bị mất trắng phân nửa tiền lương! Anh nói dầu sao lương 80 đô một tháng, tính bình quân một giờ là 1 đô la mười xu, như vậy so với các hãng của nhà nước, lương vẫn còn "cao"! Theo anh kể: thằng chủ hãng này là người Mã Lai theo đạo Hồi. Nó thường giở giọng "nhân đức" là nó cho công nhân làm thêm ngày thứ bảy (không trả tiền phụ trội!!!) để có thêm thu nhập! Mấy thằng cai trong hãng này đều là người Mã nói tiếng việt rất rành. Hỏi ra mới biết trước đây tụi nó đã từng làm cảnh sát trong mấy trại tỵ nạn ở Mã Lai, có thằng lấy vợ người Việt. Mấy thằng cai trong hãng mỗi khi muốn ra oai, đều chửi bới công nhân bằng tiếng Việt! Tất cả những vốn liếng tiếng Việt mà tụi nó học được trong thời gian làm việc tại các trại tỵ nạn Pulau Bidong, Sungei Besi ở Mã Lai bây giờ có dịp được đem ra áp dụng!

Anh Nhân!

Nói xin lỗi anh, mấy cái thằng Mã Lai này hồi trước năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa mình gọi tụi nó là đồ "MỌI" đó. Tụi nó thua kém mình về mọi mặt. Vậy mà bây giờ nó qua đất nước mình, nó làm cha, nó lớn lối, nó đè đầu cưỡi cổ mình! Mấy thằng Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan cũng vậy. Tôi đọc báo nghe nói mấy con mẹ đốc công Đại Hàn dám cởi giày ra đập lên đầu nữ công nhân của mình vì nghi ngờ họ ăn cắp hàng! Rồi tụi nó còn dám rượt đánh những nam công nhân người mình! Tụi đốc công Đài Loan thì dám bắt phạt công nhân mình .... quỳ ngoài nắng! Đối với những công nhân nữ thì tụi nó bắt vào phòng, lột hết quần áo, cởi truồng, để tụi nó khám xem có dấu đồ ăn cắp không! Đó chỉ là cái cớ thôi chớ tụi nó bày trò này ra nhằm mục đích làm nhục người mình, hoặc để coi phim sex miễn phí!!!

Khi đọc báo, hay những tin như vậy, tôi tức sôi gan. Hồi trước năm 1975, tôi là dân nhà binh. Tôi đã từng đi hành quân chung với tụi Đại Hàn, tụi nó sợ tụi tôi thấy mẹ. Thằng nào láng cháng là tụi tôi dộng liền, đánh không đẹp không ăn tiền. Tụi nó thằng nào cũng có võ Tai Koon Đô nhưng đối với võ Vô Vi Nam của mình thì đâu nhằm nhò gì! Còn mấy thằng lính Thái Lan thuộc sư đoàn Mãng Xà Vương thấy sắc lính của tụi tôi là biết gặp thứ dữ rồi, không có thằng nào dám cà chớn. Tụi nó nhiều thằng có võ bùa nhưng đối võ Bình Định của mình là đồ bỏ! Tôi cũng đã từng tiếp xúc với mấy thằng kỹ sư canh nông người Đài Loan sang giúp Việt Nam Cộng Hòa. Tụi này gặp tôi lễ phép, lịch sự lắm, chớ đâu có dám bắt tôi .... quỳ ở ngoài nắng đâu anh!

Nhiều lúc nghĩ đến hoàn cảnh của anh và nhiều người thân khác của tôi đang sống ở Việt Nam mà tôi thấy thương cho họ. Tất cả những điều nhục nhã, đau đớn nêu trên đều xuất phát từ một nguyên nhân: BỌN CHÓ ĐẺ VIỆT GIAN CỘNG SẢN NÓ ĐANG CAI TRỊ ĐẤT NƯỚC CHÚNG TA và BẮT TOÀN DÂN TA PHẢI LÀM NÔ LỆ! Những người dân ở trong nước không phải là công dân đâu anh ơi. Họ là những nô lệ rất đúng nghĩa. Làm nô lệ cho bọn cướp việt gian cộng sản và làm nô lệ cho ngoại bang, gồm đủ thứ các nước trên thế giới!

Bọn việt cộng thường rêu rao rằng giai cấp CÔNG-NÔNG là giai cấp tiên phong của cách mạng nhưng thật ra ngày hôm nay chính hai giai cấp này là giai cấp bị bóc lột nhiều nhất! Họ bị bóc lột tới mức nghèo phải đi bán máu, bán bào thai, con cái nuôi lớn chừng bốn năm tuổi cũng phải rứt ruột đem bán để làm NHI DÂM! Hàng trăm ngàn cô gái đã bị đem bán khắp nơi trên thế giới, một số "kết hôn" với mấy thằng già, đui, què, mẻ, sứt người Đài Loan, Đại Hàn, theo "chồng" sang bên đó để làm nô lệ tình dục hoặc đi làm đĩ trong các hộp đêm sang trọng! Một số người nghèo phải đi sang Trung Cộng để bán thận, bán mắt, bán gan. Mới đây, có một anh sinh viên trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật công nghiệp ở Sài Gòn đã bị bọn chó đẻ nó lừa sang Trung Cộng, cắt béng đi một quả thận để ghép cho thằng chó đẻ cán bộ đảng viên, phó giám đốc sở Nội vụ thành Hồ. Bọn cò trung gian hứa trả cho anh này 100 triệu tiền Hồ nhưng cuối cùng bọn chúng đã quỵt! Anh sinh viên này tên là Tô Công Luân còn thằng cán bộ tên là Nguyễn Tấn Tài. Anh Luân lết được tấm thân tàn ma dại về đến Sài Gòn nằm chờ chết!

Còn đời sống của bọn cán bộ đảng viên việt gian cộng sản thì như thế nào? Anh ở bên đó chắc cũng biết rồi. Tụi nó đang sống trên những núi đô la, kim cương và vàng bạc. Tụi nó giàu hơn cả những triệu phú người Mỹ chính cống. Cô ca sĩ nổi tiếng, vua nhạc Pop của Mỹ là Britney Spears là triệu phú, tài sản có hơn 100 triệu đô la. Muốn có một tài sản như vậy, cô ta phải làm việc cật lực, có những buổi phải tập dợt múa hát hết 14 tiếng đồng hồ! Còn những thằng chó đẻ, đầu gấu việt cộng ở Việt Nam thì bọn chúng không làm gì hết, hoàn toàn chỉ là những kẻ ăn bám mà những tên có tài sản trên một trăm triệu lên đến khoảng 300 thằng, nhiều thằng có bạc tỷ đô la!

Mới đây thằng việt cộng Đoàn Nguyên Đức ở Gia Lai Kom Tum đã dám bỏ ra BẢY TRIỆU ĐÔ LA để mua một chiếc máy bay riêng, đó là chưa kể tiền thuế nhập cảng trên 100%! Tên nữ việt gian Bạch Diệp dám mua một chiếc xe Roll-Royce trị giá 1,4 triệu đô la! Thằng bí thư thị xã Bà Rịa Vũng Tàu, Nguyễn Trọng Minh xây một căn biệt thự khổng lồ trên một miếng đất rộng 4 hectare, trong đó có cả một sở thú nuôi heo rừng! Thằng Nguyễn Văn Quỳnh, phó ban tổ chức trung ương đảng đã xây một biệt thự khổng lồ ở tỉnh Quảng Ninh mà cỡ như thống đốc một tiểu bang ở Mỹ cũng chưa chắc gì có được một biệt thự như vậy!!! Đây chỉ là những thằng cán bộ cắc ké mà tài sản nổi của tụi nó còn khủng khiếp đến như vậy, còn mấy thằng đầu gấu, cấp bậc lớn hơn thì quy mô ăn cắp, ăn cướp của tụi nó phải lớn tới cỡ nào?

Tất cả tài sản của tụi nó đều bòn rút từ tài nguyên của đất nước và từ xương máu của 80 triệu dân nô lệ. Tài sản ăn cướp được, bọn chúng chuyển hết ra nước ngoài, làm giàu cho nước ngoài, đất nước ta ngày càng trở nên khô cạn, những người dân đen chỉ còn là những bộ xương khô!

Anh Nhân thân mến!

Trong lá thơ trước, anh có nói me mé nhưng tôi hiểu liền ý của anh muốn nói gì. Trong lá thơ này tôi nói thẳng thừng luôn, không cần phải úp mở che dấu gì: PHẢI LÀM CÁCH MẠNG LẬT ĐỔ BỌN CHÓ ĐẺ ĂN CƯỚP VIỆT GIAN CỘNG SẢN!

Hoàn cảnh đất nước của ta không hoàn toàn giống như nước Pháp hồi thế kỷ thứ 18 nhưng tôi vẫn thấy có một vài sự tương đồng. Sở dĩ có cuộc cách mạng năm 1789 xóa bỏ chế độ phong kiến ở Pháp là vì lúc đó nước Pháp dưới sự cai trị của vua Louis 16 bị thiếu nợ ngập đầu. Trong nước xảy ra nạn đói khắp nơi. Người dân phẫn uất, nổi loạn, phá ngục Bastille, vua Louis bị chém đầu ...

Khi đề cập đến việc làm cách mạng lật đổ bạo quyền, một số bạn công nhân nêu thắc mắc: - việt cộng nó có hàng tỷ đô la, có ba triệu công an bộ đội kềm kẹp, còn mình thì chỉ có hai bàn tay không thì làm sao chống lại nó?

Xin thưa: - Thấy như vậy mà không phải vậy. Bề ngoài của việt cộng rất là hùng hổ, có ba triệu khẩu súng AK, cùng nhiều thứ vũ khí khác nhưng trên đời này không có gì mạnh bằng SỨC MẠNH CỦA TOÀN DÂN. Lịch sử của Việt Nam và thế giới đã chứng minh điều này. Sức mạnh của toàn dân ví như nước. Mới thoạt nhìn, ai cũng thấy nước rất là "mềm yếu", làm sao có thể sánh bằng những ngọn lửa, những núi đá ..v..v.. Nhưng thật sự nước có thể dập tắt lửa và những ngọn sóng thần có thể cuốn trôi đi cả thành phố, cũng như nước có thể làm sói mòn cả một ngọn núi làm cho núi bị sạt lở. Nhiều dòng suối làm thành những con sông, nhiều con sông sẽ làm thành biển lớn và sóng thần. Và những ngọn sóng thần sẽ quật đổ chế độ hung tàn bạo ngược của bọn cộng sản!

Như vậy vũ khí quan trọng nhất của toàn dân là gì?

Đó là vũ khí ĐÌNH CÔNG và LÃNG CÔNG. Thử tưởng tượng nếu toàn bộ lực lượng CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN và CÔNG NHÂN VIÊN, khoảng MƯỜI TRIỆU NGƯỜI cùng đoàn kết và đồng lòng đình công, lãng công trên toàn quốc trong vòng một tháng thì chắc chắn chế độ cộng sản sẽ phải sụp đổ. Khi công nhân đình công, rất nhiều hợp đồng với các đối tác nước ngoài sẽ bị trễ hạn, số tiền bị phạt có thể lên đến hàng tỷ đô la! Nông dân đình công thì cái bao tử của toàn dân trong nước sẽ bị đói. Dân bị đói, họ sẽ nổi loạn như những vụ phá kho thóc hồi năm 1945, năm đói Ất Dậu. Công nhân viên chức đình công thì rất nhiều ngành bị ảnh hưởng: -giao thông, ngân hàng, giáo dục, y tế, truyền thông, điện, nước, đổ rác ..v..v.. Thử tưởng tượng trong một thành phố mà bị cúp điện, cúp nước, không đổ rác trong ba ngày thì sẽ ra sao? Mùi hôi thúi sẽ bay lên thấu trời xanh, bọn đầu gấu trong bộ chính trị sẽ bị chết ngợp!!!

Vấn đề là làm sao các khối thuốc nổ phải liên kết lại và nổ CÙNG MỘT LÚC. Nếu nổ lẻ tẻ sẽ không gây được sức mạnh và sẽ bị việt cộng dập tắt. Trong vài năm qua đã có hàng trăm cuộc đình công xảy ra trong toàn quốc nhưng không đồng loạt nên đã bị dẹp. Phải có những người đứng ra tổ chức, móc nối. Vũ khí lợi hại mà các bạn có thể dùng để tổ chức mạng lưới đình công trên toàn quốc, đó là điện thoại di động và internet. Việt cộng không thể nào kiểm soát được hết. Yểm trợ cho các bạn là những lực lượng đấu tranh ở hải ngoại. Nếu những người cầm đầu ở trong nước bị bắt thì lực lượng đấu tranh ở hải ngoại có thể được xem như những ngọn hải đăng để tiếp tục dẫn đường cho công cuộc đấu tranh, chặt phá gông xiềng, giải phóng toàn dân khỏi ách nô lệ.

Nói tóm lại, bằng phương pháp ĐÌNH CÔNG, toàn dân có thể quật đổ chế độ hung tàn bạo ngược của bọn cộng sản. Không cần phải dùng phương pháp quân sự, mua vũ khí, súng đạn, tổ chức quân kháng chiến. Phương pháp đình công có thể tiết kiệm được rất nhiều xương máu cho toàn dân và có thể đem lại kết quả như mong muốn.

Đó chính là lý do vì sao tôi khuyến khích các bạn công nhân nên có điện thoại cầm tay và nên làm quen với internet. Xin các bạn hãy mạnh dạn hành động. Give me liberty or give me death! Một danh nhân nào nói câu này thật đáng khâm phục. Trước sau gì cũng chết, hiện nay các bạn còn sống mà coi như là đã chết bởi vì cuộc sống của các bạn rất vô ý nghĩa, sống mà không được thấy ánh sáng mặt trời thì sống làm gì!

Xin các bạn đừng nghe theo những lời ru ngủ của bọn tay sai cộng sản, ru ngủ các bạn bằng những luận điệu "rộng lượng, tha thứ" Đã hơn 60 năm nay, bọn việt gian cộng sản có "rộng lượng, tha thứ" cho ai đâu, thậm chí bọn chúng còn giết lầm còn hơn bỏ sót! Giết người thì phải đền mạng. Ở bên Mỹ này, nếu một người mà lỡ tay đánh chết một con chó là có thể bị đi tù hoặc bị phạt rất nặng! Còn nếu phạm tội GIẾT NGƯỜI, dù chỉ là một người, thì chắc chắn là bị chung thân khổ sai hoặc lên ghế điện! Trong khi đó, nếu tính từ năm 1945 đến nay, năm 2008, thì bọn việt gian cộng sản đã làm chết KHOẢNG MƯỜI TRIỆU NGƯỜI trên toàn quốc! Đó là chưa kể những thiệt hại về vật chất và tinh thần, không có gì có thể bù đắp được! Những tên tội phạm dầu có bị treo cổ hàng ngàn lần cũng chưa xứng với những tội ác mà bọn chúng đã gây ra!!!

Hiện nay bọn việt cộng và những tên bưng bô đang tung ra luận điệu "hãy chờ ông Goóc Ba Chớp". Đây là thủ đoạn câu giờ của bọn việt gian cộng sản. Không ai có thể cứu được các bạn hết, ngoại trừ chính các bạn, xin các bạn nhớ giùm quy luật này. Nếu các bạn KHÁT NƯỚC THÌ CHÍNH CÁC BẠN PHẢI ĐI TÌM NƯỚC UỐNG ĐỂ GIẢI KHÁT CHỚ KHÔNG CÓ AI CÓ THỂ UỐNG GIÙM CÁC BẠN!

Chúng tôi ở hải ngoại có thể yểm trợ bằng cách cung cấp "nước uống" cho các bạn nhưng chính các bạn phải là những người uống nước. Hay nói cho rõ hơn, chính các bạn phải đồng lòng đứng lên để chặt phá gông xiềng, tiêu diệt loài quỷ đỏ. Tổ quốc sẽ đời đời ghi ơn các bạn!

Cuối thư, tôi nhận được tin anh Nguyễn Tấn Hoành vừa được phóng thích. Anh Hoành trước đây là chủ tịch Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam và cũng là một thành viên của Giáo hạt Tin Lành Mennonite tại Sài Gòn. Anh bị bắt hồi tháng 11 năm 2006, bị công an đánh đập rất dã man trong trại giam. Hiện nay tình trạng sức khỏe của anh rất suy yếu. Mong là chúng ta cùng làm hết sức mình để giúp đỡ anh sớm bình phục, để tiếp tục trở lại con đường đấu tranh cho tự do, diệt loài quỷ đỏ. Người đấu tranh thật sự là anh Nguyễn Tấn Hoành thì bị đi tù, bị công an đánh gần chết, trong khi đó "nhà dân chủ" Nguyễn Khắc Toàn, kẻ tự xưng là chủ tịch liên đoàn công nhân trong nước thì lại đang sống nhởn nhơ tại Hà Nội, ngày ngày đi nhậu thịt chó! Từ ngày làm chủ tịt công đoàn, chưa bao giờ người ta thấy ông Toàn đứng lên bênh vực, tranh đấu cho quyền lợi của những người công nhân trong nước. Đáng lẽ ông ta phải có mặt trong những cuộc đình công của công nhân tại các hãng xưởng ở nhiều tỉnh trong nước, dám xả thân cùng với những người đấu tranh, dám hiên ngang đối đầu với bọn đầu gấu công an và chửi thẳng vào mặt những tên chó má lãnh đạo cao nhất của bọn cộng sản. Đáng lẽ ông ta phải là như thế. Nhưng ông đã biến mất, không hề có mặt trong những cuộc đình công của công nhân. Cái bụng của ông ta ngày càng bự ra, phệ ra vì uống bia và nhậu thịt chó. Và oái oăm thay, tên của ông lại có trong danh sách "những nhà đấu tranh dân chủ", đang nằm trong tay những nhà lập pháp và hành pháp của Mỹ!!! Những thằng điếu đóm lưu manh chính trị như vậy đang chờ được việt cộng cho đóng thùng "xuất cảng" qua Mỹ, để rồi bọn chúng lại làm giống như ông "thánh dưa hấu" đi một vòng nước Mỹ, thuyết giảng về "tha thứ", về "hòa hợp hòa giải" cho những người đần độn tỵ nạn nghe!!!

Hồi trước năm 1975, tôi có xem phim "Anh hùng nô lệ" (Spartacus) do tài tử Kirk Douglas đóng vai chính. Người lãnh tụ của cuộc nổi dậy, lãnh đạo những người nô lệ chống lại giới chủ nô La Mã là anh chàng trẻ tuổi, gan dạ, tên là Spartacus. Trong phim, khi bị kẻ thù chất vấn "thằng nào cầm đầu?", mọi người nô lệ đều đứng dậy, hiên ngang tự xưng: "chính tao là Spartacus đây!" Chỉ khi nào mỗi một công nhân trong nước ý thức rõ mình là một Spartacus thì khi đó mới có thể lạc quan mà nói chúng ta đã nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Các bạn sống phải được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, phải được ĂN PHỞ THẬT SỰ CHỚ KHÔNG PHẢI NGỦ MƠ ĐƯỢC ĂN PHỞ, và các bạn không phải sống để làm một tên nô lệ giác đấu, đâm chém nhau cho đến chết để làm trò mua vui cho những tên đầu gấu việt cộng đang nắm quyền cai trị. Những lưỡi gươm của các bạn, thay vì đâm vào cổ của bạn mình thì hãy đâm vào cổ của kẻ thù, đó là bọn việt gian cộng sản ở trong nước, từ thằng nhỏ nhất cho đến thằng lớn nhất, từ thằng công an khu vực cho đến những thằng như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Hồng Anh, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang ..v..v.. trong bộ chính trị. Những thằng này đang hàng ngày tự bồi dưỡng bọn chúng bằng cách bú sữa tươi nơi các cô gái trẻ đẹp, trong khi đó con cái của các bạn không có sữa mà bú! Xem ra những CHỊ DẬU dưới sự cai trị của bọn việt gian cộng sản còn nhiều gấp ngàn vạn lần những chị Dậu trong thời Pháp thuộc!!!

Thân chào anh, hẹn tái ngộ trong thư sau.

Bạn của anh,
Trần Thanh
Ngày 15 tháng 5 năm 2008

Friday, May 16, 2008

Phạm Duy, Ông Là Ai?

Tâm bút: Trần Thị Bông Giấy

I. Mối giao thiệp giữa giáo sư Lê Hữu Mục và tôi tuy chỉ ngắn ngủi qua một lần gặp nhau chớp nhoáng tháng 1/1996 tại Santa Ana và các cuộc trò chuyện viễn liên California & Montréal, nhưng tình thân bác cháu, hơn nữa, một bậc tiền bối và một hàng đàn em, có thể gọi là đáng nhớ. Ông hay cho tôi những lời khuyên hữu ích về cuộc sống, về văn chương, và ngay cả những lời chân tình về nỗi đau khổ riêng trong đời sống tôi. Ông là một trong rất ít người thuộc văn giới hải ngoại đã tạo được nơi tôi lòng kính trọng thật sự. Khi biết ra ông là bạn thân vị giáo sư violon tôi theo học từ bé cho đến khi tốt nghiệp trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn, thầy Tạ Văn Toàn, tình cảm quý nói trên càng thêm mạnh mẽ.

Một sáng tháng 1/1997, tôi gọi qua Montréal thăm ông. Vẫn giọng nói vui vẻ của lần đầu gặp gỡ tại Santa Ana, ông hỏi han rất ân cần về tình hình tờ Văn Uyển, và cả đời sống tôi. Khi nhận biết từ tôi một vài dấu nét chán nản nào đó, ông an ủi: - "Dẫu gì, Bông Giấy cũng đừng bao giờ nên để mất niềm tin về cuộc đời. Sức mạnh chính là nằm ngay trong niềm tin ấy. Đánh mất niềm tin có nghĩa tự mình hủy diệt. Với Bông Giấy, bác luôn nghĩ Bông Giấy là người có được cái sức mạnh vừa kể."

Đây là lời nói đầy chia xẻ của một người cha. Tôi cảm ơn ông.

Trong câu chuyện, ông cho biết là vừa ở Cali về: - "Bác chờ dịp lên San Jose thăm Bông Giấy mà mãi chẳng có. Phải ở lì Santa Ana. Rốt cuộc tới ngày về, cứ tiếc mãi."

Tôi nói qua điện thoại: - "Lúc này cháu tu bác ạ. Đóng cửa đọc sách, không giao tiếp thiên hạ. Nhân tình thế thái làm cháu chán ngán. Bác qua Santa Ana thấy có gì vui?"

Ông đáp: - "Vui thì vui nhưng cũng lắm chuyện kỳ cục."

"Cali là đất luôn nảy ra những điều kỳ cục", tôi đồng ý.

"Nhưng theo bác, kỳ cục thế nào?"

Giọng ông sôi nổi: - "Kỳ cục nhất là các câu tuyên bố của ông Phạm Duy."

Tôi cười:- "Tưởng ai, té ra ông Phạm Duy! Ông ấy vốn ăn nói bậy bạ từ khuya, cả nước đều biết!"

Ông Lê Hữu Mục la to: - "Lần này khác. Trong một buổi gặp nhau tại nhà ông ấy có mặt bác, ông Cao Tiêu, Đại tá Chiến Tranh Chính Trị và ông Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hoạch, giáo sư khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sàigòn thời cũ, Phạm Duy đã nói lên những điều vô cùng kỳ cục. Ví dụ ông ấy bảo: "Chúng nó sao cứ thích nhạc của tôi mà không biết rằng các ca khúc trước kia, tôi đều chỉ sáng tác trong chuồng xí! Bây giờ tôi làm nhạc opéra, sang hơn nhiều. Opéra của tôi mà về Việt Nam thì tôi có tới 8 Ái Vân hát chứ không phải một Ái Vân như ở hải ngoại. Chỉ Việt Nam mới có nền nhạc chân chính, còn nhạc hải ngoại chỉ là nhạc tào lao'!"

Tôi kêu lên: - "Qua tư cách bác và cả 'tư cách' ông Phạm Duy, cháu tin lời bác là thật. Ông ta là một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam, cháu khó thể nghĩ được lối nói ông ta lại hồ đồ như vậy."

Ông Lê Hữu Mục tiếp: - "Một câu khác: 'Người ta cứ bảo tôi chống Cộng nhưng thật thì tôi chống gậy!'"

Nói xong, ông Lê Hữu Mục cười to.

Tôi nhớ nhanh ba chữ "tên dâm tặc" một lần Nguyễn Tất Nhiên đã dùng khi nhắc đến Phạm Duy trước mặt tôi và Trần Nghi Hoàng. Tôi cũng nhớ đến câu của Mai Thảo bình về Phạm Duy trước một số đông người tại nhà Như Hảo: 'Phạm Duy già như thế còn làm được cái chuyện ấy thì nó không phải người, mà chính là quỷ!'"

[Đầu tháng 9/1995, trong một buổi tiệc tại nhà tôi, có mặt Văn Thanh và vợ chồng Như Hảo, khi nói về cuốn Một Truyện Dài Không Có Tên, Văn Thanh nhận định: "Trong đêm Hai Mươi Nam Văn Học Hải Ngoại do Du Tử Lê tổ chức tại Santa Ana, tôi gặp gần 150 văn nghệ sĩ nhưng nhận xét rằng chẳng ai có được cái Dũng của Bông Giấy trong ngòi viết, kể cả tôi nữa. Này nhé, bây giờ nói cụ thể về buổi họp mặt tại nhà chị Như Hảo, ông Mai Thảo nói cũng hay và ông Phạm Duy nói cũng hay, bao nhiêu người đều nghe rõ. Vậy mà khi tôi tươm lên báo những gì hai ông ấy nói thì ông Phạm Duy nhảy chồm chồm lên, đe là sẽ cho cái tụi đàn em nó đánh tôi. Rồi ông ấy gọi cho chị Như Hảo bảo không được đăng bài viết của tôi trên báo chị. Ông nói thẳng rằng không muốn có tên Mai Thảo đứng chung với tên ông ấy. Phạm Duy là một nghệ sĩ lớn mà tâm địa hẹp hòi quá! Tôi ca ngợi Phạm Duy thì phải để cho cuộc đời ca ngợi Mai Thảo, sao lại đòi đập tôi?"

Và Văn Thanh kể:- "Hôm đó, tôi định tổ chức ra mắt cuốn Gái Hà Nội Khóc Ai, có mời cánh Mai Thảo & Du Tử Lê và cánh Phạm Duy lên San Jose. Thì cả hai cánh, trừ Du Tử Lê, đều có mặt, luôn cả Khánh Trường các thứ. Cuộc tổ chức không thành, cả bọn kéo nhau đến nhà Như Hảo chơi. Tôi ngồi giữa Mai Thảo và Phạm Duy, nhưng không rõ chút gì chuyện hai người này rất ghét nhau. Mai Thảo biết tôi là dân miền Bắc nên hỏi thăm tôi về các văn nghệ sĩ miền Bắc, lại bảo rằng rất thân với Hữu Loan. Phạm Duy mới kêu tôi ra riêng mà nói: 'Cái thằng Mai Thảo thì biết chó gì. Chỉ có tôi mới là thân với anh em ngoài ấy.'

Xong, Phạm Duy tiếp: "Này, tôi bảo cho chú nghe, một người nếu không có tài thì đừng nên làm nghệ sĩ để mà phải đi xin. Như tôi đây, cả đời tôi sống bằng tiền tôi làm ra. Cho đến bây giờ tôi vẫn sống bằng nhạc của tôi chứ không đi xin của ai để mà sống hết. Bây giờ về Việt Nam bảo Văn Cao, Hoàng Cầm lên sân khấu hát xem có ai thèm đi nghe không? Nhưng tôi về hát, vẫn có nhiều người đến dự. Như vậy chứng tỏ tôi được nhân dân yêu vì tôi có tài."

Khi ấy tôi đâu hiểu câu nói của Phạm Duy là muốn ám chỉ Mai Thảo, lại cứ tưởng ông ấy mắng mỏ mình. Ừ thì thôi mình là đàn em, các ông ấy đàn anh, có mắng cũng được đi. Nào dè sau mới hiểu. Khi Như Hảo kể cho Mai Thảo nghe chuyện đài Mẹ Việt Nam của chị phải bị dẹp tiệm vì sở hụi chi ra quá nặng, Mai Thảo nói câu nghe rất cảm động: "Ở đời này không có tiền thì không làm gì được."

Lúc Mai Thảo đã ra về, anh em còn ngồi lại với nhau. Nguyễn Bá Trạc mới bảo Phạm Duy: "Nãy giờ anh tra tấn anh em nhiều rồi (ông ấy bắt anh em xem cuốn hồi ký của ông ấy đến hai tiếng đồng hồ) thì bây giờ anh em bề hội đồng lại anh. Tôi đề nghị mỗi người có quyền hỏi anh vài câu, anh đồng ý chứ?"

Phạm Duy đồng ý. Nguyễn Bá Trạc xin hỏi trước hai câu. Câu 1/: "Anh luôn luôn hô hào dân chủ. Mấy chục năm nay anh bắt anh em yêu anh nhiều quá, giờ vẫn muốn anh em yêu anh. Vậy thì anh là độc tài hay dân chủ?"

Phạm Duy trả lời câu rất hay: "Bây giờ các anh bảo Đỗ Mười yêu tôi xem nó có yêu không?"

Câu hai của Trạc: "Lúc nãy, trước khi Mai Thảo ra về, tôi có nghe ông ấy nói: Phạm Duy già như thế còn làm được cái chuyện ấy thì nó không phải người, mà chính là quỷ! Anh nghĩ sao về câu nói đó?"

Phạm Duy đáp: "Có những điều tôi làm được mà Mai Thảo không làm được. Một trong những điều là chuyện cái ấy ấy."

Khánh Trường đang ngồi cạnh Lê Thị Thấm Vân, la to: "Anh Phạm Duy bảo làm cái ấy ấy là cái gì vậy?"

Phạm Duy đáp tỉnh bơ: "Muốn biết thì về hỏi bà xã tôi, bả trả lời cho mà nghe!"

Sau đó, tôi viết bài ký sự về buổi này. Như Hảo đọc, tâu bẩm sao với Phạm Duy, ổng bèn bắt tôi fax xuống miền Nam Cali cho ông ấy đọc ngay. Đọc xong, ổng fax ngược lên cho tôi một bài dài 9 trang, trong ấy cắt đi gần trọn các đoạn nói về Mai Thảo. Nghĩa là Phạm Duy không muốn cho tên Mai Thảo đứng cạnh tên ông ấy. Tôi vẫn đăng, cứ để tên Mai Thảo có mặt trong buổi đó, chỉ bỏ những đoạn Mai Thảo nói mà Phạm Duy buộc phải cắt đi. Bài tung ra, Phạm Duy giận lắm, gọi xuống tôi đe dọa: "Tao bảo cho mày biết, không phải chỉ mỗi mày mới là người cầm cây viết. Mày mà xuống Santa Ana, tao sẽ cho tụi đàn em chúng nó đánh mày nát xương!"]

Bấy giờ, tôi hiểu ra chữ "chống gậy" của Phạm Duy và cái cười to của ông Lê Hữu Mục qua điện thoại.

Lại nghe ông tiếp: - "Tuy nhiên, một câu nữa của Phạm Duy làm bác phẫn nộ hơn cả: "Tôi không đồng ý với anh về chuyện anh viết Ngục Trung Nhật Ký chống Hồ Chí Minh. Nếu bây giờ tôi về Việt Nam mà Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la, bảo tôi ca tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình."

Ông Lê Hữu Mục thở ra: - "Hôm sau, anh Cao Tiêu mời bác và một số anh em gồm anh Nguyễn Sỹ Tế, anh Lê Văn Khoa (khoa trưởng trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn), chú Lê Ngọc Linh (em của bác, Trung tá Chiến Tranh Chính Trị), đến dùng cơm ở quán Nguyễn Huệ. Ông cũng điện thoại mời ông bác sĩ Trần Ngọc Ninh, ông này nói cố gắng tới nhưng cuối cùng không tới được. Đưa vấn đề ra trước anh em, ai cũng đều khó chịu. Phạm Duy là một khuôn mặt lớn của nền ca hát Việt Nam. Lập trường chính trị của ông phải rõ rệt, không thể lèng èng như thế. Anh em bàn với nhau là cần phải có người lên tiếng về những gì Phạm Duy đã tuyên bố. Nhưng cái khổ là ai cũng già, tánh hay cả nể, thành ra không biết sự việc sẽ đi đến đâu?"

Tôi hỏi: - "Xin bác cho biết tại sao bác tin mà kể cháu nghe những điều như vậy? Bác không sợ cháu sẽ viết cả ra trên giấy trắng mực đen sao?"

Ông Lê Hữu Mục la to: - "Thật thì bác cũng đã có ý đó. Bác nói chuyện này với một ông bạn Tiến Sĩ Toán ở Montréal. Ông ấy bảo: 'Chúng mình đều lớn tuổi, há miệng mắc quai. Cái tâm Bông Giấy sáng hơn nên cô ấy dám viết ra mọi sự thật. Mình thua Bông Giấy điểm đó."

Và ông Lê Hữu Mục kể: - "Vài tháng trước, vợ chồng ông Hà Thượng Nhân qua Canada, có tìm đến thăm bác. Trong câu chuyện, bác hỏi: "Tôi thấy anh vẫn ưu ái Bông Giấy. Vậy, nơi Bông Giấy có gì đặc biệt để anh phải đối xử như thế?". Ông Hà Thượng Nhân trả lời: "Bông Giấy là người làm được cái việc mà đám già như chúng mình chẳng ai dám làm cả. Đó là viết ra những sự thật dơ bẩn của giới văn nghệ Việt Nam. Bông Giấy hơn chúng mình điểm ấy."

II.
Câu chuyện điện thoại với ông Lê Hữu Mục để lại trong tôi một ấn tượng khá nặng nề, kéo dài suốt nhiều tháng ngày kế tiếp. Đúng, Phạm Duy là một khuôn mặt nổi của nền ca hát Việt Nam từ thời Kháng Chiến chống Pháp trở lại đây. Nhưng có một điều đúng hơn mà ít người biết: "Kể riêng về mặt âm nhạc, Phạm Duy không thật sự lớn như quần chúng đã ưu ái suy tôn ông."

Tôi là một được người sinh ra và lớn lên trong cái nôi âm nhạc truyền thống của gia đình. Tôi tốt nghiệp violon nhạc cổ điển Tây Phương trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn năm 1967, dưới quyền giám đốc của ông Nguyễn Phụng, trực thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa thời ông Mai Thọ Truyền. Từ đó đến nay, tôi vẫn tiếp tục học và nghiên cứu âm nhạc qua nhiều hình thức và với nhiều vị giáo sư khác nhau, từ Việt Nam đến Âu Châu. Trên lãnh vực âm nhạc, được giao tiếp với nhiều người tài giỏi, nhìn lại ông Phạm Duy, tôi không cho rằng ông xứng đáng với ba chữ “khuôn mặt lớn” của nền ca hát Việt Nam.

Một nhạc sĩ sáng tác lớn phải hội đủ những điều kiện sau:

1/ Thông Suốt Ký Âm Pháp.
Trong nhạc Đông Phương, nói về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã viết: "Cung, Thương làu bậc ngũ âm", thì phía nhạc Tây Phương, Mozart, Beethoven, Schubert... khi viết các symphonie, concerto, opéra, và nhiều thể loại khác, đã chứng tỏ được sự siêu đẳng của mình trên phần ký âm pháp.

Cá nhân Phạm Duy cho thấy không có được trình độ như vậy. Sáng tác của ông chỉ quanh đi quẩn lại là các ca khúc rất đơn giản, âm sắc bình thường, bài nào cũng giống nhau một cách đơn điệu nhàm chán. Phần kỹ thuật chẳng đưa ra được tính phá cách cần thiết trong nghệ thuật sáng tạo. Nói cho đúng, ca khúc của ông thành công là do thinh điệu phong phú của tiếng Việt, hay do sự đẩy đưa ngân nga trong cách trình bày của ca sĩ. Nếu che đi hết phần lời trong các ca khúc, chỉ tấu lên phần mélodie bằng âm thanh một nhạc khí nào đó, người ta sẽ dễ dàng nhận ra sự nghèo nàn trong âm nhạc Phạm Duy.

2/ Điêu Luyện Nhạc Khí.
Trong khi Thúy Kiều của Nguyễn Du "Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương", thì các soạn nhạc gia quốc tế, từ cổ sang kim, từ Beethoven, Chopin, Mozart, Schubert ... đến John Lennon, Nat King Cole, Ray Charles... đều là những tay instrumentiste chuyên nghiệp, mỗi người có thể sử dụng vững vàng từ một đến hai, ba thứ nhạc khí. Riêng Phạm Duy, thử hỏi ông thông làu được nhạc khí nào, nếu không chỉ là các hợp âm guitare loại "son đố mì" ông có từ thời còn làm nghề hát dạo? Hơn nữa là vài ngón dương cầm võ vẽ học lóm được trong một lớp dự thính tại Conservatoire de Paris nhờ sự quen biết của ông anh Phạm Duy Khiêm gửi gấm, ông mới được có mặt? Dạo về sau ông cũng biết sử dụng chút ít keyboard, loại nhạc khí thời trang mà mọi phần hòa âm phối khí trên ấy (viết ra và ghi lại từ tài năng kẻ khác) đều đã được lắp ráp sẵn?

3/ Sáng Tác.
Sáng tác đây đề cập ở hàng giá trị thật sự và có tầm vóc lớn. Giống như lời ông Hàn Vĩ từng viết ca tụng và đăng trong tác phẩm Bầy Chim Bỏ Xứ của Phạm Duy: "Tác phẩm của anh Phạm Duy phần lớn mang thể loại ca khúc, dù là những tác phẩm có tầm vóc lớn như những thể loại trường ca và tổ khúc cũng đều mang tính chất của loại nhạc có lời ca...", thì rõ ràng các sáng tác của Phạm Duy, dẫu dựa trên nhiều đề tài, từ tình yêu trai gái đến tình tự dân tộc, chỉ đều là những sáng tác phải cần đến lời ca mới tới được gần quần chúng. (Rất nhiều bài phổ từ thi ca của các thi sĩ). Giá trị âm nhạc thật sự hoàn toàn thiếu, đừng nói gì đến những từ ngữ sáo rỗng như "vua nhạc" (lời Đào Mộng Nam), "đại tác phẩm", "đệ nhất nhạc sĩ trong làng nhạc Việt Nam", "một điểm 'chúng ta' (sic!) có thể khẳng định là không ai, cho tới hằng trăm năm sau có thể làm được những lời hát tuyệt vời như một Phạm Duy" (lời Nguyên Thi) v.v.. và v.v... được đa số các người mà "một note nhạc bẻ làm đôi cũng không biết" đã trơ trẽn gán cho ông ta. Có lẽ chính ngay tác giả của những từ ngữ đó khi đặt bút thành bài ca tụng Phạm Duy, cũng chẳng biết mình đang viết cái gì nữa!

Giống như các trường ca khác, trong trường ca Hàn Mặc Tử (khiến Phạm Duy rất đắc ý), sự hợp nhất của tư tưởng âm nhạc hoàn toàn hỏng khi mà phần hòa âm lại do Duy Cường, con trai ông soạn, dựa theo phần ca khúc của ông. Ngoài ra, phần basse trở thành què quặt. Chant de basse không có.


Riêng với Minh Họa Kiều, hòa âm cũng do Duy Cường soạn, chèo cổ không ra chèo cổ, ả đào không ra ả đào, tân nhạc chẳng ra tân nhạc, ngâm thơ chẳng ra ngâm thơ. Có thể gọi đó là một loạt âm thanh tạp-pí-lù, vô hồn, trộn lẫn giữa tiếng vang của các nhạc khí dân tộc với tiếng vang của âm nhạc điện tử. (Âm thanh vô hồn có nghĩa rằng âm thanh được cấu tạo bằng MÁY mà không là truyền đạt từ trái tim và đôi bàn tay người nhạc sĩ trình diễn). Có nhiều đoạn chát tai vì tiếng rít của cái keyboard được vặn lên ở mức độ cao. Ngồi nghe suốt một cuốn băng cassette dài 60 phút, thấy phần hát (rút từ lời thơ của cụ Nguyễn Du) quá nặng so với phần đàn, Minh Họa Kiều chỉ gợi cho tôi cảm giác đơn điệu buồn nản, chẳng chút rung động và không thể tìm ra được điều gì mới lạ.

Tóm lại, qua nhạc phẩm Phạm Duy, nhất là ở các trường ca, chủ đề Đông Phương không ăn khớp với phần hòa âm cóp nhặt của Tây Phương, làm nên một kiểu âm nhạc "ông nói gà bà nói vịt", tạo cho người nghe cảm giác khó chịu và giả tạo. Mozart khi viết một symphonie hay một opéra, đâu chỉ viết riêng phần violon hay soprano thôi, mà còn viết các phần khác bằng chính ngay tư tưởng và tài năng ông có. Do đó, bản sáng tác mới thống nhất được cái tuyệt diệu của nó, trở thành một khối âm thanh diễn tả sự thuần nhất tư tưởng và tình cảm của tác giả.

4/ Nhạc Lượng (valeur musicale)
Nói về tài đàn của Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:

"Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên Bạc Mệnh lại càng não nhân."

Sự rung động đánh ngay vào tâm hồn thính giả là điều rất cần thiết trong âm nhạc. Xưa, nghe Prélude N.5 cung Ré bémol Trưởng của Chopin, người ta đâu cần ông phải viết thành lời mới có thể cảm thấy buồn rười rượi theo từng note phát ra từ chiếc dương cầm, vang lên như tiếng mưa rơi ngoài hiên lạnh; hay cùng ông tưởng tượng tiếng mưa đang rớt xuống từng giọt trên nắp chiếc quan tài? Nghe đoản khúc Le Cygne trong sáng tác Carnaval des animaux của Saint Saens, đâu cần có lời mới biết được sự giẫy chết đau đớn cuối cùng của con thiên nga trên chiếc hồ rộng? Nghe Ouverture Egmont của Beethoven, đâu cần lời mới hình dung ra được sự hùng tráng của một cuộc chiến ngoài trận địa?

Đọc Nguyễn Du, thấy tài âm nhạc của Thúy Kiều đã lên đến hàng tột đỉnh:

    "Khúc đâu Hán Sở chiến trường
    Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
    Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
    Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
    Kê Khang này khúc Quảng Lăng
    Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
    Quá quan này khúc Chiêu Quân
    Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia
    Trong như tiếng hạc bay qua
    Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
    Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
    Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa."
    Tài âm nhạc này đã làm cho Kim Trọng
    "... phải ngơ ngẩn sầu
    Khi tựa gối khi cúi đầu
    Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày."
    Hay khi đàn cho vợ chồng Thúc Sinh nghe, thì:
    "Bốn giây như khóc như than
    Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng."
    Tài đàn đã đến độ:
    "Một cung gió thảm mưa sầu
    Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay
    Ve ngâm vượn hót nào tày"
    đến khiến Hồ Tôn Hiến phải "nhăn mày châu rơi!"

Thử hỏi, trong quá trình nhạc Phạm Duy, có bài nào gây được trong tâm hồn thính giả những rung động đích thực và dữ dội như các nhà soạn nhạc kia, và cả Thúy Kiều, đã tạo?

5/ Chủ Đề.
Nguyễn Du khi viết về tài âm nhạc của Thúy Kiều đã không chỉ đóng khung trong việc Thúy Kiều tài ba trên ngón đàn thôi, còn là tài ba trên cả sự sáng tác và chủ đề sáng tác. Thiên Bạc Mệnh của Thúy Kiều, cũng như Symphonie Pathétique của Tchaikovski, Revolutionnaire của Chopin, Symphonie Inachevée của Schubert, Marriage de Figaro của Mozart, Symphonie số 5 của Beethoven. v.v đều dựa trên những chủ đề lớn của nhân loại (Thiên Nhiên, Định Mệnh, Con Người). Trong Symphonie số 9, dẫu chủ đề là Niềm Vui hay Tình Bạn, và có cả lời ca, nhưng lời ca này đã được Beethoven viết ra bằng một trong những thể loại cao của âm nhạc là choeur (đồng thanh).

Chủ đề trong âm nhạc Phạm Duy không nói lên được tính chất vĩ đại của nhân loại, mà chỉ quanh đi quẩn lại với cái tôi của những cặp tình nhân (Nếu Một Mai Em Sẽ Qua Đời, Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Nghìn Trùng Xa Cách...), cái tôi của chính ông (các bài Tục Ca). Riêng các bài dân ca, ông luôn luôn "lập lờ đánh lận con đen" khiến thính giả cứ ngỡ phần lời là do chính ông soạn chứ không phải rút từ ca dao. Ví dụ bài Cái Trống Cơm. Thảng hoặc có bài phô bày một bối cảnh xã hội, như Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà thì ông cũng phải mượn từ bài thơ nổi tiếng của Hữu Loan mới hoàn thành được sự nổi tiếng cho phần nhạc. Hoặc tệ hơn, bài Kỷ Vật Cho Em vẽ ra phần nào hình ảnh tang thương của cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam, ông đưa phần nhạc thê thiết vào với những lời thơ ủy mị tang tóc (mà ông cố ý "cầm nhầm") của tác giả Linh Phương, tạo nên một ảnh hưởng vô cùng bất lợi cho phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi ấy đang ở vào giai đoạn chiến tranh sôi bỏng nhất.

Riêng những ca khúc được giới sinh viên học sinh yêu thích như Em Hiền Như Ma Sơ, Thà Như Giọt Mưa, Năm Năm Tình Lận Đận, Phạm Duy phổ từ thi ca Nguyễn Tất Nhiên, lại là kết quả của một vụ kiện tác quyền đầu tiên mà ông ta phải đền cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên. Vụ kiện này xảy ra vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị mất vào tay Cộng Sản, và cho đến nay các nhà văn, nhà báo hải ngoại vì nể nhà nhạc sĩ "lớn họng" mà quên đi luôn tâm huyết của một thi sĩ "bé miệng" đã quá cố. Vào thời điểm ấy, Nguyễn Tất Nhiên yêu cầu Phạm Duy phải ghi tên mình vào trên những bản nhạc đã lấy từ thi ca Nhiên mà phổ, nhưng Phạm Duy vẫn lờ đi, lại còn cả tiếng mắng rằng "Không có tao thì ai biết đến mày!" Lúc đó Nguyễn Tất Nhiên còn rất trẻ nhưng gia đình ông uất ức vì thái độ xấc xược của Phạm Duy nên đâm đơn kiện ông ta. Kết quả, Phạm Duy phải đền cho Nguyễn Tất Nhiên một khoản tiền không nhỏ! (*)

Trên phương diện chủ đề, chưa kể các nhạc sĩ tiền chiến khác, so với Phạm Đình Chương hay Trịnh Công Sơn, Phạm Duy cũng đủ bị xếp vào hàng DƯỚI.

Năm 1960, trong một buổi đại hội, giới sinh viên Văn Khoa Sàigòn từng tuyên bố: "Phạm Duy đã chết!" Báo chí phỏng vấn điều này, sinh viên trả lời: "Nhạc Phạm Duy bây giờ ủy mị quá; ông chỉ viết theo thị hiếu quần chúng mà chẳng nói lên được tư tưởng nào mới, không còn lành mạnh như những bản trong thời Kháng Chiến ông đã làm ra."

Năm 64-65, Trịnh Công Sơn được bạn hữu tổ chức buổi ra mắt đầu tiên trước quần chúng tại khu đất trống sau lưng trường Văn Khoa Sàigòn cũ (nay là Thư Viện Quốc Gia). Trước mặt đám đông đến mấy nghìn người gồm đủ thành phần văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên, học sinh, Trịnh Công Sơn xuất hiện với cây đàn guitare trên tay, cất lên giọng hát mình trong hai mươi ca khúc nói về quê hương, ước mơ hòa bình. Những bản nhạc về sau được mệnh danh là "nhạc phản chiến". Buổi hát rất thành công, để lại một ấn tượng tốt đẹp cho người trình bày lẫn người nghe. Trong phần giải lao, Phạm Duy xuất hiện trên bục gỗ, xin hát một bài góp vui. Trong không khí đang trầm lắng sau những bài hát nói về bom đạn và những vết thương trên thân thể quê hương, Phạm Duy đã cùng khoảng vài chục đệ tử trong nhóm Du Ca của ông đồng hát bài Sức Mấy Mà Buồn, một bài nhạc mang đầy tính khôi hài và giễu cợt một cách thiếu đứng đắn. Về sau, trên tạp chí Văn lúc ấy có tường thuật buổi trình diễn của Trịnh Công Sơn và cũng đã nghiêm khắc lên án trò đùa và phá phách không đúng chỗ của một người đã quá nổi tiếng lúc bấy giờ.

Tôi cũng được nghe một câu chuyện từ giáo sư Lê Hữu Mục: "Phạm Duy một lần nói với ông Tiến sĩ Trần Văn Đoàn, giáo sư trường Đại Học Đài Loan: 'Nếu tôi ở Nhật, người Nhật sẽ nuôi tôi suốt đời vì tài âm nhạc của tôi.' Ông Trần Văn Đoàn hỏi lại: 'Thế anh có biết chính phủ Nhật đã nhiều lần mời Trịnh Công Sơn sang Nhật và trả cho Sơn một giá rất hậu chăng? Anh bảo anh có tài, tại sao họ chẳng mời anh?"

III. Trình bày 5 tiêu chuẩn tiêu biểu trên, tôi chỉ muốn đưa ra một chứng minh nhỏ rằng Phạm Duy chưa xứng gọi là khuôn mặt lớn NHẤT của nền âm nhạc Việt Nam như ông luôn luôn huênh hoang tự nhận và như lời ca tụng của nhiều người bạn ông. Ở đây, tôi không hoàn toàn chối bỏ khả năng âm nhạc của Phạm Duy, nhưng cái khả năng đó CHƯA THỂ GOÏI LÀ ĐỦ để tạo cho ông một chỗ đứng xứng đáng trong làng âm nhạc quốc tế. Địa vị mà ông đạt được hiện nay trong riêng Miền Nam trước 1975 và cộng đồng người Việt hải ngoại, phải kể rằng phần lớn nảy sinh từ tính dễ dãi của quần chúng Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam vốn nổi tiếng hiếu hòa; dưới cái nhìn quốc tế, người Việt Nam thường được xem là biểu tượng của sự vui vẻ và rộng lượng. Sự rộng lượng này được chứng minh trên nhiều hình thức, cơ hội. Điển hình, trong một cuốn vidéo tape bày bán công khai, quay buổi trình diễn tái ngộ của bà ca sĩ Thái Thanh với thính giả Việt Nam hải ngoại, tổ chức tại Santa Ana, Thái Thanh lên sân khấu hát bản Dòng Sông Xanh, một nhạc phẩm của J. Strauss, Phạm Duy phổ lời Việt. Bản này vốn cung Ré Trưởng, có những note rất cao dành cho phần premier violon. Qua giọng Thái Thanh, nhạc sĩ phải chuyển xuống thành Si bémol Trưởng; giọng hát bà ở vào thời kỳ tàn tạ, không lên đúng cao độ, nên nghe rất "phô". Thế nhưng khi dứt bản nhạc, gần như toàn thể khán giả đều bắt chước đám quan khách thân cận cò mồi của gia đình Phạm Duy, ngồi ở hàng ghế đầu, đứng bật cả lên để vỗ tay ca ngợi bà. Điều này cho thấy tinh thần người Việt Nam, ngay cả những người đang ở nước ngoài, vẫn tỏ ra dễ dãi và rộng lượng trước nghệ thuật và nghệ sĩ.

Song song với cái nghèo và sự chậm tiến truyền đời của dân tộc, những đức tính kể trên của quần chúng Việt Nam đã tạo được cho Phạm Duy một chỗ đứng rất cao từ biết bao chục năm qua. Cuộc sống cá nhân và gia đình ông cũng được ưu đãi từ đó. Nhưng thử hỏi, ông đã trả lại được những gì cho quần chúng? Tên tuổi ông nổi lên nhờ quần chúng thì ông lại bảo các bản nhạc quần chúng yêu thích xưa nay của ông chỉ là làm trong chuồng xí! Quê hương rơi vào tay Cộng Sản, gần hai triệu người phải bỏ ra đi, sống lây lất khắp nơi trên thế giới, có những người rất cùng túng, trong khi ông và gia đình vẫn phè phỡn trong một cảnh sống sung túc ở miền Nam Cali, thì ông lại bảo: "Nếu Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la mà bảo tôi ca tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình!"

Đó là những cái tát phũ phàng của Phạm Duy vào mặt quần chúng miền Nam Việt Nam, những người đã đưa tên tuổi ông lên từ mấy chục năm qua.

Sĩ khí là điều rất cần thiết cho một nghệ sĩ, nhất là với một nghệ sĩ lớn. Nhưng đáng tiếc thay, điều này không có trong ông Phạm Duy. Ông luôn luôn tự hào, và được bạn bè ông bốc thơm, rằng ông là một "đại nghệ sĩ", nhưng ông sẵn sàng ngửa tay nhận 5,000 đô la một cách khúm núm, để rồi vào đêm 29/12/1996, cùng với một số ca nghệ sĩ "lớn" (?!) của thủ đô tị nạn Nam Cali làm cái hành động đứng giữa sân khấu Long Beach Convention Center, xưng tụng một mụ đàn bà điên khùng không ra gì như bà Thanh Hải bằng những danh từ vô cùng bóng bẩy. Khoảng hơn một tuần sau, ông lại lên một đài phát thanh Việt ngữ ở Nam Cali, ca ngợi không tiếc lời những dòng "thi ca" trác tuyệt của bà này, điều dễ dàng làm đỏ mặt bất cứ ai còn có chút tự trọng trong mình.

Và nghệ sĩ vốn thường mang cá chất cao ngạo. Nhưng với ông Phạm Duy, chữ cao ngạo này trở thành tự cao tự đại một cách hợm hĩnh, giả trá. Có lần tôi được giáo sư Lê Hữu Mục kể: "Trong một buổi trình diễn ở Đức, Phạm Duy tuyên bố giữa nhiều người: "Nhạc của tôi không thua gì các symphonie của Bee-thoven." Ông giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Đoàn bèn hỏi Phạm Duy: "Anh bảo nhạc của anh không thua gì các symphonie của Beethoven. Vậy xin hỏi, anh có phân biệt nổi thế nào là một symphonie và thế nào là một concerto không?" Phạm Duy cứng họng không trả lời được." Cũng theo lời ông Trần Văn Đoàn, lần khác, có mặt Đặng Thái Sơn, dương cầm thủ đoạt giải nhất Chopin ở Nga năm 1983, Phạm Duy hỏi Sơn: "Tại sao cháu chỉ đàn nhạc Chopin mà không đàn nhạc của bác (là Phạm Duy)?" Đặng Thái Sơn ngoảnh mặt bỏ đi, không thèm trả lời.

Những điều trên, ông Trần Văn Đoàn kể lại cho giáo sư Lê Hữu Mục nghe nhân dịp gặp nhau mới đây giữa hai người tại Đại Học Hè Thụy Sĩ 1997. Ông Trần Văn Đoàn phê bình: "Phạm Duy hỗn! Đến ngay quê hương Beethoven mà lại dám bảo nhạc của mình không thua gì nhạc Beethoven!"

Cách đây ba năm, trong một buổi trình diễn nhạc Phạm Duy tại Texas, đa số khán giả đã phẫn nộ khi nghe Phạm Duy tuyên bố giữa sân khấu: "Văn Cao sao bằng được tôi?" Hôm ấy có tin nhạc sĩ Văn Cao từ trần tại Hà Nội. Hình ảnh nhà nghệ sĩ chân chính sống trong nghèo túng, không có đất đứng, bước đi xiêu vẹo giữa xã hội Cộng Sản qua những cuộn băng vidéo phổ biến tại hải ngoại đã khiến cho mọi người thật ngậm ngùi khi nhìn lại khuôn mặt trâng tráo bóng nhẫy đầy vẻ xôi thịt của Phạm Duy. Họ đứng lên ra về ngay. Tiếc thay, điều ấy hình như cũng chẳng dạy được cho Phạm Duy bài học nào!

IV. Nói về sự tự cao tự đại của Phạm Duy, không bút mực nào viết cho hết. Tuy nhiên, khi sự tự cao tự đại lên đến hàng tự nhận "Các ca khúc quần chúng yêu thích và tôn vinh xưa nay của tôi đều chỉ được viết ra trong chuồng xí!" thì quả thật tôi không còn ý kiến. Ngày xưa Cao Bá Quát lừng lẫy về thi tài lẫn cả nỗi cao ngạo, nhưng thật sự, đối tượng cho nỗi cao ngạo của Cao Bá Quát chỉ hạn chế trong giới vua chúa cầm quyền chứ không là quần chúng. Chưa một bài thơ, một lời nào của Cao Bá Quát lưu lại trong sử sách cho thấy rằng ông có chút nhỏ lòng khinh miệt hay chống lại quần chúng. Phần Beethoven, khi nghe tin Napoléon tự phong mình là Hoàng đế, đã nổi giận giẫm nát bản Symphonie No. 3 lúc trước được đề tặng cho Napoléon. Thế nhưng, trong suốt dòng nhạc vĩ đại của Beethoven, chẳng bất cứ sáng tác hay tư tưởng nào cho thấy có sự phản bội lại quần chúng đã yêu thích ông.

Như đã nói, quần chúng Việt Nam vốn dễ dãi và rộng lượng. Người dân Việt Nam, dẫu ra tới hải ngoại rồi, vẫn còn lưu giữ trong tâm hồn cái truyền thống trọng Kẻ Sĩ của người xưa. Dưới mắt họ, Phạm Duy điển hình cho một Kẻ Sĩ. Chỉ một điều buồn là Phạm Duy không đạt được tới chút nhỏ giá trị cao quý của hai chữ Kẻ Sĩ. Ông không phải là một Kẻ Sĩ trên đủ mọi mặt. Ông không có được cái Dũng, cái Chân, cái Nhân và cái Thiện rất cần thiết cho một nghệ sĩ chân chính. Ông chỉ biết tôn thờ cái Tôi của chính ông. Ông khai thác tối đa cái Tôi ấy trên nhiều hình thức. Đó là quyền của ông. Nhưng ông không có quyền phản bội lại quần chúng đã ưu ái ông, đem miếng ăn, đem cả hào quang cho ông để mà tự hãnh. Ông không có quyền chà đạp lên sự đau khổ của nhân dân miền Nam bằng một câu nói rất là ít hiểu biết và vô trách nhiệm so với tên tuổi ông: "Nếu Cộng Sản cho tôi mười ngàn đô la mà bảo tôi ca tụng Hồ Chí Minh, tôi sẽ ca tụng hết mình."

Ngoài tính dễ dãi và rộng lượng của quần chúng Việt Nam trong cái nhìn về nghệ thuật, phải nhấn mạnh thêm về sự THIẾU HIỂU BIẾT của những người chung quanh gần cận Phạm Duy; do đó, danh vọng ông mới có và đứng vững được suốt mấy chục năm qua. Mới đây, tôi được đọc một bài báo đăng trên tờ nguyệt san Việt Nam, xuất bản tại Canada, số 11 tháng 8/1997, có đoạn như sau: "Minh Họa Kiều thật sự là một symphonie Việt Nam có khả năng tạo thêm sinh lực đưa Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đi xa hơn vào tương lai trong thế giới văn minh kỹ thuật hiện đại..." (Trích bài Phạm Duy Trung Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa và Lời Cảm Ơn)

Đọc câu trên, những ai có lòng tự trọng không khỏi khó chịu và nổi giận thầm. Nguyễn Du là người duy nhất đã dám đi ngược lại và đương đầu với phong trào tư tưởng Nho giáo suy đồi thời đó để xây dựng một nền tư tưởng có tính Việt Nam; người đã một mình canh tân thể thơ lục bát, làm mới tiếng Việt. Bây giờ những gì ông đưa ra cách đây hơn 200 năm vẫn hợp thời, và ông được cả thế giới công nhận là đại thi hào. Tác phẩm Truyện Kiều của ông, năm 1967, đã được UNESCO xếp vào hàng một trong 7 tác phẩm lớn của thế giới.

Còn Phạm Duy? Thử hỏi ông đã làm gì để rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam trước cái nhìn quốc tế? Những ca khúc hay trường khúc được ông tự nhận và bạn bè ông ca tụng là sự "xây dựng một nền âm nhạc mới cho Việt Nam", điều đó có đúng chăng? Có nên kể rằng những bản nhạc lai căng nửa Tây nửa Việt, cóp nhặt chỗ này một ít ngũ cung, chỗ kia một ít hợp âm Âu Mỹ, là độc đáo, mang bản sắc dân tộc, hoặc là một nghệ thuật mới? Tôi khẳng định KHÔNG!

Vì vậy, đọc những lời ca tụng đại loại như trên, tôi thật rất buồn cho chữ nghĩa Việt Nam và cái "sĩ khí" của những người còn biết cầm cây viết để viết lên những dòng chữ bằng tiếng Việt Nam! Ở dây, khoan kể đến câu "Hiểu thế nào là một sym- phonie?" như ông Trần Văn Đoàn đã hỏi Phạm Duy một lần ở Đức, nội cái việc đưa tên tuổi Phạm Duy đứng cạnh tên tuổi cụ Nguyễn Du cũng đã là một việc nhục nhã và chẳng nên làm chút nào đối với những ai còn chút liêm sỉ trong người.

V. Chuyện ông Phạm Duy là một loại truyện dài Nhân Dân Tự Vệ. Tôi là một người Việt Nam 100% nên cũng có tinh thần dễ dãi truyền đời trong máu huyết. Từ lâu tôi chán không muốn nghĩ đến, và cũng cả chán không muốn nghe các bản nhạc từ 1960 trở đi của ông. Nhưng đến một lúc nào, tôi ngạc nhiên tự hỏi, một người đã quá già như thế (ông tự nhận là bạn cùng thời phiêu bạt với ông thân tôi, đã chết cách đây 40 năm) sao tư cách lại còn có thể làm cho đám hậu sinh như tôi phải đặt vấn đề như thế?

Thật sự, tôi không phủ nhận sự đóng góp của ông Phạm Duy đối với dân tộc trên lãnh vực âm nhạc. Việt Nam là một quốc gia nghèo nàn, chậm tiến. Tất cả các đóng góp của mọi người dân đều cần thiết. Thì với Phạm Duy, tuy rằng khả năng ông (tôi dùng chữ "khả năng" mà không là "tài năng") chỉ thu hẹp trong một giới hạn nào đó, cũng là điều đáng hoan nghênh. Nhưng nếu ông chịu nhận biết mình đang ở mức độ nào trong sự đóng góp và vị trí nào trong thế giới âm nhạc phong phú, là điều đáng quý; quần chúng và cả tôi nữa, sẵn sàng hết lòng ủng hộ ông. [Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, có những ngôi sao xuất hiện không lâu trên bầu trời ca khúc, nhưng không ai chối bỏ rằng các ngôi sao ấy đã sáng và sẽ còn sáng mãi -như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Chuẩn, Từ Linh..v.v..] Nhưng bởi vì Phạm Duy tự đem mình so sánh với Beethoven, và có những người đặt ông cao bằng Nguyễn Du thì ông phải có bổn phận chứng minh cho quần chúng thấy được cái "vĩ đại" của ông một cách cụ thể. Bài viết này không đi ra ngoài mục đích đó.

VI. Nhìn lại dòng thời gian từ 1954 trở đi, Việt Nam có cái gì mới đáng để hãnh diện với thế giới? Và từ 1975 trở lại đây, vô số người Việt Nam đã đặt chân được tới bến bờ tự do, tiếp xúc biết bao trào lưu văn học nghệ thuật mới của thế giới, nhưng nói riêng về ngành âm nhạc và nói chung về các ngành nghệ thuật, miền Nam Việt Nam có được sự tiến bộ nào chăng?

Xin trả lời KHÔNG!

Trong một buổi họp mặt âm nhạc do giáo sư Tạ Văn Toàn tổ chức năm 1985 tại Montréal, có cả sự hiện diện của giáo sư Lê Hữu Mục, một vị khách ngoại quốc đã đưa ra câu hỏi: "Tại sao trong nhạc Việt Nam chẳng thấy có sáng tác nào lớn ngoài những ca khúc không quá hai trang giấy nhỏ?" Giáo sư Tạ Văn Toàn trả lời: "Việt Nam chỉ có các ca khúc chứ đâu đã thực sự có âm nhạc. Vì vậy nhạc phẩm lớn làm sao xuất hiện được?"

Lỗi này do ai? Tôi cho rằng phần lớn là do những người có cơ sở, có thế lực, địa vị trong các lãnh vực này. Quần chúng Việt Nam hải ngoại ưu đãi, tôn vinh họ, dành cho họ những chỗ đứng xứng đáng, nhưng đáp lại, họ chẳng làm gì để trả lại cho quần chúng ngoài sự vinh thân phì gia của chính họ và những cái tát phũ phàng nào đó trong sự bắt tay NGẦM hay CÔNG KHAI với phía ngoại bang hay với Cộng Sản.

Thực sự, tôi không tin ông Phạm Duy là một người thân Cộng, nhưng ông cũng không phải là người chủ trương chống Cộng. Ông từng tự nhận mình chỉ là người “chống gậy!” mà không chống Cộng! Theo như ông Lê Hữu Mục nhận định, đường lối chính trị của Phạm Duy rất lèng èng, không rõ rệt. [Trong tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ, Phạm Duy phân biệt hai loại chim hiền và chim ác, ví như hai phía quần chúng quốc nội (trong có các người Cộng Sản thứ thiệt) với quần chúng hải ngoại. Chim ác ở lại. Chim hiền bỏ tổ bay đi. Nhưng đến một hồi, ông Phạm Duy lại kêu gọi hai bầy chim vầy họp lại với nhau!]

Cá nhân tôi nghĩ, do bởi trình độ tư tưởng chính trị thấp kém và bởi không có kiến thức về các danh từ chính trị và ngoại giao mà Phạm Duy đã vô tình bị Cộng Sản lợi dụng bằng chính những danh từ. Ví dụ, đối với người Quốc Gia, Hòa Bình có nghĩa là chấm dứt chiến tranh. Nhưng đối với Cộng Sản, Hòa Bình phải là chấm dứt tư bản, làm tư bản tan rã. Cộng Sản đề ra chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, nhưng thật sự đó chỉ là những cái mặt nạ che giấu mưu đồ tồi tệ, làm lợi cho lực lượng cầm quyền Cộng Sản và mở rộng quan điểm xã hội chủ nghĩa của họ. Còn trên thực tế Việt Nam từ xưa đến nay chỉ có lý tưởng dân tộc chứ làm gì có chủ nghĩa dân tộc?

Tính dân tộc thuần túy trong lòng người Việt Nam và chủ nghĩa dân tộc do Cộng Sản đề ra, khác nhau xa. Một người mang tính dân tộc thì lúc nào cũng nghĩ đến dân tộc, điển hình qua các hình ảnh thân thiết của quê hương. Nhưng chủ nghĩa dân tộc lại được giải thích theo Duy Vật sử quan, và các khái niệm về dân tộc đã bị bóp méo hoàn toàn. Cộng Sản thường đưa ra những hình ảnh dễ đi vào lòng người, dựa trên Truyện Kiều, trên ngũ cung, trên dân gian. Cộng Sản hay nói đến hình ảnh người nông dân, nhưng trên thực tế có bao giờ thấy họ đề cao dân quê? Đối với họ chỉ có công nhân là quan trọng, còn dân quê bị liệt vào hàng có tội với nhân dân vì đã sản xuất lúa gạo cung ứng cho giặc, cho tư bản. Muốn được nhìn nhận, người nông dân phải vào hợp tác xã do nhà cầm quyền làm chủ.

Cũng vậy, lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước khác nhau. Một người mang lòng yêu nước thì lúc nào cũng mong làm sao cho đất nước tiến lên trên đủ mọi mặt. Nhưng trong chủ nghĩa yêu nước mà Cộng Sản đề ra là đã có sự giết người, khát máu. Dân tộc Việt Nam vốn tính hiếu hòa, nhưng khi có ngoại xâm thì cũng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Tuy nhiên, qua lối phân tích của Cộng Sản, người Việt Nam bao giờ cũng hiếu chiến (chống Tàu, chống Pháp, chống Mỹ, thậm chí chống luôn tất cả những ai cùng màu da huyết thống, nếu không là Cộng Sản thì phải là Ngụy!). Kiểu nói của Cộng Sản là kiểu nói khích động quần chúng, khai thác triệt để lòng hiếu chiến của quần chúng.

Phong trào quần chúng cũng bị Cộng Sản giải thích sai. Trong quần chúng, có những nhóm ô hợp nhưng cũng có những nhóm nổi lên vì chính nghĩa. Tất cả những việc lao động của dân đều mang tính chất góp phần vào lực lượng sản xuất chung; thì tinh thần này lại bị Cộng Sản cho là phục vụ kẻ bóc lột.


Phạm Duy không hiểu những điều như vậy, không am tường ý nghĩa các danh từ mà Cộng Sản đã đề ra. Ông cứ ngỡ Cộng Sản nghĩ về Dân Tộc hay Lòng Yêu Nước cũng giống như những người Việt thuần túy đã nghĩ. Ông không biết rằng Cộng Sản chỉ muốn đánh lừa người dân Miền Nam, nhất là người Việt hải ngoại, bằng các hình ảnh rất dân tộc, mà thật thì chỉ là muốn tiêu diệt người Quốc Gia. Vì vậy, ông bị lầm và bị lợi dụng một cách vô tình hay hữu ý. Ông đưa ra trong âm nhạc của ông những hình ảnh như Truyện Kiều, Mẹ Việt Nam, người dân quê... Ông kêu gọi mọi người ngồi lại với nhau (Việt Nam Việt Nam! Bầy Chim Bỏ Xứ) [Cũng có thể ông Phạm Duy tự cho mình là thiên tài, nên có quyền vượt lên trên tất cả mọi chính kiến. Nhưng ông quên một điều, dẫu cho có là thiên tài thật chăng nữa thì ông vẫn là một con người có xứ sở, quốc gia, chứ không thể giống như con khỉ Tôn Ngộ Không, từ đất từ núi mà nảy sinh trong cuộc đời!]

VII. Ở đây, tôi đồng ý rằng đến một lúc nào trên cái nhìn chung về dân tộc, vấn đề hợp lưu cần được nêu lên. Nhưng hợp lưu có nghĩa là NGỒI LẠI VỚI NHAU MỘT CÁCH NGANG HÀNG, chứ không là van xin quỵ lụy một chiều. Phạm Duy đã viết ra những lời nhạc không bằng lòng yêu nước hay bằng tinh thần người Việt Quốc Gia chân chính, mà là bằng lối suy nghĩ của Cộng Sản hay của một thế lực ngoại bang. Quần chúng bị ông lôi cuốn vào sự suy nghĩ sai lầm riêng nên cũng suy nghĩ theo lối suy nghĩ của Cộng Sản hay ngoại bang hồi nào không biết.

Thực hơn hết, theo tôi, Phạm Duy chỉ là người "chống chống Cộng" đúng đường lối của Mỹ. Trước kia, Mỹ là quốc gia chống Cộng hàng đầu thế giới, nhưng bây giờ, chính sách ngoại giao của Mỹ đã thay đổi. Những người Việt Nam làm việc và ăn lương của Mỹ cũng phải thay đổi luôn. Có nên nghi ngờ Phạm Duy cũng là một trong những người của số Việt Nam này chăng?

Mới đây, tôi được nghe giáo sư Lê Hữu Mục kể rằng: "Phạm Duy có nhắn lời với một người bạn bên Tây của bác và cũng với chú Lê Ngọc Linh em trai bác rằng sẽ kiện bác ra tòa và sẽ bảo đàn em tìm bác mà đập cho một trận."

Đây cũng là một điều làm tôi phải suy nghĩ. Tự hỏi, Phạm Duy, một nhạc sĩ nổi tiếng và đã lớn tuổi, sao lại tỏ ra côn đồ thô bạo như thế, hết đe đánh Văn Thanh vì một bài viết, tới đòi đập giáo sư Lê Hữu Mục vì những lời tố cáo. Tư cách văn nhân nghệ sĩ của ông ở đâu? Quần chúng liệu có nhìn ra điều ấy? Hay là ông dựa vào một thế lực nào ghê gớm mới có thể phô bày sự hống hách ngay chính trên một đất nước rất tôn trọng nhân quyền và luật pháp như xứ Hoa Kỳ?

Đọc lịch sử Việt Nam, thời thực dân, thấy có ba nhân vật ra hợp tác với Tây là Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ. Mỗi người đều có thái độ và ý nghĩ khác nhau trong hành động của mình. Nguyễn Trường Tộ chỉ trong mấy tháng ra làm việc mà về sau cứ hối hận mãi theo điều ấy. Ông chuộc lỗi với dân tộc bằng cách cố lòng tranh đấu cho Việt Nam, viết 150 bản điều trần dâng lên vua Tự Đức với ước nguyện mong thay đổi khá hơn cho đất nước. Trương Vĩnh Ký hợp tác với Tây hoàn toàn trên phương diện văn hóa, cũng mang lòng hối hận khôn nguôi. Riêng Tôn Thọ Tường chẳng những đã vênh váo vì cơm no áo ấm trong khi đồng bào rất đói khổ, lại còn hết lòng hết dạ ca tụng sức mạnh văn minh của bọn thực dân.

Tôi tự hỏi, không biết ông Phạm Duy thuộc hàng nào trong số ba con người lịch sử hợp tác với ngoại bang, ở trên tôi vừa kể?

Trần Thị Bông Giấy
(San Jose, 30/9/1997)

(*) Viết theo tài liệu của Hoàng Dược Thảo, báo Sàigòn Nhỏ, Nam Cali.
(**) Viết theo bài "Phác Thảo Chân Dung Tôi" của Trịnh Công Sơn, in trong cuốn Nhạc Và Đời, NXB Tổng Hợp Hậu Giang, 1989.

Câu chuyện 16 tấn vàng tháng 4-1975

TT - 16 tấn vàng - đó là khoản dự trữ nằm trong Ngân hàng quốc gia vào tháng 4-1975. Và báo chí thời đó đã đưa tin về kế hoạch tẩu tán số vàng ấy ra nước ngoài. Sự thật ra sao?

Kỳ 1: Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?

Trụ sở Ngân hàng quốc gia
(nay là Ngân hàng Nhà nước VN tại TP.HCM)
- nơi cất giữ 16 tấn vàng vào tháng 4-1975 - Ảnh: N.C.T.

16 tấn vàng - đó là khoản tài sản dự trữ còn lại của chính quyền Sài Gòn vào tháng 4-1975, trị giá khoảng 120 triệu USD vào lúc đó, tức khoảng 320 triệu USD thời điểm hiện nay.

Có khá nhiều "dị bản" xung quanh câu chuyện 16 tấn vàng suốt hơn 30 năm qua kể từ khi báo chí Sài Gòn đầu tháng 4-1975 đưa tin: tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tìm cách tẩu tán 16 tấn vàng thuộc tài sản quốc gia ra nước ngoài. Đặc biệt, vào đầu năm 2006, Đài BBC đã "xới" lên câu chuyện này bằng một bản tin dẫn từ nguồn tài liệu của Bộ Ngoại giao Anh.
Sự thật ra sao? Tuổi Trẻ lật lại hồ sơ vụ việc này, 31 năm trước...

Từ một bản tin trên BBC

Ngày 29-12-2005, trong chương trình phát thanh Việt ngữ và trên trang web BBC, hãng thông tấn này đã loan một bản tin đáng chú ý về chuyện ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu vào tháng 4-1975 sau khi từ chức tổng thống VN cộng hòa. Bản tin khá dài nói trên, theo BBC, được trích từ hồ sơ mới công bố của Cục Văn khố quốc gia Anh:

"Chính phủ Anh hôm thứ năm đưa ra các văn bản cho biết về chuyến bay rời khỏi Sài Gòn của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cách đây hơn 30 năm. Theo phóng viên BBC Rick Fountain từ Cục Văn khố quốc gia Anh, ông Thiệu được máy bay trực thăng chở tới một tàu chiến của Mỹ, và sau đó ông tới Đài Loan cùng với vợ và phụ tá của mình. Cuối cùng ông Thiệu bắt đầu cuộc sống mới không phải ở Mỹ như nhiều người tưởng, mà ở London.

Các tường thuật của báo chí nói ông Thiệu đã bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố quốc gia của chính quyền Nam VN".

Mặc dù trong bản tin này BBC có phỏng vấn một nhân chứng là tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Mỹ), phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu vào năm 1975, nhưng vẫn không ngăn được làn sóng tranh luận ngay trên trang web BBC và các diễn đàn khác trên mạng. Bởi TS Hưng đã bay sang Mỹ công cán từ giữa tháng 4-1975 và kẹt luôn ở đó, nên ông không phải là nhân chứng trong câu chuyện 16 tấn vàng tại Sài Gòn vào cuối tháng 4-1975 được.

Do vậy, chi tiết về 16 tấn vàng tài sản quốc gia tháng 4-1975 đã dẫn tới cuộc bàn thảo trên mạng xung quanh câu hỏi: có hay không kế hoạch tẩu tán số lượng vàng khá lớn nói trên? Chẳng hạn, một bạn trẻ tên Hưng đã đặt câu hỏi trên trang web BBC: "Từ trước tới nay người ta đều nói ông Thiệu mang theo 18 tấn vàng (chính xác là khoảng 16 tấn) ra nước ngoài. Giờ đây lại có thông tin ông ta không mang theo vàng ra nước ngoài. Vậy số vàng ấy có tồn tại hay không và nếu có thì đã nằm trong tay ai?".

Tin đồn về việc "ông Thiệu cuỗm 16 tấn vàng tài sản quốc gia" ngày càng lan rộng vào thời điểm ấy. Trong khi đó, báo chí Sài Gòn, vì nhiều lý do khác nhau, đã không có thông tin gì rõ ràng, và dân chúng hoàn toàn không biết thực hư câu chuyện đó như thế nào cho đến ngày 30-4-1975.

Trong khi đó, một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Mai nhớ lại bản tin 31 năm trước của BBC rằng: "Hồi ông Thiệu đi Đài Loan, BBC tường thuật là có nghe tiếng kim loại lẻng xẻng trong vali, ám chỉ ông Thiệu đã mang 16 tấn vàng trong ngân hàng quốc gia đi...".

Bản tin cuối năm 2005 của BBC do vậy đã gây sự chú ý của nhiều người. Thứ nhất, nó liên quan đến khoản tài sản lớn của quốc gia. Thứ hai, nó khiến nhiều người đặt dấu hỏi về sự chính xác của những "hồ sơ Anh" vừa được giải mật. Vậy chuyện gì đã xảy ra 31 năm trước?

"Lời bác bỏ" gây nghi vấn

Tìm đọc lại những nhật báo Sài Gòn tháng 4-1975, thấy trên mặt báo tràn ngập tin tức chiến sự và di tản. Đột nhiên, nhiều báo ra giữa tháng tư đã đồng loạt đăng một bản tin đáng chú ý về 16 tấn vàng. Như tờ Chính Luận ngày 16-4 đã đăng như sau:

“Phát ngôn viên chính phủ: Hoàn toàn bác bỏ tin 16 tấn vàng.

Sáng nay, được hỏi về vụ có 16 tấn vàng của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Kampuchia Lon Nol chở từ Việt Nam ra ngoại quốc do Hãng AP (Mỹ) loan tin (chi tiết hóa tin của đài BBC loan tải trước đây), phát ngôn viên chính phủ tuyên bố: “Hoàn toàn là tin thất thiệt, đầy ác ý, cố ý bôi lọ”. Phát ngôn viên nhấn mạnh: “Tình trạng loan tin thất thiệt và cố ý bôi lọ của các hãng thông tấn và báo chí ngoại quốc loan đi không phải mới xảy ra mà đã kéo dài từ lâu”.

Lời bác bỏ nói trên dường như xác nhận một điều là vào lúc đó, nhiều hãng tin nước ngoài và các tờ báo lớn có phóng viên thường trú tại Sài Gòn đã cùng đưa tin “tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị mang 16 tấn vàng ra khỏi VN”. Không chỉ BBC, AP mà nhiều tờ báo lớn khác ở Mỹ như Los Angeles Times lúc đó đã đăng tin như sau: “Công ty vận chuyển đường không Balair của Thụy Sĩ vào hôm thứ hai đã xác nhận rằng: họ đã từ chối chở 16 tấn vàng, dường như thuộc quyền sở hữu của tổng thống Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu, từ Sài Gòn sang Thụy Sĩ”.

Những thông tin có dẫn nguồn rõ ràng như thế đã tạo ra nhiều nghi vấn, dù nó đã bị chính quyền Sài Gòn lúc đó bác bỏ. Có lẽ giới báo chí quốc tế ngày ấy đã biết sơ qua về một kế hoạch bí mật từ dinh Độc Lập, và kế hoạch bí mật đó dường như đã bị “xì” ra ngoài “Radio Catinat” - tức các quán cà phê Givral, Brodard... (trên đường Đồng Khởi ngày nay), nơi tụ tập thường xuyên của các nhà báo, dân biểu, chính khách Sài Gòn lúc bấy giờ.

Trong khi dư luận còn bán tín bán nghi thì báo Độc Lập ngày 28-4 đã đăng một bản tin về chuyến ra đi bí mật của ông Nguyễn Văn Thiệu với chi tiết như sau: “Theo tin UPI, Bộ Ngoại giao Đài Loan cho biết cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã đến Đài Bắc bằng phi cơ quân sự Mỹ vào lúc 4 giờ sáng thứ bảy 26-4 với 16 viên chức Việt Nam cộng hòa cùng thân nhân tháp tùng. Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”.

... Có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975. Trong một cuốn sách khá nổi tiếng đã được tái bản khá nhiều lần trong hơn 20 năm qua, người ta đọc được một đoạn “có vẻ chắc chắn” như sau: “Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang còn làm đại sứ (tức ông Nguyễn Văn Kiểu - NV). Thiệu mang theo năm vali chứa đầy đôla. Trước đó, Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi VN 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quí mà gia đình y đã vơ vét được sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống”.

Còn trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia trên mạng Internet, một “sử gia” nào đó đã cung cấp những thông tin “giật gân” hơn nữa: “Martin (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - NV) giúp gia đình Thiệu ra đi, nhưng chỉ cho mang theo đồ vật cá nhân nhỏ. Thế là tay cựu tổng thống và bà vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh (vợ Thiệu) đã xoay xở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng quốc gia bằng cách ép dọa thuộc cấp. Bà ta cho chuyển phần lớn số vàng thỏi ấy lên một chiếc máy bay thuê của Hãng hàng không Thụy Sĩ. Nhưng các phi công, sau khi khám phá ra đó là vàng, đã hỏi sứ quán Thụy Sĩ và cuối cùng từ chối không chở nữa. Lý Long Thân (chồng em nuôi vợ Thiệu) nhảy vào cứu nguy. Thân ra lệnh chở vàng bằng tàu Trương Tinh đi Pháp, để sau này Thiệu nhận lại ở đó”.

Có khá nhiều “dị bản” như thế xung quanh chuyện ra đi và tẩu tán vàng của ông Nguyễn Văn Thiệu năm 1975. Trong đó, “dị bản” của BBC là mới nhất và bị phê phán nhiều nhất.

BÙI THANH


Vậy chuyện gì đã xảy ra với 16 tấn vàng tài sản quốc gia? Những nhân chứng sẽ cho biết về chuyến ra đi đầy bí mật của ông Nguyễn Văn Thiệu do CIA tổ chức vào một đêm cuối tháng 4-1975.

Kỳ 2: Chuyến ra đi bí mật

Ông Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức và chửi Mỹ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo" - Ảnh tư liệuTT - Kỳ trước, chúng tôi đã thuật lại tin tức trên báo chí Sài Gòn và những “dị bản” về chuyện 16 tấn vàng tài sản quốc gia. Những thông tin đó vào cuối tháng 4-1975 đã gắn chặt với chuyến ra đi bí mật của ông Thiệu. 16 tấn vàng đã lên máy bay cùng ông Thiệu? Vào lúc đó không ai được biết.

Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?

Ông Thiệu đã từ chức ra sao?

Vào đầu tháng tư, sau khi quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng và hành quân thần tốc về phía Nam, chiếc ghế tổng thống của ông Thiệu đã bắt đầu lung lay.

Lúc đó, người Mỹ, kể cả những người Pháp ở sứ quán Sài Gòn, đang toan tính về một giải pháp thương lượng với Hà Nội. Ông Thiệu trở thành vật cản lớn cho những toan tính đó. Theo hồi ký của nhân viên CIA tại Sài Gòn Frank Snepp, ngày 13-4 trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar đã gửi về Washington một bản tường trình có chủ ý: "Nhiều sĩ quan cao cấp và nhân vật chính trị muốn tổng thống Thiệu từ chức để tránh một thất bại quân sự hoàn toàn". Bản tường trình đó có nhắc đến hai từ "đảo chính".

Và tấm bia mộ chính trị của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã được tạc vào chiều 17-4 khi đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin quyết định đề nghị với Nhà Trắng một phương án: Thiệu phải ra đi! Theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (người sau này đã phỏng vấn Martin nhiều lần tại Mỹ), đại sứ Martin đã gửi mật điện cho ngoại trưởng Kissinger như sau: "Tôi sẽ cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu xuống thì các tướng lĩnh dưới quyền ông ta sẽ bắt buộc ông ta làm điều này. Có một cách rút lui êm đẹp nhất là tự ý ông từ chức…".

Ba ngày sau, đại sứ Martin đến gặp ông Thiệu để nói thẳng điều đó, trong cuộc trò chuyện căng thẳng kéo dài hơn một giờ rưỡi.

... Tối đó (tức ngày 20-4), tổng thống Thiệu quyết định từ chức. Và trưa ngày hôm sau, ông ta triệu tập phó tổng thống Trần Văn Hương và tướng Trần Thiện Khiêm đến dinh Độc Lập, báo cho hai người đó biết ông ta sẽ tuyên bố từ chức tối nay. Thiệu chỉ có một yêu cầu: việc chuyển giao quyền lực được thực hiện theo đúng hiến pháp để tránh lộn xộn...

Tại sao Frank Snepp biết chính xác nội dung cuộc gặp đó và thuật lại như trên trong cuốn Decent Interval (đã được dịch ra tiếng Việt với tựa đề Cuộc tháo chạy tán loạn)? Câu trả lời thật đáng kinh ngạc: máy nghe lén của CIA đặt bí mật trong phòng làm việc của tổng thống Thiệu tại dinh Độc Lập đã truyền đi từng lời nói về trụ sở CIA tại Sài Gòn.

Tối 21-4, sau khi tuyến phòng thủ quan trọng nhất của quân đội Sài Gòn là Xuân Lộc đã bị quân giải phóng chọc thủng, ông Nguyễn Văn Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức tổng thống. Trong cuộc diễn thuyết kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ, ông ta vừa khóc lóc bảo vệ mình trước lịch sử, vừa lên án gay gắt sự phản bội của chính quyền Mỹ:

... Nếu tôi không nói rằng các ông đã bị cộng sản đánh bại ở VN thì tôi cũng xin thưa rằng các ông cũng không thắng được họ. Nhưng các ông đã tìm được một lối tháo lui trong danh dự. Và bây giờ khi quân đội chúng tôi thiếu súng ống, đạn dược, trực thăng, phi cơ và B52, các ông lại bắt chúng tôi làm một việc như lấp cạn bể Đông, tỉ như các ông cho tôi ba đồng bạc mà bắt chúng tôi lấy vé máy bay hạng nhất, thuê phòng ngủ 30 đồng một ngày, ăn bốn năm miếng bít-tết và uống bảy tám ly rượu vang một ngày. Thật là phi lý !... (trích nguyên văn)

Và trong cuộc diễn thuyết cuối cùng trên tivi đó, ông Thiệu cũng đã chửi thẳng Hoa Kỳ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo".

Giây phút "nồng ấm" của ông Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Mỹ Lyndon Johnson - Ảnh tư liệuÔng Thiệu đã ra đi như thế nào?

Sau khi từ chức tổng thống, ông Thiệu dọn về ở nhà quốc khách trong khu Hải quân (nay là đường Tôn Đức Thắng). Tài sản riêng của gia đình ông đã được chuyển đi trước đó. Dù không còn quyền hành gì, nhưng sự có mặt của ông Thiệu tại Sài Gòn trong những ngày căng thẳng nhốn nháo đó không phải là một điều hay ho đối với nhiều người.

Theo lời kể của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong cuốn The Palace File (Hồ sơ mật dinh Độc Lập), tân tổng thống Trần Văn Hương đã gọi điện thoại khuyên ông Thiệu nên sớm rời khỏi VN. Ông Hương cũng đề nghị đại sứ Mỹ Martin dàn xếp giùm cho chuyến ra đi của ông Thiệu.

Cùng lúc ấy, ông Nguyễn Văn Kiểu, em ông Thiệu, cũng bay về nước khuyên ông Thiệu sớm ra đi và địa chỉ đến an toàn nhất là Đài Loan (vì ông Kiểu đang làm đại sứ VN cộng hòa tại Đài Loan). Cũng theo tiến sĩ Hưng, để sự ra đi của ông Thiệu được hợp pháp, tổng thống Hương đã ký quyết định cử ông Thiệu làm đặc sứ của VN cộng hòa đi Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (ông Tưởng Giới Thạch mất ngày 5-4).

Ngày 25-4, ông Thiệu ra đi lặng lẽ không cờ không trống. Và cũng không có một quan chức người Việt nào tiễn đưa ông cựu tổng thống hết thời. Trớ trêu thay, những người đưa ông ra sân bay lại là các nhân viên CIA Mỹ tại Sài Gòn, trong đó có Frank Snepp. Frank Snepp chính là người lái xe đưa ông Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhất.

Đó là một chuyến ra đi bí mật trong đêm. Nhưng ông Thiệu có mang theo 16 tấn vàng không? Theo lời Frank Snepp thuật lại trong cuốn Decent Interval, vào chiều 25-4, nhóm CIA tại Sài Gòn bất ngờ nhận được lệnh đưa cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra nước ngoài trên một chuyến bay đặc biệt của quân đội Mỹ.

...Khoảng 20g30, bốn người chúng tôi (tức bốn tay nhân viên CIA tại Sài Gòn: Charles Timmes, Thomas Polgar, Joy Kingsley và Frank Snepp - NV) đi ba xe đến bộ tổng tham mưu Nam Việt Nam. Nhà Khiêm nằm trong khu vực này. Chúng tôi không thể không tính đến việc tái diễn cuộc ám sát như đã xảy ra đối với anh em Diệm - Nhu trước đó. Chúng tôi vạch kế hoạch: nếu có những sĩ quan trẻ nào đó trong quân đội Sài Gòn ngăn chúng tôi lại trên đường đi và có ý định bắt, tức thì chúng tôi sẽ nổ súng…

Hơn 21 giờ, đoàn xe CIA dừng trước nhà ông Khiêm, đợi ở đó. Một lát sau, chiếc Mercedes đưa đến "một người tầm thước, tóc bạc và chải lật ra sau, mặt bôi kem, quần áo chỉnh tề". Đó là ông Nguyễn Văn Thiệu, mà theo Frank Snepp, trông giống một người mặc quần áo quảng cáo trên một tạp chí châu Á hơn là một nguyên thủ quốc gia.

...Ít phút sau, có mấy người lực lưỡng, mỗi người xách một vali nặng đi đến chỗ xe chúng tôi và xếp vali vào.

Tiếp đó Thiệu, Khiêm, Polgar, Timmes cùng một vài nhân vật người Việt (phụ tá và cận vệ) bước nhanh ra khỏi cửa nhà Khiêm rồi chui vào xe. Thiệu ngồi xe tôi, ở ghế đằng sau, giữa Timmes và một người Việt. Timmes khuyên ông Thiệu: tổng thống ngồi thấp xuống để được yên ổn!

Đoàn xe lao nhanh về phía sân bay Tân Sơn Nhất. Trên đường băng, một chiếc máy bay bốn động cơ C118 của không quân Mỹ đang đậu ở đấy. Đại sứ Mỹ Martin và các tay súng thủy quân lục chiến Mỹ mặc thường phục đã có mặt ở đó từ lâu. Ông Thiệu và ông Khiêm rời xe, lặng lẽ lên máy bay. Những nhân viên tùy tùng theo sau, tay xách vali…

Như vậy, theo Frank Snepp, chuyến bay đặc biệt đêm 25-4 chở ông Thiệu qua Đài Loan không mang theo 16 tấn vàng. Bởi không thể nào nhét số lượng vàng thỏi khổng lồ ấy vào mấy chiếc vali xách tay được. Còn trước đó một ngày, bà Mai Anh, vợ ông Thiệu, cũng đã bay sang Bangkok (Thái Lan) trên một chuyến bay thương mại bình thường.

BÙI THANH

Vậy 16 tấn vàng ở đâu? Hay chuyện tẩu tán tài sản quốc gia vào thời điểm Sài Gòn lộn xộn đó chỉ là tin vịt trên báo chí?
Không, đó là một kế hoạch có thật, được vạch ra bí mật tại dinh Độc Lập từ đầu tháng 4-1975. Kế hoạch đó được vạch ra nhằm tìm kiếm một chút ánh sáng cuối đường hầm.

Kỳ tới: Không có ánh sáng cuối đường hầm