Tuesday, April 28, 2015
40th Anniversary of the fall of Saigon - Chris Hayes MP
40th Anniversary of the fall of Saigon
Phát biểu của Thượng Nghị Sĩ Chris Hayes trước Tượng Đài Chiến Sĩ Úc-Việt trong buổi Đặt vòng hoa tri ân Chiến Sĩ Úc đã hy sinh trong chiến trường Việt Nam, sau khi biểu tình Quốc Hận 30/04 trước Toà đại sứ VC ở Canberra ngày 26 tháng Tư năm 2015.
CHRIS HAYES MP - 40th Anniversary of the fall of Saigon
Sunday 26 April 2015
This April 30 will mark the 40th anniversary since the end of the Vietnam War, the day Saigon tragically fell to Vietnamese communist forces in 1975.
I know that no one here will forget the significance of that day. Not only did you lose homes, family and friends, you lost your country. It was the day Vietnamese lost their freedom and their basic human rights.
Yesterday, our nation paused to commemorate the 100th anniversary of Gallipoli, and to honour the spirit of our ANZACs. It is the day we remember and reflect upon the courage, bravery and the sacrifice of all our Australian soldiers;
Today, we stand with solemn respect in front of the Vietnamese War memorial and commemorate the courage, endurance and sacrifice of Australian and Vietnamese soldiers, who fought side by side to defend the Republic of South Vietnam.
With the Australian and Vietnamese flags raised high, we honour the thousands of South Vietnamese troops, together with 521 Australian soldiers, who made the ultimate sacrifice in the name of freedom and liberty.
Our Vietnam Veterans have an unshakable belief in freedom and the right for people to live with dignity and respect. Their bravery and courage in upholding these noble beliefs is not only humbling, but deeply inspiring. For their sacrifice, we are forever to be in debt. Although 40 years have passed, the pain and devastation inflicted by this war is still felt by many and the memories remain vivid.
Today, we also remember thousands of Vietnamese people who attempted the treacherous journey out of Vietnam, determined to rebuild their lives and, sadly perishing at sea or in the jungles. Our prayers remain with them. But for those who made it, for those standing here today, you are entitled to be most proud of your achievements since coming to Australia.
Following the fall of Saigon 40 years ago, Australia accepted more than 50,000 Vietnamese refugees fleeing persecution in the hope to find freedom and a chance for a better life.
Today, I would like to acknowledge the contribution of our former Prime Minister, Malcolm Fraser, who sadly passed away last month. It was Malcom Fraser who had the courage and compassion to open Australia’s door and welcome Vietnamese refugees. This was a courageous decision and one which showed great foresight
given that many Vietnamese refugees who have made Australia their home, are today making a remarkable contribution to our nation.
Today, Australia is proud to be home to more than 200,000 people who claim Vietnamese heritage. Apart from sharing your vibrant culture and traditions with the broader Australian society, the Vietnamese Australians have contributed much in all areas of community life. Your achievements should be the source of great pride, particularly given the struggle and hardships that you have had to overcome.
Despite the Vietnamese community’s successful settlement in Australia, I know you have never forgotten about the Vietnamese people still living under an oppressive regime in your home land. People whose human rights have been violated and whose dignity is ignored. People who still dream of freedom and liberty.
Yet last week, the Australian Government returned 46 Asylum seekers back to Vietnam as part of a secret operation. Given Vietnam’s appalling human rights record, these claims for asylum should not have been processed in secret and not at sea.
On this 40th anniversary of the fall of Saigon;
Let us remember and honour the sacrifices of Australian and Vietnamese soldiers, many of whom did not return;
Let us recall the harsh challenges faced by thousands of Vietnamese refugees who made the treacherous journey to find freedom and peace;
And importantly, today above all day, let us pledge to stand by the people of Vietnam as they strive for freedom, democracy and recognition of their basic human rights.
In closing and in expressing gratitude to our patriotic heroes, allow me to read a verse from a poem written by my dear friend, Bao Khanh Nguyen, who is with us today. It reads:
There was the time, you were there for us
There was the time, you fought for us
For our freedom, for our lives
Always the time, we’ll adore you
Always the time, we’ll remember you
Our heroes, our friends.
Monday, April 27, 2015
NHỮNG CON CHÓ ĂN CỨT! - Michael Nguyễn
NHỮNG CON CHÓ ĂN CỨT!
Khi nào thì chó chê phân "fund"?
Michael Nguyễn
Chó ăn cứt, chó ăn phân hay chó ăn 'fund', cũng cùng một nghĩa. Trong tiếng Anh, chữ 'fund' có nghĩa là công quỹ. Những kẻ lợi dụng công quỹ để làm những trò lừa đảo đồng bào, đều là những con chó ăn cứt.
Một trong những con chó đó là tên việt gian Nguyễn Ðình Thắng.
Tên Nguyễn Ðình Thắng tự xưng là "tiến sĩ" cơ khí, điều này rất đáng khả nghi. Chúng ta thường nghe nói: tiến sĩ toán, tiến sĩ vật lý, tiến sĩ hóa học, tiến sĩ triết, tiến sĩ văn chương ..v..v.. nhưng không hề có cái bằng cấp nào gọi là "tiến sĩ cơ khí"!. Nếu quý vị đọc cái "tiểu sử" viết bằng tiếng Anh của tên Thắng trên internet, quý vị sẽ có rất nhiều câu hỏi.
Chúng ta ai cũng biết, những phần căn bản nhất của tiểu sử là năm sinh, nơi sinh, học tiểu học, trung học ở đâu, tốt nghiệp đại học năm nào, ở đâu. Nhưng những điều này hoàn toàn không có trong phần tiểu sử của tên Nguyễn Ðình Thắng. Không lẽ hắn là con bọ hung từ dưới đất nẻ chui lên hay chui ra từ một đống cứt nào đó?. Nhiều người nghi ngờ tên Thắng xuất thân từ miền Bắc, vượt biên năm 1979 qua trại tỵ nạn Hồng Kông và đã được đảng việt gian cộng sản "trồng người", cài vào hoạt động trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại. Ðó là lý do vì sao hắn đã cố ý che dấu những phần căn bản trong tiểu sử. Một người ngay thẳng không bao giờ e ngại điều gì khiến phải che dấu năm sinh, nơi sinh và thời niên thiếu của mình. Nếu tên Thắng xuất thân từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vượt biên năm 17 tuổi, sang Mỹ rồi 10 năm sau lấy được bằng "tiến sĩ cơ khí" là điều khó tin. Chúng ta thừa biết nền giáo dục của cộng sản trước năm 1975, về phần kiến thức tổng quát và tiếng Anh hầu như chỉ là con số zero to tướng. Tất cả sự "giáo dục" của cộng sản chỉ nhằm mục đích nhồi sọ chính trị để cưỡng ép các thế hệ thanh niên đi "sinh Bắc tử Nam", để chết ngu cho "bác" và đảng, chết ngu cho Liên Xô và Trung Cộng! Sau năm 1975 và cho đến nay 2015, sau 40 năm "giải phóng", nền giáo dục của việt cộng cũng không khá gì hơn, chỉ đào tạo ra toàn những "tiến sĩ" giấy, cứ bước chân ra ngoài ngõ là gặp "tiến sĩ"! Có thể nói Việt Nam hiện nay đã đạt được kỷ lục thế giới về mật độ tiến sĩ!!!. Tiến sĩ chợ Ðồng Xuân, cứ xìa năm ngàn đô la ra là có cái bằng tiến sĩ rất "hoành tráng", treo trong văn phòng làm việc!
Trong thời gian vừa qua, tên Thắng đã xấc láo mướn luật sư đòi kiện thiếu tá Liên Thành ra tòa. Cái trò lưu manh, mất dạy của tên việt gian Nguyễn Ðình Thắng ở chỗ, hắn muốn biến Ngày Quân Lực 19 tháng 6 thành "Ngày Hành Trình đến Tự Do Của Chúng Ta". Chúng ta nhận thấy có một sự ăn khợp rất nhịp nhàng giữa hai tên việt gian Nguyễn Ðình Thắng và Ngô Thanh Hải tại Canada. Chắc chắn những âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận và Ngày Quân Lực là do bọn việt gian cộng sản trong nước chỉ đạo với sự đồng lõa của bọn tư bản Mỹ khốn nạn. Tên heo nọc Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng ngoại giao của việt cộng, sau khi đến Mỹ và Canada vào năm 2014 để móc nối và chỉ đạo đám chó săn thì đến năm 2015, đã nở rộ ra những cái gọi là "Ngày Hành Trình Ðến Tự Do" và "Vành Khăn Tang Cho 40 năm Uất Hận". Riêng tại Pháp và Anh Quốc thì các cộng đồng người Việt "quốc gia"(?) đã tổ chức ngày 30-4 là "Ngày Vành Khăn Tang cho 40 năm Uất Hận". Nhận định về sự kiện này, chúng ta thấy rằng, đây là do bọn chó săn làm theo sự chỉ đạo của bọn việt gian cộng sản. Không có người quốc gia nào ngu tới mức đổi tên 'Quốc Hận' thành ra 'Uất Hận'. Ý nghĩa hai chữ khác nhau hoàn toàn.
Hai chữ 'Quốc Hận' mang hai ý nghĩa:
1. Sẽ không bao giờ quên mối hận mất nước và đây là mối hận chung cho cả đồng bào thuộc hai miền Nam và Bắc, chớ không phải riêng gì đồng bào miền Nam. Bọn giặc đã cướp nước chúng ta kể từ năm 1945 và 30 năm sau bọn chúng đã cướp nốt miền Nam.
2. Sẽ phục quốc, 90 triệu dân trong nước sẽ nổi dậy lật đổ chế độ cộng sản, tiêu diệt đảng việt gian cộng sản, phục hồi lại nước Việt Nam Cộng hòa như trước năm 1975. Ðây là nguyện vọng chính đáng của toàn thể dân Việt trong và ngoài nước.
(Hiện nay, một hiện tượng rất đáng chú ý là những người dân oan tại Long An đã công khai kêu tên thằng Hồ Chí Minh ra mà chửi và họ công khai chửi ngay trước mặt hàng trăm tên công an. Một người đàn ông đã so sánh rằng Việt Nam Cộng Hòa không cướp đất của dân, và ông ta chỉ mặt bọn công an, chửi thẳng: " ... đụ mẹ tụi bay, tụi bay nói là đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào để cho người dân được độc lập, tự do thì ngày nay tụi bay đi ăn cướp đất của dân!!! ...")
Nói tóm lại, 'Quốc Hận' là phải phục quốc chớ không phải là cứ mỗi năm đến ngày 30-4 thì đeo khăn tang rồi ngồi than khóc, sướt mướt! Ví dụ như thằng hàng xóm cướp nhà của chúng ta thì chúng ta phải đánh cho nó hộc máu, đòi lại nhà. Có khi nào chúng ta ngồi than khóc rồi thằng hàng xóm thấy tội nghiệp, trả lại nhà cho chúng ta không? Do đó, cái trò hề "vành khăn tang" là trò lưu manh do bọn việt gian cộng sản làm đạo diễn và được những cộng đồng "quốc gia" ngu xuẩn thực hiện tại hai nước Anh và Pháp!
Trở lại vấn đề, nếu tên Thắng tiến hành vụ kiện thì chính hắn đang tự làm cho hắn cái thòng lọng treo cổ. Những trò lưu manh, lừa đảo của tên Thắng trong nhiều năm qua, đã bị đồng bào tố cáo, đưa lên internet rất nhiều. Quý vị có thể vào trang Web của Chính Khí Việt hoặc tìm đọc những tài liệu do ông Ngô Kỷ cung cấp.
Trò lừa đảo mới nhất của tên Thắng là cùng với tên việt gian Trúc Hồ "xin" được 150 ngàn chữ ký và địa chỉ e-mail của đồng bào để vào Tòa Bạch Ốc đòi gặp tổng thống Obama!
Theo sự tố cáo của cô Phương 286 thì hai phần ba của 150 ngàn chữ ký chỉ là đồ giả mạo. Hay nói cách khác, băng đảng lưu manh, việt gian Thắng-Hồ đã ngụy tạo ra 100 ngàn e-mail giả để lừa bịp tổng thống Mỹ, Quốc Hội Mỹ và lừa gạt luôn toàn thể người Việt trong và ngoài nước!
Ðây là tội hình sự, nếu bị truy tố ra tòa, hai tên việt gian Thắng và Hồ có thể sẽ bị ở tù rục xương! Chúng ta nên làm đơn kiện tập thể (Class Action), đưa hai băng đảng Nguyễn Ðình Thắng và đài truyền hình SBTN của tên Trúc Hồ ra tòa. Tổng thống Mỹ mà bọn chúng còn dám lường gạt thì những đồng bào, những phó thường dân, bọn chúng còn coi ra gì?
Muốn biết thêm chi tiết về trò lường gạt bỉ ổi này, quý vị có thể vào trang Web của Chính Khí Việt, mục diễn đàn Hội Luận. Cô Phương 286 đã thâu âm được giọng nói của Thanh Lan, diển đàn của Đảng Việt Tân do Nguyễn Khắc Long điều hành đã nói rằng: " ... mình có thể create được cả ngàn cái e-mail mà ...".
Như chúng ta đã biết, năm 2012, nhân vụ Nhạc sĩ Việt Khang ở trong nước bị việt cộng bắt, tên Trúc Hồ đã phát động phong trào làm "Thỉnh Nguyện Thư" và đi xin chữ ký của đồng bào. Cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã khá bất ngờ vì chỉ trong một thời gian ngắn khoảng 5 tuần lễ mà "bác Hồ" (Trúc Hồ) đã "xin" được 150 ngàn chữ ký! Sau đó, "bác" đã hăm hở cùng với các đồng đảng là Nam Lộc, Việt Dzũng, Nguyễn Ðình Thắng rủ nhau đến Tòa Bạch Ốc, đòi gặp tổng thống Obama. Và giờ đây, cái trò lưu manh, lừa bịp này đã bị cô Phương 286 phanh phui trước công luận:
Bọn lưu manh đã ghi đại tất cả những số nhà trên những con đường mà bọn chúng đã chọn. Sau đó, bọn chúng ngụy tạo ra những e-mail cùng với những cái tên giả. Với thủ thuật này, chỉ trong một đêm, bọn chúng có thể tạo ra vài ngàn "chữ ký". Ðó là lý do vì sao chỉ trong một thời gian ngắn mà "bác Hồ" đã "xin" được 150 ngàn chữ ký!
Theo sự ước tính của dư luận, vào thời điểm năm 2012, đài truyền hình SBTN của tên việt gian Trúc Hồ chỉ còn khoảng 40 ngàn khách hàng trên toàn nước Mỹ. Với data base trong computer đã có sẵn, bọn chúng đã dùng tên của 40 ngàn khách hàng này vào chiến dịch "thỉnh nguyện thư". Còn số 110 ngàn còn lại chỉ là những chữ ký ma, được ngụy tạo ra để lừa bịp tổng thống Mỹ, Quốc Hội Mỹ và toàn thể người Việt trong và ngoài nước!
Cũng theo cô Phương cho biết, chính cô đã tham gia chiến dịch "thỉnh nguyện thư". Cô đã vác đờn ghi ta đi ca hát khắp vùng Little Saigon để xin chữ ký của đồng bào, nhằm cứu nhạc sĩ Việt Khang. Xin được một chữ ký là trầy da tróc vảy và tất nhiên là chữ ký thật của người thật. Cô đã phải đi cả tuần lễ mới xin được vài ngàn chữ ký, trong khi đó bọn lưu manh Thắng-Hồ chỉ ngồi ở nhà, trong một đêm, tạo ra năm ngàn chữ ký!
ÐÂM MÙ MẮT CON RẮN HỔ MANG, BẺ GÃY RĂNG NANH CON RẮN ÐỘC:
Như đã trình bày trên, việc tên việt gian Nguyễn Ðình Thắng muốn xóa tên Ngày Quân Lực 19-6 là do sự chỉ đạo của bọn việt gian cộng sản. Ngoài ra, vốn bản chất lưu manh, hắn định lợi dụng danh nghĩa quân lực VNCH để làm tiền, tổ chức sinh hoạt văn nghệ, trình diễn thời trang vào đúng ngày 19 tháng 6! Chưa hết, hắn còn xấc láo đòi kiện thiếu tá Liên Thành và ông Ðỗ Văn Phúc, Chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia tại Hoa Kỳ ra tòa! Hắn đòi hai vị này phải xin lỗi hắn. Lỗi gì mà phải xin? Yêu nước mà có lỗi hay sao? Lên án bọn giặc cướp nước và bọn chó săn là có lỗi hay sao? Vinh danh quân lực Việt Nam Cộng Hòa và vinh danh 58 ngàn người lính Mỹ đã hy sinh cho lý tưởng bảo vệ tự do là có lỗi hay sao?
Tên Thắng muốn bắt chước nhật báo Người Việt dùng luật pháp để tấn công người Việt quốc gia. Nhưng mưu đồ của bọn chúng sẽ hoàn toàn bị thất bại. Thời gian sẽ trả lời. Chỉ riêng cái tội ngụy tạo 150 ngàn chữ ký, lừa gạt tổng thống Mỹ, và cộng đồng người Việt tại hải ngoại, nếu bị chúng ta làm đơn kiện tập thể, cũng đủ làm cho tên việt gian Nguyễn Ðình Thắng phải đi ở tù rục xương!
Có người ví rằng, đài truyền hình SBTN và nhật báo Người Việt giống như cặp mắt của con rắn hổ mang. Băng đảng của tên Nguyễn Ðình Thắng ví như cặp răng nanh của con rắn. Hệ thống kinh tài của việt cộng, được ngụy trang dưới dạng chùa chiền và bọn công an đầu trọc, chính là thân hình của con rắn hổ mang. Túi nọc độc của con rắn chính là trung ương đảng việt gian cộng sản ở trong nước. Chúng ta phải đâm mù hai mắt con rắn và bẻ gãy cặp răng nanh của nó. Túi nọc độc con rắn cũng sẽ bị toàn thể đồng bào trong nước tiêu diệt. Một khi cái đầu rắn đã bị đập nát thì thân hình của nó sẽ tự động bị tan rã. Toàn bộ bọn công an đầu trọc sẽ bị tiêu diệt.
KẾT LUẬN:
1. Mục đích của chúng ta đấu tranh chống cộng sản là để tiêu diệt chế độ cộng sản, tiêu diệt đảng cộng sản, giải thoát 90 triệu nô lệ ở trong nước. Ðấu tranh chống cộng mà chỉ để đòi dân chủ và nhân quyền, đồng nghĩa với KHÔNG ÐÒI CÁI GÌ HẾT. Có tự do thì chúng ta sẽ có tất cả. Cũng ví như người dân oan bị cướp mất nhà. Nếu giết được bọn cướp, đòi lại được toàn bộ căn nhà thì sẽ có lại tất cả. Không có ai ngu dại gì, đi đấu tranh chỉ để đòi lại những thứ tủn mủn, lặt vặt như cái chổi cùn, cái nồi đất, cái rế rách! Ðây là trò đại lưu manh, điếm đàng, bịp bợm mà bọn tư bản Mỹ bất lương đã phối hợp với bọn việt gian cộng sản và lũ chó săn ở hải ngoại, lừa bịp chúng ta trong suốt hơn 30 năm qua! Bọn chúng nó đã thành công trong việc cù nhầy, cù cưa để kéo dài sự cai trị của đảng việt gian cộng sản!
Ðã đến lúc chúng ta phải sáng suốt thấy được CÁI GỐC của sự lừa bịp, nếu không thì 100 triệu dân Việt sẽ mãi mãi phải làm nô lệ!
2. Tất cả những cái gọi là "Hành Trình Ðến Tự Do" hay "Vành Khăn Tang" đều là âm mưu của bọn việt gian cộng sản nhằm nhuộm đỏ cộng đồng người Việt quốc gia tại hải ngoại. Chúng ta phải sáng suốt đập tan mọi âm mưu này ngay từ trong trứng nước. Những tên việt gian như Nguyễn Ðình Thắng, Trúc Hồ và nhiều tên đồng đảng khác chắc chắn sẽ phải ra tòa án Mỹ, đi ở tù vì tội lừa gạt tổng thống Mỹ. Bọn chúng nó dám cả gan sờ dái ngựa thì sẽ bị con ngựa đá cho gãy cổ!
Ðồng bào ở hải ngoại hãy sáng mắt ra và tự hỏi mình câu hỏi này: tổng thống Mỹ mà bọn việt gian lưu manh còn dám lừa gạt thì thân phận những người dân đen chúng ta, bọn chúng coi ra gì mà không dám lường gạt? Chúng ta hãy mau mau cùng làm đơn kiện tập thể để đưa hai tên việt gian, lưu manh Nguyễn Ðình Thắng và Trúc Hồ ra tòa!
Michael Nguyễn
NGÀY QUỐC HẬN MUÔN ĐỜI LÀ QUỐC HẬN ! - Ngô Minh Hằng
NGÀY QUỐC HẬN MUÔN ĐỜI LÀ QUỐC HẬN !
(gởi những kẻ có ý đồ muốn đổi NGÀY QUỐC HẬN đau thương trong lịch sử Việt Nam thành ngày tự do hoặc ngày của thuyền nhân để bịp lừa nhân loại.)
Ngày Quốc Hận phải là ngày Quốc Hận
Không tự do mà cũng chẳng thuyền nhân !
Tự do gì khi tám chục triệu dân
Bị đàn áp, bị tù đày, bị giết ?!
Bị đảng xem như con giun cái kiến
Bắt Dốt, bắt Mù, bắt Điếc, bắt Câm
Khi đảng lạy Tàu, cắt đất quì dâng
Dân phản đối, đảng vu là phản động ...
Cánh cửa nhà tù thét to, mở rộng
Và người tù không án vẫn chung thân
Ðảng cấm vợ con, cha mẹ, xa gần
Ðến thăm viếng. Tự do à ??? Gian lận !!!
Ngày Quốc Hận thì gọi là Quốc Hận
Sao lại lập lờ ngày của thuyền nhân ?
Ba Mươi Tháng Tư nếu lũ vô thần
Không cướp miền Nam, thuyền nào vượt biển ???
Cướp miền Nam, đảng gây thêm oan nghiệt
Thu đất, đoạt nhà, vơ vét, quan liêu
Máu thịt dân lành, gia sản tan tiêu
Nên mới có thuyền nhân sau cuộc chiến
Cướp nước rồi, nếu đừng tù, ngưng giết
Ðừng trả thù người tàn ác, bất lương
Bắt tay nhau cùng dựng lại quê hương
Thì đã chẳng có tên " NGÀY QUỐC HẬN " !
Bất nhân thế, sao hèn, không dám nhận
Là tháng Tư, loài qủi đỏ dã man
Tàn bạo, gian hùng, bức tử miền Nam
Gieo tang tóc, xô dân vào ngục tối ???
Sao muốn đổi tên ? Sợ mà chối tội ?
Hay gian ngoa, điên đảo bịp lừa người ?
Bịp cách nào, tay vẫn máu dân tươi !
Vì tội ác vẫn còn kia, chất ngất ....
Ngày Quốc Hận thì gọi là Quốc Hận
Nghe rõ chưa hỡi kẻ thiếu tim người !
Món bịp bây giờ đã ế, đã ôi ...
NGÀY QUỐC HẬN MUÔN ĐỜI LÀ QUỐC HẬN !
Ngô Minh Hằng
Friday, April 24, 2015
Ngày Quốc Hận của Dân Tộc - Trần Nhật Kim
Ngày Quốc Hận của Dân Tộc
Trần Nhật Kim
Cuộc chiến đấu anh dũng chống cộng sản của dân tộc Việt Nam trong hơn bốn thập niên giữa những người cùng huyết thống, đã chấm dứt một cách bi thảm vào ngày 30-4-1975. Máu xương của hàng nhiều triệu người, cả cầm súng lẫn tay không, đã trở thành vô nghĩa vì không ngăn chặn được chủ thuyết tàn bạo của cộng sản Quốc tế với manh tâm nhuộm đỏ toàn cõi Đông Nam Á Châu.
Để thoát khỏi “vũng lầy” Đông dương, Hoa Kỳ đã xúc tiến các cuộc mật đàm với phe cộng sản từ năm 1968 tại Paris, nhưng phải đợi đến trước ngày bầu cử của nhiệm kỳ II của ông Nixon mới đạt được sự đồng thuận. Ông Henry Kissinger đã gặp gỡ Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, cũng như tiếp xúc bí mật với Lê Đức Thọ, Trưởng phái đoàn thương thuyết của CS Hà Nội. Một “Hiệp định đình chiến” được thương thảo giữa các cường quốc mang danh “ngưng bắn vì hòa bình” tại Việt Nam, nhưng thực tế, thay vì đưa đến hòa bình lại mở đường cho cộng sản miền Bắc xâm chiếm miền Nam bằng các trận đánh đẫm máu sau đó.
Hiệp định Paris ký kết ngày 28-1-1973, có hiệu lực và sự ngưng bắn chính thức được thi hành trên toàn miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ chấm dứt mọi hoạt động quân sự tại Việt Nam, và Ngày 29-3-1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi lãnh thổ miền Nam.
Hiệp định Paris 1973 không mang lại hòa bình: VNCH bị bức tử
Hiệp định Paris 1973 với danh nghĩa là “Hiệp định đình chiến, mang lại hòa bình cho Việt Nam”; nhưng trái lại, đã gây bất lợi cho sự sống còn của miền Nam trong các điều khoản sau:
Về lực lương vũ trang tại miền Nam
- Mục (b) của Điều 3 (Chương II) có ghi: “Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình. Ban Liên hợp quân sự hai bên sẽ quy định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân.”
- Mục (c): “Các lực lương chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lương không chính quy của các bên của miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động tấn công nhau…”
- Điều 4 (Chương II): “Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.”
- Điều 5 (Chương II) của Hiệp định ngưng bắn ký kết ngày 27-1-1973 có đoạn: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này sẽ hoàn thành việc rút khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, các loại vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác.”
Về quân ngoại nhập tại miền Nam, trong Hiệp định đình chiến 1973 không nói tới số 150.000 bộ đội miền Bắc còn lưu lại tại miền Nam từ các trận đánh, ngoài ra còn số quân đội miền Bắc tiếp tục xâm nhập vào miền Nam, được kể là quân ngoại nhập phải rút khỏi miền Nam. Về điều này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, với quân số nêu trên của miền Bắc ở lại miền Nam trong khi Mỹ rút toàn bộ quân đội còn lại, sẽ gây trở ngại và khiến miền Nam sụp đổ.
Để việc rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam được thuận lợi, chương trình “Việt Nam Hóa chiến tranh” ra đời. Với chương trình này, ông Nixon nói: “Việt Nam hóa sẽ giúp miền Nam đủ sức tự vệ mà không cần tới quân đội Mỹ”, và đã đưa ra lịch trình rút quân, giảm từ 500.000 vào tháng 1-1969 xuống còn khoảng 50.000 vào ngày bầu cử 1972. Mặc dù quân số miền Nam có tăng cường nhưng quân viện bị cắt giảm, cũng không mang lại kết quả tốt đẹp hơn.
Ông Thiệu không chấp nhận một số điều khoản trong bản dự thảo và cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả dối của các cuộc hòa đàm ở Paris. Điều này đã gây trở ngại cho cuộc hòa đàm, khiến Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CS miền Bắc vi phạm hiệp định, và ép buộc ông Thiệu phải chấp nhận các điều khoản với áp lực đe dọa cắt viện trợ cho miền Nam. Ông Thiệu đã phải chấp nhận đề nghị của Hoa kỳ. Trên thực tế, một năm sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết, cộng quân đã tiến hành những trận đánh chiếm tại các vùng đất xa xôi.
Vào thời gian này, viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục giảm (*):
Năm 1972: 445 triệu Mỹ kim
Năm 1973: 297 triệu Mỹ kim
Năm 1974: 265 triệu Mỹ kim
Quốc hội Hoa Kỳ chuẩn chi viện trợ quân sự cho VNCH 1.4 tỉ Mỹ kim, nhưng chỉ còn 700 triệu vì phân nửa đã dùng cho nửa năm trước. Ngân khoản 700 triệu Mỹ kim này cũng bị trừ mất 300 triệu Mỹ kim cho số dụng cụ quân sự mà Hoa Kỳ đã ứng trước đó. Như vậy, sau tháng 6 của năm 1974, VNCH chỉ còn 400 triệu Mỹ kim để tự vệ (*).
Vì số quân viện cắt giảm, nên quân dụng cũng phải cắt giảm theo, chỉ còn 50% số lượng của những năm trước. Chẳng hạn mỗi cuộc hành quân: súng cá nhân trước đây là 400 viên đạn, nay chỉ còn 200. Mỗi khẩu đại bác 105 ly trước đây là 180 nay chỉ còn 10 viên. Vì không đủ nhiên liệu nên các phi vụ của máy bay chiến đấu, trực thăng cũng giảm đi một nửa (*).
Vào thời điểm này, Hà Nội đưa 35.000 tân binh, 400 chiến xa, 350 đại pháo tầm xa và 35.000 tấn tiếp liệu theo “đường mòn” Hồ Chí Minh xâm nhập vào miền Nam. Các phương tiện chiến tranh đều do Nga Xô cung cấp vào năm 1973 đã gấp đôi năm 1972. Hà Nội cũng được Nga thông báo về viện trợ của năm 1974 sẽ gia tăng với lý do: “Cách mạng ở phía Nam phải được thực hiện dưới hình thức một cuộc bạo động”. [(*)nguồn: Stephen B. Young – Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ)]
Các nước thuộc khối “Xã hội Chủ Nghĩa” Viện trợ kinh tế của cho “VNDCCH” đã gia tăng gấp bội vào năm 1974, với ngân khoản:
Năm 1973 575 – 605 triệu Mỹ kim
Năm 1974: 1.159 – 1.190 triệu Mỹ kim.
Khối lượng hàng quân sự cũng tăng theo:
Giai đoạn 1965-1968: 517.393 tấn
Giai đoạn 1969-1972: 1.000.796 tấn
Đến cuối năm 1974, tình hình Miền Nam Việt Nam trở lên nguy ngập hơn khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật “1974 Foreign Assistance Act”, chấm dứt các viện trợ quân sự ngoại quốc.
Sau khi Đạo Luật “Viện Trợ Ngoại Quốc 1974” ban hành, cộng quân đã gia tăng các trận đánh chiếm một số tỉnh lỵ như Phước Long và Bình Long vào đầu năm 1975, vì biết không lực Hoa kỳ không thể tiếp trợ khi CSBV vi phạm Hiệp định Paris, như Tổng thống Nixon đã hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu.
Trước sự sụp đổ của VNCH, ngày 14-1-1975, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã phát biểu khi điều trần tại Quốc Hội, Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu như đã cam kết.
Cùng chiều hướng trên, Thống tướng William C. Westmoreland đã nói: “Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đồng minh của chúng ta.”
Và ông cũng xin lỗi các cựu quân nhân QLVNCH: “Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn Cựu Quân Nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn.”
“On behalf of the United States Armed Forces, I would like to Apologize to the veterans of the South Vietnameses Armed Forces fo abandoning you guys.” (General Williams C. Westmoreland)
Sau khi ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, ông Gerald Ford lên làm Tổng thống, đã tuyên bố vào ngày 23-4-1975: “Chiến tranh Việt Nam chấm dứt”.
Miền Nam sau ngày 30-4-1975.
Trong một cuộc chiến không cân sức vì thiếu phương tiện khiến VNCH sụp đổ vào ngày 30-4-1975, mặc dù nhân dân miền Nam vẫn thừa can đảm và ý chí chiến đấu. Cho dù nền Dân chủ của miền Nam còn non trẻ sau 20 năm xây dựng trong một đất nước chiến tranh, nhưng người dân miền Nam đã sống hạnh phúc trong một xã hội mà nhân phẩm được tôn trọng, một nơi mà người dân góp sức xây dựng ngày một tốt đẹp hơn.
Sau ba thập niên phí phạm máu xương, những tưởng biến cố 30-4-1975 là một cơ hội để đảng CS “đoàn kết dân tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh”, đã từng nêu cao như một “chính nghĩa”, nhưng bản chất Cướp đã lộ nguyên hình trước miếng mồi béo bở miền Nam. Hàng loạt chính sách tàn bạo được thực hiện tại miền Nam.
Chính sách “học tập cải tạo” đã đưa hàng triệu người miền Nam vào tù, một hình thức “nhân đạo”, không giết cũng chết, mà căn bản là thành phần Quân, Cán, Chính của chính quyền miền Nam, gây ra cảnh gia đình tan nát, con mất cha, vợ xa chồng. Số tù nhân “cải tạo” tử vong trong các trại tù ngày một gia tăng, nhất là tại nơi rừng thiêng nước độc từ Nam ra Bắc vì bị đầy ải trong lao động, bệnh tật không thuốc chữa, đã lên tới hàng trăm ngàn người. Tại miền Nam, từ trường học đến giáo đường đã biến thành nhà tù, những nơi tôn nghiêm đã trở thành cơ sở sản xuất, chăn nuôi.
Chính sách đánh “Tư sản” và đưa người dân thành phố tới vùng “Kinh tế mới” chỉ để cướp đoạt của cải tài sản của người miền Nam, lấy nhà của người miền Nam cho các quan chức miền Bắc. Các cuộc “đổi tiền” đã cào bằng kinh tế miền Nam, để miền Nam “tiến mau, tiến mạnh” bằng đời sống nghèo đói miền Bắc. Nhưng tệ hại nhất là chính sách “Kê khai lý lịch 3 đời” đã gạt tuổi trẻ miền Nam ra khỏi ngưỡng cửa đại học vì là con cái “Ngụy”.
Trước chính sách đàn áp tàn bạo của cộng sản, hàng triệu người miền Nam đã bỏ nước vượt biên đi tìm tự do, để lại sau lưng cả mồ hôi và nước mắt. Hàng nửa triệu người đã vùi thân dưới lòng biển cả hay bị cướp bóc, hãm hiếp bởi hải tặc. Tất cả những hành động trên của đảng cộng sản Hà Nội, đã khắc sâu sự căm hờn trong lòng người miền Nam. Vì vậy, ngày 30 tháng 4 được ghi nhận là Ngày Quốc Hận.
Mối hận của người miền Bắc.
Phải tới thời điểm 30-4-1975, người miền Bắc mới được sáng mắt, vì bị Hồ Chí Minh và đảng CSVN lừa gạt. Ngay từ buổi đầu “Cách mạng Tháng Tám”, khi Hồ Chí Minh ôm ngọn “Cờ Đỏ Sao Vàng”, một bản sao của lá cờ tỉnh Phúc kiến có từ năm 1931, về cắm tại hang Pác Bó-Cao Bằng vào năm 1941, người miền Bắc bị mê hoặc do lời tuyên truyền “bài Phong, đả Thực” được khích động bởi chiêu bài “Đấu tranh Giai cấp”, nên đã vắt cạn sức người cho một chủ thuyết không tưởng. Cũng từ chiến dịch “Cải cách Ruộng đất”, ông Hồ và đảng CS đã giết oan 172.008 người dân lành, không kể hàng triệu thân nhân của nạn nhân bị trù dập, sống ngoài lề xã hội.
Qua hành động đàn áp, cướp đoạt tài sản của nhân dân miền Nam vào ngày 30-4-1975 của đảng CS Hà Nội, người miền Bắc chua xót nhớ lại chính sách “Cải cách Ruộng đất” và “Cải tạo Công thương nghiệp” đã biến miền Bắc, vốn một thời kiêu hãnh nằm trên vùng đất mầu mỡ Sông Hồng, một nơi được nhận là vựa lúa của vùng Châu thổ, đã trở thành nghèo đói. Hạt gạo, bữa cơm no thường có trước đây, đã trở thành giấc mơ của người dân nghèo.
Chính sách “đốt sách, giam tù các nhà trí thức miền Bắc” qua chiến dịch “Trăm hoa đua nở” sau năm 1954, được ông Hồ và đảng CS rập theo Trung cộng. Một loại văn hóa lai căng nửa Việt nửa Tầu đã giết chết tình thần dân tộc của người Việt.
Sau 30 năm bị mê hoặc, cuốn lôi trong hào quang “giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cứu dân miền Nam thoát khỏi cảnh kìm kẹp đói khổ”, người dân miền Bắc một lần nữa phải thắt lưng buộc bụng, hạt gạo xẻ tư để nuôi con em trên đường “Sinh Bắc-Tử Nam”.
Cũng do chính sách “Trăm năm trồng người” khiến nhiều thế hệ thanh thiếu niên miền Bắc bị u mê, đã hủy diệt nhận thức của tuổi trẻ, trở thành một thứ công cụ “chết vì đảng”. Một thí dụ điển hình như trường hợp của Bác sĩ trẻ tuổi Đặng Thùy Trâm, đã ghi trong nhật ký của cô vào ngày 19-9-1968:
“Đại đội huyện đoàn thanh niên lớn lên trong chiến đấu:
– Em Hoàng 14 tuổi trong 6 tháng đầu năm giết được 6 lính Mỹ, đánh lật 2 xe tăng bằng vũ khí tự tạo, lấy được 7 súng giặc trong đó có 2 cối cá nhân và các loại khác.
– Em An Phổ Châu lấy 5 súng, có 2 cối cá nhân, một đài RC. (Nhật ký Đặng Thùy Trâm: trang 83)
Lời chúc tết của ông Hồ vào ngày đầu năm 1-1-1969 đã trở thành một loại kinh nhật tụng, được Đặng Thùy Trâm ghi nhớ:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc còn thắng to.
Vì độc lập – Vì tự do
Đánh cho Mỹ cút , đánh cho Ngụy nhào”. (Nhật ký ĐTT trang 113)
Trong chiều hướng bị mê hoặc bởi lời tuyên truyền, tin tưởng tuyệt đối vào đảng CS, cô Đặng Thùy Trâm đã ghi trong nhật ký ngày 2-6-1970:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn có thể kéo dài, đồng bào ta còn có thể hy sinh nhiều hơn nữa, song dù sao chúng ta nhất định thắng lợi…”
Cô tâm niệm: “Bác Hồ ơi, di chúc của Bác còn vang bên tai con và lúc này lời nói ấy vang lên át cả tiếng bom đạn, con mang nó trong lòng và ra đi…” (Nhật ký Đặng Thùy Trâm, trang 247)
Từ những bút tích ghi trong nhật ký của Đặng Thùy Trâm, chúng ta liên tưởng tới bài hát “Anh Kim Đồng” vào thập niên 3,40 đã nức lòng tuổi trẻ miền Bắc, đến câu chuyện tiểu anh hùng Lê Văn Tám tẩm xăng tự đốt cháy, chạy tới phá kho xăng Nhà Bè năm 1946. Sau này, ông Trần Huy Liệu, “Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền”, tác giả của câu chuyện trên đã giải thích, đây là một “chuyện bịa”, để tạo dựng một thần tượng thúc đẩy sự hy sinh của tuổi trẻ lúc bấy giờ. Rất tiếc, cô Đặng Thùy Trâm qua đời từ lâu, nên không thấy đảng CS đã “biến chất” và đang trên đà suy vong.
Sau trận Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè đỏ lửa 1972, qua chiến thuật biển người, nhiều sư đoàn chính quy miền Bắc đã bị xóa sổ tại chiến trường miền Nam. Con số thương vong lên đến hàng triệu người, chưa kể thành phần dân chúng tử vong và thương tật nhiều hơn gấp bội. Khi chiến tranh chấm dứt, số phận của 300.000 bộ đội trẻ được ghi nhận mất tích, đã không để lại dấu vết trên các nẻo đường tiến quân đánh chiếm miền Nam. Đảng CS cầm quyền phủi tay để mừng thành quả “chiến thắng”, không màng tới số phận các nạn nhân, khiến gia đình thân nhân của các con em tử nạn phải đau khổ âm thầm chịu đựng.
Mối hận của cả dân tộc:
Sau biến cố 30-4-75 tài sản của miền Nam đã theo nhau ra Bắc. Một phần trả các món nợ quân viện của các nước Nga-Tầu để CS Hà Nội có phương tiện đánh chiếm miền Nam, phần khác đã chui vào túi tham của kẻ cầm quyền. 16 tấn vàng trong Ngân khố Sài Gòn do những ai chiếm đoạt, cũng không còn dấu vết. Người Việt trong nước chỉ thấy các quan tham bất chợt trở lên giầu còn người dân ngày càng nghèo hơn.
Sau ngày mở cửa, vì tình cảm gia đình, người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp đỡ thân nhân, vực dậy một đất nước nghèo đói. Theo thống kê, số ngân khỏan gửi về trong nước tính đến năm 2013 đã lên tới 84 tỉ Mỹ kim.. Không kể số tiền người Việt hải ngoại hàng năm về thăm quê mang theo tiêu dùng lên tới hàng tỉ Mỹ kim. Riêng năm 2014, số ngân khoản chuyển về Việt Nam lên tới 12 Tỉ Mỹ kim. Một ngân khỏan không hoàn trả, là ước mơ của các nước sau chiến tranh. Hà Nội đã in tiền giả để đổi lấy tiền thật.
Một câu hỏi được đặt ra, tại sao kinh tế Việt Nam không phát triển, như Nhật Bản và Nam Hàn, mặc dầu chiến tranh đã chấm dứt. Với tài sản chiếm đoạt của Miền Nam sau ngày 30-4-1975 và ngân khỏan người Việt hải ngoại chuyển về hàng năm, kinh tế VN vẫn tụt hậu so với các nước trong vùng?
Theo tài liệu phát triển kinh tế của 10 quốc gia Á Châu vào thời điểm 1960, thứ tự trong bảng xếp GDP tính bằng Mỹ kim như sau:
Singapore (395$),
Malaysia (299$),
Philippine (257$),
Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam: 223$),
South Korea (155$),
Thailand (101$),
Trung quốc (92$),
Ấn Độ (84$),
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc: 73$).
Như vậy VNCH đã ngang hàng với Philippine, vượt qua South Korea, gấp 2 Thái Lan, gấp 2,4 lần Trung quốc, gấp 2,7 lần Ấn Độ và gấp 3 lần VNDCCH.
Vào thời điểm 2013, mức phát triển của Việt Nam là 1.660 US$, trong lúc Singapore đang ở vị trí 50.899 US$. Theo tiên đoán của IMF về sự phát triển của GDP từ năm 2011 đến 2017, Việt Nam sẽ không bao giờ đuổi kịp các quốc gia nói trên, nếu vẫn tăng trưởng với cường độ hiện tại. Việt Nam tiếp tục ở hạng chót và sẽ không bao giờ bắt kịp được Philippine, Indonesia, Thái Lan, chứ đừng mơ tưởng đuổi kịp Malaysia, Nam Hàn và Singapore.
So sánh đà phát triển của các nước Á Châu trong nửa thế kỷ vừa qua, chúng ta nhận ra một sự thật, cơ chế của một chính thể đã ảnh hưởng tới sự phát triển của quốc gia đó.
Về mặt xã hội, tệ nạn tham nhũng trong giới lãnh đạo đảng ngày càng gia tăng. Cán bộ lãnh đạo đảng trắng trợn cướp đoạt tài sản nhân dân, khiến các cuộc biểu tình đòi đất của người dân nghèo xẩy ra từ Bắc vào Nam. Tình trạng an ninh xã hội xuống cấp đến nỗi một đại biểu quốc hội đã phải lên tiếng: “ra ngõ không thấy anh hùng chỉ gặp toàn kẻ cướp.” Mà tệ hại hơn nữa, chính quyền nhiều địa phương xử dụng xã hội đen, hay trá hình xã hội đen để đàn áp nhân dân trong các vụ cướp đoạt ruộng vườn.
Đạo đức xã hội ngày càng suy đồi, bạo hành xẩy ra thường xuyên trong các trường học. Giáo dục chạy theo thành tích, “định hướng Xã hội Chủ nghĩa”, đã đẩy nhiều thế hệ tuổi trẻ Việt Nam trở thành công cụ của đảng. Trước sự tha hóa của xã hội, nhiều người lên tiếng đòi nhà cầm quyền tôn trọng quyền sống căn bản của con người, họ đã bị khủng bố, trù dập, giam cầm.
Chưa có chính quyền nào công khai bán nước như đảng CSVN. Công Hàm 1958 do Thủ tướng VC Phạm Văn Đồng ký tên dưới sự chỉ đạo của ông Hồ, đã dâng Hòang Sa và Trường sa cho Trung cộng với mục đích để có phương tiện đánh chiếm miền Nam, mặc dầu vào thời gian này các hải đảo trên thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.
Chiến tranh biên giới Hoa-Việt năm 1979, Trung cộng đã tàn phá các tỉnh biên giới, di chuyển cột mốc xuống phía nam và đòi đảng CSVN phải vẽ lại đường biên giới. Việt Nam đã mất hàng ngàn cây số vuông chạy dài trên sáu tỉnh miền Bắc. Các cao điểm chiến lược đã nằm trong tay Trung cộng. Pác Bó – Cao Bằng trước của ta nay thuộc Tầu. Điều tệ hại hơn nữa, với “16 chữ vàng và 4 tốt”, người Tầu vào Việt Nam tự do, trái lại người Việt vào đất Tầu phải xin phép. Vịnh Bắc bộ của Việt Nam cũng phân chia lại, có lợi về phía Trung quốc.
Năm 1988 Trung cộng tiến chiếm các đảo đá thuộc Trường Sa, Hải quân CSVN đã khởi động chiến dịch chủ quyền các đảo Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma dưới tên CQ-88. Anh Nguyễn Văn Thống người sống sót sau trận đụng độ với quân Trung cộng cho hay: “trước khi đi đã quán triệt không được nổ súng với bất cứ giá nào.” Tướng Lê Mã Lương, nguyên “Giám đốc Bảo tàng Quân sự Việt Nam” cho biết: “…Đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh bộ đội ta không được nổ súng nếu như đánh chiếm cái đảo Gạc Ma hay bất cứ đảo nào của Trường Sa…”. Ông Nguyễn Khắc Mai, “Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết” cho biết “ông Lê Đức Anh trong vai trò Bộ trưởng Quốc phòng, được xem là người đã ra lệnh không được nổ súng.” (Nguồn: Mạc Lâm-đài RFA)
Ông “Tổng bí thư” Nguyễn Văn Linh người cầm đầu phái đoàn VN, với Đỗ Mười, “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng” và Phạm Văn Đồng đại diện phía Việt Nam, và TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng đại diện phía Trung quốc, dự Hội nghị Thành Đô trong 2 ngày 3 và 4 -9-1990, đã tái xác định con đường bán nước của các người tiền nhiệm lãnh đạo đảng CSVN. Ông Nguyễn Cơ Thạch đã tuyên bố sau Hội nghị Thành Đô: “Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu.”
Gần đây nhất, khi Trung cộng đưa giàn khoan vào vùng đặc nhiệm kinh tế của Việt Nam khiến tình hình Biển Đông trở lên sôi động. Nhiều nước đã đưa lời phản đối Trung quốc, trong khi Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã tuyên bố quan hệ Việt-Trung vẫn tốt đẹp. Ông Thanh nói: “…Đây chỉ là sự bất đồng, cũng như sự bất đồng trong một gia đình.” Mặc dầu ở địa vị đứng đầu tổ chức quân đội, ông Thanh đã không có một hành động nào bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia.
Mục tiêu “Xã Hội Chủ Nghĩa” vốn không tưởng, chỉ còn là tấm bình phong của đảng CSVN che đậy những hành động đàn áp bóc lột người dân để bảo vệ quyền lợi của đảng. Đã tới lúc những đảng viên thực tâm yêu nước phải bỏ đảng, như nhận định của ông Nguyễn Minh Cần:
“…Nhóm cầm quyền không đủ trí tuệ để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non…Ban lãnh đạo, nhất là Bộ chính trị, Ban Bí thư già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ..” Ông Cần cũng nhắn nhủ: “Mỗi người tự hỏi và quyết định: có nên tiếp tục ở trong đảng CS này không? Cái đảng phạm tội diệt chủng. Cái đảng gian dối, lừa gạt lật lọng…”
Cũng cùng nhận định về sự phản bội dân tộc của đảng CSVN, ngày 10-4-2013, Thiếu tướng CS Hà Thanh Châu đã xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. Gần đây nhất, ông Đặng Xương Hùng, nguyên Lãnh sự VN tại Genève đã tuyên bố bỏ đảng từ tháng 10-2013 và xin tỵ nạn chính trị tại Thụy Sỹ, để khởi đầu cuộc đấu tranh dân chủ cho Việt Nam.
Từ thời điểm 30-4-1975, đảng CSVN đã chứng tỏ là một đảng cướp, tồn tại nhờ dựa vào bạo lực để củng cố địa vị sống còn. Một đảng phạm tội diệt chủng, gây ra bao nhiêu đau thương cho người dân Việt từ Bắc vào Nam. Vì nguồn gốc côn đồ, các cuộc thanh toán vì quyền lợi phe nhóm của giới lãnh đạo đảng ngày một công khai, và những giới chức sẽ “phải hy sinh” còn đang tiếp diễn. Sau hơn 7 thập niên cầm quyền, đảng CSVN chứng tỏ không có khả năng xây dựng nhưng mạnh về phá hoại, khiến dân tộc ngày thêm điêu đứng và đất nước trở lên chậm tiến.
Ngày 30-4 không những là ngày Quốc Hận đối với người Miền Nam, mà còn là mối căm hận chung cho cả Dân Tộc Việt Nam.
Trần Nhật Kim
Thursday, April 9, 2015
Tháng Tư thuở ấy !
Tháng Tư Thuở Ấy!
Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Vết chém, sau lưng đất nhuộm hồng
Những người có cánh bay đi mất
Để người còn lại xót non sông
Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Thành phố đổi tên sử đổi dòng
Biết bao người trôi trên biển cả
Tìm nắng trong đêm giữa biển Đông
Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Người người lên núi kẻ lên rừng
Hành trang mang theo bia dựng mộ
Chôn sống đời mình dưới bóng trăng
Anh nhớ tháng Tư thuở ấy không?
Tháng Tư chồng chất phận lưu vong
Nhiều người cúi mặt quên ngày cũ
Có kẻ đau lòng vời vợi trông…
Thông báo của CĐNVTDÚC về việc Gây Quỹ Trùng tu Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 200 Canley Heights NSW 2166
Tel: 0416 088 782 Email: trivo@ozemail.com.au
THÔNG BÁO
V/V GÂY QUỸ TRÙNG TU NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA VIỆT NAM
Vietnamese Community in Australia
PO Box 200 Canley Heights NSW 2166
Tel: 0416 088 782 Email: trivo@ozemail.com.au
THÔNG BÁO
V/V GÂY QUỸ TRÙNG TU NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA VIỆT NAM
Sau khi chúng tôi bàn thảo với những thành viên trong Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu (CĐNVTDÚC) và Tổng Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Úc Châu (THCQN/QLVNCH/ÚC), BCHCĐNVTD liên bang, các tiểu bang và lãnh thổ cùng đi đến quyết định như sau:
- 1. CĐNVTDÚC luôn ghi nhận và biết ơn đối với những người lính QLVNCH, đã chiến đấu hào hùng với ý niệm Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm, để chống lại sự bành trướng của cộng sản và bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam.
2. Việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là việc cần thiết.
3. Tuy nhiên, hiện nay tình hình chính trị và hoàn cảnh của đất nước đang bị cai trị bởi chế độ độc tài CSVN, và Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nằm dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền CSVN. Cho nên việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, dù muốn dù không, phải nói chuyện, làm việc và hợp tác với CSVN. Việc làm này sẽ hoàn toàn đi ngược lại với nội quy, lập trường và đường lối của CĐNVTDÚC.
Chúng tôi xin nhắc lại một số sự kiện trong quá khứ lẫn hiện tại liên quan đến việc này hầu có thể giúp chúng ta có những nhận xét chính xác hơn:
- 1. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền CSVN đã áp dụng chính sách trả thù bằng cách bỏ tù và giam cầm những người lính QLVNCH, và đối xử phân biệt kỳ thị đối với những người con hoặc liên hệ đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
2. Gần đây hơn, CSVN (một chế độ vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo) sử dụng thủ đoạn chính trị và qua áp lực ngoại giao, đã yêu cầu các quốc gia tại Đông Nam Á đập những bia tưởng niệm và di tích của những người tỵ nạn CSVN. Xin lưu ý những bia tưởng niệm và những di tích này là cho rất nhiều thường dân vô tội đã bỏ mình trên bước đường vượt biển, vượt biên đi tìm tự do, và những bia tưởng niệm này đã được dựng lên tại những quốc gia không có sự kiểm soát trực tiếp của CSVN.
3. Ngày 27 tháng 11 năm 2006, Thủ Tướng CSVN, Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định 1568/QĐ-TTg “đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lí sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương”, nghĩa là biến Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa thành một nghĩa trang dân sự.
4. Chế độ CSVN là chế độ phản bội Tổ Quốc, dâng đất và dâng biển cho Trung Cộng. Những phần đất và biển thuộc về lãnh thổ của Việt Nam, thuộc về Tổ Quốc của chúng ta, mà tổ tiên của chúng ta qua thời gian hơn 4000 năm đã hy sinh để bảo vệ.
5. CSVN vẫn tiếp tục đàn áp nhân quyền và quyền tự do tín ngưỡng, và luôn luôn cấm đoán, bắt bớ, giam cầm các nhà đấu tranh dân chủ trong nước và những người can đảm quan tâm đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. 6. CSVN luôn luôn có âm mưu xâm nhập và đánh phá Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn CSVN của chúng ta, qua nhiều hình thức khác nhau trong đó có Nghị Quyết 36, mà mục tiêu là cố tình gây chia rẽ làm suy yếu tiềm lực đấu tranh của cộng đồng người Việt tại hải ngoại.
Vì những nhận xét nêu trên, chúng tôi kêu gọi các hội đoàn, đoàn thể và đồng hương tại Úc Châu, không tham gia, tiếp tay hoặc ủng hộ các chương trình gây quỹ cho việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.
Xin trân trọng thông báo,
Úc Châu ngày 7 tháng 4 năm 2015
LS Võ Trí Dũng Chủ Tịch BCH/CĐNVTD/LBÚC
TS Hà Cao Thắng, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/NSW
Ông Nguyễn Văn Bon, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/VIC
BS Bùi Trọng Cường, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/QLD
Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/SA
BS Nguyễn Anh Dũng, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/WA
Ông Lê Công, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/ACT
Ông Lê Tấn Thiện, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/NT
Bà Trần Hương Thủy, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDÚC/Wollongong
Wednesday, April 8, 2015
Thursday, April 2, 2015
China’s ‘great wall of sand’
- China’s ‘great wall of sand’ in the South China Sea a worrying land grab, US naval chief says
CHINA is “creating a great wall of sand” through land reclamation in the South China Sea, causing serious concerns about its territorial intentions, the commander of the US Pacific Fleet says.
Admiral Harry Harris Jr told a naval conference at the Australian War Memorial yesterday that competing territorial claims by several nations in the South China Sea are “increasing regional tensions and the potential for miscalculation.”
“But what’s really drawing a lot of concern in the here and now is the unprecedented land reclamation currently being conducted by China,” he said.
“China is building artificial land by pumping sand on to live coral reefs — some of them submerged — and paving over them with concrete. China has now created over 4 square kilometres (1.5 square miles) of artificial landmass,” he said.
Harris said the region is known for its beautiful natural islands, but “in sharp contrast, China is creating a great wall of sand with dredges and bulldozers over the course of months.”
China claims virtually all of the South China Sea. The Philippines and other countries which have territorial disputes with China in the busy sea have been particularly concerned by the land reclamation projects, which have turned a number of previously submerged reefs in the Spratlys archipelago into artificial islands with buildings, runways and wharves. The islands could be used for military and other facilities to bolster China’s territorial claims.
The location of Spratly islands in the South China Sea.
Harris said the pace of China’s construction of artificial islands “raises serious questions about Chinese intentions.”
He said the United States continues to urge all claimants to conform to the 2002 China-ASEAN Declaration of Conduct, in which the parties committed to “exercise self-restraint in the conduct of activities that would complicate or escalate disputes and affect peace and stability.”
“How China proceeds will be a key indicator of whether the region is heading toward confrontation or cooperation,” he said.
The US says it has a national interest in the peaceful resolution of the disputes in a region crucial for world trade. China says its territorial claims have a historical basis and objects to what it considers US meddling.
Harris said the United States is on track to reposition 60 per cent of its navy to the Pacific Fleet by 2020.
“By maintaining a capable and credible forward presence in the region, we’re able to improve our ability to maintain stability and security,” he said. “If any crisis does break out, we’re better positioned to quickly respond.”
Source: http://www.news.com.au/technology/innovation/chinas-great-wall-of-sand-in-the-south-china-sea-a-worrying-land-grab-us-naval-chief-says/story-fnpjxnlk-1227288393134
Subscribe to:
Posts (Atom)