Saturday, April 5, 2008

NÓI VỚI CÁC BẠN TRẺ TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG


L.S. NGUYỄN HỮU THỐNG


Biển Đông với Hoàng Sa, Trường Sa và Vịnh Bắc Việt là một vấn đề rối mù. Rối mù về địa lý, về pháp lý và nhất là do chiến thuật hỏa mù của Trung Quốc. Do đó, chúng ta cần trình bày vấn đề minh bạch và đơn giản.

VỀ ĐỊA LÝ


Hoàng Sa gồm 13 đảo san hô tí hon tại các vĩ tuyến 17-15 Bắc, phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Trường Sa với 9 đảo nhỏ hơn nữa tại các vĩ tuyến 12-7 Bắc, dọc từ Cam Ranh về Nam Cà Mau. Có khoảng 500 đảo, cồn, đá, bãi nằm rải rác trên biển cả, từ Việt Nam qua Phi Luật Tân, không có thường dân cư ngụ và không tựï túc về kinh tế. Trong số này chỉ có hơn 50 đơn vị có địa danh, gồm 28 cao địa và hơn 20 đơn vị đá chìm và bãi ngầm.

a) Từ 1974 Trung Quốc chiếm toàn thể HOÀNG SA gồm 13 đảo:

7 đảo phía Đông Bắc thuộc Nhóm Tuyên Đức (Amphitrite) trong đó có Đảo Phú Lâm (Woody Island) hình bầu dục, diện tích 1.3km2. Nếu là hình chữ nhật, bề dài có thể là 1300m và bề ngang 1000m (bằng một công viên nhỏ). Phú Lâm là đảo lớn nhất tại Hoàng Sa và Trường Sa.

6 đảo phiá Tây Nam thuộc Nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent), trong đó có Đảo Hoàng Sa (Pattel) rộng 0.56km2 bằng 1/2 Phú Lâm và bằng 1/1000 Phú Quốc (568 km2).

b) Vùng biển TRƯỜNG SA bao la (180.000 dậm vuông) rộng gấp 10 lần Hoàng Sa, nhưng chỉ có 9 tiểu đảo.

Việt Nam chiếm 3 đảo: Trường Sa (Spratley), Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sincowe).

Phi Luật Tân chiếm 5 đảo: Bình Nguyên (Flat), Vĩnh Viễn

(Nanshan), Bến Lộc (West York), Loại Tá (Loaita) và Thị Tứ (Thitu).

Đài Loan chiếm Đảo Thái Bình (Itu Aba).

Đảo Trường Sa diện tích 0.13km2, bằng 1/10 Phú Lâm.

Có tin mới đây Đài Loan đã rút quân khỏi Đảo Thái Bình, hòn đảo lớn nhất tại Trường Sa.

Ngoài 3 đảo, Việt Nam còn chiếm 3 cồn (cay) là An Bang (Amboyna), Song Tử Tây (SouthWest) và Sơn Ca (Sand), cùng 7 đá nổi, 9 đá chìm và bãi ngầm, tổng cộng 22 đơn vị.

Ngoài 5 đảo, Phi Luật Tân còn chiếm 3 cồn , 2 đá nổi và 8 đá chìm, tổng cộng 18 đơn vị.

Trung Quốc chiếm 2 đá nổi (reef) là Đá Chữ Thập (Fiery Cross) và Đá Ga Ven (Gaven), cùng 6 đá chìm, tổng cộng 8 đơn vị.

Câu hỏi đặt ra là: Tại sao từ 1974 khi Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa, và nhất là từ 1988 khi xâm lấn Trường Sa, họ lại không thừa thắng xông lên để chiếm thêm một số hải đảo mà phải lấy một hòn đá (Đá Chữ Thập) làm địa điểm chỉ huy ?

Thực ra Trung Quốc chỉ muốn thương thảo song phương với các quốc gia duyên hải về phương thức khai thác chung dầu khí tại thềm lục địa (không phải của họ).

VỀ PHÁP LÝ


Địa cầu gồm 3 phần đất và 7 phần nước. Nếu có luật quốc tế cho các lãnh thổ thì cũng phải có Luật Biển cho vùng lãnh hải. Năm 1982, 119 quốc gia ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (Law of the Sea Convention hay Los Convention) trong đó có Trung Quốc và Việt Nam.

Sau đây là định nghĩa về biển lịch sử, đường căn bản, biển lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh te,á thềm lục địa, hải đảo và quần đảo.

1. Biển Lịch Sử ( historic waters).

Theo Toà Án Quốc Tế và Điều 8 Luật Biển, biển lịch sử là nội hải nằm về phía đất liền, bên trong đường căn bản của biển lãnh thổ. Như vậy biển lịch sử không thể là Nam Hải cách lục địa Trung Hoa tới 2 000 cây số.

2. Đường căn bản (baselines) là lằn nước thủy triều xuống thấp.

3. Biển lãnh thổ (territorial sea) rộng 12 hải lý tính từ đường căn bản ra khơi.

4. Nối tiếp biển lãnh thổ 12 hải lý là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý để đánh cá. (Exclusive Economic Zone, 200-mile-fishery zone). 5. Vùng Đặc Quyền Kinh Tế trùng điệp với Thềm Lục Địa (Continental Shelf) 200 hải lý để khai thác dầu khí.

Thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải trong việc khai thác dầu khí. Quyền này không tùy thuộc vào điều kiện chiếm cứ (occupation) hay công bố (declaration) (Điều 77). Do đó việc Trung Cộng chiếm đóng một số đảo, đá, bãi tại Hoàng Sa và Trường Sa không có tác dụng tước đọat chủ quyền của Việt Nam tại thềm lục địa.

6. Hải đảo và quần đảo

Các hải đảo (như Đài Loan hay Tích Lan) được quyền có biển lãnh thổ 12 hải lý, và quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Tuy nhiên, các tiểu đảo không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế (như Hoàng SaTrường Sa) không được hưởng quy chế này. (Điều 121).

Trong án lệ Lybia/Malta (l985) Tòa án không đồng hóa đảo Malta với lục địa, dầu rằng Malta có 350 ngàn dân cư ngụ trên một diện tích 122 dậm vuông.

Theo định nghĩa, quần đảo bao gồm các hải đảo nằm san sát bên nhau và có diện tích ít nhất bằng 1/9 vùng biển nơi tọa lạc (như các quần đảo Nam Dương hay Phi Luật Tân).

Như vậy:

1) Hoàng Sa Trường Sa không phải là "quần đảo" luật định vì có diện tích quá nhỏ (4 dặm vuông) trong một vùng biển bao la (180 ngàn dặm vuông).

2) Các tiểu đảo (trên 20 hòn) tại Hoàng Sa Trường Sa không phải là "đảo" luật định, và không được hưởng quy chế 200 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí.

ĐẤU LÝ VÀ ĐẤU PHÁP


Năm l982 với tư cách một ngũ cường, Trung Hoa hoan hỉ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong, Bắc Kinh mới thấy lo! Những điều khỏan trong Công Ứóc đã quá rõ rệt. Các quốc gia duyên hải chỉ được hưởng quy chế 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kể từ biển lãnh thổ. Trong khi đó Trường Sa cách lục địa Trung Hoa khoảng 750 hải lý, nên không nằm trong thềm lục địa của Trung Hoa. Hoàng Sa cũng cách Hoa Lục lối 270 hải lý.

Tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn ra Hoàng Sa.Về địa hình, Hoàng Sa là một hành lang của Trường Sơn từ Cù Lao Ré ra khơi. Đây là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất học quốc tế Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc đã lập phúc trình và kết luận: "VỀ MẶT ĐIA CHẤT, NHỮNG ĐẢO HOÀNG SA LÀ THÀNH PHẦN CỦA VIỆT NAM" (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).

Tại Trường Sa cũng vậy. Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo cồn đá bãi Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại bãi Tứ Chính , nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400m, và tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách lục địa Trung Hoa tới 780 hải lý. Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lý và cách Hoa Lục 750 hải lý. Từ Trường Sa về bờ biển Trung Hoa có rãnh biển sâu hơn 4.600m.

Bị ràng buộc bởi Luật Biển với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, Trung Hoa tung ra CHIẾN DỊCH HỎA MÙ, gây bất ổn, tranh chấp lung tung, thao diễn, phóng hỏa tiễn, lấn chiếm bừa bãi tại miền bờ biển để gây tiếng vang. Mục đích để phá rối an ninh trật tự, làm cản trở giao thông trên mặt biển, tạo áp lực, hù dọa và khuyến dụ các quốc gia Đông Nam Á hãy tạm gác vấn đề tranh chấp chủ quyền hải đảo để cùng nhau KHAI THÁC DÂÙ KHÍ CHUNG TẠI THỀM LỤC ĐỊA VÀ ĐÁNH CÁ CHUNG TẠI VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ.

BIỂN LICH SỬ: THỦ ĐẮC CHỦ QUYỀN DO KHÁM PHÁ


Năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong suốt 10 năm để kết luận rằng Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Hoa Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển Việt Nam, cách Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Natuna (Nam Dương) 30 hải lý, và cách Palawan (Phi Luật Tân) 25 hải lý. Nó chiếm trọn 3 tuí dầu khí: Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân. Trung Quốc đưa ra nhiều tài liệu lịch sử để chứng minh rằng từ đời Hán Vũ Đế 100 ngàn hải quân Trung Hoa đi tuần thám đã khám phá các đảo Nam Hải. Sự khám phá này được tiếp tục dưới đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh.

Những tài liệu lịch sử này không đáng tin cậy:

1. Chính sách bế quan tỏa cảng.

Suốt chiều dài lịch sử, Trung Hoa không bao giờ chủ trương chinh phục đại dương. Thuyết bế quan tỏa cảng được áp dụng từ đời nhà Tần (thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Vạn Lý Trường Thành không chỉ là một kiến trúc mà còn là một nhân sinh quan. Miền bờ biển được coi là nơi hoang vu man rợ. Đảo Hải Nam là chốn lưu đày các tù nhân biệt xứ. Cho đến thế kỷ 20, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành. Với tâm lý tự cô lập, không thể có 100 ngàn quân Trung Hoa đời Tây Hán đi khám phá các đảo san hô tí hon tại Nam Hải. Rất có thể đó chỉ là 10 vạn quân của Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du đánh tan trong trận Xích Bích.

Các chuyến hải hành đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh chỉ là những cuộc nam chinh nhằm thôn tính Việt Nam. Lịch sử đã ghi việc Lê Đại Hành phá tan thủy binh của Lưu Trừng nhà Tống, quân Trần Hưng Đạo bắn chết Toa Đô và bắt sống Ô Mã Nhi nhà Nguyên, Lê Lợi đánh bại hải quân tiếp viện cho Vương Thông nhà Minh, và Quang Trung phá tan hải quân của đề đốc Hứa Thế Hanh nhà Thanh. Việc các thủy binh đời Minh Thành Tổ đi thăm viếng các quốc gia Á Châu nếu có, cũng không có tác dụng thủ đắc chủ quyền tại các hải đảo. Từ thế kỷ l5, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha như Vasco de Gama và Magellan đã đi xuyên 3 đại dương từ Đại Tây Dương, vượt Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương, khám phá hàng ngàn hải đảo kể cả Phi Luật Tân và Guam. Nhưng Bồ Đào Nha cũng không đòi chủ quyền các hải đảo này.

2. Danh xưng Nam Hải.

Theo chính các học giả Trung Hoa, Nam Hải là tên biển của Hoa Nam, cách Quảng Đông 50 dậm về phía Nam. Các nhà hàng hải Tây Phương muốn cho tiện nên gọi đó là Biển Nam Hoa (South China Sea) (ngọai nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).

Theo Tự Điển Tối Tân Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông năm 1971 thì "Nam Hải là vùng biển kéo dài từ Eo Biển Đài Loan đến Quảng Đông". (The Southern Sea stretching from the Taiwan Straits to Kwantung.)

Theo Từ Điển Từ Hải xuất bản năm 1948, thì Nam Hải thuộc chủ quyền hải phận chung của 5 nước là Trung Hoa, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Đài Loan.

DO ĐÓ NAM HẢI KHÔNG PHẢI LÀ BIỂN CỦA TRUNG HOA VỀ PHÍA NAM. CŨNG NHƯ ẤN ĐỘ DƯƠNG KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI DƯƠNG CỦA ẤN ĐỘ.

Năm 1983, Trung Quốc vẽ lại bản đồ, đòi chủ quyền hải phận toàn thể vùng biển Đông Nam Á. Họ coi Nam Hải là một thứ nội hảiï theo kiểu Đế Quốc La Mã coi Địa Trung Hải là biển của chúng tôi (Mare Nostrum).

3. Luật pháp và án lệ.

Theo Tòa Án Quốc Tế, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa, Điều 8 Công Ước về Luật Biển (l982) đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy định: "Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia nằm về phía đất liền, bên trong đường căn bản của biển lãnh thổ" [The International Court of Justice has defined historic waters as internal waters. "Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal waters of the State" Art.8 Los Convention (1982)].

Như vậy Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Hoa, vì nó là ngoại hải và cách bờ biển Trung Hoa tới hai ngàn cây số.

Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Quốc chỉ là công "dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!"

THỦ ĐẮC CHỦ QUYỀN DO CHIẾM CỨ


Theo công pháp quốc tế, muốn thủ đắc chủ quyền các đất vô chủ (terra nullius), sự chiếm cứ phải có những đặc tính sau đây:

a) Chiếm cứ thực sự

Tại Trường Sa trong số 28 cao địa, Trung Hoa chỉ chiếm 2 đá nổi, trong khi Việt Nam chiếm 13. Và trong hơn 50 đơn vị có địa danh, Trung Hoa chỉ chiếm 8, so với 22 của Việt Nam.

b) Chiếm cứ hòa bình.

Trong những năm 1974 và 1988 Trung Hoa dùng võ trang chiếm Hoàng Sa và một số đá, bãi tại Trường Sa. Tuy nhiên sự chiếm cứ không có tính hòa bình nên không được luật pháp bảo vệ. Cũng như thời Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản chiếm Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có chủ quyền hợp pháp.

c) Chiếm cứ liên tục và trường kỳ

Không có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ công khai, liên tục, hòa bình các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi rõ:

République Francaise (Cộng Hòa Pháp)
Empire d'Annam (Vương Quốc Việt Nam)

Archipel des Paracels (Quần Đảo Hoàng Sa)

1816 -Ile de Pattle 1938 (Đảo Hoàng Sa)

Lịch sử Trung Hoa không mang lại bằng chứng nào cho biết họ đã liên tục chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế hay ít nhất từ đời Mãn Thanh.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi quân đội Nhật Bản rút lui, Trung Hoa chiếm một phần Hoàng Sa (Nhóm Tuyên Đức phía Đông Bắc). Năm 1974 họ dùng võ trang chiếm nốt Nhóm Nguyệt Thiềm phía Tây Nam. Tại Trường Sa lần đầu tiên, năm l988, họ chiếm một số đá, bãi bằng võ lực. Sự chiếm cứ này vô hiệu vì không có tính hòa bình. Vả lại tới l974 và l988 các đảo Hoàng Sa-Trường Sa đã do Việt Nam chiếm đóng, nên không thể coi là đất vô chủ (terra nullius).

d) Hơn nữa sự chiếm cứ phải được thừa nhận bởi các quốc gia liên hệ.

1) Năm 1951 tại Hội Nghị Cựu Kim Sơn, 51 quốc gia đồng minh ký Hiệp Ước Hòa Bình Nhật Bản trong đó Nhật Bản từ bỏ chủ quyền về Hoàng Sa Trường Sa, nhưng không nói để trả cho nước nào. Đại biểu Liên Xô yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trả cho Trung Hoa. Nhưng Hội Nghị đã bác bỏ thỉnh cầu này với 46 phiếu chống. Sau đó phái đòan Việt Nam lên diễn đàn minh thị công bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa Trường Sa, và không gặp sự phản kháng nào.

2) Sự thừa nhận chỉ có nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia duyên hải liên hệ. Vì các đảo này tọa lạc tại Biển Đông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Đông Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhận. Mà cho đến nay tất cả các quốc gia Đông Nam Á không nước nào thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa Trường Sa.

3) Tuy nhiên Bắc Kinh còn viện dẫn văn thư ngày 14-9-1958 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi Thủ Tướng Chu Ân Lai để chủ trương rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Về mặt pháp lý sự thừa nhận này vô giá trị. Vì Trường Sa HoàngSa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa. Vấn đề lãnh thổ và lãnh hải thuộc thẩm quyền của quốc dân do quốc hội đại diện, chứ không thuộc hành pháp là cơ quan chấp hành luật pháp của quốc hội. Vả lại Quốc Hội Việt Nam trong những năm 1956 và 1966 đã công bố chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Một văn thư của Chính Phủ Hà Nội năm 1958 không có hiệu lực thừa nhận chủ quyền các hải đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hồi đó.

THỀM LỤC ĐỊA


Vấn đề thực sự tại Trường Sa Hoàng Sa là vấn đề thềm lục địa nơi khai thác dầu khí.

Về Trường Sa.

Tại Trường Sa bãi dầu khí Tứ Chính (Vanguard) cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách bờ biển Trung Hoa lối 780 hải lý, nên thuộc thềm lục địa Việt Nam.

Về Hoàng Sa.

Hoàng Sa cách bờ biển Trung Hoa khoảng 270 hải lý và cách bờ biển Việt Nam lối 155 hải lý nên thuộc thềm lục địaViệt Nam. Khỏang cách từ cù lao Ré (Quảng Ngãi) ra đảo Tri Tôn chỉ có 123 hải lý. Về mặt địa hình đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy Trường Sơn từ đất liền chạy ra biển. Có thể nói Hoàng Sa là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Chiếu Luật Biển 1982 quyền của các quốc gia duyên hải tại thềm lục địa không tùy thuộc vào sự chiếm cứ (Điều 77). Do đó sự chiếm đóng võ trang của quân đội Trung Hoa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền của Việt Nam tại thềm lục địa Hoàng Sa.

CÁC TIÊU CHUẨN:


Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc và Toà Án Quốc Tế đưa ra 10 tiêu chuẩn để phân ranh hải phận hay đồng hóa hải đảo vào lục địa:

1) Vị trí của các đảo đối với bờ biển tiếp cận. Tại vùng Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách lục địa Việt Nam 135 hải lý, trong khi đảo Hoàng Sa cách lục địa Trung Hoa tới 270 hải lý.

2) Diện tích các hải đảo so sánh với chiều dài bờ biển tiếp cận. Đảo Hoàng Sa quá nhỏ bé (0.56km2) chỉ bằng 1/1000 đảo Phú Quốc (568km2), trong khi bờ biển Việt Nam dài gấp 10 lần bờ đảo Hải Nam phía tiếp giáp Hoàng Sa.

3) Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo, cồn, đá, bãi Hoàng Sa và Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên từ lục địa Việt Nam ra biển. Độ sâu tại Hoàng Sa là 900m và tại Trường Sa là 200m. Từ Hoàng Sa Trường Sa về Hoa Lục có 2 rãnh biển sâu hơn 2300m và 4600m.

4) Về mặt địa chất, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc, năm 1925 Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempt xác nhận rằng "Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam ".

5) Về dân số, các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có thường dân cư ngụ, và không thể tự túc về kinh tế. Trong khi đó số dân cư ngụ tại miền bờ biển Việt Nam đông gấp mười số dân sinh sống tại đảo Hải Nam.

6) Về sinh thực học và khí hậu tại Hoàng Sa và Trường Sa, các đảo san hô cũng như cây cỏ và sinh vật tiêu biểu cho vùng nhiệt đới (Việt Nam ), chứ không thấy ở vùng ôn đới (Trung Hoa).

7) Về Khu Đặc Quyền Kinh Tế (để đánh cá), Biển Đông (với Hoàng Sa và Trường Sa) là khu vực đánh cá căn bản của Việt Nam. Trong khi đó, ngoài hải phận về phía Tây, Đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý để đánh cá về phía Đông thông qua Thái Bình Dương,.

8) Tại thềm lục địa Việt Nam những vùng có dầu khí nằm giữa Vịnh Bắc Việt và khu bãi Tứ Chính phía Đông Nam Cà Mau. Đây là nơi kết tầng các thủy tra thạch chứa đựng các chất hữu cơ do nước phù sa sông Hồng Hà và sông Cửu Long đổ ra biển từ hàng triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam chứ không phải từ Hoa Lục. Hơn nữa, ngoài hải phận về phía Tây, Đảo Hải Nam còn được 200 hải lý thềm lục địa để khai thác dầu khí về phía Đông thông qua Thái Bình Dương.

9) Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa có ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng mật thiết với Việt Nam hơn là Trung Hoa. Vì Trung Hoa còn có biển Hoàng Hải và Đông Trung Quốc Hải chạy thông qua Thái Bình Dương.

10) Các tài liệu, sách báo, họa đồ, các chứng tích lịch sử v...v... phải có tính xác thực. Dầu sao các tài liệu này không có giá trị bằng các yếu tố khách quan khoa học như địa lý, địa hình, địa chất, dân số, sinh thực học, khí hậu cùng những yếu tố về ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.

VỀ VỊNH BẮC VIỆT


Vấn đề phân ranh thềm lục địa hay hải phận tại Vịnh Bắc Việt cũng phải được giải quyết theo 8 tiêu chuẩn: 1) Vị trí và sự hiện diện của các đảo 2) chiều dài bờ biển 3) mật độ dân số 4) độ sâu và địa hình đáy biển 5) địa chất 6) vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá 7) thềm lục địa để khai thác dầu khí 8) ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng. Đây là những điểm đặc thù ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải. Nếu đưa nội vụ ra trước Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa, Tòa Án Trọng Tài hay Tòa Án Quốc Tế, Việt Nam sẽ có ưu thế.

KẾ HOẠCH THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG QUỐC


Theo Công Ước về Luật Biển, các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa khoảng 270 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục lối 750 hải lý, nên không thuộc hải phận của Trung Quốc. Đuối lý về pháp luật, Trung Quốc đưa ra thuyết Biển Lịch Sử để đòi chủ quyền toàn vùng Nam Hải.

Tuy nhiên Tòa Án Quốc Tế và Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển đã bác bỏ thuyết này.

Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Quốc đề ra kế hoạch 4 bước để thôn tính Biển Đông về kinh tế:

1) Ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh (theo đó Việt Nam được 63% hải phận và Trung Hoa được 37%).

Nếu theo đường trung tuyến, Việt Nam sẽ được 53%. Tuy nhiên trên thực tế, phe Cộng Sản không theo đường trung tuyến và đã đưa ra 21 điểm phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45%.

2) Ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá để thiết lập Vùng Đánh Cá Chung rộng 61 hải lýù. Và trên thực tế Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17 và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự đồng lõa cấu kết của đội tuần cảnh duyên hải, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu vực đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.

3) Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí.

Ngày nay tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như "Dự Án Quỳnh Hải" phía Tây đảo Hải Nam và "Dự Án Vịnh Bắc Bộ" phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng "Vịnh Bắc Bộ", Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là củaTrung Quốc thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).

4) Với chính sách vết dầu loang, sau khi hoàn thành kế hoạch hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Vịnh Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Việt. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam.

Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể lãnh hải Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến miền duyên hải Trung và Nam Việt tại Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự thú của đương sự).

Như vậy, thuyết Biển Lịch Sử từng bị Tòa Án Quốc Tế và Công Ước về Luật Biển bác bỏ, nay lại có cơ hội trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước của Trung Quốc để thôn tính Biển Đông.

XÂM LẤN VÀ THÔN TÍNH


Sau đây là tiến trình xâm lấn và thôn tính Biển Đông của Trung Quốc trong 60 năm qua.

Năm 1945, sau Thế Chiến II, quân đội Trung Hoa giải giới quân đội Nhật đã thừa cơ chiếm cứ các đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Tuyên Đức.

Năm 1946 Trung Hoa đổi tên vùng biển Nam Hải thành Đặc Khu Hành Chánh Hải Nam, và đổi tên Hoàng Sa thành Tây Sa và Trường Sa thành Nam Sa.

Năm 1956, để phát động chiến tranh võ trang thôn tính Miền Nam,

Hà Nội phải trông cậy vào sự yểm trợ của Bắc Kinh. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Liên Xô muốn chuyển sang đường lối Chung Sống Hòa Bình. Trong khi đó Mao Trạch Đông vẫn chủ trương "giải phóng 1000 triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản".

Theo luật vay trả, muốn được cưu mang yểm trợ, phải có sự cam kết đền ơn trả nghĩa.

Ngày 15-6-1956, Ngoại Trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố:

"Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa".

Ngày 14-9-1958 do văn thư của Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai,

Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, một tháng sau khi Trung Quốc tiến chiếm Trường Sa, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản, trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: "Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên".

Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luậân việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974, đã viết: "Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !".

Có 3 lý do được viện dẫn cho lời cam kết của Hồ Chí Minh năm 1958:

a) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị - Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu!

b) Sau này, do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?

c) Giả sử cuộc "giải phóng Miền Nam" không thành, thì việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.

Năm 1972, sau thất bại Tết Mậu Thân (1968), để phát động chiến dịch Tổng Tấn Công Xuân Hạ hay Mùa Hè Đỏ Lửa, Hà Nội huy động toàn bộ các sư đoàn chính qui vào chiến trường Miền Nam. Để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Hà Nội đã nhờ 300 ngàn quân Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Trong thời gian này, với thế thượng phong của người thầy cưu mang (và với sự ưng thuận mặc nhiên của Bắc Việt) Trung Quốc tự tiện ấn định Vùng Biển Cấm (Hands-Off Area) tại Vịnh Bắc Việt, cấm ngư dân Việt Nam không được lai vãng. Đây là vùng biển sâu giữa Vịnh có nhiều cá lớn và nhiều tiềm năng dầu khí. Vùng Biển Cấm diện tích 7200 hải lý vuông, rộng 60 hải lý (1 kinh độ) từ kinh tuyến 107 Đông (phía Việt Nam) tới kinh tuyến 108 Đông (phía Hải Nam), và dài 120 hải lý (2 vĩ độ), từ vĩ tuyến 20 Bắc (Ninh Bình) đến vĩ tuyến 18 Bắc (Hà Tĩnh).

Theo lời thú nhận của Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng từ đầu thập niên 1970, trong những cuộc thương thảo phân định lãnh hải, Trung Quốc "kiên trì" đề nghị thiết lập vùng đánh cá chung tại Vịnh Bắc Việt. Với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá năm 2000, Vùng Biển Cấm 60 hải lý từ Ninh Bình đến Hà Tĩnh chồng lấn hay trùng điệp với Vùng Đánh Cá Chung 61 hải lý từ Ninh Bình đến Quảng Bình.

Năm 1974 sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi chiến trường Việt Nam, Trung Quốc thừa cơ chiếm nốt các đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Nguyệt Thiềm. Nếu hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu thì Bắc Việt chỉ làm thinh. Rồi trơ trẽn ngụy biện: "Chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !" (Báo Saigon Giải Phóng).

Năm 1979 Chiến Tranh Việt Trung bùng nổ làm đình hoãn cuộc thương nghị về lãnh thổ và lãnh hải.

Tranh chấp Việt Trung kéo dài từ 1979 đến 1988. Trong thời gian này, ngày 12-11-1982 bằng văn thư gởi Liên Hiệp Quốc để công bố Đường Căn Bản của Biển Lãnh Thổ, Hà Nội đã xác định chủ quyền lãnh thổ Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh (1887) theo đó Việt Nam được 63%.

Từ 1988, khi Liên Xô bị sa lầy tại A Phú Hãn và bị bối rối tại Đông Âu do phong trào Giải Thể Cộng Sản, Gorbachev đưa ra chủ trương không can thiệp vào công việc của các quốc gia đồng minh. Lúc này Hà Nội cũng bị sa lầy tại Căm Bốt. Vì Liên Xô không còn là chỗ tựa, Hà Nội phải muối mặt quay lại thần phục Bắc Kinh. Tháng 4, 1988, một tháng sau khi Trung Quốc xâm lấn Trường Sa, Báo Nhân Dân còn ngụy biện rằng Việt Nam đã nhượng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Quốc để ngăn chận Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên!

Năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam xin tái lập bang giao với Trung Quốc. Và năm 1992 khi Trung Quốc chiếm bãi dầu khí Vạn An phía Đông Nam Cà Mau, Việt Nam cũng chỉ phản kháng chiếu lệ.

Năm 1999, với Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Việt Nam nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 km2 lãnh thổ Bắc Việt.

Năm 2000, với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt, Hà Nội nhượng cho Bắc Kinh từ 12.000 km2 đến 21.000 km2 hải phận.

Ngày 25-12-2004 các phái bộ Trung-Việt tổ chức liên hoan ngày kỷ niệm 4 năm ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp tác Nghề Cá.

Hai ngày sau, ngày 27-12-2004, nhà cầm quyền Bắc Kinh loan báo đã bắt giữ 80 ngư phủ Việt Nam về tội xâm nhập đánh cá bất hợp pháp. Các ngư phủ phản đối, nói họ vẫn truyền nối hành nghề đánh cá tại vùng biển này từ đời ông, đời cha. Nhưng lính tuần duyên Trung Quốc trả lời đã có hiệp định mới, và vùng biển này chính thức thuộc về Trung Quốc. Các ngư phủ không chịu, đòi báo cáo lên đội biên phòng Việt Nam. Lính hải quân Trung Quốc cười ngạo nghễ, ném thuốc nổ gần tàu, rồi lái tầu tuần duyên tông vô các tàu đánh cá khiến 23 ngư dân Việt Nam tại Đà Nẵng và Quảng Ngãi bị chết chìm, 6 người bị thương và 10 tàu đánh cá bị hư hỏng. Một số ngư dân khác tại Bình Định và Khánh Hòa cũng bị xua đuổi không được đến đánh cá tại ngoài khơi vùng biển Hoàng Sa. Những vụ sát hại dã man này không được phổ biến trên báo chí.

Hai tuần sau, ngày 8-01-2005, tại Vịnh Bắc Bộ, các tàu tuần duyên Trung Quốc bao vây và bắn xối xả vào các tàu đánh cá Việt Nam khiến 9 ngư dân Thanh Hóa bị thiệt mạng, 7 người bị thương và 8 người khác bị bắt đem đi.

Khi nội vụ phát giác, nhà cầm quyền Hà Nội còn muốn đổ tội cho "bọn hải tặc". Trong khi đó, một vài tờ báoViệt Nam lại loan tin các ngư phủ Việt Nam bị "tàu nước ngoài" bao vây và dùng súng bắn xối xả. Và các hãng thông tấn ngoại quốc như AFP, Reuters đã xác định rằng đó chính là những tàu tuần duyên Trung Quốc. Vậy mà nhà cầm quyền Hà Nội chỉ dám phản kháng lấy lệ, chỉ lên án những hành động tự phát của các binh sĩ Trung Quốc và yêu cầu trừng phạt những cá nhân phạm pháp.

Thực ra đây không phải là những hành vi tự phát lẻ loi của một số binh sĩ vô trách nhiệm mà là cả một chính sách khủng bố của Trung Quốc để ngăn cấm ngư dân Việt Nam không được đến đánh cá tại vùng biển sâu, dành cho Trung Quốc độc quyền đánh cá, thăm dò và khai thác dầu khí. Hồi tháng 11, 2004, Trung Cộng còn ngang nhiên đưa một giàn khoan dầu khí từ Thượng Hải vào thềm lục địa Việt Nam chỉ cách bờ biển 63 km.

Ngày nay mọi người mới nhìn thấy ý đồ của Trung Quốc: Vùng Đánh Cá Chung quy định trong Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá chỉ là sự biến hình của Vùng Biển Cấm, cấm địa hay cấm hải do Trung Quốc ấn định từ đầu thập niên 1970. Mãi tới tháng 8, 2002 chính phủ Việt Nam mới lên tiếng phản đối việc Trung Quốc ấn định Vùng Biển Cấm đánh cá tại Vùng Đánh Cá Chung.

Từ sau ngày 30-6-2004 khi Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá có hiệu lực thi hành, Trung Quốc tự ban cho họ độc quyền thao túng tại Vùng Biển Cấm trong Vịnh BắcViệt cũng như tại miền duyên hải Trung Việt. Theo ghi nhận của đội biên phòng Việt Nam, nội trong năm 2004, riêng tại vùng biển Đà Nẵng, các tàu thuyền Trung Quốc đã xâm nhập hải phận Việt Nam 1017 lần. Vậy mà không thấy có phản ứng nào về phía Việt Nam.

Thừa thắng xông lên, từ tháng 10 đến tháng 12/2004, lính hải quân Trung Quốc đã sát hại 23 ngư dân Đà Nẵng và Quảng Ngãi.

Ngày 8-1-2005, các tàu tuần duyên Trung Quốc lại dùng đại liên bắn chết 9 ngư dân Thanh Hóa trong Vùng Biển Cấm tại Vịnh Bắc Việt. Đây là những hành động cố sát có dự mưu trong đó Việt Cộng là kẻ đồng lõa bằng cách giúp phương tiện.

Một tuần sau vụ khủng bố 8-1-2005, Trung Quốc đổi giọng, bịa đặt rằng lực lượng tuần duyên Trung Quốc chỉ bắn chết những kẻ cướp có vũ khí khi những người này định cướp tàu đánh cá của Trung Quốc. Độc đáo hơn nữa, các tàu đánh cá (tí hon) của Việt Nam đã nổ súng trước vào các tàu tuần duyên (có trang bị súng đại liên) của Trung Quốc! Vừa đánh trống vùa ăn cướp, Trung Quốc muốn biến vụ cố sát của họ thành vụ cướp biển của hải tặc để đòi quyền tự vệ chính đáng. Theo qui định của Ủy Ban Liên Hợp, đối với các ngư dân hoạt động bình thường, các tàu biên phòng không được dùng võ khí để hăm dọa, bạo hành, đả thương hay cố sát. Các biện pháp xử lý chỉ có tính cách hành chánh như bắt giữ các ngư thuyền vi phạm qui luật, nhưng phải trả tàu và trả tự do cho ngư dân khi có sự bảo lãnh thích đáng.

Trong vụ khủng bố tại Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa, lính tuần duyên Trung Quốc đã giết người vô tội vạ trong chính sách "sát nhất nhân, vạn nhân cụ" (giết một số ngư dân vô tội khiến hàng vạn người khác sợ không dám đi đánh cá tại miền duyên hải xa bờ).

TRƯỚC TÒA ÁN QUỐC DÂN


Tháng 6, 2004 khi các Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có hiệu lực thi hành, thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói, Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền tại hải ngoại đã kết án Đảng Cộng Sản Việt Nam về 4 tội phản bội tổ quốc, với phần chủ văn như sau:

"Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.

"Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để bán nước Biển Đông và dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.

"Năm 1958 bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt Nam cam kết chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

"Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội Tổ Quốc bằng cách cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, và xâm phạm quyền của Quốc Dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của Đất Nước".



T.M. ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN L.S. NGUYỄN HỮU THỐNG

Friday, April 4, 2008

Bài Học Mới Việt Tân

BÀI HỌC MỚI VIỆT TÂN & KINH NGHIỆM CŨ VIỆT MINH.
Trương Minh Hòa

Đại Ma Đầu Hồ Chí Minh, là tên tay sai đắc lực của ngoai bang Liên Sô, được đào luyện từ trường dạy khủng bố, lừa đảo tên là đại học Đông Phương, nên kể từ khi được quan thầy cho xuống núi để gây đại họa cho dân tộc, tung ra hoạt động ở Á Châu, hắn áp dụng kỹ thuật tuyên truyền có bài bản từ sư phụ tận tình chỉ dạy, rút ra từ chủ thuyết Marx Lenin, với sở trường là dùng nhiều thủ đoạn lừa bịp và đã thành công nhờ quần chúng chưa nhận rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa, đảng cướp Cộng Sản và những tên tướng cướp đội lớp cách mạng; từ đất Trung Hoa sau những năm hoạt động bí mật cho phong trào Cộng Sản Quốc Tế được ngụy trang dưới danh nghĩa yêu nước, nên một số tổ chức quốc gia lầm lẫn; đồng thời trên đất khách, hắn cũng đã từng có nhiều quan hệ tình dục với nhiều phụ nữ, kể cả đầy tớ gái trong dinh của tên tướng Tàu, bộ hạ của Mao Trạch Đông Lùn Văn ở tỉnh Vân Nam, trong thời gian tá túc ở đây chờ thời cơ. Đến khi trở về Việt Nam, hắn lợi dụng lòng yêu nước, nhu cầu độc lập tự do, thoát khỏi bàn tay thực dân Pháp để gầy dựng đảng Cộng Sản. Từ một thiểu số trong các tổ chức lớn như Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng ...

Hồ Chí Minh đã lòn vào tổ chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, do nhà ái quốc Hồ Ngọc Lãm, cùng với những người tâm huyết thành lập ở đất Trung Hoa. Vào năm 1944, Nhật đổ bộ vào Đông Dương, thì gã Nguyễn Sinh Cong trở về Việt Nam với cái tên Hồ Chí Minh, hắn tiếm đoạt danh hiệu, tổ chức, hất Nguyễn Hải Thần, là nhân vật có nhiều uy tín thời ấy. Đến năm 1945, để có được danh chánh ngôn thuận nhằm thực hiện những mục tiêu nhuộm đỏ Đông Dương, tạo thế đứng cho khối Cộng Sản Quốc Tế trong tương lai, chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng ra đời, và Hồ Chí Minh lợi dụng danh nghĩa để mật ước mời thực dân Pháp sang cai trị lần thứ nhì qua cái hiệp ước Sainteny tại Fontainbleau ngày 4-6-1946. Sau đó, khi Pháp đổ bộ tái lập chế độ thực dân, thì Hồ là kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Một thời gian ngắn, cái chân tướng Cộng Sản bị lộ dần dần, tên Hồ Chí Minh bèn tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản để thành lập cái hội Nghiên Cứu Mác Xít, nghe qua tưởng đâu là tổ chức nghiên cứu, hiền lành, mang tính cách văn hóa, văn học. Lúc giải tán thì trong tay Hồ chỉ có khoảng 5 ngàn đảng viên nồng cốt, thế mà trong bóng tối, đảng Cộng Sản vẫn âm thầm hoạt động, phát triển, những vụ ám sát, thủ tiêu thường xảy ra khắp nơi, mục tiêu là những người lãnh đạo, có uy tín trong các đảng phái quốc gia; cho nên số đảng viên tăng dần, sang 1946 thì tăng lên đến 15 ngàn, năm 1947 lên 20 ngàn, năm 1948 lên đến 700 ngàn, đến năm 1951 xuất đầu lộ diện với cái tên hờ là"Đảng Lao Động Việt Nam" thì Hồ có đến 760 ngàn đảng viên khắp nơi, thế mới biết Cộng Sản là tổ chức gian manh, nói một đàng làm một nẻo, khi biết được con ác quỷ hiện nguyên hình, với đầy đủ nanh vuốt, thì coi như quá trễ, hậu quả tai hại, kéo dài cho đến ngày nay trên đất nước Việt Nam.

Sau năm 1975, ở hải ngoại có một số tổ chức kháng chiến, phục quốc, chủ trương dùng quân sự để giải phóng đất nước như: Chí Nguyện Đoàn Hải Ngoại Phục Quốc Quân do trung tá Võ Đại Tôn ở Úc Châu phát động, Lực Lượng Biên Thùy Đông Dương với chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, Mặt Trận Quốc Dân do thượng nghị sĩ Phạm Nam Sách phát động, Chính Phủ Việt Nam Tự Do với Nguyễn Hữu Chánh ... nhưng cái tổ chức mang tên dài nhất và cũng gây ồn ào, tranh cãi, lộn xộn nhất sau 1975 là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do phó đề đốc Hoàng Cơ Minh thành lập vẫn còn tồn tại, hoạt động sau vài lần thay tên theo mô thức" bình mới rượu cũ", không khác gì đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập, thay đổi tên nhiều lần, có lúc giải tán, rồi Đảng Lao Động Việt Nam sau 1954 ở miền Bắc, vào miền Nam sau hiệp định Geneve thành Đảng Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam và sau 1975 thì trở về cái tên cúng cơm:" Đảng Cộng Sản Việt Nam". Mặt Trận Hoàng Cơ Minh có chiến khu làm cảnh ở Thái Lan, có tổng vụ hải ngoại và tổ chức mang tên Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến để lo về tài chánh và sự ủng hộ từ quần chúng hải ngoại. Nhìn dàn giá bề ngoài, những người chưa có kinh nghiệm, ngây thơ, lầm tưởng đây là một tổ chức khá qui cũ, có tầm vóc nhất so với các tổ chức khác, nhưng ai ngờ, đây là tổ chức" tốt mả rả đám", với gia đình trị họ Hoàng gồm Hoàng cơ Long, Hoàng Cơ Định, nắm giữ quyền lực và hàng triệu tiền đóng góp yểm trợ kháng chiến của đồng bào hải ngoại. Có thể nói là những người đứng ra thành lập tổ chức có khả năng thu phục quần chúng bằng lừa bịp, khai thác tâm lý yêu nước của những người Việt tỵ nạn, nên lúc đầu nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ vật chất đến tinh thần, một thời được nhiều người tin tưởng vào Mặt Trận là một tổ chức có tần vóc, mạnh nhất, có kế hoạch, sách lược, được thổi phòng qua các cơ quan truyền thông là tờ báo Kháng Chiến, và nhiều nơi có các tờ báo khác yểm trợ, các cơ sở Mặt Trận. Như cây kim dấu trong bọc để lâu ngày cũng lòi ra, nên đợt Đông Tiến 1 với anh hùng Đồng Bò Nguyễn Văn Phùng hy sinh, có làm lễ truy điệu trọng thể khắp nơi, đương nhiên là tổ chức nhận được những món tiển ủng hộ cho những người vì nước quên mình trong các nơi có người Việt định cư; cái chết của anh hùng Đồng Bò thật hào hùng nhưng kẻ hưởng nhiều lợi lộc từ cái chết ấy cũng như nhiều các chết khác của những người yêu nước thật sự, vì bị lầm lẫn đi theo, chính là anh em nhà họ Hoàng ở hải ngoại có nhiều tiền hơn. Đông Tiến 2 vào năm 1987 diễn ra trong thầm lặng, nhưng được các cơ sở Mặt Trận khắp nơi theo sát, yểm trợ, lần nầy phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và nhiều kháng chiến quân hy sinh, bị bắt...và được Mặt Trận dấu nhẹm đến hàng chục năm với những lý do không đứng vững. Đông Tiến 3 với Đào Bá Kế, liều mạng trở về nước từ năm 1989, nhưng đường về quê lắm chông gai, vì Mặt Trận không có kế hoạch, nên nhiều kháng chiến quân bị bắt, nằm trong nhà tù tới ngày nay, chưa nghe ai ngó ngàng tới.

Mặt Trận Hoàng Cơ Minh với con số kháng chiến quân ít ỏi chừng vài trăm người ở mặt trân chính nơi biên thùy, là thực tế, trái với thời kỳ vào những năm đầu lập chiến khu, họ tuyên bố có tới hơn 10 ngàn người, con số thổi phòng quá đáng, là điều gian dối, làm mất uy tín của tổ chức. Chính vì cần nhân sự nên Mặt Trận thu nhận người vào chiến khu bừa bãi, là cơ hội ngàn vàng cho gián điệp Cộng Sản xâm nhập: ngoài những người tại các trại tỵ nạn Thái Lan tình nguyện, một số ít từ hải ngoại trở về chiến khu, còn có những bộ đội Cộng Sản đào ngũ từ đất Miên, nên ba đợt chiến dịch Đông Tiến hình như đã bị Cộng Sản biết trước, chận đánh, thế mới tai hại; dù Mặt Trận có những qui luật rất gắt gao theo như quyển hồi ký Hành Trình Người Đi cứu Nước của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng, nhưng sự tổn thất nhân mạng khó tránh khỏi, cho nên Mặt Trận đã thật sự tan rã ngay trên vùng đất khách sau ba đợt Đông Tiến, chớ không thể xâm nhập vào quê hương. Tuy vậy, bộ phận hải ngoại là nơi hoạt động"chống Cộng mạnh nhất" và ít nguy hiểm nhất, như lính kiểng, lính cậu, lính văn phòng ở hậu cứ thì ít bị ăn đạn hơn là lính tác chiến; một điều chắc chắn là Cộng Sản Việt Nam không thể mang những sư đoàn thiện chiến như 304, 302, 320, 308 ... công an, vượt biên giới đến Hoa Kỳ, Úc, Âu Châu ... để đánh như họ đã thực hiện ở trên đất Lào qua 3 đợt Đông Tiến. Chính cái Mặt Trận" kháng chiến giải thể chế độ Cộng Sản" trên chiến trường ở hải ngoại nầy không nguy hiểm, dể hoạt động, gây được thanh thế, danh vọng cá nhân mà có một số người tham gia, ngày nay vẫn chưa buông, vẫn một lòng trung thành; dù có một số người nồng cốt như đại tá Phạm Văn Liễu, là tổng vụ trưởng hải ngoại, đã" trả lại ta sông núi" sau thời gian hợp tác, Tiến sĩ Cao Thế Dung cũng" tạ từ trong đêm" và được lãnh viên đạn chí mạng vào đầu, Đại tá Cảnh Sát Trần Minh Công, phát ngôn viên Mặt Trận cũng biệt tích giang hồ từ lâu ... Một tổ chức có mục đích tối hậu là" giải thể chế độ Cộng Sản" nhưng lại không có thực lực trong nước, thì làm sao thắng được giặc, muốn bắt cọp phải vào tận hang ổ, tổ chức chống Cộng mà không tiếp cận với kẻ thù, thì làm sao có thể đem tự do dân chủ cho dân? Chẳng lẽ" đánh võ mồm" thì biết đến bao giờ mới thấy được nước Việt Nam có tự do dân chủ thật sự?. Đã lỡ lên lưng ngựa, những người lãnh đạo Mặt Trận cố gắng đưa ra những phương hướng hoạt động nhằm cứu vãng tình hình, và họ đã thành công lúc đầu; đó là việc thành lập những "cánh tay nối dài" sau ba đợt chiến dịch hoàn toàn thất bại nhằm tung hỏa mù khỏa lấp chuyện suy yếu ở tiền tuyến bằng cách phô trương sức mạnh ở hậu phương, là một chiến trường không cần thiết, nhưng có lợi về mặt tài chánh và có khả năng thu hút nhân sự hải ngoại, chờ thời cơ; cho nên những tổ chức ngoại vi như Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia Việt Nam ... sau thời gian hoạt động ồn ào bằng truyền thông, mà người ta gọi là" đánh giặc bằng mồm". Cuối cùng, nhắm không ổn, bèn giải tán Mặt Trận, các tổ chức và gom lại thành Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, gọi tắt là đảng Việt Tan; sau đó vì nhận thấy có sự sai hướng, hay vì tranh chấp nội bộ về quyền lợi từ những người lãnh đạo cao cấp trung ương, nên đảng nầy lại chia thành 2 cánh, cũng do hai anh em nhà họ Hoàng: cánh Hoàng Cơ Định, Nguyễn Kim, Đổ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng bị cánh Trần Xuân Ninh, Hoàng Cơ Long cho là" đi lệch hướng" nên đảng viên từ các cơ sở cũng tự động phân hai, đã suy yếu, nay lộn xộn từ trong nội bộ, thì sức mạnh suy giảm rất nhiều; từ đó có nhiều người sáng mắt, không còn hoạt động trong hàng ngũ tổ chức nầy nữa, nhưng cũng còn một số vẫn trung thành với nhiều lý do thầm kín bên trong. Do không có lực lực ở trong nước, nên vào cuối năm 2007 đảng Việt Tân đành phải cử 4 cán bộ cao cấp về Việt Nam để" rải truyền đơn" để cố tình cho bị bắt nhằm gây tiếng vang, rồi được đảng" khoan hồng tha về", nên không thể thuyết phục được những người có nhiều kinh nghiệm, đây chỉ là trò ảo thuật vụn về, không có kết quả gì, trái lại còn làm cho đảng mất thêm uy tín. Nhìn chung với sự so sánh, Đảng Việt Tân ngày nay là một tổ chức cũng có những điểm tương đồng như Mặt Trận Việt Minh ngày xưa như:

1. Có chiêu bài để thu hút quần chúng: Việt Minh dùng chiêu bài yêu nước, đánh Tây...còn Việt Tân cũng chống Cộng, lý tưởng quốc gia, cũng dưới bóng lá cờ vàng ba sọc đỏ, nhưng bên trong có những hoạt động chống Cộng nhẹ nhàng, không quyết tâm; chống Cộng kiểu nầy thì đảng Cộng Sản rất mừng, và họ cũng có thể còn khuyến khích, hổ trợ ngầm để tiếp tục chống, đảng không hề hấn gì mà sau nầy còn có thể tạo được thế đứng tại hải ngoại, ngay trong thành trì của người Việt tỵ nạn và từ đó tiến công, nhuộm đỏ, do chính chủ trương chống Cộng của Việt Tân, được hiểu ngầm là tiếp tay với Cộng Sản qua những chiến lược chống Cộng thiếu quyết tâm, nhẹ nhàng, nửa vời, thì làm sao có thể dẹp được bọn Việt Cộng, đón gió càng ngày càng đông, trà trộn ở các cộng đồng hải ngoại. Trong nhiều năm qua, người của tổ chức nầy hay dùng câu:" cực đoan, quá khích" để bài bác những người, tổ chức" quyết tâm chống Cộng". Đó là lối chụp mũ khéo léo, nhằm trét cứt vào mặt những người quyết tâm chống Cộng, trong nước gọi là" bọn phản động" thì hải ngoại bị cho là" cực đoan, quá khích", đồng hóa với những người trong tổ chức" Hồi Giáo Cục Đoan, quá khích"; trong khi đó, họ được coi là" cấp tiến" là tổ chức chống Cộng có sách lược, mà những người trong tổ chức tin đây là nơi tốt nhất để đấu tranh giải thể chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, một cách ôn hòa, như ông Đạo Dừa trước 1975 thường nói câu" bất chiến tự nhiên thành"; đây là lối đấu tranh chống Cộng" cà rịt cà tang", thời cơ chủ nghĩa, nằm chờ sung rụng thì làm sao thấy được quê hương có tự do? Và tại hải ngoại cũng khó ổn định khi bọn gián điệp, nằm vùng, tay sai luôn luôn rình rập đánh phá. Lối chống Cộng nầy không phải là đường lối tốt, trái lại họ có những việc làm lợi cho Cộng Sản như: biến ngày quốc hận 30-4 thành diễn hành cho tự do, ngày gỗ tổ Hùng Vương thành quốc khánh.. cho nên trong các cuộc biểu tình chống Văn Hóa Vận, những tên đầu sỏ thăm viếng, những hội đoàn e ngại sự có mặt của các thành viên đảng Việt Tân, có khả năng làm mất đi ý nghĩa, mục tiêu khi họ mang những tấm bích chương có màu sắc có vẻ rất ư là" hòa hợp hòa giải" với màu xanh dương đậm, chữ trắng, tương phản với những bích chương nền vàng, chữ đỏ của các hội đoàn, cộng đồng. Những câu như " dân chủ cho Việt Nam, đấu tranh nhân quyền cho Việt Nam..." nhẹ nhàng, phủi bụi những tên gian manh, lì lợm của đảng Cộng Sản phái ra làm công tác; trong khi các hội đoàn có câu" đả đảo Cộng Sản"...trong một cuộc biểu tình, trong khi các tổ chức quyết tâm bằng biểu ngữ, tiếng hô vang dậy, thì những thành viên Việt Tân vẫn biểu tình bất bạo động như" ông phỏng đá" của Nguyễn Khuyến, đôi khi họ còn có sáng kiến" đặt bàn xin chữ ký", biết có nộp hay không? Nếu có nộp thì có ai biết có kết quả?. Một thủ đoạn từng xảy ra thời tranh tối tranh sáng: thời chính phủ Trần Trọng Kim mới ra đời, tại các thành phố lớn, dân chúng tự động tổ chức những cuộc biểu tình biểu dương lực lượng, thì vài tên Cộng Sản mang lá cờ đỏ, sao vàng trà trộn, phát phới, làm như có đông lắm, rời bắn vài phát súng thị uy, sau đó tuyên truyền là" quần chúng biểu dương lực lượng ủng hộ Hồ Chí Minh". Cho nên, những cuộc biểu tình nào có mặt của Việt Tân cũng được các cơ quan truyền thông của họ" đánh bóng" và quan trọng hóa như là lực lượng nồng cốt qua hình ảnh, bài viết đề cao người của Việt Tân; nếu không biết rõ, lười biếng suy luận, thì dễ tin là cuộc biểu tình do Việt Tân" chủ trì". Đó là kỷ thuật tuyên truyền, được Hồ Chí Minh thực hiện, nay có khả năng lập lại ở hải ngoại.

2. Bành trướng thế lực bằng cách xâm nhập vào các tổ chức đã có sẵn: Tổ chức đảng Cộng Sản Việt Nam lòn vào Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, rồi dùng thủ đoạn gian manh, ám sát, thủ tiêu, hất chân những người quốc gia, nồng cốt, sau cùng biến tổ chức thành công cụ cho đảng Cộng Sản. Đảng Việt Tân cũng thế, tại hải ngoại, vì không có đủ thực lực, lại không được quần chúng ủng hộ sau những việc làm mờ ám từ thời Hoàng Cơ Minh còn sống đến nay; do đó Việt Tân áp dụng phương thức xâm nhập như Hồ Chí Minh, len lõi vào các tổ chức quốc gia, hội đoàn, nhất làm tìm cách nắm các tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tự Do qua hình thức bầu cử, rồi dần dà đưa tổ chức có những hoạt động phù hợp với đường lối của đảng. Cho nên tại hải ngoại mới có hai câu:

"Việt gian, Việt Cộng, Việt Tân.
Ba thứ nhập lại, nát tan hội đoàn".

Người của đảng Việt Tân đa số là thành viên cũ của Mặt Trận, các tổ chức râu ria, họ có thể là quân nhân cán chính, sinh viên, dân chúng....tham gia đảng vì nhiều lý do, đại khái như:-lỡ theo nên phải tiếp tục-được chia chác quyền lợi-ham danh- mù quáng không nhìn thấy nên tưởng đây là tổ chức tốt, có lập trường- Có thể có cả những tên Cộng Sản nằm vùng, thành phần đón gió biết được nhu cầu nhân sự không nhiều vì quần chúng không ủng hộ nên gia nhập vào ( như Hoàng cơ Minh trước đây đã từng chiêu mộ một số bộ đội Cộng Sản đào ngũ và trở thành kháng chiến quân).... Có thể đã có một số tổ chức đã nếm mùi xâm nhập, ảnh hưởng của đảng Việt Tân qua các thành viên trong hội, muốn đưa cách đấu tranh của Việt Tân vào để thuyết phục và biến hội đoàn thành tổ chức công cụ cho đảng. Tuy nhiên, hoạt động của đảng gây nhiều tranh cải và nghi ngờ, nên từ đó gây nên sự mất đoàn kết ngay trong các hội đoàn cũng chỉ vì Việt Tân, có nguy cơ đưa đến phân hóa. Điều nầy Cộng Sản rất tâm đắc: càng chia rẻ thì sức mạnh càng yếu, và nếu Việt Tân nắm được tổ chức thì Cộng Sản cũng mừng là đảng nầy không có thực lực trong nước, chỉ có ở hải ngoại, có nhiều thuận lợi trong việc thương thảo, hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Dùng những người phản tỉnh như là lực lượng chánh: vì ở trong nước không có lực lượng để tiến hành công cuộc đấu tranh, nên đảng Việt Tân không còn con đường nào lựa chọn để tổ chức còn tồn tại, còn có một số người tin khi thấy đảng có quan hệ với nhiều nhà phản tỉnh trong nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam thừa biết nhu cầu" cần chống Cộng" của một số đảng yếu như Việt Tân, nên họ dùng" tương kế tựu kế" đưa vào hàng ngũ quốc gia những" tên đặc công đỏ mặc áo phản tỉnh". Đương nhiên là những tên đặc công đỏ nầy được môi trường, lợi thế hoạt động, khỏi cần" trốn tránh, nằm vùng" trong vùng đất quốc gia như sau 1954, chúng hoạt động thoải mái, được các" đầu cầu giao liên" hải ngoại tận tình giúp đỡ để hoàn thành công tác đánh phá, làm suy yếu hải ngoại. Chẳng những không bị chống đối, mà còn được những người quốc gia che chở, binh vực nếu bị tố cáo, phát giác...lý lịch từ một tên khủng bố từng gây biết bao tội ác giết dân, cướp của từ thời" đánh Tây, đánh Mỹ và đại thắng mùa xuân", được đánh bóng như những anh hùng, hay được nhắc đến với danh hiệu" NHÀ CÁCH MẠNG LÃO THÀNH" hay" NHA ĐẤU TRANH DÂN CHỦ, NGƯỜI TÙ LƯƠNG TÂM".... Chính vì thế mà những tên đặc công đỏ vẫn hoạt động, phản tỉnh theo đơn đặt hàng của đảng và được phép lập hội trong nước, xuất ngoại để chống đảng...như vậy là thế giới nhìn thấy, tưởng đâu ở Việt Nam có" tiến bộ, cải thiện về mặt dân chủ và nhân quyền", nên được các nước Tây Phương chi viện, cho vai nhẹ lãi... để từ từ tiến đến dân chủ...nhưng chờ đến cóc mọc râu cũng chưa có dân chủ; trái lại nhờ những người phản tỉnh và những người" hổ trợ phản tỉnh" ở hải ngoại mà nhiều cán bộ cao cấp Cộng Sản trong nước đã trỡ thành triệu, tỷ phú Đô la Mỹ. Thế mới thấy được hình thái đấu tranh tuyệt vời của đảng Việt Tân như thế nào.

4. Chủ trương ngầm hòa hợp hòa giải, vì không có sức mạnh nên đi hai đường để tồn tại. nên phải thỏa hiệp với Cộng Sản; do đó cánh của bác sĩ Trần xuân Ninh phản đối, tách hai cũng có lý do như câu" nằm trong chăn mới biết chăn có rận", nếu điều nầy, người ngoài nói thì ít ai tin, nhưng người từ trung ương tuyên bố, có báo đăng đàng hoàng thì làm sao sai được.

5. Đầu hàng bằng thỏa hiệp chia ghế, mà theo họ thì đây là lối dùng sức mạnh dân cử để chen chân vào quốc hội, chủ trương tiếp cận, rồi từ từ lái chính quyền sang dân chủ. Đây là sách lược" đấu tranh tự sát" nếu được chia ghế trong quốc hội, thì đây là tổ chức bù nhìn, công cụ của đảng. Tánh mạng của những đại biểu gốc Việt Tân nếu không" tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx Lenin" thì coi chừng bị ú tim, xe đụng....mà về bên kia thế giới.. đây là lối giải thể chế độ Cộng Sản mang đầy tình tiết của một vở kịch nói trên sân khấu, với đạo diễn là đảng Cộng Sản.

6. Tại hải ngoại, cố gắng lợi dụng các chính khách như dân biểu, nghị sĩ, giáo sư, những người có học vị cao để ủng hộ đảng Việt Tân trong cái gọi là" đấu tranh cho tự do, dân chủ" mà một số người tin là nhờ những người nầy gây áp lực lên bạo quyền Hà Nội. Chính sự ủng hộ của các chánh khách các nước lớn mà đảng Việt Tân thành công phần nào trong việc" tung hỏa mù" để chứng minh là: họ là lực lượng chống Cộng lớn, mạnh nhất, có hậu thuẫn quốc tế; những chiến dịch vận động hổ trợ tù nhân lương tâm ( không rỏ phản tỉnh thật, giả), chữ ký... đã trở thành những hoạt động" chủ yếu" nhưng từ mấy thập niên qua, Cộng Sản vẫn còn, các nhà dân chủ trong nước vẫn còn la lớn mà không thấy hành động, vì hầu hết là về hưu, hay không nắm quyền hành. Nếu người phản tỉnh là người tại chức như Gorbechov thì Việt Nam đã có dân chủ từ lâu. Cho nên, lối đấu tranh nầy, xin được mượn hai câu thơ của những người từng tự hào" với biển cả, anh là thủy thủ":

"Năm năm gõ sét, đau lòng lính.
Sét vẫn còn đây, lính vẫn còn".

Đảng Việt Tân có nhiều thủ đoạn như Mặt Trân Việt Minh ngày xưa: Lợi dụng những người thuộc giới khoa bảng, có học vị cao như bác sĩ, tiến sĩ, giáo sư... để làm bình phong thu phục dân chúng đi theo. Thời Hồ Chí Minh, có nhiều tay khoa bảng như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng....sau nầy có Dương Quỳnh Hoa, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Nguyễn Hữu Thọ... để lôi cuống quần chúng tin-theo. Ngày nay Việt Tân cũng lôi cuốn một số khoa bảng, phần lớn là giới trẻ ở hải ngoại, vốn thiếu kinh nghiệm về Cộng Sản, sinh hoạt, tổ chức chính trị...họ được một vài khoa bảng lớn tuổi làm" cò mồi", nên tin tưởng đi theo. Cho nên, người ta không ngạc nhiên khi nhìn thấy trong Việt Tân có một số khoa bảng, nhìn mà đau lòng, tiếc cho họ đi lầm đường, chọn lầm tổ chức.

Bài học của đảng Cộng Sản ngày xưa, nay có thể được lập lại ở hải ngoại, là điều cần cảnh giác. Trong bài hát" Không Bao Giờ Ngăn Cách" của Trần Thiện Thanh có câu:" một đời hoa không khi nào hai lần nở" và câu nói chí lý của nhà triết học cổ Hy Lạp là Heraclite là:" không bao giờ tắm hai lần trên cùng một dòng sông", thì chẳng lẽ những người Việt Quốc Gia lại chẳng nhìn thấy những hoạt động chống Cộng cụội của Mặt Trận, các tổ chức ngoại vi và ngày nay đảng Việt Tân hay sao? Nhất là những người thuộc thế hệ từ một rưởi trở lên, dễ bị lừa và lôi cuốn vào tổ chức dỏm, mà ngày xưa ông cha họ cũng đã từng bị lừa. Ngày nay đảng Việt Tân đã ló cái đuôi dài qua việc mở đại hội thanh niên ở Mã Lai, cùng nhau hát bài của Tôn Thất Lập, từ ý thơ của Tố Hữu" Dậy mà đi", nếu không thức tình, họ sẽ áp dụng bài hát đó như ở Huế năm 1968 trong trận Mậu Thân, thì có nước" giả từ gác trọ", không cần dùng đèn điện cực mạnh hay" đêm giữa ban ngày cũng nhìn thấy" sự thật về tổ chức đảng Việt Tân, những ai chưa tỉnh ngủ hãy mở mắt sau cơn" mộng du" và nên lấy câu" người làm sai mà biết sửa sai thì được tha thứ".

Sự có mặt của Việt Tân tại hải ngoại chẳng những không mang lại chút gì ích lợi cho công cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ, vận động chính trị để hổ trợ cho người dân trong nước đứng lên lật đổ bạo quyền; trái lại Việt Tân làm mất niềm tin của người Việt trong và ngoài nước, thật là điều nguy hiểm vô cùng, nhưng đây cũng là điều mà đảng Cộng Sản mong muốn, vì trong tương lai có bất cứ tổ chức đấu tranh thật sự nào ra đời, dù có nhiệt tâm, kiên trì, có sách lược...nhưng quần chúng vẫn hoài nghi, đưa đến thái độ thờ ơ, do những người đi trước làm mất hết lòng tin, đây là cái giá mà người Việt trong nước cũng như hải ngoại phải trả: làm chậm tiến trình dân chủ trong nước do một số đảng phái" chống Cộng để kiếm tiền đô" hơn là vì dân vì nước...

Nhật báo Người Việt

Nhật Báo Người Việt Là Ai?


“tấm lòng” và “sự tử tế”!

Trịnh Công Sơn , "tấm lòng" và "sự tử tế " !

Vào ngày 1/4/2008, ông Nguyễn Khanh, phóng viên đài RFA (Á Châu Tự Do) phỏng vấn ca sĩ Khánh Ly về cái chết của Trịnh Công Sơn cách đây 7 năm, và Khánh Ly đã nói:

"….. tất cả những điều anh Sơn cần phải dặn dò, nhắn nhủ tôi cũng chỉ thu gọn vào trong câu nói đầu tiên và câu nói cuối cùng, tức là "sống trong đời sống cần có một tấm lòng" và "hãy sống tử tế với nhau".

Bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo trong Phiếm Dị – Sàigòn Nhỏ, ấn bản Hoa Thịnh Đốn số 417 ngày 20 tháng tư năm 2001 ( cách đây 7 năm ) cũng đã viết như sau:

(trích)
Nữ ca sĩ Khánh Ly trong một cuộc phỏng vấn khi nghe tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời đã nói :
"Trịnh Công Sơn không của riêng ai. Ông của tất cả mọi người Việt Nam. Ông chỉ yêu dân tộc và quê hương. Việc ông ở lại và nằm xuống ở quê hương theo ông là đúng, mặc dù việc ông ở lại đã đem lại cho ông nhiều oan khiên. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thường dặn tôi phải sống giữa đời bằng một tấm lòng và sống với người bằng sự tử tế...." (hết trích)

Bài viết này sẽ không đề cập đến ý kiến của Khánh Ly cho rằng: Trịnh Công Sơn là của tất cả mọi người Việt Nam (sic), hay : Trịnh Công Sơn chỉ yêu dân tộc và quê hương (sic); mà chỉ đề cập đến việc Trịnh Công Sơn dặn rằng phải sống giữa đời bằng một tấm lòng và sống với người bằng sự tử tế.

Một lời dặn như là của một hiền giả, như là một tu sĩ , đầy chất Thiền, và rất ...tôn giáo !

Vậy thì chúng ta hãy xem chính Trịnh Công Sơn đã sống như thế nào với lời dặn nhuộm đầy màu sắc tôn giáo như trên ?

Xin trích lời của nhà văn Hoàng Hải Thủy.

- Trích Biệt Kích Cầm Bút: Chúng tôi, bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bại trận, chúng tôi có anh có em. Trong nhục nhã, trong khổ cực, chúng tôi vẫn có nhau, chúng tôi vẫn là những văn nghệ sĩ Sàigòn. Cảnh "phi cầm phi thú" hiện ra rõ nhất trong những cái gọi là buổi sinh hoạt tại Hội Văn Nghệ Sĩ Giải Phóng Thành Phố Hồ Chí Minh, trụ sở đặt trong tòa nhà có vườn rộng trước 75 là một cơ sở tình báo của VNCH, góc đường Trương Minh Giảng - Tú Xương. Những người trong Ban Chấp Hành cái gọi là Hội Văn Nghệ Sĩ Giải Phóng, thường là Tổng thư ký Việt Phương, lên Ủy ban thành phố họp, nghe chỉ thị, về phổ biến với các văn nghệ sĩ, những buổi như thế gọi là buổi sinh hoạt.

Trong những buổi sinh hoạt này bọn trong Ban Chấp Hành Hội ngồi hàng nghế chủ tọa đối diện với hàng ghế của văn nghệ sĩ Sàigòn. Hai bên ngồi đối mặt với nhau. Hai anh Kỳ Nhông, Kỳ Đà Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn cũng dự buổi sinh hoạt. Hai anh không thể ngồi cùng hàng ghế hay sau lưng bọn Giải Phóng Miền Nam. Sức mấy chúng nó cho hai anh ngồi chung. Hai
anh không ngồi chung với bọn chúng tôi, chắc hai anh sợ ngồi chung với chúng tôi hai anh xấu hổ..Cũng có thể hai anh nhìn thấy sự khinh bỉ hai anh trong ánh mắt của anh em chúng tôi.

Hai anh không thể ngồi sau đít bọn Văn nghệ Giãi phóng đối diện với bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bại trận, hai anh không muốn ngồi chung với bọn văn nghệ sĩ Sàigòn nhục nhã. Dzậy thì trong những buổi họp chia hai phe rõ rệt mặt đối mặt, chính tà hai phái như dzậy hai anh Kỳ Nhông đặt đít ở đâu ???

Hai anh ngồi ở hai ghế bên cạnh. Hai anh không ngồi trong phe giải phóng, hai anh cũng không ngồi trong phe VNCH bại trận…

- Bạn tôi, VQ, ở Thành Hồ, tường thuật đám tang Trịnh Công Sơn, anh tả cảnh đem máy ảnh tới nhà TCS ngồi chờ chụp ảnh, anh phải ngồi chờ vì lúc ấy di thể người chết chưa đưọc liệm, TCS nằm đó với chiếc khăn phủ mặt.

Anh kể chuyện ngày xưa. Tết Mậu Thân Việt Cộng đánh vào Sàigòn, thành phố giới nghiêm từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng, là sĩ quan anh có giấy phép đi trong giờ giới nghiêm, anh lái xe đưa TCS đi chơi trong thành phố Sàigòn ban đêm vắng tanh, chỉ có những dãy đèn vàng, những binh sĩ ta tuần tiểu, đứng gác ở những ngã tư đường.

Anh kể anh cho TCS, với cây đàn ghi-ta, về ở trong phòng riêng của anh v.v..Anh kể trong căn phòng đó- anh bạn tôi có vợ con, có nhà lầu, cũng như nhiều tay chơi tiền 75, anh có căn hộ riêng trong một bin-đinh để dùng làm nơi ăn chơi, người Pháp gọi loại hộ này là garconaire- trong căn phòng đó những ngày sau Tết Mậu Thân, TCS đã sáng tác những bản nhạc X,Y,Z v.v...Lời kể của anh làm cho người đọc thấy anh vừa là đàn anh cưu mang, vừa là bạn văn nghệ, bạn tâm giao của TCS. Tôi bùi ngùi muốn hỏi anh, muốn nói với anh :

- Tháng tư 75 nó có mù đâu, nó phải thấy đồng bào mình ghê sợ cộng sản, chê bỏ cộng sản, đồng bào mình liều mạng chạy trốn quân Bắc Việt Cộng, đồng bào mình chết đau thương, đồng bào mình khổ cực thê thảm đến như thế nào, nó phải thấy VC tàn sát đồng bào ở Huế trong Tết Mậu Thân, nó phải thấy bọn Bắc VC xâm lăng bắn giết đồng bào trên khắp đất nước, nó không ngu đến cái độ không biết là quân Bắc VC vào Sàigòn, những sĩ quan VNCH từng mến tài nó, che chở nó, làm ơn cho nó, như mày, như Lưu Kim Cương, sẽ bị bọn Bắc VC bỏ tù mút chỉ cà tha. Nó phải biết chứ, nó phải thấy chứ, sao nó nhẫn tâm ca hát chào mừng bọn VC, sao nó tỏ ra sung sướng khi nó biết chúng mày sắp khốn khổ, khốn nạn

Mày kể mày thân với nó, mày là bạn nó, tao không thấy nó thân với mày, tao không thấy nó nhận mày là bạn nó, mày cưu mang nó, mày đi tù mười mấy năm nó không một lời hỏi thăm mày, mày thân tàn trở về, vợ bỏ, con mất, tao không thấy nó đi tìm mày, không thấy nó chi cho mày nửa lời an ủi, nó bạn với bọn văn nghệ sĩ miền Bắc, nó không bạn với bất cứ thằng văn nghệ sĩ VNCH bại trận nào.
(Đời Nay trang B8, ngày 3 tháng 5 năm 2001)

Đó là sự tử tế và tấm lòng của Trịnh Công Sơn đối với ông VQ, một người ở phía VNCH đã làm ơn cho họ Trịnh ! Còn những ai nữa của phía Quốc Gia VNCH đã từng mến tài, cưu mang và che chở cho họ Trịnh được thong dong để sáng tác ? Trịnh Công Sơn đã đối xử với những người đó như thế nào ? Đã trang trải " tấm lòng " và " sống tử tế " với họ ra sao ?

Riêng đối với phía bên kia, thì " sự tử tế " và " tấm lòng " của Trịnh Công Sơn đã được chính họ Trịnh kể lại như sau:

-Thuở ấy Nhị Xuân. Em ở nông trường. Em ra biên giới.

Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo. Mưa xuống, hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những
giọt dài. Chúng tôi ( Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi ) cùng anh em thanh niên xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế. Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Những bàn tay xiết chặt, những cái vẫy tay trong đêm không nhìn thấy.

Quá giờ giới nghiêm, xe nằm lại giữa đường không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. Về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái thanh niên xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp trong đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam.
( Ca Khúc Mang Đến Sự Cảm Thông Giữa Mỗi Người- báo Nhân Dân ngày 27/9/99 )

Kính thưa quý vị,

Trên đây là hai hình ảnh - đúng ra là hai đoạn phim - để đối chiếu với một lời dặn của Trịnh Công Sơn : lời dặn về tấm lòng và sự tử tế !

Lẽ ra phóng viên Nguyễn Khanh hãy để cho mọi người tự nhận xét về tấm lòng và sự tử tế của Trịnh Công Sơn, không nên mớm lời cho Khánh Ly !!!

Thật không ngờ đài Á Châu Tự Do lại ái mộ Trịnh Công Sơn đến mức độ "cực kỳ" như thế !

Xin hoan hô hai chữ Tự Do !!!

BB& Liêm
-----------------------------------

Phỏng Vấn Khánh Ly
Khánh Ly: Trịnh Công Sơn vẫn còn đâu đó
2008.04.01
Nguyễn Khanh, phóng viên đài RFA

Ngày này bảy năm trước, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ trần. Ca Sĩ Khánh Ly, một trong những người thân thiết nhất với ông Trịnh Công Sơn đã dành cho Nguyễn Khanh của Ðài chúng tôi cuộc phỏng vấn ngắn sau đây.

Nghe cuộc phỏng vấn này: h*p://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/04/01/vkhanh040108.mp3

Nguyễn Khanh: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân Phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô cùng", đó là lời anh Trịnh Công Sơn nói. Khi cất tiếng hát những ca khúc của anh Trịnh Công Sơn, chị thấy gì về tình yêu và thân phận con người trong những ca khúc đó?

Khánh Ly: Thưa anh tôi thấy tôi trong những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tình khúc cũng như da vàng. Tôi thấy cả quê hương của tôi, quan trọng là tôi thấy tổ quốc của tôi, thấy cả dân tộc của tôi. Dẫu tổ quốc nghèo, dẫu dân tộc điêu linh, tôi vẫn yêu quê hương và tổ quốc của tôi.

Tôi yêu nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bởi vì qua nhạc của ông, tôi thấy lại đầy đủ tất cả những cái mà một người sống trong cuộc đời này cần phải nhìn thấy, nhìn rõ hơn, để định hướng mình đi cho đúng, và làm đúng hơn việc mình sẽ làm.

Những kỷ niệm giữ kín
Tôi thấy tôi trong những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tình khúc cũng như da vàng. Tôi thấy cả quê hương của tôi. Tôi yêu nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bởi vì qua nhạc của ông, tôi thấy lại đầy đủ tất cả những cái mà một người sống trong cuộc đời này cần phải nhìn thấy.

Nguyễn Khanh: hơn 30 năm rồi, có một lần chị bảo với tôi anh Trịnh Công Sơn nói "sóng trong đời sống cần có một tấm lòng" và chị bảo "anh dạy tôi như vậy". Chị có nghĩ đó có phải là một lời chung cho tất cả mọi người, trong đó có chị hay không?

Khánh Ly: Dạ thưa anh nói dạy chung tôi không dám đâu nhé. Tôi không hề dám nói nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dạy ai cả. Tôi chỉ nói là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bảo tôi như thế và đó là lời nói đâu tiên, còn cái lời nói sau cùng của ông, ông nói là "hãy sống tử tế với nhau". Tôi tâm niệm lúc nào cũng giữ kín những điều nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dặn tôi, vì ít nhiều, dù ít học, tôi cũng hiểu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã dạy tôi làm những việc đúng.

Vóc dáng Khánh Ly trong nhạc Trịnh

Nguyễn Khanh: Lúc nãy có dịp nói chuyện với ca sĩ Cẩm Vân, thưa với chị Cẩm Vân có nói rằng "cứ nghe nhạc Trịnh Công Sơn là thấy phảng phất vóc dáng của Khánh Ly". Có khi nào chị nghĩ anh Trịnh Công Sơn đã viết những bản nhạc, những nốt nhạc, những lời ca đó cho chị hay không?

Khánh Ly: (cười) Thưa anh, tôi không bao giờ chủ quan cả. Tôi không bao giờ dám nghĩ là tất cả những bài này anh Trịnh Công Sơn viết riêng cho mình.

Tôi rất yêu Cẩm Vân, yêu tiếng hát Cẩm Vân. Tôi yêu tất cả những người trẻ đã đến với nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và tôi hy vọng, tôi ước ao là các bạn trẻ của tôi giữ được sự chung thủy với nhạc của anh Sơn, để mai kia mốt nọ tôi đi ra khỏi cuộc đời này, vẫn còn có những người hát, hát lên những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, để chúng ta cùng nhớ lại cái thủa biết yêu lần đầu và có thể chiêm nghiệm được khi tình đã vào lần cuối.

Nguyễn Khanh: Liệu có thể nói rằng từ 1975 đến giờ, đã 33 năm chị xa anh Trịnh Công Sơn, và từ năm 2001 đến giờ đã 7 năm chị mất anh Trịnh Công Sơn. Có đúng như thế không?

Khánh Ly: Thưa anh tôi chẳng giờ thấy mất ai cả. Những người thân của tôi từ ông Cụ tôi - Cụ mất trong Lý Bá Sơ ngày tôi còn bé lắm -, rồi những người thân của tôi hy nsinh trong cuộc chiến, và ngay cả anh Trịnh Công Sơn, tôi chưa hề bao giờ nghĩ rằng đó là những người đã chết, không còn liên quan gì đến cái đời sống này. Không phải. Họ vẫn còn quanh quẩn đâu đây thôi, và họ vẫn ảnh hưởng đến tôi rất nhiều, và tất cả những người đã ra đi đó đều là những người tử tế.

Hình bóng Trịnh Công Sơn

Nguyễn Khanh: Khi chị nói rằng những người đã mất, những người đã xa chị nhưng vẫn quanh quẩn với chị, phải chăng chị muốn bảo rằng chị vẫn gặp anh Trịnh Công Sơn và chị vẫn nói chuyện với anh Trịnh Công Sơn?

Khánh Ly: (cười) Thưa anh, tôi biết nói thế nào khi mà nói một cách bình thường là đường đời chia hai ngả thì làm sao mà nói. Nhưng thật tình tôi với anh Trịnh Công Sơn hình như không bao giờ cần phải nói ra lời, ngồi với nhau và trong ánh mắt không thôi, chỉ nhìn là tôi biết anh Sơn muốn cái gì và anh Sơn biết tôi định nói gì, muốn gì.

Vả lại, tất cả những điều anh Sơn cần phải dặn dò, nhắn nhủ tôi cũng chỉ thu gọn vào trong câu nói đầu tiên và câu nói cuối cùng, tức là "sống trong đời sống cần có một tấm lòng" và "hãy sống tử tế với nhau".

Chẳng bao giờ có sự xa cách giữ chúng tôi cả. Lúc nào chúng tôi cũng ở bên nhau, thành ra những tiếng gọi đó tôi vẫn nghe, và hình ảnh của anh Sơn hay là chính anh Sơn, tôi vẫn thấy anh đến ngồi cạnh tôi. Không có gì thay đổi cả, chỉ có một điều là… Tôi không thể nói thêm được gì nữa, vì anh Sơn sẽ nói rằng như vậy là tôi quá tham lam.

Tôi nghĩ rằng đó là tất cả quan niệm sống của anh Sơn. Anh Sơn muốn tôi đi theo và may mắn là trong 40 năm nay, tôi đi theo được đúng cái điều đó. Tôi không hề phụ ai trong đời sống này, nhưng tôi sẵn sàng đón nhận sự phụ bạc của mọi người đối với tôi, mà tôi không hề buồn gì cả. Tôi cũng để thả đi cho gió cuốn đi thôi. Chẳng có gì quan trọng cả.

Nguyễn Khanh: Và đó cũng chính là Trịnh Công Sơn?

Khánh Ly: Thưa vâng. Anh Sơn đã đi trước tôi thôi. Anh đi không vương vấn gì cả. Anh đi là để che dấu những vết thương, anh che dấu những vết thương của anh, anh không chia sẻ với cả như anh viết trong "Hoa Vàng Mấy Ðộ" là "một vết thương thôi riêng cho một người", tức là anh sẵn sàng nhận cái vết thương đó, đừng làm tổn thương ai cả.

Mọi người cứ bình an đi, cứ yêu nhau đi, cứ vui đi, cứ hạnh phúc đi, tất cả những khổ đau trong đời sống này anh Sơn gánh chịu hết. Tôi mong mỏi được theo chân của anh Sơn.

Nguyễn Khanh: Lúc anh Sơn còn sống và khi ở Việt Nam, đã biết bao nhiêu lần không chỉ mình tôi mà rất nhiều người được nghe anh Sơn gọi chị "Mai ơi, Mai à". Thưa chị, có khi nào chị mong được nghe lại tiếng nói đó, lời gọi đó hay không?

Khánh Ly: Thưa anh, chẳng bao giờ có sự xa cách giữ chúng tôi cả. Lúc nào chúng tôi cũng ở bên nhau, thành ra những tiếng gọi đó tôi vẫn nghe, và hình ảnh của anh Sơn hay là chính anh Sơn, tôi vẫn thấy anh đến ngồi cạnh tôi. Không có gì thay đổi cả, chỉ có một điều là… Tôi không thể nói thêm được gì nữa, vì anh Sơn sẽ nói rằng như vậy là tôi quá tham lam. Tất cả những gì anh muốn tôi làm, anh đã nói hết rồi. Cho nên giữa chúng tôi chẳng có gì để thắc mắc, để tiếc nuối. Chúng tôi luôn luôn có nhau, có từ ngày xưa và cho đến cuối đời.

Nguyễn Khanh: Ai cũng biết chị là người gần gũi nhất với anh Trịnh Công Sơn. Xin chị một phút nói thật: có khi nào chị giận anh Sơn đến mức chị bảo "anh Sơn ơi, Mai không chơi với anh Sơn nữa"…

Khánh Ly: (cười) Dạ không anh. Tôi không bao giờ giận dỗi ngu như thế. Dĩ nhiên là ông Trịnh Công Sơn đâu có cần chơi với tôi, anh thấy không, chỉ có mình cần ông ấy thôi. Không bao giờ chuyện đó xảy ra cả, chưa bao giờ tôi cãi lại anh Sơn một điều gì vì đối với tôi, tất cả những điều anh Sơn nói, anh Sơn làm, đều đúng.

Nguyễn Khanh: Cám ơn chị, chị Mai, chị Khánh Ly. Cám ơn chị rất nhiều.

Khánh Ly: Dạ vâng, cám ơn anh.

“Tử Tội” Khánh Ly

"TỬ TỘI " KHÁNH LY
Nguyễn Văn Chức

Tin Khánh Ly bị bắt về tội binh xập xám tại nhà hàng Tự Do cùng với tin tôi nhận biện hộ cho Khánh Ly, được loan đi rất nhanh trên phố phường Sài Gòn. Tờ Sống của Chu Tử và tờ Thần Chung của ông Nam Đình đăng tít lớn. Riêng hai ông Minh Vồ và Duyên Anh thì viết:

"Khánh Ly tâm sự với chúng tôi: Khánh Ly biết Khánh Ly khó ra lắm. Chỉ luật sư Chức mới làm cho Khánh Ly ra được mà thôi."

Ngày xưa, nam nữ thọ thọ bất thân, tù đàn ông con trai bị giam tại khám chí Hòa, tù đàn bà con gái bị giam tại Thủ Đức, cách Sàigòn độ 12 cây số, trên đường đi Mỹ Tho.

Sáng thứ Bẩy hôm đó, tôi lái xe lên Thủ Đức thăm Khánh Ly. Tôi không nhớ hôm đó Khánh Ly mặc áo gì, áo tội nhân hay áo thường nhân,. Tôi chỉ nhớ: Khánh Ly vẫn mang dáng dấp nghệ sĩ và tin vào số mệnh.

"Cái quay búng sẵn trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"

Tôi hỏi Khánh Ly vài chi tiết, dặn dò Khánh Ly đôi điều, rồi từ giã ra về.

Tội của Khánh Ly nặng lắm: gá bạc tại Nhà Hàng Tự Do Sàigòn,

Tội ấy sẽ do tòa tiểu hình Sàigòn xét xử. Nhưng bao giờ tòa sẽ xét xử?. Một tháng, hay hai tháng, hay ba tháng. Và trong thời gian đó, Khánh Ly phải ngồi tù. Nhiệm vụ của tôi, là xin cho Khánh Ly được tại ngoại.

Chúng ta không nên quên: ngày xưa, mỗi thứ Năm (Thursday), tòa án đường Công Lý Sàigòn khá đông người. Người đi hầu tòa, tòa hình, tòa hộ, tòa trên và toà dưới. Người đi hầu Dự Thẩm; có tất cả bẩy (7) phòng, Dự Thẩm. Người đi hầu Biện Lý Cuộc; có tât cả hai phòng biện lý. Người đi xin giấy hộ tịch, như giấy khai sanh, giấy hôn thú,v,..v,v…

Thứ Năm, hôm tòa xử vụ Khánh Ly, thì ngoài những người mà tôi kể ở trên, còn có thêm những người khác. Người mê tiếng hát Khøánh Ly. Phóng viên các báo. Nhân viên tòa án. Và luật sư, nhất là các luật sư trẻ. Những băng ghế gỗ dài đã được khiêng vào đặt ở cuối phòng xử tự bao giờ. Người ta đứng chen chúc nhau, Y như khán giả trong một buổi trình diễn văn nghệ.

Khánh Ly bị cảnh sát giải vào tòa lúc 9 giờ sáng. Tay có bị còng hay không, tôi không nhớ. Khánh Ly ăn mặc như thế nào, tôi cũng không nhớ. Ngồi ghế chánh án hôm đó, là ông Tôn Thất Hiệp, người miền Trung, trẻ và đẹp trai. Ông xét xử một hai vụ, rồi kêu vụ Khánh Ly. Khánh Ly buớc ra đứng trước vành móng ngựa. Tiếng vỗ tay vang lên trong phòng xử. Ông chánh án gõ búa truyền im lặng.

Từ cuối phòng xử, nữ ca sĩ Ngọc Minh bước lên vành móng ngựa, đứng sát cạnh Khánh Ly. Ngọc Minh ôm một chiếc nôi; trong chiếc nôi có bé Mai Mai Mi Sa, con của Khánh Ly. Như môt tình cờ, bé Mai Mai Mi Sa cất tiếng khóc oe oe. Khánh Ly đưa tay vỗ nhẹ vào chiếc nôi.

Ông Chánh Án hỏi "Bị can bi truy tố về tội gá cờ bạc tại Nhà Hàng Tự Do, bị can có nhận tội hay không?". Khánh Ly cúi đầu không nói gì.

Ông Chánh Án trao lời cho ông biện lý buộc tội. Ông biện lý không buộc tội, chỉ nhìn về phía ông Chánh Án, cái nhìn đầy khoan dung.

Tòa trao lời cho tôi.

Bài biện hộ của tôi hôm đó rất ngắn, ngắn không đầy một phút: "Kính thưa Ngài Chánh Án, bị can Khánh Ly có tội hay không, vấn đề sẽ không được đặt ra trong bài biện hộ của tôi hôm nay. Hôm nay, tôi chỉ xin ngài Chánh Án thương đến bé Mai Mai Mi Sa. Bé Mai Mai Mi Sa xin Ngài Chánh Án cho mẹ em về nhà với em."

Một hai phút trội qua trong im lặng. Rồi ông Chánh Án tuyên bố: cho Khánh Ly tại ngoại. Tiếng hoan hô xen lẫn tiếng vỗ tay vang lên trọng phòng xử.

Một đời luật sư, tôi-- Nguyễn Văn Chức-- từng biện hộ trong nhiều vụ án gây dư luận. Vụ Khánh Ly là một trong những vụ án đó.

Và trong vụ án đó, người đã giúp tôi "thắng kiện", là bé Mai Mai Mi Sa nằm khóc trong nôi.

Houston, 21/9/2007
Nguyễn Văn Chức

Thursday, April 3, 2008

Hồ Chí Minh Bán Đứng Phan Bội Châu



Hồ Chí Minh Bán Đứng Phan Bội Châu Cho Thực Dân Pháp, Trên Đất Trung Hoa Năm 1925

Kính tặng Quý Ân Sư và Anh Chị Em TH. Phan Bội Châu - Phan Thiết Riêng Mai Minh, Pham Thái, Khai Trinh, Anh Vũ, Trường, Dung...

Mường Giang


Về huyền thoại xuất dương cứu nước, cận sử VN trong thế kỷ XX có nhắc tới bốn nhân vật: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành và Ngô Đình Diệm. Ngày nay qua sử liệu chúng ta đã biết rõ chân thực chính ai mới là người thực sự ra nước ngoài cứu nước. Trong bốn người, cả Phan Chu Trinh và Ngô Đình Diệm mất thình lình nên chưa biện bạch hành động cùng chuyến đi của mình. Phan Bội Châu trong tự phán đã viết lời thành thật xin lỗi quốc dân, sự thất bại trên con đường cứu nước. Duy nhất chỉ có Hồ Chí Minh thì tự viết sách huyền thoại hoá với mình để bóp méo sự thật: Ra đi đề tìm phương tiện hợp tác với giặc Pháp, để mưu sinh và giải quyết kinh tế gia đình mà thôi.

* Huyền Thoại Phan Bội Châu, Xuất Dương Cứu Nước


Là một nhà nho tiêu biểu cho giới sĩ phu yêu nước, Phan Bội Châu đã ném danh lợi phù phiếm vào trời đất mông mênh để chọn cho mình một cuộc sống phi thường, dấn thân đấu tranh cho dân, cho nước, theo đúng truyền thống ngàn đời của thanh niên kẽ sĩ thời đại:


"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử?
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh".


Những sử gia chân chính xưa nay khi luận anh hùng, thường không chú trọng đến sự thành công vật chất, mà chỉ quan tâm đến các giá trị tinh thần. Bởi vậy trong dòng sông lịch sử Hồng Lạc, từ buổi bình minh dựng nước thời tổ Hùng Vương cho tới hôm nay, ta thấy ngoài những minh quân, hiền tướng như Lý thánh tông, Trần nhân Tông, Lê thánh Tông, Lý thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đã tạo nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Bên cạnh đó còn có không biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ, cũng đã hy sinh cho Tổ quốc dân tộc. Họ là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, là Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Trương Định, Thủ khoa Huân, Phạm hồng Thái, Cô Giang, Nguyễn thái Học... là Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và mới nhất có Trần văn Bá, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Trần Thiện Khải, Lý Tống... tất cả không thành công, nhưng thành nhân, danh thơm muôn thuở, khí phách hiên ngang, đáng được đời ngưỡng mộ. Trong hàng ngũ anh hùng liệt nữ trên, Phan Bội Châu qua tâm khảm của nhiều người Việt Nam, là một chiến sĩ yêu nước tha thiết, nồng nàn; một nhân vật lịch sử kiệt xuất, gạch nối giữa hai phong trào văn thân và Duy tân, cùng có chung một mục đích trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc vào đầu thế kỷ 20.


* Nghệ An - Quê Hương Của Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh


Cùng sánh vai với Thăng Long, kinh đô cũng là chốn ngàn năm văn vật, hai tỉnh Quảng Nam và Nghệ An, bao đời đã sản sinh ra nhiều danh nhân của dân tộc. Nghệ An xưa nay vẫn là một tỉnh lớn và quan trọng nhất nhì của VN, nằm về phía bắc Trung phần, giáp giới với Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Lào và Đông Hải; hiện tại có diện tích là 16.487 km2 với dân số 2.858.265 người, nhiều núi, ít bình nguyên nhưng lại có một hệ thống sông rạch chằng chịt. Vì là miền đất cổ của Văn Lang, nên Nghệ An có rất nhiều di tích lịch sử như đền An Dương Vương, Mai Hắc Đế, thành Lục Niên, Phượng Hoàng Trung Đô. Ngoài ra, Nghệ An còn nổi tiếng khắp nước vì đã sản sinh ra nhiều anh hùng, liệt nữ và những tài danh văn học như Phan Bội Châu (Nam Đàn), Đặng nguyên Cẩn, Đặng thái Thân (Hải Côn), Phạm hồng Thái (Hưng Nguyên), Hồ tông Thốc, Dương doản Am (Quỳnh Lưu), Hồ sĩ Dương (Hoàn Hậu), Nguyễn trường Tộ (Hưng Nguyên), Nguyễn xuân Ôn, Hồ xuân Hương... sông núi anh linh đã hun đúc nên nhiều anh hùng liệt nữ, những tài hoa nghệ sĩ hiển hách muôn đời.


Theo Nguyễn Thiện Chí, viết qua lời kể của Đại Tá Phan Thiện Cơ thuộc Quân đội Bắc Việt, cũng là cháu đích tôn cụ Phan bội Châu, đăng trong "Kiến thức ngày nay" số 50, xuất bản tại Sài Gòn ngày 15-12-1990, thì trong thời kỳ cải cách ruộng đất ở miền bắc năm 1955, đội cải cách địa phương đã qui tội Cụ Phan thuộc thành phần giai cấp địa chủ theo lối tam đoạn luận, nghĩa là cụ Phan đỗ đạt cao, mà học cao thì phải giàu và giàu là địa chủ. Cũng may Cụ đã chết từ lâu nên thay vì lôi ra đấu tố, nhà nước chỉ đem bức ảnh của Cụ treo trên bàn thờ xuống để ở chuồng trâu. Cuối năm 1955, Đảng sửa sai chính sách cải cách ruộng đất, nhờ vậy Cụ Phan được xóa tội địa chủ, cường hào nên bức ảnh được phép treo trở lại trên bàn thờ cũ. Ôi đau đớn cho những người yêu nước.

* Thân Thế và Sự Nghiệp Của Phan Bội Châu


Từ sau những cái chết oanh liệt của các lãnh tụ chống Pháp như Cao Thắng, Phan Đình Phùng, Đinh công Tráng, Mai xuân Thưởng và nhất là việc Vua Hàm Nghi bị tên Trương quang Ngọc bắt giao cho Pháp và bị đày ải sang tận Phi Châu, thì phong trào Cần vương coi như đã thất bại, dù trên rừng núi Yên Thế, Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân vẫn tiếp tục chống giặc thù trong tình thế tuyệt vọng. Nhưng dân tộc Việt Nam muôn đời luôn có truyền thống bất khuất trước kẻ thù xâm lăng, nên lớp này vừa ngã xuống, lập tức đã có ngay thế hệ khác đứng dậy thay thế để tiếp tục con đường tranh đấu dành độc lập cho nước nhà. Từ đầu thế kỷ 20, khắp nước nở rộ lên một phong trào đấu tranh mới, cầm đầu bởi một tầng lớp sĩ phu nho giáo đầy nhiệt huyết và thức tỉnh trước chiến công hiển hách của Nhật Bổn đã đánh bại Thanh triều và Nga Sô. Trong bối cảnh đó, dù cùng chung lý tưởng là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi Đại Việt, nhưng trong phương cách hành động vẫn có nhiều khác biệt, như có người thì chuẩn bị võ trang tiếp tục đánh Pháp, trái lại có kẻ chủ trương tranh đấu công khai với kẻ thù bằng cách mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, lập hội đòi dân chủ. Tóm lại, đó là chủ trương của hai nhóm kháng Pháp: cải cách và bạo động.


Trên thực tế, Phan Bội Châu là lãnh tụ của phong trào chống Pháp bằng phương cách bạo động nhưng đồng thời cũng ý thức được tác dụng hữu ích của phong trào cải cách, vì vậy Ông đã sử dụng cả hai phương thức đấu tranh trên và được cả hai phái cũng như toàn dân quí trọng, tin tưởng. Trong hàng ngũ các sĩ phu dấn thân vào con đường cứu nước lúc đó đều là những nhà nho trẻ và khoa bảng nổi tiếng văn hay, chữ tốt, bởi vậy họ đã dùng văn chương để làm phương tiện tranh đấu. Trong số này, Phan Bội Châu viết nhiều nhất và tác phẩm của Ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quốc dân lúc bấy giờ.


Tóm lại trong suốt một phần tư thế kỷ 20, Phan Bội Châu được xem như là một nhà ái quốc lớn nhất, một ngôi sao bắc đẩu dẫn lối cho dân tộc trên đường tháo gỡ ách nô lệ của ngoại bang. Trên văn đàn, thơ văn Phan Bội Châu tiêu biểu cho khuynh hướng yêu nước, phản ảnh trung thực cảnh quốc phá gia vong của một dân tộc, ý tưởng chẳng những mới mẻ mà văn phong càng hàm xúc, làm lôi cuốn mọi người; nhất là giới học sinh, thanh niên nam nữ. Sau này, nhiều người đã ví Ông với Văn Thiên Tường (1236-1282) đời mạt Tống, tể tướng cũng là một nhà thơ lỗi lạc của Trung Hoa, khi tìm hiểu tác giả qua bài chính khí ca:


thâm tâm nhất phiến từ châm thạch
bất chỉ nam phương, bất khẳng hưu

(lòng ta như mãnh nam châm, nếu không hướng về quê hương miền nam, về Tổ quốc thì ta vẫn chưa yên dạ)


tòng kim biệt khúc Giang Nam lộ
hóa tác đề quyên, đái huyết qui

(từ nay vĩnh bịệt Giang Nam nhưng ta sẽ hóa thành Đổ quyên, kêu đến nhỏ máu để tự bay về chốn cũ)


sơn hà phá toại phong phiêu nhứ
thân thế phù trầm vũ đá bình.

(đất nước đang lúc nguy khốn, xơ xác như cánh hoa tơi tã, thân thế người dân trôi nổi dập dồn)


Cùng một cảnh ngộ chim lồng cá chậu như Văn Thiên Tường, từ năm 1926 Phan bội Châu bị Pháp giam lỏng tại Huế cho đến chết. Trước khi từ trần ngày 29-10-1940, Ông đã viết mấy lời vĩnh quyết để tạ tội với quốc dân, trong có đoạn: "Bội Châu từ xưa tới nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi chết, thật là một tên dân trốn nợ... đồng bào có thứ lượng cho tôi thì tôi mới yên bụng". Hởi ơi, hai thế hệ cách nhau mấy trăm năm, nhưng họ đã hội ngộ trên con đường xả thân vì nước.


Theo các nguồn sử liệu, Phan bội Châu thuở nhỏ có tên là Phan văn San, hiệu là Hải Thụ. Khi đi thi mới đổi tên là Phan Bội Châu. Trong thời gian hoạt động chống Pháp, thường ký tên Sào Nam Tử hay Thị Hán. Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại Đan Nhiễm, Đông Liệt, Nam Đàn, Nghệ An, trong một gia đình hàn nho. Thuở nhỏ nhờ phụ mẫu vốn là nhà nho, nên Ông được dạy dỗ chu đáo và đã thông thuộc một số bài trong kinh thi từ khi mới lên sáu. Ông nổi tiếng thần đồng, 13 tuổi trở thành đầu huyện, 16 tuổi là đầu xứ.


Trước cảnh quốc phá gia vong, ngày ngày chứng kiến quân Pháp lần lượt chiếm hết đất đai của VN từ nam ra bắc, đã nẩy nở trong ông tinh thần và tư tưởng yêu nước rất sớm, mà điển hình là bài hịch 'bình tây thu bắc' khi Pháp chiếm thành Hà Nội và các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Năm 1897, Ông vào Huế và nhờ bài phú 'bái thạch vi huynh' nên Phan bội Châu đã kết giao được với các vị khoa bảng nơi đất thần kinh như Nguyễn thượng Hiền, Phan chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Trần quý Cáp, Ngô đức Kế, Đặng nguyên Cẩn và sau đó trở thành đồng chí trong suốt đoạn đường đấu tranh chống Pháp đầy hiểm nguy, gian khổ. Tại đây, ngoài việc được Tế tửu Quốc tử giám là Khiếu năng Tĩnh can thiệp để Ông được phép trở lại trường thi và đậu giải nguyên tại trường thi xứ Nghệ, ông còn được đọc nhiều tân thư của các nhà cách mạng Trung Hoa, Nhật Bản, làm nẩy nở con đường cứu nước mới.


Sau khi thân phụ qua đời, Phan bội Châu quyết lòng vứt bỏ lợi danh phù phiếm, dấn thân vào con đường cứu nước mà khởi đầu là sự liên kết với Ngư Hải Đặng thái Thân, sắp đặt ba kế hoạch lớn như liên kết với những sĩ phu trong phong trào Văn thân, Cần vương để tiếp tục mưu chuyện khởi nghĩa, tìm kiếm một minh chủ trong Hoàng tộc để liên kết các giới và chương trình đưa người xuất dương để học hỏi và xin ngoại viện. Tiến hành chủ đích trên, đầu tháng tư năm Giáp Thìn (1904), Phan bội Châu, Tiểu la Nguyễn Thành và một số lãnh tụ trong Duy Tân Hội tại Quảng Nam, đã đồng tâm, tôn xưng Kỳ ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ. Phan bội Châu được giao phó trọng trách sang Nhật cầu viện, xin giúp đỡ phương tiện để chống Pháp.


Đầu năm Ất Tỵ (1905), lần đầu tiên Phan Bội Châu đã cùng với Tăng Bạt Hổ, bí mật đáp tàu từ Hải Phòng đi Thượng Hải, sau đó tới Thần Hộ (Kobé) và Yokohama (Hoành Tân). Tại đây nhờ gặp được nhà cách mạng Trung Hoa Lương Khải Siêu đang lưu vong vì chống lại triều đình Mãn Thanh, mà Phan Bội Châu được quen biết với các lãnh tụ chính trị nổi tiếng thời đó của Nhật như Tử tước Khuyển dưỡng Nghị (Inukaiki) và bá tước Đại Ôi Trọng Tín. Tất cả đều khuyên Phan Bội Châu nên đưa Kỳ ngọại Hầu và các thanh niên có nhiệt huyết ra ngoại quốc du học để mưu tìm con đường cứu nước hữu hiệu. Từ đây, Phan bội Châu bắt đầu sử dụng ngòi bút để làm phương tiện đấu tranh với kẻ thù.


Những tác phẩm như VN vong quốc sử (1905), VN quốc sử khảo (1908), hải ngoại huyết thư, kính cáo toàn quốc phụ lão văn, thư gởi Phan chu Trinh vừa giới thiệu cách mạng VN với các chính khách Trung Hoa, Nhật Bản, vừa có tác dụng kêu gọi đồng bào trong nước nhất tề hưởng ứng công cuộc cứu nước và quan trọng hơn hết là cổ võ thanh niên xuất dương du học. Tất cả những công việc trên được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt, phong trào Đông Du nở rộ, nhiều thanh niên VN được theo học tại Châu võ học hiệu. Để giúp đỡ số du học sinh đông đảo trên, Phan bội Châu, Cường Để và các đồng chí lập Cống Hiến Hội, đặc trách việc du học của 200 thanh niên VN tại Nhật.


Trước sự lớn mạnh của phong trào Đông Du, thực dân Pháp lo sợ nên dùng thủ đoạn nhượng một số quyền lợi kinh tế tại Đông Dương cho Nhật, đổi lại nước này ra lệnh trục xuất hết người VN đang sống trên nước Nhật bắt đầu có hiệu lực ngày 10-7-1907. Trong nước tình hình chính trị biến động không ngừng, đầu năm 1908 nổi lên cuộc Trung Kỳ dân biến, với các cuộc biểu tình của dân chúng Miền Trung, chống sưu cao thuế nặng; đồng thời là vụ các lính khố đỏ qua tiếp tay của Hoàng Hoa Thám, đầu độc các trại binh Pháp tại Hà Nội.


Cũng trong giai đoạn này, qua áp lực của Pháp, đầu tháng 8/1908 Nhật ra lệnh trục xuất hết du học sinh VN, làm một số trở về cố quốc nhưng phần lớn trốn sang Trung Hoa, cả Cường Để và Phan bội Châu cũng bị rời khỏi Nhật vào tháng 3/1909. Song song với bất hạnh trên, phong trào Duy Tân ở trong nước cũng bị đàn áp khốc liệt từ năm 1908-1910 nên gần như bị tan rã. Năm 1911, cách mạng Trung Hoa thành công, lật đổ được nhà Mãn Thanh; nhân cơ hội đó Phan bội Châu và các nhà cách mạng VN được Quốc dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ nên đầu năm 1912, Việt Nam Quang Phục được thành hình. Trong nước, Pháp giải tán các Hội kín ở Quảng Nam, trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội, bắt giam các lãnh tụ như Phan Chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Thành, Ngô đức Kế, Lê văn Huân rồi đày ra Côn Đảo. Riêng Đặng thái Thân tự tử ngày 11-3-1910 trước khi bắn hạ một tên mật thám Pháp.


Để tạo tiếng vang trong và ngoài nước, năm 1913 VN Quang Phục Hội, quyết định lên án tử hình toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut cùng với hai tên Việt gian là Tổng đốc Hoàng trọng Phu (con Hoàng cao Khải) và Tổng đốc Thái Bình Nguyễn Duy Hàn. Kết quả, chỉ có Nguyễn duy Hàn và hai sĩ quan Pháp bị chết. Để trả thù, Pháp xử bắn và tù đầy hàng trăm người, đồng thời lên án tử hình khiếm diện Cường Để, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần. Riêng toàn quyền Sarraut dùng tiền bạc và yêu cầu tổng đốc Lưỡng Quảng là Long tế Quang bắt giam Phan Bội Châu ngày 19-1-1914 tới tháng 2-1917 mới được thả khi Quang bị bãi quyền.

Cũng kể từ đó Ông bôn ba khắp nơi để mưu tìm con đường cứu nước, kể cả việc liên lạc với Đại sứ Liên Bang Sô Viết tại Bắc Kinh năm 1920. Trưa ngày 1-7-1925 nhằm ngày 11-5 năm Ất Sửu, Phan Bội Châu vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải thì bị mật thám Pháp bắt cóc và giải về Hà Nội. Trong Tự Phán, Phan Bội Châu cho rằng chính thư ký riêng của Ông là Nguyễn thượng Huyền (cháu Nguyễn thượng Hiền) bán tin cho Pháp, nhưng sau này có nhiều tài liệu lịch sử chứng nhận, kẻ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng là Lâm đức Thụ và Lý Thụy (bí danh của Hồ chí Minh lúc đó). Trong nước, Pháp muốn thủ tiêu Ông nhưng mưu toan bị bại lộ nên đành phải đưa Phan bội Châu ra hội đồng đề hình Hà Nội xét xử với bản án khổ sai chung thân, lưu đày biệt xứ. Tuy nhiên vì sự phản đối quá quyết liệt của quốc dân VN cũng như áp lực từ nước Pháp, nên toàn quyền Đông Dương dành giảm án nhưng bắt ông giam lỏng tại bến Ngự, Huế từ năm 1926 cho tới lúc mãn phần năm 1940.


* Sự Dị Biệt Giữa Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh Trên Con Đường Chống Pháp Cứu Nước


Xưa nay các tao nhân mặc khách cũng giống như những tơ lòng muôn điệu, thường gặp nhau nơi thơ nhạc, cung đàn. Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai nhà ái quốc hào hoa phong nhã trong dòng người yêu nước đầu thế kỷ 20, bởi vậy trên suốt đoạn đường đấu tranh cam go gian khổ, hai Ông luôn dùng văn chương, thi phú để làm phương tiên chuyên chở hoài bão của mình. Thơ của họ Phan đều thuộc loại ngôn chí, trong đó hai Ông đã gói ghém tất cả sĩ khí của những bậc vĩ nhân khi thực hiện các hành động đội đá vá trời. Tuy cùng là đồng chí, cùng quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp xâm lăng ra khỏi bờ cõi Đại Việt nhưng quan niệm đấu tranh của hai chí sĩ đất Nam Đàn và Tây Lộc vẫn có nhiều dị biệt, chẳng những trên hành động mà còn bàng bạc suốt thơ văn.


++ Quan niệm đấu tranh của Phan Sào Nam:


Là thủ lãnh của phong trào Đông Du, nhóm chủ trương dùng bạo động để xoay chuyển lại thời cơ, chống giặc cứu nước. Phan Bội Châu từ thời niên thiếu đã chứng kiến được cảnh quốc phá gia vong, nỗi đau thương cùng cực của người Việt Nam mang ách nô lệ bạo tàn, vì vậy trong tâm khảm của nhà ái quốc đã nẩy nở những hoài bão lớn lao của kẻ làm trai, tung hoành ngang dọc, không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh và số mệnh:

"Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời."


Để hoàn thành chí lớn trên, kẻ nam nhi phải hành động sao cho xứng đáng là anh hùng, trượng phu, quân tử. Đây cũng là sự khác biệt so với phần đông những người lớp trước, thường quan niệm "thời thế tạo anh hùng, thời thế thế thời, thời phải thế", Phan Bội Châu trái lại cho rằng "chính anh hùng tạo nên thời thế" "nắm dân quyền lỗi lạc giữa phương đông tạo thời mới gọi anh hùng."


Đây cũng là một ý tưởng mới lạ, thanh thoát và tích cực. Thật vậy, ngày xưa kẻ sĩ luôn tin ở thiên mệnh, nên họ luôn tùy thời mà hành động, Phan tiên Sinh trái lại cực lực phản đối hành động tiêu cực ấy khi cho rằng kẻ làm trai phải biết gánh vác trách nhiệm, tại sao lại phải dựa vào sự định đoạt của hóa công? Theo Ông ví dù thời chưa đến nhưng người anh hùng cũng có thể tự xoay chuyển thời thế, ấy là nhân lực trước thiên mệnh. Trên con đường đấu tranh, xưa nay từ đông sang tây, có ai mà không gặp phải một đôi lần thất bại trước khi mã đáo thành công, bước lên đỉnh đài vinh quang tuyệt diệu hay nhắm mắt xuôi tay ôm hận muôn đời? Bởi vậy không nên đem thành bại để luận anh hùng, mà chỉ cần xét tới ý chí và hành động của họ mà thôi.'

"nếu không thất bại, sao có thành công
xưa nay anh hùng từng thua mới được"


Tri hành hợp nhất, đó là kim chỉ nam của người anh hùng và Phan bội Châu, trong suốt cuộc đời đã luôn luôn giữ đúng, nước mất thì phải đòi lại nước, tự do bị hủy diệt thì phải làm sao lấy lại tự do, dân chúng lầm than khổ cực thì phải làm sao cải thiện đời sống của họ. Tóm lại, quan niệm đấu tranh của Phan Bội Châu là tận dụng tất cả phương tiện từ bạo lực tới ôn hòa, từ quân sự cho tới tuyên truyền bằng văn thơ thi phú, phải tạo thời cơ, vượt qua những chướng ngại hiểm nguy để phụng sự cho quốc gia, dân tộc:


"đường đường đội đá vá trời,
anh hùng há nhượng cho người thế gian"


++ Đường Đấu Tranh của Phan Tây Hồ (1872-1926)


Như Phan Bội Châu, Tây Hồ Phan Châu Trinh là một sĩ phu ái quốc, chẳng những thể hiện tinh thần đấu tranh của mình bằng hành động, mà còn biểu lộ ý tưởng đó qua thi văn một cách hàm súc chân tình. Năm 1906, tiên sinh xuất ngoại lần đầu tiên và gặp Phan Sào Nam tại Quảng Châu. Cũng trong cuộc gặp gỡ này, Phan Chu Trinh đã cho mọi người thấy là mình đi theo chủ trương khác hẳn với Phan bội Châu, sau khi xem 'Duy Tân hội chương trình' và tuyên bố chỉ muốn sang Nhật Bổn một chuyến cho biết, rồi về nước mà thôi.


Ông là một nhà cách mạng với đường lối bài phong kiến, đã thực dân nhưng với một thái độ ôn hòa. Nhờ hấp thụ được tư tưởng mới của Khang hữu Vi, Lương khải Siêu, Montesquieu, JJ Rousseau nên ngay từ buổi đầu dấn vào con đường tranh đấu, ông đã hô hào tân học, đề xướng nhân quyền, chống lại các cuộc bạo động vì cho rằng đây là nguyên cớ để Pháp đàn áp; ngoài ra Ông chống lại việc cầu viện nước ngoài, đồng thời tạm thỏa hiệp với Pháp. Tóm lại những chủ trương của Phan Chu Trinh gần như ngược lại đường lối tranh đấu của Phan bội Châu. Tuy nhiên hai bên vẫn rất kính trọng và giúp đỡ lẫn nhau vì cả hai cùng mang chung một hoài bão của đấng trượng phu, đang còng lưng gánh vác trách nhiệm đối với sự tồn vong của đất nước.

làm trai trót gánh, gánh gian nan
dám nại xa xôi, bỏ giữa đàng."

Trong thi văn, Phan Tây Hồ tuy không đưa ra một quan niệm rõ rệt về hai chữ anh hùng như Sào Nam, nhưng lại gián tiếp chấp nhận quan niệm anh hùng phải tạo thời thế, phải làm những việc phi thường khác đời và trên hết là chấp nhận hiểm nguy, coi thường sinh tử nên thế sự thăng trầm chỉ là diều cỏn con không đáng kể. Như vậy tuy hai người khác nhau về phương cách cứu nước và lập trường chính trị nhưng lại đồng tâm ở lòng ái quốc, cũng như rất cảm thông và hòa hợp trong quan niệm 'anh hùng'. Hai Ông là những người tiền phong giựt sập cái thần tượng cá nhân, rồi thay vào đó là thần tượng anh hùng dân tộc. Chính điều này đã làm cho các thanh niên nam nữ qua bao thế hệ, khi dấn thân vào con đường lập chí rất ngưỡng mộ và tôn sùng hai cụ Sào Nam và Tây Hồ.


* Phan Bội Châu, Nạn Nhân Giữa Hai Thế Lực


Trong tác phẩm tự phán (PBCNB), cụ Phan cho rằng mình đã bị Nguyễn thượng Huyền bán đứng cho Pháp vào ngày 1-7-1925, vì chỉ có y mới biết rõ lộ trình của Ông mà thôi. Nhưng sự thật thì không phải vậy, năm 1928 lần đầu tiên Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, trong tài liệu 'ai bán đứng cụ Phan bội Châu?' đã chỉ đích danh Lý Thụy (Hồ Chí Minh) đã bán Cụ Phan cho Pháp. Năm 1948 Đào trinh Nhất, trong loạt bài đăng trên báo Cải Tạo, cũng viết rằng, chính Lý Thụy là thủ phạm bán đứng cụ Phan. Ngoài ra Bùi Đình trong vụ án PBC và Bùi văn Hội (ba nhà chí sĩ ho Phan) đã chứng minh chính Lý Thụy và Lâm Đức Thụ đã bán Cụ Phan cho Pháp.


Mới đây vào năm 1972, Sử gia kiêm học giả Đài Loan là Tưởng Vĩnh Kính, qua tác phẩm 'Hồ chí Minh tại Trung quốc' cũng xác nhận chính Lâm đức Thụ (đại diện của Phan bội Châu tại Hương Cảng) và Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy-Hồ chí Minh), đã bán cụ Phan cho Pháp, rồi cả hai chia đôi số tiền thưởng là 100.000 quan bây giờ. Sau đó, Thụ và Quốc còn hợp tác nhiều năm nữa để bán những đồng chí của cụ Phan cho Pháp.


Theo các học giả trong cũng như ngoài nước, thì việc Phan bội Châu bị bán đứng, một phần do số tiền thưởng cao, nhưng trọng điểm chính là chính trị, nên Lý Thụy, một cán bộ đệ tam cộng sản quốc tế từ Liên Xô mới tới Trung Hoa, đã ra tay nhanh chóng loại trừ Cụ Phan, một lãnh tụ Quốc Gia uy tín nhất lúc bấy giờ trong cuộc chống Pháp tại hải ngoại, hầu đoạt vị trí lãnh đạo cũng như tổ chức, bổ sung cho lực lượng cộng sản mới phôi thai tại VN. Còn một sự kiện quan trọng khác, do chính Cụ Phan viết trong tự phán, đó là việc Ông đã tiếp xúc với hai nhân viên cao cấp của Liên Xô tại Tòa đại sứ nước này ở Bắc Kinh là Grigorij và Voitinsky, nhờ giúp đỡ đưa du học sinh VN sang du học tại LX. Cuối cùng mọi sự không thành vì Phan Bội Châu không chấp nhận điều kiện theo cộng sản. Và cũng do việc này mà Ông đã phải gánh lấy hậu quả với Liên Xô, là xài không được thì phải gạt bỏ không để cho kẻ khác xài, và Lý Thụy được giao trọng trách thi hành bản án trên. Ở đây, thực dân Pháp và cộng sản quốc tế đã gặp nhau trong cùng mục đích triệthạPhan Bội Châu. Sau năm 1954, Nguyễn thượng Huyền trở lại VN và di cư vào nam, đã viết bài minh oan cho mình trên tờ Bách Khoa số 73, xuất bản tại Sài Gòn năm 1960.

* Phan Bội Châu Bị Giam Lỏng Tại Huế (1926-1940)


Ngày 23/11/1925, Hội đồng đề hình của Pháp tại Hà Nội xử Phan Bội Châu khổ sai chung thân tại Côn Đảo, nhưng vì phản ứng quyết liệt của quốc dân, nên ngày 25/12/1925 toàn quyền Varenne phải ký lệnh ân xá và giam lỏng Ông tại Bến Ngự, Huế. Nhờ số tiền 2000 đồng của đồng bào cả nước quyên góp, Huỳnh thúc Kháng và Võ liêm Sơn đã mua hai khoảnh đất tại dốc Bến Ngự (cách Huế 3 km về phía nam) và gần đàn Nam Giao để cất nhà và làm nghĩa trang sau này cho Phan Bội Châu.


Theo tài liệu của nhà báo Quang Đạm, học trò cũng là thư ký của cụ Phan từ 1926-1927, đã viết về nơi ăn chốn ở của thầy mình. Đó là một gian nhà tranh đơn sơ giản dị, nơi Phan Bội Châu sống suốt quãng đời chim lồng cá chậu từ 1926-1940. Nhà lợp bằng lá gồm ba gian, nhờ cất cao nên thoáng khí và mát mẻ. Trừ 4 buồng nhỏ ở 4 góc nhà, không có gian nào có tường vách mặt ngoài. Trong ba gian, thì gian giữa hẹp nhưng dài, còn 2 gian đầu và cuối thì rộng mà ngắn, theo lời Sào Nam thì đó là hình tượng nước Việt Nam.


Theo hồi ký "Ông già bến Ngự" do Thuận Hóa xuất bản năm 1982, thì cách thức trang trí trong nhà rất mới mẻ so với thời đó. Phòng ngủ của Cụ Phan ở gian bên trái, có treo ba bức tranh màu rất lớn, bức vẽ Hai bà Trưng cỡi voi chỉ huy đánh giặc Hán, bức thứ hai là hình Quang Trung Đại Đế cỡi ngựa đánh quân Thanh nhưng ý nghĩa hơn hết là một bức tranh hý họa vẽ một con mèo to lớn, dù đang nhe răng múa vuốt, vẫn không dấu vẻ khốn đốn sợ hãi trước hằng ngàn con chuột tí hon đang nhất tề tấn công từ mọi phía. Sau khi cụ Phan mất năm 1940, con cháu đến cư ngụ nên có sự thay đổi. Năm 1941, Huỳnh thúc Kháng cho xây thêm về phía đông bắc ngôi nhà thờ chính để thờ Phan bội Châu cùng ông bà Phan nghi Đệ (con trai) và Phan Thiện Cẩn, Phan Thiện Tường (cháu nội).


Khu di tích Phan bội Châu hiện nay, ngoài các gian nhà trên còn có nhà thờ bà Âu Triệu Lê Thị Đàn, một đồng chí của Duy Tân Hội, đã tự tử chết trong ngục ngày 16-3-1908. Trong nhà thờ này, cụ Phan đã dựng một tấm bia lớn bằng đá trắng, hai mặt có khắc chữ Hán và Quốc ngữ về tiểu sử của Bà Âu Triệu. Năm 1974, tỉnh Thừa Thiên đã đúc tượng Phan Bội Châu bằng đồng, cao 3m, nặng 4 tấn. Tượng này được đặt trong khu di tích, cách nhà thờ Âu Triệu 5m. Về sau, vào năm 1988 lại xây thêm một bệ hình khối chữ nhật bằng đá hộc, cao 2m để đặt tượng trên. Ngày 29-10-1940, Cụ Phan qua đời. Nhờ số tiền 900 đồng do quốc dân quyên góp, Huỳnh thúc Kháng đã làm nhà thờ và xây mộ cho cụ Phan tại địa điểm mà sinh thời, Sào Nam đã chọn cho mình vào năm 1934. Mộ có chiều dài 7m, ngang 5m, trên bia là bài tự do chính tiên sinh viết bằng chữ Hán vào năm 1934. Phía dưới chân mộ là hàng bia 2 con nghĩa khuyển Vá và Ky, đã theo Ông nhều năm. Ngoài ra còn có mộ của vợ chồng thứ nam Ông là Phan Nghi Đệ và mộ nhà cách mạng Tăng Bạt Hổ trong phong trào Đông Du, mất năm 1907, được Chính quyền VNCH cải táng từ Hương Trà về đây năm 1969. Một đặc điểm khác là trong khu di tích trên, còn có một nghĩa trang nằm bên dưới đàn Nam Giao. Nơi này Phan Bội Châu dành cho các đồng chí và những chiến sĩ quốc gia an giấc nghìn thu. Thế nhưng ngày 12-9-1939, Nguyễn chí Diễu, ủy viên trung ương đảng cộng sản đông dương chết tại Huế và được Cụ cho phép mai táng tại đây, bất chấp sự phản đối của chánh thanh tra mật thám Pháp tại Trung Kỳ là Sogny. Sau đó còn cho chôn thêm nhiều cán bộ CS khác như Trần Hoành, Bùi thị Nữ, Lê tự Nhiên, Thanh Hải, Đạm Phương, Hải Triều. Chính điều này để các sử gia cộng sản như Trần huy Liệu, Chương Thâu vịn vào đó mà biện bạch về vụ án Lý Thụy và Lâm Đức Thụ bán đứng Phan Bội Châu.


Tóm lại, những ngày đầu của thế kỷ 20, Việt Nam coi như đã mất hẳn chủ quyền về tay thực dân Pháp. Triều đình nhà Nguyễn tại Huế chỉ còn là hư vị, trong khi đó phong trào Cần vương cũng sắp tàn lụn, báo hiệu sự bế tắc trên con đường cứu quốc. Phan bội Châu hiện ra như một ngôi sao bắc đẩu, qua ảnh hình tiêu biểu của một lãnh tụ của phong trào cách mạng mới, ngoảnh mặt phá bỏ tất cả những ràng buộc của thời phong kiến lỗi thời. Ông hiên ngang đi trên chông gai, tắm trong bão tố, bôn ba khắp chốn để mưu tìm con đường giải phóng dân tộc. Như hàng bao thế hệ trước, Phan Bội Châu hào hoa phong nhã, gươm đàn nửa gánh, giang sơn lẫy lừng.

"non sông đã chết, sống thêm nhục
hiền thánh còn đâu, học cũng hoài"


Chúng ta ngày nay, may mắn trên con đường lập chí, đã được nép mình suốt bao năm dưới mái trường trung học mang tên Phan Bội Châu tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Nhờ khí thiêng của Ông, nên trải qua năm chục năm thành lập đã có không biết bao nhiêu anh hùng nam nữ theo gót tiền nhân, làm rạng danh con Hồng Cháu Lạc.


* Phan Chu Trinh Sang Pháp


Phan Bội Châu đã viết trong niên biểu, cho biết hạ tuần tháng hai âm lịch, năm Bính Ngọ (1906), Tây Hồ Phan Chu Trinh, từ Quảng Nam ra Hà Nội giúp Lương văn Can, Nguyễn Quyền thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục, rồi lên Yên Bái thăm Hoàng Hoa Thám, sau đó cùng Lý Tuệ bí mật trốn sang Hương Cảng. Tại đây ông đã gặp Phan Bội Châu, Lưu Vĩnh Phúc và Nguyễn Thiện Thuật. Sau khi hàn huyên vui đùa, Phan Chu Trinh đem bài văn 'Khuyến tự trợ du học' đọc cho mọi người cùng nghe, cũng để nói lên cái chương trình 'Duy Tân Hội' của nhóm ông, khác biệt với đường lối Đông Du của nhóm Phan Bội Châu. Tuy chính kiến khác nhau nhưng tình bạn vẫn không thay đổi. Sau đó cả hai qua Nhật thăm viếng đó đây và Phan Chu Trinh về nước.


Tháng 4-1908, qua vụ Trung Kỳ Dân Biến, dù thực sự không do Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chủ mưu, nhưng Pháp đã vịn vào cớ này, bắt giam các ông tại Côn Đảo. Nhờ hội Nhân quyền can thiệp, năm 1911, Phan Chu Trinh được đưa về an trí tại Mỹ Tho, rồi sau đó qua lời yêu cầu, Phan cùng con trai là Phan Chu Dật qua Pháp, sống từ năm đó cho tới năm 1925 mới về nước và mất tại Sài Gòn ngày 24-3-1926.


Qua các sáng tác và hành động, ta thấy Phan Chu Trinh không hề tuyên bố lý do tại sao phải xin sang sống tại nước Pháp. Nhiều người cho rằng có lẽ ông là người chủ trương dân quyền, nên muốn sang tận nơi để thấy rõ cuộc sống của dân chúng cũng như thể chế chính trị của mẫu quốc. Có điều cũng nên suy ngẫm, trong lúc Phan Bội Châu là một nhà ái quốc tiêu biểu của thế kỷ. Hành động và tư cách của ông khắp nước và cả thế giới điều kính phục. Vậy mà vào những năm Hồ Chí Minh và đảng cộng sản phát động chính sách đấu tố tại miền bắc. Ấy thế mà năm 1955, đội cải cách địa phương đã kết tội Phan Bội Châu là thành phần giai cấp địa chủ.


Cũng may ông đã chết, nên chỉ bị VC bắt phạt bằng cách đem hình trên bàn thờ, treo xuống chuồng trâu, trong lúc đó người cháu nội đích tôn của nhà ái quốc là Phan Thiện Cơ, đang mang cấp bậc Đại Tá trong Bộ Đội Hà Nội. Ngược lại tại VNCH, những người trong gia đình Phan Chu Trinh đều tham gia hàng ngũ Cộng Sản và là những cán bộ cao cấp như Phan Thị Minh, cháu ngoại Phan Chu Trinh, nguyên Đại Sứ Cộng Sản Bắc Việt tại Ý Đại Lợi và Nguyễn Thị Bình cũng là cháu ngoại Phan, tiếng tăm xấu xa lừng lẫy một đời, từng là ngoại trưởng bù nhìn của Ma mặt trận, có chữ ký trên tờ giấy lộn của cái gọi là "hiệp định hòa bình Ba Lê ngày 27-1-1973" văn bản bán đứng miền nam VN của cặp Nixon-Kissinger, cho đế quốc cộng sản quốc tế, để mang lại cho nước Mỹ, cuộc tháo chạy nhục nhã, đêm 29 và sáng 30-4-1975, trên nóc nhà tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Ấy thế mà chính phủ và người dân miền Nam vẫn một lòng thương trọng cá nhân người yêu nước Phan Chu Trinh, trong tâm khảm cũng như trên lãnh vực sử học và giáo dục. Đó là sự khác biệt giữa con người và cầm thú, giữa những trái tim nhân ái VN và hạng súc sanh, không còn biết phân biệt liêm sỉ làm nhục nhã thanh danh của tổ tiên mình.


Cộng Sản VN hiện nay đang điên cuồng đàn áp Phật Giáo, Tin Lành, Công Giáo và chà đạp nhân quyền, bất chấp công pháp quốc tế, dư luận trong và ngoài nước. Để vừa ăn cướp lại la làng, Hà Nội tổ chức rùm beng lễ kỷ niêm 100 năm (1905-2005) đánh dấu ngày cụ Phan Bội Châu, phát động phong trào Đông Du cứu nước. Hành động này tuy mới nhìn vào, làm ai cũng tưởng là Bắc Bộ Phủ đã ăn năn hối hận về sự lừa dối, phản bội các Đảng phái Quốc Gia khi chúng Hòa Hợp, Hòa Giải. Nhưng thấy vậy mà không phải vậy, vì mục đích chính ngày kỷ niệm trên để VC có lý do chính đáng làm sống lại huyền thoại Anh Thành xuất dương cứu nước mà đồng bào VN, kể cả các đảng viên, gần như đã quên lãng, khi tất cả sự thật về Hồ Chí Minh và Đảng VC Đệ Tam Quốc Tế đã bị lột trần muôn mặt trước bia miệng và lịch sử, khi công khai bán nước cho Trung Cộng, tham nhũng tàn bạo, đưa quốc dân vào vũng bùn ô nhục, nghèo đói hiện nay, không biết bao giờ mới thoát được cảnh địa ngục xã nghĩa thiên đàng.


Xóm Cồn
Tháng 6-2006
Mường Giang

Tâm Sự Cùng Linh Mục Nguyễn Văn Lý



Tâm Sự Cùng Linh Mục Nguyễn Văn Lý nhân Kỷ Niệm Một Năm Phiên Tòa Ô Nhục Tại Huế

Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi

Huế ngày 30-03-2008

"... Chẳng một lời một lẽ,
chẳng nghe thấy âm thanh,
Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu,
Và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển..."

Anh Lý thân kính,

Lời Thánh vịnh 18,4-5 nói trên làm cho chúng tôi nhớ tới Anh trong tấm hình bất hủ cách đây đúng một năm trời. Tấm hình Trời cho đối với mọi ai yêu tự do dân chủ, tấm hình Trời đánh đổi với những kẻ chà đạp nhân quyền.

Giờ đây, Anh đang nằm trong khám lạnh, nếm lần tù thứ tư và năm tù thứ mười sáu. Cô đơn, không bè bạn để tâm sự, không giấy bút để giải tỏ nỗi lòng, không sách kinh để tâm sự với Thiên Chúa. Thế nhưng, bức hình Anh bị bịt miệng đã bay khắp thế giới, tới tận chân trời góc biển, in ra hàng chục triệu bản, biến thành panô (billboard) trên bao xa lộ hoàn cầu. Nó đã được đồng bào hải ngoại in lên áo, cầm trên tay, biến thành bưu thiếp tặng các chính khách quốc tế, căng thành biểu ngữ trong các cuộc biểu tình phản đối các quan chức Việt cộng. Nó đã được nhiều bạn trẻ trong nước bí mật chuyền tay cho nhau, đưa lên các trang blog nhật ký, lấy làm hình nền trong điện thoại di động...

Giờ đây Anh không nói được gì hết với ai, nhưng tấm hình đã thay Anh nói lên tất cả và cho mọi người. Trước hết, bức hình đó là biểu tượng của nền pháp lý tại Việt Nam cộng sản hôm nay. Có luật đấy, nhưng là luật rừng! Có toà án đấy, nhưng là tòa án bịt miệng! Có công lý đấy, nhưng là công lý của kẻ vũ trang! Cả một tiến trình thẩm vấn và xét xử ô nhục mà ngay cả những bộ lạc man rợ trong rừng sâu, những băng nhóm giang hồ giữa xã hội cũng xấu hổ không dám thực hiện

Sa vào tay đám công an ngay giữa ngày tết thiêng liêng của dân tộc, Anh và các cộng sự, những thành viên của đảng Thăng Tiến, đúng là đã sa vào tay một lũ côn đồ mặc sắc phục chỉ biết dùng mọi phương tiện dù là bỉ ổi nhất, phi pháp nhất, bất nhân nhất hầu ép cung và bức cung cho được (cơ hội cho chúng lập thành tích mà!): như biệt giam để gây bất ổn tâm thần, không cho ngủ nghỉ để làm mất sự tỉnh táo, tước quyền được cố vấn pháp luật để phải rối trí bấn loạn, dối trá lường gạt để lừa người ta vào bẫy, dụ dỗ hay hăm dọa để buộc nạn nhân đầu hàng. Đối với Anh, chúng còn chơi trò báng bổ là biến một thánh đường thành phòng thẩm vấn giam giữ và muốn các tín hữu nhìn Anh, một nhà tu hành, như một kẻ tội phạm!

Đến ngày ra tòa, những kẻ gọi là "thừa hành" và "đại diện luật pháp" lại làm thêm những trò đê tiện khác. Họ sợ anh mặc chiếc áo dòng của mình hay trút bỏ áo tù của họ nên ngay từ đầu đã còng tay anh như một phạm nhân. Họ sợ sự hiện diện của bề trên lẫn thân nhân bạn bè của các bị cáo sẽ đem lại sức nâng đỡ tinh thần nên đã chặn những người này ngay ngoài cửa. Rồi các "vị" mang danh quan toà - công tố, mặc veston rất chững chạc, ngồi ghế chủ tọa rất oai phong, thực ra chỉ là những con rối, những thằng hề. Họ lo sợ có luật sư bàu chữa, e ngại bị can tự biện hộ cho mình, nên đã dùng uy thẩm phán, lý sự cùn để ngăn chặn mọi phản biện. Dù có chút ít chữ nghĩa nhưng hoàn toàn vô nhân cách, họ đã chỉ biết xử án theo chỉ thị, tuyên án theo lệnh trên truyền. Dàn dựng lố bịch, ngang nghiên, trâng tráo như thế ngay trước mắt các phóng viên quốc tế và rồi trước cả nhân loại khắp hoàn vũ, thế mà họ vẫn dám gọi đó là một phiên toà! Thật không thể nào tưởng tượng nổi!

Khinh bỉ họ ra mặt, Anh đã ví von như sau: "Tòa án Cộng sản Việt Nam. Trò hề bỉ ổi ngàn năm chê cười. Quan tòa một lũ đười ươi. Tay sai nô bộc xử người nào đây?" Rồi còn mạnh mẽ hô to: "Đả đảo đảng CSVN!", còn thẳng thừng tuyên bố trước cả phòng xử án:

"Chính tòa án này, chính Viện kiểm sát này, chính Sở công an này, chính Chế độ CS này phải chịu tội trước lịch sử dân tộc Việt Nam, là thay vì đào tạo nên một dân tộc sĩ khí anh hùng, thì đã dùng mọi thủ đoạn đàn áp, để tạo nên một dân tộc hèn nhát, sợ hãi, rồi cho đó là thắng lợi, thành công! Hội đồng xét xử này là đệ tử của ông Hồ Chí Minh, một kẻ lưu manh đại gian ác, là tay sai nô bộc của đảng CSVN, một đảng gây ra bao tội ác với dân tộc, thì làm sao đủ tư cách để xét xử các Chiến sĩ dân chủ hòa bình chúng tôi? Chúng tôi đòi hỏi được xét xử bởi một tòa án quốc tế của Liên Hiệp Quốc, căn cứ trên Công pháp văn minh của Quốc tế, chứ không dựa trên pháp luật lạc hậu của CSVN đáng bị lịch sử vứt vào sọt rác từ lâu rồi".

Tiếc thay, với bản chất gian manh, các nhân sự của màn kịch khôi hài và bộ máy đàn áp này đã bịt miệng Anh, đến 3 lần, không cho Anh phát biểu trọn vẹn. Chẳng hề chi, vì thế giới đã nghe trước những lời nói hào hùng này rồi. Cũng chẳng hề chi, vì hành vi bịt miệng Anh đã nói lên tất cả, nói một cách hùng hồn, nói một cách mạnh mẽ!

Ngoài tính chất biểu tượng cho nền pháp lý của chế độ Việt cộng, bức hình đó cũng là biểu tượng của "nền dân chủ" tại VN hôm nay. Đồng bào hải ngoại đã rất thâm thúy khi in dòng chữ to đùng "Vietnam Today" trên các panô to lớn hình Anh bị bịt miệng. Quả thế, không phải chỉ có trong phiên tòa, các bị can mới bị "bịt miệng" vì không được quyền phản biện, không được có luật sư (như trong phiên tòa kỹ sư Trương Minh Đức hôm 28-03-2008 mới đây), hay vì luật sư không được quyền bào chữa trọn vẹn cho thân chủ (như trong phiên tòa phúc thẩm xử hai chiến sĩ Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ngày 27-11-2007).

Toàn bộ nhân dân Việt Nam đều đang bị CS bịt miệng cách thô bạo từ gần 60 năm nay bởi chế độ độc tài đảng trị và toàn trị: bịt miệng không cho ăn nói, viết lách về nhân quyền dân chủ trên các phương tiện truyền thông, bịt miệng không cho đề nghị và bầu bán đại diện của mình trong các cuộc bầu cử, bịt miệng không cho bộc lộ nỗi oan trong các cuộc khiếu kiện, bịt miệng không cho đòi hỏi quyền lợi trong các cuộc đình công, bịt miệng không cho bày tỏ niềm tin đúng như giáo lý của đạo đòi hỏi, bịt miệng không cho trình bày cảnh ngộ bị đàn áp với các tổ chức nhân quyền, bịt miệng không cho vạch trần căn nguyên những tệ nạn và thảm trạng của đất nước, bịt miệng không cho phản kháng những kẻ dâng hiến hay xâm chiếm gia sản tổ tiên, bịt miệng không cho đề đạt những quyền con người tối thiểu trong chốn tù ngục....

Và như một tác động dây chuyền, bức hình bịt miệng của Anh, kể từ ngày đó, đã trở thành dụng cụ cho đồng bào hải ngoại bịt miệng bất cứ viên chức Việt cộng nào từ lớn tới nhỏ đi ra hải ngoại. Từ tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ đến đại sứ, lãnh sự, xuống tới viên chức Việt cộng quèn...., kẻ nào mà không cúi gằm mặt khi đi qua tấm hình của Anh? không ngó lơ chỗ khác khi bị đồng bào dí hình đó vào mặt? không lúng ta lúng túng lúc được chính khách quốc tế đưa cho xem tấm hình?

Trong lịch sử nhân quyền của nhân loại, không biết có bức ảnh nào gây cay đắng và ô nhục hơn cho cái chế độ tự xưng là dân chủ gấp triệu lần tư bản chăng, cho cái quốc gia tự vỗ ngực thủ đô của mình là thủ đô của nhân quyền chăng, cho cái xã hội tự đắc có nền pháp chế nhân bản và ưu việt chăng, cho cái nhà nước tự khoác lác là có nền báo chí thông thoáng nhất hành tinh chăng ???

Và khi Anh không thể nói được, thì lẽ ra những kẻ có liên hệ với Anh nhất, có nghĩa vụ với Anh nhất, có trách nhiệm về Anh nhất phải lên tiếng nói thay cho Anh. Thế nhưng họ vẫn câm miệng, vẫn bị bịt miệng, hay đúng hơn là tự bịt miệng! Đây xem ra là một tác động dây chuyền thứ hai. Do sợ hãi chăng? Sợ dính dáng tới một "tên phản động"? Sợ mất những ân huệ được bạo quyền từ lâu ban phát? Sợ cuộc sống mất an nhàn và công việc mất thuận lợi? Sợ bị trả thù mờ ám như bao vị lãnh đạo tinh thần bất khuất ? Sợ không còn được giấy phép để tổ chức, xây dựng, ra nước ngoài ?

Do nghĩ rằng Anh làm chính trị, lỗi giáo luật, bất tuân lệnh bề trên chăng? Thế thì tại sao họ không kết án Chúa Giêsu vì "tội" đã gọi vua Hêrôđê là "con cáo già" (Lc 13,32)? đã gọi giới kinh sư và Biệt phái, hàng lãnh đạo dân Israel, là "những kẻ dẫn đường mù quáng", "quân ngốn tài sản các bà goá", "bọn giả hình", "mả tô vôi" (Mt 23,14.16.25.27)? vì "tội" đã dám tuyên bố: "Thiên Chúa đã sai tôi đi đem lại tự do cho người bị áp bức" (Lc 4,19)?

Thế thì tại sao họ không kết án thánh Gioan Tẩy giả vì "tội" tố cáo vua Hêrôđê đã lấy vợ anh mình (Mt 14,4)? kết án Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II vì "tội" tuyên bố sẽ rời ngai tòa trở về quê hương Ba Lan chống quân xâm lược Liên Xô? kết án Đức Hồng y Jaime Sin vì "tội" đã dẫn dân Philippin biểu tình lật đổ hai tổng thống tham nhũng? kết án Đức Giám mục Carlos Ximenes Belo vì "tội" đã hợp sức với các lãnh tụ chính trị giành lại độc lập cho Đông Timor? Thế thì tại sao họ vẫn cho phép, chúc lành cho nhiều linh mục tu sĩ tham gia Quốc hội, các Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Ủy ban đoàn kết... làm tay sai công cụ cho cả một cơ chế áp bức độc tài, quan liêu tham nhũng?

Họ hãy thử kết án các nhà sư Việt Nam, Miến Điện, Tây Tạng vốn đang tranh đấu cho dân tộc và đạo pháp là làm chính trị, phạm giới tu hành coi nào! Mới đây thôi, họ còn ra lệnh tiêu hủy cuốn sách nói về Anh: "Vụ án linh mục Nguyễn Văn Lý và lương tâm công giáo" đã được đem bỏ vào hộp thư các đồng nghiệp của Anh tại Huế. Thế đấy!!!

Anh Lý thân kính!

Chúng tôi nhớ Anh đã có lần tuyên bố: "Chiến sĩ nhân quyền đi vào nhà tù là đi nhận nhiệm sở mới!". Đúng thế, khí phách hiên ngang trước toà án và trong nhà tù của Anh và của các thành viên đảng Dân chủ Nhân dân như Lê Nguyên Sang, Huỳnh Nguyên Đạo, Nguyễn Bắc Truyễn, Trần Quốc Hiền, đảng Thăng Tiến Việt Nam như Nguyễn Phong, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Bình Thành, đảng Vì Dân như Trương Minh Đức, Ủy ban Nhân quyền như Nguyễn Văn Đài, Hội Ái hữu Tù nhân tôn giáo chính trị như Trương Minh Nguyệt, Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam như Đoàn Văn Diên, Trần Thị Lệ Hồng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Thị Tuyết, Phùng Quang Quyền, Khối 8406 như Trương Quốc Huy, Hàng Tấn Phát và nhiều vị tù nhân lương tâm đáng kính khác, khí phách hiên ngang ấy là tấm gương cho tất cả phong trào tranh đấu quốc nội lẫn hải ngoại, là cách thi hành nhiệm vụ kiểu mới của họ. Phần Anh, với tấm hình "bịt miệng" vô tiền khoáng hậu", Anh đã và đang hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc!

Anh hãy an lòng! Hy sinh của Anh và của bao chiến sĩ dân chủ tù nhân lương tâm là sức mạnh giúp toàn thể dân tộc bịt miệng vĩnh viễn cái ác đảng độc tôn, độc quyền, độc tài một ngày nào đó gần đây thôi!

Viết tại Huế,
nhân kỷ niệm một năm phiên tòa ô nhục!

Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi